Tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm – Phần 1

Tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm – Phần 1

Trong bài viết này, tác giả tập trung vào giáo dục của Giáo hội Công giáo về tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm, cũng như các vấn đề liên quan đến tình giáo dục trong hôn nhân.

Giới thiệu

Hiểu biết về Giáo hội Công giáo về mục tiêu của quan hệ vợ chồng đã trải qua là một quá trình phát triển kỹ năng. Từ thế kỷ XIII đến XV, chủ yếu dưới ảnh hưởng lâu dài của quan điểm của Thánh Augustinô, các nhà thần học thường cho rằng các cặp vợ chồng khi thi hành nghiệp ái ân (hành vi chăn gối giữa vợ chồng) phạm tội nhẹ nếu quan hệ tình giáo dục mà không có ý định sinh sản, mà chỉ cảm thấy thoải mái hoặc để tránh cảm giác chạm vào tình cảm. Đồng thời, quan hệ tình giáo dục trong thời kỳ kinh nguyệt hoặc khi mang thái cũng được coi là trái đạo đức, vì lúc đó khả năng sinh sản bị loại trừ.

Cuốn sách hướng dẫn này đã bị loại bỏ từ lâu. Đến giữa thế kỷ 19, chúng tôi có thể nhận được ba giai đoạn trong công việc phát triển quan điểm chính thức của Giáo hội Công giáo về động cơ thích hợp của các cặp vợ chồng trong quan hệ tình giáo dục. Ban đầu, hướng dẫn cho rằng các cặp vợ chồng phải có ý thức xác định sản phẩm khi quan hệ; sau đó, được đề xuất rằng các động cơ khác cũng có thể được chấp nhận về mặt đạo đức, miễn là không loại trừ hoàn toàn ý định sản phẩm sinh học, đặc biệt là bằng cách cố gắng ngăn chặn hoặc phá vỡ khả năng sinh sản của tình trạng giáo dục.

Cuối cùng, Giáo hội thừa nhận rằng trong một số vấn đề, các cặp vợ chồng có thể quan hệ tình dục với ý định và mong muốn tránh sinh sản, nhưng không được trực tiếp hoặc cố gắng ngăn cản khả năng sinh sản. Nói cách khác, trong giai đoạn thứ ba này, tính hợp lý với luân lý/đạo đức của việc kiến ​​trúc theo chu kỳ được công nhận rõ ràng, nhưng phải đến giữa thế kỷ XX giáo dục này mới được công bố chính thức. Việc chấp nhận kiến ​​trúc theo chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ, đồng nghĩa với việc cặp vợ chồng có lý do chính đáng, có thể chỉ quan hệ trong những thời kỳ mà người vợ được coi là vô sinh. Kiêng quan hệ ân ái trong thời kỳ khả năng sinh sản của phụ nữ được xem là một phương pháp tránh thái tự nhiên, trong khi các phương pháp khác ngoài đột phá, mặc dù vẫn quan hệ, được coi là tránh thái nhân tạo.

Trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào giáo dục của Giáo hội Công giáo về tránh thai và quyền làm cha mẹ có trách nhiệm, cũng như các vấn đề liên quan đến tình giáo dục trong hôn nhân . Giáo hội luôn duy trì quan điểm rằng mọi hành vi giáo dục đều phải mở rộng khả năng sinh sản; quan điểm này đã dẫn đến giáo hội cấm sử dụng các biện pháp tránh thái nhân tạo, nhưng chấp nhận có điều kiện các phương pháp tự nhiên như nhịp sinh học hoặc các phương pháp kế hoạch hóa gia đình tự nhiên (Kế hoạch hóa gia đình tự nhiên – NFP). Giáo huấn Công giáo khác với một số Giáo hội Giáo dục khác, nơi chỉ yêu cầu hai cạnh sinh vật và gắn kết trong tình giáo dục được giữ nguyên nguyên tắc, nhưng không phải trong từng hành vi quan hệ.

Truyền thống Giáo hội Công giáo luôn khẳng định rằng mọi hành động giao hợp giữa vợ chồng đều phải để có khả năng sinh sản; chính lập trường này đã dẫn đến giáo hội cấm sử dụng các phương tiện tiện lợi mang thai là nhân tạo, trong khi chấp nhận có điều kiện việc thực hành phương pháp pháp “tính chu kỳ” hay còn gọi là những phương pháp tự nhiên trong mục tiêu kế hoạch hóa gia đình (Kế hoạch hóa gia đình tự nhiên – NFP)[1]. Giáo huấn của Giáo hội Công giáo vì thế khác với các Giáo hội Giáo dục khác (ví dụ như Anh giáo, hay Tin lành), truyền chỉ đòi hỏi hai chiều kích sinh sản và Hiệp nhất của tính giáo dục phải được gắn liền với nhau trên nguyên tắc, chứ không nhất thiết phải trong từng hành vi giao dịch. Quan điểm sau này có nghĩa là vợ chồng chỉ sinh sản trong bối cảnh tình yêu tương hỗ, và họ chỉ bước vào hiệp hiệp nhất “một xương một thịt” với nhau, bởi vì mỗi người ước ao người kia sẽ là cha hoặc mẹ của con mình.

Vì vậy, trong bài viết này, trước hết, tôi muốn trình bày quan điểm chính thức của Giáo hội Công giáo về việc đãi thai, bởi vì các quan điểm này đã được xác định trong một số sự kiện quan trọng của thế kỷ 20; kế hoạch, phân tích một số phản ứng thần học đối với các trường lập Giáo hội, đặc biệt như được trình bày trong Thông điệp Humanae Vitae; sau đó, thử đưa ra một đánh giá luân lý về việc luyện thai nhân tạo dựa trên những phê bình thần học được khơi dậy từ Humanae Vitae; và cuối cùng là đi đến phần thảo luận.

I. VIỆC NGỪA THÁI TRỌNG THẾ KỶ 20

Để có thể hiểu rõ cách lập trường chính thức hiện nay của Giáo hội Công giáo Rôma về vấn đề ưu thai, trước hết chúng tôi sẽ xem xét luận văn bốn luận của Giáo hội Công giáo trong thế kỷ này có liên quan đến chủ đề này. Tuy nhiên, trước khi làm điều đó, cần phải lưu ý rằng “ngừa thai” là một thực tại thu gọn hơn so với “hạn chế sinh sản”; bởi vì khái niệm sau này đã được hiểu sai, khi được sử dụng để chỉ bất cứ phương tiện tiện lợi nào nhắm đến giới hạn số lượng sinh viên, thậm chí cả các nhà phê bình cũng thường được xem như một phương pháp giải pháp cuối cùng, điều đó thực sự không phải vậy. Ngừa thai, ngay cả khi mang hình thức bình trực hoặc bán bình trực như triệt sản, vẫn là bất kỳ hành vi nào chống ngăn cản việc thụ thai hoặc thụ tinh (contra-ception = chống lại sự thụ thai); trong khi đó, sự khám phá thai là hành động diễn ra sau khi sự thụ thai đã thực sự xảy ra. Là hai thực tại khác biệt, giảm thai và giải thai liên quan đến những vấn đề và câu hỏi luân lý khác nhau. Với sự hiểu biết về kiến ​​thức này, chúng tôi có thể trình bày bài giảng của Giáo hội Công giáo về chủ đề này.

1. Đức Giáo hoàng Pio XI và Tông huấn Casti Connubii

Ngày nay, Giáo hội Công giáo Rôma phải đối mặt với nhiều chỉ trích vì lập trường phản đối tránh thai. Cho đến tận thế kỷ XX, các Giáo hội hầu như đồng thuận rằng tránh thai là mối đe dọa đối với hôn nhân. Tuy nhiên, vào năm 1930, sau những nỗ lực thất bại vào các năm 1908 và 1920, Hội nghị Lambeth của các Giám mục Anh giáo dục chấp thuận cẩn thận tránh thai trong đời sống hôn nhân kề giáo, nhưng yêu cầu Kiềm chế và cảm xúc về mặt đạo đức.

Để phản đối quan điểm sửa đổi này, vào tháng 12 năm 1930, Đức Giáo hoàng Pio XI đã ban hành Tông huấn Casti Connubii (Về hôn nhân trong sạch), duy trì mạnh mẽ giáo dục truyền thống của Công giáo về tránh thai. Ngài nhấn mạnh bảo vệ nhân vật trước khả năng ứng dụng học thuyết “tình yêu tự do” và phản biện quan niệm phụ nữ cần được giải phóng khỏi “nô lệ con cái,” vì điều này xem con cái nặng nề thay vì Phúc lành.

Về tình dục hôn nhân , Tông huấn nêu hai mục tiêu của quan hệ giáo dục: một là chính, một là phụ. Quan hệ tình dục nhắm vào mục tiêu chính, nhưng vẫn có mục tiêu phụ hỗ trợ lẫn nhau, nuôi dưỡng tình yêu thương và làm dịu tình dục vọng, miễn là các mục tiêu phụ không vượt qua mục tiêu sinh học chính và giữ nguyên chất của hành vi vi. Nếu một cặp vợ chồng quan hệ theo cách “cố tình hòa hợp năng sinh sản tự nhiên” thì họ phạm tội nghiêm trọng.

Tông huấn không liệt kê các cụ thể các phương pháp tránh thai bị cấm, nhưng hiện tại, các thần học gia thường dùng từ “onanism” – tội của Onan, tức là coitus ngắt quãng (rút ra trước khi xuất tinh) hoặc bất cứ hành hành vi nào cố tình ngăn cản sinh sản bằng dụng cụ học hay hóa chất.

2. Đức Giáo hoàng Pio XII và bài diễn văn với Hiệp hội Nữ hộ sinh Italia

Năm 1951, Đức Giáo hoàng Pio XII công khai chấp nhận điều kiện việc kiếng cữ theo chu kỳ, tức là các cặp vợ chồng chỉ quan hệ khi người vợ không ở trong thời gian khả năng sinh sản (nghĩa là khi trứng chưa tàn). Ngài nêu lý do các vấn đề y tế, xã hội, kinh tế và truyền thông có thể minh họa cho việc làm này. Tuy nhiên, dù không có lý do hợp lý, nghề kiếng quan hệ trong giai đoạn sinh sản chỉ vì thỏa mãn dục vọng là sai đạo đức.

Đức Pio XII cũng khẳng định rằng việc quan hệ với ý định tránh sinh con có thể được xem là đạo đức, miễn là cặp vợ chồng có lý do chính đáng. Vấn đề vật liệu kiến ​​trúc theo chu kỳ có phải là phương pháp duy nhất hợp đạo đức vẫn là đề tài tranh luận mạnh mẽ trong thập niên 1960.

3. Công đồng Vatican II về hôn nhân và gia đình

Vào năm 1965, tại phiên họp thứ tư và cũng là phiên họp cuối cùng, Công đồng Vatican II đã cấm thực hiện Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới ngày nay (Gaudium et Spes), trong đó nêu ra một số điểm quan trọng về hôn nhân Chết giáo và ý nghĩa của đời sống gia đình:

1) Hôn nhân, vừa là “cộng đồng yêu thương” (#47) vừa là “mối quan hệ gắn bó thân mật về đời sống và tình yêu” (#48), vừa phản chiếu vừa tham dự vào giao ước yêu thương kết nối Đức Giáo hội. Cảm giác đẹp và ý nghĩa của gia đình Thăm giáo nằm ở chỗ: “Nờ tình yêu lẫn nhau của vợ chồng, nhờ sự sinh hoa kết nối trái rộng rãi, nhờ tình chiến thông và trung thành, và nhờ cách yêu thương mà tất cả các thành viên trong gia đình cùng cộng tác”, hiện vật sống động của Chúa trong thế giới sẽ được hiện diện trước mọi người (#48).

2) Những biểu hiện có thể xác định của tình yêu hôn nhân được coi là có giá trị đáng kể, độc lập với việc làm sinh sản. Các hành vi yêu thương trong hôn nhân được gọi là “cao quý” và “xứng đáng”, và trong cách biểu hiện thực sự nhân bản của nó, chúng “biểu thị và cung cấp sự hiến tặng mình cùng nhau, nhờ đó vợ chồng làm phong phú cho nhau bằng ý chí vui vẻ và biết ơn” (#49).

3) Đồng thời, tình yêu vợ chồng không tách rời khỏi sinh sản và giáo dục con cái. Cả hôn nhân và tình yêu vợ chồng “được định hướng cho việc làm sinh sản và giáo dục con cái và tìm thấy vinh quang tối hậu trong đó” (#48). Hơn nữa, chính như “món quà cao nhất của hôn nhân”, con cái đóng góp rất nhiều vào hạnh phúc của cha mẹ” (#50).

4) Khi các cặp vợ chồng sử dụng quyền sinh sản một cách sinh hoa kết trái, họ sẽ tham gia một cách đặc biệt vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Khi làm rõ vị trí của con cái trong đời sống hôn nhân, Gaudium et Spes nhấn mạnh: “Dù không làm giảm giá trị các mục tiêu khác của hôn nhân,…cha mẹ nên xem nhiệm vụ thích hợp của mình là truyền đạt sự sống con người và giáo dục những người được truyền đạt sự sống ấy” (#50). Ở điểm này, cần lưu ý rằng văn bản hiển thị quyết định chấp nhận sử dụng thuật ngữ truyền đạt mục tiêu về “mục tiêu cấp ba”, trong đó việc làm sinh sản và giáo dục con cái được xem là mục tiêu chính của hôn nhân và tình dục vợ chồng, nhưng việc thể hiện và nuôi dưỡng tình yêu vợ giữa chồng được coi là mục tiêu phụ của tình huống giáo dục nhân nhân.

5) Cặp vợ chồng phải thực hiện nhiệm vụ sinh sản và giáo dục con cái “với trách nhiệm nhân bản và Đinh giáo”. Trong công việc lập kế hoạch gia đình, những người vợ chồng chồng giáo dục nên “có thể cẩn thận tận hưởng hạnh phúc của bản thân giữa con cái, cả những đứa trẻ đã sinh và những đứa trẻ có thể dự kiến”. Làm cha mẹ có trách nhiệm có nghĩa là các cặp vợ chồng “sẽ tính đến cả điều kiện chất hỗn tinh thần của thời đại cũng như của hoàn cảnh sống của mình”; đồng thời, họ “tham khảo lợi ích của gia đình, xã hội trần gian và của chính Giáo hội”. Cha mẹ nuôi dạy gia đình tương đối đông con được nhắc đến đặc biệt, nhưng họ được nhắc nhở thiên nhiên nuôi con cái cái “cho phù hợp”, và quyết định có một gia đình đông con đòi hỏi “sự suy xét khôn ngoan và chung” (#50).

Như đoạn văn trích dẫn mà tôi đã nêu trên đã làm rõ, Giáo hội Công giáo không phản đối việc làm cha mẹ có trách nhiệm hoặc kế hoạch hóa gia đình. Gaudium et Spes không tán dương việc sinh sản không kiểm soát, cũng không ca ngợi việc sinh con mà quên giáo dục. Đối với các vợ chồng Chết giáo, làm cha mẹ có trách nhiệm có vẻ bao gồm ba điều: họ phải mở lòng đón nhận sản phẩm sinh sản, họ phải chăm sóc đúng mực cho những đứa con sinh sản, và cuối cùng, khi cần thiết, vợ chồng phải đặt giới hạn thích hợp cho quyền sinh sản của mình. Tất nhiên, cách thực hiện vẫn là chủ đề của cuộc thảo luận đang diễn ra.

6) Quyết định việc truyền bá sự sống của con người, “chính cha mẹ cuối cùng phải đưa ra phán quyết này trước mặt Thiên Chúa”, nhưng họ phải nhận thức được công thức “không thể hành động tiện ích”. Thay vào đó, các cặp vợ chồng Vẽ giáo phải đưa ra quyết định một cách có tinh thần trách nhiệm hoặc lương thiện, nghĩa là “luôn phải được hướng dẫn theo lương tâm, đúng với luật Thiên Chúa, và phải tuân theo quyền giảng dạy của Giáo hội, giải quyết thích một cách xác thực luật này dưới ánh sáng Phúc Âm” (#50).

7) Cuối cùng, văn kiện xác định rằng các cặp vợ chồng thường “gặp hoàn cảnh mà ít nhất là tạm thời nên tăng số lượng con cái”. Do đó, trách nhiệm làm cha mẹ để tránh sinh sản có thể vững chắc với mong muốn có thể hiện tình yêu vợ chồng theo thể xác. Trong hoàn cảnh này, vợ chồng cảm thấy bị kéo theo hai hướng: trách nhiệm đòi hỏi họ vừa tránh thụ thai vừa duy trì “sự trung thành trong yêu thương và sự thân mật vỏ bọc của đời sống”. Việc không duy trì “sự thân mật của đời sống hôn nhân” rõ ràng ràng buộc đến sự trung thành giữa nhau, nhưng cũng có thể gây nguy hiểm cho hạnh phúc của những đứa trẻ con sinh và làm suy giảm lòng có thể đảm bảo lượng lớn của cha mẹ trong việc đón nhận cái mới (#51).

Khi hướng dẫn các bà vợ chồng “hài hòa tình yêu vợ chồng làm việc truyền sự sống có trách nhiệm”, Gaudium et Spes cảnh báo chống lại “những giải pháp quyền dũng” và khuyên các vợ chồng rằng: Tính chính phải về mặt đạo đức của các biểu hiện hiện tình yêu vợ chồng được xác định theo các tiêu chuẩn khách quan dựa trên bản chất con người và hành động của họ, và “bảo đảm tồn tại đầy đủ ý nghĩa của việc làm của mình và sinh sản cảnh nhân nhân bản bối cảnh trong tình yêu thật sự” (#51). Điều quan trọng nhất trong tuyên bố này là hành vi yêu thương trong hôn nhân không được đánh giá dựa trên khía cạnh sinh học mà dựa trên mối quan hệ với toàn bộ con người. Nói cách khác, văn kiện lựa chọn cách đi xa lập thảo luận thường thấy chống biện pháp tránh thai, vốn chỉ nhìn vào cấu trúc sinh học của hành vi giao hợp tách rời khỏi con người thực hiện hành vi. Chuẩn mực đạo đức được nhìn nhận là cơ bản về chất liệu con người, không phải là mục tiêu riêng của từng hành động.

Các nghị phụ kết thúc thảo luận về hôn nhân và đời sống gia đình bằng cách khuyến khích vợ chồng thực hành sạch trong hôn nhân, có nghĩa là, một phần, khi cố gắng điều chỉnh sinh con, các cặp vợ chồng nên tránh những phương pháp tránh thai được giáo dục của Giáo hội cho là xứng đáng trong việc phát triển khai luật Thiên Chúa” (#51).

4. Thông điệp Humanae Vitae và bối cảnh

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1968, Đức Giáo hoàng VI đã ban hành Thông điệp về “sự sống con người ” (Humanae Vitae)[2]. Nội dung của thông điệp nêu rõ các kết luận của Giáo hoàng không miễn phí trừ Giáo hoàng khỏi việc xem xét cá nhân toàn bộ vấn đề. Những kết luận đó không đạt được sự đồng thuận tuyệt đối; đặc biệt, một số cách tiếp cận và thảo luận đã xuất hiện, làm chệch hướng giáo dục về nền tảng vững chắc của Giáo hội. Sau khi suy nghĩ cẩn thận và cầu nguyện, chính Đức Giáo hoàng VI đã kết luận rằng Giáo hội phải duy trì việc bác bỏ biện pháp tránh thai và triệt sản, vì điều này xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của giáo lý nhân bản và kim giáo về hôn nhân, đồng thời là một phần của luật luân lý từ Thiên Chúa. Ngài kết thúc bằng cách thúc đẩy sự tin cậy vào “giáo lý vững chắc của Giáo hội, mà Người kế hoạch Thánh chiến trung thành bảo vệ và giải thích cùng với các vị thần huynh (là các anh em) trong hàng giám mục Công giáo”, đồng thời mạnh rằng con người, nếu muốn đạt được hạnh phúc thực sự mà mình khao khát, phải giữ luật mà Thiên Chúa không thiết lập các tính chất của con người, để được tôn trọng một cách và yêu thương.

Sáu ngày sau khi Thông điệp Humanae Vitae được công bố, tại buổi tiếp kiến ​​trúc hàng tuần vào mùa hè tại Castel Gandolfo, Đức Giáo hoàng tử VI đã suy ngẫm về Thông điệp của quý vị và đã trình bày những cảm xúc đầy chiến tranh trong quá trình soạn thảo cũng như khi được đưa ra quyết định cuối cùng. Trước đây là ý thức liên tục về sự nghiêm trọng vô cùng nặng nề của bạn, điều này đã gây ra nhiều đau khổ tinh thần, khi bạn phải trả lời cho Giáo hội và toàn nhân loại, dựa trên truyền thống, giáo dục của các vị tiền nhiệm gần nhất, cũng như của Công đồng. Ngài có xu hướng chấp nhận, trong khả năng có thể, các kết luận và tính chất tham khảo của Quận ban Giáo hoàng, nhưng đồng thời phải hành động khôn quanh. Ngài hoàn toàn ý thức về các cuộc tranh luận sôi nổi, về truyền thông và dư luận, và về những lời kêu gọi từ vô số cá nhân ít quyền lực hơn và đang thoải mái. Ngài thường cảm thấy bị ngập trong một tài liệu biển, và về phương diện con người, cảm giác thấy phong phú trước nhiệm vụ tông đồ khi phải phán đoán tất cả chúng. Nhiều lần bạn chạy sợ hãi trước tình huống phải đơn giản lựa chọn: Chỉ đơn giản theo dư luận hiện tại hay ban ra một phán quyết có thể được xã hội đương đại phản đối hoặc có thể là một ứng dụng tiện lợi cho các cặp vợ chồng.

Đức Giáo hoàng tiếp tục, Ngài đã tham khảo ý kiến ​​kiến ​​trúc nhiều chuyên gia, cầu nguyện lương sáng của Chúa Thánh Thần, và thiết lập tâm mình hoàn toàn vào hướng dẫn của sự thật, tìm cách giải luật Thiên Chúa sản xuất phát từ nhu cầu nội tâm của tình yêu nhân bản chân chính, từ cấu trúc cơ sở của nhân nhân, từ sản phẩm giá cá nhân của người chồng, từ đó phục vụ sự sống, và từ sự tồn tại của nhân giáo. Ngài đã suy nghĩ các yếu tố được thiết lập bởi giáo lý truyền thống của Giáo hội, đặc biệt là giáo huấn của Công đồng. Ngài đã quyết định hậu quả cân bằng kịp thời. Và bạn không còn nghi ngờ gì về các bộ phận phải phát ngôn như đã làm.

Trong phần mở đầu thư, Đức Giáo Hoàng cảm ơn ban về công việc của họ, nhưng nói rằng các kết luận của Ủy ban không thể coi là cuối cùng, và cũng không miễn trừ bạn khỏi việc xem xét cá nhân các vấn đề liên quan. Ngài cũng nhận xét rằng Giáo hoàng đã không đạt được “sự đồng thuận hoàn toàn về các tiêu chuẩn đạo đức cần đề xuất ”; Hơn nữa, trong báo cáo của lệnh cấm, một số tiêu chí cho các giải pháp về vấn đề tránh thai đã xuất hiện “đi chệch khỏi giáo dục đạo đức về hôn nhân mà các lệnh cấm có trách nhiệm lo về việc hướng dẫn và bảo vệ các giáo dục của Giáo hội đã đề xuất một cách định hình”[3]. Cuối cùng, với sự đảm bảo rằng bạn “đã nghiên cứu bảo vệ các tài liệu”, Đức Giáo hoàng công VI, “sau khi suy tư bạch kim và cầu nguyện cung trì”, khẳng định rằng không thể thay đổi môi trường của Giáo hội về việc phản biện sử dụng các biện pháp tránh thái nhân tạo (HV, #6).

Thông điệp đưa ra lý do lẽ sau: “Mỗi hành vi hôn nhân phải luôn mở ra cho việc truyền sự sống” (HV, #11), vì Thiên Chúa đã muốn “mối liên hệ không thể tách rời… giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng: ý nghĩa Hiệp nhất và ý nghĩa sinh sản”. Nhờ cấu trúc mật thiết kế này, “hành vi vợ chồng, trong khi gắn kết chặt vợ và chồng, vẫn làm họ có khả năng sinh ra những sinh linh mới, theo những luật được ghi sẵn trong bản thể của nam và nữ” (HV, #12). Do đó, việc vợ chồng giao hợp trong khi cố gắng và chủ động ngăn cản khả năng sinh sản của hành vi đó là “bản chất bất lương” (HV, #14) và “luôn luôn trái phép” (HV, #16).

Theo cách suy nghĩ được trình bày trong Humanae Vitae , ý nghĩa Hiệp nhất và sinh sản của giao hợp gắn bó thiết bị đến mức không thể tách rời. Điều này có nghĩa là bất kỳ sự kiện vật lý có chủ ý nào với một trong hai ý nghĩa sẽ tất yếu ảnh hưởng phá van đến ý nghĩa còn lại, làm suy giảm giá trị đạo đức toàn bộ hành vi tình dục. Do đó, sự thật không thể tách rời giữa chiều dài kích thước của tình yêu vợ chồng là cơ sở cho việc Giáo dục cấm mọi hành vi tình dục mà cố gắng ngăn cản việc sinh sản; đồng thời, cần lưu ý rằng cùng lập thảo luận này cũng là cơ sở cho công việc Giáo hội Phản biện mọi cố gắng đi sinh con tách rời biểu hiện tình yêu vợ chồng trong giao hợp. Do đó, Giáo hội duy trì lập trường chính thức chống lại AID (thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng người hiến) cũng như AIH (thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng chồng) và thụ tinh trong ống nghiệm ngay cả khi và tinh trùng đều về vợ chồng.

II. CÁC PHẢN ỨNG DỤNG HỌC VỀ CON NGƯỜI VITAE

Nhiều nhà thần học luân lý và các nhà nghiên cứu khác cho rằng cần thiết phải phê bình phân tích mà Humanae Vitae đưa ra như lời giải thích về việc cấm thực hiện giao dịch tránh thai trong hôn nhân. Một số tập bình luận về vấn đề được cho là cơ sở ổn định trong văn bản của Thông điệp; những người khác quy thức tính hợp pháp và ý nghĩa đạo đức của sự phân biệt giữa kiến ​​trúc cữ định kỳ (hoặc phương pháp nhịp điệu), mà Giáo hội chấp nhận như một phương pháp tránh thai “tự nhiên” để hạn chế hoặc giãn cách sinh con, và tất cả các phương pháp tránh thái khác mà Giáo hội bác bỏ “nhân tạo”. Sau đây là một số ví dụ về cả hai loại phê bình này. Chúng tôi bắt đầu bằng các công thức đối với một trong các thông điệp cơ sở xác nhận.

1. Ý nghĩa sinh vật và hiệp nhất của tình dục hôn nhân có thực sự không thể tách rời?

Như đã nêu, Thông điệp Humanae Vitae khẳng định rằng Thiên Chúa đã muốn một mối liên hệ không thể tách rời giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng (#12). Tuy nhiên, ở điểm này, nhà thần học gia luân lý, Linh mục Dòng Tên, người Mỹ Richard A. McCormick đã nhận thấy Thông điệp có tính ổn định với điều mà nó từng khẳng định trước đó: hành vi yêu thương hôn nhân không tồn tại là hợp pháp nếu, vì lý do ngoài ý muốn của vợ chồng, có thể dự đoán là vô sinh, vì các hành vi này luôn được định hướng sẽ tiến hành và cố gắng thực hiện hiệp nhất của họ (HV, #11). McCormick chỉ ra đúng rằng ở đây, Thông điệp chấp nhận các hành động vi giao hợp ngay cả khi biết rằng họ không thể sinh sản, và lý do cho các hành vi này là: chúng vẫn được hướng dẫn đến việc làm có thể hiện và cung cấp tình yêu vợ chồng.

Nhưng văn bản phải như lòng chỉ rằng việc định hướng sinh sản chấm dứt và vắng mặt bất cứ khi nào vợ chồng giao hợp trong những thời kỳ vô sinh tự nhiên. Nếu hành động vi giao hợp bị mất hướng hoặc định hướng trong thời kỳ vô sinh tự nhiên, thì rõ ràng điều này định hướng có thể tách rời khỏi biểu tượng hôn nhân hiện tại trong giao dịch. McCormick kết luận:

Trong những hành vi vô sinh này, các khía cạnh hiệp nhất và sinh sản có thể tách rời. Điều này có nghĩa là tại một điểm (#11), Thông tin đầy đủ như vô tình ý nghĩa phân tách thực tế giữa viền cánh nhất và sinh sản của từng hành vi giao hợp trong thời kỳ vô sinh. Ở điểm khác (#12), lý giải rằng mỗi hành vi phải luôn mở ra cho sự sống mới được cho là dựa trên mối liên hệ không thể tách rời giữa ý nghĩa sinh sản và Hiệp nhất… [tồn tại cùng nhau trong hành vi vợ chồng].

Cần lưu ý rằng trong phần thảo luận chính của Thông điệp (#11), văn bản tiếp tục nói rằng: “Thiên Chúa khôn đã sắp đặt các định luật tự nhiên và nhịp sinh sản, vốn tự gây ra sự phân chia trong chuỗi sinh con”. Có thể lập luận hợp lý rằng, logic đã được thiết lập trước đó trong đoạn này, câu trích dẫn có thể đọc như sau: “Thiên Chúa đã không quan tâm đến các định luật tự nhiên và nhịp sinh sản, vốn tự thân gây ra sự phân chia giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng là sinh sản và Hiệp nhất.” Thiên Chúa, phải như, qua các luật tự nhiên được bộc lộ trong nhịp điệu bình thường của cơ thể phụ nữ, đã khiến hai ý nghĩa của tình giáo dục hôn nhân không chỉ có thể tách rời mà thực sự bị tách rời trong chu kỳ vô sinh định kỳ của phụ nữ.

Rõ ràng, không phải mọi hành động giao hợp đều mở ra cho sự sống. Trong trường hợp này, lập luận về Giáo hội chống lại tránh thai nhân tạo, dựa trên giả định rằng “Thiên Chúa đã muốn mối liên hệ không thể tách rời giữa hai ý nghĩa của hành vi vợ chồng” (#12), chắc chắn có thể được đặt câu hỏi.

Cơ sở chống lại việc tạo nhân vật phải được tìm ở nơi khác. Tránh xa nhân tạo không thể bỏ đơn giản dựa trên giả định “không thể tách rời” giữa các kích thước sinh sản và Hiệp nhất, khi thực tế Thiên Chúa đôi khi cho phép tách rời điều này xảy ra. Câu hỏi mới đặt ra là: Khi Thiên Chúa, qua các luật tự nhiên, tạo điều kiện cho sự phân chia giữa ý nghĩa sinh sản và Hiệp nhất của tình dục hôn nhân, liệu con người có được phép cố gắng thực hiện sự tách rời này không? Giáo hội có thể khẳng định câu trả lời là không, nhưng không thể hợp lý làm như vậy bằng cách nói rằng Thiên Chúa đã muốn sự không thể tách rời giữa hai chiều tình yêu trong mọi hành vi giao hợp.

Phản ứng trước cả ý tưởng về sự không thể tách rời giữa hai ý nghĩa sinh sản và Hiệp nhất và lời nhắc nhở của Giáo hội rằng “mọi hành vi hôn nhân phải luôn mở ra cho sự sống” (HV, #11), một lập luận thú vị gần đây xuất hiện trên The Tablet . Giáo sư Adrian Hastings chỉ ra rằng giao hợp về chất không phải lúc nào cũng “mở ra cho sự sống”; không phải ngẫu nhiên mà thụ động không luôn xảy ra sau giao hợp; mà tự nhiên đã được Thiên Chúa sắp xếp để thụ thai không phải lúc nào cũng xảy ra.

Do đó, tự nhiên đã tạo ra hai loại giao hợp: một loại sinh sản và tương đối hiếm, trả lại sự ra đời của một đứa trẻ; loại còn lại không sinh sản và thường xuyên, cung cấp môi trường ổn định và chăm sóc cho trẻ nhỏ. Hastings nhận xét rằng cả hai loại giao hợp đều có chức năng tích cực trong mục tiêu tự nhiên; loại sinh sản mang vai trò sinh học cơ bản là tạo ra sự sống, loại không sinh sản mang vai trò nuôi nuôi và giáo dục trẻ em.

Rõ ràng, cả hai loại giao hợp đều có vai trò cần thiết và toàn bộ trong đời sống hôn nhân, vì như đã thảo luận trong Gaudium et Spes , lời kêu gọi làm cha mẹ có trách trách nhiệm vang lên hai chiều: không cát dương việc cũng sinh sản không giới hạn, không thả dương việc sinh sản mà không phải chăm chăm sóc con cái sau đó.

Với thực tế rằng cả hai loại giao hợp đều có mối quan hệ tích cực với trẻ em – một loại cho việc làm sinh sản, loại còn lại cho việc giáo dục và hạnh phúc – Hastings đề xuất rằng việc đảm bảo, duy trì và thậm chí chí tăng cường sự phân biệt giữa hai loại giao hợp là có thể, nên chắc chắn rằng loại giao hợp cần thiết phải được thực hiện đúng lúc. Vì vậy, như vợ chồng được phép sử dụng thuốc nội tiết để tăng cường khả năng thụ thai và biến hành vi vốn không sinh sản thành khả năng sinh sản, họ cũng được phép sử dụng biện pháp tránh thai để đảm bảo một hành vi vi giao hợp nhất loại không sinh sản khi cần thiết.

Nhận xét của Hastings mẹo ý kịch bản sau: khi vợ chồng về mặt đạo đức được phép giới hạn giao hợp vào các thời kỳ “an toàn” hoặc vô sinh của người vợ, họ có thể hợp pháp sử dụng các thiết bị tránh thai để đảm bảo rằng các hành vi giao hợp không sinh sản thực sự vẫn giữ nguyên bản chất không sinh sản. Việc này có thể mang lại cảm giác an tâm, nhưng không loại bỏ yêu cầu rằng họ vẫn phải kiếng khem/kiêng cữ định kỳ, khi người vợ đang có khả năng thụ thai. Vì vậy, câu hỏi vẫn còn: liệu các cặp vợ chồng có được sử dụng biện pháp tránh thai trong thời kỳ vợ có khả năng thụ thai không?[4]

2. Kiêng cữ định kỳ có phải tự nhiên?

Bên bờ những lập luận chống lại tính logic nội tại, Thông điệp Humanae Vitae còn gây ra một luồng phê bình khác, đặt câu hỏi về tính hợp pháp và ý nghĩa đạo đức của sự phân biệt tránh thái tự nhiên và nhân tạo. Thông điệp lặp lại hướng dẫn của Đức Piô XII rằng khi lý do gây tử vong cần phát hiện từ điều kiện thể lý hoặc tâm lý của vợ chồng, hoặc từ hoàn cảnh bên ngoài, thì vợ chồng “tính đến nhịp điệu tự nhiên vốn có trong các chức năng sinh sản” và hạn chế giao thức hợp lý vào các thời điểm vô sinh là hợp pháp. Thực hành này khác với công việc giao hợp trong thời kỳ khả năng thụ thai kèm theo các thiết bị phá thụ thai. Thực tế, Thông điệp nói: “có sự khác biệt căn bản giữa hai trường hợp: trong trường hợp nhất, vợ chồng sử dụng một cách hợp pháp sẵn sàng tự nhiên; trong trường hợp hai, họ cản trở sự phát triển của quá trình tự nhiên” (HV, #16).

Nói cách khác, sự khác biệt giữa phương pháp pháp nhịp sinh học (hay còn gọi là phương pháp tính chu kỳ hoặc phương pháp lịch ) để tránh thai[5], hay kiến ​​​​cữ định kỳ và tất cả các hình thức tránh thai khác là: nhịp điệu tận dụng thời kỳ vô sinh tự nhiên trong chu kỳ của người phụ nữ và hạn chế giao thức hợp nhất vào thời điểm đó; các phương pháp khác cho phép giao dịch bất cứ lúc nào nhưng cố gắng ngăn chặn khả năng thụ thai. Hơn nữa, vợ chồng thực hiện kiến ​​nghị cữ định kỳ với lý do hợp pháp và tránh giao hợp trong thời kỳ khả năng thụ thai được xem như bằng chứng về một tình yêu thực sự trung thực và toàn diện (#16).

Vì vậy, ít nhất một phần lý do Giáo hội chấp nhận kiến ​​trúc định kỳ là thực hành điều này đảm bảo và yêu cầu vợ chồng duy trì kỷ luật và đau khổ hôn nhân trong mối quan hệ vợ chồng. Về điểm sau cùng này, chắc chắn sẽ thiếu khôn ngoan nếu xem nhẹ nhàng trò chơi của sự tự rèn luyện trong công việc trưởng thành cá nhân của vợ chồng cũng như trong đời sống hôn nhân của họ. Tuy nhiên, có thể nghi ngờ rằng người ta nên đòi hỏi nơi họ điều nhiều hơn ngoài sự “chết đi cho chính mình” hằng ngày, điều điều vốn giúp họ chu toàn cách quảng đại và ân cần những trách nhiệm của một người chồng hay vợ, người cha hay mẹ.

Tuy nhiên, mặc dù kiến ​​nghị cữ định kỳ tạo ra áp lực cảm xúc hoặc tâm lý thêm cho vợ chồng, đặc biệt là người vợ, và an toàn đến trung thành hôn nhân, từ đó ảnh hưởng đến hạnh phúc của con cái, một số người sản xuất Giáo hội xem xét lại trường rằng phương pháp nhịp sinh học (hay còn gọi là phương pháp tính chu kỳ ) là phương pháp duy nhất hợp lý mà các vợ chồng giáo dục có thể áp dụng trong kế hoạch hóa gia đình.

Phần 2 còn lại trong bài đăng tiếp theo.

Tác giả: Lm. Phêrô Trần Mạnh Hùng, STD.

Giáo sư thần học luân lý tại Đại học Notre Dame Australia.

Tác giả giữ bản quyền ©2025.

Nguồn: hdgmvietnam.com


[1]“Kế hoạch hóa gia đình tự nhiên” được dịch sang tiếng Việt là: “Phương pháp hoạch định Gia đình tự nhiên” (thường viết tắt: NFP). Trong ngôn ngữ Công giáo Việt Nam, người ta cũng hay dùng cụm từ “ngừa thai theo phương pháp tự nhiên”.

[2]“Humanae Vitae,” được định nghĩa là “Điều Sống Con Người” và có phụ đề “Về Việc Điều Hòa Sinh Sản,” là một thông điệp (thông điệp Tòa Thánh) được Đức Giáo Hoàng dẫn VI ban hành tại Rôma, Ý, vào ngày 25 tháng 7 năm 1968. Thông này bảo vệ và tái khẳng định trường của Giáo Hội Công Giáo về kế hóa gia đình và các chủ đề liên quan đến sinh thái, sản phẩm và thai. Văn kiện này cho đến nay vẫn gây ồn ào, gây tranh cãi, bởi vì những khẳng định của nó về việc kiểm soát sinh sản bị nhiều người Công giáo coi là thiếu hợp lý.

[3]Ủy ban đặc biệt của Đức Giáo Hoàng (ủy ban đặc biệt của Giáo hoàng) đã được thành lập để nghiên cứu vấn đề văn Thái đã được khởi động vào năm 1963 bởi Đức Thánh Cha Gioan XXIII; Đến năm 1964, Đức Thánh Cha khép VI đã bổ sung thêm một số lượng lớn thành viên khác vào lệnh cấm này. Nhóm gồm từ 60 đến 70 thành viên, bao gồm cả giáo dân hỗn giáo sĩ, trong đó có các bác sĩ, các nhà khoa học xã hội, các cặp vợ chồng, linh mục, giám mục và hồng y.

[4]Adrian Hastings trong một lá thư gửi The Tablet (ngày 2 tháng 3 năm 1985), 238-239.

[5]Đây là một phương pháp tự nhiên, trong đó vợ chồng theo dõi chu kỳ kinh nguyệt của người vợ để xác định những ngày dễ thụ thai, từ đó kiêng quan hệ trong thời gian nếu muốn tránh thai.

CHIA SẺ / SHARES:
0Shares

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *