Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
NL: CHÚA ĐÃ LÊN TRỜI
ĐC: HÃY VỖ TAY( ca bai)
ALL: Chúa phán: “các con hãy đi giảng cho muôn dân, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”
DL: TỰA LÀN TRẦM HƯƠNG
HL: CHÚA ĐÃ LÊN TRỜI
KL: ĐƯỜNG ĐI CÓ CHÚA
Lời Chúa: Cv 1 ,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20
Kết thúc Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 28,16-20)
16 Khi ấy, mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông : “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Chúa lên trời (21.05.2023)
Chiêm ngưỡng toàn cảnh cuộc tại thế của Chúa cho đến lúc Người thăng thiêng. Con thấy thật vĩ đại, thật hào hùng và vinh sáng, rất mực yêu thương và khiêm hạ dường nào. Đến giờ thăng thiêng mà Chúa cũng giấu đi vinh quang được các đạo binh thiên thần đón rước về thiên quốc trước các môn đệ của Người.
Con được ơn hiểu biết nhiều điều về Chúa, nhưng lòng trí con trở nên tăm tối trước lòng đơn sơ và khiêm hạ thẳm sâu này của Người. Nói như thế cũng chưa hết ý, vì trên sự thật nhiệm mầu, ngay giờ phút đó có vô số đạo binh các thiên thần đón rước Chúa thật tưng bừng rộn rã nhạc cung đình thánh thiện, long trọng và vinh hiển biết bao “Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời,” (Cv 1,11).
A ! con hiểu rồi! Không phải Chúa không cho các môn đệ thấy mà các ngài không đủ khả năng thần khí để thấy được. Vì chính lúc đó, các ngài còn nói những điều mang tâm thức rất mực thế gian “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6) Mắt tâm linh còn mờ tối như thế, thì làm sao thấy được quang cảnh vinh hiển các thiên thần đón rước Chúa Thăng Thiên!
Nhưng… các ông không thấy, thì Chúa ban ơn cho thấy được mà. Đây chính là điểm trên cả tuyệt vời của Chúa, Chúa vừa tôn trọng tự do và khả năng của chúng con, vừa đơn sơ khiêm hạ không những với con người mà cả với các thiên thần.
Trở lại với Lời Chúa hôm nay, Chúa Giê-su thăng thiên, Người về trời sau khi đã hoàn tất sứ mạng cứu độ nhân loại. Sự kiện nầy, nơi bài đọc một, được thánh Phao-lô, một con người có học thức và để tâm tra cứu chứng thực Chúa Giê-su đã lên trời trước mắt các môn đệ của Người “Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” (Lc 1,3). Chúa thăng thiêng, một sự kiện được một thánh nhân thuộc thành phần trí thức, đã làm việc có tính khoa học: thực tế, cụ thể và chính xác, công khai nhìn nhận. Dầu vậy, có những môn đệ ngay lúc chứng kiến thấy Chúa trước khi thăng thiêng lòng vẫn còn hoài nghi “Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.” Đây là một thực tế luôn có trong đời sống đức tin, vì mỗi người được nhận nén bạc niềm tin khác nhau.
Ý nghĩa việc Chúa Giê-su thăng thiên rất phong phú:
– Chúa Giê-su chứng thực Người là Đấng từ trời xuống, giờ trở về cõi thiên cung nơi Người đã đến “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.” (Ga 3,13).
– Chúa Giê-su đích thực là Thiên Chúa, cái chết, sự phục sinh và thăng thiêng của Người, chứng thực Chúa Giê-su là Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể.
– Từ cõi chết sống lại và lên trời, khẳng định rằng Người là Thiên Chúa, là Đấng Sáng Tạo làm Chủ cõi tự nhiên lẫn siêu nhiên.
– Bốn mươi ngày tại thế, sau khi phục sinh Chúa thành lập Hội Thánh, việc Chúa Giê-su lên trời trước mắt các môn đệ. Làm cho nhân loại hiểu rằng Hội Thánh của Chúa Giê-su đặt trên nền tảng Thánh là chính Người, cao trọng và thánh thiêng hơn hết mọi tôn giáo khác. Vì duy nhất một mình Chúa Giê-su thực hiện việc thăng thiên sau khi tự mình sống lại, còn tất cả mọi đấng giáo chủ khác đều đã chết.
– Đồng thời cũng khẳng định với tất cả tín đồ Ki-tô, thăng thiên là kết quả của đời sống đức tin trọn hảo. Là vinh thắng khải hoàn cho tất cả chiến sĩ Phúc Âm đã tận hiến đời mình cho Nước Chúa.
– Chúa Giê-su thăng thiêng rồi người sẽ trở lại phán xét toàn nhân loại “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Đi vào trọng tâm của ngày lễ Chúa Thăng Thiên, đoạn Phúc Âm sau “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Chỉ riêng câu “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.”, làm nên niềm vinh dự lớn cho người Công Giáo. Người tín hữu Ki-tô đã đặt niềm tin mình vào Cội Nguồn của mọi chân lý mang tính trường tồn, vào Đấng Cao Cả nhất trên mọi cao cả. Người là Thượng Đế, là Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa, là Đấng Phục Sinh và Thăng Thiên, tin vào Người là một niềm hạnh phúc lớn, đức tin đáng tự hào, mang dấu ấn miên trường dẫn tới vinh quang và danh dự vĩnh hằng.
Tạ ơn Thánh Tâm Chúa Ba Ngôi đã xót thương chúng con, cho chúng con được làm con của Chúa, con của lòng thương xót vô biên của Người. Amen.
Tình Yêu Hoa Cỏ
LÀM CHO MUÔN DÂN TRỞ THÀNH MÔN ĐỆ
Điểm hẹn cuối cùng của Đức Giêsu với mười một môn đệ tại một ngọn núi thuộc miền Galilê, ngọn núi Người đã truyền cho các ông đến đó. Tại sao Người hẹn gặp các ông ở Galilê, mà không phải ở đền thờ hay hội đường? Có lẽ Galilê là nơi đặc biệt, nơi xảy ra những biến cố lịch sử cứu độ nhân thế của Người, là một cứ điểm truyền giáo. Đây là miền đất của dân ngoại, thật cần kíp để gieo Tin Mừng. Chính nơi đây Satan đã đưa Người lên để thỏa hiệp với hắn nhưng Người đã chiến thắng. Nên hôm nay trên núi này Đức Giêsu đã công bố với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Khởi đầu sứ vụ, nơi đây Thầy đã gọi các môn đệ đầu tiên. Và cuối cùng hôm nay, điểm hẹn này là nơi Thầy trao sứ vụ loan báo Tin Mừng: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19.20a).
Suốt ba năm, các ông chỉ đi theo Thầy, trực tiếp cận kề học tập bên Thầy. Giờ đến lúc Thầy không còn trực tiếp dạy dỗ các ông, giờ là lúc các ông phải tự “thực hành thực tế” trong khi Thầy “vắng mặt”. Các ông phải “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền”. Đây là trọng trách lớn lao và thật khó khăn vất vả, nhất là khi không thuận tiện, trong cái chật hẹp, tối tăm của đời các môn đệ cũng như mỗi chúng con hôm nay. Nhưng một lời hứa chắc chắn kèm theo để an ủi và thúc bách chúng con: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20b). Đây là lời hứa để chúng con an tâm khi thi hành sứ vụ khó khăn mà cao cả. Chính Thầy sẽ thực hiện những điều lớn lao kỳ diệu nơi con người mỏng giòn yếu đuối của mỗi chúng con. Từ buổi Thiên sứ truyền tin đã loan báo về Đức Giêsu: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Vâng, Đấng Emmanuel vẫn luôn hiện diện, đồng hành, ở cùng các môn đệ và những người nhiệt tâm loan báo Tin Mừng trong mọi nơi mọi lúc. Chúa luôn ở cùng chúng con trên bước đường loan báo, trải dài cho đến ngày tận thế.
Trong trình thuật biến cố thăng thiên hôm nay, nơi sách Công vụ trong bài đọc I, Đức Giêsu đã căn dặn những người ở lại: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân được của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất.” (Cv 1,7-8). Sự kiện Chúa về trời là bước ngoặt đánh dấu sự bắt đầu trưởng thành của các môn đệ. Sự kiện này cũng đánh dấu sự hiện diện vô biên của Chúa trong cuộc đời của các môn đệ, trải dài đến chúng con hôm nay và cho đến tận thế.
Chúa ơi! trước khi về trời Chúa đã trao cho chúng con sứ vụ “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” của Chúa. Lạy Chúa! sức chúng yếu lắm, lòng người đời thì cứng cỏi, nhưng chúng con tin Chúa sẽ ở cùng và ở với chúng con trong mọi nơi mọi lúc. Để dù khó khăn hay gian nguy, chính Chúa sẽ thực hiện những điều kỳ diệu trong con người hèn mọn yếu đuối chúng con, cho muôn dân nhận biết Chúa và đi theo Ngài. Amen.
Én Nhỏ
CHÚA THĂNG THIÊN
1. Ghi nhớ:
“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.Và đây,Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt,28.19-20).
2. Suy niệm:
Có hằng triệu người hướng nhìn lên trời cao mà theo dõi phi thuyền Apollo 11 được phóng vào không gian để đi lên mặt trăng. Đó là vào ngày 16/07/1969 và sau đó bốn ngày thì người ta ước tính lại có khoảng trên 600 triệu người theo dõi qua màn ảnh tivi, hướng lên trời cao mà chứng kiến thời khắc lịch sử: con người lần đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng.
Phi thuyền Apollo 11 mang theo ba phi hành gia là: Michael. Collins, Buzz Aldrin và Neil Armstrong được phóng lên cung trăng. Neil Armstrong và Buzz Aldrin là hai người đầu tiên đặt chân bước đi trên bề mặt Chị Hằng. Trước sự kiện này Neil. Armstrong nói: “ Đây là bước đi nhỏ của một người. Nhưng nó lại là bước nhảy vọt của nhân loại.”.
Sau đó ba ngày các phi hành gia đã trở về trái đất an toàn. Như vậy.Phi thuyền Apollo đã thành công vang dội. Tên tuổi của các phi hành gia được hàng tỷ người trên thế giới biết đến.
Thế nhưng để có được sự thành công rực rỡ ấy, đã có rất nhiều nhà khoa học, họ lặng lẽ, âm thầm làm việc tại cơ quan NASA (National Aeronautics and Space Administration:Cục quản trị không gian và hàng không quốc gia).
Trong đó không thể không kể đến sự đóng góp không nhỏ của một nhà khoa học người Việt Nam: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, người đã “vẽ đường bay” cho phi thuyền Apollo 11.
Vị giáo sư này, nay cũng tìm ra “con đường để vể trời qua việc tìm đến với Chúa Ki-tô”. Ông đã gia nhập Hội Tthánh Công Giáo vào ngày 19/10/2016 tại California, trong ngôi nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Hungtington. Đức Cha Đa Minh Mai Thanh Lương làm phép thanh tẩy cho ông, với tên thánh là Anphongso và bác sỹ Nguyễn Ngọc Kỳ là người đỡ đầu.
Hôm này toàn thể Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Giê-su về trời. Chúa xuống thế gian để cứu chuộc loài người, Ngài sống 33 năm. Sau khi hoàn tất công trình Cứu Chuộc nhân loại, Chúa đã khải hoàn về trời.
Biến cố Chúa về trời như một lời nhắc nhở cho chúng ta ý thức đến ý nghĩa của cuộc sống cũng như cùng đích của cuộc đời mình. .
Qua Bí tích Thánh tẩy chúng ta đã được tháp nhập vào Nhiệm Thể của Chúa Giê-su, mà Ngài là Đầu, là Thủ Lãnh, Ngài đi trước để mở đường đẫn đưa chúng ta vào Nước của Ngài. Cũng qua Bí tích Thánh tẩy, chúng ta đã trở thành môn đệ của Ngài nên chúng ta thực thi lời truyền dạy của Ngài.
Suốt thời gian ở cùng con người, ngoài những lời dạy bảo chúng ta như khuôn vàng thước ngọc để chúng ta tuân theo mà sống, Chúa còn để lại cho chúng ta một tấm gương sáng ngời để cho chúng ta noi theo bắt chước.
Trước khi về trời, Chúa để lại cho chúng ta một lệnh truyền.Đó là: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”. Lời nói này như một di chúc.Thật vậy, khi đã là môn đệ của Chúa Ki-tô, thì chúng ta phải có trách nhiệm và bổn phận đem Chúa đến cho mọi người và mang mọi người đến với Chúa. Có câu nói rằng: “Nếu anh muốn đi lên Thiên Đàng một mình thì anh sẽ không bao giờ đi được đến đích!.”
Thật vậy căn tính của người Ki-tô hữu là phải truyền giáo. Như linh đạo của dòng là: “Nói với Chúa và nói về Chúa.” Chúng ta phải học được tâm tình của thánh Phaolô: tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách tôi hay như của thánh phụ Đa minh: “ Lạy Chúa rồi số phận những người tội lỗi sẽ ra sao?”. Với những ý thức trên chúng ta sẽ cố gắng không những sống giữ đạo cho tốt mà còn dùng mọi giao tiếp trong cuộc sông mà giới thiệu Chúa cho mọi người chung quanh để mọi người nhận biết Chúa và tôn thờ Ngài. Với quyết tâm thực thi lời Chúa truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ làm được vì chính Chúa đã hứa: này đây Ta sẽ ở với các con mọi ngày cho đến tận thế. Một khi đã có Chúa cùng đồng hành thì chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, trở ngại mà thôi.
3. Cầu nguyện:
Lạy Chúa! Ngài muốn chúng con phải cộng tác với Ngài mà đem ơn cứu chuộc đến cho mọi người. Xin cho chúng con luôn ý thức trọng trách này để mọi ngày trong cuộc đời mình luôn nhiệt thành sống làm chứng nhân cho Chúa, hầu sau này xứng đáng được lên trời hưởng hạnh phúc Thiên đàng cùng Chúa. Amen.
4. Sống lời Chúa:
Mỗi sáng khi vừa thức dậy, tôi làm dấu, nguyện một kinh Lạy Cha và quyết tâm trong ngày làm nhiều việc lành bác ái với ý nguyện cho danh Chúa được cả sáng.
Đaminh Trần Văn Chính
***
MỤC LỤC
1. Thiên Đàng: Nước Yêu Thương
3. Chúa Lên Trời, Ta Hãy Mến Yêu Những Sự Trên Trời
5. Khai Mở Trang Sử Mói Của Giáo Hội
6. Sứ Mạng Truyền Giáo Của Giáo Hội
1.Thiên Đàng: Nước Yêu Thương
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên hay nói một cách bình dân là lễ Chúa lên trời.
Cả ba bài đọc lời Chúa hôm nay liên kết với nhau một cách chặt chẽ. Bài đọc thứ I sách TĐCV mô tả việc Đức Giêsu được cất nhắc lên trời trước mắt các môn đệ. Bài đọc II, thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Epheso cho biết Đức Giêsu sau khi hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao phó ở dưới thế đã về trời ngự bên hữu Chúa Cha; và bài Tin Mừng theo thánh Luca (năm C) cho biết -trước khi về trời- Đức Giêsu PS đã truyền cho các môn đệ làm chứng cho Ngài; rồi nhân danh Ngài mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân. Ngài cũng chúc bình an và hứa ban Thánh Thần cho các ông để các ông được tràn đầy niềm vui và hân hoan chu toàn sứ mạng.
Mầu nhiệm Chúa lên trời là một tín điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin …Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh Kinh. Người lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha”.
Vậy, lên trời là gì? Và việc Đức Giêsu lên trời có ý nghĩa gì với cuộc đời người Kitô hữu chúng ta?
Khi nói về việc Chúa Giêsu lên trời, nhiều người tưởng là Ngài bay vào không gian; rồi ở đâu đó giữa muôn vàn tinh tú! Cho nên, người ta kể rằng: sau khi từ không gian trở về, một nhà du hành vũ trụ đã tuyên bố: “không có Thiên Chúa” vì ông đã lên tới trời rồi mà không gặp!
Vậy, trước hết, chúng ta cần hiểu việc Chúa “lên Trời” là một sự kiện diễn ra trước mắt các tông đồ (bài đọc I). Đồng thời, chúng ta cần đọc biến cố này trong ngôn ngữ thánh kinh: Đức Giêsu lên trời nghĩa là Ngài được ‘cất nhắc lên’ được ‘tôn vinh’; và cũng để khẳng định: Ngài là Đấng từ trời xuống; vậy sau khi đã hoàn tất sứ vụ, Ngài trở về trời với Chúa Cha (bài đọc II).
Hơn nữa, thiên đàng hay cõi trời của Thiên Chúa ở trong chiều kích khác với chiều kích không gian địa lý của chúng ta. Thật vậy, Thiên đàng là nơi Thiên Chúa ngự. Mà Thiên Chúa là tình yêu; cho nên, nơi nào có tình yêu, nơi đó là thiên đàng!
Sách tu đức có kể lại câu chuyện:
Một tu sĩ sống cuộc đời hạnh phúc và an vui trong bốn bức tường của Tu viện. Đời sống tu trì đã biến đổi cuộc đời và tâm hồn của ông trở nên tốt lành, đến nỗi mọi người đều gọi ông là ông thánh.
Ngày nọ, đang lúc ông rửa chén, bỗng một Thiên thần hiện ra và nói: “Thiên Chúa sai ta đến để báo cho thầy biết là giờ thầy lìa đời đã đến”. Tu sĩ vẫn điềm nhiên vui vẻ trả lời: “Tạ ơn Chúa đã thương nghĩ đến tôi, nhưng như ngài thấy đó, tôi còn phải rửa hàng chồng chén dĩa để phục vụ cho kịp bữa cơm chiều của tu viện, xin ngài có thể hoãn lại sau khi tôi làm xong bổn phận rửa chén dĩa này không?” Nói xong, Thiên thần biến đi. Tu sĩ trở lại công việc một cách hăng say, hoàn tất rồi chờ mãi mà cũng không thấy thiên thần trở lại.
Bẵng đi một thời gian, trong lúc vị tu sĩ đang làm cỏ ngoài vườn, Thiên thần hiện ra. Như đoán trước ý nghĩ của Thiên thần, vị tu sĩ giơ tay chỉ mảnh đất trong vườn và nói: “Đây ngài xem, cỏ dại mọc đầy vườn, [Bề trên tổng quyền lại sắp về tu viện kinh lý!] ngài có thể hoãn lại cho đến khi tôi làm xong cỏ không?”. Cũng như lần trước, Thiên thần chỉ mỉm cười rồi biến mất.
Một ngày nọ, trong lúc vị tu sĩ đang chăm sóc các bệnh nhân, thì Thiên thần hiện ra; lần này vị tu sĩ không nói một lời, nhưng chỉ giơ tay chỉ vào các bệnh nhân đang kêu la đau đớn trên giường bệnh. Thiên thần biến đi không nói một lời nào.
Chiều đến, vị tu sĩ trở lại căn phòng nhỏ bé đơn sơ của mình, mãn nguyện vì đã xong bổn phận, ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin sai Thiên thần Chúa đến, con đã sẵn sàng theo Ngài về trời”. Lời cầu nguyện vừa dứt, Thiên thần Chúa xuất hiện; vị tu sĩ mừng rỡ: “Lần này, Thiên thần mang tôi đi, vì tôi đã sẵn sàng theo ngài về thiên quốc”. Thiên thần trìu mến nhìn vị tu sĩ và nói: “Này ông thánh sống ơi, những ngày tháng vừa qua, ông không nghĩ rằng ông đã ở thiên đàng rồi sao?”
Qua câu chuyện, tác giả sách tu đức không phủ nhận thiên đàng đời sau dành cho những ai chu toàn bổn phận và sống giới răn yêu thương nhưng muốn chúng ta hiểu và sống thực tại thiên đàng ngay tại trần thế.
Tuy nhiên, như các môn đệ Chúa năm xưa, nhiều Kitô Hữu cứ đăm đắm hướng về trời mà quên mất bổn phận dưới đất! (MV 43, 1b).
Vì vậy, sách TĐCV bài đọc thứ nhất cho thấy thiên sứ phải thức tỉnh các tông đồ: “Hỡi các ông người Galilê, thôi đừng đứng đó mà nhìn lên trời nữa!”. Thiên thần nhắc nhở các ông nhìn xuống đất để sống với thực tại; và nhất là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu -Thầy của các ông đã trao phó.
Như thế, sự kiện Chúa lên trời là khởi đầu cho sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội: từ đây, nhất là từ ngày lễ Ngũ Tuần, khi đã lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần, các môn đệ hân hoan ra đi làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu, và loan báo Tin Mừng cứu độ không chỉ ở Giêrusalem và cho người Do Thái mà thôi, mà còn ở khắp nơi, và cho mọi người.
Đức Giêsu lên trời nhưng không rời xa chúng ta “Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Ngài vẫn hiện diện cùng chúng ta trong Lời Chúa, trong các bí tích, trong các thừa tác viên Chúa chọn, trong những người anh em quanh ta, nhất là trong những người nghèo khổ, bệnh tật. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Chúa Cha không có nghĩa là Ngài đóng đô ở một chỗ nào đó trong không gian, trên các tầng trời. Ngài ở bất cứ nơi nào có tình hiệp nhất, yêu thương, chia sẻ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, Chúa về trời là niềm hy vọng cho chúng con. Chúng con tin tưởng, sau những gian nan thử thách và cả cái chết ở đời này, đến ngày tận thế, thân xác chúng con sẽ được Chúa cho phục sinh để hưởng phúc vinh quang. Xin cho chúng con ý thức rằng: mừng lễ Chúa thăng thiên, chính là dịp để chúng con nhìn tới tương lai để định hướng sống cho hiện tại; hơn nữa, thay vì chỉ mải mê nhìn trời, xin cho chúng con biết cùng nhau xây dựng nước trời ngay đời này bằng đời sống yêu thương, dấn thân phục vụ. Đó là cách thức truyền giáo hữu hiệu và cũng là con đường đưa chúng con về quê trời khi chúng con hoàn tất cuộc đời dương thế. Amen. [Mục Lục]
2. Niềm Hy Vọng Nước Trời
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này? [Mục Lục]
.
3.Chúa Lên Trời, Ta Hãy Mến Yêu Những Sự Trên Trời
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Chúa lên Trời, chúng ta hướng tâm hồn lên với Chúa, và trông đợi Người lại đến như lời đã hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả chứa đựng trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong… “. Và sau đó ” Người lên Trời ” (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, “đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“. Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Chúa từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông : ” Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1, 8 ). Thế là nhiệm vụ từ đây được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha ban xuống, là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu “ đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa ” (Cvtđ 1, 4 ). Người nói với các ông : “các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28, 19 ). Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, nói cho thế gian biết về Nước Thiên Chúa và ơn cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô ” cho đến tận cùng trái đất “(Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo dù biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa Giêsu lên trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Chúa Giêsu đã và sẽ luôn sống trong Giáo hội như lời Người đã hứa : ” Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 20 ). Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc : ” Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy ” ( Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962 ). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : ” Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu… “.
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, ” vinh quang của Đầu ” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác ” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, ” Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7 , 25). Từ tòa cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu Vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu. Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen. [Mục Lục]
4.Cuộc Trao Ban
Anna Cỏ May
Mừng Chúa lên trời, cả trần hoan cất tiếng ca. Có lẽ Chúa Giêsu cũng rất vui, nhưng trước khi được rước về trời, Ngài đi thực hiện lời hứa với các môn đệ. Ngài đã hứa sẽ gặp các môn đệ ở Galilê. Ngài chỉ định cho các môn đệ đến đó chờ đợi Ngài.
Các môn đệ đã thực hiện điều đó, các ông đến và chờ đợi Ngài. Chúa đến với họ như một người từ phía nào tới, chứ không phải từ trời xuống, khiến cho mấy môn đệ hoài nghi. Chắc hẳn, chúng ta sẽ thắc mắc tại sao mười một môn đệ là người thường ở gần Chúa, được nghe và thấy việc Ngài làm mà sao vẫn hoài nghi khi thấy Thầy. Có lẽ, trong số đó có người ở bên cạnh Chúa nhưng không để ý và không ở lại với Thầy nên Thầy có chút lạ thường thì liền hoài nghi.
Khi thấy các môn đệ như vậy, Ngài tiến đến gần và nói: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”(Mt 28,18-20). Lúc này đây, Ngài tỏ mình ra cho các môn đệ biết Ngài là chủ vũ trụ. Và đây cũng không phải là lúc dạy dỗ nữa mà là sai các môn đệ ra đi lên đường làm nhân chứng cho Ngài ở trần gian. Những gì Chúa Cha trao cho Ngài thì nay Ngài trao lại cho các môn đệ. Ngài không còn ở thế gian nhưng các môn đệ vẫn tiếp tục thực hiện việc Ngài làm và đem tình yêu đến cho mọi người. Chúa Cha đã trao ban cho Chúa Giêsu quyền trên muôn loài vũ trụ. Ngài là Đấng trung gian, là con đường đến với Chúa Cha, là vị thẩm phán quyết định mọi sự và là Đấng công lý và hòa bình. Quyền năng ấy, Ngài ủy thác trao ban cho các môn đệ. Ngài kêu gọi các môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là đưa muôn dân đến bước đầu của niềm tin, của ơn cứu độ; “làm phép rửa nhân danh Chúa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, để khắc ghi cho họ ấn tín đức tin và là cánh cửa vào của Nước Trời; “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”, vì có đức tin mà họ không thực hiện thì nào được ích gì. Chúa Giêsu trao quyền cho các môn đệ không có nghĩa là Ngài không còn ở bên các môn đệ nữa. Ngài vẫn ở cùng và ở mãi cho đến ngày tận thế. Ngài luôn đồng hành và gia tăng sức mạnh cho các môn đệ trên hành trình sứ mạng.
Ngày nay, Hội Thánh tiếp nối sứ mạng của các môn đệ và chúng ta đang được mời gọi tham dự vào việc thờ phượng Thiên Chúa, loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người. Chúng ta hãy lên đường ra đi làm chứng cho Chúa trong niềm tin: “Chúa ở cùng chúng ta”. Chúng ta hãy vui mừng vì Ngài về trời chứng thực Ngài là con Thiên Chúa. Ngài đã thực hiện đúng và trọn vẹn theo ý Chúa Cha. Ngài cũng không ngừng chuyển cầu ý nguyện cho chúng ta. Chúng ta hãy tôn vinh, ca tụng Ngài mãi mãi qua việc thực thi ý Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài về trời nhưng không để chúng con sợ hãi, bơ vơ và mồ côi. Ngài đã trao tặng những quyền năng của Ngài cho chúng con. Xin cho chúng con biết đón nhận hồng ân Ngài trao, để mau mắn lên đường đem tình yêu đến cho mọi người. Amen. [Mục Lục]
5. Khai Mở Trang Sử Mói Của Giáo Hội
Lm. GB. Trần Văn Hào
gợi ý từ bài suy niệm của Keith Witfield
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” ( Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng rất sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố Chúa về trời, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn trước đây. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người, trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa mới ‘rời bỏ’ các ông. Sự ra đi nào cũng để lại những sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại ‘ngập tràn niềm vui’. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý hóa giải những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng có lo lắng. Các ông sẽ không mất Ngài, nhưng Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thần Khí. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện cách tròn đầy. Các tông đồ ngắm nhìn Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về ‘Đấng sẽ đến’. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các học trò của Chúa Giêsu thâm tín rằng Thầy của họ đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Giêsu, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực của tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha mang đến cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
-Đức Giêsu lên trời và ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Dt 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
-Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng với Chúa Cha (1Ga 2,1).
-Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
-Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết : “Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách Tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ đầy tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các Ngài một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha. [Mục Lục]
6. Sứ Mạng Truyền Giáo Của Giáo Hội
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Xưa cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!
Sứ mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.
Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước
Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: “… tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga 7, 29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã củng cố niềm tin của họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: “Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14, 2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói:“Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
Qua lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được thánh Phaolô nói nhắc đến: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl 3, 20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta, nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ mất nữa, nơi mà: “trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm”.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).
Như vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và đến tận cùng trái đất…
Truyền giáo là bản chất của chúng ta
Nếu trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta:“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! ” (1Cr 9, 16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời, mọi nơi.
Vì thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có tính khả tín.
Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, ngài nói: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).
Thật vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi sống là chuyện khác!
Trong thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng nhân của niềm hy vọng, ngài nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).
Ngoài ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm, dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho thấy: “không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ”; hay “không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh”. Là kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta: “ngửi thấy mùi chiên”.
Lạy Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen. [Mục Lục]
7 .Nhìn Trời
ĐTGM. Giuse Ngô quang Kiệt
Con người thường có hai thái độ sống đối nghịch nhau. Một bên là những người chỉ biết có việc đạo. Sống dưới đất nhưng lòng trí để cả ở trên trời. Không tha thiết gì với những người chung quanh. Không tham gia những sinh hoạt xã hội. Khinh chê tất cả những giá trị ở đời này. Ngược lại, bên kia là những người sống như chỉ biết có việc đời. Chỉ coi trọng những giá trị vật chất. Chỉ biết có đời này. Sống là còn. Chết là hết. Cả hai thái độ đều bất cập.
Việc Đức Giêsu lên trời và những lời Ngài truyền dạy trước khi từ giã trần gian giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn đối với trời và đối với đất.
Đức Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác.
Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh.
Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.
Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với súc vật. Súc vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại.
Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ.
Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời.
Chính Đức Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đấy. Đi đến đâu là gieo yêu thương đến đấy.
Hôm nay Chúa cũng sai các môn đệ và chúng ta đi gieo Tin Mừng khắp thế gian. Hãy đi làm mọi việc tốt đẹp cho mọi người.
Làm việc tốt đẹp ở trần gian đó là góp phần xây dựng nước trời. Góp phần xây dựng trần gian đó là dọn chỗ ở trên nước trời. Trần gian không phải là nơi cho ta bám víu vì không vĩnh cửu. Nhưng trần gian là cơ hội cho ta đạt tới nước trời.
Chính vì thế, người môn đệ của Chúa phải sống giữa trần gian, phải yêu mến trần gian, phải xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.
Tuy nhiên người Kitô hữu làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết nỗ lực xây dựng trần gian trong niềm mong đợi hạnh phúc nước trời. Amen.
Gợi ý chia sẻ:
1) Tin có thiên đàng. Điều này có quan trọng đối với bạn?
2) Người môn đệ của Chúa phải có thái độ nào đối với của cải vật chất?
3) Khi ngắm thứ hai mùa mừng, đọc “Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”, bạn nghĩ gì? Bạn phải sống làm sao để thực hiện lời cầu nguyện này? [Mục Lục]
8. Anh Em Hãy Đi…
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
- Phải chăng công việc cứu thế của Đức Giêsu đã chấm dứt kể từ khi Ngài từ giã các tông đồ để về trời? Nếu việc ấy còn tiếp tục thì tiếp tục thế nào, và do ai thực hiện? Người ấy có phải là bạn, là tôi không?
- Đức Giêsu có cần ta và có mời gọi ta cộng tác với Ngài trong việc cứu thế của Ngài không? Ngài muốn ta làm gì để cộng tác với Ngài?
- Nếu Đức Giêsu muốn yêu anh chị em ta bằng trái tim của ta, muốn phục vụ họ bằng đôi tay của ta, muốn rao truyền Tin Mừng cho họ bằng miệng lưỡi của ta, bạn có sẵn sàng cho phép Ngài không?
Suy tư gợi ý:
- Để cứu con người, Thiên Chúa cần họ cộng tác với Ngài
Hôm lễ Giáng Sinh, chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Đức Giêsu giáng trần, bắt đầu cuộc đời làm người của Ngài. Hôm nay chúng ta đọc bài Tin Mừng nói về việc Ngài thăng thiên, kết thúc cuộc đời tại thế của Ngài. Ngài đến thế gian – vừa với tư cách một vị Thiên Chúa vô hạn và toàn năng, vừa với tư cách một con người đầy giới hạn và bất lực – để phục vụ con người, hầu trả lại cho con người thứ hạnh phúc vĩnh cửu đã bị nguyên tổ con người đã làm mất. Nhưng Ngài không thể làm chuyện này một mình được.
Khi dựng nên con người và cùng lúc ban hạnh phúc nguyên thủy cho con người (lúc ấy con người chưa có), Thiên Chúa không cần ý kiến hay sự cộng tác của con người. Nhưng khi con người đã hiện hữu, nhất là khi họ đã lạm dụng chính tự do Thiên Chúa ban để chống lại Ngài và làm mất đi hạnh phúc của mình, thì Ngài không thể tự mình chuộc lại hạnh phúc ấy cho con người mà không cần đến sự cộng tác tự nguyện của họ. Tương tự như khi sinh ra ta, cha mẹ không cần đến ta, nhưng một khi đã có ta, thì có rất điều ích lợi cho ta các ngài không thể làm một mình mà không cần ta cộng tác vào. Chẳng hạn các ngài có thể đem đồ ăn đến tận miệng ta, giúp chúng ta đủ mọi phương tiện để học hành, nhưng ta có ăn uống học hành hay không thì hoàn toàn do ta. Cha mẹ không thể ăn uống, học hành thay cho ta được. Cũng vậy, Thiên Chúa không thể cứu chuộc ta, lấy lại hạnh phúc đã mất cho ta mà không cần đến sự hợp tác của ta. Để cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã làm tất cả những gì Ngài có thể làm được qua Đức Giêsu. Tuy nhiên, vẫn còn lại một phần rất nhỏ mà chính con người phải làm, không ai làm thay được.
Nhưng làm sao con người ý thức được điều đó để cộng tác với Ngài hầu được cứu rỗi và hạnh phúc? Đức Giêsu có làm được điều ấy không? Làm sao Ngài làm được điều ấy cho từng người trên thế giới từ thế kỷ này sang thế kỷ khác?
- Để loan báo ơn cứu độ, phục vụ con người, Đức Giêsu mời gọi ta cộng tác tiếp tay với Ngài
Đức Giêsu đến thế gian với mục đích ở với con người, chia sẻ thân phận đầy đau khổ của họ, xoa dịu những nỗi đau, săn sóc và chữa lành mọi căn bệnh cho họ, nhất là đem lại nguồn ủi an, hạnh phúc cho họ. Ngài muốn phục vụ toàn thể con người, đem ơn cứu rỗi đến cho họ không trừ một ai. Nhưng thế giới của con người thì bao la trải dài suốt mấy chục thế kỷ, còn Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm thật ngắn ngủi, tại đất nước Do Thái quá chật hẹp. Làm sao Ngài có thể đến với từng người, phục vụ từng người không trừ ai như Ngài mong muốn được? Ngài có phương cách của Ngài, đó là mời gọi những người theo Ngài, những môn đệ của Ngài trong mọi thế kỷ, mọi thế hệ loài người cộng tác tiếp tay cho Ngài, trong đó có bạn, có tôi, cùng bao nhiêu Kitô hữu khác. Ngài lại mời gọi và đòi hỏi sự cộng tác.
Vì thế, trước khi từ biệt các môn đệ để về với Chúa Cha, Đức Giêsu đã trăn trối cho các ông di chúc này: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Đó không phải chỉ là lời mời gọi, mà là một lệnh truyền không chỉ cho 12 môn đệ đầu tiên của Ngài, mà cho tất cả những môn đệ thuộc tất cả những thế hệ sau, nghĩa là cho tất cả những ai theo Ngài. Vì thế, việc loan báo Tin Mừng hay phúc âm hóa môi trường mình sống, làm cho mọi người theo Đức Giêsu, thành môn đệ của Ngài, rửa tội cho họ, nhất là sống tinh thần yêu thương mà Ngài đã truyền dạy là bổn phận của mọi Kitô hữu.
- Đức Giêsu mong được tiếp tục yêu thương và phục vụ con người qua bản thân và đôi tay của ta
Sứ mạng của Đức Giêsu thật vĩ đại, để hoàn tất sứ mạng ấy, Ngài muốn hiện diện một cách cụ thể bằng xương bằng thịt tại trần gian để sống với mọi người, chia sẻ đau khổ với mọi người thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc, mọi quốc gia. Ngài muốn trực tiếp nói với mỗi người, phục vụ, săn sóc, an ủi, xoa dịu và chữa lành những nỗi đau, những căn bệnh của mỗi người, nhất là đem lại nguồn ủi an và hạnh phúc cho họ. Nhưng trong thực tế, Ngài chỉ sống tại trần gian một thời gian hết sức ngắn ngủi. Vì thế, để tiếp tục công việc ấy, Ngài muốn hiện diện ở trần gian một cách khác, một cách gián tiếp, qua sự hiện diện của ta. Nghĩa là Ngài muốn yêu thương mọi người bằng trái tim ta, suy nghĩ tìm ra giải pháp cho mọi vấn đề của con người bằng khối óc của ta, phục vụ mọi người bằng đôi tay của ta, đến với mọi người bằng đôi chân của ta, nói với mọi người, báo tin vui cứu độ cho mọi người bằng miệng lưỡi của ta. Ngài mong ta trở nên một dụng cụ của Ngài, tùy ý Ngài sử dụng hầu thực hiện chương trình của Ngài. Nếu Ngài đã là hiện thân của Thiên Chúa Cha giữa con người, thì Ngài cũng muốn ta là hiện thân của Ngài giữa những người sống chung quanh ta, trong gia đình ta, giữa xã hội, trong lòng thế giới. Nếu cách đây hơn 2000 năm, Ngài đã là Em-ma-nu-en, tức Thiên Chúa ở giữa loài người qua con người Đức Giêsu, thì hiện nay, Ngài cũng muốn tiếp tục làm như thế, nhưng lần này qua con người mỗi chúng ta.
- Hãy trở nên hiện thân của Đức Giêsu ở trần gian, giữa những người sống chung quanh ta
Chúng ta có thể trở nên hiện thân của Đức Giêsu ở trần gian, miễn là chúng ta có tình yêu đối với Ngài, với mọi người, và muốn trở nên hiện thân của Ngài giữa thế giới. Để làm được điều ấy, chúng ta chỉ cần ý thức rằng mình chính là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa (St 1,26.27; 9,6; Ep 4,24), là con cái Thiên Chúa (Lc 20,36; Rm 8,14.16; Gl 3,26), và mang trong mình bản tính thần linh của Ngài (2Pr 1,4). Vì thế, ngay từ bản chất, một cách nào đó, chúng ta đã là hiện thân của Thiên Chúa rồi. Chỉ có một điều đáng tiếc là nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với bản chất cao cả đó. Chúng ta còn sống một cách hèn hạ, nhát đảm, bần tiện, ích kỷ, chỉ vì chúng ta chưa ý thức được phẩm chất thần linh cao quí của mình. Chúng ta giống như một hoàng tử con ruột của một ông vua, nhưng vì sống trong môi trường dân giã lâu năm nên đã quên đi nguồn gốc cao quí của mình, nên sẵn sàng đem thân làm tôi tớ người khác, làm những điều không xứng hợp với phẩm giá mình.
Đức Giêsu muốn mỗi người chúng ta ý thức được phẩm chất cao cả của mình, đồng thời mời gọi ta trở nên hiện thân của Thiên Chúa, của Ngài nơi những người chung quanh chúng ta, để qua chúng ta, Ngài yêu thương họ, phục vụ họ. Chúng ta sẽ trở nên hiện thân của Thiên Chúa khi những người chung quanh cảm nghiệm được tình yêu thương của ta đối với họ, qua việc quan tâm, chăm sóc, hy sinh vì hạnh phúc của họ.
Lời mời gọi ấy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã nói với chúng ta dưới một hình thức khác, một lệnh truyền, một sứ mạng được trao phó: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Làm cho muôn dân trở thành môn đệ Chúa, cũng là giúp họ ý thức được họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái Ngài, và là anh em của nhau. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Đức Giêsu truyền dạy chính là tìm cách làm cho họ yêu thương nhau, phục vụ nhau. Vả lại yêu thương nhau chính là nét đặc trưng nhất, là tiêu chuẩn bảo đảm nhất chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Chính khi chúng ta sống như thế, sống như những hiện thân của Đức Giêsu ở giữa anh chị em ta, thì ta đã làm cho câu nói sau đây của Đức Giêsu trở thành hiện thực và cụ thể: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Chúng ta hãy trở nên Giêsu hay Em-ma-nu-en ở giữa anh chị em mình!
Cầu Nguyện
Tôi thường nghe Thiên Chúa nói qua lương tâm tôi:
“Cách đây hơn 2000 năm, Cha đã rao truyền chân lý, bày tỏ tình yêu và phục vụ săn sóc cho một số rất ít người Do Thái thời ấy qua con người Giêsu, Con của Cha. Cha vẫn muốn tiếp tục làm công việc yêu thương săn sóc ấy cho tất cả mọi người không trừ ai ở trần gian này. Nhưng lần này không phải qua con người Giêsu nữa, mà qua bản thân con và nhiều người khác như con. Con có đồng ý để Cha yêu thương họ bằng trái tim con, và phục vụ họ bằng đôi tay của con không?” [Mục Lục]
9. Hiệp Nhất Trong Tin Yêu
Lam Thy
Suy niệm Lời Chúa Chúa nhật VII/PS-A, nếu chỉ đọc bài Tin Mừng (Mt 28, 16-20) thì không thấy tác giả trình thuật biến cố thăng thiên, mà chỉ trình thuật Lời Đức Giê-su sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Để được rõ hơn phải suy niệm bài đọc 1 (Cv 1, 1-11) và bài đọc 2 (Ep 1, 17-23). Bài đọc 1 trích dẫn Lời tựa sách Công vụ Tông đồ (Cv 1, 1-5) và biến cố Thăng thiên (Cv 1, 6-11). Đặt tâm trạng mình vào tâm trạng các Tông đồ cứ “đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi”, kẻ viết bài này bỗng băn khoăn tự hỏi “Trời ở đâu?” Chợt nhớ đến một truyện cổ (Truyện “MẶT TRỜI XA GẦN” trong Cổ Học Tinh Hoa – Quyển thượng). Truyện kể rằng:
Một hôm Đức Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy 2 đứa trẻ cãi nhau, hỏi tại sao, thì 1 đứa nói rằng: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở gần ta hơn, và buổi trưa ở xa ta hơn”. Nó lý luận: “Mặt trời lúc mới mọc to như cái bánh xe, đến giữa trưa nhỏ như cái bát ăn, thì chẳng phải xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì?” Còn một đứa cãi: “Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, và buổi trưa ở gần ta hơn”. Nó lý luận: “Lúc mặt trời mới mọc thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, đó chẳng phải gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì?” Đức Khổng Tử nghe nói không giải quyết được ra làm sao. Hai đứa bé cười bảo: “Thế thì cho ông là người đa tri thế nào được” (Liệt Tử). Một nhà thông thái bậc thầy như Khổng Tử mà còn “bó tay.chấm.com” đến nỗi bị trẻ chê không phải là người biết nhiều (đa tri), huống hồ là bàn dân thiên hạ bình thường!
Chính vì thế, Thiên Chúa mới phải ”dùng sự bất toàn của con người để công bố Lời Toàn năng, dùng miệng lưỡi nhơ uế của con người để nói Lời Chí thánh”. Nói cách khác, với sự bất toàn của con người, nếu không được vén tấm màn che bí mật ra thì mãi mãi vẫn ở trong u tối, không thể hiểu được những điều kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Không hiểu biết thì làm sao mà mộ mến, tin yêu? “Vô tri bất mộ” là điều tất nhiên thôi. Vì thế, Thiên Chúa phải mạc khải (vén tấm màn lên) để con người hiểu rõ, mà muốn mạc khải thì phải làm sao để con người nhìn thấy tận mắt họ mới tin (“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn ĐỨC CHÚA thì thấy tận đáy lòng.” (1Sm 16, 7)
Mấu chốt vấn đề chính ở điểm này. Vâng, hiện tượng “Nói xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.” (Mc 16, 19) đã được diễn ra rất cụ thể trước mắt tất cả mọi người hiện diện, cũng chỉ cốt để họ tin rằng Đức Giê-su đã chết, đã sống lại và lên trời. Rõ ràng Thiên Chúa thương yêu loài người như con cái, Người luôn luôn muốn đến với con cái để thể hiện tỉnh yêu vô bờ bến đó. Khốn nỗi loài người lại bất toàn, u mê tăm tối, không hiểu ra được ý nghĩa cao quý vô song đó. Vì thế, tấm màn che phủ bí mật cần phải được vén lên, được mở ra (mạc khải). Quả thật “mạc khải là con đường Thiên Chúa đến với con người”, nên chi con người cần phải đáp trả tình yêu vô lượng đó, mà cách đáp trả vẹn toàn nhất chính là niềm tin, là đức tin vậy. Vâng, “Đức tin là con đường con người đến với Thiên Chúa, là sự đáp trả của con người trước tiếng nói của Thiên Chúa” (Thánh Au-gus-ti-nô).
Còn một điểm nữa khi suy niệm bài Tin Mừng hôm nay khiến phải lưu tâm. Đó là trong khi các thánh sử đều tường thuật sơ qua việc Chúa lên trời, thì chỉ có thánh Lu-ca trong sách Tông Đồ Công Vụ có tường thuật thêm một chi tiết rất đáng để suy niệm, đó là “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 9-11).
Các Tông đồ đã được “thực mục sở thị” mầu nhiệm thăng thiên của Thầy mình, cũng tức là đã được củng cố đức tin vững vàng về mầu nhiệm Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, xuống thế làm người, chịu khổ hình thập giá vì tội lỗi loài người, đã sống lại và thật sự lên trời vinh hiển. Những việc làm, những Lời dạy của Thầy đã là hiện thực 100%. Vậy thì còn “đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy” làm chi nữa, bởi chính Thầy đã dạy “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 20). Lời thiên sứ “Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” cũng đã được Thầy nhắn nhủ từ trước: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14, 2-3). Người còn nói rất rõ chính Người sẽ đến: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người.” (Mt 25, 31).
Biến cố Chúa lên trời chỉ là một cách Thiên Chúa mạc khải cho con người dễ hiểu mà thôi. Còn thực chất trời không phải là một không gian cố định nào và kể từ khi Chúa phục sinh thì Người không còn bị giới hạn bởi thân xác phàm tục nữa, mà là cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời Người còn ở khắp mọi nơi “cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ nữa”. Như vậy là đã rõ, trời không phải là ở chỗ này hay chỗ kia, ở trên cao hay dưới thấp, mà là ở khắp mọi nơi. Chúng ta vẫn thường nói khi con người sống thánh thiện là đã nên thánh giữa đời, lên thiên đàng ngay ở trần gian này. Và quả thật chỉ có như thế thì mới có “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) được.
Vấn đề quan trọng không phải là cứ đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy, để mà tiếc nuối, hoặc để mà thắc mắc xem trời ở đâu và Thầy lên trời sẽ cư ngụ chỗ nào (kiểu như những con người ở thế kỷ XXI này thắc mắc); mà là hãy nhớ lại lời Thầy đã truyền: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.” (Mt 28, 19). Vì thế, nên “Các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.” (Mc 16, 20). Sở dĩ các Tông đồ tiên khởi làm được như vậy, chính là nhờ các ngài đã có một lòng tin sắt đá vào Thầy của mình, bởi “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.” (Mc 16, 17-18).
Có thể kết luận, khi Thiên Chúa đến với con người bằng con đường mạc khải, thì tại sao con người lại không đến với Thiên Chúa bằng con đường đức tin? Vâng, chính đức tin là con đường giúp con người tìm gặp Thiên Chúa để khám phá ra một số ‘con đường giúp nhận biết Người. Những con đường này còn được gọi là “bằng chứng về sự hiện hữu của Thiên Chúa”, không theo nghịa bằng chứng khoa học tự nhiên, nhưng theo nghĩa những “luận chứng đồng quy và có sức thuyết phục”, giúp con người biết chắc có Thiên Chúa.” (Giáo lý HTCG, điều 31). Đồng thời với việc tin và hành động, người Ki-tô hữu còn phải sống chứng tá bằng cách sống cụ thể trong tin yêu và hiệp nhất với anh em trong Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ước được như vậy.
Ôi! Lạy Chúa, xin cho con biết sống đức tin của mình một cách chân thực. Vì quả thật rất nhiều khi con tuyên xưng đức tin của mình thật hùng hồn trước mặt mọi người, nhưng đời sống con lại chứng tỏ con chẳng tin bao nhiêu, thậm chí có nhiều khi con còn hoài nghi cả chính mình về một niềm tin con đã chọn cho đời mình! Vậy mà con lại luôn miệng chia sẻ niềm tin ấy cho mọi người, khiến người nghe cảm thấy những lời con nói chỉ là những sáo ngữ trên môi miệng, những lời giả dối… Thật chẳng khác “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, ). Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa giúp con thật sự sống những điều con tin, và rao giảng những điều con sống. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen. [Mục Lục]
Sưu tầm