Bài hát và Suy niệm (11.12.2022 – Chúa Nhật III Mùa Vọng năm A)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng

 Lời Chúa: Is 35,1-6a.10, Gc 5,7-10, Mt 11, 2-11

Bài đọc 1: Is 35,1-6a.10

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,
vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,
hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò.
Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,
vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa,
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.
Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.
Hãy nói với những kẻ nhát gan : “Can đảm lên, đừng sợ !
Thiên Chúa của anh em đây rồi ; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em.”
Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.
aBấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.

Bài đọc 2: Gc 5,7-10

Bài trích thư của thánh Gia-cô-bê tông đồ.

Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá : họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa.  Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.  Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa.  Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 11,2-11)

Đang ngồi tù, ông Gio-an nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng :  “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?”  Đức Giê-su trả lời : “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe :  Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng,  và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

 Họ đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng : “Anh em ra xem gì trong hoang địa ? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng ?  Thế thì anh em ra xem gì ? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng ? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua.  Thế thì anh em ra xem gì ? Một vị ngôn sứ chăng ? Đúng thế đó ; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.  Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng : Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.

 “Tôi nói thật với anh em : trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.”

Còn hơn cả ngôn sứ nữa

Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy,
vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,

Lời Kinh vang lên trải tiếng chuông ngân vang vọng báo Thánh Lễ chiều trong bình an của miền quê êm ả đầy hạnh phúc. Tiếng chuông ngân của mùa vọng ngập đầy phấn khởi và hân hoan. Những “sa mạc” khô hạn nước sủng ân, các miền “đồng khô cỏ cháy” rụi tàn sự sống và sự thiện. “Vùng đất hoang” vu bởi tội lỗi, tất cả giờ bắt đầu đổi mới, tái sinh và trổ ra bông trái của thần khí mang sự sống vĩnh hằng. Lời mở đầu của bài đọc một, cho ta thấy sắc màu hân hoan của việc giờ đợi chờ đã gần hết. Vì

hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò.

Cả câu Kinh là Lời bí nhiệm, ẩn tàng dấu vết của thần khí. Đối lại với sắc màu nhân gian qua những từ ngữ mang hình ảnh của khô hạn, rụi tàn, chết chóc… ở hai câu mở đầu. “hãy tưng bừng” Một lời mời gọi từ đâu? Phải chăng từ Thiên Chúa, từ dịu ngọt đầy âu yếm của tình Cha trên trời! Thân phận người từ chỗ hoang tàn ân sủng, đi đến thất sủng và phải chết. Giờ đây sức sống vụt trồi lên tưng bừng để trổ hoa, mà độc đáo là trổ sắc hoa tinh khôi màu huệ trắng trinh nguyên, tô điểm cho trần tục bớt đi tục lụy. Hoa huệ, loài hoa mang hương thơm thanh khiết, tỏa hương thơm lừng sự khiết trinh thiên giới đối lại với những dục vọng đê hèn. Cho niềm vui nô nức cả cõi lòng đến phải “hân hoan múa nhảy reo hò”.

Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng,
vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.
Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của ĐỨC CHÚA,
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.

Khổ Kinh nầy làm rõ hơn nhưng ý nghĩa nêu trên, cõi đời bị xói mòn như sa mạc, bây giờ được “tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng”, tức sức sống dồi dào của rừng rậm nguyên sinh. Hay đại ngàn xanh ngát màu ân sủng của núi Các-men, soi mình trước màu lúa chín trĩu vàng của đồng bằng Sa-ron… Từ đó, con người nhận ra “ánh huy hoàng của Đức Chúa” thật tuyệt diệu với những lời giới thiệu vô cùng độc đáo chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ Thiên Chúa nhãn tiền nhờ mầu nhiệm nhập thể.

Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng.

Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em.”

Chúng ta thấy lời Chúa ở đây có gì đó vừa bí ẩn, vừa ngồ ngộ. Lời Kinh đang nói về cảnh sắc nhân gian bị hoang tàn ân sủng, rồi bỗng chốc tả chồi non đơm nẩy lộc tình Chúa. Đến khổ Kinh này lại nói không chủ ngữ, ai sẽ làm cho “những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ”, “những đầu gối bủn rủn được vững vàng”?  Chưa hết, người nào sẽ củng cố “những kẻ nhát gan” cho lòng được can đảm…?

Ai thế! Có chủ ý chăng thần khí của Thánh Thần về nhân vật bí ẩn kia?!

Một sự kích thích tâm linh kẻ kiếm tìm chương trình của Thiên Chúa, và những ai khao khát Nước Trời. Khi chủ ý kiếm tìm, chúng ta sẽ nhận ra nhân vật mà ngôn sứ I-sai-a nói đến trong khổ Kinh trên là Đấng Thiên Sai – Con Thiên Chúa – Đức Ki-tô Giê-su. Người sẽ tái tạo tình trạng hoang toàn ân sủng cho nhân loại, và ban ơn sức mạnh cho những ai tin vào Người.

Cho nên, hai câu cuối cùng khổ Kinh trên hé mở cho ta được một chút, xác định đến thời kỳ Thiên Chúa sẽ “thưởng công, phạt tội” và “Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Những điều kỳ diệu thật an ủi, thật lạ lẫm, thật hạnh phúc sẽ được thực hiện cho con người

Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được.

Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.”

Sau khi lời Chúa dần giới thiệu và phát họa chương trình của Thiên Chúa, lại đi đến công việc trọng tâm: tiên báo về Đấng Mê-si-a, khi Người đến Người sẽ làm cho tình trạng thể lý và tâm linh của con người vốn đui mù, què quặt được lành lặn. Sự chữa lành này không dừng lại, ân sủng còn đưa đời sống con người đến sự viên mãn hơn trong ân phúc

Những người được ĐỨC CHÚA giải thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất
.”

Những lời trên trở thành lời tiên báo nhiều hơn về công việc cứu thế của Đấng Mê-si-a, dẫn chúng ta vào nội dung của bài đọc hai. “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” Kiên nhẫn ở đây không còn là một thái độ sống, một cách ứng xử của con người trong cuộc sống. Mà là một nhân đức vừa tự nhiên vừa siêu nhiên. Tự nhiên, bởi vì sự kiên nhẫn là do đức nhẫn nại mà có, còn siêu nhiên là bởi đức nhẫn nại đợi chờ này lại phát xuất từ đức tin, một nhân đức đối thần. Và đối tượng của đức tin lại là Thiên Chúa Nhập Thể. Nói cách khác, linh hồn nhẫn nại chờ đợi Thiên Chúa đến nhập thể và nhập thế để hoàn tất lời Thiên Chúa hứa với tổ tông và các tổ phụ.

Bài đọc hai còn dạy chúng ta cần có thái độ sống như thế nào khi phải đợi chờ Chúa đến “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.” Thánh Phao-lô rất tinh tế khi cho người tín hữu biết phải làm gì trong khi đợi chờ Chúa đến cách chung. “Đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau” là một điều lệ phải giữ khá nhiệm nhặt và khó khăn so với tính tự nhiên của con người. Đồng nghĩa phải sống thật bác ái với anh em, hết mực yêu thương và tôn trọng lẫn nhau, cùng đón nhận Thánh Ý Chúa quan phòng một cách trọn lòng vâng phục. “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa” tức là ngày cánh chung Chúa Giê-su trở lại lần thứ hai đã rất gần. Nhưng thật ra lời thánh Phao-lô chỉ áp dụng được cho người đang sống tiến đức, còn những ai sống ở bậc sống “đạo đức bình dân”, hay thấp hơn sẽ rất khó thực hiện. Điều này nhắc nhở người tín hữu phải cố gắng nhiều trong đời sống đức tin, nhẫn nại khiêm hạ xin Chúa ban ơn có được ba nhân đức đối thần cách vững vàng mạnh mẽ.

Còn bài Phúc Âm đúc kết tinh thần của bài đọc một và hai, cho chúng ta sự khẳng định chính Chúa Giê-su là Thiên Chúa Nhập Thể. Chúng ta dừng lại một chút để tìm hiểu một chi tiết bên lề: Bối cảnh thánh Gio-an Tẩy Giả ở trong tù bảo các môn đệ của ông đi hỏi Chúa Giê-su có phải là Đấng Mê-si-a không “Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Thời nay có nhiều quan điểm lệch lạc, hiểu sai về vị ngôn sứ cao trọng nhất trong con cái loài người “Tôi nói cho anh em biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an” (Lc 7,28a) Các vị đó đã đem não trạng bị tục hóa của mình để suy diễn về thánh Gio-an Tẩy Giả, vô tình hay hữu ý rơi vào cảnh “lấy dạ chim sẻ so bụng phượng hoàng”; “lấy tâm tiểu nhân đo hồn quân tử”. Nên mới cho rằng “do thánh Gio-an vì bị ở tù nên tâm trạng hoang mang, đức tin yếu xuống, mới sai các môn đệ đi gặp Chúa Giê-su để xác minh thân phận của Người.” Nếu đức tin của thánh Gio-an Tẩy Giả yếu như vậy, làm sao ông xứng được với lời Kinh “Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến, và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông.” (Mc 9,13)

Sách Thánh đã chép về ông” có nghĩa,

– Điểm thứ nhất, tức thánh Gio-an Tẩy Giả mang thần khí Ê-li-a đã được Thiên Chúa tiền định. Một sự hữu định trong thánh ý hữu định tuyệt đối, để sức mạnh tà thần có can thiệp cũng không thể làm sai được.

– Thứ hai, có được thánh ý Chúa hữu định tuyệt đối, mới được tiên báo trong Kinh Thánh. Là Sách Thánh mà “một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5,18).

– Thứ ba, như đã nói ở trên, Chúa Giê-su khen vị Thánh Tiền Hô “trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an”. Thánh Gio-an mang thần khí mạnh mẽ của con người được đi về trời bằng xe ngựa lửa mà không phải đi qua cái chết như phàm nhân. Lẽ nào lại yếu đuối đức tin đến hoài nghi Đấng mà mình đã được chính Chúa Thánh Thần xác minh?! “Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (Ga 1,32-33)

Trở lại với chủ đề của bài Phúc Âm, lời Chúa cho biết Chúa Giê-su chữa lành cho người què, người câm, người mù, người điếc… Nhờ đó, họ nói được, đi được, nghe được, mắt sáng ra thấy được tỏ tường chân dung cuộc sống. Ngoài những ý nghĩa thực tiễn theo nghĩa đen, còn có ẩn ý Chúa cũng chữa lành cả những người thiếu thốn sủng ân, nghèo nàn tư chất, đui mù, què quặt trên hành trình thiêng liêng. Đấng Cứu Thế đến nhân gian không chỉ để cho chúng ta được sống lại sự sống đời đời, mà còn cho chúng ta được sống dồi dào ân sủng thần khí (x. Ga 10,10). Loại sủng ân đưa những người vững tin lên đỉnh cao quang của bậc thánh nhân, dự phần vinh phúc vĩnh hằng thật cao trọng trên chốn thiên đàng.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Chúa đã đến để cứu chúng ta thoát khỏi sự chết

1. Ghi nhớ:

“Người mù được xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…”  (Mt 11, 5).

2. Suy niệm:

Có một em bé nọ sinh sống ở vùng quê nông thôn, được ông bác ở trên thành phố cho lên nhà chơi nhân dịp kỳ nghỉ hè. “Vì lạ nước lạ cái” mà lại muốn lân la đi chơi cho biết đó biết đây, thế nên đến lúc phải trở về thì cậu  không còn nhớ được đường  để mà về nhà của ông bác mình nữa.

Thế rồi, đang lúc bối rối cậu thấy một người mang mắt kiếng, ăn mặc rất lịch sự, liền nói: Thưa Thầy xin cho con hỏi đường nào thì đi đến nhà ông chánh Thanh?

Ngươi lạ tận tình trả lời: Em cứ đi đến tượng đài Chúa Cứu Thế đàng kia, sau đó em rẽ phải và đi khoảng tám mươi mét là sẽ đến căn nhà mà em muốn tìm.

Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, tường thuật lại việc thánh Gioan Tiền hô, mặc dù đang bị cầm tù nhưng Ngài vẫn muốn thực hiện vai trò là người giới thiệu Chúa đến cho các môn đệ của Ngài cũng như dân chúng. Nên ông đã sai môn đệ của mình đến hỏi Chúa Giêsu có đúng Ngài là Đấng phải đến trong thế gian không? Và ông đã được Chúa xác nhận cách gián tiếp:  “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:Người mù  được xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch,  kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…”

Như vậy,  qua câu nói này của Chúa thì đích thực ơn cứu độ đã đến với nhân loại, loài người sẽ không cần trông ngóng một đấng nào khác. Giờ đây thì nhân loại hãy mừng vui hân hoan  lên, vì Đấng cứu thế đã đến kề bên rồi. Chính Người sẽ chữa lành chúng ta khỏi mọi bệnh tật phần xác và cũng sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích,  tật nguyền tâm hồn.

Chúa đã đến ngay trước cửa nhà của chúng ta rồi và Ngài gõ cửa. Điều quan trọng là chúng ta có sẵn sàng ra mở cửa để đón rước Người vào nhà mình không? Ơn Cứu độ đã được trao ban việc còn lại thuộc về chúng ta. Chúng ta hãy đưa đôi bàn tay ra thành kính đón nhận.

Chúa đã đến để cứu chúng ta thoát khỏi sự chết, rồi cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Vậy còn ngăn trở nào khiến chúng ta không đến được với Ngài để nhận lãnh ân huệ đó?

Bàn tay của  Chúa đã đưa ra để kéo chúng ta thoát khỏi hố sâu sự chết.Việc còn lại là chúng ta hãy đặt bàn tay của mình vào bàn tay của Ngài hầu lãnh nhận được ơn cứu độ.

3. Cầu Nguyện:

 Lạy Chúa,  trong cuộc đời của con, con đã nhận lãnh biết bao ơn lành của Ngài, nhưng con đã sống cách sống vô tình dửng dưng trước những ân tình vô biên đó. Con thành tâm hối lỗi. Xin đốt lửa sốt mến, kính tin trong tâm hồn con, để mỗi ngày con sống xứng đáng hơn với tình yêu hải hà mà Chúa đã dành cho con. Amen.

4. Sống Lời Chúa:

Tôi sẽ luôn đến tắm gội sạch sẽ nơi giếng nước tòa Cáo Giải để mọi ngày được đón nhận Linh Dược Trường Sinh của Ngài.

Đaminh Trần Văn Chính

***

MỤC LỤC

1. Bác ái

2. Vở kịch dang dở

3. Đấng sẽ đến

4. Dung mạo Đức Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt

5. Suy niệm của ĐGM. GiuseVũ Duy Thống

6. Mạnh sức để đạt được Nước Trời – Anmai

7. Còn phải đợi ai?

8. Lộ tẩy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

9. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến

1. Bác ái 

Trong một cuộc hội thảo dành cho các sinh viên tại Hoa Kỳ, người ta đã đưa ra một đề tài như sau: Lòng bác ái trên thế giới. Có một sinh viên không phải là công giáo đã hỏi một vị tuyên uý để xin ngài cho biết Giáo Hội Công giáo đã làm được những gì cho các người nghèo trên thế giới? Vị tuyên uý lúc đầu đã tỏ ra bỡ ngỡ, rồi ngài cho anh biết về những hoạt động bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới: hàng trăm ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân đang làm việc cho mọi tầng lớp dân chúng. Thế rồi anh sinh viên buột miệng kêu lên: tại sao người Công giáo không nói cho chúng tôi hay về lòng bác ái này trên trái đất? Sự thật đáng buồn là nhiều người Công giáo không có ý tưởng gì vềt những công cuộc bác ái vĩ đại mà gia đình con cái Chúa đã thực hiện.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay nói với chúng ta rằng: Gioan tiền hô sai một số môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay là chúng ta còn phải đợi chờ một Đấng nào khác? Chúa đáp lại: hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông đã nghe và đã thấy: Người mù được thấy, người què được đi, người chết được sống lại và người nghèo khó được đón nhận Tin Mừng. Đó là những dấu chỉ cho biết Chúa Giêsu là Đấng thiên sai. Đó cũng là những dấu chỉ đích thực của một Giáo Hội do Ngài thiết lập. Đồng thời đó cũng là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.

Đức Kitô ngày hôm nay vẫn còn thực hiện những phép lạ, đó là những phép lạ của lòng bác ái nơi những người tin theo Ngài. Người Công giáo chúng ta cần biết hơn về những gì Giáo Hội đang làm cho người nghèo trên toàn thế giới. Không phải để khoe khoang, nhưng để nhận thức rằng lòng bác ái là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Chẳng hạn ở Hoa Kỳ có hơn 700 bệnh viện công giáo với hơn 160.000 giường bệnh. Có hơn 100 cô nhi viện chăm sóc cho hơn 16.000 trẻ em. Có 432 viện dưỡng lão chăm sóc 43.000 người già cả. Cơ quan bác ái còn cung cấp cho 19.000 trẻ em có chỗ nuôi nấng. Đó mới chỉ ở Hoa Kỳ, nhưng công cuộc bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới thì rất bao la và rộng lớn. Đồng thời chúng ta cũng nên nhớ rằng đó chỉ là những việc bác ái công khai của Giáo Hội và chỉ có Chúa mới biết được tất cả những gì mỗi cá nhân người Công giáo chúng ta đang làm để xoa dịu sự nghèo đói túng khổ. Còn chúng ta, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc bác ái của Giáo Hội? [Mục Lục]

2. Vở kịch dang dở 

Có một văn sĩ, khi chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ là khởi đầu, chuẩn bị cho nhân vật chính xuất hiện, còn nhân vật chính ấy như thế nào thì chưa một ai được biết.

Toàn bộ Cựu Ước cũng giống như một vở kịch còn dang dở kể trên, trong đó nhân vật chính chưa hề xuất hiện. Mọi người đều bàn tán, đều mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả mới chỉ là sự chuẩn bị mà thôi. Còn Đấng Cứu Thế như thế nào, thì chưa một ai được biết.

Từ bối cảnh này, chúng ta hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Trên dòng sông Giođan có một khúc nước cạn, cách biển Chết không xa. Đây là chỗ dân chúng thường qua lại để buôn bán và trao đổi tin tức. Chính tại chỗ này, Gioan Tiền Hô đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Ông là ai? Ông có phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi hay không?

Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho những câu hỏi này. Ngài nói với dân chúng: Gioan là người mà Kinh thánh đã đề cập đến: Ta sai sứ giả Ta đi trước Con để dọn đường cho Con. Ngài cũng trả lời một câu hỏi khác được các môn đệ cua Gioan đặt ra cho Ngài: Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn pải đợi một Đấng nào khác?

Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu đã mượn lời tiên tri Isaia. Thực vậy, khi nói về Đấng Cứu Thế, Isaia đã đưa ra những dấu chỉ để mọi người nhận biết Ngài: Đó là người mù được thấy, kẻ què được đi, người điếc được nghe và kẻ câm sẽ reo vui. Chủ đích của Chúa Giêsu thực rõ ràng. Chính những phép lạ Ngài làm sẽ xác quyết Ngài là ai? Là Đấng Cứu Thế tiên tri Isaia đã loan báo. Ngài đến để thiết lập vương quốc của Ngài ở trần gian.

Tuy nhiên, như chúng ta đã biết: Vương quốc ấy đã được thiết lập rồi nhưng chưa hoàn tất. Ngài trao phó cho chúng ta tiếp nối công trình của Ngài, xây dựng và hoàn tất vương quốc của Ngài trên trần gian này. Vào ngày sau hết, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét chúng ta về công việc này.

Hiện giờ chúng ta đang sống giữa hai biến cố: Việc Ngài giáng sinh và việc Ngài trở lại. Nhiệm vụ chúng ta không phải là ngồi chơi xơi nước mà phải xắn tay áo lên, dấn thân vào công việc Chúa đã trao phó, khi Ngài đến lần đầu trong lịch sử.

Nói một cách cụ thể hơn, đó là chúng ta phải xây dựng Nước Chúa trên trần gian, phải đem tình thương để xoá bỏ hận thù, phải đem chân lý thay cho sự giả dối, phải xây dựng cái thế giới hôm nay theo tinh thần của Chúa. [Mục Lục]

3. Đấng sẽ đến 

Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay không?

Như chúng ta đã biết, Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ thế giới tù đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra câu hỏi: Thầy có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?

Câu hỏi này thoạt xem ra thì có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn đường của Gioan. Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông Giođan ông đã chẳng xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa cho Ngài. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự kiện lạ lùng sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, ông đã tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ những thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và phản lại những lời đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan trọng. Quan trọng không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ chi nữa, nhưng quan trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân, lưỡng lự và chưa dứt khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc câu trả lời và những lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan mọi thứ nghi ngờ còn đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ Ngài làm là một lý chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan báo Tin Mừng. Và sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.

Người Do Thái luôn trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng, không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.

Đức Thánh Cha Gioan XXIII thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian sẽ sắp đặt mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa, cũng như giúp chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã được thực hiện trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu người ta tưởng rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo hoàng. Thế nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết định triệu tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một luồng sinh khí mới.

Thánh Giacôbê tông đồ cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa đến. Như người nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của đồng ruộng. Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.

Thánh Vincentê luôn cảnh giác chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa dối những người thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận chúng ta hãy nhớ tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát. [Mục Lục]

4. Dung mạo Đức Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt 

Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.

Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.

Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:

1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.

Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.

2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.

Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.

Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.

Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.

Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.

Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.

Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.

Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.

Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?

2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?

3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội?

4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày? [Mục Lục]

5. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống 

MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG

(Trích trong ‘Nút Vòng Xoay’ – trg. 19)

Nếu khởi đầu Mùa Vọng là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì ở giữa lòng Mùa Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng lực mới cho một cuộc đời mới. Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả bằng một niềm vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để cùng với Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.

Vâng! Màu hồng. Nhưng không phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng không phải là thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà chính là màu hồng của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên sức sống và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.

Qua cách gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả của niềm hy vọng.

1) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một niềm vui chan hòa.

Không phải vô cớ mà thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình “Hãy vui lên!”cũng chẳng phải tình cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất cả đã là một hữu ý dàn dựng để làm nổi bật lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng không phải như hai nỗi niềm đặt cận kề nhau, mà như hai yếu tố tương tại vào nhau của cùng một nỗi niềm duy nhất kết nên đời sống Kitô hữu. Có hy vọng là có niềm vui.

Bởi có hy vọng nên đời tín hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời theo kiểu “cũng liều nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo dòng nước cuốn, mà là đón nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi. Họ không chấp nhận nhìn môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết nhận ra đó chính là nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và làm con Chúa. Cho dẫu cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao. “Trong khi chưa có được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những điều mình đang có”. Tôi muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là những mảnh đời chật hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách nới rộng đời mình ra.

Bởi có niềm hy vọng nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa. Trong đại dương không ai là một hòn đảo. Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là người lữ khách cô đơn. Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những kẻ đồng hành và đồng hành cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về. Cũng giống như tình yêu, hy vọng là rộng mở, là biết cho đi. Trong đổi chác, không ai có thể cho cái mình không có, nhưng trong niềm hy vọng, không ai có thể có được điều mà mình không biết cho đi. Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng niềm hy vọng biết cho đi thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ thường. Nỗi vui cho đi sẽ thành nỗi vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm hy vọng biết cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống triển nở sinh sôi.

Rõ ràng là với niềm hy vọng, cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ tinh ròng mà vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc, nhưng đã hồng hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm hy vọng.

Chắc cộng đoàn còn nhớ Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba ngày nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó là hình ảnh của một Giáo Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài miệng. Chính ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ là một nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp vào hàng vĩ nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn, Mẹ bảo: “Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm cảm thực tại Thiên Chúa”.

2) Niềm hy vọng đem lại cho đời tín hữu một chí bền chiến đấu.

Những lúc an bình, niềm hy vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách, niềm hy vọng lại trở nên sức mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy vọng không chỉ được xem là nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự chiến đấu trước những thách đố không thiếu trong đời.

Có những thách đố đến từ những nghịch lý trong đời sống đức tin thể hiện qua những câu hỏi “tại sao?” khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng. Như câu hỏi tại sao của Cựu Ước: “Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ lại cứ phây phây?”. Như câu hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt muốn làm tôi lại chẳng làm, còn điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”. Như câu hỏi về Giáo Hội: “Tại sao Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn cứ mãi ghi dấu bằng những cuộc phân ly?”. Như câu hỏi của các bạn trẻ Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan Phaolô II năm 1982: “Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo thành của Ngài lại có quá nhiều tội ác?”. Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao người ta cứ phải lo đề phòng đối phó mà không biết yêu thương nhau?”. Hay như câu hỏi mỗi người thường đặt ra với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó mọc còn nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?” Những câu hỏi ấy được đặt ra và còn được đặt ra mãi mãi. Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không tìm được giải đáp; nhưng sẽ không có câu trả lời đích thực nếu không nại đến niềm hy vọng vào điều toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống mai sau.

Có những thách đố đến từ những nghịch biến trong lối sống đạo như sự ly thân giữa giáo lý tốt lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín hữu, như cách sống thực dụng của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa đang có nguy cơ tràn lan, và phổ biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng dưng với đạo của một số kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai. Sẽ là dị ứng co cụm nếu chỉ thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết vươn lên khẳng định niềm tin.

Và cũng có những thách đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như tai nạn bất ưng, như sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề, như những thất bại nhiều mặt. Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của mình, nhưng sẽ là hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa thì ở đó vẫn cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.

Trọn trang Tin Mừng hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về một sự trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về Đấng Cứu Thế như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa nhân ái; công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa lúc mọi người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi môn đệ đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách đố ấy, nơi Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ cậy trông.

Niềm hy vọng chính là sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.

Tóm lại, với hiệu quả của niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống của tín hữu đã được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn cả chính nỗi niềm của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không chỉ là thiện hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no thỏa mà chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.

Và như thế, thiết tưởng đã đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?

Bài đọc thứ nhất nhắc nhở “Đừng sợ. Đừng sợ không có niềm hy vọng vì trước khi ta có thể hy vọng thì Chúa đã hy vọng vào ta. Đó là một hồng ân. Cũng đừng sợ mình mất niềm hy vọng như thể ta sống có một mình. Có một Đấng cùng sống với ta và Đấng ấy không dễ gì để mất ta đâu. Cũng đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá nhạt nhòa, bởi hy vọng là một công trình cả đời. Điều đáng sợ đáng ngại và đáng đau khổ nhất là “thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời người”, nghĩa là người ta khước từ hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do hoặc danh lợi thú.

Bài đọc thứ hai khuyến khích “Hãy vui lên!” Vui vì ta là niềm hy vọng trong mắt nhìn cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng thắp sáng cho anh em mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui thế mà cười một mình” như Trần Tiến trong ca khúc “Thành phố trẻ”, mà còn để chuyển tải đến môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.

Ai đã coi cuốn phim “Cuộc đời Chúa Cứu Thế” chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời và lời trao sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân dung của Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng hoàng. Không biết dụng ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa đem lại nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.

Mong rằng nụ cười thật lạ ấy cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể hiện niềm hy vọng. Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm vui, và Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp thật tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc. [Mục Lục]

6. Mạnh sức để đạt được Nước Trời – Anmai 

Ai trong chúng ta cũng hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một cơn mưa làm dịu đi khí trời nóng bức. Khi nóng bức như vậy, ai cũng mong và thậm chí cầu khẩn “ơn trên” để cho có mưa móc. Và, khi có mưa rồi thì niềm vui khôn tả được bày tỏ.

Trong tâm tình chờ đợi mưa móc đó, Isaia cho ta thấy niềm vui của những đồng cỏ cháy gặp được mưa: Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron.

Niềm vui mà Isaia nói đây không chỉ dừng lại ở ơn mưa móc mà còn hơn thế nữa, đó là Đấng Công Chính – Đấng Cứu Độ trần gian đến. Khi Đấng Cứu Độ trần gian đến thì muôn dân sẽ thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa.

Isaia nói tiếp: Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.

Cũng dễ hiểu niềm vui mà Isaia nói vì không phải là mưa móc tự nhiên mà là Đấng Cứu Độ. Và vì thế, niềm vui này là niềm vui khôn tả bởi lẽ khi Đấng Cứu Độ trần gian đến rồi thì sẽ cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và, khi đó, họ vui cười hớn hở vì đau khổ và khóc lóc không còn nữa.

Và, như Gioan đã loan báo, Đấng Cứu Độ trần gian đã đến trần gian.

Đấng Cứu Độ trần gian đã đến không chỉ dọn lòng mà còn phải đương đầu với những thế lực đen tối mới có thể gặp và đoạt được. Chúa Giêsu nói rõ trong Tin Mừng hôm nay: “Từ thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được”.

Trong chờ đợi, có những người đã mất kiên nhẫn để rồi nản chí và khi nản chí rồi không đủ sức mạnh để chiếm lấy Nước Trời. Thánh Giacôbê mời gọi ta sống tâm tình kiên nhẫn trong thư của Ngài: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa”.

Phận con người mỏng dòn non yếu nên đôi khi đánh mất kiên nhẫn, đánh mất sự chờ đợi.

Thật sự thì Chúa đã đến giữa cuộc đời ta rồi nhưng lòng ta không hân hoan để đón Chúa bởi lẽ đón Chúa vào lòng ta thì làm sao ta sống như Chúa muốn được. Ta đã buông lòng ta theo những cám dỗ của trần gian, của xác thịt để rồi chúng ta không đủ “công lực” để đón Chúa nữa.

Cuộc sống, nhất là ngày hôm nay giữa sóng xô của cuộc đời và ngày mỗi ngày con người tăng thêm lòng ích kỷ, hờn ghen, chụp giật thì lại càng căng thẳng cho sự chiến thắng của ta với những cám dỗ cứ bày ra trước mặt của ta. Phần con người, chúng ta dễ ngã để đi tìm nhưng giá trị trần gian mau qua chóng tàn mà quên đi rằng quê hương chúng ta ở trên Trời và chúng ta ngày mỗi ngày vẫn trông mong và chờ đợi.

Gioan Tẩy Giả cũng là người mỏng dòn xác thịt và như Chúa Giêsu nói Gioan là người nhỏ nhất nhưng vì Gioan biết tìm ai và chọn ai. Dĩ nhiên Gioan cũng phải đấu tranh với lòng mình để khỏi phải thiệt thân, thiệt mạng của mình. Cũng chỉ vì sự thật, chân lý mà Gioan đã bị chém đầu. Không giản đơn để chấp nhận cuộc xử trảm như Gioan. Chỉ vì niềm tin vào Thiên Chúa đặc biệt qua Chúa Giêsu mà Gioan đã chấp nhận chém đầu.

Cuộc chiến đấu mà Gioan chiến đấu không phải là cuộc chiến đấu đơn giản nhưng là cuộc giằng co kinh khủng trong cuộc đời. Gioan chiến thắng bởi vì Gioan từ ngày lọt lòng mẹ cho đến ngày chết luôn luôn gắn kết với Chúa, kết hiệp với Chúa và đặc biệt sống tâm tình khiêm hạ nhỏ bé.

Ngày mỗi ngày, chúng ta đã vẫn phải chiến đấu giữa những phong ba bão táp của cuộc đời với Nước Thiên Chúa. Tự sức người của ta chắc chắn ta sẽ không làm được nhưng nhờ ơn Chúa giúp ta sẽ chiến thắng để đạt được Nước Trời như lòng Chúa mong muốn và lời Chúa mời gọi. [Mục Lục]

7. Còn phải đợi ai? 

(Trích từ ‘Manna’)

Suy Niệm

“Anh em ra xem gì trong hoang địa?” Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn không phải để xem một cây sậy bị gió lay, vì Gioan chẳng phải là người dễ lung lay, khuất phục. Cũng không phải để xem người mặc lụa là gấm vóc, vì Gioan chỉ có áo lông lạc đà và dây lưng da. Nhưng để gặp một vị ngôn sứ cao trọng hơn cả, vì ông ở đỉnh cao kết thúc Cựu Ước, đồng thời ông là người giới thiệu Đức Kitô cho dân Israel.

Đối với ông, Đức Kitô là Đấng mạnh mẽ. Ngài đến sau ông, nhưng mạnh hơn ông (x. Mt 3,11). Ngài như người cầm rìu chặt mọi cây không sinh trái và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Ngài còn như người cầm nia sàng sảy (x. Mt 3,12), thóc lép thì cho vào lửa, thóc mẩy thì thu vào kho. Ngài sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa (x. Mt 3,11).

Quả thực Ngài là vị thẩm phán đáng sợ. Ngài trừng phạt tội nhân bằng ngọn lửa không hề tắt.

Khi ở tù, Gioan vẫn nghe biết các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông đã loan báo. Ngỡ ngàng, hoang mang, ông sai môn đệ đến gặp Ngài.

Đức Giêsu kín đáo cho thấy Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia loan báo. Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một Mêsia xót thương cúi xuống người đau khổ.

Gioan đứng trước một thách đố. Ông có chịu đổi quan niệm của mình về Đấng Mêsia không? Nếu không đổi, ông chẳng thể nào đón nhận Đức Giêsu, Đấng mà ông đã giới thiệu là Kitô, là Mêsia. “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Phêrô cũng đã vấp ngã sau khi tuyên xưng đức tin. Ông không thể nào chấp nhận một Đấng Mêsia chịu đau khổ. Giona cũng nổi giận, vì Thiên Chúa không phạt dân Ninivê như lời ông loan báo (x. Ga 3,4; 4,1). Như thế cả Giona, Gioan hay Phêrô đều phải mở ra để đón lấy Thiên Chúa bất ngờ.

Ngài không như điều ta tưởng, thậm chí có khi Ngài ngược với điều ta rao giảng.

Gioan đã vượt qua chính mình khi nói: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30). Ông đã giới thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn phải vượt qua chính mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình về Đấng Mêsia.

Mùa vọng là thời gian chờ đợi Chúa đến.

Ta nghĩ Chúa đến một cách ồn ào, oai phong lẫm liệt, thì Ngài lại đến cách âm thầm lặng lẽ.

Ta tưởng Chúa đến qua những đại lộ thênh thang, thì Ngài lại đến qua ngõ hẹp tăm tối.

Ta chờ Ngài những câu trả lời, còn Ngài lại đặt câu hỏi!

Xin cho chúng ta đừng đi tìm Ngài, khi Ngài đang ở kề bên.

Gợi Ý Chia Sẻ

Thiên Chúa thích chơi ú tim với con người. Ta tưởng Ngài ở đây, thì Ngài lại ở kia. Ngài luôn vượt quá điều ta nghĩ về Ngài. Vậy theo ý bạn, làm sao gặp được Ngài?

Đức Giêsu đã kể ra những việc Ngài làm để cho thấy Ngài thật là Đức Kitô (x. Mt 11,5). Theo ý bạn, đâu là những việc bạn phải làm để cho thấy bạn là Kitô hữu thật sự?

Cầu Nguyện

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế Nguời là tất cả của tôi.

Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.

Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.

Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi.

(R. Tagore) [Mục Lục]

8. Lộ tẩy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 

Trong lễ kỷ niệm tròn 30 năm ngày cha xứ nọ về với xứ đạo, một chính khách hàng đầu của địa phương được mời tới để đọc diễn văn.

Thế nhưng, vì ông ta đến muộn nên linh mục quyết định nói đôi lời với các giáo dân để kéo dài thời gian.

– Các con sẽ hiểu – cha nói – ta có ấn tượng đầu tiên về xứ đạo này kể từ khi ta nghe lần thú tội đầu tiên ở đây. Khi ta tới đây vào 30 năm trước, ta đã nghĩ rằng mình được bổ nhiệm đến một nơi cực kỳ tệ hại. Người đầu tiên tới phòng xưng tội kể cho ta nghe anh ta đã lấy cắp một cái tivi và khi cảnh sát tới anh ta đã giết người cảnh sát. Hơn thế nữa, anh ta thụt két từ nơi làm của mình và chim chuột với vợ của ông chủ. Các con có thể tưởng tượng là ta cảm thấy thế nào. Nhưng ngày tháng trôi qua, ta dần hiểu rằng không phải tất cả mọi người đều như vậy, và ta có một giáo xứ tốt với toàn những người đáng yêu và dễ thông cảm.

Ngay khi linh mục vừa dứt lời thì chính trị gia tới, xin lỗi vì đã đến muộn. Ông ta ngay lập tức thực hiện bài nói chuyện của mình.

– Tôi sẽ không bao giờ quên ngày đầu tiên vị linh mục đã tới giáo xứ này. – Chính trị gia nói. – Bởi vì, tôi có vinh dự là người đầu tiên đến xưng tội với ngài…

Thật xấu hổ khi tội của mình bị phanh phui trước toàn dân thiên hạ. Thế nhưng, xét cho cùng ai mà không có những lầm lỗi. Ai cũng có những yếu đuối. Ai cũng có những lầm lỡ. Ai cũng từng sống trong tâm trạng hối tiếc về những việc mình đã làm. Có điều chúng ta ít xấu hổ vì người ngoài không biết. Chúng ta thường rất khôn khéo trong việc che đậy tội lỗi mình. Chúng ta tự an tâm trong vẻ giả tạo bề ngoài của mình. Nhưng, dù sao nếu không sống thật với bản thân, con người cũng không bao giờ bình an hạnh phúc, chỉ có sám hối chân thành mới mang lại niềm vui tâm hồn.

Chúa nhật III mùa vọng được gọi là Chúa nhật hồng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ cứu độ đã gần tới. Giờ của hân hoan, của hy vọng vì đã tới ngày Thiên Chúa viếng thăm dân Người. Ngài đến không phải để kết án. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài là Thiên Chúa của yêu thương vì khi Người đến mắt người mù sẽ nhìn thấy, tai người điếc được nghe, người câm nói được và người què nhảy nhót như nai. Ngài là hoàng tử của bình an và hoan lạc. Ngài đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi. Ngài giúp con người khống chế những thói hư tật xấu để sống tràn đầy niềm vui và bình an.

Gioan đã làm chứng về Ngài khi mời gọi dân Người sửa lại lối sống cho phù hợp với tin mừng. Gioan mời gọi dân người sám hối và canh tân đời sống. Chính Gioan đã sống một đời chứng nhân khi ông rời xa chốn đô hội thị thành để sống trong hoang địa ăn chay nhiệm nhặt. Gioan trở thành mẫu gương cho những người công dân Nước trời khi ông để Chúa lớn lên còn mình thì nhỏ bé lại.

Xin Chúa cho chúng ta luôn hưởng trọn niềm vui khi dám nói không với tội lỗi. Xin giúp chúng ta biết sám hối ăn năn về những lầm lỗi của mình và quyết tâm canh tân đời sống cho phù hợp với tin mừng. Chớ gì chúng ta luôn tràn ngập niềm vui khi để Chúa lớn lên trong ta và loại bỏ những thói hư tật xấu ra khỏi cuộc đời chúng ta. Amen. [Mục Lục]

9. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến 

(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

  1. Gioan dọn đường

Bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường cho Đấng Thiên Sai sắp đến, như lời ông tự giới thiệu :“Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối; Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11). Sứ điệp của ông về sự hoán cải thật đanh thép và minh bạch: “Lưỡi rìu đặt sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10); “Người sẽ cam nia rê lúa, thóc tốt sẽ thu vào kho và lúa lép sẽ quăng vào lửa” (Mt 3,12). Theo ông, Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường sẽ xuất hiện như vị thẩm phán chí công: tiêu diệt sự dữ, trả lại công bình cho những kẻ bị ức hiếp, cứu thoát những ai khốn khổ và khai mở thời cánh chung tràn trề hoan lạc, như Isaia đã từng loan báo (Is 35, 1-6.10). Ông nhiệt thành rao giảng và sung sướng chờ đón ngày ấy chóng đến ! Và này, Chúa Giêsu xuất hiện. Ông đã làm chứng về Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34), là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,36) và chỉ cho mọi người biết đó chính là Đấng mà ông đã loan báo (Ga 1,29). Sau đó, ông bị bỏ tù (Mt 11,2) vì đã can đảm làm chứng cho sự thật khi can ngăn nhà vua Hêrôđê Agrippa không được lấy vợ của anh mình là Philippê (Mt 14,3-12). Sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt với việc ông vào tù, để bắt đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với việc Người chịu phép rửa và được tấn phong Mêsia ngôn sứ và vương đế (x. Lc 3,19.21). Giai đoạn chuẩn bị kết thúc với Gioan Tẩy Giả, mở ra giai đoạn mới: Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng và rao giảng Nước Thiên Chúa.

  1. Chúa đã đến

Thật khác xa với những gì mà Gioan đã quan niệm vì Chúa Giêsu đến không phải để đoán phạt nhưng để cứu chữa những gì hư mất; Người không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Người chính thật là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã từng loan báo, như chính Người, trong buổi khai mạc sứ vụ tại Hội đường Nadarét, đã áp dụng cho mình sấm ngôn Isaia chỉ về Đấng Thiên Sai(Lc 4,16-21). Người quan tâm và yêu thương hết mọi người, đặc biệt những người khó nghèo và tội lỗi là những hạng người bị xã hội ruồng rẫy và bỏ rơi. Người chữa lành các bệnh nhân; và mỗi khi chữa lành bệnh phần xác, Người quan tâm hơn đến việc chữa trị tâm hồn, nghĩa là giải thoát họ khỏi sự thống trị tội lỗi và đưa vào đời sống ân tình với Thiên Chúa và tha nhân. Người hiền lành, khiêm tốn và hết tình phục vụ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình”. Mọi người từ khắp nơi tuôn đến để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành các thứ bệnh tật.

  1. “Ông có phải là Đấng phải đến…?”

Ngồi trong tù, Gioan vẫn hướng lòng về Đấng Thiên Sai và chờ đợi thời mới. Khi được nghe biết về những hoạt động của Chúa Giêsu, ông cảm thấy băn khoăn và hoang mang. Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường phải là Đấng đến để tiêu diệt sự dữ, tái lập trật tự công lý và khai mở thời cánh chung. Đàng này Chúa Giêsu mà ông đã từng làm chứng và chỉ cho mọi người biết lại cư xử hiền hoà, khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Ông sai các đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng phải đến, hay còn phải đợi một Đấng khác.

Gioan nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng lại là một Mêsia theo quan niệm của các ngôn sứ thời chuẩn bị, đồng thời cũng là quan niệm của người đương thời về một Mêsia chính trị, đến để phục hưng dân tộc. Còn Chúa Giêsu, Người xác nhận mình là một Mêsia mà các ngôn sứ đã từng loan báo: rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành các bệnh tật, xua trừ ma quỷ …., nhưng không phải là một Mêsia theo quan niệm chính trị, mà là một Mêsia đến thiết lập vương quốc sự thật và yêu thương bằng năng lực tình yêu và phục vụ, một Mêsia cứu độ nhân loại bằng con đường đau khổ của người Tôi trung. Và đó chính là điều gây cớ vấp phạm cho nhiều người như ông Simêon đã từng loan báo ngày Đức Maria dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ (Lc 2,34). Cách trả lời gián tiếp của Chúa Giêsu vừa là một trấn an Gioan, đồng thời xác định cho ông biết Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại không phải bằng con đường vinh quang, nhưng bằng con đường thương khó và tử nạn như Isaia đã loan báo về người Tôi trung (Is 52,13-53,12). Cần nhìn vào các việc Người đang làm mà coi đó như là những dấu chỉ để có thể nhận ra Người là Đấng Mêsia.

  1. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến

Trong một thời đại mà xem ra sự dữ đang lấn lướt, công lý không được tôn trọng, người công chính thường bị ghét bỏ và thua thiệt. Người tín hữu mong chờ Chúa đến để tiêu diệt sự xấu và kẻ gian ác, thiết lập lại trật tự công bình, và khai trương thời đại mới. Đó cũng chính là điều mà Gioan hằng nóng lòng chờ đợi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã mạc khải Ngai là Thiên Chúa hay thương xót, chậm giận và không chấp tội (Xh 34,6-7). Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng yêu thương và tha thứ. Người thiết lập vương quốc tình yêu bằng sự phục vụ và tình yêu tự hiến. Vì thế, Người nhẫn nại chờ mong con người hoán cải để ban ơn tha thứ (Lc 13,6-9). Thánh Phaolô coi sự nhẫn nại là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,20). Thánh Giacôbê khuyên dạy tín hữu hãy kiên nhẫn đón chờ ngày Chúa đến, như người nông dân mong chờ mùa gặt (Gc 5,7-10). Sự kiên nhẫn giúp thanh luyện và biểu lộ lòng trung thành, đồng thời tạo điều kiện và thời gian cho kẻ tội lỗi biết hồi tâm sám hối.

  1. Người nhỏ nhất trong Nước Trời

Chúa Giêsu khen ngợi Gioan: “Trong số những người nam đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”(Mt 11,11). Gioan cao trọng vì ông là vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị cho Đấng Cứu thế, như sấm ngôn Malaki đã loan báo: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1). Không những dọn đường, Gioan còn nhìn thấy, làm chứng và chỉ cho người khác khi Đấng Cứu thế xuất hiện. Gioan đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận cuộc sống khắc khổ trong hoang địa, để chuẩn bị cho sứ vụ và để có thể toàn tâm toàn ý thực hiện sứ mệnh. Gioan đã can đảm làm chứng và sẵn sàng chết để bảo vệ sự thật.

Gioan cao trọng thế đó, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Dù cao trọng, Gioan vẫn còn là người đang đứng bên ngưỡng cửa Nước Trời, như Môsê xưa đứng ở ngưỡng cửa Đất Hứa. Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời cao trọng hơn ông vì được diễm phúc tham dự vào vương quốc do Chúa Giêsu thiết lập. Chỉ nhờ lòng tin mà người ta mới có thể gia nhập Nước Trời và cũng chính đức tin mới làm nên sự cao trọng đó, như bà Elisabeth đã từng khen ngợi Đức Maria: “Bà thật có phúc vì đã tin… ” (Lc 1,45). [Mục Lục]

 

SUY NIỆM 2019

Mục lục

1. Niềm vui thật  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Sự sám hối chân thành (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Chúa lên tiếng  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

4. Niềm vui trong tâm hồn (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Niềm vui ơn cứu độ (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

6. Thiên Chúa ở đâu khi tôi đau khổ?  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

7. Mong đợi  (Vũ Đình Tường)

8. Đêm tối của đức tin ấy là kiếp người (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

9. Chúa Nhật 3 Mùa Vọng (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

10. Gioan Tẩy giả đã tìm thấy (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến (Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

12. Bạn có phải là Đức Giêsu không?  (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

13. Ai là “Thầy”của tôi? (Lm. Hà Ngọc Đoài)

14. Đấng Thiên Sai (Lm. Giuse Trần Hưng Lợi)

15. Để khỏi vấp ngã vì Chúa Kitô  Lm. Phạm Ngọc Ngôn)

16. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta  (Lm. Trần Thanh Sơn)

17. Còn đợi chờ ai?  (Lm. Phạm Quốc Hưng)

18. Kiên nhẫn đợi chờ (Lm. Minh Nhiên)

19. Thính thị  (Trầm Thiên Thu)

20. Đấng phải đến, đã đến (PM. Cao Huy Hoàng)

21. Hãy vui lên  (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

***

NIỀM VUI THẬT

Lm. Jos. DĐH.

Tất cả những ai sử dụng zalo, viber, để liên lạc, đều có khái niệm “chuông ảo” là gì ; cũng không ít người đã từng nghe câu thành ngữ: nửa ổ bánh mì, vẫn là bánh mì, nhưng nửa sự thật vẫn chỉ là nửa sự thật ! Giả như thật, thật như giả, ôi vui sao nước mắt lại trào, đối diện với những phức tạp, lại càng thấy rõ sự giới hạn của kiếp người. Dù giầu hay nghèo, bần cùng hay quý phái, ai cũng cần được tôn trọng, mà danh dự, uy tín, luôn được sánh ví như tờ giấy, khi đã nhàu nát, trong thời gian một vài phút, liệu ai đủ khả năng để vuốt cho nó thẳng lại ! Ngày hôm nay, không phải chỉ trong binh pháp mà ngay cả lãnh vực kinh tế, người ta vẫn đang áp dụng “khổ nhục kế” để đạt lấy mục đích.

Có phải cẩn thận, chắc chắn, là điều cần thiết để xa tránh sai lạc, để gặp niềm vui thật từ gia đình, xã hội hay không, mà tiền nhân ta lại nhắc nhớ con cháu: ở chọn nơi, chơi chọn bạn ? Sống thật lòng, cư xử với nhau bằng một tình yêu thật, nhất định không phải là khẩu hiệu do các đấng bậc nghĩ ra, nhưng sự thật luôn được minh chứng bằng đời sống kỷ luật, bằng hành động cụ thể, có mực thước. Niềm vui thật không hệ tại vì được tiền, được vàng, sống thật với lòng mình, cư xử có tình có nghĩa với tha nhân, không phải vì dị đoan mê tín hoặc mơ hồ từ một khái niệm: tiền là tiên là phật. Chúa nhật mầu hồng, chúa nhật mừng vui lên vì Đấng cứu độ đang tới, sẽ là chúa nhật của bình an thật, soi mở cho triều đại mới trong vương quốc của sự thật, khi mọi người có đức yêu thương nơi tâm hồn.

Các bậc tiền bối của chúng ta cho rằng: ngồi trên đống cát nhìn ai cũng đáng được gọi là quân tử ; ngồi trên đống vàng, mọi người mới rõ hơn ai thật sự là hiền nhân quân tử. Tiếng hô ở hoang địa quả đã thu hút được số đông mọi thành phần đến sông Gio-đan xin chịu phép rửa thống hối, từ nơi ngục tù, tiếng hô vẫn mãi lan truyền đi thông điệp hãy dọn đường, chuẩn bị tâm hồn đón Đấng cứu thế, cùng với một sứ mạng: để Chúa đến. Đức Giêsu tiếp tục ban phát niềm vui cho muôn thế hệ: “các ngươi cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe, người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và người nghèo được nghe Tin-mừng”. Xưa kia và hôm nay, “Tiếng và Lời” vẫn đang hoà quyện vang lên điệp khúc yêu thương, niềm vui, và sự thật của bình an, dù tâm trí và cõi lòng mỗi người còn nhiều vướng bận khác nhau.

Tiếng hô nơi hoang địa càng lúc càng rõ ràng, thôi thúc hơn, các học trò của Gioan rất vui và hạnh phúc, vì tai được nghe, mắt họ được thấy, tâm trí được xác thực hồng ân cứu độ không còn là lời hứa. Bị giam cầm, tù tội, Gioan vẫn đủ tình yêu, sự khôn ngoan cần thiết để chỉ dẫn: Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đã hiện diện. Đấng sẽ mở trí lòng giúp Gioan và các thế hệ hiểu: khổ đau, ngục tù, sự chết, đã thực sự gia tăng tình yêu và lòng mến, mang lại niềm vui thật cho người tông đồ. Quan niệm về hạnh phúc và niềm vui thật của mỗi chúng ta hôm nay là gì ? Chắc chắn sẽ có sự khác nhau về chiều dài của tuổi tác, hoặc tính sâu rộng của tri thức và kinh nghiệm, tuy nhiên, niềm vui thật phải là niềm vui có Chúa, vì thế mà lời kêu gọi tỉnh thức, dọn đường, dọn lòng, đón Chúa không bao giờ thừa dư.

Tại cuộc sống trần thế này, ai cũng có hy vọng và không thiếu những nguy cơ khiến mình có thể vấp ngã, hoặc có thể tìm thấy niềm vui, khi ta giúp đỡ anh chị em mình bằng cả tấm lòng. Lúc Gioan ở ngục tù, ông vẫn cảm thấy vui vì ông đã sống tin yêu, đã có dịp hướng dẫn các học trò hãy đi hỏi: “ông có phải là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải chờ …?” Gioan đã thật vui khi nghe Đấng phải đến nói qua trung gian các học trò: “các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”. Chúa Giêsu hôm nay cũng sẽ còn tiếp tục nói với từng người chúng ta về niềm vui và hạnh phúc thật: không yêu mến tha nhân, việc đi lễ đi thờ, việc ăn chay hãm mình, cũng chỉ là yêu giả !

Chúa Giêsu sẽ vui biết bao khi mỗi người chúng ta có niềm vui thật trong lòng, đó là chúng ta đã hiểu, đã đủ ý thức về giá trị của bình an hạnh phúc mà mỗi người đang có cơ hội lãnh nhận: không ai thực sự vui vẻ khi chưa sống yêu thương. Gioan vui thật vui, không phải vui vì ông đã làm xong nhiệm vụ ở sa mạc cõi lòng và đang ở tù, Gioan thật là vui, vì ông tin Đấng ông loan báo đã tới, và đang thực hành công lý yêu thương. Cộng đồng xã hội và từng người chúng ta hôm nay có vui thật hay không là tuỳ thuộc vào tình Chúa chúng ta nhận và tình người chúng ta chia sẻ như thế nào ? Thông điệp Chúa Giêsu gởi đến cho Gioan, cho toàn thế giới là tình bác ái được thông chia, người người có bổn phận với sứ mạng riêng của mình: tỉnh thức, nguyện cầu, và hiệp nhất nên một trong tình yêu với Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến. Amen.

 

.

SỰ SÁM HỐI CHÂN THÀNH

     Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Người xưa thường nói “cái nết đánh chết cái đẹp” nhưng hôm nay người ta lại nói: “Cái đẹp đè bẹp cái nết”, và ngày xưa người ta nói: “Hồng nhan bạc phận”, còn ngày nay người ta nói: “Hồng nhan bạc triệu”. Đôi khi xấu người còn bị xem thường như trong chuyện vợ xấu Vũ Trọng Phụng đã miêu tả thật mỉa mai như sau: Chị Doãn là một người đàn bà, có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai…”. Đàn bà mà có nhan sắc của đàn ông thôi cũng đủ là thiệt thòi quá rồi, lại thêm “người đàn ông không đẹp trai” thế thì coi như tiêu tùng về phần nhan sắc luôn rồi.

Vì cái đẹp thể xác được ưa chuộng nên chúng ta thấy ngày nay người ta chỉ chú trọng làm đẹp thể xác mà quên đi điều quan trọng là cần có một tâm hồn đẹp. Họ mặc áo lụa là, gấm vóc, sang trọng nhưng tâm hồn thì nhếch nhác bởi biết bao tội lỗi chồng chất. Họ chú trọng rửa tay chân mà quên rửa sạch tâm hồn. Cái nết không được dạy dỗ, uốn nắn nên ngày nay chúng ta thấy xã hội đầy những con người xấu và gương xấu tràn lan.

Lời kêu gọi sửa lại cách sống dường như cũng đang vang lại cho nhân thế hôm nay. Gioanmời gọi mọi thành phần dân Do thái hãy làm đẹp phẩm chất của mình để đón tiếp Đấng Messia. Đối với đám đông dân chúng hãy biết sống chia sẻ với nhau. Hãy sống đùm bọc nhau trong tình bác ái chân thành qua việc chia sẻ cơm ăn, áo mặc. Đối với người thu thuế và người giầu có hãy sống công bình bác ái. Đừng cho vay nặng lãi. Hãy sống bằng một trái tim nhân ái biết xót thương kẻ bần cùng lầm than. Đối với binh lính, Gioan đề nghị hãy biết thương dân, đừng hà hiếp bóc lột, đừng sống theo kiểu tham quan vô nại, hãy sống theo chức vụ của mình là để bảo vệ và gìn giữ sự an ninh cho dân làng.

Nghe lời Gioan ai nấy đều muốn thay đổi lối sống cho đẹp lòng Đấng Messia. Từng đoàn người đến sông Giordan. Trong đó có đủ mọi thành phần già trẻ, lớn bé. Quyền qúy cao sang và đói khổ bần hàn. Tất cả đều cúi mình sám hối. Tất cả đều muốn thay đổi lối sống. Sửa lại những quanh co gian trá của lòng người. Lấp đầy những hố sâu của ngăn cách bằng tình yêu chân thành. Và san bằng núi đồi kiêu căng bằng đời sống hoà hợp mến yêu. Một bầu khí thật vui tươi và an bình trải rộng khắp giòng sông Giordan. Một niềm hy vọng cho một thế giới không còn bất công, không còn hận thù chỉ còn có sự chia sẻ, cảm thông trong yêu thương chân thành. Một bầu khí hứa hẹn những ngày tháng thanh bình như lời tiên tri Isaia đã nói: “sói nằm chung với chiên con. Trẻ con thò tay vào hang rắn độc. Người ta sẽ lấy lưỡi gươm mà rèn nên lưỡi cầy và nhân loại sẽ cùng nhau hát vang tiếng hát hoà bình”.

Hôm nay, Giáo hội cũng gợi lại hình ảnh đó để nhắc nhở con người thời nay. Chúa đã đến với chúng ta hôm nay qua tha nhân, qua các bí tích. Chúa sẽ đến với chúng ta trong ngày cuối cùng của đời người dương gian, và Chúa sẽ đến trong uy nghi vinh hiển trong ngày quang lâm. Vậy có ai đó đã tự hỏi lòng mình: tôi phải làm gì để đón tiếp Chúa? Nếu chúng ta tin rằng Chúa đã giáng sinh và đang ở cùng  chúng ta, liệu rằng chúng ta có gì để dâng cho Chúa? Có lẽ Chúa không cần chúng ta xây nhà nguy nga lộng lẫy cho Chúa. Chúa cũng không cần chúng ta trải thảm lót đường cho Chúa. Chúa chỉ cần chúng ta dâng cho Chúa tấm lòng thanh sạch không vương vấn tội nhơ. Một con tim tràn đầy tình yêu thương đồng loại. Một tấm lòng muốn sửa đổi, muốn thăng tiến bản thân cho tốt hơn, cho đúng với giáo huấn và lề luật của Chúa.

Xin cho chúng ta cũng biết sửa đổi tính hư nết xấu để trở thành người đẹp trước mặt Chúa và tha nhân. Chúng ta cũng cầu nguyện một cách đặc biệt cho các bạn trẻ đang lầm đường lạc lối, đang nghiện ngập được ơn hoán cải, cho những người cha đang say xưa rượu chè, cờ bạcbiết sống có trách nhiệm với gia đình, và cho  những người tham lam cho vay nặng lãi, những người có chức có quyền đang hà hiếp kẻ yếu hèn biết sống lòng xót thương. Xin cho họ được ơn hoán cải để họ luôn là người đẹp trước mặt anh em. Amen

 

.

CHÚA LÊN TIẾNG

Bông hồng nhỏ

Cuộc đời luôn có những thăng trầm thử thách. Chính những thử thách sẽ làm cho cuộc đời ta thêm ý nghĩa, qua thử thách ta được trưởng thành hơn. Cũng giống như bao vị ngôn sứ khác, ông Gioan Tẩy Giả cũng gặp thử thách khi bị bách hại. Sau một thời gian miệt mài rao giảng kêu gọi người ta sám hối để đón chờ Đấng Mêsia, ông bị tống ngục vì đã dám lên tiếng phản đối trước hành động sai trái của vua Hêrôđê. Ngồi trong ngục thất, ông Gioan chờ đợi câu trả lời của Đức Kitô.

Thánh Mátthêu thuật lại: “Đang ngồi tù, ông Gioan nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Cảnh tù đày đã khiến cho ông thực sự gặp thử thách, ông rơi vào hoang mang. Đức Kitô là Đấng mà ông đã từng làm chứng: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34), chính ông cũng đã giới thiệu về Đức Giêsu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).  Phải chăng, Đức Kitô thật sự đã quên vị Tiền hô của mình?

Khi gặp thử thách, vị ngôn sứ của Chúa vẫn luôn lắng tai nghe thánh ý Thiên Chúa dành cho mình. Ông Gioan đã dành cả cuộc đời để vâng theo thánh ý của Thiên Chúa và ông đã đón nhận cái chết trong cảnh tù đày. Sứ mạng của ông đã hoàn tất. Chúa Giêsu đã hết lời khen ngợi vị ngôn sứ của mình và làm chứng cho ông: Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11). Theo Chúa, ta cũng sẽ gặp những thử thách vì chính Chúa Giêsu đã hứa: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” ( Mc 10,29-30).Ta có tin rằng chính Chúa sẽ lên tiếng bênh vực ta trong lúc ta bị bách hại không? Hãy cảm nếm sự hiện diện của Chúa trong từng chi tiết nhỏ của cuộc sống và để Ngài lấp đầy tâm hồn ta. Chúa vẫn lên tiếng trả lời ta, điều quan trọng là ta phải biết lắng nghe và khao khát nghe Lời Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã lên tiếng bênh vực con trong những lúc con gặp bước ngặt nghèo. Lời Chúa vẫn làm vang vọng lên trong tâm hồn con niềm tin và hy vọng, chiếu sáng cho con nhìn thấy con đường phải bước tới. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con và nâng đỡ con những khi con vì Chúa và vì Tin Mừng mà gặp thử thách. Lạy Chúa Giêsu xin ngự đến! Amen.

 

.

NIỀM VUI TRONG TÂM HỒN

Anna Cỏ may

Niềm vui và sự bình an là đặc điểm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa trong một cộng đoàn và nơi một người môn đệ của Đức Giêsu.

Sau những ngày rao giảng, kêu gọi người ta sám hối, ông Gioan Tẩy Giả đã hoàn thành sứ mạng và kết thúc cuộc đời trong nhà tù. Thân xác ông ở trong nhà tù nhưng tâm hồn ông hướng về Đấng mà ông đã rao giảng. Ông sai môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu rằng: “Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11,2-5). Câu trả lời của Đức Giêsu đã củng cố niềm tin cho ông Gioan khi ông đang gặp thử thách và mang lại cho ông niềm vui thuở ban đầu khi ông tuyên xưng niềm tin: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thật rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34).

Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12,8). Giờ đây, Đức Giêsu công nhận ông Gioan trước mặt anh em: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11a). Là người Kitô hữu, là môn đệ Đức Giêsu, sao chúng ta không thể vui lên với những điều Chúa đã, đang và sẽ làm cho chúng ta. Nhà nhà vang lên tiếng hát mừng Chúa đến, khắp phố phường xuất hiện những hang đá nhỏ với ánh đèn nhấp nháy và người người cùng háo hức rộn ràng đón Chúa Giáng Sinh. Đó là niềm vui chung, niềm vui ở bên ngoài. Còn niềm vui bên trong tâm hồn của mỗi người thì sao? Chúng ta đã chuẩn bị tâm hồn mình thế nào? Tôi có thật vui với niềm vui của tôi không? Thánh Phaolô đã nói: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hòa rộng rãi, Chúa đã gần bên” (Pl 4,4). Niềm vui sâu xa nhất của người Kitô hữu không phải vì lợi lộc hay vì được chiếm hữu của cải vật chất mà niềm vui vì được Thiên Chúa đến hiện diện với con người. Vậy chúng ta hãy mở tâm hồn ra để Chúa ngự đến, để niềm vui và bình an chiếm trọn con người chúng ta trong từng ngày sống.

Lạy Chúa, Ngài là Đấng luôn đem lại niềm vui và bình an cho chúng con. Xin cho chúng con biết cảm nghiệm được hồng ân Chúa ban mà tiếp tục quay trở về trong tình yêu Chúa. Amen.

 

.

NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 35:1-6a, 10;  Gc 5:7-10;  Mt 11:2-11)

Chắc chúng ta còn nhớ cách đây không lâu một nhóm hướng đạo sinh bị kẹt trong một khu hầm mỏ tại Thái-lan, sau nhiều ngày, các em đã được cứu thoát.  Ai cũng cảm thấy vui, chuyên viên thợ lặn phải chui qua đoạn đường hầm ngoắt ngoéo bị ngập nước để đem từng em ra ngoài và gia đình các em cùng dân chúng chờ đợi bên ngoài.  Mỗi lần đưa được một em ra ngoài, mọi người hoan hô biểu lộ niềm vui. Cứu thoát và niềm vui gắn liền với nhau.  Cũng vậy, Thiên Chúa, Đấng phác họa kế hoạch cứu độ chúng ta, kêu gọi ta hãy vui lên vì Người sẽ cứu ta thoát khỏi tội lỗi và sự chết.  Đây cũng là lý do tại sao chúng ta có một Chúa Nhật dành riêng để suy niệm về niềm vui trong mùa Vọng.  Bài trích sách I-sai-a trình bày lý do tại sao ta phải vui lên;  thánh Gia-cô-bê thì kêu gọi chúng ta hãy kiên nhẫn cho tới ngày Chúa đến;  riêng thánh Gio-an lại muốn tìm hiểu xem có phải đích thực Chúa Giê-su là Đấng đem lại niềm vui cứu độ cho mọi người hay không.

Trước hết ta hãy nghe ngôn sứ I-sai-a loan báo những điều Thiên Chúa sẽ làm cho đất nước Ít-ra-en khi Người đến.  Đất nước ngôn sứ nói đến ở đây như thế nào?  Đó là sa mạc, đồng khô cỏ cháy và đất hoang.  Tóm lại đất nước này không có sự sống.  Vậy mà khi Thiên Chúa đến, Người sẽ biến đổi mọi sự, từ khô cằn trở thành phì nhiêu, đồng khô cỏ cháy thành vùng đất trổ bông, sa mạc cát đá được đầy tràn “ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron”.  Đấy là sự thay đổi cảnh quan.  Tiếp đến là sự biến đổi thân phận con người.  Khi Chúa đến, Người làm cho “những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, những đầu gối bủn rủn được vững vàng” và “những kẻ nhát gan” được can đảm.  Tuy nhiên những hình ảnh này vẫn chưa nói hết được niềm vui khi Thiên Chúa đến cứu độ.  Ngôn sứ I-sai-a còn cho thấy những hình ảnh sống động hơn thế nữa để diễn tả niềm vui cứu độ, như “mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què nhảy nhót như nai, lưỡi người câm sẽ reo hò”.  Chúng ta thử tưởng tượng quang cảnh vừa kể mà xem:  những kẻ khuyết tật này sẽ vui sướng biết chừng nào khi họ được chữa lành!  Tất cả những điều ngôn sứ kể trên chỉ là để so sánh với niềm vui tột đỉnh của dân Chúa được cứu thoát khỏi cuộc lưu đày.  Ngôn sứ muốn ám chỉ niềm vui của dân Ít-ra-en là niềm vui của những người bị lưu đày làm nô lệ cho tội lỗi đã được Đấng Cứu Độ đến giải phóng cho họ.  Quả thực ngôn sứ I-sai-a tiên báo Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa, sắp giáng trần để chuộc tội nhân loại, đem niềm vui đến và đưa họ về với Thiên Chúa.

Tuy nhiên khi Chúa Giê-su đến để đem niềm vui cứu độ cho trần gian thì chẳng mấy ai quan tâm, mặc dù Người đã bắt đầu thi hành sứ mệnh và thực hiện những điều ngôn sứ I-sai-a báo trước.  Đặc biệt có một người rất quan tâm, đó là ông Gio-an.  Tuy Gio-an “đang ngồi tù” nhưng nghe nói những việc Chúa Giê-su làm, ông đã nhận biết Người là ai.  Ông không muốn giữ cái biết một mình, nên mới sai môn đệ đến để họ được mắt thấy tai nghe về con người và sứ mệnh của Chúa.  Chắc chắn sau khi thuật lại cho thầy mình “những điều mắt thấy tai nghe” về Chúa Giê-su, các môn đệ ông Gio-an được ông nói cho biết Chúa Giê-su chính là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian”.  Đúng vậy, ông Gio-an đã thi hành nhiệm vụ làm sứ giả cho Đấng Cứu Độ.  Khi còn được tự do, bên bờ sông Gio-đan ông rao giảng kêu gọi người ta sám hối, thay đổi lối sống;  ông làm phép rửa cho họ như dấu chỉ họ cam kết sẽ thực hành những điều ông giảng dạy.  Nhưng ngay khi ông đang bị cầm tù, ông vẫn tiếp tục làm sứ giả cho Chúa, vì ông đã giúp cho các môn đệ ông nhận ra Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ.  Như thế, khi ông làm sứ giả cho Chúa Giê-su, Đấng thiết lập Nước Trời, thì ông đã là người đầu tiên thuộc về Nước ấy rồi!  Chúa Giê-su khéo léo khen ngợi sự cao trọng của ông Gio-an.  Người bảo:  Ông Gio-an cao trọng như vậy, “tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”.  Đây là cách nói khéo của Chúa Giê-su đấy!  Chúa nói vậy mà không phải vậy đâu, vì chính ông Gio-an là người đầu tiên trong Nước Trời, tức là người “lớn nhất”, thì ai ai cũng phải là người “nhỏ nhất” so với ông trong Nước Trời!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Niềm vui của dân Ít-ra-en khi được giải phóng khỏi kiếp lưu đày và niềm vui của những người được Chúa Ki-tô cứu độ đã được trình bày qua bài đọc 1 và bài Tin Mừng.  Nhưng để đợi chờ niềm vui ấy, chúng ta phải làm gì?  Có câu trả lời đây!  Thánh Gia-cô-bê Tông đồ dạy rằng:  “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm”.  Để giúp ta hiểu phải kiên nhẫn như thế nào, thánh tông đồ đã dùng hình ảnh thực tế bác nông phu “phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn cuối mùa” để giúp cho đất “trổ sinh hoa màu quý giá”.  Dĩ nhiên mưa là yếu tố quan trọng, nhưng cần có sự canh tác của bác nông phu nữa chứ!  Bác làm công việc của bác, còn trời thì cho mưa xuống.  Bác làm trong khi vẫn mong đợi trời mưa.  Chắc chắn bác sẽ vui trong niềm mong đợi và vui khi gặt hái hoa màu.  Chúng ta cũng vậy.  Mong đợi Chúa đem niềm vui sự sống vĩnh cửu đến cho chúng ta, nhưng ta vẫn phải làm tròn những trách nhiệm và bổn phận của mình đối với Chúa, với gia đình, xã hội, cộng đoàn… hằng ngày và hết mọi ngày trong cuộc sống.

 

.

THIÊN CHÚA Ở ĐÂU KHI TÔI ĐAU KHỔ

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Vụ khủng bố đẫm máu nhất lịch sử nước Mỹ tại toà tháp đôi Trung Tâm thương mại Thế giới New York ngày 11/09/2001 đã làm 2.996 người bị chết, hơn 6.000 người khác bị thương, ngoài ra còn gây thiệt hại về tài sản và cơ sở hạ tầng ít nhất 10 tỉ đôla và gây tổn thất tổng cộng 3 nghìn tỷ đôla.

Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị Mục sư giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình và người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô ta như sau: “Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?”  Cô gái đã trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là người ‘quân tử’ nên đã lẳng lặng rút lui.”

Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình? Về những biến cố xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh…, tôi nghĩ rằng mọi sự đã bắt đầu với quyết định của chúng ta đã không còn đọc kinh trong gia đình nữa. Một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học, trong khi đó Kinh Thánh dạy chúng ta: ‘Chớ giết người, chớ trộm cắp, yêu thương tha nhân như chính bản thân mình, v.v…’, và chúng ta cũng đã đồng ý loại bỏ Kinh Thánh!

Điều Kì Lạ… là con người có thể vứt bỏ Thiên Chúa một cách dễ dàng, rồi sau đó lại tự hỏi Thiên Chúa ở đâu khi chúng ta đau khổ?

Thưa quý OBACE, những khi gặp khó khăn hay đau khổ, chúng ta thường đặt câu hỏi oán trách: Thiên Chúa ở đâu trong lúc tôi đau khổ, mà quên rằng chính chúng ta đã yêu cầu Chúa rời khỏi tâm hồn và cuộc sống của ta. Ngày xưa dân Do thái cũng vậy, họ dễ dàng từ bỏ Thiên Chúa và lề luật của Ngài để chạy theo lối sống của dân ngoại, bỏ rơi Thiên Chúa và quay lưng lại với Ngài. Thiên Chúa cũng đã tôn trọng tự do của họ. Nhưng lịch sử cho thấy, mỗi khi dân Do Thái loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời sống, thì cũng là lúc họ rơi vào tối tăm cùng cực. Bài đọc một hôm nay kể về một giai đoan lịch sử tăm tối của dân Israel: Lúc đó thay vì cậy dựa vào Thiên Chúa, thì Israel đã liên minh quân sự với các nước lân bang, nhưng họ cũng không tồn tại trước sự tấn công của người Babylon. Cả một dân tộc bị bắt đi lưu đày, làm thân trâu ngựa cho người Babylon hơn năm mươi năm.

Khi bị hành hạ, sống nhục nhã như vậy họ tự đặt câu hỏi: Thiên Chúa của Israel ở đâu? Tại sao Ngài lại để cho một dân tộc Ngài đã chọn làm dân riêng phải cực khổ thế này? Thiên Chúa có còn thương Israel như thủa xưa nữa không? Trước sự đau khổ, những dằn vặt và thất vọng chán chường như thế, Thiên Chúa đã dùng tiên tri Isaia để khôi phục lại niềm tin, niềm hy vọng cho Israel. Thiên Chúa muốn cho họ hiểu rằng Ngài vẫn ở bên họ để an ủi, bảo vệ và để giải thoát họ, chỉ có điều là họ có đồng ý mời Chúa trở lại hay không. Bằng những lời lẽ vui tươi và tràn đầy hy vọng, tiên tri Isaia đã nói với họ rằng: “Vui lên đi hỡi sa mạc và đồng cỏ khô cháy vì Thiên Chúa sẽ làm cho ngươi trổ hoa như bông huệ; Thiên Chúa sẽ tặng ban cho ngươi ánh sáng huy hoàng của núi Libăng, muôn dân sẽ nhìn thấy ánh sáng huy hoàng của Thiên Chúa… Thiên Chúa sẽ làm cho thân xác và tâm hồn các ngươi trở nên mạnh mẽ không còn sợ hãi. Hãy nói với những kẻ nhát gan sợ hãi: can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi…Chính Người sẽ đến cứu thoát anh em.” Những lời hứa hân hoan phấn khởi như thế, đã tạo nên một sức mạnh mới, một hy vọng mới cho Israel trong lúc tối tăm cùng cực, giúp Israel tin rằng, cho dù họ có lìa bỏ Thiên Chúa thì Thiên Chúa vẫn không từ bỏ họ, Ngài vẫn ở bên họ.

Không chỉ dân Do Thái mà như Gioan Tiền Hô trong lúc đau khổ tù đầy, cũng cảm thấy dường như Thiên Chúa vẫn ẩn mặt xa mình. Câu chuyện Tin Mừng thuật lại: “Lúc đó Gioan đang ngồi tù, ông sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: Thầy có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng nào khác?” Sự kiện này cho thấy Gioan, cả một cuộc đời loan báo về đấng cứu thế, từng trình bày cho mọi người về một đấng cứu thế như một vị quan toà nghiêm khắc, thẳng tay trừng trị mọi kẻ sai lỗi: “cái rìu đã kề sẵn gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị Ngài chặt đi hoặc các ngươi đừng hòng trốn chạy cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.” Nhưng thực tế Đấng Cứu Thế mà ông giới thiệu: “Đây chính là Chiên Thiên Chúa” lại không hành động như ông loan báo. Ngài nhân từ với kẻ có tội, Ngài tha thứ cho kẻ biết sám hối ăn năn, Ngài kiên nhẫn đợi chờ con người sinh hoa kết trái, Ngài không chặt không chém.

Gioan đã bị dằn vặn bởi điều này và sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Ngài có phải là Đấng phải đến không hay chúng tôi còn phải đợi một đấng nào khác?” Chúa Giêsu đã dùng những lời tiên báo của Isaia để trả lời cho các môn đệ Gioan: “Các anh về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được khỏi, người chết sống lại và người nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” Khi trả lời như thế, Chúa Giêsu đã gián tiếp xác nhận với Gioan rằng Ngài chính là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri đã loan báo. Ngài đến không phải để phá hủy, nhưng để xây dựng; không phải để phân tán, nhưng để quy tụ; không phải để trừng phạt, nhưng tha thứ và đổi mới; Ngài không ở xa hay ở bên ngoài, nhưng ở ngay bên để yêu thương và chữa lành các tâm hồn. Đức Giêsu cũng muốn Gioan thay đổi cách nhìn về Ngài, Ngài không phải một vị thần hung dữ nóng nảy, nhưng là một Thiên Chúa nhẫn nại và yêu thương, nên Ngài đã nói: “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”

Thưa quý OBACE, nhiều Kitô hữu ngày nay vẫn mang cái nhìn như người Do Thái cho rằng: Thiên Chúa đã vắng mặt khi con người đau khổ, hoặc như Gioan Tiền Hô nhìn Thiên Chúa như một thẩm phán nghiêm khắc. Có những người nóng vội, muốn Thiên Chúa phải ra tay ngay lập tức trừng phạt kẻ ác và đáp ứng ngay mỗi khi con người cầu xin. Họ muốn Thiên Chúa phải chấp nhận giải pháp của mình thay vì ép mình phải đón nhận giải pháp của Thiên Chúa.

Mỗi khi có các biến cố hoặc gặp đau khổ, nhiều người đã không còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong các biến cố xảy ra vì họ đã mời Thiên Chúa ra khỏi nhà mình để đón thần tài, ông địa và tà ma vào gia đình. Họ muốn tự giải quyết tất cả hoặc dùng tiền bạc, công việc của mình để thay thế Thiên Chúa. Nhiều cha mẹ đã để gia đình mình trở nên trống rỗng hoặc đầy ắp các công việc và lo toan khác, mà không còn chỗ, không còn giờ cho Thiên Chúa trong đời sống gia đình. Cũng vậy, nhiều bạn trẻ nghĩ rằng khoa học và công nghệ sẽ thay thế Thiên Chúa, vì vậy họ tôn thờ khoa học và mời Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Họ để cho sự cao ngạo, lười biếng và những thú vui làm chủ cuộc đời mình thay chỗ của Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay là một lời nhắc cho chúng ta nhớ rằng: Thiên Chúa vẫn hiện diện bên cạnh chúng ta, trong từng biến cố vui buồn xảy ra của cá nhân và gia đình, xã hội. Ngài chờ chúng ta ngỏ lời với Ngài, xin Ngài trợ giúp, can thiệp và chừa cho Ngài một chỗ trong tâm hồn và gia đình, để Ngài có thể hiện diện, trợ giúp và bênh đỡ chúng ta. Thánh Giacôbê trong bài đọc hai còn khuyên chúng ta đừng để mình mất kiên nhẫn hoặc rơi vào chán nản thất vọng, đừng phàn nàn kêu trách, vì Thiên Chúa là Vị Thẩm Phán khoan dung nhân từ đang đứng ngoài cửa, đang chờ chúng ta mở cửa cho Ngài.

Xin cho niềm vui chờ đón ngày đại lễ Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở việc trang trí bên ngoài, nhưng là niềm vui sâu thẳm trong tâm hồn vì mỗi người nhận ra sự hiện diện của Chúa, nghe được tiếng Chúa và mở cửa cho Chúa, mời Chúa bước vào tâm hồn cũng như gia đình mình. Chúa sẽ là thượng khách đem lại bình an và niềm vui cho tâm hồn. Amen.

 

.

MONG ĐỢI

Lm Vũđình Tường

Thánh Gioan Tiền Hô đi trước Đấng Cứu Thế, rao giảng chuẩn bị tâm trí mọi người đón nhận Đấng Cứu Thế khi Ngài đến. Gioan rao giảng

‘Hãy thống hối, vì nước trời đã đến gần’ Mat 3,1.

Gioan kêu gọi mọi người thống hối, nhận phép rửa từ ông như là dấu chỉ của thống hối, ăn năn, trở về con đường công chính. Gioan tin tưởng Đấng Cứu Thế sắp đến và khi Ngài đến, Ngài sẽ đến với oai phong, dũng mạnh và quyền lực. Nhắc lại bài đọc tuần trước, Gioan rao giảng

‘Cái rìu đã đặt sát gốc cây, cây nào không sanh quả tốt đều bị chặt, quăng vào lửa… tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa… thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Mat 3,11.

Vua Hêrôđê bắt giam Gioan vào ngục tối vì ông can đảm ngăn cản vua cưới chị dâu, bà Herodias là vợ của anh trai. Mat 14,1-12. Lí do khác có lẽ do tiếng vang của Gioan. Hêrôđê sống trong lo sợ, ngày nào đó ngai vàng của ông sụp đổ vì theo ông, đám đông tin theo, đặt kì vọng vào Gioan, và họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì Gioan kêu gọi, ngay cả việc nổi loạn chống lại nhà vua. Hêrôđê sợ đám đông và cũng sợ mất ngai vàng.

Gioan tin là khi Đấng Cứu Thế đến Ngài sẽ sửa phạt những tâm hồn cứng đầu, bởi lòng dạ họ ra chai đá, không chịu thống hối, đón nhận tin mừng. Trong ngục thất, Gioan nghe tiếng đồn thổi về Đức Jesu. Ngài đến không mang sửa phạt, mang lửa thiêu đốt, trái lại Ngài đến để tha thứ, chữa lành và chung bàn ăn với phường gian ác, kẻ tội lỗi. Điều này nằm ngoài mong đợi của Gioan, vì thế ông thắc mắc và sai môn đệ của mình đến gặp Đức Kitô hỏi cho rõ lẽ xem, Ngài là Đấng Cứu thế hay ông còn phải đợi Đấng khác. Trả lời môn đệ Gioan, Đức Kitô không xác nhận, cũng không từ chối. Ngài nói với họ, về thuật lại cho Gioan biết những gì các ông nghe và thấy:

Người mù xem thấy, kẻ què đi được, phong hủi được sạch, kẻ điếc được nghe, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo được Tin Mừng Lc 11,5.

Đức Kitô đến rao giảng tình yêu vô biên của Thiên Chúa, lòng Chúa xót thương vô bờ. Đấng rộng lượng, từ bi . Ơn gọi của Đức Kitô là tái tạo trật tự vũ trụ do tội lỗi gây ra, và lấy lại sự sống trường sinh cho nhân loại. Lí do khác khiến Gioan bất an bởi ông bị cầm tù, lo lắng không làm tròn nhiệm vụ rao giảng mở đường cho Đấng Cứu Thế. Đại đa số trong chúng ta, cuộc sống khổ sở ngục tù, thiếu ăn, thiếu ngủ, bệnh tật hành hạ, ghẻ lở, đe doạ, đánh đập, ảnh hưởng đến tâm trí họ, phán đoán bị lung lạc. Gioan có lẽ không qua tâm nhiều đến an toàn bản thân. Ngài không sợ chết rũ tù, nhưng sợ không hoàn thành trách nhiệm rao giảng và đó là mối quan tâm hàng đầu của ông. Sai môn đệ đến gặp Đức Kitô với hy vọng làm sáng tỏ vấn đề ông đang quan tâm. Một khi Gioan chắc chắn, Đấng Cứu Thế đã đến, ông cũng biết và an tâm mình đã hoàn thành sứ mạng và ngày ra đi gần kề. Sau khi môn đệ Gioan đi khỏi, Đức Kitô ca ngợi Gioan trước đám đông. Gioan, một thân, một mình, không quân đội, không giữ chức vụ nào trong chính quyền, thế mà nhà vua lo lắng, sợ sệt. Một người có đám đông ủng hộ, tiếng tăm vang lừng, dẫu thế Đức Kitô nói với mọi người, người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn những gì Gioan nhận được từ trần thế. Những ai chân thành đón nhận Đấng Cứu Thế vào trong cõi lòng sẽ nhận được vinh quang nước trời. Đó là phần thưởng dành cho những tâm hồn tín trung.

 

.

ĐÊM TỐI CỦA ĐỨC TIN ẤY LÀ KIẾP NGƯỜI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Dữ kiện “đêm tối đức tin” có lẽ là chuyện thường tình trong cuộc đời của nhiều vị thánh như thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Têrêxa Avila hay thánh Gioan Thánh Giá và gần đây thông tin cho hay rằng nó hiện diện cả trong cuộc đời của mẹ Têrêxa Calcutta. Và dù rằng được chúc phúc vì đã tin nhưng ngay cả Mẹ Maria cũng không tránh được những thời điểm hay giai đoạn phải lần bước trong đêm tối.

Bài trích Tin Mừng theo thánh Matthêu của Chúa Nhật III mùa Vọng năm A mà Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta một cách nào đó nói đến đêm tối đức tin của thánh Gioan Tẩy giả. Ý thức mình được kêu gọi làm tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả nhiệt thành, hăng say mời gọi mọi người, mọi thành phần dân Chúa xưa sám hối ăn năn. Dân chúng tuôn đến với Ngài trên bờ sông Giođan nhiều khôn xiết. Dân nghèo hay người thất học có đó. Kẻ giàu sang hay người quyền quý cũng không thiếu. Người thu thuế hay binh lính vẫn có mặt. Thậm chí đến các vị đang được xem là đạo đức như người biệt phái hay các vị tinh thông lời Chúa như các luật sĩ vẫn hiện diện. Tất cả dường như nghe theo lời khuyên bảo của Gioan, cho dù Ngài thỉnh thoảng nói với họ những lời chói tai, khó nghe.

Mình chỉ là người dọn đường, người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và kìa, Đấng Cứu Thế, Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian đã đến. Đã như xong phận vụ, giờ thì cần Người phải lớn lên còn mình thì phải nhỏ lại (x.Ga 3,30). Người mà lớn lên thì triều đại nước Thiên Chúa sẽ hiển trị. Và chắc chắn nhiều sự sẽ có đổi thay, dĩ nhiên là theo hướng tốt đẹp, đặc biệt những gì Ngôn Sứ Isaia loan bào sẽ trở thành hiện thực. Mình đã thấy Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người. Chắc chắn Người sẽ “loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giập nát, giải thoát những kẻ bị giam cầm…” (x.Is 61,1-2). Thế mà cớ sao mình vẫn mãi chịu cảnh chôn chân trong bốn bức tường ngục tù? Không lẽ Đấng Cứu Thế lại thua một bạo vương Hêrôđê? Ngài có phải là Đấng phải đến chăng, hay mình còn phải đợi Đấng nào khác? Không được gặp trực tiếp với Người thì mình đành nhờ các môn đệ gửi lời nhắn hỏi.

Tuy nhiên, theo nhiều nhà chú giải Thánh Kinh hiện nay, chính Gioan cũng đã phải trải qua sa mạc đức tin. Quả vậy, nhiều khi vì quá lo bảo vệ sự tinh tuyền của đức tin của Gioan Tẩy giả nên nhiều nhà tu đức đã từng cắt nghĩa rằng thánh nhân tận dụng dịp thuận tiện để củng cố đức tin cho các môn đồ. Không thể tiên thiên loại trừ giả thiết này. Tuy nhiên nhiều khi vì qua lo chuyện bao đồng mà ta vô tình hay hữu ý lãng quên một hiện thực của kiếp người. Đang còn lữ thứ trần gian thì chúng ta mãi vẫn còn thấy cách “lờ mờ” về các thực tại. Và đêm tối đức tin là một sự thật luôn tồn tại với kiếp người trần gian lữ thứ.

Vào trần gian, mang lấy kiếp người Đức Kitô cũng không là ngoại lệ cho dù Người là Con Chiên tinh tuyền, vẹn sạch. Cơn xao xuyến bồi hồi của Chúa Giêsu là rất thật. Máu của Người đã rỉ ra theo các tuyến mồ hôi không phải là kiểu nói phóng đại. “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”(Mc 15,34). Những lời than thở của Người trên cây thập giá, phút giây hấp hối minh chứng cho ta sự thật này: Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô vẫn phải trải qua nhiều thử thách. Dù luôn tín thác vào Cha nhưng Người cũng đã trải qua những đau khổ, một cách nào đó giống như những cuộc thử thách đức tin mà chúng ta phải chịu.

Trong số các Tông đồ thì dường như thánh tông đồ dân ngoại là người chịu thử thách lớn lao hơn cả. Hăng say, nhiệt tình loan báo tin mừng thế mà số phận của Ngài thật lắm truân chuyên: “năm lần bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi.” (2Cr 11,24-25). Ngục tù là nơi thường đón đợi thánh nhân. Những khó khăn bên ngoài do hoàn cảnh, do tha nhân mà Ngài phải chịu thì đã đành, thế mà ngay cả cái dằm trong thân xác của Ngài cũng chẳng để Ngài yên. Thánh Phaolô cảm nghiệm rằng Chúa không để ta chịu thử thách quá sức đâu. Ơn Người luôn đủ cho ta. Và ai bền đổ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.

Hãy bền chí trong gian truân và kiên nhẫn trong đêm tối, rồi Chúa sẽ đến cứu thoát chúng ta. Đây là những lời động viên của thánh Giacôbê tông đồ, qua bài đọc thứ hai (x.Gc 5,7-10), đã nói với đoàn tín hữu thời sơ khai cũng như với chúng ta mọi thời.

Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn bày tỏ sự hiện diện của Người qua con người, qua chính chúng ta. “Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mõi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi” (Is 35, 3-4). Làm sao để nâng đỡ tinh thần những người đang chao đảo? Làm sao giúp họ thêm vững tin vào Chúa Kitô là Đấng Thiên sai mà Thánh Kinh đã loan báo? Tiên tri Isaia đã phác họa những việc làm cụ thể của đấng Thiên sai bằng những hình ảnh: “người mù sẽ thấy; người điếc sẽ được nghe và người què sẽ nhảy như nai” (Is 35,5-6).

Trước sự chao đảo của Gioan Tiền Hô, Chúa Kitô cũng đã nhắn gửi các môn đệ ông rằng: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó” (Mt 11,5).

Đức Kitô đã thắng thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là chưa chấm dứt nơi con cái loài người. Thần dữ và những kẻ đồng minh với nó vẫn đang ra sức hoạt động, hòng làm lung lay niềm tin chúng ta. Với sự công phá của thế lực đen tối, không ít Kitô hữu hôm nay như mất phương hướng. Thậm chí có người dám tuyên bố là đã đến thời kỳ hậu Kitô giáo. Thiết nghĩ không gì hơn là kiên trì thực thi những dấu chỉ của Nước Trời: Loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, làm cho người câm nói được, người què lại nhảy như nai… Chính khi ta góp phần với Chúa một tay dù là bé nhỏ để làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, làm tăng sức cho những đầu gối mõi mòn thì chúng ta lại được vững vàng và mạnh mẽ trong đức tin. Trong tình yêu, có nhiều điều như nghịch lý mà rất hiện thực, như lời thánh Phanxicô Axidi trong lời “Kinh hoà bình”. Quả thật, chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và chắc chắn sẽ lãnh nhận gấp muôn ngàn lần.

 

.

CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Hôm nay là Chúa Nhật của sự vui mừng và niềm hy vọng. Niềm vui của Giáo Hội đã trải dài qua lịch sử ơn cứu độ. Giáo hội không ngừng mời gọi con cái mình hãy vui lên, vì ơn cứu độ đã gần kề. Lịch sử cứu độ nối tiếp lịch sử của dân tộc Do-Thái. Họ đã sống qua ngàn năm đợi chờ. Nay Đấng Cứu Thế xuất hiện giải thoát dân khỏi vòng tăm tối và nô lệ của tội lỗi. Tiên tri Isaia đã loan báo rằng hoang địa khô cằn sẽ vui mừng và cõi tịch liêu sẽ hân hoan.

Thánh Gioan Tẩy Giả được vinh dự làm kẻ tiền hô. Ông đã đi trước dọn đường cho Chúa. Mời gọi mọi người hãy ăn năn sám hối. Ông là nhân chứng cho sự thật. Cũng chính vì nói lên sự thật, ông đã bị tống giam trong ngục. Trong ngục tù, ông đã có linh cảm giờ chết sắp đến. Gioan ghi nhận còn có nhiều người, ngay cả các môn đệ dấu yêu, chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhiều người còn đang hoang mang nghi ngờ. Chính Gioan đang trong tù ngục đã muốn xác minh con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình.

Chúng ta cũng như thánh Gioan, trong hành trình đức tin, cũng có lúc chúng ta nghi ngờ, đôi khi cảm thấy sợ hãi, thất vọng vì hoàn cảnh trái ngang xảy đến trong cuộc đời. Thánh Gioan không ngại sai các môn đồ đi hỏi Chúa. Chúa Giêsu rất hài lòng về sự chân thành và khiêm nhường của Gioan. Chúa đã khen Gioan là vị tiền hô khiêm tốn, liêm chính và anh dũng.
Thánh Gioan biết sự thật về Đấng Cứu Thế qua các việc Ngài đã thực hiện. Ông đã vui mừng vì đã chu toàn sứ mệnh được trao phó. Mỗi người chúng ta được trao ban sứ mệnh làm chứng cho Chúa qua cuộc sống mình. Qua từng lời ăn tiếng nói, từng cử chỉ thái độ và từng cách sống, chúng ta đang làm chứng cho Chúa. Nếu chúng ta muốn vui tươi phấn khởi trong cuộc sống, chúng ta phải vui với chính mình trước, như khi chúng ta soi gương, nếu chúng ta cười, nó sẽ cười lại.

Chúa đến với nhân loại, đó không chỉ là niềm vui riêng cho dân tộc Do-Thái mà cho mọi người. Mỗi người chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa và hãy vui mừng vì ơn cứu độ đã gần đến.

 

.

GIOAN TẨY GIẢ ĐÃ TÌM THẤY

 Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Một đất nước có nhiều tệ đoan như bất công, tham nhũng, luân lý suy đồi, thất nghiệp, vật giá leo thang…tất nhiên dân chúng mất tin tưởng vào chính quyền.

Xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu cũng có nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo. Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân cướp vợ của em mình. Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam rồi bị chém đầu trong tù.

Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai, dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình, người cầm quyền càng khó chịu hơn và thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im lặng. Mục sư Martin Luther King nói: tội lỗi lớn nhất của chúng ta là im lặng trước cái ác và cái xấu, nhất là khi cái ác và cái xấu đang nắm quyền… Cuộc đời của chúng ta bắt đầu kết thúc khi chúng ta im lặng về những điều lẽ ra phải lên tiếng. Trong thế giới này, chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của những kẻ xấu, mà còn vì sự im lặng đáng sợ của cả những người tốt.

Gioan Tẩy Giả là Ngôn sứ công lý, khẳng khái lên án đời sống vô luân của nhà vua nên bị giam và bị chém đầu.

Thánh Gioan đã từng trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc, bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại. Chỉ còn các môn đệ liều mình vào thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan nghe. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi, không thể chịu đựng tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương Hêrôđê Antipát, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực mà ham mê sắc dục gắn bó với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính, hai con người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Không ai dám nói, chỉ có Thánh Gioan lên tiếng. Bênh vực chân lý, nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng nhân bảo vệ chân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống.

Thánh Gioan băn khoăn lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi, vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.

Trước đây, Gioan đã từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giầy cho Người” (Mt 3,11); “Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29).

Gioan không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng Ítraen cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh. Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?

Những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế, khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh ngục tù Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.

Chúa Giêsu không bị giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn ″Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt 11,4-5).

Như vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is 29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng Chúa là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi. Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.

Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo : “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa. Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau khi hoàn tất sứ vụ của mình.

Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất của lẽ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió. Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố biết kiên vững kinh qua tất cả.

Khi chúng ta gặp đau khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin, chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.

Thánh Gioan Tẩy Giả là nhân vật nổi bật của Mùa Vọng. Ngài là Ngôn sứ hy vọng. Đời sống chúng ta là một Mùa Vọng. Mùa Vọng của đức tin, của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn.

Xin Chúa cho chúng ta vững một niềm tin cậy trông vào Thiên Chúa tình thương.

 

.

NHẪN NẠI ĐÓN CHỜ CHÚA ĐẾN

Lm. JB. Hoàng Văn Khanh

  1. Gioan dọn đường

Bên bờ sông Giođan, Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường cho Đấng Thiên Sai sắp đến, như lời ông tự giới thiệu :“Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám hối; Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11). Sứ điệp của ông về sự hoán cải thật đanh thép và minh bạch: “Lưỡi rìu đặt sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10); “Người sẽ cam nia rê lúa, thóc tốt sẽ thu vào kho và lúa lép sẽ quăng vào lửa” (Mt 3,12). Theo ông, Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường sẽ xuất hiện như vị thẩm phán chí công: tiêu diệt sự dữ, trả lại công bình cho những kẻ bị ức hiếp, cứu thoát những ai khốn khổ và khai mở thời cánh chung tràn trề hoan lạc, như Isaia đã từng loan báo (Is 35, 1-6.10). Ông nhiệt thành rao giảng và sung sướng chờ đón ngày ấy chóng đến ! Và này, Chúa Giêsu xuất hiện. Ông đã làm chứng về Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34), là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,36) và chỉ cho mọi người biết đó chính là Đấng mà ông đã loan báo (Ga 1,29). Sau đó, ông bị bỏ tù (Mt 11,2) vì đã can đảm làm chứng cho sự thật khi can ngăn nhà vua Hêrôđê Agrippa không được lấy vợ của anh mình là Philippê (Mt 14,3-12). Sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt với việc ông vào tù, để bắt đầu sứ vụ của Chúa Giêsu với việc Người chịu phép rửa và được tấn phong Mêsia ngôn sứ và vương đế (x. Lc 3,19.21). Giai đoạn chuẩn bị kết thúc với Gioan Tẩy Giả, mở ra giai đoạn mới: Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng và rao giảng Nước Thiên Chúa.

  1. Chúa đã đến

Thật khác xa với những gì mà Gioan đã quan niệm vì Chúa Giêsu đến không phải để đoán phạt nhưng để cứu chữa những gì hư mất; Người không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Người chính thật là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã từng loan báo, như chính Người, trong buổi khai mạc sứ vụ tại Hội đường Nadarét, đã áp dụng cho mình sấm ngôn Isaia chỉ về Đấng Thiên Sai(Lc 4,16-21). Người quan tâm và yêu thương hết mọi người, đặc biệt những người khó nghèo và tội lỗi là những hạng người bị xã hội ruồng rẫy và bỏ rơi. Người chữa lành các bệnh nhân; và mỗi khi chữa lành bệnh phần xác, Người quan tâm hơn đến việc chữa trị tâm hồn, nghĩa là giải thoát họ khỏi sự thống trị tội lỗi và đưa vào đời sống ân tình với Thiên Chúa và tha nhân. Người hiền lành, khiêm tốn và hết tình phục vụ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình”. Mọi người từ khắp nơi tuôn đến để nghe Người giảng dạy và để được Người chữa lành các thứ bệnh tật.

  1. “Ông có phải là Đấng phải đến…?”

Ngồi trong tù, Gioan vẫn hướng lòng về Đấng Thiên Sai và chờ đợi thời mới. Khi được nghe biết về những hoạt động của Chúa Giêsu, ông cảm thấy băn khoăn và hoang mang. Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường phải là Đấng đến để tiêu diệt sự dữ, tái lập trật tự công lý và khai mở thời cánh chung. Đàng này Chúa Giêsu mà ông đã từng làm chứng và chỉ cho mọi người biết lại cư xử hiền hoà, khiêm tốn, yêu thương và tha thứ. Ông sai các đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng phải đến, hay còn phải đợi một Đấng khác.

Gioan nóng lòng chờ đợi Đấng Mêsia, nhưng lại là một Mêsia theo quan niệm của các ngôn sứ thời chuẩn bị, đồng thời cũng là quan niệm của người đương thời về một Mêsia chính trị, đến để phục hưng dân tộc. Còn Chúa Giêsu, Người xác nhận mình là một Mêsia mà các ngôn sứ đã từng loan báo: rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành các bệnh tật, xua trừ ma quỷ …., nhưng không phải là một Mêsia theo quan niệm chính trị, mà là một Mêsia đến thiết lập vương quốc sự thật và yêu thương bằng năng lực tình yêu và phục vụ, một Mêsia cứu độ nhân loại bằng con đường đau khổ của người Tôi trung. Và đó chính là điều gây cớ vấp phạm cho nhiều người như ông Simêon đã từng loan báo ngày Đức Maria dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ (Lc 2,34). Cách trả lời gián tiếp của Chúa Giêsu vừa là một trấn an Gioan, đồng thời xác định cho ông biết Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại không phải bằng con đường vinh quang, nhưng bằng con đường thương khó và tử nạn như Isaia đã loan báo về người Tôi trung (Is 52,13-53,12). Cần nhìn vào các việc Người đang làm mà coi đó như là những dấu chỉ để có thể nhận ra Người là Đấng Mêsia.

  1. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến

Trong một thời đại mà xem ra sự dữ đang lấn lướt, công lý không được tôn trọng, người công chính thường bị ghét bỏ và thua thiệt. Người tín hữu mong chờ Chúa đến để tiêu diệt sự xấu và kẻ gian ác, thiết lập lại trật tự công bình, và khai trương thời đại mới. Đó cũng chính là điều mà Gioan hằng nóng lòng chờ đợi. Thế nhưng, Thiên Chúa đã mạc khải Ngai là Thiên Chúa hay thương xót, chậm giận và không chấp tội (Xh 34,6-7). Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng yêu thương và tha thứ. Người thiết lập vương quốc tình yêu bằng sự phục vụ và tình yêu tự hiến. Vì thế, Người nhẫn nại chờ mong con người hoán cải để ban ơn tha thứ (Lc 13,6-9). Thánh Phaolô coi sự nhẫn nại là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,20). Thánh Giacôbê khuyên dạy tín hữu hãy kiên nhẫn đón chờ ngày Chúa đến, như người nông dân mong chờ mùa gặt (Gc 5,7-10). Sự kiên nhẫn giúp thanh luyện và biểu lộ lòng trung thành, đồng thời tạo điều kiện và thời gian cho kẻ tội lỗi biết hồi tâm sám hối.

  1. Người nhỏ nhất trong Nước Trời

Chúa Giêsu khen ngợi Gioan: “Trong số những người nam đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả”(Mt 11,11). Gioan cao trọng vì ông là vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị cho Đấng Cứu thế, như sấm ngôn Malaki đã loan báo: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1). Không những dọn đường, Gioan còn nhìn thấy, làm chứng và chỉ cho người khác khi Đấng Cứu thế xuất hiện. Gioan đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận cuộc sống khắc khổ trong hoang địa, để chuẩn bị cho sứ vụ và để có thể toàn tâm toàn ý thực hiện sứ mệnh. Gioan đã can đảm làm chứng và sẵn sàng chết để bảo vệ sự thật.

Gioan cao trọng thế đó, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Dù cao trọng, Gioan vẫn còn là người đang đứng bên ngưỡng cửa Nước Trời, như Môsê xưa đứng ở ngưỡng cửa Đất Hứa. Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời cao trọng hơn ông vì được diễm phúc tham dự vào vương quốc do Chúa Giêsu thiết lập. Chỉ nhờ lòng tin mà người ta mới có thể gia nhập Nước Trời và cũng chính đức tin mới làm nên sự cao trọng đó, như bà Elisabeth đã từng khen ngợi Đức Maria: “Bà thật có phúc vì đã tin… ” (Lc 1,45).

 

.

BẠN CÓ PHẢI LÀ ĐỨC GIÊSU KHÔNG?

Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

Trong một lớp học giáo lý dành cho các em lớp Sáu mới chuyển cấp, một thầy giáo muốn dạy về Chúa Giêsu nên khai mào bằng những lời sau đây: “Hôm nay thầy muốn giới thiệu với các em về một nhân vật mà tất cả chúng ta đều phải gặp mặt. Nhân vật đó là một người rất yêu thương và quan tâm đến các em còn hơn cả cha mẹ, anh chị, hay bạn bè của các em. Ngài là người rất nhân từ và sẵn sàng tha thứ cho dù lầm lỗi của các em có khủng khiếp đến đâu đi chăng nữa. Dù các em có xấu xa thế nào thì ngài vẫn đón nhận, cảm thông và yêu mến.”

Đang khi nói, thầy giáo để ý thấy một đứa bé chăm chú lắng nghe và tỏ vẻ thích thú lắm. Thế rồi, dường như không cầm lòng được, cậu ta buộc miệng thốt lên: “Ồ, em biết thầy đang nói về ai rồi. Có phải là cha quản nhiệm của chúng ta không?”

Chẳng biết thầy giáo trả lời với em bé thế nào, nhưng câu nói của em đã khiến tôi giật mình. Em đã nhìn thấy nơi vị linh mục quản nhiệm hình ảnh của Đức Giêsu mà thầy giáo đang muốn trình bày. Không biết các hành vi, thái độ, lối sống nơi con người tôi có làm toát lên dung mạo của Đấng Cứu Thế không? Người ta sẽ thấy và nghĩ tôi là ai, một người có Chúa Giêsu hay một kẻ vô đạo?

Ngày xưa, khi Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”, Ngài đã không trả lời bằng những câu rất dễ như: “Đúng vậy” hay “Ta là Đấng các ngươi mong chờ.” Trái lại, Đức Giêsu đã hướng hai ông đến với các việc Ngài làm. Những gì mà xưa kia Isaia tiên báo về Đấng Cứu Thế thì nay đang thành sự. Ấy là: “Mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được loan báo tin vui.”

Đúng là trăm nghe không bằng mắt thấy. Lời nói dễ hơn việc làm, nhưng hành động mới chinh phục mạnh hơn ngôn từ. Đức Giêsu đã khẳng định Ngài là Đấng phải đến không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động. Và Ngài mời gọi hai môn đệ hãy nhìn vào bao sự lạ lùng đang xảy ra để thuật lại cho Gioan, hầu củng cố niềm tin của ông vào Đức Mesiah.

Chắc hẳn niềm tin này không mang ông ra khỏi bao tù của vua độc gài và gian dâm Hêrôđê, người đã loạn luân khi lấy vợ của anh mình; niềm tin đó cũng chẳng giúp ông thoát được cái chết đớn đau cô độc, nhưng nó lại có sức trợ lực ông vững bước đến cùng trên hành trình rao giảng và bênh vực cho Chân lý. Đây là phúc lộc lớn lao mà Đức Giêsu muốn trao tặng cho vị tiền hô của mình: “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta.” (Mt 11:6)

Có thể nhiều khi trong đời, tôi phải trải qua những bế tắc của chốn “lao tù” thế gian, chung quanh chỉ là bóng tối của khốn khổ lao đao. Nào là tai ương ập xuống, vợ chồng mất việc, tài sản hư hao, con cái bệnh tật… rồi bao cảnh trái tai gai mắt dường như muốn đánh gục niềm tin của chính mình. Và có lẽ đã không ít lần tôi hỏi Chúa: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, hay tôi phải tìm đến người nào khác? Có lẽ thầy này, bà kia, hay chiêm tinh gia này, tử vi bói toán nọ còn có thể cứu tôi, chứ theo Đức Giêsu… sao chẵng thấy được gì.” Phải chăng không ít lần tôi cũng đã đặt vấn đề như thế?

Trước bao tăm tối và nghi nan nơi ngục tù, lời nói của Chúa Giêsu – “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta” đã trở thành lời an ủi khích lệ lớn lao cho Gioan. Cuối cùng, ông đã đóng trọn vẹn vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế bằng những giọt máu hành anh của mình.

Không mong được giải thoát bằng phép lạ, nhưng chỉ khát khao được đỡ nâng để đi đến cùng hành trình đức tin của mình chính là mẫu gương cho tôi nhắm tới. Khi nền luân lý bị nhiễu nhương, khi đam mê xác thịt quật ngã bao lớp người, khi tình trạng rối vợ rối chồng xảy ra như cơm bữa, tôi phải có can đảm lội ngược dòng đời, dù như thế sẽ bị cô độc lẻ loi, dù như thế sẽ bị giam hãm đọa đày, nhưng chỉ có sống như thế, tôi mới làm sáng tỏ dung nhan Đức Kito, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.

Nói tôi có đạo, dễ quá. Chứng minh tôi có niềm tin vào Thiên Chúa bằng lối sống ngay chính và bằng hành vi yêu thương quả là một thách đố không nhỏ bé gì.

Song, “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi,” ngôn sứ Isaiah đã nói như thế, bởi vì rồi đây “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy (ánh quang chân lý), tai người điếc sẽ được nghe (Tin mừng cứu độ), người què sẽ nhảy như nai (trên lối đường công chính)…người ta sẽ hoan hỉ triền miên và vui mừng khoái trá. Họ sẽ không còn đau buồn nữa, và rên siết sẽ trốn xa.” (Is 35)

Sự đỡ nâng lớn lao nhất cho người Kitô hữu chính là Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ai siêng năng rước Chúa sẽ nhận được sức mạnh vượt thắng bao giông tố của dòng đời. Ai thường xuyên tiếp đón Ngài sẽ được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, và lúc ấy, “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nhưng Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 3:20)

 

.

AI LÀ “THẦY” CỦA TÔI?

Lm. Hà Ngọc Đoài

“Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng con phải đợi Đấng khác?” (Mt 11:3).

Niềm vui của cha mẹ là sinh con ra đời, và ước muốn cũng như sự quan tâm của cha mẹ là tìm trường có thầy giỏi để gửi con theo học. Ai cũng biết rằng gia đình là “mái trường” đầu tiên cho mọi người con và cha mẹ là “thầy” có nhiều ảnh hưởng nhất cho con từ thuở nhỏ. Nhưng khi con lớn, thì cần những khả năng chuyên môn để vào đời. Nhiều lãnh vực cha mẹ không giúp con được, nhất là những phương diện làm người trong xã hội cần có thầy cô dạy dỗ. Cho dù ở nhà hay đi tới trường, tương lai của người học sinh đều chịu ảnh hưởng của sự giáo dục.

Trong lãnh vực tôn giáo, sự ảnh hưởng lại còn quan trọng hơn vì tôn giáo tạo nên những con người tốt cho xã hội. Nếu may mắn, ta được giáo dục trong một Tôn giáo chân chính, thì đời của ta sẽ sống trong hạnh phúc và trọn đầy ý nghĩa. Những thử thách chỉ là cơ hội để rèn luyện và tăng cường niềm tin cho ta mà thôi. Nếu không may, ta gặp những thầy không chân chính, họ là những “tiên tri giả”, thì đời của ta bồng bềnh như con thuyền vô định hướng và đi tới chỗ nguy hiểm.

Hiện nay có nhiều “tiên tri giả” xuất hiện để lôi cuốn thị hiếu của nhiều người. Những người thích nghe theo các tôn giáo mới thường tìm nơi đó những thỏa mãn của cảm tình tạm thời, hoặc những “mặc cả – thương lượng” xoa dịu ý riêng của ta! Chẳng hạn, chúng ta thấy có nhiều tôn giáo mới “Doomsday” xuất hiện lôi cuốn nhiều tín đồ vào chỗ chết tập thể bởi những hứa hẹn không căn bản. Trong số tín đồ đó, đa số lại là những người tài giỏi chuyên môn về các ngành của khoa học tân kỳ. Chúng ta làm học trò một lần trong đời. Nếu học sai bài của “tiên tri giả” thì đời chúng ta sẽ bị nhiều thiệt thòi vô ích. Biết tìm đâu được “Thầy” chân chính? Muốn phân biệt thầy chân chính hay tạm thời, chúng ta hãy nhìn cách sống của họ. Thầy giả thì khai thác tín đồ, còn thầy chân chính thì đem ích lợi cho tín đồ. Gương sống động của Đức Kitô cho ta biết Thiên Chúa sai Con của Người xuống để ở với chúng ta “Emmanuel”. Ngài trả lời câu hỏi muôn người bằnt việc làm và sự cứu độ. Ngài mời chúng ta đến chứng kiến, “Kìa nhìn xem, người mù được thấy, người què đi được, người phung hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt 11:4) Ai làm được như vậy, nếu không phải là Đức Kitô, một người Thầy chân chính mà chúng ta đang chờ đợi trong Lễ Giáng Sinh?

THỰC HÀNH:

“Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con ” (Is 35:4).

Mọi người đang sống trên trần gian là một khách hành hương. Có những người đang bơ vơ lạc lõng mà không biết kêu cứu ai! Phúc thay cho các Kitô hữu được Thiên Chúa đến đồng hành và hướng dẫn về nơi vĩnh cửu.

 

.

ĐẤNG THIÊN SAI

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện từ lâu, cách đây hơn hai ngàn năm và Ngài đã cho môn đệ của Ngài đến gặp Chúa Giêsu, đặt câu hỏi như sau: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác” ( Mt 11, 3 ). Đây là vấn nạn mà Gioan Tẩy Giả trong suốt quãng đời rao giảng đã luôn thắc mắc, do đó, Gioan đã sai các môn đệ đến chất vấn Chúa để xem Chúa trả lời thế nào? Tuy nhiên, khi các môn đệ trở về để trả lời cho Gioan Tẩy Giả về những lời Chúa Giêsu nói, Gioan đã nhận ra ngay Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế phải đến trong thế gian. Vấn nạn của Gioan cũng cho chúng ta hiểu Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian, là Đấng cứu độ, Đấng mang ơn cứu rỗi cho mọi người…

Đấng Thiên Sai không phải là một Thiên Chúa như con người tự nghĩ, do con người vẽ ra. Thực tế, dân Do Thái xưa và ngay chính các môn đệ cứ tưởng Đấng cứu thế phải là một Vị Vua thật oai phong, đánh Đông, dẹp Bắc, Đấng tới để khôi phục Vương Quyền cho Israen, để rồi muôn dân sẽ được sung sướng, giầu sang phú quí theo kiểu trần gian và rồi các môn đệ sẽ được chia nhau ghế ngồi trong nội các của Vua Giêsu.Chúa Giêsu đã đến thế giới trong cảnh nghèo nàn của hang đá máng cỏ Bêlem. Chúa Giêsu đã lớn lên trong gia đình Nagiarét nơi làng quê không có gì làm nổi bật, không có gì là giầu có. Chúa đồng hóa với những con người khó nghèo, cơ cực, những người bị tù đầy, những người neo đơn, tất bạt. Chúa đến như một vị Vua hiền từ, khiêm nhượng, và rồi trong ba năm giảng đạo, Ngài đã đi đây đi đó:” Chồn có hang, chim có tổ, con Người không có đá gối đầu “. Ngài đã tiến vào Giêrusalem trên mình con lừa, được trẻ em Do Thái và dân chúng tung hô là Vua, nhưng cái trớ trêu Vua là Vua thiêng liêng, Vua nhân hậu, Vua không quân đội, không có cung điện như các Vị Vua trần gian.Loài người, con người ở muôn thời vẫn cứ mường tượng, vẫn cứ suy nghĩ, vẫn cứ vẽ ra một Vị Vua theo ý của họ. Tuy nhiên, Vua Giêsu là Vua mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: “ Đấng làm cho kẻ mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được, người cùi được sạch, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe giảng Tin Mừng “ ( Mt 11, 5 ).Té ra Đấng Thiên Sai là như thế! Ngài là Vua uy quyền, oai phong nhưng lại hết mực nhân từ, khiêm nhường. Câu trả lời duy nhất của Chúa cho các môn đệ của Gioan đến găp Chúa: “Các anh cứ về thuật lại cho ông gioan những điều mắt thấy tai nghe”( Mt 11, 4 ).

Đọc lại Tin Mừng và suy nghĩ kỹ câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Gioan Tẩy Giả, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì những điều con người vẽ ra về một Đấng Cứu Thế hoàn toàn sai lạc. Đấng Cứu Thế mãi mãi từ muôn đời vẫn chỉ là Một Con Thiên Chúa làm người thật nhân hậu, hiền lành và đầy yêu thương. Chúa Giêsu luôn là Đấng Thiên Sai như ngôn sứ Isaia đã loan báo từ bao nhiêu nghìn năm trước. Dung mạo của Ngài trước sau vẫn chỉ là Đấng Cứu Thế hiền lành và khiêm nhượng.

Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng dọn đường cho Chúa.Ngài cũng là người hạnh phúc vì được giới thiệu Đấng Cứu Thế cho nhiều người.Chúa Nhật III Mùa Vọng nói lên niềm vui vì Đấng Thiên Sai đã gần đến như lời thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê đã viết: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa!Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì Chúa đã đến gần “ ( Pl 4, 4-5 ).

Xin mượn lời Véronique Margron để kết luận bài suy niệm này: “Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng chuẩn bị con đường này. Những người bạn đồng hành, những con người nghèo khó hay cả những người tàn tật, họ đang ở đây quanh ta. Nơi đây, không có chỗ cho những ai nghĩ rằng mình tốt lành, hay nghĩ rằng mình có mọi thứ. Đấng chúng ta hy vọng sẽ không lừa dối chúng ta. Ngài không hứa hẹn một thế giới không bạo lực và không có sự dối trá. Sự Giáng sinh, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài thể hiện cho chúng ta thấy sự gần gũi thân ái bằng chính cả cuộc sống của Ngài…Để tưới mát tâm hồn đang khô cằn trong ta, chúng ta không cần phải chờ đợi một ai khác ngoài Đấng mang hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu, xin mau đến. Maranatha, xin hãy đến. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:

  1. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Gioan đến gặp chúa Giêsu?
  2. Quan niệm của dân chúng thời Chúa Giêsu nghĩ gì về Ngài?
  3. Dung mạo đích thực của Chúa Giêsu?
  4. Gioan Tẩy Giả là ai?
  5. Chúa Nhật III Mùa Vọng nói lên gì?

 

.

ĐỂ KHỎI VẤP NGÃ VÌ CHÚA KITÔ

Lm Phạm Ngọc Ngôn

Cái giá cho sự bảo vệ chân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống đã đẩy Gioan Tẩy Giả vào con đường ngục tù. Ở trong tù, điều Gioan Tẩy Giả băn khoăn lo lắng không phải là cái giá của lẽ phải mà ông đang phải gánh chịu, nhưng chính là những thắc mắc xung quanh Đấng mà ông vẫn hằng rao giảng. Chính vì thế, ông đem những thắc mắc này hỏi trực tiếp Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đến hỏi Người: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

Chúng ta biết, Gioan Tẩy Giả không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời.

Thế nhưng, những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương; Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ; đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người ra sức yêu thương, bao bọc chở che và chữa lành chứ không phải xa lánh vì sợ luật ô uế như các Rabbi. Chính vì thế, cuộc khủng hoảng về niềm tin của Gioan Tẩy Giả xảy ra cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, đối diện với cuộc khủng hoảng đó, cùng với hoàn cảnh ngục tù, đã không làm cho ông lún sâu vào đường hoang mang lo lắng. Ông tìm đến Đấng “gây nên” cho ông sự khủng hoảng đó để tìm sự giải đáp. Và ông đã tìm thấy.

Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp những thắc mắc của Gioan Tẩy Giả, Người mời gọi các môn đệ của ông chứng kiến những gì Người đang thực hiện. Các môn đệ Gioan Tẩy Giả đến với Chúa Giêsu đúng vào lúc Người đang thi hành sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Và vì thế, các ông đã tận mắt chứng kiến những việc Chúa Giêsu đang thực hiện- điều mà xưa kia, Ngôn sứ Isaia đã loan báo về thời của Đấng Mêsia: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng. Chắc một điều, khi nghe các môn đệ kể lại, Gioan Tẩy Giả sẽ hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan Tẩy Giả hiểu rằng Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại.

Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ ông. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ; Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử vì đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó.

Mùa Vọng chỉ thật sự có ý nghĩa khi mỗi người chúng ta biết chạy đến với Chúa, không ngừng xin Chúa củng cố, nâng đỡ niềm tin; đồng thời xin Chúa hoá giải những hoang mang lo lắng trong cuộc sống nhân sinh để giữ vững niềm tin, ngõ hầu không một chướng ngại, thử thách nào có thể làm chúng ta “vấp ngã vì danh Chúa Kytô”.

 

.

THIÊN CHÚA ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA

Lm Trần Thanh Sơn

Ngày hôm nay, có lẽ không có gì nhiều hơn là quảng cáo. Quảng cáo có mặt khắp nơi: đơn giản như một tờ áp phích dán trên tường, một tờ bướm cho đến các phương tiện hiện đại hơn như truyền thanh, truyền hình… cũng đầy dẫy các tiết mục quảng cáo.

Các hình thức để quảng cáo thật phong phú, nhưng mục đích chỉ có một: sản phẩm đang được quảng cáo là thứ tốt nhất trong các sản phẩm cùng loại. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong cùng một chương trình quảng cáo, vừa giới thiệu thứ dầu gội đầu này là số một, thì sau đó lại giới thiệu một thứ dầu gội khác là hàng đầu thế giới. Thứ bột giặt này là “chuyên gia giặt tẩy vết bẩn”, còn thứ bột giặt kia thì lại được giới thiệu như là “một chọn lựa của người nội trợ đảm đang…” Nghe qua, tôi cũng không biết thứ nào là tốt thật, thứ nào chỉ là quảng cáo. Bởi lẽ, nếu thứ nào cũng số một, thì vị trí thứ hai dành cho ai?

Chính vì thế, con người chúng ta hôm nay như đang bị lạc lối giữa thật và giả. Có những điều tưởng là giả, nhưng lại là thật, và có những điều tưởng chừng như là đúng, nhưng lại là sai. Nhiều khi cái sai, điều xấu lại mang những dáng vẻ bên ngoài rất tốt đẹp. Do đó, để nhận ra được đâu là chân lý, đâu là cái tốt thật, chúng ta không thể chỉ nghe theo những lời quảng cáo, nhưng cần nhìn vào chính hiệu quả của sản phẩm. Tương tự như thế, lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn xem những dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.

  1. Một thắc mắc của đời thường:

Ngay mở đầu bài Tin mừng, thánh sử Matthêu ghi lại một vấn nạn của Gioan về chính con người của Đức Kitô: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”. Khi nghe câu hỏi này của Gioan, có lẽ nhiều người trong chúng ta thắc mắc: Tại sao ngay trong Chúa Nhật vừa rồi, Gioan vừa làm phép rửa, vừa lớn tiếng giới thiệu Đức Kitô cho toàn dân Israel, như là Đấng Messia của Thiên Chúa, Đấng mà ông “không đáng xách giày Người”. Vậy mà giờ đây, ông lại cho người hỏi Đức Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?”. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần biết rằng theo niềm tin và suy nghĩ của Gioan cũng như của toàn dân, khi Đấng Messia xuất hiện, Ngài sẽ thực thi công lý trên toàn cõi đất. Vậy mà giờ đây, Gioan đang ở tù vì can đảm tố cáo sự loạn luân của vua Hêrôđê, thế mà Đức Giêsu không hề có một tiếng nói nào. Điều này đã khiến cho Gioan bối rối, và ông phải sai các môn đệ đến đặt vấn đề trực tiếp với Đức Giêsu.

Thắc mắc của Gioan có lẽ cũng là thắc mắc của tôi và của quý ông bà anh chị em và của con người thuộc mọi thời đại. Chúng ta thường thích đi tìm những cái rõ ràng, cụ thể theo suy nghĩ của chúng ta. Trong khi đó hành trình của đức tin là một hành trình phó thác. Hành trình này đôi khi có vẻ như là đi trong đêm tối, nhưng nếu để ý, thì chúng ta sẽ luôn thấy có những ánh sáng, những dấu hiệu chỉ đường. Những dấu hiệu này, đôi khi cũng không dễ nhận ra nếu chúng ta không thật tâm chú ý. Do đó, thay vì trả lời trực tiếp cho câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ của Gioan thuật lại cho Gioan những gì họ đã nghe và đã thấy, để Gioan tự đánh giá. Đức Giêsu đã không tự quảng cáo cho chính mình, nhưng Ngài mời gọi Gioan và mỗi người chúng ta hãy “nhìn quả để biết cây”.

Đức Giêsu nói với các môn đệ của Gioan: “Hãy về thuật lại với Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó”. Đến đây, chúng ta nhớ lại lời loan báo của ngôn sứ Isaia khi ông loan báo về ngày của Thiên Chúa trong bài đọc một. Trong ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ thì “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ đuợc nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy như nai”.Và giờ đây, những điều đó đang được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, thì điều đó là một minh chứng tỏ tường: Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa. Ngài chính là vị Thiên Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.

  1. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta:

Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Ngài vẫn đang nói và hành động trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thấy việc Ngài làm và nghe được tiếng nói của Ngài hay không. Bởi vì có thể đôi khi chúng ta cũng giống như những người Do thái vào thời của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu (x. Mt 13, 13).

Thiên Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài vẫn đang tiếp tục điều khiển lịch sử nhân loại ngang qua không chỉ những điều tốt lành mà cả những điều xem ra là sự dữ trước mắt chúng ta. Do đó, trong tâm tình chờ mong ngày Con Thiên Chúa lại đến, phụng vụ mùa Vọng gởi đến chúng ta một lời mời gọi tin tưởng, không nản lòng trước sự dữ, nhưng luôn kiên trì “bền chí và vững tâm”, như “người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu”. Chúng ta cần kiên nhẫn đợi đúng giờ, đúng khắc của từng con nước để cắm đăng, quay đáy. Nếu vội vàng, hoặc chậm trể, chắc chắn lưới của chúng ta sẽ không kéo được tôm cá như đáng phải có.

Chúng ta cần kiên trì, vì cho dù trước mắt và cuộc đời của chúng ta đang xảy ra điều gì đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh, và đang sẵn sàng ra tay nâng đỡ chúng ta. Thiên Chúa vẫnđang hiện diện với chúng ta qua cha mẹ, anh chị em, bạn bè và mọi người mà chúng ta gặp gỡ. Mọi biến cố vui buồn xảy ra trong cuộc đời của chúng ta không phải là ngẫu nhiên, nhưng đó là điều tốt nhất để đem lại ơn cứu độ đời cho chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận với một tâm tình yêu mến và cậy trông (x. Rm 8, 28). Chính trong tâm tình đó, thánh Giacôbê khuyên nhủ chúng ta: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến… Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa”

Như thế, hành trình đức tin không phải là một hành trình của “mì ăn liền”. Thiên Chúa luôn hiện diện ở giữa chúng ta, nhưng Ngài không làm thay cho chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác cách tự do và tích cực vào chương trình cứu độ của Ngài, để nhờ đó, mọi việc làm của chúng ta trở nên một hành vi nhân linh có giá trị. Thiên Chúa vẫn đang hiện diện bên cạnh và ngay trong đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Do đó, trong những ngày mùa Vọng này, mỗi người chúng ta hãy cố gắng chuyên chăm lắng nghe và suy niệm lời Chúa, và nhất là siêng năng và sốt sắng lãnh nhận Thánh Thể, bí tích của tình yêu, để có thể nhận ra bàn tay yêu thương của Chúa ngay trong cuộc đời mình. Đồng thời, bằng chính cuộc sống yêu thương, chia sẻ và công chính của mình, chúng ta hãy làm cho mọi người chung quanh cũng nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn đang hiện diện ở giữa họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta có thể hân hoan ra đón Chúa trong ngày Ngài ngự đến. Amen.

 

.

CÒN ĐỢI CHỜ AI?

Lm. Phạm Quốc Hưng

“Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?”

Bà Terry có một cô con gái tên là Cathy đến tuổi kết hôn. Bà bắt đầu để ý giúp con chọn bạn trăm năm. Cathy rất thân mẹ và tâm sự với mẹ về mẫu người lý tưởng của cô: “Anh ấy phải là người hơn con ít là hai tuổi, phải cùng là Công giáo, tương đối dễ coi, phải bằng con hay hơn con ít nhiều về trình độ học thức nghĩa là phải có bằng BA hay BS, chưa bao giờ kết hôn, không bồ bịch lăng nhăng, biết đàn ca và nhảy đầm chút ít, không hút thuốc hay rượu chè cờ bạc, có công ăn việc làm đàng hoàng, biết cách đối xử với gia đình của anh ấy, và nhất là phải được mẹ bằng lòng.”

Nghe con tâm sự như thế, bà Terry rất đỗi vui mừng vì bà cũng có cùng ý nghĩ như Cathy. Bà sung sướng khi được Cathy kể cho bà nghe các liên hệ tình cảm của nàng để bà góp ý. Có rất nhiều chàng trai để ý Cathy, nhưng không ai hội đủ những điều kiện hợp với mẫu người lý tưởng mà nàng đã đưa ra.

Đến một ngày nọ, bà nghe Cathy kể về một chàng trai đang để ý nàng tên là Tony với tất cả những phẩm chất mà Cathy hằng mong mỏi. Chỉ còn một điều kiện duy nhất Tony chưa có là phải được bà bằng lòng. Thế là bà Terry nói Cathy mời Tony về nhà chơi để bà góp ý. Chỉ sau ít lần gặp gỡ Tony, bà đã nhận ra đây đúng là mẫu người chồng lý tưởng cho con mình và đúng là mẫu rể quý bà hằng mong đợi. Bà nói với Cathy: “Đây chính là người rất xứng hợp với con, mẹ hoàn toàn bằng lòng và sẽ tận tình lo chuyện thành hôn cho hai đứa.”

Nhưng bà ngạc nhiên khi nghe Cathy nói: “Nhưng con sẽ không lấy Tony đâu vì con không có cảm tình với anh ấy.” Bà Terry buồn bực nói với con: “Già kén kẹn hom. Con còn đợi chờ ai?”

Cũng như Cathy đang kiếm tìm một người bạn trăm năm lý tưởng, mỗi người trong nhân loại qua bao thế hệ cũng chờ mong một Đấng Cứu Thế, một mẫu người lý tưởng có thể làm thỏa mãn mọi khao khát chân thiện mỹ của lòng người.

Chúa Giêsu Kitô chính là mẫu người lý tưởng mà con tim nhân loại qua mọi thời đại hằng khao khát mong chờ. Ngài là người duy nhất có thể làm thỏa mãn mọi ước mơ sâu thẳm nhất của lòng người – ước mơ được thóat khỏi ách nô lệ của tội lỗi và nết xấu, ước mơ được sự sống đời đời, ước mơ được biết chân lỳ toàn vẹn, ước mơ được chiếm hữu sự thiện tuyệt đối, ước mơ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vô cùng. Vì Ngài chính là Đấng Cứu Chuộc nhân thế, là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là Thiên Chúa làm người để đưa con người lên hàng Thiên Chúa, nghĩa là cho con người được chia sẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.

Nhưng làm sao có thể biết được Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người và là Đấng Cứu Thế mà nhân loại hằng mong đợi, khi có quá nhiều bậc vĩ nhân từng xuất hiện trong lịch sử nhân loại, những vĩ nhân đã có hàng triệu người sùng bái như Socrates, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, Mohammed?

Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp ta nhận biết ai là Đấng Cứu Thế đích thực được Thiên Chúa sai đến cho nhân loại.

Thứ nhất: Người ta phải được thông báo trước về sự xuất hiện của người ấy.

Thứ hai: Người ấy phải làm được những phép lạ để mọi người thấy rõ quyền năng của Thiên Chúa ở nơi người ấy.

Thứ ba: Những lời nói và việc làm của người không được đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người.

Tất cả những nhân vật vĩ đại nói trên đã không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, chưa nói đến hai tiêu chuẩn sau.

Chỉ một mình Chúa Giêsu Kitô đủ cả ba tiêu chuẩn trên.

Sự ra đời, nơi sinh, hoàn cảnh tị nạn, các hoạt động, cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu đều đã được các ngôn sứ nói đến trước đó cả ngàn năm trong thời Cựu Ước.

Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ để chứng minh Ngài thực sự là Đấng Thiên Sai. Phép lạ cả thể và lớn lao nhất mà Ngài đã thực hiện chính là phép lạ phục sinh của chính Ngài.

Tất cả các giáo huấn của Ngài không đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người, nhưng đã hướng lòng trí con người đến những gì cao trọng nhất và đáng yêu nhất là chính Thiên Chúa. Chính Ngài đã thực hiện hoàn hảo tất cả những gì Ngài hướng dẫn kẻ khác.

Như vậy, Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đáng chiếm hữu trọn vẹn tình yêu của trái tim nhân loại.

Đó chính là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói với chúng ta.

Các môn đệ của Gioan được sai đến với Chúa Giêsu đã thay mặt toàn thể nhân loại qua mọi thời đại để hỏi Ngài câu hỏi quyết định sau: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác?” (Mt 11:3)

Chúa Giêsu đã tự xác nhận Ngài là Đấng Thiên Sai vì chính Ngài đã thực hiện những phép lạ và hoàn tất những lời tiên tri về Ngài như sau: “Các ông hãy tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy: Mù được sáng mắt và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và ngườ nghèo khó được nghe báo Tin Mừng; và phúc cho người không bị vấp ngã vì Ta.”(Mt 11:4-6)

Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong mỏi đợi chờ qua bao thế hệ đã đến với nhân loại và đã hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chua dành cho chúng ta.

Đó là niềm vui của Hội Thánh suốt hơn hai ngàn năm nay, và Hội Thánh không ngừng mời gọi mọi người chia sẻ niềm vui ấy, nhất là trong mùa vọng.

Thật thích hợp khi Giáo Hội biểu lộ niềm vui lớn lao ấy qua việc gọi Chúa nhật tuần này là “Chúa Nhật Mừng Vui” với việc xử dụng màu hồng trong phụng vụ. Nhưng chúng ta chỉ cảm nhận niềm vui này cách trọn vẹn khi chúng ta có cùng một niềm tin của Hội Thánh nơi Chúa Kitô và chấp nhận bước vào liên hệ tình yêu thiết thân với Chúa Kitô, qua việc lắng nghe và thực hành tất cả những lời Chúa Kitô và Hội Thánh truyền dạy.

Đó chính là điều các thánh đã chọn để thực hiện trong cuộc đời các ngài.

Nếu không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai, thì chúng ta còn đợi chờ ai?

Lạy Mẹ Maria là Đấng “làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa cho chúng con ngày thêm xác tín rằng chỉ một mình Chúa Giêsu Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất có thể đem lại niềm vui viên mãn và ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con luôn gắn bó với Người trong mọi nơi mọi lúc, và hân hoan làm chứng về Người cho những ai chưa nhận biết Người để niềm vui cứu độ được lan rộng nơi tất cả những tâm hồn thiện chí. Amen.

 

.

KIÊN NHẪN ĐỢI CHỜ

Lm. Minh Nhiên

Một trong những điều chúng ta thường phải làm trong cuộc sống hôm nay khi đi xin việc, ghi danh đi học, gặp bác sĩ, đi máy bay… là điền đơn trả lời các câu hỏi về căn tính nghề nghiệp khả năng của mình và rồi kiên nhẫn ngồi đợi chờ.

Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến chuyện thánh Gioan ngồi trong tù đợi chờ câu trả lời thánh nhân hỏi về căn tính của Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”

Người ta bảo tìm ra căn tính của mình là một điều quan trọng trong cuộc sống. Nếu biết rõ mình là ai chúng ta sẽ bớt đi sự nóng nảy căng thẳng khó chịu với chính mình và với người khác. Chúng ta sẽ bình an, hạnh phúc, dễ sống hòa hợp hơn, và có thể bình tâm khám phá căn tính của người khác, nhờ đó đem đến sự thông cảm nơi gia đình, bạn bè, quen thuộc hay trong cộng đoàn, quốc gia.

Tìm ra căn tính của mình, của tha nhân, của Chúa Giêsu, đòi thời gian. Thời gian đó dài bằng của cuộc sống của mình, đòi kiên nhẫn. Tuy nhiên, câu hỏi của thánh Gioan phản ảnh cuộc sống con người: muốn biết rõ và biết rõ ngay.

Chuyện thần thoại Ấn Độ kể rằng: Shiva là vị thần tạo dựng muôn loài. Ngài sung sướng trong công việc tạo dựng với đôi tay của Ngài, nhưng dẫu là thần ngài không tránh khỏi sự nhàm chán. Shiva chán ngán những gì Ngài tạo dựng. Phải làm gì? Dễ dàng, Shiva phá hủy những gì đã tạo dựng và làm nên cái mới. Cái mới cũng lại dần trở nên quen thuộc và ngài lại phá hủy rồi bắt đầu lại. Tiến trình tạo dựng, tiêu hủy, tạo dựng, tiêu hủy vẫn tiếp diễn liên tục. Shiva là một vị thần không kiên nhẫn.

So sánh thần Shiva và Thiên Chúa, chúng ta thấy có sự tương phản rõ rệt. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Dù con người sa ngã phạm tôi, Ngài không bất nhẫn hủy diệt. Ngài không chỉ tạo dựng nhưng còn hứa cứu chuộc. Lời hứa cứu chuộc có lẽ là điều khó nhất cho con người chúng ta hiểu được. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người với điều kiện sống của con người để chỉ cho thấy tình yêu của Thiên Chúa và giá trị của con người. Ngài đến với thân phận con người dưới hình một em nhỏ. Ngài không đến như một vị vua oai hùng khiến chúng ta sợ hãi nhưng đến mong chờ chúng ta đáp trả tình yêu.

Chúng ta sống trong một xã hội đòi hỏi giải pháp nhanh chóng ngay lập tức cho mọi vấn đề. Nhanh hơn thì tốt hơn, người ta bảo chúng ta vậy. Và điều đòi hỏi trả lời nhanh chóng ngay lập tức này còn đi sâu cả vào trong lãnh vực tâm linh nữa. Chúng ta muốn Chúa Giêsu đến và đến nhanh. Chúng ta muốn được ơn cứu độ ngay mà không muốn đón nhận đau khổ do sự từ bỏ mình hay phải chờ đợi. Nếu Thiên Chúa không hòa hợp với chương trình thời gian tính của chúng ta, chúng ta cảm thấy mình bị lường gạt hay tệ hơn nữa Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi.

Lá thư thánh Giacôbê nhắc nhở: Kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ. Thiên Chúa đã đến và sẽ đến, thái độ đợi chờ của chúng ta sẽ như thế nào? Phải chăng chúng ta cố gắng tìm hiểu căn tính của Đấng Kitô, noi gương bắt chước Đấng đã đến đem niềm vui, niềm hy vọng đến cho những người không có hy vọng. Điều cần để ý là những người mù, què, câm, điếc, phong hủi là những người đã đang phải đối diện với những thách đố của cuộc sống, gặp những trở ngại cần vượt qua. Nói một cách chung, họ là những người đang sống được nhờ tình thương lòng bác ái quảng đại của người khác. Chúa đến đem hy vọng cho họ là những người không có niềm hy vọng.

Phải chăng chúng ta kiên nhẫn đợi chờ trong an bình hạnh phúc: Một đêm nọ hai vợ chồng đang ngủ bỗng họ cảm thấy mùi khói nhà cháy. Người chồng mau lẹ nhảy ra khỏi giường tìm hiểu lý do rồi vội vàng nói với người vợ là một góc nhà của họ đang bị cháy. Nói xong, anh cầm tay vợ và cả hai mò mẫm bò qua hành lang đầy khói. Sau một lúc vất vả mệt nhọc mới đến được cửa đàng trước. Khi qua được cửa, người chồng lấy làm lạ khi thấy trên mặt vợ một nụ cười mỉm. Anh kêu lên: “Nhà của mình đang bị cháy, và chúng ta may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Vậy điều gì có thể khiến em có thể cười được trong lúc này chứ?” Người vợ đáp: “Xin lỗi anh, em không thể nhịn không cười được, vì đây là đêm đầu tiên hai vợ chồng mình đi ra ngoài chung với nhau sau 5 năm lập gia đình.” Người vợ kiên nhẫn đợi chờ với tâm hồn an bình để có thể cười được khi gia đình gặp tai biến.

Sau cùng, một đàng phải kiên nhẫn đợi chờ, một đàng phải noi gương yêu thương của Đấng Kitô tích cực dấn thân: Don’t wait for a smile to be nice. Don’t wait to be loved, to love. Don’t wait for best job, to begin to work. Don’t wait to have a lot, to share a bit. Don’t wait for the fall, to remember the advice. Don’t for pain, to believe in prayer. Don’t wait to have time, to be able to serve. Don’t wait for any one else pain, to ask for apologies… neither separation to make it up. Don’t wait, because you don’t know how long it will take. Đừng chờ nột nụ cười rồi mới niềm nở. Đừng chờ được yêu rồi mới yêu. Đừng chờ cô đơn mới nhận thức được tình bạn. Đừng đợi việc làm thật tốt rồi mới bắt tay vào việc. Đừng đợi có nhiều mới chia sẻ một chút. Đừng đợi vấp ngã, mới nhớ lại lời khuyên nhủ. Đừng đợi đớn đau, mới tin vào lời nguyện cầu…. Đừng đợi có thời giờ, mới có thể phục vụ. Đừng đợi có thêm kẻ đau khổ, mới xin thứ tha. Cũng đừng đợi chia rẽ, mới giải hòa. Đừng đợi, vì bạn không biết sẽ phải chờ đến bao giờ (TLQ phỏng dịch)

 

.

THÍNH THỊ

Trầm Thiên Thu

Chúng Nhân Khốn Khổ Cầu Xin Đức Chúa

Thiên Tử Nhân Lành Cứu Độ Sinh Linh

Trong khoảng mong chờ luôn có niềm hy vọng, bởi vì có hy vọng mới mong chờ – chờ đợi, đợi trông, trông mong, mong ngóng. Niềm hy vọng đó được chứng tỏ cả nội tại và ngoại tại, cũng ảnh hưởng tới các giác quan, đặc biệt là thính thị.

Thính giác liên quan tai, thị giác liên quan mắt. Nghe và nhìn thường hoạt động cùng nhau – vừa nghe vừa nhìn. Hai hoạt động đó liên quan hoạt động của não: nhận biết. Nhờ nghe và nhìn mà người ta khả dĩ phân biệt đúng – sai. Phải có cách nhìn đúng mới có thể nhận thức chính xác để có thể phân định mà hành động đúng đắn.

Mùa Vọng mang sắc tím, nỗi mong chờ luôn có “chất” buồn hoặc bâng khuâng. Màu tím nhạt dần khi hy vọng tăng lên, màu tím nhạt hóa thành màu hồng, niềm hy vọng càng sắc nét thì niềm vui nỗi mừng càng rõ ràng. Khoảng-mong-chờ-tâm-linh cũng có những dấu hiệu khả dĩ giúp nhận biết mình có thánh thiện hơn chút nào hay không, con-đường-lòng-mình đã được uốn thẳng và thung-lũng-tâm-hồn đã được san lấp hay chưa.

Thời gian mong chờ cũng có giới hạn, Chúa Giêsu càng lúc càng đến gần. Đất hạn hán sẽ thỏa khát khao khi trời đổ mưa. Ngôn sứ Isaia mời gọi: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta.” (Is 35:1-2) Chắc chắn chỉ có Mưa Giêsu mới làm cho chúng ta thỏa cơn khát vọng công chính.

Ai đã từng thất vọng mới thấy điều kỳ diệu của sự mãn nguyện, ai đã từng bị tù đày mới biết thế nào là tự do, ai đã từng đau khổ mới thấy quý hạnh phúc. Có một sức mạnh lạ lùng, người đang yếu bỗng thành khỏe – cả thể lý và tinh thần. Ngôn sứ Isaia động viên chúng ta “hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn được vững vàng”, đồng thời cũng khuyến khích những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” (Is 35:4) Thiên Chúa là Đấng Công Bình, là Vua Bình An, là Thần Chân Lý, và là Nguồn Cứu Độ duy nhất.

Chắc chắn sẽ có những dấu lạ khi Vương Quốc Ngài hiển trị, như ngôn sứ Isaia cho biết: “Mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được, kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò, nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu.” (Is 35:5-6) Tất cả đều biến đổi, từ cây cỏ tới con người. Không có gì tuyệt vời như vậy, vì đó là thời đại của công bình và an lành.

Khi đoàn người nô lệ được giải thoát bước đi ồ ạt như thác đổ, ca khúc khải hoàn sẽ trổi lên vang dội, khuôn mặt nào cũng rạng rỡ: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.” (Is 35:10) Niềm vui vỡ òa, hạnh phúc quá lớn, không khác gì được cải tử hoàn sinh vậy. Phàm ngôn không đủ từ ngữ để diễn tả sự sung sướng đó.

Đấng giải thoát cứu nguy chính là Thiên Chúa, là Đấng Vô Thủy Vô Chung, mọi người sẽ vui mừng vì thỏa nỗi mong chờ: “Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó. Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời, xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính.” (Tv 146:6-8) Khi tận mắt thấy những việc tốt đẹp và kỳ diệu như vậy, người ta dễ dàng nhận ra Ngài, chắc chắn chứ không thể sai lầm.

Thế nhưng Ngài là ai? Ngài chính là Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chan chứa Suối Yêu Thương, bao la Nguồn Hồng Ân, Ngài cũng là Đấng công minh chính trực, không vị nể bất cứ ai, nhưng luôn xót thương người đau khổ: “Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân. Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở, Sion hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:9-10)

Là con người, ai cũng kinh nghiệm rằng cuộc đời là chuỗi ngày mong tháng chờ, là Mùa Vọng triền miên. Thật vậy, Thánh Giacôbê nhắn nhủ và so sánh rất cụ thể: “Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới.” (Gc 5:7-8) Chắc chắn Ngài sẽ đến, nhưng không ai biết chính xác vào thời điểm nào, đừng suy diễn vớ vẩn, và cũng đừng để kẻ xấu lừa bịp.

Trong khi mong chờ, có điều cần lưu ý là người ta dễ ảo tưởng và xao lãng, cũng như lái xe mà không tập trung lái, cứ ngó bên này rồi nhìn bên kia, không là “ngáo đá” mà là “ngáo đời”, thế thì rất nguy hiểm! Do đó, sự kiên trì rất cần thiết, bởi vì lỡ sảy chân thì không kịp hối hận. Rất rõ ràng với lời của Thánh Giacôbê: “Thưa anh em, anh em ĐỪNG phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy NOI GƯƠNG các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa.” (Gc 5:9-10) Không phiền vì ai là biết buông bỏ, cố gắng tu thân để nên hoàn thiện.

Khoảng mong càng dài, khoảng chờ càng rộng, thời gian càng lâu thì chúng ta càng cần phải “định vị” khéo léo, biết cách NHÌN và cách NGHE để có thể NHẬN THỨC đúng về một sự kiện nào đó, để hữu ích cho cuộc đời trong khi sống “mùa vọng lữ hành” đằng đẵng, suốt ngày thâu đêm, quanh năm suốt tháng.

Ngày ấy, ông Gioan đang ngồi tù khi Chúa Giêsu xuất hiện công khai. Ông nghe biết những việc Đức Kitô làm, nhưng ông chưa dám xác định, thế nên ông liền sai môn đệ đến gặp Ngài và hỏi trực tiếp: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt 11:3) Đức Giêsu chẳng bảo là đúng hay sai, mà chỉ điềm nhiên nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11:4-6) Ba mặt, một lời. Thế là rõ ràng rồi.

Chúa Giêsu có phong cách đặc biệt như thế, nghe ngang mà không ngược, nghe nghịch mà vẫn xuôi, nghe như chọc tức mà không thách thức, có vẻ như “bông đùa” thế đấy, kiểu như Ngài vẫn thường nói: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35) Và ở đây cũng thế thôi: “Ai có mắt thì nhìn, ai có óc thì nghĩ.” Người hiểu thì không cần nói, người không hiểu thì nói cũng bằng thừa. Đúng là độc đáo quá chừng!

Chắc là họ lùng bùng lỗ tai, nhức cái óc, nên họ bỏ đi. Và rồi Đức Giêsu bắt đầu nói một lèo với đám đông về ông-bụi-đời Gioan: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.” (Mt 11:7-10) Ngài vừa hỏi vừa trả lời, vì Ngài biết chẳng có ai trả lời được.

Sau đó, Chúa Giêsu kết luận: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.” (Mt 11:11) Ngài đề cao ông Gioan nhưng cũng đề cao những kẻ hèn mọn vì Nước Trời. Ông Gioan đã là lớn rồi, nhưng kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông Gioan. Một nghịch-lý-thuận vô cùng độc đáo và tuyệt vời. Đức khiêm nhường luôn được Ngài nhấn mạnh, bởi vì đức khiêm nhường là “nền tảng” của mọi nhân đức, là “viên đá góc tường” của tòa-nhà-nhân-đức, là “biệt dược” khả trị bách bệnh. Chắc hẳn những ai không có đức tin thì không thể nào hiểu được dạng nghịch-lý-thuận như thế.

Thật thú vị và thâm thúy với lời ca dao Việt Nam: “Thế gian lắm kẻ mơ màng, thấy người toét mắt tưởng vàng ăn ra.” Cách mỉa mai nhẹ nhàng mà nhói đau đối với những người bị “đau mắt” và “nhức tai” – mặc dù bề ngoài có vẻ vẫn bình thường. Con mắt bị mờ hoặc đổ ghèn thì làm sao thấy và hiểu được ẩn ý của Đức Kitô? Tai điếc thì làm sao nghe lời giáo huấn của Ngài? Đáng sợ nhất là những người cố ý không thấy, hoặc có thấy mà lại cố ý không chịu hiểu, có nghe thì vào tai này rồi ra tai kia. Con-mắt-đức-tin bị mù lòa và đôi-tai-đức-tin bị điếc như vậy thì thật là nguy hiểm, kể cả bộ-óc-tâm-linh cũng như mất trí hoặc điên loạn mất rồi!

Lạy Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự, xin ban thêm trí thông minh để chúng con biết nghe điều nên nghe, biết nhìn cái phải nhìn, để có thể phân định và nhận ra Thánh Ý Ngài mà tuân theo. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

.

ĐẤNG PHẢI ĐẾN, ĐÃ ĐẾN

PM. Cao Huy Hoàng

Thánh Gioan Tiền Hô không thể không lên tiếng cảnh cáo cách sống vô luân của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê chung sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphê, anh ông ta. Và kết quả là ông bị giam trong tù.

Rõ ràng là Thánh Gioan không chỉ kêu gọi mọi người hãy sám hối, hãy dọn đường cho Chúa đến, mà còn chỉ rõ ra việc cần làm ngay, cần khắc phục chấn chỉnh ngay, mà không hề ngán sợ vòng ngục tù lao lý.

Việc Thánh Gioan ở tù, không phải là thất bại của vị ngôn sứ, nhưng là việc phải đến cho người dọn đường cho Chân Lý của Thiên Chúa. Thiên Chúa tôi luyện niềm tin và hy vọng của ngôn sứ của Ngài trong ngục tù trần gian.

Ngục tù trần gian có thể làm cho lòng người ta hoang mang nao núng, nhưng Thánh Gioan đã tìm được phương thế vượt qua điều ấy bằng cách sai các môn đệ mình gặp trực tiếp Chúa Giêsu. “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? “Đức Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (Mt 11, 3-6)

Nghe thuật lại thế nầy, thì chắc chắn Thánh Gioan sẽ liên hệ ngay tới lời tiên báo của Tiên Tri Is 35,1-6a, 10, và như thế, niềm tin của Ông và các môn đệ được Thánh Kinh soi dẫn và củng cố: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (Is 35, 4-6)

Đấng Cứu Thế, “Đấng Phải Đến, Đã Đến” là ông Giêsu quá tầm thường như thế, là một con người thật, sống giữa con người và sẻ chia những nỗi bi thương nhất của con người. Ngài đã sẻ chia cách cụ thể là đến thăm dân người, và thi thố quyền năng và tình thương của Thiên Chúa qua các phép lạ. Ở nơi Ngài, chúng ta gặp được bình an, niềm vui, và hạnh phúc mà con người trần gian không ban tặng được. Đó phải là niềm tin của mỗi chúng ta trong những ngày Mừng Đón Chúa Giáng Sinh.

Bởi vậy, Chúa nhật 3 mùa vọng là Chúa Nhật Hồng, một màu hồng của niềm vui Giao Duyên Trời với Đất, niềm vui của Đôi Tân Hôn mà chàng rể là Chúa Giêsu Kitô và hiền thê của Ngài là Giáo Hội, là chúng ta, là mỗi người. Một màu hồng hạnh phúc.

Niềm hạnh phúc là được sống với Chúa Giêsu “Đấng Phải Đến, Đã Đến”. Và cụ thể niềm hạnh phúc ấy, là được sống trong Giáo Hội của Ngài, nơi đây, không chỉ là dung mạo, là khuôn mặt là hình ảnh của Chúa Giêsu mà còn là chính Chúa Giêsu đang tác động trong và qua Giáo Hội.

Bạn và tôi đều có thể đã có hơn một lần cảm nghiệm tuyệt vời về nỗi mong đợi “Đấng Cứu Thế” đến trong Giáo Hội, nơi các Bí tích, và trong cuộc đời

– Hơn một lần bạn và tôi cùng với cả bà con trong Giáo Xứ ước mong và khẩn xin có một Linh Mục đến để dâng Thánh Lễ, và ban các bí tích. Nhất là ở các Giáo xứ vùng sâu, vùng xa thì nỗi khát mong càng mãnh liệt hơn. Một lần như thế, cho chúng ta mỗi cảm thông sâu sắc với những nơi, đến hôm nay, vẫn còn một Mùa Vọng dài đôi ba chục năm, năm bảy chục năm mà chưa thấy bóng dáng “Đấng phải đến, đã đến”.

Hơn một lần, cảm xúc sung sướng trào dâng khi được đón Linh Mục Quản xứ Tiên khởi như đón chính “Đấng phải đến, đã đến”. Có người mừng đến rơi lệ vì cảm nghiệm được ơn Chúa đã thương đáp lại nỗi khát mong của dân Ngài. Và từ cảm nghiệm ấy, chúng ta sống được niềm vui của bao nhiêu giáo xứ, bao nhiêu con người thỏa niềm khao khát

– Gần hơn, thường xuyên hơn, chúng ta đã hồi hộp đợi chờ gặp được Đấng Cứu Thế nơi tòa Giải tội, để xưng thú tội lỗi, để quyết tâm sám hối, để được thứ tha và nhất là để tình yêu nên trọn vẹn.

– Và gần hơn nữa, lòng chúng ta thấy đói, thấy khát của ăn của uống Thường Sinh là chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu qua Bí Tích Thánh Thể.

– Hình ảnh “Đấng Phải Đến, Đã Đến” còn là hình ảnh của những con người đang đứng ngay trước cửa nhà mình, ngay trong cuộc sống thường ngày, nơi những người ta gặp, và nhất là nơi những người nghe và thực hiện công việc của Đấng Cứu Thế là yêu thương nhân loại. Cho dù là linh mục, tu sĩ hay giáo dân và kể cả những người bần cùng tội lỗi bệnh tật yếu đuối nhất trong nhân loại, khi đã đến với mỗi chúng ta, thì thiết nghĩ việc tiếp đón của chúng ta cũng phải đàng hoàng như tiếp đón “Đấng phải đến, đã đến”.

Một người bạn làm gương cho tôi việc nầy, là anh ta chọn cho mình câu “Đấng phải đến, đã đến” làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình. Và điều đã xảy ra là anh ta luôn sẵn lòng lịch sự, yêu thương và sẻ chia với hết mọi người. Anh ta có một cuộc sống bình an, hạnh phúc, vì anh ta không những tiếp đón “đấng phải đến đã đến” mà còn sống tinh thần của Đấng Cứu Thế là đem lại niềm vui cho mọi người.

Gần đây, trong Giáo Hội và ngay tại Giáo Hội Việt nam, lại trổ ra những tâm thức nghi hoặc, hoang mang, bất ổn, vẫn đặt câu hỏi với Giáo Hội rằng “Ông có phải đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác”. Xảy ra điều ấy, vì có tư tưởng nghi hoặc rằng người này, người kia, không phải “Đấng Nhân Danh Chúa Mà Đến”, nhưng lại là nhân danh mình hoặc nhân danh nhà nước thế gian mà đến.

Đáng tiếc thay, vì thiếu cảnh giác hoặc vì chủ quan, đã tạo cơ hội cho những sự hỗn độn của trần gian len lõi vào bên trong nội thất của Giáo Hội để làm mất đi sự bình an hiệp nhất và cả sự thánh thiện cần có. Vì thế, thay vì “Đấng phải đến đã đến” đem niềm vui, niềm hy vọng cho dân Chúa thì “người đã đến” đem lại cho dân Chúa bao nỗi sầu thương thất vọng, thay vì giải thoát dân Chúa khỏi những bức bách thì lại đặt vào cổ dân đen những ách nặng nề.

Trong giai đoạn hỗn độn do những kịch bản của ma quỷ, làm chúng ta bán tín bán nghi về sự chân chính của sứ vụ mỗi người, tạo nên những thất vọng và mất kiên nhẫn, Thánh Giacôbê đã kịp thời gửi thông điệp đến chúng ta. “Thưa anh em, anh em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa” (Jac 5, 9-10)

Lời Chúa chúa nhật thứ ba mùa vọng mang đến cho chúng ta niềm vui nhưng cũng nhắc nhở cho mỗi chúng ta phải trở thành một niềm vui cho người khác.

Niềm vui ấy là làm cho “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.

Và cụ thể hơn trong toàn cảnh Việt Nam, niềm vui ấy là làm cho người xa rời nhà thờ trở về với Hội Thánh Chúa, người nghèo khổ bất hạnh có được niềm an ủi, được thăm viếng; người bệnh tật được giúp đỡ, người bị áp bức được đồng thanh tiếp cứu, công lý, sự thật được tôn trọng và nhất là nhân phẩm con cái của Thiên Chúa được bảo vệ đúng mức, không thể để cho thế lực gian tà chà đạp.

Lạy Chúa, chúng con được vui mừng tiếp đón Đấng Cứu Thế. Xin cho cuộc sống chúng con mang lại niềm vui cho mọi người. Amen.

 

.

HÃY VUI LÊN

Giuse Vinhsơn Ngọc Biển

Trong cuộc sống, nếu chúng ta đang mong ngóng chờ đợi một điều gì đó đến với mình, và khi biết nó sắp đến, phải chăng lòng chúng ta lại chẳng rạo rực lên niềm vui và hy vọng? Hoặc khi chúng ta sắp hoàn tất một chế tác nào đó, tâm hồn luôn rộn lên niềm vui, bởi vì đứa con tinh thần của chúng ta sắp ra đời.

Cũng vậy, Mùa Vọng là mùa sống lại tinh thần chờ đợi Chúa đến lần thứ nhất của người Dothái khi xưa, đồng thời cũng diễn tả niềm mong đợi Chúa đến lần thứ hai trong ngày quang lâm của mỗi chúng ta. Nếu tính về mặt thời gian thực tại, hôm nay, chúng ta đã đi được 2/3 chặng đường của Mùa Vọng. Như vậy, gần đến đích, lẽ nào chúng ta lại không vui! Chính vì vậy, Chúa nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Hồng. Hồng là bởi vì toàn bộ phụng vụ Lời Chúa toát lên niềm hy vọng trong vui tươi.

  1. Niềm vui và hy vọng qua các bài đọc Kinh Thánh

Bài đọc 1: Is 35,1-  6a, hôm nay gợi cho chúng ta hình ảnh về dân Israel đang phải sống trong cảnh sầu thương tang tóc. Bóng tối bao trùm cả vực thẳm. Dân chúng sinh ra lòng chán nản và thất vọng tột cùng. Trong lúc ấy, tiên tri Isaia xuất hiện và loan báo cho họ về viễn cảnh tương lai sắp đến, đồng thời khuyên bảo dân chúng hãy can đảm và vui tươi, vì: “Thiên Chúa anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em”. Rồi ông cũng nói rõ: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”. 

Chính lời loan báo đầy hy vọng này đã mang lại niềm tin cho dân vì họ sắp được giải thoát.

Sang bài đọc II: Gc 5,7-10, thánh Giacôbê cũng cùng mạch tư tưởng như tiên tri Isaia để khơi gợi lên trong lòng dân niềm hy vọng. Nhưng thánh Giacôbê thì nhấn mạnh khía cạnh kiên trì khi mời gọi họ hãy kiên nhẫn trong chờ đợi. Sự kiên nhẫn này được ví như người nông dân trồng lúa, phải vất vả chăm bón và chờ đợi ngày đơm bông kết hạt. Như vậy, để niềm vui được trọn vẹn, thánh nhân đã khuyên bảo tín hữu hãy sống hòa thuận trong vui tươi.

Sang bài Tin Mừng: Mt 11,2-11, thánh sử Mátthêu trình thuật việc ông Gioan Tẩy Giả sai các môn đệ của ông đến gặp Đức Giêsu và hỏi xem: “Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác”?

Khi sai môn đệ đi hỏi như thế, không phải Gioan không biết về Đấng Cứu Thế, tuy nhiên, có lẽ, ông muốn cho các môn đệ của mình gặp được niềm vui trọn vẹn, bởi vì vai trò của ông chỉ là người đưa đò, dẫn đường, chỉ lối, còn Đức Giêsu mới là con đường, là đích đến. Chính vì vậy, các môn đệ của ông sẽ không thể có được niềm vui và hy vọng trọn vẹn nếu cứ bám theo ông. Niềm vui của họ chỉ có thể tràn đầy khi đã gặp trực tiếp Đức Giêsu và chứng kiến những việc Ngài làm, đồng thời sẵn sàng đi theo Ngài.

Tuy nhiên, niềm vui và hạnh phúc thực sự chỉ có khi con người tự do xây dựng hay lựa chọn. Vì thế, khi được các môn đệ Gioan hỏi về sự xuất hiện của mình, Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp, mà Ngài đã chỉ cho các ông biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như: người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, đúng như lời tiên tri Isaia đã báo trước về Đấng Cứu Thế.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Trong cuộc sống của con người mọi thời, chúng ta không thể nào nói rằng: tôi không bao giờ buồn hay thất vọng; tôi không bao giờ đau khổ hay tủi nhục; tôi không bao giờ bị lung lạc niềm tin…!

Thực tế cho thấy: cuộc đời của chúng ta nhiều khi cũng bị rơi vào ngõ cụt đường cùng; cũng vẫn còn đó biết bao nhiêu bóng mây đen tối vây phủ tâm hồn; niềm tin cũng đã có lúc bị thách đố đến tột cùng. Những lúc như thế, phản ứng của chúng ta đôi khi cũng chẳng khác gì những người Dothái trước kia, đó là: hoang mang, thất vọng, trách móc, thách thức và mất đức tin. Chính vì vậy, nhiều khi chúng ta còn nghi ngờ luôn cả sự hiện hữu của Thiên Chúa nữa, bởi vì nếu Chúa hiện hữu, thì tại sao Chúa lại để cho tôi phải chịu cảnh bất công như vậy? Nếu Chúa có mặt thì tại sao Chúa lại không bảo vệ tôi khi tôi gặp phải thử thách gian truân? Và nếu Thiên Chúa là Đấng Giàu Lòng Thương Xót, thì tại sao Chúa lại để con cái của Ngài quằn quại trong khổ đau…???

Biết bao nhiêu thắc mắc được đặt ra trong sự đau khổ. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay sẽ là niềm an ủi và là câu trả lời cho mỗi chúng ta. Nếu chúng ta kiên trì, tin tưởng, phó thác, sống hài hòa, nhân hậu và xót thương anh chị em mình, không than van phàn nàn hay phản kháng thì sẽ được đẹp lòng Thiên Chúa và được Người  thưởng công xứng đáng. Lúc đó, tâm tình của chúng ta cũng tràn ngập niềm vui như dân Israel khi xưa: “Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến Sion giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất”. 

  1. Sống sứ điệp Lời Chúa trong niềm vui

Ở đời, người ta không thích nói chuyện buồn. Ngược lại, niềm vui luôn luôn hấp dẫn. Đức Cố Hồng Y F.x. Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn”.

Thật vậy, là người Công Giáo, chúng ta không thể không có niềm vui trong mình, bởi lẽ: Vui vì được trở nên con cái Chúa; vui vì có Chúa là nguồn hạnh phúc; vui vì mọi biến cố trong cuộc đời đều được Chúa chúc lành; vui vì niềm hy vọng của chúng ta sẽ được ở bên Chúa trong Nước Trời.

Tuy nhiên, niềm vui ấy chỉ có thể có được, nếu chúng ta biết chấp nhận hy sinh. Biết vui lòng đón nhận cuộc sống hiện tại với những sự giới hạn của nó. Nhất là biết đón nhận thánh giá trong cuộc đời là những bổn phận, nghĩa vụ trong vui tươi phấn khởi. Nếu không biết hy sinh, chúng ta sẽ không bao giờ có được niềm vui chia sẻ, bởi vì: cho thì có phúc hơn là nhận. Nếu chúng ta không biết vui lòng đón nhận sự giới hạn của mình hay của mọi người, thì không bao giờ cảm thấy đủ để mà tạ ơn cũng như vui vẻ để dâng hiến, trao tặng! Và nếu chúng ta không biết vui lòng đón nhận những thánh giá Chúa gửi đến trong cuộc đời để giúp ta sám hối, sửa sai, nhằm thánh hóa để qua đó, thánh giá trở thành con đường đưa tới sự sống đời đời, thì chúng ta sẽ mãi mãi sống trong đau khổ, thất vọng và kéo lê thánh giá cuộc đời và biến nó thành khổ giá trong cuộc sống.

Vì vậy, Chúa Nhật Hồng hôm nay Giáo Hội mời gọi mỗi chúng ta hãy can đảm đón nhận cuộc sống này trong vui tươi. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay. Vì thế, hãy an tâm, đừng sợ, kiên nhẫn chờ đợi trong vui tươi, Chúa sẽ đến giải thoát chúng ta và lúc đó niềm hoan lạc chúng ta sẽ được tràn đầy.

Ước mong sao trong cuộc đời và qua mọi biến cố, chúng ta luôn có Chúa đồng hành và nâng đỡ, để dù trong cảnh huống nào đi nữa, đầu và tâm hồn chúng ta vẫn ngẩng cao và hướng về phía trước trong niềm vui và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa là niềm vui và hy vọng cho tất cả chúng con. Xin Chúa ban cho chúng con luôn biết gắn bó cuộc đời của mỗi người nơi Chúa, để chúng con được sống trong tình yêu của Chúa. Đồng thời biết kiên tâm, vững dạ trong sự phó thác, để cuối cuộc đời, chúng con được ở bên Chúa là niềm vui và hạnh phúc đích thực của chúng con. Amen.

 

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *