Bài hát và suy niệm (25.11.2019 – LỄ TRỌNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM)

NL: ANH HÙNG TỬ ĐẠO

ĐC: NGÀY VỀ

HALL: Phúc cho ai bị bắt bớ vì công lý vì Nước Trời là của họ

DL: NHƯ HƯƠNG THƠM

HL: BÀI CA NGÀN TRÙNG

KL: NGỢI KHEN CÁC THÁNH TỬ ĐẠO

THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM 2019

NL: BÀI CA NGÀN TRÙNG

ĐC: NGÀY VỀ

HALL: Phúc cho ai bi bắt bớ vì công lý vì Nước Trời là của họ.

DL: CỦA LỄ TRẦM HƯƠNG

HL: TÌNH CA VÔ TẬN

KL: ANH HÙNG TỬ ĐẠO

 

Lời Chúa:  2 Mcb 7,1.20-23.27b-29, Rm 8,31b-39, Lc 9,23-26

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với mọi người rằng : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì ? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.”

Từ bỏ ý riêng

Đức Giêsu nói với mọi người rằng: “ Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo…”  (Lc 9, 23 )

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa nói rất rõ ràng cho tất cả chúng ta là những người đang đi theo Chúa, thì phải biết từ bỏ chính mình nghĩa là : từ bỏ cái tôi, cái ý riêng ích kỷ hẹp hòi…những vinh hoa danh vọng của cải trần thế, và phải biết  sống tinh thần khó nghèo, đơn sơ khiêm tốn theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng Phúc Âm.

Huynh Đoàn Đa Minh của chị cứ mỗi lần hội họp và phân chia công tác thì thường xảy ra mâu thuẫn bởi mỗi người mỗi ý kiến và quan điểm khác nhau, có khi một số các hội viên tỏ thái độ “bằng mặt chứ không bằng lòng” với vị trưởng, phó, rồi ra ngoài nói xấu sau lưng…, có lúc chuyện bé xé ra to như trường hợp này: một thành viên được cử đọc sách Thánh trong ngày lễ riêng của Huynh Đoàn tại nhà thờ. Đến giờ Cha ra dâng lễ mà vị đó chưa tới, trưởng Huynh Đoàn mới nhờ một hội viên khác dò trước bài đọc cho chu đáo để lên cung thánh đọc thay người vắng mặt kia, đâu ngờ vị kia tới trễ mươi phút gần kề lúc vào bài đọc, nên hội viên được trưởng nhờ cứ vô tư trang trọng lên đọc trong tâm tình yêu mến. Khi kết lễ trưởng đến gặp nói nhẹ nhàng…, nhưng tự ái cao mà không chịu nghe trưởng giải thích, người kia sau đó đã giận hờn tự ý rời bỏ Huynh Đoàn, như thế là quá sai lầm rồi.

 Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người Đa Minh chúng con luôn biết lắng nghe và hiểu được thấu đáo Lời Chúa dạy, biết đem ra thực thi và cố gắng “ Từ bỏ ý riêng” để sống xứng đáng là người môn đệ của Chúa. Amen.

BCT

Mục lục

1. Dòng máu anh hùng  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tuyên xưng, sống và làm chứng cho đức tin  (Tgm. Giuse Nguyễn Năng)

3. Nếu hạt lúa miến chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt (Gm. Giuse Võ Đức Minh)

4. Con đường hạt lúa  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

5. Noi gương cha ông chọn Chúa là lẽ sống  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

6. Đáng quí như châu ngọc (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

7. Anh em làm chứng cho Thầy(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

8. Máu các Thánh Tử Đạo: Trổ sinh các tín hữu (Lm. Jos Vũ Hải Bằng, OP)

9. Người làm chứng  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

10. Tham dự vào hy tế của Chúa Giêsu  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

11. Phải tôn kính Các Thánh Tử Đạo thế nào? (Lm. Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao)

12. Sức mạnh đức tin qua gương tử đạo  (Lm. Nguyễn Minh Hùng)

13. Sống đạo là tử đạo (Lm. Giuse Trần Đình Long)

14. Tỉnh thức trước cơn bách đạo mới  (PM. Cao Huy Hoàng)

15. Các chứng nhân  (Lm. Giacobe Phạm Văn Phượng, OP)

16. Chứng nhân anh hùng (JM. Lam Thy, ĐVD)

17. Chứng nhân anh dũng (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

18. Vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

19. Sống đức tin là làm chứng (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

20. Chọn thập giá  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

21. Tử đạo bằng việc sống kiên trì với Tin mừng (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

22. Tình yêu mạnh hơn sự chết (Lm. Đan Vinh)

23. Vì sao tử đạo? (Lm. Nguyễn Xuân Trường)

24. Huyết tình ca  (Trầm Thiên Thu)

***

DÒNG MÁU ANH HÙNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chúa nhật tới là ngày 17-11-2019, Giáo Hội Việt Nam mừng kính các Thánh Tử đạo Việt Nam. Đây là “ngày giỗ Tổ” đối với người Công giáo Việt Nam, gợi nhớ người tín hữu hướng về Cội nguồn, đồng thời tôn vinh các bậc Tiền nhân đã anh dũng hy sinh, lấy máu đào nhuộm thấm giang sơn, là hạt giống sinh ra người tín hữu. Quả thật, máu các thánh Tử đạo là dòng máu anh hùng.

Đức Giêsu là vị Tử đạo đầu tiên. Người đến trần gian để làm chứng cho tình thương của Chúa Cha. Thập giá vừa là cái chết đau thương, vừa là chứng từ hùng hồn về tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Khi sinh thời, Đức Giêsu đã nói về thập giá: Ai muốn theo tôi, hãy từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo. Vì những ai muốn giữ sự sống mình, thì sẽ mất nó ở đời sau. Kitô hữu là người bước đi trong hành trình thập giá để nên giống Chúa Giêsu. Các thánh Tử đạo đã trung kiên trong hành trình đó. Họ nên giống Chúa Giêsu nhất là trong cuộc khổ nạn. Ai sinh ra trong cõi đời đều muốn sống sung sướng, hạnh phúc với những người thân. Nếu các thánh Tử đạo đã hy sinh hạnh phúc đời này, là vì các ngài xác tín vào Lời Chúa và tin vào sự sống sau khi đã chết phần xác. Vì vậy, đòn vọt, tra tấn và mọi cực hình không làm họ nản chí.

Một tác giả đã viết: “Tử đạo hôm nay đối với Kitô hữu không chỉ là dám chết mà còn là dám sống cho đức tin”. Vâng, nếu các thánh Tử đạo ngày xưa đã can đảm chết vì đức tin, thì hôm nay chúng ta đang được mời gọi hãy sống chứng tá Tin Mừng trong bối cảnh cụ thể. Bởi lẽ, theo nguyên ngữ Hy Lạp, chữ “tử đạo” có nghĩa là “làm chứng”. Sống ơn gọi tử đạo hôm nay là dám chấp nhận những hệ luỵ để sống và trung thành với đức tin. Hiểu như thế, chúng ta sẽ tìm thấy nghị lực siêu nhiên trong đời sống hằng ngày, mặc dù xung quanh chúng ta có nhiều khuynh hướng sống ngược với giáo huấn Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội như: sống buông thả, gian dối, hận thù, ích kỷ. Các thánh Tử đạo đã khước từ những bổng lộc trần gian, thà chết chứ không chối Chúa, dù chỉ là giả vờ. Gương sống của các ngài luôn soi rọi cuộc đời chúng ta.

Do tuyên truyền lệch lạc và do thành kiến thù nghịch, nhiều người không cùng tôn giáo với chúng ta thường gắn liền các thánh Tử đạo với những vấn đề chính trị. Họ coi một số thừa sai ngoại quốc là những người có liên quan đến thực dân. Thực ra, các ngài là những người phụng sự Thiên Chúa, yêu mến các nền văn hoá địa phương và tôn trọng nhà cầm quyền. Hãy nghe những lời của Thánh Gioan Phaolô II trong lễ tuyên phong các thánh Tử đạo tại Rôma ngày 19-6-1988 để có một nhận định quân bình hơn: “Đứng trước các quy định cưỡng bức của chính quyền đối với việc thực hành Đức Tin, họ đã quả quyết mình có tự do tin, bằng cách khẳng định với lòng can đảm khiêm tốn rằng Kitô giáo là chính nghĩa duy nhất mà họ không thể rời bỏ, vì không thể bất tuân đấng chủ tể tối thượng: Đức Chúa. Ngoài ra các ngài còn mạnh mẽ tuyên bố ý chí của mình là trung thực đối với quyền bính của xứ sở, không chống lại tất cả những gì là công chính và lương thiện; các ngài đã dạy phải tôn trọng và thờ kính Tổ Tiên, theo phong tục của vùng đất mình, dưới ánh sáng mầu nhiệm Phục Sinh. Giáo hội Việt Nam, với các vị Tử đạo của mình và qua chứng tá đặc thù, đã có thể công bố nghĩa vụ riêng và ý chí riêng là không từ khước truyền thống văn hóa và các định chế pháp lý của xứ sở; trái lại, Giáo Hội đã tuyên bố và đã chứng tỏ rằng mình muốn nhập thể vào đó, bằng cách trung tín góp phần vào sự tăng trưởng đích thật của quê hương” (Trích Bài giảng lễ Phong thánh). Nhìn lại lịch sử Truyền giáo ở Việt Nam, chúng ta thấy sự đóng góp đáng kể của người Công giáo đối với nền văn hoá và sự phát triển của xã hội, như hạt giống Tin Mừng được gieo vào mảnh đất hình chữ “S” thân thương này.

“Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6). Vâng, các thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã gieo trong thương đau và nay gặt trong vui mừng. Hôm nay, các ngài được tôn vinh trên khắp các bàn thờ toàn thế giới. Nếu có tôn vinh các ngài, là để chúng ta tôn vinh Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống và Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Các thánh Tử đạo chính là vinh quang của Thiên Chúa. Cùng với các ngài, chúng ta tạ ơn và cầu nguyện cho Giáo Hội và Dân tộc Việt Nam. Nguyện cho dòng máu anh hùng mãi tuôn chảy trong tâm hồn các tín hữu, đem lại nhiệt huyết để sống và loan truyền đức tin.

 

.

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

Tgm. Giuse Nguyễn Năng

1- Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

2- Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.

Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

3- Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ haicủa ngài làcô Anna Năm xác nhận:”Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho”.Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳngghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quantrị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.

4- Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.

Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Trong Năm Đức Tin này, chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

 

.

NẾU HẠT LÚA MIẾN CHẾT ĐI,

THÌ SẼ SINH NHIỀU BÔNG HẠT

Gm. Giuse Võ Đức Minh

Kính thưa Cộng đoàn phụng vụ,

Bài Phúc Âm của lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay (Ga 12, 24-26), tập trung vào biểu tượng hạt lúa miến, được hiểu là biểu tượng của chính Chúa Kitô, từ đó ý nghĩa toả lan sang các Kitô hữu, đặc biệt các Kitô hữu chết vì đạo đã được Giáo Hội tôn phong Hiển Thánh hoặc Chân Phước để nêu gương cho mọi thành phần Dân Chúa đang tiếp tục cuộc hành trình đức Tin giữa dòng đời.

“Nếu hạt lúa miến không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình “. Câu này chứa đựng một chân lý thật sâu sắc, đó là: ý nghĩa và giá trị của hạt lúa miến hệ tại cuộc hiện hữu của nó cho kẻ khác, để phục vụ kẻ khác. Nếu không như thế, nó sẽ “trơ trọi một mình’’. “Trơ trọi một mình” là đặc điểm của cuộc hiện hữu vị kỷ, ích kỷ, và vì thế không có ích cho kẻ khác. Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng: hạt lúa miến chỉ đạt được phẩm giá cao quý của nó, khi chấp nhận từ bỏ chính mình, để phục vụ sự sống và sự tăng trưởng của mọi người.

“Nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt “: Chắc hẳn trong đoạn Phúc Âm này, Chúa Giêsu nghĩ tới kinh nghiệm trồng trọt của nhà nông: hạt-lúa-giống gieo vào lòng đất phải mục nát, phải thối rữa, phải chết đi, tức là phải chấp nhận mất căn tính hạt lúa, nhìn ở bình diện hiện tượng, để nẩy thành cái mầm, rồi lớn lên thành cây lúa chính, từ đó nẩy sinh thêm nhiều cây lúa phụ, tất cả cùng mang nhiều bông hạt. Chỉ một hạt lúa chết đi, mà sinh ra hằng trăm hạt lúa mới. Đó là sự gia tăng về số lượng. Đến lượt những hạt lúa mới phát sinh từ cái chết của hạt-lúa-giống, cũng chấp nhận bị nghiền nát, nghĩa là chấp nhận mất căn tính hạt lúa, để trở thành tinh bột, hoà mình với nước, với men, nhờ đó dậy men lên, rồi trải qua thử thách của lửa để trở thành tấm bánh thơm ngon và giàu chất dinh dưỡng cho con người. Đó là sự gia tăng về chất lượng. Đối với hạt lúa miến, một cách nào đó, chết đi là tự hạ, tự huỷ ra không; còn gia tăng số luợng và chất lượng là siêu thăng bản chất của hiện hữu. Vì thế, cái chết của hạt lúa miến được Chúa Giêsu chọn làm biểu tượng cho sự tự hạ, tự huỷ của Người như bước chuẩn bị cần thiết cho việc Thiên Chúa siêu thăng và tôn vinh Người qua mầu nhiệm Phục Sinh. Như vậy, Tự hạ và Siêu thăng qua sự Chết và sự Phục sinh, đó là như một quy luật chi phối định mệnh của Hạt Lúa Miến. Mặt khác, vì là một biểu tượng minh hoạ cách sâu sắc ơn gọi của Vua Kitô và của các Kitô hữu, nên Hạt Lúa Miến cũng là một huyền nhiệm.

“Máu các Vị Tử Đạo là hạt giống từ đó nẩy sinh nhiều tín hữu Kitô”.

Câu nói lừng danh này của Tertulianô có giá trị trước tiên đối với dòng Máu của Vua Giêsu, Vị Tử Đạo vĩ đại, đã đổ ra trên Thánh Giá. Máu các Kitô hữu Tử đạo cũng có được khả năng sinh sản thiêng liêng ấy, là vì các ngài đã được nuôi dưỡng bằng Máu-Thánh-Thể của Vua Giêsu chịu đóng đinh. Ngoài ra chúng ta thấy được ý nghĩa đích thực của cuộc sống và cái chết của các Thánh Tử Đạo Việt Nam, khi chúng ta suy gẫm về các hành động và lời nói của các ngài dưới ánh sáng Lời Chúa.

Trước tiên, tử đạo có nghĩa là làm chứng, làm chứng bằng cách chấp nhận chết hoặc đổ máu mình ra để khẳng định niềm tin vào Thiên Chúa,tiếp nối hành động của chính Vua Giêsu trên Thánh Giá. Cái chết để làm chứng triệt để như thế đuợc đồng hoá với “của lễ toàn thiêu” như Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 nói với chúng ta (x. Kn 3, 6). Theo tác giả Thư Do Thái, khi Đức Kitô đổ máu mình ra trên Thánh Giá, là lúc Người “tự hiến tế làm lễ vật vô tì tích cho Thiên Chúa, nhờ Thần Khí vĩnh cửu thúc đẩy” (Dt 9, 14). Vậy thì, hành động của các Thánh Tử Đạo chấp nhận chết vì đức tin cũng được thúc đẩy bởi Chúa Thánh Thần và nhờ đó các ngài trở thành “của lễ toàn thiêu”, và “của lễ thiêng liêng” (x. Rm 12, 2; 1 Pr 2, 5) được Thiên Chúa ưng nhận. Thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan, Linh mục Tử đạo, cầu nguyện trước khi bị hành hình cùng một lúc với hai Thầy Kẻ Giảng như sau: “Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa là Chúa Cả trời đất, chúng con xin dâng mạng sống cho Ngài” [1]. Vâng, hành động của các Thánh Tử Đạo tế hiến mạng sống mình làm của lễ toàn thiêu và của lễ thiêng liêng, được tô điểm thêm bởi Hy tế ngợi khen (x. Dt 13, 15; Hs 14, 3…). Cái chết lành thánh của các ngài, cũng giống như cái chết cứu độ của Chúa Giêsu, diễn ra trong tâm tình cầu nguyện sâu lắng.

Thánh Tử Đạo Carolô CORNAY Tân, một Linh mục Thừa sai Pháp, trả lời vị quan toà thẩm vấn mình rằng: “Chúng tôi chỉ chuyên lo giảng đạo, khuyên người ta ăn ngay ở lành, dạy con cái thờ cha kính mẹ, kêu gọi thần dân vâng phục vua quan, tôi đâu có thể đi ngược lại giáo huấn của mình mà chống nhà vua được?”[2]. Câu nói sau đây của Thánh Linh mục Tử Đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh thật hết sức ý nghĩa: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tuỳ ý, nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được”[3].

Bài học thứ hai là thái độ kiên định trong sứ vụ làm chứng cho sự thật. Đây là nét nổi bật nhất của Vua Giêsu Tử Đạo và của tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Chúa Giêsu làm chứng cho sự thật này, là: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để phàm ai tin vào Con của Người thì khỏi phải diệt vong, nhưng có sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Chính Chúa Giêsu ý thức mình là quà tặng của Chúa Cha. Người đến thế gian, “để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20, 28). Người trở thành Con Đường cứu độ, dẫn tới Sự Sống đời đời và vì thế Người là hiện thân của Sự Thật, nghĩa là của ý muốn cứu độ thế gian của Thiên Chúa Cha. Sự Thật ấy là nội dung chính yếu của Tin Mừng. Về phần mình, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhất quyết không bước qua hoặc dẫm lên Thánh Giá, biểu tượng của Đạo Giêsu, mà vua quan phong kiến xưa gọi là “tả đạo Gia-tô”; các ngài chấp nhận bị giết để làm chứng trước mặt mọi người rằng Đạo Gia-tô, Đạo Giêsu là Đạo Thật, là Con Đường đích thực dẫn vào Sự Sống bất diệt. Dầu thế gian đón nhận hay khước từ, thì mọi Kitô hữu hôm nay vẫn phải dùng lời nói và cả cuộc sống của mình làm chứng cho Sự Thật đó, theo gương Chúa Giêsu và các Chứng Nhân đức tin anh dũng.

Bài học thứ ba là lòng bác ái không bờ bến đối với mọi người, kể cả những người giết hại mình. Về điểm này, chính Chúa Giêsu đã nêu gương một cách cụ thể: không những Người dạy các môn đệ phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi” mình (x. Mt 5, 44), mà chính Người, khi bị treo trên Thánh Giá, đã cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết hại Người (x. Lc 23, 34). Thánh Emmanuen Lê Văn Phụng, trùm trưởng của họ đạo Đầu Nước, Cù Lao giêng, đã nói lời trăng trối với con trai của mình tại pháp trường: “Con ơi, hãy tha thứ, đừng tìm báo thù kẻ tố cáo cha nhé” [4]. Có thể nói: tất cả các Thánh Tử Đạo Việt Nam khi bị thẩm vấn, cầm tù và hành quyết, không hề nói một lời trách móc, mỉa mai hay nguyền rủa những kẻ làm hại mình. Càng suy gẫm về những lời đối đáp của các ngài với vua quan bách hại các ngài, hay những lời các ngài tâm sự với người thân của mình, chúng ta mới thấy được điều kỳ diệu của Đạo Tình Thương: Tình thương mạnh hơn sự chết; Tình thương chiến thắng hận thù.

Kính thưa cộng đoàn,

Trong ngày kỷ niệm đúng 50 năm truớc, tức vào ngày 24-11-1960, Đức Giáo Hoàng Chân Phước Gioan XXIII ban hành Sắc chỉ Venerabilium Nostrorum thiết lập Hàng Giáo Phẩm Công Giáo tại Việt Nam. Với tâm tình tri ân, chúng ta hãy “Tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hồng ân này đã được rất đông các Vị Tử Đạo đón nhận cách quảng đại, sống và làm chứng; các ngài là những người muốn loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa” [5].

Ngoài ra, chúng ta chân thành xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta biết dùng ân huệ của Năm Thánh hồng phúc này và dùng việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài để kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày của chúng ta [6].

Nguyên xin Đức Mẹ La Vang, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, hướng dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, để cùng với Con yêu dấu của Mẹ và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam chúng ta đi vào huyền nhiệm Hạt Lúa Miến: chết đi mới sinh nhiều bông hạt, làm nên nhiều tấm bánh, bẻ ra, chia sẻ cho đồng bào của chúng ta được sống và sống dồi dào. Chúng ta chia sẻ sự sống với đồng bào, không chỉ bằng bánh vật chất, mà bằng cả bánh nhân văn và văn hoá, nhất là bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể; có tất cả các thứ bánh đó thì mới thực sự có sự phát triển toàn diện của mỗi người và mọi dân tộc; và có chia sẻ những tấm bánh đó cho mọi người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra lề xã hội, mới thực sự tạo được sự HIỆP THÔNG toàn diện và sâu sắc trong Giáo Hội, để Giáo Hội trở nên Bí Tích, nghĩa là “dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp nhất giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau” [7]. Theo nghĩa đó, “xây dựng sự HIỆP THÔNG trong Giáo Hội là chìa khóa của SỨ VỤ” [8] làm chứng cho Chúa Kitô và Phúc Âm của Người. AMEN.

————

[1] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca 2.

[2] Xem Kinh Sách ngày 24/11, điệp ca 1.

[3] Xem Kinh Sáng ngày 24/11, điệp ca của Thánh ca Tin Mừng.

[4] Xem Tài Liệu Làm Việc của Đại Hội Dân Chúa, cước chú 109.

[5] Xem Huấn từ ĐTC Beneđictô XVI ngỏ với HĐGMVN ngày 27-06-2009.

[6] Xem Thư ĐTC Beneđictô XVI gửi ĐC Chủ Tịch HĐGMVN dịp lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện 24-11-2009.

[7] Xem TLLV, chương II.

[8] Xem Sứ điệp Khánh Nhật Truyền Giáo năm 2010 của ĐTC Beneđictô XVI.

 

.

CON ĐƯỜNG HẠT LÚA

Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây, các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ đức tin của mình.

Nhưng thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa.

Nhìn lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.

Dù các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”.

Nhìn lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một mùa gặt bọâi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.

Lạy Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1- Khi mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát triển. Điều này dạy ta điều gì?

2- Hãy tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.

3- Muốn đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?

 

.

NOI GƯƠNG CHA ÔNG CHỌN CHÚA LÀ LẼ SỐNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Xã hội nào cũng có những cái chết bởi hoàn cảnh xã hội gây ra. Có thể do chiến tranh, do đói nghèo, do bệnh tật, do sự bách hại của chính quyền, . . . Nhưng, có những cái chết đáng ca ngợi và cũng có những cái chết khiến chúng ta xót xa cho thân phận con người.

Xã hội Việt Nam hôm nay không có cái chết do chiến tranh. Không có cái chết vì lý tưởng, không có cái chết do sự bách hại của chính quyền, nhưng lại có rất nhiều cái chết vì chọn lựa đồng tiền và lợi ích vật chất đã dẫn đến vì tiền mà liều mạng vong thân.

Ngày 24/10 cả thế giới bàng hoàng về 39 nạn nhân chết đông lạnh trong thùng Contener tại Anh. Mọi người càng xót xa hơn khi biết được nguyên nhân cái chết nhờ tin nhắn cuối cùngmà cô gái trẻ Phạm Thị Trà My để lại cho mẹ: “con xin lỗi bố mẹ nhiều. Con đường đi nước ngoài không thành. Con chết vì không thở được.” Có thể nói, em là đại diện tiêu biểu cho những bạn trẻ đang bất chấp tính mạng để mong đổi đời dù phải huỷ bỏ cả căn cước của mình! Hình như đối với người trẻ hôm nay họ chỉ nhắm tới mục đích là thoát nghèo và kiếm thật nhiều tiền mà ít khi nghĩ đến những rủi ro tai nạn và kể cả đạo đức.

Cũng vì tiền mà hôm nay chúng ta thấy biết bao bạn trẻ đã mạo hiểm kiếm tiền bằng những con đường bất chính như mua bán xì ke ma tuý hay mại dâm. Vì tiền mà nhiều bạn trẻ đã tham gia những băng nhóm giang hồ để cầu mong có tiền đổi đời và sống sung sướng hơn.

Những cái chết vì tiền chỉ mang lại hoang mang sợ hãi cho xã hội. Những cái chết vì tiền là minh chứng cho một xã hội quá hung tàn, bạo lực và chết chóc.

Hôm nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể lễ các thánh Tử đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Chúng ta tự hào vì cha ông chúng ta đã dám làm chứng vì tin mừng. Vì “Tử đạo” nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, gia đình để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh hoa phú quý ở đời này không phải là vĩnh cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”.

Cha ông chúng ta đã chọn lựa “Trung thành với Thiên Chúa” cho dù có thiệt thòi về kinh tế kể cả mạng sống. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá, nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.”

Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”.

Mừng lễ các thánh Tử đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho Chúa, nhưng cũng không kém phần gian khó.

+ Đứng trước những bất công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng?
+ Đứng trước lời mời gọi của hưởng thụ chay theo vật chất, tôi có dám nói không với điều bất chính hay nhắm mắt tìm tiền mà bỏ qua giới luật của Chúa?
+ Tôi có dám vì Chúa mà nói không với tội lỗi để sống trong sạch và công bình không ?

Xin nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của Thánh Thể, giúp cho mỗi người chúng ta biết chọn lựa những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời hơn là của cải trần gian mau qua. Xin Chúa là Đấng đã từng nói: “hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” cũng ban cho chúng ta một ngôi nhà trên trời vì đã chọn Ngài ở trần gian.Amen.

 

.

ĐÁNG QUÍ NHƯ CHÂU NGỌC

Lm. Phạm Thanh Liêm

Ngày 24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.

Các thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi những con người yếu đuối mỏng dòn.

Đời sống trong sáng đáng quý như châu ngọc

Bài đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.

Thái độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên Chúa, yêu mến con người và những người thân.

Cái chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời nói nhiều.

Không có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa

Bài đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa?

Không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô”. Không ai, cho dù đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này, vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.

Vì tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”. “Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù “kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.

Vác thập giá hằng ngày mà theo Ta

Đức Giêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Giêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.

“Được lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu hơn đời sống chóng qua này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Tại sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
  2. Có người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại sao?
  3. Để giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!

 

.

ANH EM LÀM CHỨNG CHO THẦY

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

 Suy Niệm

Trong số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất, mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.

Trước khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. “Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ.” Đó là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.

Nhà bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?” Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình cho Chúa.

Cuộc đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta. Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan “Hùm Xám” tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững của bà.

Khôn ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh Thần ở với bà.

Hội Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.

Mỗi ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.

Có khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc sống.

Càng có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối diện.

Ước gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào trên quê hương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Các vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi…)

Theo ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu? Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?

Cầu Nguyện

Lạy các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.

 

.

MÁU CÁC THÁNH TỬ ĐẠO: TRỔ SINH CÁC TÍN HỮU

Joseph Vũ Hải Bằng

Ai gieo trong lệ sầu, Sẽ gặt trong hân hoan” (Tv. 125-126, 5, 6)

Tin mừng Thánh Luca (21, 5-19) cho chúng ta thấy một bức tranh hiện thực về một bối cảnh, trong đó Đức Giêsu báo trước cho các môn đệ những gì các ông sẽ phải trải qua và nhận được khi sống quyết liệt và triệt để Tin mừng vì Danh Đức Kitô. Chúa tiên báo cho các Tông Đồ và cho các đồ đệ các ngài trong mọi thời đại, và Chúa tiên báo một cách hết sức rõ rệt, không úp mở. Chúa không đưa đẩy với những lời hứa hẹn xa gần, nhưng với thói quen nói thẳng lời chân lý toàn diện. Chúa chuẩn bị tâm hồn các Ngài trước nguy cơ : “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.” (Lc 21, 17-19).

Một dự báo thật khó khăn và khắc nghiệt. Nhưng xem ra, dường như những người theo Chúa Kitô Giêsu hôm nay không phải chịu cảnh khắc nghiệt đó ?! Vì danh Đức Kitô, người ta dễ dàng yêu mến và tôn trọng những người sống Tin Mừng cách triệt để. Dù chiến tranh, bạo động… vẫn đang xảy ra tại các điểm nóng trên thế giới, nhưng mọi người dù theo chủ trương bạo động hay bất bạo động, dù công khai hay âm thầm, vẫn chân nhận quý mến và cảm phục những người đã hết mình sống cho lý tưởng và tinh thần của Tin Mừng (như Mẹ Têrêsa Calcutta, Đức Gioan Phaolô II…)

Nhưng, nếu chúng ta nghiên túc kiểm điểm và hạch toán đời sống đức tin của chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra thật không dễ dàng chút nào khi sống quyết liệt và trọn vẹn lý tưởng và tinh thần của Tin Mừng, thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, hướng trọn toàn tâm toàn trí về Danh Đức Kitô.

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không bỏ rơi những ai tin theo Ngài trong những cơn bách hại : “Khi bị nộp vào tay họ, các con đừng lo phải nói thế nào và nói gì, lúc đó sẽ dạy cho các con những điều phải nói. Vì thực ra không phải các con nói, nhưng Thánh Thần của Chúa Cha nói trong các con” (Mt 10, 19-20). Thánh Thần, chính là Thần Chân Lý. Ngài sẽ là mãnh lực trong thân xác yếu hèn của con người. Nhờ Ngài là mãnh lực mà anh em mới có thể thành chứng nhân. Phải, chính sự kiện anh em là chứng nhân cho Chúa Kitô tử nạn, sự kiện đó há chăng phải là khôn ngoan, là mãnh lực vượt mức loài người đó ư ? Chính Thánh Phaolô đã nói : “Sự kiện Chúa Kitô tử nạn là một ô nhục cho người Do Thái, là một cử chỉ điên rồ đó ư ?” (I Cor. 1, 23). Từ đời các Thánh Tông Đồ đã vẫn thế rồi, qua các thế hệ lịch sử vẫn tiếp tục như thế; cũng như qua mấy thế kỷ bách hại tại Việt Nam, sự kiện đó vẫn không thay đổi.

Thật vậy, cần phải có mãnh lực, khôn ngoan từ Thiên Chúa mới có thể tuyên xưng Mầu Nhiệm Tình Yêu của Ngài, chính là tình yêu được diễn tả trong cuộc tử nạn trên Thập Giá để cứu chuộc trần gian: quả là mầu nhiệm bao la vượt hẳn sự suy luận của loài người. “Là vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan của người đời, và cái yếu hèn nơi Thiên Chúa còn mạnh hơn cả sức lực phàm nhân” (I Cor. 1, 25).

Các vị Tử Đạo Việt Nam là những chứng nhân lịch sử của Tin mừng đã sống triệt để Lời Chúa dạy. Trong vũng nước mắt của các ngài đã gieo xuống hạt giống ân sủng, để rồi trổ thành vô số bông hoa Đức Tin : “Hạt giống gieo xuống mà không mục đi thì chỉ trơ trọi một mình, nếu mục đi sẽ sinh nhiều bông lúa” (Ga. 12, 24). Thực hiện lời dạy của Chúa, Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đa Minh là người Việt Tử Đạo đầu tiên năm 1773, bất chấp những khó khăn nguy hiểm của thời cấm cách. Lúc nào, cha cũng luôn nhiệt tình yêu thương, giúp đỡ mọi người, nên ai cũng hết lòng thương mến. Cha khích lệ mọi người thêm can đảm, cha an ủi những người buồn sầu, và không nề hà bất cứ điều gì vì lợi ích thiêng liêng của họ. Cha còn xin bề trên của mình cầu nguyện cùng Chúa khi dâng lễ và trong kinh nguyện, để mỗi ngày được hòan thiện hơn, và vui lòng đón nhận những khốn khó theo ý Chúa”.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, để có thể sống : “Vì Danh Đức Kitô” (Lc 21, 17), chúng con cũng phải đổ máu trong cuộc sống đời thường. Chúng con cũng phải bắt chước giống như các thánh Tử Đạo Việt Nam, đã anh dũng và can đảm sống chứng nhân Tin Mừng. Dù không bị ai bắt bớ, giam hãm, nhưng cuộc sống của chúng con sẽ là lời chứng hay phản chứng về Tin Mừng của Đức Kitô. Máu các thánh Tử Đạo đã đổ ra để ươm mầm và nảy nở hạt giống đức tin của Giáo Hội. Phần chúng con cũng phải “đổ máu” để góp phần làm trong sách hoá đức tin, làm lành mạnh hoá môi trường sống.

Quả thật, Lời Chúa vẫn còn vang mãi và mang lại ơn ích cho người muốn lắng nghe. Dù xã hội có bị xáo trộn và phức tạp vì những đổi thay thời “mở cửa”, chúng con vẫn nhận ra tình yêu quan phòng của Thiên Chúa: “Dù một sợi tóc trên đầu rơi xuống cũng không bị mất đi” (Lc 21, 18). Máu các thánh Tử Đạo đã không đổ ra một cách vô ích. Những chứng nhân hiện đại vẫn sống Tin Mừng cách âm thầm không bị rơi vào vô vọng và lãng quên, ít nhiều đã gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh và làm chứng cho Lời Chúa vẫn còn hấp -lực thu hút và thuyết phục, là ánh sáng soi đường cho những ai muốn sống hướng thượng và toàn tâm toàn trí cho “Danh Chúa”. Một lần nữa, khẳng định : “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21, 19) giúp chúng con vững tin và tạo thêm động lực để chúng con bước đi dưới ánh sáng Lời Chúa.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con không thể làm được gì nếu không có ơn Chúa. Xin cho chúng con biết ý thức những gì chúng có có được cũng là nhờ “Danh Chúa”, và nếu, chúng con có gặp khó khăn, trở ngại hay chống đối , thiệt thòi gì, thì cũng là vì “để Danh Chúa được tôn vinh hơn”. Xin Chúa thêm sức cho chúng con, để chúng con biết sống đức tin trong đời thường, trong môi trường làm việc và sinh hoạt… biết can đảm và dám đổ máu “chết đi” con người cũ, ích kỷ, hưởng thụ và vô trách nhiệm… hầu chúng con có thể trở thành chứng tá cho tình thương Chúa, và trở thành khí cụ bình an của Chúa. Ước gì nhờ máu các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng con ngày càng được triển nở và thăng tiến đức tin trong tình yêu Thiên Chúa. Amen.

 

.

NGƯỜI LÀM CHỨNG

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Trang Tin mừng chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu báo trước những đau khổ mà các môn đệ sẽ phải đối diện, thì rồi đây Thầy Giêsu sẽ phải trải nghiệm trước.

Chẳng hạn như Chúa nói: “Các con hãy coi chừng người đời, họ sẽ bắt nộp các con nơi hội đường…..”. Đức Giêsu đã bị người Do thái bắt và điệu đến hội đường, trao nộp cho Caipha làm thượng tế năm ấy.

Rồi họ sẽ đánh đập các con trong các hội đường của họ. Đức Giêsu đã bị lý hình đánh đập tả tơi đến nổi chẳng còn hình tượng người ta nữa.

Các con sẽ bị điệu ra trước mặt vua Chúa quan quyền, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Các thượng tế đã điệu Đức Giêsu ra trước mặt quan Philatô. Nơi đây, Chúa đã làm chứng: Tôi là vua, Tôi sinh ra và đến trong thế gian này, là để làm chứng cho sự thật, ai hâm một sự thật thì nghe Tôi.

Sau cùng Chúa nói: Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh, con cái chống đối cha mẹ. Chính Giuđa đã nộp Thầy Giêsu cho các thượng tế với giá 30 đồng bạc. Cho nên, những gì các môn đệ của Chúa sẽ phải đối diện, thì Đức Giêsu sẽ trải nghiệm trước. Nhìn vào cuộc thương khó của Chúa, ta mới biết thế nào là tử đạo.

Anh chị em thân mến,

Theo sử liệu để lại, thì Giáo Hội Việt Nam có khoảng 130.000 tín hữu, can đảm đổ máu ra làm chứng cho Chúa trên quê hương Việt nam. Trong số đó, có 118 vị đã được thánh Gioan Phaolô II, tôn phong lên bậc hiển thánh ngày 19/6/1988. Các Ngài là những Giám mục, Linh mục, Thầy giảng, Chủng sinh và giáo dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội.

Thế thì, bởi đâu mà các ngài dám đổ máu mình ra như thế?. Thưa, chính là tình yêu. Tình yêu khởi đi từ Đức Kitô, khi Ngài nói: “Các con hãy yêu thương kẻ thù, hãy cầu nguyện cho những người làm hại các con, hãy tha thứ cho những kẻ bắt bớ, và chúc phúc cho những ai hành hạ các con”. Và tình yêu ấy được thể hiện khi Đức Giêsu cầu nguyện trên thánh giá “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ vì họ lầm chẳng biết”.

Noi gương Đức Kitô, các thánh tử đạo đã sẵn sàng tha thứ cho những kẻ hành hạ mình. Cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, và nói lời tha thứ cho những kẻ giết mình.

Nhờ Chúa ban ơn trợ giúp, những con người vốn mỏng dòn yếu đuối, đã trở nên can đảm phi thường. Chính khi các ngài chịu trăm bề đau khổ, các ngài đã làm chứng cho mọi người biết, đạo Đức Chúa Trời chính là đạo yêu thương.

Thật vậy, chỉ vì tin Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ trần gian, mà thánh Matthêu Gẫm, đã can đảm không bước qua thánh giá. Ngài trả lời với ông quan tỉnh rằng: “Thánh giá tôi tôn thờ, thì làm sao tôi giẫm lên được?”.

Vì tin vào Đức Kitô phục sinh, tin có sự sống lại ở đời sau, mà thánh Mỹ vui lòng chịu trăm bề đau khổ, để bước theo chân Chúa đến cùng. Ngài nói với quan tổng đốc rằng: “Tôi đã suy xét kỹ, và tin nhận đạo Thiên Chúa là đạo thật, nên tôi không chối bỏ đạo này bao giờ”.

Ngày nay, Giáo Hội cần có những người dám sống, dám làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Cuộc sống làm chứng cho Chúa ngày nay, là một hình thức tử đạo tuy không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng đòi chúng ta làm chứng cho Chúa về đạo yêu thương của mình.

Hình thức tử đạo ngày nay tuy không bị ai giết chết, nhưng đòi chúng ta can đảm chết đi cho những đam mê tật xấu, chết đi cho những dục vọng thấp hèn.

Hình thức tử đạo ngày nay, mời gọi chúng ta noi gương Chúa, sẵn sàng bao dung, tha thứ, và cầu chuyện cho những người xúc phạm đến chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Giáo hội Việt nam tưới thắm không biết bao nhiêu máu của các chứng nhân anh hùng, đó là các bậc tiền nhân. Các ngài đã dầy công vun xới để cho hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước, mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng.

Mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta chung lời tạ ơn Thiên Chúa, đã ban cho Giáo hội Việt Nam có những hạt giống đức tin, được gieo vãi trên quê hương đất nước. Tạ ơn Chúa, vì hạt giống đức tin chúng ta được lớn lên trong dòng máu tử đạo của các bậc tiền nhân. Và đây cũng là cơ hội nhắc nhở chúng ta về lòng biết ơn, vì tổ tiên đã để lại cho chúng ta một gia sản cao quí, đó là đức tin vững mạnh vào Chúa. Chúng ta hết lòng ngưỡng mộ, vì các Ngài đã anh dũng trong đức tin, kiên trì trong đức cậy, và bền vững trong đức mến dưới bất cứ hình khổ nào.

Ước gì, ngọn lửa đức tin mà các bậc tiền nhân đã thắp lên bằng cái chết đẫm máu, để làm chứng cho Chúa, sẽ được bừng sáng lên mãi trên tổ quốc Việt Nam thân yêu này. Nhờ đó, sẽ làm cho công cuộc loan báo Tin mừng, được lan tỏa trên cánh đồng truyền giáo còn mênh mông bát ngát.

Cuối cùng, “con nhà tông không giống lông thì giống cánh”. Chúng ta tiếp tục sống làm chứng cho Chúa, là giới thiệu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa, bằng tấm lòng đầy ắp yêu thương, tràn trề lòng thương xót, để diễn tả lối sống mới của lòng thương xót. Ngôn ngữ mới của lòng thương xót và cung cách mới của lòng thương xót. Amen

 

.

THAM DỰ VÀO HY TẾ CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Chúa Giê-su tiếp tục hiến tế cho đến ngày tận thế để đền tội cho muôn người.

Cách đây 2.000 năm, Chúa Giê-su đã chịu khổ hình, chịu vác thập giá và chịu chết đau thương trên thập giá để đền tội cho nhân loại.

Thế nhưng, trong những thế kỷ về sau và đặc biệt là trong thế kỷ 21 hiện nay, tội lỗi nhân loại tiếp tục gia tăng khắp nơi trên thế giới với mức độ ngày càng khủng khiếp nên sẽ mang lại những hậu quả đau thương và cái chết đời đời cho vô vàn người gây ra tội lỗi.

Thiên Chúa không nỡ để cho bao người phải hư mất đời đời vì tội lỗi họ gây ra, nên Chúa Giê-su vẫn còn phải tiếp tục chịu khổ nạn, chịu hiến tế để đền tội cho thế gian.

Như thế, cuộc khổ nạn hay nói khác đi là hy tế thập giá của Chúa Giê-su không chấm dứt sau khi Ngài tắt thở trên thập giá vào chiều thứ sáu trên đồi Can-vê cách đây 2.000 năm, mà còn được tiếp tục kéo dài cho đến tận thế để cứu độ muôn người qua suốt dòng lịch sử. Giáo lý công giáo số 1323 khẳng định điều nầy: “Hy Tế Thập Giá (của Chúa Giê-su) kéo dài qua các thời đại cho tới khi Ngài lại đến.”

Chúa Giê-su mời các thánh tử đạo tham dự vào hiến tế của Ngài.

Chính vì công cuộc khổ nạn và hy tế của Chúa Giê-su cần phải được tiếp tục cho đến tận thế để đền tội cho nhiều người tội lỗi trong suốt dòng lịch sử nhân loại nên Chúa Giê-su kêu gọi các tín hữu là những chi thể trong Thân Mình Ngài cùng vác thập giá, cùng chịu khổ nạn với Ngài. Ngài từng lên tiếng mời gọi: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mát-thêu 16, 24)

Thế là hàng hàng lớp lớp ki-tô hữu chấp nhận đổ máu và hiến tế đời mình cùng với Chúa Giê-su, khởi đầu là máu của các hài nhi vô tội Bê-lem (Mát-thêu 2,16) của thánh Gia-cô-bê tông đồ và của phó tế Tê-pha-nô là những vị tử đạo tiên khởi, của các tín hữu tại đế quốc Rô-ma trong suốt 250 năm bách hại dưới triều các hoàng đế Rô-ma cho đến máu của các thánh tử đạo thuộc nhiều chủng tộc, nhiều quốc gia, nhiều dân nước trên khắp thế giới trong suốt 2.000 năm qua.

Trên quê hương Việt Nam, nếu tính từ năm 1644 là thời điểm Thầy An-rê Phú Yên bị trảm quyết cho đến khi vua Tự Đức băng hà (1883), các tín hữu công giáo đã phải trải qua cơn bách hại ngót 240 năm. Hàng trăm ngàn tín hữu đã hiên ngang đáp lời mời gọi của Chúa cứu thế, chấp nhận vác thập giá và hiến tế đời mình với Chúa Giê-su, khốc liệt nhất là trong khoảng 65 năm dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883) và đảng Văn Thân (1885-1886) để hồng ân cứu độ được tuôn ban dồi dào cho dân tộc Việt Nam chúng ta.

Chúa Giê-su mời chúng ta tham dự vào hiến tế của Ngài.

Từ ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, các tín hữu được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giê-su (giáo lý công giáo số 1267) và được thông dự vào chức tư tế (chức linh mục) của Ngài (sđd số 1268). Vì là “Thân Thể của Chúa Giê-su, chúng ta phải tham dự vào hiến tế của Chúa Giê-su là Đầu của toàn thân.” (sđd số 1368)

Thế nên mỗi ki-tô hữu, không trừ ai, đều có trách nhiệm và sứ mạng cao cả là tham dự vào hiến tế của Chúa Ki-tô là Đầu của mình, theo gương các thánh tử đạo Việt Nam là những bậc tổ tiên của chúng ta.

Hôm nay, chúng ta không còn phải gánh chịu những cực hình, những đau thương và mất mát lớn lao như các thánh tử đạo Việt Nam trước đây, nhưng chúng ta cũng được mời gọi tham dự vào hy tế thập giá của Chúa Giê-su bằng cách chấp nhận vác thập giá với Chúa Giê-su qua những việc bổn phận hằng ngày, cụ thể là hy sinh thời giờ, công sức, tiền bạc… để phục vụ những anh chị em chung quanh đang cần đến bàn tay, con tim và khối óc của chúng ta.

Có như thế, chúng ta mới xứng đáng là con cháu của các anh hùng tử đạo Việt Nam.

Có như thế, chúng ta mới thật sự là chi thể trong Thân Mình Chúa Ki-tô là Đấng tiếp tục hiến tế đời mình cho đến ngày tận thế để đền tội muôn dân.

 

.

PHẢI TÔN KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO THẾ NÀO?

Lm Ignatio Nguyễn Ngọc Rao

Hôm nay chúng ta hân hoan mừng đại lễ Các Thánh tử đạo Việt Nam. Giáo Hội chúng ta hãnh diện vì có các thánh, nhưng lễ này cũng là một dịp để chúng ta tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?

  1. Chúng ta hãnh diện vì có các thánh

Người Việt Nam hãnh diện về các anh hùng dân tộc. Giáo Hội Việt Nam chúng ta cũng có đủ lý do để hãnh diện với Giáo Hội toàn cầu, vì tuy đức tin mới có mặt trên đất nước này được 500 năm (so với 2000 năm lịch sử Giáo Hội thì không có là bao), nhưng chúng ta đã đóng góp cho Giáo Hội được 117 vị thánh, một con số khá cao sánh với các giáo Hội kỳ cựu hơn. Nhưng chúng ta không phải chỉ có 117 vị đã được phong thánh, mà còn có hàng ngàn, hàng vạn tín hữu Việt Nam khác đã anh dũng hy sinh mạng sống vì đức tin, người thì bị chém đầu, bị phân thây, bị thắt cổ, bị voi giày, người thì bị thiêu sống, bị chết trong tù hay trong nơi đày ải chỗ rừng thiêng nước độc. Hiện nay chúng ta chỉ còn biết tên tuổi của chừng mấy ngàn vị có hồ sơ phong thánh tại Rôma. Nhưng tổng số là bao nhiêu, không ai biết. Có người đã ước lượng con số khoảng 100.000 người tín hữu Việt Nam đã chết vì đức tin.

Dù sao chúng ta có thể hãnh diện vì là con cháu các vị tử đạo, vì dòng máu anh hùng của các ngài vẫn chảy trong mạch máu chúng ta. Chúng ta vui mừng vì các ngài đã chấp nhận nên như hạt lúa phải mục nát đi, để trổ sinh mùa màng tươi tốt mà chúng ta đang đuợc hưởng. Vâng, chính nhờ công đức các ngài mà chúng ta có ngày nay.

  1. Chúng ta đã tôn sùng các thánh đúng mức chưa?

Hãnh diện về các vị tử đạo, nhưng chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đã tôn sùng các vị cho đúng mức chưa? Hay chúng ta chỉ phấn khởi về việc phong thánh, rồi để đấy? Chúng ta chỉ mừng lễ Các Thánh Tử đạo một năm một lần, rồi chẳng nói gì đến nữa?

Muốn tôn sùng Các Thánh Tử Dạo Viêt Nam cho xứng đáng, chúng ta phải:

* học hỏi về các ngài;

* năng cầu nguyện với các ngài;

* nhất là noi gương các ngài.

a) Học hỏi về các ngài:

Các cụ ta xưa có câu: “Vô tri bất mộ”, không biết thì không mộ mến, muốn mộ mến thì phải biết đã. Ngày nay có lẽ chỉ có giáo dân ở những nơi là quê hương các thánh hoặc còn giữ hài cốt các ngài mới còn biết tên tuổi các thánh. Còn thì đại đa số những người khác hỏi rằng có thể kể ra tên được mấy vị? Mà có lẽ hầu hết chúng ta cũng không biết được đích xác những thánh tử đạo nào đã sinh ra, đã sống, đã làm việc hay đã chết trong giáo phận nhà. Thật là điều đáng tiếc!

Vì thế chúng ta cần phải học hỏi thêm về đời sống và cái chết anh dũng của các thánh tử đạo, nhất là của những vị gần với chúng ta hơn. Rồi chúng còn phải dạy cho con cháu biết nữa. Như vậy chúng ta sẽ mộ mến các ngài hơn, đồng thời sẽ lấy làm hạnh phúc vì được sống trên quê hương các thánh.

b) Cầu nguyện với các ngài:

Giáo Hội dạy rằng: các thánh ở trên trời hằng cầu thay nguyện giúp chúng ta trước toà Chúa. Chúng ta hay cầu xin thánh Antôn, thánh Vincentê, thánh Martinô v.v…. nhưng chúng ta có nhớ cầu xin các thánh tử đạo của chúng ta không? Các ngài đẹp lòng Chúa, ở gần Chúa hơn, nên có thể nói là có thần thế trước mặt Chúa. Các ngài lại là đồng bào, đồng hương, thậm chí là bậc cha ông chúng ta, lẽ nào các ngài bỏ rơi chúng ta? chắc chắn các ngài sẵn sàng cầu cùng Chúa cho chúng ta.

Vì thế chúng ta nên nhớ đến Các thánh Tử Đạo Việt Nam và cầu nguyện với các ngài mỗi ngày. Nhất là khi gặp gian nan thử thách, chúng ta hảy chạy đến với các ngài, thì Chúa sẽ vì các ngài mà ban cho chúng ta được can đảm thắng vượt thử thách, được bền lòng giữ đức tin và sốn đức tin cho đến cùng.

c) Noi gương các thánh:

Sau cùng, lòng sùng kính các vị tử đạo phải thúc đẩy chúng ta noi gương các ngài. Các vị tử đạo ngày xưa, có một số là giám mục. Linh mục. Tu sĩ, thầy giảng, còn phần lớn là giáo dân bình thường, cũng có gia đình như ai khác. Các vị là thầy đồ, thầy lang, làm quan, làm lính, làm thợ, làm nội trợ, làm nghề buôn bán. Nghề nông v.v…

Mức hiểu biết về đạo chắc cũng không được sâu lắm, vì thời đó các linh mục phải trốn tránh, ít khi gặp, còn sách đạo cũng thiếu thốn, lại viết bằng chữ hán chữ nôm, ít người đọc được. Nhưng các vị có lòng thành, hiểu được bao nhiêu thì cố gằng thực hành hết điều mình hiểu. Cậy vào ơn Chúa giúp, các ngài đã chấp nhận môi thiệt thòi để trung thành với Chúa. Các ngài đã đặt Chúa lên trên tất cả, trên của cải, gia đình, danh giá, hạnh phúc trần gian, trên cả tự do và chính mạng sống nữa.

Đó là gương sáng các ngài để lại cho chúng ta. Chúng ta có noi theo thì mới xứng đáng là con cháu các ngài. Hay là chúng ta còn ngại vất vả, hy sinh vì Chúa, còn để cho cái gì khác (như của cải, danh giá, thú vui) lôi cuốn, mà sẵn sàng bỏ Chúa?

Hôm nay, khi mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban ơn cho các ngài được can đảm đến cùng, chúng ta hãnh diện vì là con cháu các ngài, và ý thức rằng, muốn sùng kính các ngài cho xứng đáng và thiết thực, chúng ta còn phải tìm hiểu thêm về các ngài để dạy cho con cháu biết, phải năng cầu nguyện với các ngài và nhất là phải ra sức noi gương các ngài mà chu toàn các bổn phận và trung thành với Chúa trọn đời.

Giờ đây chúng ta tiếp tục cử hành thánh lễ. Cùng với Mình và Máu Thánh Chúa Giêsu, chúng ta cũng dâng lên Chúa Cha máu các thánh tử đạo đã đổ ra, hoà với những mồ hôi, nước mắt của chúng ta, và xin Chúa Cha chấp nhận tất cả làm của lễ đẹp lòng Người.

 

.

SỨC MẠNH ĐỨC TIN QUA GƯƠNG TỬ ĐẠO

Lm. Nguyễn Minh Hùng

Tin Mừng đến với dân tộc Việt nam gần 500 năm, thì hết 300 năm, Giáo Hội Việt Nam thấm đẫm dòng máu các anh hùng tử đạo. Giai đoạn bách hại nặng nề nhất là vào thế kỷ 19, trong các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.

Cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam: những người Việt Nam tàn nhẫn sát hại nhau. Chính những đồng bào Việt Nam chung cội, chung nguồn lẽ ra phải yêu thương nhau, lại quay mũi kiếm giết nhau hàng loạt.

Thật vinh phúc cho Giáo Hội Việt Nam, một Giáo Hội còn non trẻ, nhưng lại căng tràn sức sống, đạp trên đầu sóng ngọn gió, vượt thắng mọi thử thách, mọi đau đớn, mà cho đến nay, dẫu đã qua đúng một thế kỷ, thời gian đủ bình tĩnh để suy niệm, sao vẫn còn nghe hãi hùng, vẫn còn nghe nhức nhối tâm can, làm lặng đi mọi tư tưởng, mọi lời nói, mọi thanh âm.

Những người con đất Việt tưởng như gục ngã không thể gượng dậy nổi dưới bàn tay tàn bạo của làn kiếm, mã tấu, gông cùm, tù đày, lửa nung, bá đao, tùng xẻo, xiết cổ, chém bay đầu…, lại là sức mạnh ngàn đời của một đức tin không gì lay chuyển nổi. Bởi Thân xác các thánh Tử đạo dù bị giết, nhưng đức tin của các ngài thì không ai giết được.

Một Giáo Hội còn non trẻ đến thế, lại có sức chịu đựng sự giày xéo quá sức tưởng tượng của người đời.

Giờ nhìn lại sự nhiệm mầu của sức chịu đựng, ta chỉ còn có thể bật thốt lên như thánh nữ Têrêsa: “Tất cả là hồng ân”. Hồng ân nhận được không chỉ là một quà tặng, nhưng còn là một quà tặng vinh dự, một quà tặng của niềm kiêu hãnh thánh thiện.

Hồng phúc tử đạo không chỉ là một hành động dâng hiến tận cùng mà còn là một dâng hiến vinh thắng tận cùng.

Đó không là một vinh phúc lớn lao lắm hay sao! Một vinh phúc lớn lao mà một Giáo Hội còn non trẻ như Giáo Hội Việt Nam, lại có thể cùng Giáo Hội hoàn vũ đã qua mấy ngàn năm, vẽ thêm vào đó một đường lịch sử của đức tin không bao giờ mệt mỏi, không bao giờ dừng lại.

Các thánh Tử đạo đã viết sử bằng máu của mình.

Còn chính Thiên Chúa, Người cũng đã làm cho Giáo Hội Việt Nam được khai sinh, lớn lên và phát triển nhờ dòng máu các thánh.

Nếu cuộc bách hại để lại một trang sử đầy nghiệt ngã cho dân tộc Việt Nam, thì đối với đức tin, đó lại là một trang sử hùng tráng cho Giáo Hội Việt Nam nói riêng và Giáo Hội hoàn vũ nói chung: Bởi những người con đất Việt càng yêu mến quê hương, yêu mến bản thân mình, luyến tiếc cuộc đời, luyến nhớ người thân… và điều đặc biệt: yêu mến các vua quan là những người bên trên mình, thì càng yêu mến đức tin khôn cùng.

Chính cái chết của các thánh Tử đạo là một lời nói xác quyết và chung quyết cho mọi lời tuyên xưng đức tin rằng: Không có bất cứ cái gì có thể ngang bằng đức tin…

Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ vượt trên tất cả, dẫu là chính bản thân các vua quan hay lệnh truyền của các vua quan đi nữa, không có gì sánh ví được với Đức Chúa mà lẽ ra các vua quan cũng phải tôn thờ, các thánh Tử đạo đã chối từ một cuộc sống dễ dãi.

Hiểu rất rõ Chúa Giêsu, Đấng mà mình tôn thờ là Đức Chúa của mình, vì thế, dẫu chỉ là hai que củi vắt chéo trên mặt đất, bình thường chỉ là hai que củi không hơn, không kém, nhưng để biểu lộ đức tin, thì bất cứ một bàn chân giẫm đạp nào, bất cứ lời lỵ mạ nào, hay bất cứ một hành động nào đối lại đức tin khi đứng trước hai que củi ấy, tất cả đều là sự chà đạp đức tin, chà đạp Giáo Hội, chà đạp chính Đấng mà mình tôn thờ.

Ngược lại, bất cứ một hành động hay một lời nói nào để tuyên xưng đức tin mà phải tôn trọng hai que củi hình chữ thập ấy, điều đó không còn đơn thuần là hai que củi hình chữ thập nữa nhưng là hình tượng Thánh Giá, hình tượng của lòng tin, hình tượng của một tâm hồn quả cảm quyết một lòng tôn thờ Đức Chúa của mình!

Hiểu rất rõ điều đó, cho nên dù chỉ là đối điện với hai que củi vắt chéo hình chữ thập, các thánh Tử đạo không chỉ đứng trước hai que củi, nhưng là đối diện với nỗi giằng co mạnh bạo, đối diện với sự chọn lựa không khoan nhượng, nhưng dứt khoát: đức tin hay cuộc sống trần thế.

Và cái giá phải trả cho sự chọn lựa đứng về phía đức tin là bị tước đoạt tất cả những gì đang có trong cuộc trần. Bị tước đoạt cả sự sống, cả đến giọt máu sau cùng.

Máu các thánh Tử đạo Việt Nam đã dệt đỏ thắm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam, vì thế, các thánh Tử đạo mãi mãi vẫn xứng đáng sống trong lòng Giáo Hội và nơi từng người tín hữu Việt Nam.

Vượt trên tất cả mọi tấm gương, vượt trên tất cả mọi bài học, máu các thánh phải là chính cuộc sống của những người Việt Nam Công Giáo hôm nay, khi làm người Việt Nam giữa dân tộc mình, và làm người giữa đời.

 

.

SỐNG ĐẠO LÀ TỬ ĐẠO

Lm. Giuse Trần Đình Long

Tử đạo là người làm chứng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô trước mặt mọi người, và cảm nghiệm rằng Đức Giêsu yêu thương và đang hoạt động trong đời sống mình.

Tử đạo là chứng nhân về Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần làm cho người ấy trung tín với Đức Giêsu cho đến chết.

Việc tử đạo là kết quả một đời sống chứng nhân bằng cách gắn bó hằng ngày với Chúa Kitô, rồi chóp đỉnh mới là sự chết vì yêu mến Đức Giêsu hơn chính mạng sống mình.

Tử đạo không thể là những người suốt cả đời sống xa Tin Mừng Chúa Giêsu, rồi lúc khó khăn cấm cách gồng mình lên giơ cổ cho người ta chém để làm anh hùng.

Như vậy, tất cả tín hữu đều là chứng nhân của Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu nói : “Quả thật, quả thật ta bảo các ngươi, giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh hoa lắm quả”. (Ga 12, 24)

Đức Giêsu là hạt lúa tinh tuyền được Cha ban cho thế gian để chết đi.

Đức Giêsu là vị tử đạo duy nhất và thứ nhất của nhân loại trước Thiên Chúa Cha. Và Ngài cũng là nhân chứng độc nhất vô song của Cha trước thế gian. Ngài nói: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Và Đức Giêsu cũng đã phải chết vì gọi Thiên Chúa là Cha (Mt 26,65 ; Mc14,63 ; Lc 22, 70 )

Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, nhờ Ngài những kẻ chết vì Danh Ngài cũng sẽ được sống lại vinh quang như Ngài.

Kẻ tin hôm nay đặt cuộc sống vui buồn sướng khổ hằng ngày của mình trong Đức Kitô, như hạt lúa gieo vào lòng đất thân yêu, để Đức Giêsu làm chủ đời mình, không để thế gian làm chủ, quyết tâm trung tín với Ngài đến cùng. Như vậy là kẻ ấy đang sống tinh thần tử đạo thật sự rồi.

Vậy tử đạo là gì ? Nếu không phải là cuộc sống chết đi từng ngày trong Đức Giêsu Kitô để sự sống Đức Kitô được tỏ hiện.

Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô đã viết : “Trong mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong thân mình chúng tôi cuộc tử nạn của Đức Giêsu, ngõ hầu sự sống của Đức Giêsu cũng được tỏ hiện nơi mình chúng tôi” (2Cr 4, 10)

Đức Maria, Mẹ chúng ta. Mẹ không bị người ta giết vì đạo Chúa như các vị tử đạo, nhưng Mẹ là Nữ Vương các Thánh Tử Đạo vì suốt đời Mẹ đã luôn mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Suốt đời Mẹ là chứng nhân tuyệt hảo cho Đức Kitô trước mọi người.

Như vậy tử đạo có phải là các anh hùng liệt sĩ như người ta vẫn phong tặng không ?

Các vị tử đạo không phải anh hùng như người ta phong cho các Ngài. Các Ngài còn vượt xa hơn nhiều anh hùng thế gian, là người chết vì tranh đấu cho lý tưởng mình theo. Cái chết ấy gây đau khổ cho chính bản thân họ, cho gia đình họ và còn gây hận thù giữa họ và những kẻ gây ra đau khổ chết chóc cho họ.

Các vị tử đạo là những người chết vì yêu mến Đức Giêsu. Sự chết của các Ngài là nguồn hoan lạc cho chính các Ngài, và là hạnh phúc cho gia đình và dân tộc các Ngài. Hơn thế nữa sự chết ấy lại còn sinh hoa trái cứu độ trên những kẻ giết các Ngài. Biết bao người ghét đạo đã được trở lại nhờ máu và lời cầu nguyện của các vị tử đạo.

Cái chết của Têphanô đã nảy sinh sự sống của Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại sau này. Trong lúc Têphanô bị ném đá vì danh Đức Giêsu, thì Phaolô cổ vũ và giữ áo choàng của những kẻ đi ném đá. Kinh Thánh nói: Saolô đã đồng tình vào việc giết ông (Cv 7,58 ; 8,1)

Mẫu gương của các tử đạo là gì?

Các vị tử đạo đã nhìn vào Đức Giêsu như mẫu gương duy nhất của mình. Đức Giêsu yêu Cha hơn mạng sống của mình, thì trong Đức Giêsu các vị tử đạo cũng yêu mến Thiên Chúa và anh em hơn mạng sống mình.

Khi cổ mang gông, tay bị xiềng đi ra nơi chịu chết, các vị tử đạo luôn cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa. Sự cầu nguyện này xuất phát từ ân huệ được chiêm ngắm sự cầu nguyện tạ ơn của Đức Giêsu khi Ngài đi vào cuộc tử nạn (Mt 26,30).

Lòng yêu thương tha thứ của các vị tử đạo đối với những kẻ đánh đập và giết chết mình cũng xuất phát từ trái tim Giêsu nơi thập giá đã xin Cha Ngài tha thứ cho những kẻ làm khốn Ngài (Lc 23,34)

Những sự lạ lùng và sức mạnh siêu vời của các vị tử đạo như trên, khác hẳn với anh hùng thế gian, do bởi đâu mà có được ?

Sức mạnh siêu vời ấy không tự nơi các vị tử đạo mà có được như vậy. Trước những hình khổ và roi đòn, các vị ấy cũng run rẩy sợ hãi như mọi người chúng ta, và các vị ấy cũng không thể tự mình vui vẻ chúc lành cho những kẻ đánh đập, chửi mắng mình.

Đức Thánh Cha Piô XII trong thông điệp nói về trái tim Đức Giêsu đã viết: “Chính tình yêu siêu nhiên của trái tim Đức Kitô và của Thần Khí Ngài mang cho các vị tử đạo lòng can đảm anh dũng đến chết trong máu đào”

Trong thư gửi giáo hữu Côrintô, Thánh Phaolô viết: “Sức mạnh ấy, kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong bình sành, lọ đất (bình sành là thân xác yếu đuối, dòn mỏng của con người). Ngõ hầu quyền lực siêu vời kia thực rõ là của Thiên Chúa chứ không phải xuất phát tự chúng tôi” (2Cr 4,7)

Suy niệm như vậy, ta thấy Đức Giêsu yêu mến các kẻ làm chứng nhân cho Ngài biết bao.

Tình yêu siêu nhiên mà các tử đạo chịu lấy nơi Đức Giêsu Kitô đủ mạnh hơn mọi đau khổ của thế gian, và cuối cùng thắng cả sự chết. Tình yêu ấy còn thấm vào lòng những kẻ làm sự dữ, đổi lòng độc ác của họ nên hiền lành, làm cho họ hồi tâm quay về đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu.

Về phần mình, các vị tử đạo nhìn nhận sự yếu đuối của các ngài. Chính vì thế, các ngài đã liên lỉ cầu nguyện để được gắn bó với Đức Giêsu trên chặng đường hấp hối đau thương của mình, như Đức Giêsu đã liên kết với Cha nơi vườn cây dầu.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là cha ông chúng ta. Các ngài là những công dân Việt Nam lương hảo, thuộc đủ mọi tầng lớp, đủ mọi lứa tuổi: già, trẻ, tráng niên, phụ nữ.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam cũng còn là các thừa sai ngoại quốc, mà lòng mến của Đức Giêsu đã thôi thúc các ngài dấn thân trên đất nước thân yêu của chúng ta. Máu của các ngài đã được thấm trong máu chiên con là Đức Giêsu Kitô, và đã thấm xuống lòng đất Việt Nam.

Như vậy hạt lúa tinh tuyền gieo vào lòng đất này không phải để nảy lên hận thù nhưng làm bừng lên tình yêu Đức Giêsu Kitô. Tình yêu ấy luôn ôm ấp tất cả dân tộc này vào trái tim cứu độ của Ngài.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị vua quan vu cáo cho đủ mọi thứ tội, bị đặt cho nhiều điều xấu xa theo lòng gian dối của họ. Tất cả những hành động ấy chỉ nhằm một mục đích là: tiêu diệt việc rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Nhưng trước bạo lực, các ngài đã yên lặng như con chiên bị dẫn đến lò sát, rồi theo Thầy mình đã lặng yên vâng ý Cha bước lên Thập Giá.

Thiên Chúa đã chúc phúc cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam, như Kinh thánh nói :“Phúc cho các con khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Các con hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12)

Đức Giêsu Kitô là Thầy và là bạn chí thiết của các vị tử đạo, Ngài đã bao trùm các vị đó bằng vinh quang của Thiên Chúa. Sách Khải Huyền đã diễn tả thế này : “Các kẻ mặc áo dài trắng kia là ai vậy ? Họ từ đâu đến?”

Đó là những người từ cuộc quẫn bách lớn lao mà đến, họ đã giặt áo họ trắng tinh trong máu chiên con, vì lẽ ấy họ được ở trước ngai Thiên Chúa. Và Đấng ngự trên ngai căng trướng của Ngài trên họ, họ sẽ không còn phải đói hay khát nữa. Trên họ mặt trời và nóng bức hết thảy sẽ không giáng xuống. Vì chiên con sẽ chăn dắt họ, và sẽ đưa họ tới các nguồn mạch nước sự sống. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ (Khải huyền 7,13 – 17).

Chúng ta không mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam như những bậc anh hùng cái thế, cũng không chỉ cử hành long trọng bên ngoài như một ngày giỗ lớn với kèn trống cờ quạt rước xách linh đình, cũng không chỉ dừng lại ở những buổi trình diễn rầm rộ như biểu dương anh hùng liệt sĩ với máu chảy đầu rơi… Nhưng tất cả chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương ban cho ông cha chúng ta được phúc thông phần vào việc khai sinh Hội Thánh Việt Nam bằng chính máu mình.

Trong Đức Giêsu, các Thánh Tử Đạo Việt Nam vẫn đang sống, đang liên kết với từng tín hữu làm chứng nhân trong cuộc sống trần thế hôm nay.

Tất cả chúng ta đều được mời gọi làm chứng nhân cho Đức Kitô ngoài phố chợ cũng như trong gia đình, khi sản xuất cũng như chỗ buôn bán, trong xí nghiệp cũng như ở trong trường lớp, trong Thánh đường cũng như nơi giải trí. Tất cả mọi nơi, mọi lúc, chúng tôi mang trong thân mình cuộc khổ nạn của Đức Kitô, để ánh sáng tình yêu của Đức Giêsu luôn tỏ hiện bằng sự sống lương hảo, hiền từ, vui vẻ, dễ thương, thanh sạch, ngay ngắn, cởi mở đầy yêu thương và sẵn lòng tha thứ của chúng tôi, để cho những người đang ghét đạo Chúa, hoặc không biết Đức Giêsu, nhìn vào chúng tôi là những chứng nhân của Ngài, sẽ yêu mến Đức Giêsu và đón nhận Ngài vào cuộc đời mình.

Đừng để cuộc sống của chúng tôi làm cớ cho người ta ghét đạo và xa rời Đức Giêsu hơn nữa. Đừng để người đời mỉa mai : “Tin Đạo chứ không tin người có Đạo” hoặc : “Họ chỉ giữ Đạo mà không sống Đạo”.

Lạy Đức Giêsu Kitô là Đấng đã yêu mến các Thánh Tử Đạo, chúng con tin rằng chúng con cũng đang được yêu mến bằng chính trái tim mà Chúa đã yêu mến các vị tử đạo.

Xin cho chúng con được sống và làm chứng nhân cho Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Dù có phải thiệt thòi về tinh thần vật chất, dù có bị người ta hiểu lầm, ganh tỵ, ghét bỏ, hoặc có bị lao đao gian truân cơ cực tối ngày vì dám sống đạo, dám sống đức tin, dám loan truyền lòng thương xót Chúa, dám làm chứng cho niềm tin của mình… thì xin Thần Khí Chúa nâng đỡ con, làm cho lòng con được trung tín với tình yêu của Chúa cho đến chết và luôn xác tín rằng Sống Đạo chính là Tử Đạo. Amen

 

.

TỈNH THỨC TRƯỚC CƠN BÁCH ĐẠO MỚI

PM. Cao Huy Hoàng

Là người Công Giáo Việt Nam, chúng ta rất hãnh diện về Cha ông của chúng ta, Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Không chỉ là 117 vị hiển thánh, mà có cả trăm ngàn tín hữu đã anh dũng làm chứng cho Thiên Chúa. Không chỉ có thời các vua Chúa cấm cách, mà ngay cả thời nay, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận và cuộc sống nhân chứng của Ngài là một tiêu biểu.

Vì niềm tin tuyệt đối và trung kiên vào Thiên Chúa, vì tình yêu mãnh liệt đáp lại tình yêu tạo dựng và cứu chuộc, vì bừng bừng ngọn lửa khát khao được sống trọn vẹn và vĩnh cửu trong thế giới mới của Ba ngôi Thiên Chúa, mà Cha ông của chúng ta đã không ngần ngại từ chối sự sống hay hư nát của thân xác phàm trần để tuyên tín cho thiên hạ biết rằng có một đời sau vĩnh cửu, hạnh phúc thiên thu.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã bị cấm cách, bức bách, bắt bớ, tù đày, lăng mạ, lăng nhục và cuối cùng chấp nhận chết cuộc sống mình, chết thân xác mình, bằng trăm ngàn cực hình dã man, đau đớn. Sức mạnh để vượt qua và chiến thắng của họ là nhân đức cơ bản, là nguồn ơn cơ bản Tin Cậy Mến mà Thiên Chúa ban riêng cho mỗi con người và ơn hiệp nhất ban cho cộng đoàn làm chứng tá phục sinh. Tuyệt đối không phải là sức mạnh của tập thể theo nghĩa phong trào, có tính hời hợt, nhất thời đấu tranh cho một quyền lợi thuộc  phạm vi trần thế.

Họ đã không bắt chước nhau tử đạo vì danh vọng trần thế là để tiếng lại cho đời sau, nhưng là vì họ xác tín một cuộc sống mới được phục hồi sau cái chết quí giá và ý nghĩa  ấy: cái chết làm chứng cho Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, cái chết để sống lại với Đức Kitô. Họ đã thực thi lời huấn thị của Tin Mừng: “từ bỏ chính mình”: vì xác tín sự sống mình có được là do Thiên Chúa, và thuộc về Thiên Chúa; “vác thập giá mình”: chấp nhận tất cả những thương khó trong đời theo Chúa Giêsu, để ý định cứu rỗi của Thiên Chúa Cha được thực hiện, cho mình và cho mọi người.

Đối với các Thánh Tử Đạo Việt Nam, bước qua thập giá là từ chối ơn cứu chuộc của Đức Kitô, là bội tín với Thiên Chúa. Vì thế, khi cuộc bách đạo càng khốc liệt, càng đẫm máu, thì niềm tin của họ càng được nung nấu, được tôi luyện thành sắt thép vững chắc nhờ đức mến nồng nàn và đức cậy trông mạnh mẽ.

Giáo hội Việt Nam thừa hưởng một di sản Đức tin quí báu, vì nhờ máu các Ngài đổ ra, mà cánh đồng truyền giáo trổ sinh muôn hạt vàng tín hữu.

Noi gương Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Theo gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các tín hữu Việt Nam đã kiên trung trong đời sống đức tin cá nhân và cộng đoàn thật đáng khâm phục. Qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử đất nước, qua bao nhiêu đổi thay của ý thức hệ… nhưng giáo lý Chúa Kitô và niềm tin vào Thiên Chúa vẫn ngời sáng trên quê hương không chỉ nghèo nàn lạc hậu mà còn chịu bao thảm họa của thiên tai, dịch nạn..

Tuy nhiên, khi mừng lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cũng là lúc mà mỗi chúng ta phải nhìn lại đời sống chứng tá của mình và của cộng đoàn.

Ở đấng bậc nào trong giáo hội, trong đời sống hằng ngày, tất cả chúng ta đều phải đối diện, phải đặt mình trước thập giá, không phải để chúng ta bước qua, mà là để ôm lấy, yêu mến, hôn kính và nhất là vác đi trong cuộc đời.

Ngày xưa những khổ hình có thể nói là kinh khủng lắm, man rợ lắm dành cho ai không bằng lòng bước qua thập tự giá. Thời nay, cuộc bức bách mới dùng cách làm cho tín hữu không thấy dữ tợn mà hiệu quả không kém kinh khủng hay có thể nói còn kinh khủng hơn: chiêu bài đổi hướng niềm tin và tình yêu.

Chúng ta không thấy mình đang bước qua thập giá, khi chúng ta yêu mến của cải tiền bạc, tiện nghi vật chất và những khoái lạc trần gian hơn là yêu mến Chúa. Hơn nữa, chúng ta vẫn thấy mình rất xứng đáng vì những việc đạo đức, những việc tông đồ. Chúng ta không thấy mình bước qua thập giá, khi mình đang làm việc Chúa để tìm chút hư danh cho mình. Hướng đến của Tình yêu chúng ta là Chúa, đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta là Thập giá Chúa Kitô, nhưng tài hoa của ma quỉ đã khéo léo chuyển hướng đến của tình yêu chúng ta là chính chúng ta.

Quả thật, chúng ta đang không làm chứng cho một Thiên Chúa, nhưng chúng ta đang làm chứng cho chính mình, khẳng định chính mình, củng cố danh dự chính mình. Chúng ta đang bước qua thập giá mà không hề hay biết. Không tỉnh thức trước những âm mưu của ma quỉ, chúng ta có thể nằm gọn trong đúng mục tiêu, đúng tầm ngắm của cuộc bách đạo mới.

Tỉnh thức trước cơn bách đạo thời nay

Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới.

Mục tiêu của cuộc bách đạo mới  không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái vỏ ốc cầu an, trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là tạm đủ, trong cái túi chấp nhận một loại tự do ảo tưởng, trá hình mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ.

Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá cả triệu cung điện của Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân, vô vọng tưởng một đời sau… để không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, không còn một định luật tôn giáo nào, không còn một nguyên tắc đạo đức nào, không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người công giáo.

Nhận lãnh bí tích rửa tội để có một danh xưng, hoặc hợp thức hóa một tình trạng. Và các bí tích Kitô giáo khác được lãnh nhận tiếp theo như một thủ tục-Cung điện của Thiên Chúa  là một bức họa không hơn.

– Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo làm sao nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một đất nước đang có đủ thứ món ăn chơi.

– Làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng.

– Tâm hồn các trẻ thơ vừa có trí khôn, mới mở ra với cuộc đời, đã đón nhận bài học con người bởi khỉ mà ra, để sẽ sống như khỉ và chết như con khỉ – cuộc bức bách về giáo dục không Thiên Chúa.

– Mới ngày nào đây, lương tâm các đôi vợ chồng, nhất là các tín nữ còn đắn đo, do dự khi phải chọn cho mình một cách tránh thai hợp với luật Thiên Chúa, và cương quyết bảo vệ sự sống đến cùng thì hôm nay, lương tâm ấy đã chai đi và có thể chấp nhận bất kỳ một phương pháp nào để khước từ thiên chức làm Mẹ. Hơn thế nữa, không những khước từ ơn tiếp tục cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, mà còn có thể hủy hoại quà tặng tuyệt vời của Thiên Chúa ở bất kỳ tháng tuổi nào.

– Không cần thiết phải cấm các em học giáo lý, vì biết chắc những trang giáo lý khô khan kia sẽ không hấp dẫn bằng những trò chơi vô bổ hàng giờ trên máy vi tính ở các dịch vụ internet, hoặc những trang web có sức gieo vào đầu các em một kiểu sống vô luân. Vì thế cuộc bách đạo hướng đến việc sản xuất và du nhập hàng loạt phim ảnh như những viên đạn đồng bắn nát đức tin và luân lý của cả một thế hệ.

– Còn một điểm nhắm quan trọng hơn cả của cuộc bách đạo là làm rạn nứt sự hiệp nhất giáo hội, mà phải là sự rạn nứt bắt đầu từ những vị thẩm quyền cao nhất,  đến các  thành phần  ưu tú nhất, rồi đến những cộng sự thân cận, xuống đến các tín hữu. Tinh thần thế tục luồn lách vào trong mọi bất đồng gây nên những xáo trộn nội bộ không đáng có, dẫn đến những rẽ chia đáng tiếc.

Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo Việt Nam không chỉ là những cuộc rước kiệu linh đình, tôn vinh Cha Ông với niềm tự hào dân tộc, nhưng trước tiên là tạ ơn Chúa đã gieo trồng Hội Thánh Chúa ở Việt Nam bằng những giọt máu, và tôn vinh Cha ông với niềm tự hào về sức mạnh toàn thắng của Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu không có niềm tin, cậy, mến vào Thiên Chúa và nhất là vào Thánh giá vô địch của Chúa Kitô, Cha ông chúng ta đã không thể lãnh nhận phúc tử đạo, làm chứng cho Thiên Chúa.

Mừng kính lễ các Thánh Tử Đạo còn là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhìn lại cách sống chứng nhân của mình và phải luôn cảnh giác trước cuộc bách đạo kiểu  mới, nhất là trong toàn cảnh xã hội Việt Nam. Có thể chúng ta đang nằm gọn trong mục tiêu cuộc bách đạo, vì đã bước qua thập giá Đức Kitô lúc nào không hề hay biết, mà vẫn chủ quan tự nhận là những chứng nhân anh dũng giữa lòng quê hương dân tộc. Có thể chúng ta không những đã bước qua thập giá, không được diễm phúc tử đạo, mà còn tiếp tay cho cuộc bức bách tiến đến mục tiêu tối hậu là tách rời tương quan với Thiên Chúa thật hoặc vẫn còn tương quan với một Thiên Chúa theo mô hình một loại đức tin cập nhật từ chủ thuyết không Thiên Chúa.

Thiên Chúa sẽ không hài lòng khi chúng ta từ chối Thập Giá Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu nói: “Kẻ nào hổ thẹn chối Ta và các lời Ta, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn chối nó, khi Ngài đến trong vinh quang của Ngài và của Cha cùng các Thiên thần” (Lc 9,26)

Mừng Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thiết nghĩ mỗi người đều phải đặt mình trước một sự thật: Thiên Chúa đau lòng  vì con người xúc phạm đến Thiên Chúa và  vì các tín hữu Chúa chưa can đảm để làm chứng cho Ngài. Và từ đó, mỗi người phải tự cảnh tỉnh trước những biến dạng thiên hình vạn trạng của cơn bách đạo hôm nay, để cương quyết “không bước qua Thập Giá” và càng không tiếp tay nối giáo cho giặc.

Lạy Chúa, giáo hội lữ hành, và đặc biệt  giáo hội Việt Nam chúng con đang gặp những thách đố lớn lao vì những chủ trương không Thiên Chúa và không đời sau đang lôi kéo các tín hữu buông bỏ tinh thần từ bỏ, bóp chết tinh thần tử đạo của Chúa Kitô. Xin Chúa ban cho mọi thành phần trong giáo hội ơn kiên trung làm chứng cho Chúa qua việc không hướng theo tinh thần thế tục đang hấp dẫn mọi nơi.

Lạy Chúa, trong đời sống gia đình, chúng con làm cha, làm mẹ  một thiên chức Chúa ban gắn liền với ơn tử đạo, qua việc hiến dâng cả đời cho con cái  với bao hy sinh đầy đắng cay và nước mắt. Xin Chúa ban cho chúng con, nồng nàn yêu mến và tín thác vào Chúa, để mỗi hy sinh của chúng con trong đời, xứng đáng là một giọt máu tử đạo rơi xuống, cho mầm đức tin mọc lên trong mỗi gia đình chúng con.

 

.

CÁC CHỨNG NHÂN

Giacôbê Phạm Văn Phượng

Trong những năm giảng dạy, có lần Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ : “Anh em sẽ làm chứng về Thầy”, và chứng ấy là “người ta sẽ hành hạ và giết anh em”. Những lời tiên báo đó thực sự đã xảy ra, trong ba thế kỷ đầu, Giáo hội Công giáo đã bị bắt bớ, hành hạ ghê gớm, và không biết bao nhiêu người đã đổ máu để làm chứng đạo Chúa. Rồi lịch sử đạo Công giáo tại Việt Nam cũng thế, đây là những trang sử oai hùng, những trang sử mà không một trang nào lại không được tô điểm bằng những nét vàng son chói lọi về những cái chết anh hùng của tiền nhân, dưới đủ mọi hình thức tàn bạo ghê gớm. Thực vậy, từ ngày đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là vào khoảng từ năm 1638 đến 1866, lịch sử Giáo hội Việt Nam là một cuộc tử đạo kéo dài, gần 300 năm đầu rơi máu chảy, với trên 100 ngàn vị tử đạo, đã sẵn sàng dâng hiến xương máu chứng minh đạo Chúa. Hùng hồn thay, cảm động thay và thật hãnh diện cho dòng dõi Lạc Hồng. Vậy cái chết của các vị tử đạo nói lên điều gì ?

Trước hết, không những chúng ta nhìn nhận mà còn xác tín rằng : những người chết vì Chúa như thế được gọi là tử đạo, nghĩa là những chứng nhân của đạo Chúa. Tại sao vậy ? Bởi vì khi ấy cũng như ngày nay, Giáo hội dùng cái chết của các ngài để minh chứng đạo Công giáo là đạo của Chúa. Có lẽ có người sẽ không muốn công nhận lời chúng ta quả quyết trên đây, họ nói : nhiều tôn giáo khác cũng có người tử đạo, và có những tên loạn tặc, cũng đã chết cho lý tưởng của họ. Như vậy tử đạo trong đạo Công giáo làm chứng thế nào được đạo Công giáo là đạo của Chúa ? Chúng ta có thể trả lời : các vị tử đạo của chúng ta đã đem ra ba bằng chứng để minh chứng cho đạo, và các bằng chứng ấy bất khả kháng, nghĩa là không thể phủ nhận được.

Bằng chứng thứ nhất, cái chết của các vị tử đạo đã được nói trước. Đọc Tin Mừng chúng ta không thể không ngạc nhiên khi thấy ba ngày trước, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ là các ông sẽ làm nhiều phép lạ để chinh phục thế giới cho Chúa, hôm nay Chúa lại nói trước những cơn bách hại các ông sẽ phải chịu. Xét theo tự nhiên làm sao hiểu được ? Các ông sẽ chữa bệnh, sẽ làm cho người chết sống lại, nhưng rồi chính các ông lại không tránh được bị người ta đánh đập và giết chết. Chúa nói trước cả hai việc, xem ra trái ngược nhau, thật là lạ kỳ. Thế rồi chúng ta thấy sự thực đã xảy ra đúng như lời Chúa nói, đã được thực hiện từng nét. Vậy sự kiện các ông chịu chết ứng nghiệm như lời Chúa đã nói trước là một bằng chứng minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, và đạo Công giáo do Chúa lập là đạo thật, là đạo của Thiên Chúa.

Bằng chứng thứ hai, là chính sự bền gan của các vị tử đạo. Chúng ta thấy ở trong tôn giáo khác, có những người đã can đảm nhận lấy cái chết, do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ, nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo không phải những người nhiệt cuồng, trong một thời gian lâu dài trước, các ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn luôn sống với cái ý tưởng : không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin, sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù thế các ngài vẫn nhẫn nại trung thành với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương tâm, và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của những người cuồng tín. Lúc đầu mặc dù các ngài cũng tìm hết cách để tránh cho khỏi bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình  tĩnh cũng như các ngài đã sống bình tĩnh, chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đối với chúng ta, là phải có bàn tay vô hình của Thiên Chúa nâng đỡ.

Bằng chứng thứ ba, là chính chứng tá của các vị tử đạo. Các ngài lấy máu mình để làm chứng, không phải là làm chứng cho một lý tưởng nhưng là cho một việc. Ở trên chúng ta đã nói : việc chết cho một lý tưởng chưa phải là bằng chứng quyết định cho lý tưởng ấy, vì người ta có thể tưởng lầm rằng : lý tưởng ấy là đúng, và chết cho một lý tưởng chỉ minh chứng mình có lòng ngay, mình thành thực. Nhưng khi người ta chết cho một việc thì khác, đó chính là cái chết của các vị tử đạo. Trước sự chết, các ngài tỏ ra can đảm, anh hùng, cương quyết, bình tĩnh, khiến cho mọi người phải thán phục. Các ngài cũng là những con người mang một thân xác mỏng dòn như chúng ta, biết rung cảm, biết ham sống, nhưng trong cảnh máu chảy đầu rơi, các ngài đã tỏ ra tự chủ biết bao, và giây phút hy sinh đến, các ngài đã thắng lo sợ, đã khuyến khích nhau, đã cầu nguyện, lòng tràn ngập bình an, vui tươi tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó, cái chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho đạo Chúa, vì thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ tử hình để bảo đảm cho lời chứng.

Tóm lại, cuộc du nhập đạo Chúa vào đất nước chúng ta đã được đánh dấu bằng cây thánh giá trồng trên cửa biển, từ thời vị truyền giáo đầu tiên đặt chân đến đất nước này, đó là một dấu báo hiệu, hạt giống Tin Mừng, hạt giống đức tin sẽ nảy mầm và phát triển sau nhiều gian nan đau khổ. Nhưng cũng từ đây, thánh giá Chúa ngày càng tăng số thêm nhiều, nhiều hơn, và mọc lên khắp nơi. Từ cây thánh giá đó chia ra, và được trồng khắp nẻo đường đất nước Việt Nam, đã thấm máu đào của trên 100 ngàn anh hùng tử đạo. Và hạnh phúc thay, thánh giá ấy cũng được trồng vào gia đình chúng ta, trên trán, trên ngực và trên trái tim chúng ta, biến chúng ta trở thành những tông đồ, những chứng nhân của Chúa. Chúng ta nghĩ sao về trách nhiệm và địa vị cao quý này ? Chúng ta nên nhớ : nguồn sáng có thể trở nên tối tăm dễ hơn là Ki-tô hữu mà không tỏa sáng chung quanh, chúng ta đừng nói chúng ta không thể làm chứng cho Chúa, thực ra, chính việc làm hại kẻ khác mới là việc chúng ta không thể làm được.

 

.

CHỨNG NHÂN ANH HÙNG

JM. Lam Thy 

Dựa theo từ ngữ Hán Việt, “tử đạo” là chết vì đạo. Tuy nhiên, theo ý nghĩa được dùng trong nguyên gốc Hy lạp “martys” thì có nghĩa là “làm chứng”. Các vị tử đạo làm chứng về điều gì? Kinh Thánh Tân Ước đã trình thuật  các môn đệ được trao sứ vụ ra đi làm chứng về Đức Giê-su, về sứ vụ của Người, nhưng bằng lời nói, bằng việc rao giảng, chứ không là bị giết chết do sự thù ghét đức tin như những định nghĩa của giáo luật về sau. Dần dần từ “martyr” (tiếng La-tinh) được dùng theo nghĩa hẹp: không còn bao gồm tất cả mọi hình thức chứng tá, mà chỉ giới hạn vào việc chứng tá bằng chính mạng sống của người làm chứng. Mừng lễ các Thánh Tử Đạo, Giáo hội tôn vinh những người con ưu tú đã hy sinh mạng sống của mình để xây dựng Giáo hội với tất cả lòng can đảm, quảng đại, yêu thương.

Bài đọc 1 lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (2Mcb 7, 1.20-23.27b-29) trình thuật một gia đình gồm có một bà mẹ với 7 người con đều chết vì Đạo. Chuyện khó tin nhưng có thật 100%. Có một điều gây ấn tượng sâu sắc là tính cách người mẹ. Vua An-ti-ô-khô là một hung thần khát máu, hắn ra lệnh bắt cả 8 mẹ con cùng một lúc nhưng không giết ngay tất cả. Hắn giết từng người con với mục đích là muốn bà mẹ thương con sẽ đầu hàng và xin làm tôi mọi cho hắn. Thật không ngờ bà mẹ không những đã không vì thương con mà làm lợi cho triều đình, trái lại còn khuyến khích từng người con chấp nhận khổ hình (bị giết cách tàn nhẫn). Đây quả là trường hợp hy hữu đặc biệt.

Thói thường cha mẹ thương yêu con cái, nếu có phải chết thay cho con thì những bậc cha mẹ giàu tình thương rất sẵn sàng. Còn trường hợp khuyến khích con chấp nhận cái chết để rồi chính mình cũng chết theo thì hầu như không thể có, hoặc nếu có thì chỉ là số quá ít (như trường hợp 8 mẹ con chịu chết vì Đạo như nêu trên). Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao lại có trường hợp như vậy? Đọc tiếp bài đọc 2 (Thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma – Rm 8, 31b-39) có thể lý giải được vấn đề.

Trong thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma (Rm 8, 31b-39), thấy có đoạn: “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 38-39). Nếu đem áp dụng vào lịch sử truyền giáo tại Việt Nam thì thấy rất phù hợp. Thật thế, tuy Việt Nam được tiếp cận Tin Mừng Cứu Độ hơi muộn, nhưng ngay từ khi hạt giống đức tin đầu tiên được gieo trên mảnh đất hình cong chữ S này, đã thấy rõ ràng “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (ibid), dù cho đó có là những thế lực phong kiến đầy uy quyền với những cách bách hại đạo khủng khiếp.

Sự thật hiển nhiên là chỉ trong ba thế kỷ, trên 130.000 Ki-tô hữu Việt Nam đã gắn liền cuộc đời minh với cây Thập Tự, hoà trộn máu của mình với Máu Đức Giê-su Ki-tô nhuần thắm cánh đồng truyền giáo Việt Nam. Trong số 130.000 anh hùng tử vì đạo ấy, Giáo hội đã tuyên phong 117 vị lên bậc hiển thánh. Trên 130.000 chứng nhân Tin Mừng anh dũng tuyên xưng đức tin vào cây “Thập giá Chúa Ki-tô”! Thật là một con số kỷ lục đối với một đất nước nhỏ bé và tiếp cận với Ki-tô giáo hơi muộn. Muộn, nhưng vững vàng – muộn, nhưng khởi sắc – muộn, nhưng tốt đẹp – “Muộn thì muộn, muộn thì càng chắc. Khó thì khó, khó chẳng lụy ai” (ca dao VN).

Há chẳng phải đó là một niềm vinh dự, một niềm tự hào cho quê hương đất nước Việt Nam thân yêu sao? Quả thật “không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta”, đúng như lời Thánh Tử Đạo Tê-ô-pha-nô Ven nói với bọn quan quyền bách hại Đạo Chúa: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về Đạo Thập Giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quý hoá đến độ tôi phải bỏ Đạo mà mua?” (Điệp ca Ca vịnh 3, Kinh Chiều II, Lễ kính CTTĐ/VN).

Hơn ai hết, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã thấm nhuần Lời dạy của Đấng khai mở Đạo Thập Giá: “Phúc cho ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.” (Mt 1, 10-13). Vì thế, mở đầu bài giảng trong đại lễ “Tôn vinh Hiển thánh 117 vị Chân Phước Tử Đạo Việt Nam” tại Rô-ma ngày 19/5/1988, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II phát biểu: “Lên tiếng với anh em để hô vang Chúa Ki-tô Tử nạn Thập Giá, tất cả chúng tôi hôm nay để lời cám ơn anh em vì tấm gương nhân chứng đặc biệt các vị thánh Tử vì Đạo của Giáo hội Việt Nam anh em đã nêu cao, bất cứ các ngài là con dân Việt Nam hay là những Thừa sai, xuất xứ từ những nước đã in sâu mầm mống đức tin Chúa Ki-tô. Làm sao kể lại cho hết? Tất cả là 117 vị Tử Đạo, trong số có 8 vị Giám mục, 50 vị Linh mục, 59 giáo dân, trong số đó có một phụ nữ là thánh A-nê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.”

Càng suy niệm, càng thấy lời dậy của Thánh Phê-rô là xác thực: “Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em. Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1Pr 4, 12-14). Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã “thật có phúc”, vì “cùng được vui mừng hoan hỷ” khi “vinh quang của Đức Ki-tô tỏ hiện”.

Tổ tiên chúng ta đã anh dũng làm chứng cho Tin Mừng, làm chứng cho Chân Lý, đem Công Lý gieo mầm tin yêu trên dải đất chữ S thân yêu này. Điều đó, một lần nữa cho thấy chân lý: Máu các Thánh Tử Đạo là nguồn ân sủng chan chứa tưới trên đất nước Việt Nam, làm cho cánh đồng truyền giáo ngày càng thêm màu mỡ, trổ sinh biết bao hạt giống đức tin đơm bông kết trái rực rỡ như ngày nay. Điều này khẳng định nguồn ân sủng vô tận đó chính là để dành cho con cháu các Thánh Tử Đạo trước tiên, để con cháu ngày càng thăng tiến trong đức tin. Đức tin của tổ tiên vẫn mãi tồn tại và còn tiếp tục truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này chính là nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu đích thực của Chúa Ki-tô (công dân nước trần thế + công dân Nước Trời).

Không chỉ ở những chế độ phong kiến hà khắc, mà ngay cả ngày nay cũng vẫn còn những luồng dư luận cho rằng các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã theo đạo của đế quốc chống lại triều đình, làm hại cho đất nước mình (cõng rắn cắn gà nhà). Nhưng nhìn thẳng vào thực tế, sẽ thấy rằng đó hoàn toàn là một nguỵ thuyết được tô vẽ để che đậy cho ý đồ “tẩy chay Ki-tô Giáo”. Thánh Lu-ca Vũ Bá Loan – linh mục tử đạo, đã trả lời thẳng quan quyền: “Tôi chẳng theo đạo của nước nào cả, tôi chỉ thờ Chúa Trời Đất, Chúa của muôn dân thôi”. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam có chống lại chính quyền hay không? Hoàn toàn không! Không một Giáo sĩ hay giáo dân Tử Vì Đạo nào dùng vũ khí, vũ lực trần thế để chiến đấu, mà ngược lại các ngài chấp nhận để chính quyền giết hại, chỉ vì các ngài thấy rõ được chân lý cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô không nhằm vào cuộc sống tạm bợ trần gian, mà là nhắm đến sự sống vĩnh cửu mai sau.

Chính Thánh Tô-ma Khuông – linh mục tử đạo – đã thẳng thắn trả lời cho các quan quyền chụp lên đầu các ngài cái mũ “chống triều đình”, bằng câu nói bất hủ: “Đạo Gia-tô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”. Một cách cụ thể, gương chứng nhân của các Thánh Tử Đạo Việt Nam luôn minh họa một chân lý: Công ích của quốc gia vẫn là xuất phát điểm để người công dân phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên xưng đức tin của mình vào một Thiên Chúa Tình Yêu. Và như thế là để sống an bình hoà giải với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho toàn dân. Thật đúng như lời dạy của Thánh Phê-rô: “tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra, hành động như những người tự do, không phải như những người lấy tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa, tôn trọng mọi người, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng nhà vua.” (1Pr 2, 13-17).

Người Ki-tô hữu hãy noi gương các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà kiên cường rèn luyện cho mình trở thành một chiến hữu cảm tử vì Đạo Chúa. Xin nhấn mạnh: Cảm tử là liều chết, nhưng ở đây là liều chết vì Đạo Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả để làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô. Hãy sống như Thánh Si-mon Phan Đắc Hòa: “Dầu tôi phải mất vợ mất con, mất hết của cải và mạng sống nữa, tôi cũng không bao giờ bỏ Chúa tôi thờ.”. Hãy học theo lời Thánh Phao-lô Tịnh nhắn nhủ các chủng sinh ở Kẻ Vĩnh: Những cực hình này thường làm cho người khác buồn sầu, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, tôi vẫn đầy vui sướng hân hoan, bởi vì tôi không chỉ có một mình, nhưng có Đức Ki-tô ở cùng tôi. Người mang tất cả sức nặng thập giá, chỉ để cho tôi đỡ phần nhẹ nhất..”. Ngài còn thưa với quan án: “Thân xác tôi ở trong tay quan, quan muốn làm khổ thế nào tùy ý. Nhưng linh hồn là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được.”

Một cách cụ thể là “Hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.” (Ep 6, 10-17). Nói cách khác “Hãy mang chiến phục của Thiên Chúa” (Ep 6, 11), tức là phải coi bản thân minh như là “Một hiến tế sống động, thánh hảo, đẹp lòng Thiên Chúa và không rập theo trần gian” (Rm 12, 1-2). Tuyệt đối “Không được trốn tránh những cực nhọc và lao phiền” (2Cr 11, 27), sẵn sàng “đi con đường bác ái theo gương Chúa Ki-tô đã thương chúng ta và đã phó mình chịu chết cho chúng ta” ( Ep 5, 2) và nhất quyết “chạy hết quãng đường của mình” (2Tm 4, 7)

Mà muốn được như vậy thì đừng quên học theo các Thánh Tử Đạo Việt Nam, với lòng tôn sùng Đức Maria cách đặc biệt. Lòng tôn kính đó thể hiện qua các thứ bảy đầu tháng, với những cuộc rước long trọng, qua tháng Hoa và tháng Mân Côi mỗi năm, đặc biệt qua việc siêng năng lần chuỗi Mân Côi hàng ngày. Nhiều người đọc kinh trên đường đi và lấy hạt chuỗi Mân Côi làm đơn vị tính đường dài. Tiêu biểu như Thánh Phi-lip-phê Phan Văn Minh (linh mục tử đạo) khi bị điệu ra pháp trường vẫn mặc áo dài, cầm tràng hạt trong tay vừa đi vừa lần chuỗi và trước khi bị xử tử, đã cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Mẹ, xin cầu cho con trong giờ lâm chung nguy hiểm này. Lạy Chúa xin thương đến con cùng. Xin Chúa ban cho con mạnh sức chịu cho sáng danh Chúa.”

Chính vì thế, nên trong giai đoạn cực kỳ gian khổ vì sự bách hại Đạo Chúa, các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ lòng cậy trông tuyệt đối vào Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ, nên Đức Mẹ đã đoái thương và hiện ra an ủi tại rừng La-Vang (Quảng Trị) năm 1798. Điều đó chứng tỏ Mẹ vẫn luôn hiện diện để nâng đỡ khích lệ con cái mình trong những lúc khó khăn nhất. Thật là một niềm an ủi lớn cho Giáo hội Việt Nam vậy. Và vì thế, cánh đồng truyền giáo của Giáo hội Việt Nam luôn luôn và mãi mãi là một minh chứng sống động nhất cho chân lý bất biến: “người ta càng hành hạ áp bức dân Chúa, thì dân Chúa càng thêm đông đúc và lan tràn, khiến thiên hạ phải khiếp sợ” (Xh 1, 12).

Ôi! “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho Hội Thánh Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng biết hiến dâng mạng sống, để hạt giống đức tin trổ sinh hoa trái dồi dào trên quê hương đất nước chúng con. Xin nhận lời các ngài chuyển cầu, cho chúng con biết noi gương các ngài để lại: luôn can đảm làm chứng cho Chúa và trung kiên mãi đến cùng. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam).

 

.

CHỨNG NHÂN ANH DŨNG

Lm Giuse Đinh lập Liễm

I. LỄ KÍNH CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM. 

Hôm nay toàn thể Giáo hội Công giáo Việt nam  long trọng mừng kính các Thánh Tử đạo tại Việt nam, một ngày lễ đem lại niềm vui và một hào khí thúc đẩy người tín hữu Việt nam theo gương các thánh mà làm chứng cho Chúa trong cuộc sống hằng ngày.

Theo sử liệu, hạt giống đức tin đã được gieo rắc trên quê hương đất nước chúng ta với sự hiện diện của một thừa sai là giáo sĩ Inikhu vào năm 1533. Công cuộc truyền giáo mới ở trong giai đoạn khởi đầu mà đã bị thử thách nặng nề với cái chết vì đạo của chân phước Anrê Phú yên vào năm 1544. Từ đây Giáo hội Việt nam phải trải qua nhiều thời kỳ chịu bách hại, có lúc đẫm máu, qua các thời đại các vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, đặc biệt với nhóm Văn Thân.

Nhà cầm quyền thời đó đã dùng mọi hình phạt dã man để khủng bố tinh thần các thánh Tử đạo Việt nam, nhưng các Ngài đã anh dũng chịu đựng vì Chúa. Không có hình phạt nào có thể tách rời các Ngài ra khỏi tình yêu của Chúa. Chúng ta hãy xem một số hình phạt man rợ và bất công đó :

– Bá đao : bị lý hình dùng dao cắt xẻo từng miếng thịt trên thân thể cho dù 100 miếng. Cách chết này có một vị.

– Lăng trì : chặt chân chặt tay trước khi bị chém đầu. Cách chết này có 4 vị.

– Thiêu sinh : bị thiêu sống. Chết cách này có 6 vị.

– Xử trảm : bị chém đầu. Chết cách này có 75 vị.

– Xử giảo : bị tròng dây vào cổ và bị lý hình kéo hai đầu dây cho đến chết. Cách chết này có 22 vị.

– Chết rũ tù : bị tra tấn, hành hạ đủ cách đủ kiểu, rồi bị bỏ đói cho tới khi kiệt sức và chết  gục trong tù. Chết cách này có 9 vị.

Cũng nên biết qua về kế họach PHÂN SÁP của vua Tự Đức, một kế họach quá sâu độc !

Nhưng cũng để cho chúng ta biết rằng trong mọi biến cố lúc nào cũng có bàn tay quan phòng của Chúa, sự khôn ngoan của lòai người chỉ là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.

Kế họach Phân Sáp được Vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856.

Do sự thi hành kế họach Phân Sáp này mà gần 400.000 giáo dân phải bị đi phân sáp, trong đó có từ 50.000 đến 60.000 giáo dân phải chết nơi phân sáp, 100 làng công giáo bị tàn phá bình địa, 2000 họ đạo bị tịch thu tài sản ruộng đất, 15 Linh mục Việt nam  và 10 giáo sĩ ngọai quốc bị giết, 80 Dòng Mến Thánh Giá bị phá tan, 2000 nữ tu Mến Thánh giá phải tan tác, 100 nữ tu Mến Thánh giá chết vì Đạo.

Kế họach phân sáp gồm bốn mặt :

–  Mặt thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải đến ở trong các làng bên lương.

–  Mặt thứ hai, mỗi người công giáo  phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.

–  Mặt thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị tịch thu và giao vào tay những người bên lương,  những người này sử dụng và nộp thuế lại cho Nhà Nước.

–  Mặt thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa nhau, con cái của người công gíao thì phải để cho gia đình người lương nuôi.

Đây là một kế họach rất sâu độc, nhằm tiêu diệt Giáo hội Việt nam tận gốc rễ. Nhưng bàn tay Chúa dẫn đưa lạ lùng : các triều đại nhà Nguyễn không còn nữa, mà Giáo hội Việt nam, hiện nay, vẫn còn lớn mạnh và phát triển không ngừng (Theo Internet).

Có nhiều lý do dẫn đến cảnh bách hại : vì ghen tương đố kỵ, hiểu lầm hay do những nguyên nhân chính trị.  Trong vòng 300 năm, Hội thánh Việt nam đã dâng cho Chúa một số chứng nhân anh dũng, đã nhận lấy cái chết để làm chứng và tỏ lòng trung thành với Chúa Kitô. Con số thực sự của các tử đạo  tại Việt nam cũng không có được thống kê chính xác, chỉ biết rằng con số này rất đông, từ 100.000 đến 130.000 người. Các tử đạo tại Việt nam cũng rất đa dạng, gồm đủ mọi thành phần trong dân Chúa và ngành nghề xã hội : các Giám mục, Linh mục, Linh mục thừa sai Pháp và Tây ban nha, bên cạnh các Linh mục là chủng sinh, thầy giảng và giáo dân, có những cụ già và thanh niên, binh lính, thầy thuốc, quan chức….

Giáo hội Việt nam tuy còn non nớt, còn đang trên đà truyền giáo, nhưng ngày 19.06.1988 Đức Giáo hoàng Gioan  Phaolô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 chứng nhân anh dũng và đưa vào niên lịch chung để mừng kính trong toàn thể Giáo hội vào ngày 24 tháng 11 hằng năm , cũng là ngày kỷ niệm thành lập hàng giáo phẩm  tại Việt nam vào năm 1960.

II. Ý NGHĨA VIỆC TỬ ĐẠO.

Xưa nay có lẽ chúng ta  đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh vv… Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân Kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.

Sự thực là buổi sơ khai của Giáo hội công giáo trước tiên những tín hữu chết vì đạo được tôn vinh là thánh và Giáo hội dùng một từ Hy lạp là Martus, Marturos (rồi La tinh Martyr, Martyris và từ Pháp là Martyr) để chỉ những tín hữu được tôn vinh này. Martus, Martyr có nghĩa là người chứng, người làm chứng. Vì vậy, đối với Giáo hội công giáo, thì từ Martyr này nguyên thủy được áp dụng cho tất cả các thánh, do đó  mà sổ các thánh được gọi là  Martyrologie.

Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô, như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết “vì đạo” của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi,  chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô.

(Lm Thiện Cẩm, Cg và Dt, Giáng sinh 1997, tr 310-311)

Nếu tử đạo do tiếng Martyr là nhân chứng thì ngay cộng đồng Do thái đã có những vị tử đạo, nhất là thời Maccabê. Sách Maccabê, đặc biệt bài đọc I hôm nay, đã kể lại nhiều vị anh hùng can trường làm chứng cho đức tin mặc dù phải chịu nhiều cực hình và có khi phải chết.  Còn cách xử dụng thông thường của Cựu truyền Công giáo thì danh từ Tử đạo áp dụng cho nhân chứng nào đã lấy máu mình, đã hiến mạng sống mình để trung thành làm chứng cho sứ mạng, cho chân lý.

Theo nghĩa này thì Đức Kitô chính là một vị tử đạo đích thực. Và chỉ duy có Ngài mới xứng đáng danh hiệu đáng kính này.  Trong cuộc sống của Ngài tại trần thế  và nhất là trong cái chết đẫm máu của Ngài trên thập giá, Ngài đã làm chứng hùng hồn về lòng trung thành của Ngài đối với sứ mạng Cha Ngài giao phó.  Ngài không những đã biết trước cái chết mà Ngài còn tự ý chấp nhận như một tác động tôn kính hoàn hảo nhất mà Ngài đã thực hiện để tôn kính Cha Ngài. Và khi Ngài bị kết án, Ngài đã tuyên bố :”Ta đến trong trần gian này để làm chứng cho sự thật”.  Như thế chúng ta đủ hiểu cuộc sống Ngài tại thế và cái chết của Ngài chính là những tác động mang ý nghĩa tử đạo : đó là hiến mạng sống để trung thành làm chứng cho sứ mạng Cha Ngài trao phó và làm chứng cho sự thật.

Kinh nghiệm cho biết Giáo hội của Chúa bao giờ cũng được khai sinh và phát triển bằng đau khổ và tử đạo. Thật vậy, chính Chúa Kitô là vị tử đạo đầu tiên, đã khai sinh Giáo hội bằng cái chết đau thương trên thập giá. Chúa phán :”Khi nào Ta bị treo lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự về với Ta”(Ga 12,22).  Từ ngày đó,  Giáo hội nhiệm thể Chúa Kitô cũng phải đổ máu làm chứng về Chúa để mọi người được ơn cứu chuộc. Giáo hội sơ khai đã có cuộc tử đạo của thánh Stêphanô. Giáo hội Roma với bao thánh tử đạo dưới thời hoàng đế Néron nay vẫn còn di tích lưu truyền.

Hoàng đế Julius, người ngược đãi Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4, đã phải thốt lên :”Các ngươi đắp xác của nhiều người mới chết lên một cái xác đã chết (Chúa Giêsu), các ngươi làm đầy thế giới này bằng quan tài và mồ mả”.

           Cuối cùng, nhiều Giáo hội đã được dựng lên trên mồ của các thánh Tử đạo, đền thờ thánh Phêrô ở Vatican là một thí dụ, và các nghĩa địa đã biến thành các thành phố  bởi vì “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các tín hữu” (Tertullianô).

Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin mừng, dám làm chứng cho Chúa ? Thưa vì người ta qúi sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quí hoá và không gì có thể đổi lấy được vì :”Được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì” (Mc 8,36).

Truyện : Xin mua được một linh hồn.

Thế kỷ 19, khi cơn cấm đạo nổi mạnh trên tỉnh Thanh hoá, một hôm, người ta dẫn đến trước mặt quan án một thiếu niên 17 tuổi – tên là MỚI – Thấy mặt mũi khôi ngô tuấn tú, quan động lòng thương.

– MỚI  – quan nói – con cứ đạp thánh giá đi, rồi ta sẽ ban thưởng một nén bạc.

– Bẩm quan lớn, một nén bạc chưa là gì.

– Được, ta sẽ ban một nén vàng. Con hãy đạp Thánh giá đi.

– Ồ, bẩm quan lớn, một nén vàng cũng vẫn còn ít quá.

– Sao ? quan sửng sốt, quát : Thế còn chưa đủ ư ? Vậy mày muốn bao nhiêu ?

– Bẩm, nếu quan lớn muốn tôi đạp Thánh giá, thì xin quan lớn hãy cho tôi cái gì có thể     mua được một linh hồn khác đã…

Và người thiếu niên bình tĩnh bước vào pháp trường, vẻ anh dũng tươi cười.

III.  VIỆC TỬ ĐẠO NGÀY NAY.

  1. Theo công đồng Vatican II.

Trong hiến chế Lumen gentium, công đồng chỉ dùng chữ Tử đạo 6 lần và theo một ý nghĩa riêng biệt, với chiều kích rộng lớn phổ quát, tuy vẫn qui chiếu vào ý niệm tử   đạo có từ trước. Theo công đồng, “Tử đạo là được đồng hoá với Thầy mình, sẵn sàng chết để cứu độ trần gian, và cũng như Thầy, đổ máu đào ra  để làm chứng cho việc đó. Hội thánh coi tử đạo là ơn cao cả, là bằng chứng tột đỉnh về đức tin. Chẳng mấy ai được phúc này, nhưng ai ai cũng phải sẵn sàng tuyên xưng Đức Kitô trước mặt thế gian, và theo Người trên con đuờng thập giá, giữa những cơn bắt bớ thường xẩy ra cho Hột thánh” (LG. số 42).

Một số nhà thần học ngày nay cũng có những suy nghĩ và gợi ý như cha Karl Rahner trong cuốn Excursus sur le martyr :

Tử đạo đơn thuần là cái chết của người Kitô hữu. Tử đạo là một phần cốt yếu của Hội thánh. Thật ra, Hội thánh không nguyên làm chứng cho Đức Kitô bị đóng đinh mà còn làm chứng cho Lời mình sống thành hiện thực nữa. Hội thánh sống cái chết của Chúa Kitô trong hết mọi người, mang thập giá của Đức Kitô ở giữa bóng tối của thế gian và mang dấu thánh của Đức Kitô, những dấu ấn bí ẩn trong đời thường mỗi ngày. Hội thánh phải là dấu hiệu thiêng thánh về thực tại thầm kín này, trong thế giới ngày nay. Hội thánh ở trong tình trạng tử đạo. Ở đây, Hội thánh tự tạo cho mình một hình thức rõ ràng nhất, trong sáng nhất, một mạc khải tồn tại cho đến cùng”.

Cha Urs von Balthasar, nhà thần học, cũng nói giống như vậy, khi nhấn mạnh rằng tình trạng bách hại là tình trạng thông thường của Hội thánh trong thế gian  và tử đạo là trạng thái bình thường của lời chứng Kiyô giáo.

Etienne Barbarin cũng theo một dòng tư tưởng, khi trình bầy việc tử đạo là cách thế thực hiện  hoàn hảo nhất lời chứng, vì cái chết tuy được chuẩn bị bằng cả đời sống, nhưng đã bắt đầu và thực hiện trong mỗi lựa chọn hằng ngày.

  1. Tư tưởng chung thời nay.

Nếu như các nhà thần học nói :”Hội thánh luôn ở trong tình trạng tử đạo”. Ta phải hiểu như thế nào? Phải chăng Hội thánh lúc nào cũng phải chịu bắt bớ, bị đoạ đầy ? Chắc không phải thế.  Cần phải hiểu chữ “Tử đạo” theo nghĩa rộng hơn.

Ta đặt câu hỏi : bậc đồng trinh và đời đan tu có thể thay thế cho tử đạo không ?

Ngay từ xưa, người ta đã tìm những cách thế biểu hiện việc tử đạo. Những cách thế này xoay quanh những việc đời có thể diễn tả sự hy sinh chính mình, và đức tin hoàn hảo, do đấy có thể được coi như một sự sửa soạn chịu tử đạo hay có liên quan đến tử đạo. Vì thế bậc đồng trinh và đời đan tu vẫn được coi là những con đường gần nhất với tử đạo. Các trinh nữ và các đan nữ xuất hiện vào thời cấm đạo hồi xưa, dưới mắt mọi người, vẫn là những vị kế thừa  các anh hùng tử đạo.

Từ đó nảy sinh ra ba mẫu tử đạo :

Tử đạo đỏ : là đổ máu ra chịu chết vì Chúa.

Tử đạo trắng : sống đời hãm mình trinh tiết.

* Tử đạo xanh : chịu đọa đầy, để làm chứng cho đạo ở một nơi không phải là quê hươn xứ sở mình.

Chính thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã nói thẳng thắn rằng:”Tôi cảm thấy tôi có ơn gọi  làm chiến binh, tông đồ, tiến sĩ và tử đạo. Tử đạo là giấc mơ trong tuổi trẻ của tôi. Và giấc mơ ấy đã trở thành mãnh liệt, khi tôi ở trong bốn bức tường của Nhà Kín. Nhưng tôi cảm thấy rằng giấc mơ đó là một sự điên rồ và vì thế tôi đã hiểu tình yêu qui tụ mọi ơn gọi của tôi.  Vâng, cuối cùng tôi đã khám phá ra ơn gọi của tôi ơn gọi của tôi là yêu mến” (Tự thuật).

Mọi người đều qúi trọng sự sống, dù chỉ là cuộc sống vắn vỏi phù du. Các tử đạo không những coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, mà còn lấy cái chết như ngưỡng cửa phải bước qua để tiến vào cõi sống vĩnh hằng. Các ngài cho ta cái cảm giác như là các ngài “chạm vào cõi vô hình”. Các ngài đã thể hiện và chứng minh câu nói của Chúa :”Ai bám vào sự sống đời này, sẽ mất cuộc sống mai sau …”(x. Mc 8,35). Và như thánh Phaolô nói :”Bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực luôn vui vẻ” (2Cr 6,9-10).

                                       Truyện : chết theo lệnh vua.

Trên bước đường viễn chinh, đại đế Alexandre đã cho quân  vây hãm kinh đô của một vương quốc vùng Tiểu Á. Thay vì cho quân tấn công hạ thành, đại đế Alexandre đã thúc ngựa đến ngay trước cổng thành và đòi gặp mặt vua đối phương.

Nhà vua leo lên lũy thành, nhìn xuống đòan quân đang vây hãm và hỏi Alexandre :

– Nhà ngươi muốn gì ?

– Ta muốn nhà vua đầu hàng.

– Đầu hàng ? Tường ta cao, hào ta sâu, quân ta đông hơn, tại sao ta lại phải đầu hàng nhà ngươi ?

– Nhà ngươi hãy xem cho rõ.

Thế rồi Alexandre ra lệnh binh sĩ dàn trận. Thay vì tấn công hạ thành, ông ra lệnh cho họ tiến bước  về hướng vực thẳm ngòai thành.

Tò mò,  quân sĩ trong thành cũng leo cả lên tường thành để xem cuộc “diễn binh” của Alexandre.

Đòan quân của Alexandre cứ từ từ tiến bước đến bờ vực thẳm. Hiên ngang, anh dũng, họ tiến tới bờ vực thẳm. Một người bước vào khỏang không, rơi xuống vực thẳm, thịt nát xương tan. Người thứ hai vẫn can đảm tiếp bước, rơi xuống vực sâu, chết theo. Từng người,  từng người theo nhau đi vào cái chết một cách bình thản, anh hùng. Sau cái chết anh hùng của binh sĩ thứ mười, Alexandre hạ lệnh dừng bước.

Sững sờ kinh ngạc trước tinh thần của binh sĩ Alexandre, lòng trung tín họ dành cho Alexandre, biết coi nhẹ cái chết tựa lông hồng,  nhà vua và tòan quân trong thành mở cửa qui hàng.

Chúng ta cũng đang thừa hưởng chiến công của những người lính anh hùng như thế của Đức Kitô, Vua vũ trụ. Chính các thánh Tử đạo Việt nam đã góp phần xây dựng Giáo hội Việt nam  bằng lòng trung tín các Ngài đã dành cho Chúa Kitô, bằng gương anh dũng xem nhẹ cái chết dâng hiến mạng sống mình cho Chúa ? Và chúng ta sẽ phải sống thế nào để theo gương các ngài?

Là con cháu các Thánh Tử đạo Việt nam, chúng ta hôm nay cũng phải đương đầu với những khó khăn thử thách, có lẽ không đồng loại với những khó khăn thử thách của các Ngài, bởi vì ngày nay hầu như chẳng còn ai cấm đạo theo lối vua chúa quan quyền nước ta thời trước. Trong thế giới chúng ta ngày nay, không chỉ có Kitô giáo, mà hầu hết các tôn giáo khác, kể cả những người không tín ngưỡng cũng đang phải đối diện với một thứ “Tôn giáo kinh tế”, trong đó người ta thờ thần Mammon, Thần Tài. Nhiều người chỉ biết cắm đầu chạy theo tiền tài, không còn biết ý nghĩa của cuộc sống nữa. Họ chỉ biết vùi đầu trong những thú vui thấp hèn, chỉ biết sống để hưởng thụ, sống vội sống vàng để rồi ngày mai chết sẽ ra cõi tha ma.

Lễ kính các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay khiến chúng ta kính phục các thánh vì các Ngài đã mởi trí mở lòng cho ta để chúng ta hiểu rằng đời này không phải là tất cả.

Năm 1980 tại câu lạc bộ của những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một cuộc nói chuyện và người được mời nói chuyện là một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn.  Anh lại ngọng nên ăn nói cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác.

Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giầu sang danh vọng trong xã hội ? Anh mở đầu như sau :”Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận :”Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”.

           Không biết cử toạ của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo : các  Ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các Ngài thì dám bỏ tất cả những gì qúi nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.

Giáo hội Việt nam là một gia sản quí báu mà cha ông đã để lại cho chúng ta bằng giá máu của các ngài, để ngày nay chúng ta có ba Giáo tỉnh  gồm 25 giáo phận , với hàng giáo phẩm được thiết lập chính thức vào năm 1960 để coi sóc gần 7 triệu tín hữu. Chúng ta phải bảo vệ và xây dựng di sản ấy như các em thiếu nhi thường hát khi sinh họat :

Cái nhà là nhà của ta,

                             Ông cố ông cha lập ra

                             Cháu con ta gìn giữ lấy

                             Muôn năm với nước non nhà.

           Nếu chúng ta biết bảo vệ và xây dựng Giáo hội Việt nam cho tốt thì chúng ta được các ngài khen là :”Con cái khôn ngoan, vẻ vang cha mẹ”(Tục ngữ). Nếu chúng ta không cố gắng và làm phát huy ra vẻ đẹp mà cha ông chúng ta đã xây dựng bằng xương máu thì các ngài sẽ phải phàn nàn về thế hệ con cháu :”Đời cha vo tròn, đời con bóp méo”(Tục ngữ)

Ngày lễ các Thánh Tử đạo Việt nam hôm nay thôi thúc chúng ta hãy theo gương các Ngài để biết tử đạo trong đời sống hằng ngày.  Nếu ngày nay chúng ta không phải trải qua “tử đạo đỏ” thì chúng ta có thể chấp nhận “tử đạo trắng hoặc xanh”.

Hãy thực hiện lời Chúa dạy chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay :”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”(Lc 9,23).  Theo Chúa là phải từ bỏ mình, chấp nhận mọi gian nan khốn khó, vâng theo thánh ý Chúa, sống trọn cuộc sống Kitô hữu để làm chứng cho Chúa. Đó là chúng ta đang trải qua cuộc tử đạo tuy âm thầm nhưng đòi hỏi nhiều hy sinh, nhiều cố gắng trường kỳ. Nếu không phải đổ máu ra mà làm chứng cho Chúa thì chúng ta có thể làm chứng theo lời nói của thánh nữ Têrêsa Hài đồng:”Ơn gọi tôi ở trong Giáo hội là yêu mến”.

 

.

VẠN TUẾ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Cách đây hơn 25 năm, Chúa nhật ngày 19/6/1988, Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng đã nâng 117 vị chân phước lên hàng hiển thánh. Dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI, trong sứ điệp của mình gửi các Giám mục Việt Nam, ngài viết: “Việc cử hành Năm Thánh trùng với ngày lễ kính 117 vị thánh Tử đạo hiển vinh của đất nước Đức Cha. Việc nhớ lại chứng từ cao quý của các ngài sẽ giúp toàn thể dân Chúa tại Viêt Nam kích động đức mến, gia tăng đức cậy và củng cố đức tin mà đôi lúc bị thử thách bởi chính đời sống thường ngày.” (Trích Sứ điệp gửi các Giám mục Việt Nam dịp Năm Thánh 2010). Thư của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Tổng Giám Mục Hà Nội, nguyên Chủ Tịch HĐGMVN gửi cộng đoàn Dân Chúa nhân dịp kỷ niệm 25 năm ngày tôn phong 117 Hiển Thánh Tử đạo Việt Nam có viết: “Đây là cơ hội giúp Dân Chúa Củng cố đức Tin qua đức Cậy nhờ đức Ái (số 1); Giúp cho Giáo hội Việt Nam sống chan hòa trong tình hiệp thông và hiệp nhất (số 2); Thúc đẩy chúng ta hăng say hơn trong sứ vụ loan báo Tin Mừng (số 3); và là dịp để cháu con noi gương các Ngài để sống xứng đáng là những người con thảo của Cha trên Trời (số 4)”. Những gợi ý sống trên làm chúng ta nhớ lại bài giảng của Chân phước Gioan Phaolô II, ngày 19/6/1988 như sau: “Tôi biết rằng anh em đang ôm nặng ước nguyện tôn vinh các vị Tử Đạo đồng hương, nhưng trong thâm tâm còn tự cảm thấy nhu cầu đứng chung quanh các vị Thánh, để xe kết tình huynh đệ kết nghĩa, mến thương…”.

Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, khởi đi từ những bước chân thừa sai của các nhà truyền giáo. Sử liệu ghi lại sự đặt chân của giáo sĩ Inikhu vào năm 1533 trên đất Việt, tiếp theo là Gaspar da Cruz, Alexandre de Rhodes, Pedro Marques v.v. Ba trăm năm loan báo Tin Mừng, một trang sử truyền giáo hào hùng, nhưng đầy đau thương và đẫm nước mắt. Từng ngàn giáo dân tử Đạo, từng trăm số người đã chết lưu lạc trên núi, trong rừng sâu nước độc! Tuy nhiên, một trang sử mới đã mở ra nhờ sự hy sinh tuyệt vời của các thừa sai, cũng như hàng hàng lớp lớp người vì tử đạo đã nằm xuống với muôn cực hình cay đắng, khốn khổ. Dòng máu của các ngài đã đổ ra, tuôn trào, tưới gội Hội Thánh Việt Nam, làm cho Hội Thánh lớn lên và phát triển, không ngừng sinh hoa kết quả tươi tốt, đúng như lời Tertullien đã viết: “Máu tử đạo là hạt giống trổ sinh người tín hữu”.

Hôm nay đây, chúng ta cùng nhau hướng tâm hồn lên một cách đặc biệt để mừng kính các thánh tử đạo tại Việt nam, trong hân hoan vui sướng và hãnh diện. Chúng ta tôn vinh, tri ân các Ngài và cùng nhau hô vang: “Vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo Việt Nam, vạn vạn tuế các Thánh Tử Đạo anh hùng.”

Làm sao kể lại cho hết tất cả là 117 vị Tử Đạo, 1 vị á thánh, trong số đó có 8 vị Giám Mục, 50 Linh Mục, 59 Giáo Dân, một phụ nữ, Thánh Anê Lê Thị Thành, mẹ sáu người con đã được Tòa Thánh tuyên phong rõ ràng ngày 19/6/1988. Còn có biết bao nhiêu vị cũng đã “tử vì Đạo” tại Việt nam mà chưa được tuyên phong, cũng phải được Giáo hội Việt Nam mừng kính. Các Ngài thuộc đủ mọi thành phần, tuổi tác, hoàn cảnh sống: công chức, thương gia, công nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ v.v. đã chết vì Đạo tại Việt Nam. Trong số đó, bao gồm cả một số những nhà truyền giáo “ngoại quốc” Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền đạo và chết vì Đạo.

Thánh Vinh Sơn Liêm, Dòng Đaminh là người Việt Nam tử đạo đầu tiên năm 1733. Rồi tới Cha thánh Anrê Trần An Dũng Lạc bị trảm quyết năm 1838. Các ngài đã phải chịu mọi thứ cực hình mà người ta có thể nghĩ ra được như: Gông cùm, xiềng xích, nhốt trong cũi, đánh đòn, bỏ đói, bị voi giầy, bị trói ném xuống sông, bị đổ dầu vào rốn rồi cho bấc vào mà đốt, bị đóng đinh vào ván rồi đem phơi nắng v.v. Quyết liệt hơn thì bị trảm quyết, tức là bị chặt đầu, bị xử giảo, tức là bị thắt cổ, hay bị thiêu sống. Bị xử lăng trì, phân thây ra từng mảnh hay là xử bá đao là những hình phạt man rợ và hiểm độc nhất. Tổng số 79 vị bị chặt đầu. 18 vị bị thắt cổ. 8 vị chết rũ tù. 6 bị thiêu sinh. 4 bị phân thây ra từng mảnh. 1 bị tử thương và 1 bị bá đao.

Lời Chúa trích sách Khôn Ngoan: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Thiên Chúa và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài” (Kn 3, 1). Quả quyết như trên có vẻ là không chính xác với thực tế lịch sử: thực ra đau khổ đã va chạm thân xác các Ngài, và va chạm ghê sợ như tùng xẻo, lăng trì, chặt đầu. Tuy nhiên, tác giả Kinh Thánh tiếp tục quảng diễn tư tưởng: “Đối với mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thực ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài có chịu khổ hình, lòng cậy trông của các nài cũng không chết.” (Kn 3, 2 – 4)

Đúng là: “Ai khôn mới biết hiến mình cho chân lý, để chiếm hữu phần gia nghiệp muôn đời.” (Thánh Phêrô Truật); “Thân xác tôi ở trong tay quan… nhưng linh hồn tôi là của Chúa, không có gì khiến tôi hy sinh nó được” (Thánh Phaolô Tịnh)

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là chứng nhân cho Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết. Thay vì hình khổ ngắn ngủi, các Ngài được nhiều ơn vĩ đại, vì Thiên Chúa đã luyện lọc các Ngài và thấy các Ngài xứng đáng, Chúa đã thử thách các Ngài như thử vàng trên lửa và đã chấp nhận các Ngài như của lễ toàn thiêu. Trong Chúa Kitô các Ngài được Thiên Chúa cứu rỗi.

Chúng ta, dòng giống các vị Tử Đạo, dòng giống những người được kêu gọi. Ngày hôm nay, hãy nghe hết lời sách Khôn Ngoan: Trong ngày phán xét, người công chính sẽ chói sáng và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau.” (Kn 3, 7) Những tia sáng, những ánh đèn phản chiếu nguồn quang minh rữc rỡ. Và đây là câu sau cùng trong sách Khôn Ngoan: “Các ngài sẽ xét sử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài đến muôn đời.” (Kn 3, 17).

Xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam giúp chúng con biết chân thành chọn lựa đi theo Chúa, trung thành làm chứng cho đức tin và nhiệt thành yêu mến Giáo hội bằng tinh thần cộng tác, hiệp thông và đồng trách nhiệm trong sứ mạng loan báo Tin Mừng trên quê hương, đất nước chúng con. Amen.

 

.

SỐNG ĐỨC TIN LÀ LÀM CHỨNG

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, chúng ta hân hoan, tự hào và hãnh diện khi mừng kính trọng thể lễ các thánh tử đạo Việt Nam. Với con số 118 đấng đã được Giáo Hội tuyên phong và tôn kính, đây là con số đông đảo nơi sổ bộ các thánh trong Giáo Hội hoàn vũ. Tuy nhiên, còn hàng trăm ngàn đấng chưa được tuyên phong, nhưng các ngài đều mang một mẫu số chung, đó là chết vì Chúa để làm chứng cho đạo của Chúa là đạo thật.

Như vậy, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, thiết tưởng chúng ta nên gợi lại những gương sáng của các ngài để như một lời nhắc nhớ chúng ta về tấm gương anh dũng qua đời sống chứng tá của các thánh, đồng thời như một lời mời gọi mỗi chúng ta hãy noi gương các bậc tiền nhân qua đời sống đức tin hiện nay.

  1. Các ngài là những người đã sống Tin Mừng yêu thương

Trong rất nhiều nhân đức cao đẹp của các thánh tử đạo Việt Nam, thì nhân đức yêu thương, tha thứ của các ngài là nhân đức đi đầu, tiên phong trong hàng loạt các nhân đức. Các ngài đã noi gương Chúa Giêsu để yêu và yêu cho đến cùng, yêu đến nỗi chấp nhận chết để chứng tỏ tình yêu của mình vào Thầy Chí Thánh mà các ngài đã tin theo (x.Ga 15,13).

Khi sống và diễn tả tình yêu ấy, chúng ta thấy có thánh y sĩ Phan Đắc Hòa. Ngài đã sẵn sàng chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, sẵn lòng cứu giúp những người túng thiếu. Hay thấy được nỗi đau khổ của cái nghèo hoành hành nơi dân làng, các ngài đã không chịu ngồi yên trong khi nhìn thấy cảnh người anh em đau khổ, đói khát, nên đã chấp nhận vất vả, tăng gia thêm để có của dư giả nhằm giúp anh chị em đang lâm cảnh nghèo túng, trong số đó, phải kể đến thánh Martinô Thọ, ngài sẵn sàng trồng thêm vườn dâu để có thêm thu nhập giúp người nghèo. Cụ trùm Đích thì thường xuyên góp nhặt tiền bạc để đi thăm viếng trại cùi và nuôi nấng những người dịch tả trong vùng. Còn với quan Hồ Đình Hy, ngài luôn giúp đỡ những người bơ vơ, mồ côi ngay ở trong nhà, và khi họ qua đời thì lo an táng đàng hoàng như một người bình thường.

Đỉnh cao của tình thương ấy nơi các ngài là yêu luôn cả những người thù ghét mình. Tình yêu của các ngài là một tình yêu không biên giới. Lời của Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ; vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 43) luôn thường trực trong suy nghĩ, hành động của các thánh. Về điểm này, chúng ta thấy toát lên chân dung của cha thánh Hoàng Khanh, ngài đã sẵn lòng chữa bệnh cho cả những viên cai ngục trong tù…

Các ngài bỏ qua tất cả, không nghĩ cho riêng mình, không còn lằn ranh giữa bạn và thù, bởi vì: “tận cùng của tình yêu là yêu không giới hạn”.

  1. Các ngài là những người sống và chết vì sự thật

Có nhiều cái chết và cách chết. Những giá trị của cái chết cũng hoàn toàn khác nhau nhờ vào thái độ của mỗi người. Nhưng chấp nhận cái chết vì sự thật, vì công lý thì thật là điều cao thượng.

Trong Cựu Ước, có cụ Eleazaro, cụ là người cương trực, không chấp nhận giả vờ ăn thịt cúng để được tha (x. 2 Mac 6, 18-31). Lời dụ dỗ giả vờ bỏ đạo để được tha và thăng quan tiến chức là những chiêu bài mà nhà cầm quyền thời bấy giờ thường xuyên dùng để khuyên dụ các ngài. Có những đấng nếu chỉ khai mình là lương y chứ không phải là linh mục thì sẽ được tha ngay. Trong số đó, phải kể đến thánh Lê Tùy, Đỗ Yến, Hoàng Khanh, Nguyễn Văn Hưởng, Lê Bảo Tịnh… Các ngài đã chấp nhận cái chết để chứng minh cho chân lý và sứ vụ của mình.

Rồi có những đấng các quan chỉ yêu cầu nhắm mắt, giả bộ bước qua thập giá là sẽ được tha như thầy giảng Nguyễn Cần chẳng hạn, thầy đã được quan gợi ý như thế, nhưng ngài đã nói: “Thưa quan, mắt thì nhắm được, chứ lòng và trí khôn không thể nhắm được, nên tôi chẳng làm”. Thua keo này, các quan đã bày keo khác! Có những đấng, họ chỉ yêu cầu đi vòng quanh thánh giá và các quan sẵn sàng tha cho vì coi đây như là hình thức bỏ đạo. Nhưng các ngài đã khẳng khái khước từ. Trong số này có thánh Phan Văn Minh, các thầy giảng Hà Trọng Mậu, Bùi Văn Úy và các anh Nguyễn Văn Mới, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Vinh.

Như vậy, mặc cho những lời đường mật hứa hẹn. Các ngài đã cương quyết không thỏa hiệp. Các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết, không bước qua thập giá, hoặc bất cứ hình thức nào được trưng ra dưới chiêu bài “đánh lận con đen”. Các ngài đã chấp nhận cái chết để làm chứng cho sự thật, công lý.

  1. Các ngài là người sống niềm hy vọng Phục Sinh

Chúng ta nhớ lại trong thư gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã viết: “Nếu chết là hết, thì quả thực chúng ta là những kẻ khốn nạn nhất trong cả thiên hạ” (x. Cr 15,19). Thật vậy, vì tin vào Đức Kitô, Đấng đã được “Thiên Chúa làm cho […] sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1 Cr 6,14). Vì thế, các thánh tử đạo Việt Nam luôn coi cái chết như là hy lễ cuối cùng và đẹp nhất dâng lên cho Thiên Chúa để được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc Trên Trời. Niềm tin này đã được thày giảng Hà Trọng Mậu đại diện cho những người bị bắt thưa với quan rằng: “Thưa quan, chúng tôi mong ước về bên Chúa như nai mong tìm thấy suối vậy”; hay như quan Án Khảm, ngài đã hé mở cho mọi người đang đứng chung quanh mình về một cuộc sống hạnh phúc trên Thiên Quốc khi nói: “Cha con chúng tôi hôm nay vào Nước Thiên Đàng đây”; hoặc như thánh linh mục Nguyễn Văn Hạnh thì nói: “Anh em ở lại, chúng tôi đi về Thiên Đàng nhé”; còn thầy giảng Nguyễn Đình Uyển thì đã bình tĩnh và dõng dạc tuyên xưng niềm tin tuyệt đối vào mầu nhiệm phục sinh khi nghe quan quát lớn: “Mày không bước qua, tao sẽ chém đầu mày” thầy điềm tĩnh trả lời: “Thưa quan, nếu tôi bị chém chết, thì tôi mới hy vọng được phục sinh với Chúa Kitô”. Khi phải lựa chọn giữa sự sống trần gian và cuộc sống vĩnh cửu, cha thánh Nguyễn Văn Xuyên đã nói một cách xác tín rằng: “Thưa quan, tôi chọn cái chết để được sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu rồi muôn đời bị tiêu diệt”. Rồi như hạt lúa gieo vào lòng đất, chấp nhận mục nát đi để trổ sinh một mùa lúa bội thu, cha thánh Lê Bảo Tịnh đã nói: “Thân xác tôi đây, các ông muốn làm gì thì làm, tôi sẵn sàng không oán thán, nó chết đi, nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Quả thật, không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô. Mặc cho đòn vọt, gông cùm và ngay cả cái chết.

  1. Cái chết của các ngài là lời tạ ơn

Cuối cùng, cuộc đời, sứ vụ và cái chết của các ngài là một bài ca tạ ơn. Tạ ơn Thiên Chúa đã tác tạo nên mình, cám ơn những bậc sinh thành đã dày công dưỡng dục và như một gương sáng cho giáo dân noi theo. Tâm tình này đã được thánh Giám Mục Giuse Diaz Sanjurjo An diễn tả khi tới giờ hành xử đã đến, ngài nói: “Tôi xin gửi quan 30 đồng tiền để xin quan một ân huệ: xin quan đừng cho chém tôi một nhát. Nhưng tôi xin chém tôi 3 nhát: Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến Việt Nam giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ đã sinh thành ra tôi. Còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí dù có phải chết cho đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các thánh trên Trời”. Với các thánh Phạm Khắc Khoan và hai thày Nguyễn Văn Hiếu và Đinh Văn Thanh, các ngài đã chia bè và hát kinh Tạ Ơn “TE DEUM” bằng tiếng Latinh ngay trong nhà giam. Rồi khi ra pháp trường để chịu tử hình, cha Khoan xướng ba lần lời ALLÊLUIA, mỗi lần với cung giọng cao hơn. Hai thày cũng lập lại ALLÊLUIA, ALLÊLUIA, ALLÊLUIA ba lần như đêm vọng phục sinh vậy.

Có được tâm tình đó là vì các ngài đều xác tín rằng: “Đối với các ngài, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi”, vì thế “Trong mọi thử thách, các ngài đã toàn thắng nhờ Đấng yêu mến các ngài” (x. Rm 8, 37). Và, giờ chết của các ngài là một bằng chứng hùng hồn về tình yêu tuyệt đối mà cha ông chúng ta đã dâng lên Thiên Chúa như của lễ tinh tuyền thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Thật vậy: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo? […] sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 8, 35-39).

Cuộc tử đạo của các ngài được ví như người nông dân đã vất vả ra đi gieo giống, để rồi hôm nay hân hoan vì thấy một vụ mùa bội thu: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau sẽ khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo. Lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 125,6-7).

Như vậy, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta hãy cùng với các ngài tạ ơn Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã yêu thương các ngài đặc biệt. Chúng ta cũng ngước lên các ngài để chiêm ngưỡng, noi theo những nhân đức anh hùng, can trường của các ngài để lại hầu mai sau cũng được hưởng hạnh phúc với các ngài trong Cõi Trường Sinh.

Bài học cao quý nhất của các ngài để lại không phải là bài học hận thù, chia rẽ, không phải là ích kỷ nhỏ nhen, không phải là tự phụ kiêu căng, nhưng là bài học của tình yêu, của bao dung, vị tha và khiêm nhường. Sống được như thế là chúng ta đang làm chứng cho Chúa và đang sống niềm hy vọng phục sinh một cách rõ nét nhất.

Mong thay, mỗi khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta cùng với các ngài hát lên bài ca Tạ Ơn “TE DEUM” ngay trong cuộc sống hiện tại của mình.

Lạy Chúa, khi mừng lễ các thánh tử đạo Việt Nam, xin Chúa cho chúng con xác tín rằng: quê hương của chúng con ở Trên Trời, vì thế chúng con chỉ có một điều duy nhất là làm mọi việc vì Chúa và vì phần rỗi của mình cũng như tha nhân, qua đó biết khước từ những điều bất chính, để sau này chúng con được chung hưởng phúc vinh quang với các thánh trên Thiên Quốc. Amen.

 

.

CHỌN THẬP GIÁ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh lễ khai mạc Năm Thánh mừng 350 năm dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam diễn ra sáng 5.8.2019 tại Trung tâm Mục vụ TGP Sài gòn. Khoảng 600 nữ tu thuộc các hội dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Mỹ đã tham dự. Ðây cũng là sự kiện khởi đầu tuần lễ thường huấn Hè lần 32 từ ngày 5 đến 9.8 dành cho các tổng phụ trách, tổng cố vấn, phụ trách cộng đoàn… đến từ 30 dòng Mến Thánh Giá trong và ngoài nước.

Ðược Ðức cha Lambert de la Motte thành lập tại Ðàng Ngoài năm 1670, Ðàng Trong năm 1671, Mến Thánh Giá là Dòng nữ đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, hiện nay Dòng chia làm nhiều nhánh, mỗi nhánh hoạt động độc lập, tự trị, có Tổng phụ trách riêng, song vẫn hiệp thông và liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo thống kê năm 2019, Tổng hội Dòng có 8.961 nữ tu, 1.094 tập sinh và tiền tập sinh, 10.000 thành viên hiệp hội Mến Thánh Giá tại thế.

Dòng Mến Thánh Giá là Hội Dòng chọn Đức Kitô chịu đóng đinh là đối tượng duy nhất của tình yêu của lòng trí. Không chọn cái gì nhẹ nhàng mà lại chọn Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Chọn con đường theo Chúa là đi vào con đường hẹp. Một chọn lựa khôn ngoan vì đã chọn chính Đấng Cứu Độ. Thánh Giá là đỉnh cao ơn cứu độ.

Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.

Trải qua sáu triều Vua: Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Giáo Hội Việt Nam đã có hơn một trăm ngàn Đấng Tử Đạo được ghi nhận trong sổ sách. Trong dòng thời gian bị bách hại, các Kitô hữu phải trải qua một trong những thử thách đức tin là bước qua thập giá. Quan quân thời đó thường đặt một cây thập giá dưới đất rồi bắt các Kitô hữu bước qua. Đôi khi chỉ là hai cây gỗ bắt chéo nhau. Ai không bước qua thì phải chịu đủ mọi cực hình dã man. Ai chấp nhận bước qua thì được thoát cảnh ngục tù, được trả lại những tài sản bị tịch thu, được ban thưởng bỗng lộc, được sống đời tự do, được đoàn tụ với gia đình.Bước qua là được tiếp tục sống an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất cả mạng sống. Chỉ cần một bước chân thôi là mọi sự thay đổi. Đã có người bước qua, và cũng có người không.

Có người bị khiêng qua thánh giá nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể và Đaminh Đạt. Cũng có những vị được quan quân khuyến dụ hãy giả vờ bước qua thập giá để cho quan có cớ mà tha, còn sau đó về nhà thì muốn sao tuỳ ý; nhưng các thánh tử đạo vẫn không chấp nhận một thoả hiệp như thế. Các ngài vẫn khẳng khái nói không. Không bước qua thập giá, không bỏ đạo, không chối Chúa.

Đứng trước thập giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng.Giây phút đứng trước thập giá là giây phút quan trọng.Quyết định không bước qua thập giá là kết tinh của những đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất…Các Thánh Tử Đạo có chung một chọn lựa lựa khoát : theo Đức Kitô hay theo vua quan? Theo Đức Kitô là vác thập giá, sống trong gông cùm và chết trong đau thương. Theo vua quan là thừa hưởng vinh hoa phú quý nơi trần gian. Các Ngài có chung một quyết định tối hậu là theo Đức Kitô. Giây phút quyết định ấy chỉ có các Ngài với Thiên Chúa, chỉ có linh hồn với cõi phúc vô biên. Giây phút ấy không bị ảnh hưởng bởi gia đình, tổ quốc, nhân sinh. Người chết trong máu tử đạo đã coi nhẹ nghĩa phu thê, đã xem thường đường phụ tử. Họ khao khát một tình yêu vô biên mỹ lệ như giải ngân hà sao sa vời vợi, như vầng nhật nguyệt huy hoàng khôn tả. Các Ngài đã hoan hỉ chấp nhận chết để được sống một cuộc đời mà không mỹ từ nào diễn tả nổi, không bút hoạ nào vẽ thành và không hùng biện nào tuyên dương cho trọn. Người chết trong gông cùm mòn mỏi đã đặt tổ quốc đàng sau những giá trị vĩnh cửu. Ước vọng của họ không phải là được người đời tưởng niệm, được hậu thế tôn phong. Họ chết là vì đức tin thúc đẩy. Họ chỉ muốn thực hiện điều đã từng nghe biết : “Ai tuyên xưng danh Ta trước mặt trần gian, Ta sẽ tuyên danh nó trước mặt Cha Ta trên trời” (Mt 10,32). (x.Thiên Hùng Sử trang 4).

Thánh Nữ Inê Lê Thị Thành, sinh tại làng Bái Điền, địa phận Thanh Hóa, vào khoảng năm 1781; nhưng sau này theo mẹ về quê sống tại làng Phúc Nhạc, địa phận Phát Diệm. Năm lên 17 tuổi bà kết duyên cùng ông Nhất và sinh được 2 trai, 4 gái. Vì con trai đầu lòng tên Đê, nên theo tục lệ thời ấy, dân chúng gọi hai người là ông bà Đê. Suốt 60 năm trời, cuộc đời của bà êm đềm trôi qua trong nghĩa vụ làm người vợ thảo, mẹ hiền.

Thế rồi, vào lối tháng 3 năm 1841, có 4 linh mục thừa sai về đến làng Phúc Nhạc. Họ chia nhau ẩn trú mỗi người tại một nhà giáo dân. Bà Đê được vinh dự che dấu cha Thành trong nhà mình. Nhưng một ngày kia, ông Đễ, một giáo dân thường hay theo giúp cha Thành, đã thay lòng đổi dạ, ham tiền thưởng nên đi mật báo với quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Thế là quan tổng đốc bất thần đem 500 quân về vây làng Phúc Nhạc vào rạng sáng Phục Sinh, 14-4-1841. Cha Thành và cha Ngân nhanh chân trốn kịp. Cha Nhân trốn trên gác bếp vô tình để gấu áo lò ra ngoài kẽ ván nên bị bắt. Cha Lý, đang ẩn bên nhà ông trùm Cơ, lúng túng không tìm được đường tẩu thoát, nên chạy sang nhà bà Đê ẩn núp. Bà dẫn cha ra vườn sau, dấu cha dưới đường mương, rồi mẹ con bà lấy rơm rác phủ dấu che cha. Nhưng quan quân đã thấy cha Lý chạy sang nhà bà Đê, nên kéo đến vây kín, lục soát thật kỹ, cuối cùng họ đã bắt được cha Lý, bắt luôn bà Đê áp giải về Nam Định. Với tuổi cao sức yếu, lại phải mang gông cùm nặng nề, đoạn đường từ Phúc Nhạc về đến Nam Định đã trở thành chặng đàng thánh giá, con đường dẫn đến Núi Sọ.
Tại Nam Định, bà đã bị lôi ra tòa, bị đánh đập nhiều lần nơi công đường, khi thì bằng roi, khi thì bằng cây củi lớn, nhưng bà vẫn một mực trung kiên tuyên xưng đức tin.

Lính vừa đánh vừa lôi bà dẫm lên Thánh giá. Bà vùng ra rồi nằm sụp xuống ôm lấy Thánh giá. Bà cầu nguyện: Chúa con ơi, xin thương con, con không bao giờ bỏ Chúa đâu. Họ cậy con là đàn bà yếu đuối mà ép lôi con dẫm lên thánh giá. Con không bỏ Chúa đâu, con không bỏ Chúa đâu. Xin thương giúp con.

Quan: Con mụ già này to gan thật. Được, để ta xem ngươi to gan đến đâu. Quân bây đâu.Đem rắn độc ra cho ta.Túm áo túm quần nó lại. Thả rắn độc vào mình nó, để xem nó to gan đến đâu, xem Chúa nó có cứu nó được không? Lính thi hành. Nhưng bà vẫn bình tĩnh đứng yên. Quan đi từ khoái chí đến kinh ngạc, rồi giận dữ.

Quan: Lôi nó vào ngục, đánh cho nó thêm một trận nhừ đòn. Đánh cho toát máu, cho áo quần nó phải đẫm máu mới thôi.

Cô Nụ, con bà Đê đến xin thăm nuôi mẹ. Một người lính lôi bà Đê ra. Vừa thấy mẹ, cô Lucia Nụ òa lên khóc vì thấy mẹ quá tiều tụy, áo quần rách nát, đẫm máu. Nhưng bà vẫn vui vẻ an ủi con.

Cô Nụ: Mẹ, sao áo quần mẹ tả tơi, đẩm máu thế này.

Mẹ: Con ơi, con đừng có khóc. Con hãy vui mừng với mẹ, vì mẹ đang mặc áo hoa hồng đây. Áo này là áo đau khổ vì Chúa mà. Con phải vui mừng với mẹ mới đúng.

Cô Nụ: Mẹ, sao mẹ khổ thế này!

Mẹ: Con ơi, con đừng khóc nữa. Mẹ đang sung sướng kia mà. Mẹ sắp được chết cho Chúa đây, còn gì phúc hơn. Con phải mừng với mẹ, cám ơn Chúa với mẹ mới đúng chứ. Con hãy về đi, về đi và cho mẹ gởi lời thăm hỏi mọi người. Các con hãy cố gắng giữ đạo cho sốt sắng, rồi một mai mẹ con ta sẽ lại đoàn tụ trên thiên đàng.

Bên cạnh những cực hình của ngục tù, đòn vọt, bà Đê lại mắc thêm bệnh kiết lỵ. Chính trong cảnh tù đày, đòn vọt, bệnh tật này, bà đã nhìn lên Đức Giêsu tử nạn, để tìm thấy lẽ sống cho đời mình, để múc lấy sức mạnh vác thánh giá cho đến hơi thở cuối cùng.Và cũng như Đức Giêsu trên thánh giá, bà đã cầu nguyện cùng Chúa trong cơn hấp hối: Lạy Chúa… xưa Chúa đã chết cho con… thì nay con xin hết lòng vâng theo Ý Chúa. ..Xin Chúa tha thứ cho họ… cũng như tha hết. .. mọi tội của con. Rồi bà gục đầu tắt thở trong tay cô Nụ.

Cô Nụ: Mẹ, và ôm xác mẹ khóc nức nở.

Bà Đê đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 12-7-1841, sau ba tháng bị giam cầm, thọ 60 tuổi. Lính đã đến đốt ngón chân bà để biết chắc bà đã chết. Sau đó thi hài bà được đem chôn tại Năm Mẫu, sau lại được cải táng đưa về Phúc Nhạc. Vị thánh nữ đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam.(x.Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Trong Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo, Linh mục Vinh sơn Bùi Đức Sinh, trang 216-220).

Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Chúa Kitô đã dùng tình yêu biến đau khổ thành niềm vui. Tình yêu làm cho thập giá trở thành Thánh Giá.

Thánh Giá biểu tượng cho cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu và cũng là biểu tượng cho tình yêu mạnh hơn sự chết và cho sự Thiện sẽ giành chiến thắng cuối cùng trên sự Ác.Thánh Giá là cánh cổng dẫn vào sự sống, thất bại chuyển thành chiến thắng, sự sống bị tước đoạt trở thành sự sống viên mãn. Ai đánh mất mạng sống mình sẽ tìm gặp lại sự sống. Ai can đảm chết cho Chúa Kitô sẽ được sống muôn đời. Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa, bởi lẽ “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25).Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).

Chúa Giêsu ở giữa nhân loại trong Bí tích Thánh Thể. Để trở nên nguồn sống tâm linh trong Thánh Thể, Chúa Giêsu đã đi qua Tử nạn và Thập giá.Thánh Thể là Mình Chúa hy sinh bị nộp, bị giết vì chúng ta: “Đây là Mình Thầy hy sinh vì anh em”. Chén Máu của Chúa là Máu giao ước đổ ra, Máu của Đấng Cứu thế bị giết chết trên thập giá. Bởi đó Thánh Thể và Thánh Giá là hai mầu nhiệm của một tình yêu tự hiến của Chúa Kitô. Không có Thánh Giá, Thánh Thể không có ý nghĩa. Không có Thánh Thể, Thánh Giá chỉ là thất bại.Từ Thánh Giá đến Thánh Thể là hành trình của con đường tình yêu tự hiến. Thánh lễ là cử hành hy tế cứu độ của Chúa Giêsu từ mầu nhiệm Thánh Giá đến tình yêu Thánh Thể.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhờ sức mạnh của Thánh Thể nên đã chọn Thánh Giá cách tuyệt đối và quyết liệt, dám liều mất cả mạng sống cho sự lựa chọn của mình. Các ngài thật khôn ngoan. Là con cháu của các ngài, xin cho chúng con luôn khôn ngoan trong những chọn lựa của đời sống hàng ngày. Amen.

 

.

TỬ ĐẠO BẰNG VIỆC SỐNG KIÊN TRÌ VỚI TIN MỪNG

Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

Trong Tông huấn Niềm Vui Hân Hoan Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra những đặc tính của việc sống thánh và trở nên thánh trong thời đại hôm nay. Một trong những đặc tính đó là: “Sống Kiên Trì, Nhẫn Nại và Hiền Lành”.

Chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người rất mau chán, thích thay đổi. Cũng chính vì thế nên con người đánh mất đi một đức tính quan trọng đó là sự kiên trì, hay còn gọi là chữ Nhẫn. Con người dường như không đủ kiên nhẫn để giải quyết vấn đề khó khăn, không đủ nhẫn nại để chờ đợi, không kiên trì để theo đuổi mục tiêu cuộc đời. Trong đời sống gia đình, chỉ sau vài năm kết hôn, người ta đã cảm thấy chán nhau; khi vợ chồng gặp khó khăn thử thách, họ muốn chọn giải pháp dễ dãi là chia tay thay vì kiên trì bảo vệ khế ước hôn nhân; khi con cái ngỗ nghịch quậy phá, họ không đủ kiên nhẫn để giáo dục. Trong đời sống đức tin cũng vậy, nhiều người dễ nản chí khi cầu nguyện, không kiên trì với đòi hỏi của Tin Mừng, muốn chạy theo lối sống dễ dãi của người đời; khi không được như ý họ dễ dàng bỏ Chúa và Giáo Hội. Có những người để đức tin của mình vật vờ như ngọn lau, gió thổi chiều nào nghiêng theo chiều đó.

Mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm nay, chúng ta nhìn vào đời sống của các Ngài để thấy rằng cha ông của chúng ta trước khi chịu đổ máu vì đạo đã phải trải qua một cuộc tử đạo không đổ máu, đó là sống kiên trì với Chúa và hiền lành với mọi người.

Đặt mình trở lại trong bầu khí bắt bớ gay gắt, các chỉ dụ cấm đạo của các vua được yết thị khắp nơi, người Kitô hữu bị xếp vào công dân hạng hai, bị khinh miệt và loại trừ. Lợi dụng các sắc chỉ cấm đạo, các quan quân mặc sức truy bắt, hành hạ các Kitô hữu, những người bên lương cũng nhìn những người theo đạo như những kẻ ngoại lai. Các vua quan còn bắt những người có đạo, lấy dấu nung đỏ đóng trên trán họ hai chữ “tả đạo” như một sự phân biệt kỳ thị và làm nhục. Trong hoàn cảnh như thế, cha ông chúng ta không hề sợ hãi trước sự đàn áp bắt bớ, không mặc cảm trước sự phân biệt đối xử của người khác. Cha ông chúng ta vẫn vui vẻ đón nhận tất cả, không một lời than van cũng không oán trách. Họ vẫn sống yêu thương và bác ái, vẫn giúp đỡ những người kỳ thị mình, vẫn cùng nhau đọc kinh cầu nguyện, cùng nhau lén lút tham dự những thánh lễ. Dù trong hoàn cảnh khó khăn như thế, nhưng qua đời sống gương sáng, khiến nhiều người tin vào Chúa Kitô.

Giai đoạn cấm đạo là một thời kỳ tăm tối cho Giáo Hội Việt Nam lúc sơ khai. Các linh mục phải lẩn trốn để có thể ở lại an ủi đoàn chiên, chấp nhận nguy hiểm đến tính mạng, chấp nhận cái chết cho đoàn chiên được yên ổn. Các tín hữu lúc bấy giờ tản mác khắp nơi, một số bị đưa vào sống giữa những người dân ngoại như bị quản chế, số khác bị đày ải ra vùng biên giới, số khác nữa phải trốn vào những vùng rừng thiêng nước độc. Tất cả những khó khăn đó không làm cho cha ông chúng ta nản chí hay thất vọng. Họ cũng không than vãn hay hối tiếc vì đã tin Chúa, nhưng trong hoàn cảnh đó, họ vẫn kiên trì giữ đạo và sống đạo. Giữ đạo để truyền lại đức tin cho con cháu, sống đạo để đem Chúa đến cho những anh chị em lương dân chung quanh. Vì vậy, mặc dầu bị bách hại khốc liệt, nhưng con số các tín hữu vẫn không ngừng gia tăng.

Tại sao các thánh tử đạo cha ông chúng ta lại có thể kiên trì với đức tin, nhẫn nại chịu đựng gian khổ đến như thế? Thưa là vì các Ngài đã đặt cuộc đời của mình trên một nền tảng vững chắc đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Các Ngài tin rằng Thiên Chúa là Đấng nâng đỡ và bảo vệ các Ngài, là sức mạnh giúp cha ông chúng ta kiên trì chịu đựng mọi nghịch cảnh, thăng trầm của cuộc sống trong niềm vui và tin tưởng. Các Ngài không để trong lòng sự hận thù oán trách cho dù bị phản bội hoặc bị đối xử tệ bạc, vì tin rằng: “Có Chúa bênh đỡ thì không ai có thể chống lại chúng ta”. Vì hoàn toàn tin thác nơi Chúa, nên cha ông chúng ta luôn cảm thấy bình an cho dù bị cấm cách, cảm thấy vui mừng khi bị bắt bớ và chịu khổ hình vì Chúa Kitô.

Một đặc tính khác trong đời sống đạo của cha ông chúng ta đó là sự hiền lành yêu thương. Trước khi được phúc tử vì đạo, cha ông chúng ta đã được phúc sống lời mời gọi nên thánh đó là sống hiền lành và yêu thương. Đọc lại cuộc đời của các vị Tử Đạo Việt Nam, chúng ta có thể thấy cha ông chúng ta không để lòng thù hận với vua quan, không kêu la phản kháng, không tức tối với những người đã gây khổ cho mình. Các Ngài đã thực hiện đúng với lời mời gọi sống mối phúc: “Phúc cho ai sống hiền lành”, không lấy ác báo ác, không báo oán báo thù, nhưng lấy sự thiện thắng sự ác, lấy tha thứ thắng báo thù, lấy hiền hòa thắng bạo lực. Các Ngài không chua cay gắt gỏng giận hờn cũng không la lối thóa mạ lại những kẻ làm khổ mình. Sống như thế không phải là yếu hèn, nhu nhược, cam chịu, nhưng để sống và cư xử được như vậy là vì cha ông chúng ta đã có được sức mạnh từ nơi Thiên Chúa là Đấng “chậm giận và giàu tình thương.”

Chúng ta có thể nhìn vào đời sống của các vị tử đạo để thấy các Ngài đã sống đặc tính kiên trì và hiền lành này như thế nào: Thánh Annê Lê Thị Thành là một người mẹ của sáu đứa con. Bà đã kiên trì nuôi dạy các con nên người và nhất là dạy các con kiên trì với đời sống đạo đức. Bà không biết nhiều giáo lý để dạy cho các con, nhưng bà dạy các con bằng các giờ kinh sớm tối trong gia đình, bằng việc siêng năng lần hạt, nhất là bằng gương sáng của chính bà. Mặc dù một tay nuôi dạy sáu người con rất vất vả, bà còn quan tâm đến việc phục vụ các linh mục, đón tiếp các ngài đến nhà, gọi hàng xóm đến cùng dâng lễ, che giấu các ngài khi bị truy lùng. Bà không ngại khó, ngại khổ, không sợ sẽ bị liên lụy khi che giấu các linh mục. Cuối cùng, bà đã bị bắt. Lúc này, bà càng thể hiện sự mạnh mẽ của đức tin khi chấp nhận tù đày roi vọt. Là thân phụ nữ, bà đón nhận những trận đòn dã man của các quan quân mà không hề than trách. Khi các con đến thăm, bà vẫn còn hài hước chỉ vào các vết máu trên áo và vết thương trên người và nói với các con: “mẹ mặc áo thêu hoa hồng đó.”

Chúng ta cũng có thể nhìn vào tấm gương của thánh Đaminh Phạm Trọng Khảm người Quần Cống, Bùi Chu, là một Chánh Án. Với địa vị xã hội như thế, Ngài có thể có một đời sống sung sướng, nhàn hạ, nhưng ông Chánh Khảm đã không màng đến địa vị, danh lợi, Ngài chuyên tâm giữ đạo và còn khuyên nhủ mọi người trung thành khi gặp bách hại. Ông đã giáo dục các con nên những người đạo đức nết na. Người con cả của ông sau này làm Cai Tổng và cùng hy sinh mạng sống vì Chúa, đó là thánh Luca Phạm Trọng Thìn. Theo gương cụ thánh Khảm, người em của ông cũng là Cai Tổng Giuse Phạm Trọng Tả đã chấp nhận hy sinh vì đức tin, không màng danh vọng. Đọc tiểu sử ba vị thánh này, chúng ta thấy, mặc dù là quan chức triều đình, nhưng các vị đã không lợi dụng chức quyền để hà hiếp dân chúng, không tham nhũng, bất công, không lơ là việc đạo. Các Ngài một lòng sống theo sự ngay thẳng, thật thà của Tin Mừng, giáo dục con cháu trong đời sống đức tin, kiên trì sống đạo cho dù bị bắt bớ và dám liều mạng sống vì Nước Trời.

Thưa quý OBACE, ngày nay Giáo Hội vẫn đang bị bách hại tại nhiều nơi trên thế giới, các tín hữu đã vì Chúa Kitô và Tin Mừng mà phải chấp nhận thiệt thòi, bị phân biệt đối xử. Trong những năm gần đây có hàng trăm các linh mục tu sĩ bị bắt cóc, hành hạ, bị giết chết bởi các nhóm quá khích, có khi bởi các chính quyền gây ra. Cả trăm ngàn các tín hữu tại Iraq đang bị đàn áp bởi những anh em Hồi Giáo, Giáo Hội tại Sirya đang bị những người Hồi Giáo quá khích tàn sát, tại Trung Quốc, các linh mục và các tín hữu đang trải qua một thời kỳ hết sức khó khăn. Các nhà thờ bị đập phá, các tín hữu bị khủng bố, các linh mục bị đàn áp bắt bớ, những giám mục, linh mục và tín hữu trung thành với Giáo Hội Công Giáo Rôma bị coi như thế lực thù địch. Tại Việt Nam nhiều nơi cũng bị những hoàn cảnh tương tự như tại Trung Quốc, các linh mục bị đem ra đấu tố, các giáo dân bị khủng bố tinh thần.

Trước những khó khăn đó, nhiều người đã chấp nhận sống câm lặng cho nó lành, tránh phiền phức, không dám sống và thể hiện đức tin. Nhiều người Công Giáo ngày nay đã chấp nhận một sự thỏa hiệp với lối sống dễ dãi của người đời: người ta làm sao, tôi làm vậy, không dám sống khác, không kiên trì với đức tin và Tin Mừng. Nhiều người Công Giáo khác để mình bị lôi kéo vào lối sống bạo lực, trả thù, cư xử với nhau thiếu lòng nhân ái bao dung, không chấp nhận cảm thông và tha thứ.

Tử đạo ngày nay không đòi chúng ta đổ máu, nhưng đòi chúng ta dám hy sinh, dám chấp nhận thiệt thòi, dám sống trung thành với luật Chúa và Giáo Hội trong làm ăn và trong đời sống hôn nhân gia đình. Tử đạo ngày nay không đòi chúng ta phải chết, nhưng đòi chúng ta phải dám sống kiên trì nhẫn nại, hiền lành tha thứ, chấp nhận mọi nghịch cảnh vì lòng yêu mến Chúa Kitô. Xin Chúa giúp chúng ta biết noi gương cha ông sống đức tin trong xã hội hiện đại hôm nay. Amen

 

.

TÌNH YÊU MẠNH HƠN SỰ CHẾT

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 10,17-26

(17) Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các Hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. (18) Và anh em sẽ bi điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. (19) Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. (20) Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em. (21) Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết. Cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. (22) Vì Danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát. (23) Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em: anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en, thì Con Người đã đến. (24) Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. (25) Trò được như thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà. (26) Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ. Không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày. Và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.

2. Ý CHÍNH:

Khi sai mười hai Tông đồ đi giảng, Đức Giê-su tiên báo cho các ông biết những sự bách hại vì Danh Người đang chờ đón các ông. Tuy nhiên chính khi bị bách hại lại là cơ hội tốt để các ông làm chứng trước tòa án Do thái và các chính quyền ngoại đạo. Các ông sẽ gặp những sự bất hòa ngay trong gia đình và sự thù ghét nơi người đời. Nhưng ai giữ vững đức tin và trung thành với Chúa đến cùng thì sẽ được cứu độ. Các ông cũng cần phải khôn ngoan để tránh bị bắt bớ. Dù gặp hoàn cảnh bất lợi nào đi nữa, cũng đừng sợ hãi, nhưng hãy can đảm làm chứng cho Chúa. Hãy vững lòng trông cậy vì các ông đang nắm giữ chân lý là điều luôn có sức chinh phục lòng người.

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA:

“Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt Vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CAN ĐẢM LÀM CHỨNG CHO CHÚA: BÀ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (ĐÊ).

Trong số 117 vị thánh Tử đạo tại Việt nam, chỉ có một phụ nữ là thánh nữ I-NÊ LÊ THỊ THÀNH (hay cũng gọi là bà thánh I-NÊ ĐÊ). Bà là mẹ của 8 người con. Trước khi trở thành thánh tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. Cô con gái út của bà đã khai về mẹ mình trước tòa phong thánh rằng: “Thân mẫu chúng tôi rất quan tâm giáo dục con cái. Người dạy chúng tôi học chữ và học giáo lý. Về sau còn dạy chúng tôi cách thức dự lễ và xưng tội rước lễ”.

Bà Đê đã dùng căn nhà của mình làm nơi trú ẩn cho các linh mục thừa sai, để tránh sự ruồng bắt của vua quan. Vào buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, tổng đốc Nam Định đã sai quân đến nhà bắt giữ bà. Bấy giờ bà đang trong tuổi lục tuần. Bà đã bị tra khảo tàn nhẫn để buộc phải khai báo nơi trú ẩn của các linh mục thừa sai. Nhưng bà tỏ ra kiên cường, không hề hé môi nói nửa lời. Sau đó bà lại bị bắt ép khiêng qua cây Thánh giá, bị bỏ rắn độc vào người. Khi con gái bà đến thăm và tỏ vẻ đau lòng thấy quần áo của mẹ mặc bị loang lổ những vết máu đỏ tươi, thì bà đã an ủi con rằng: “Con ơi, đừng khóc nữa. Mẹ mặc áo hoa hồng đấy. Mẹ chịu khổ vì Danh Chúa Giê-su thì sao con lại phải khóc?” Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người đàn bà kiên cường ấy đã từ giã cuộc đời, để lại cho hậu thế một tấm gương anh dũng trung thành với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng.

2). GƯƠNG CAN ĐẢM CỦA MỘT VỊ LINH MỤC:

Một viên sĩ quan trẻ trong quân đội Nga xin được nói chuyện riêng với vị mục sư người Hungary. Khi hai người ở trong một căn phòng đã đóng kín cửa, viên sĩ quan hung hãn chỉ lên cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng:

– Ông biết không, cái đó là sự dối trá cho các ông bày đặt ra để làm mê hoặc dân chúng. Ở đây bây giờ chỉ có tôi và ông. Ông hãy thú nhận rằng: Ông không hề bao giờ tin rằng ông Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

– Này anh bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan hét lên:

– Ông đừng có lừa dối tôi, đừng diễu cợt tôi.

Rồi anh rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

– Nếu ông không nhận rằng đó là một sự dối trá thì tôi sẽ nổ súng.

Vị mục sư điềm tĩnh trả lời:

– Dù anh giết tôi, tôi cũng không thể nói điều anh muốn tôi nói. Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô thật sự là Con Thiên Chúa.

3. SUY NIỆM:

1) Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những ai?

+ Các ngài là hằng trăm ngàn giáo dân Việt Nam không rõ danh tánh, đã sẵn lòng chịu chết để làm chứng cho Chúa. Các Ngài đã bị giết hại dưới thời chế độ phong kiến, do các phong trào Cần Vương và Văn Thân thực hiện. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó: Một người đàn ông nọ bị quân lính bắt giải đến cho quan tòa xét xử. Quan tòa truyền lấy một chiếc dùi nung đỏ khắc lên đôi gò má của ông bốn chữ: “Gia-Tô Tả Đạo” rồi tống giam vào ngục. Ngồi trong tù suy nghĩ lại, ông cảm thấy áy náy vì lúc bị khắc dấu đã không dám can đảm nói lên quan điểm của mình, vì “Gia-Tô” đâu phải là “tả đạo”. Ngay trong đêm hôm ấy, ông đã yêu cầu bạn tù dùng dao rạch bỏ hai chữ “tả đạo” trên má, chỉ để lại hai chữ “Gia-tô” là thánh Danh Chúa Giê-su. Sáng hôm sau, ông lại bị điệu ra trước tòa án với khuôn mặt còn loang lổ máu, ông đã can đảm bênh vực đức tin và sau đó đã bị khép tội phản nghịch và được chết vì đạo.

+ Các ngài cũng là phụ nữ: Có một bà nọ bị bắt vì đã theo đạo và bị tòa kết án bị “voi giày”. Hai ngày trước khi ra pháp trường, bà viết thư cho người nhà yêu cầu gửi cho bà bộ quần áo cưới mà bà đã mặc khi trước, vì bà nghĩ rằng: “Ngày tôi bị chết vì đức tin chính là ngày tôi được gặp gỡ vị Tân Lang là Chúa Giê-su”. Hôm bị xử tử, khi ba hồi chiêng trống vang lên, người ta thấy quân lính dẫn ra một thiếu phụ mặc áo như cô dâu trong ngày cưới. Sau đó bà đã bị voi dùng vòi quấn ngang thắt lưng tung lên cao, rồi khi bà rơi xuống đất thì nó dẫm đạp lên người cách tàn bạo.

+ Các ngài thuộc mọi lứa tuổi: Có một cụ ông 80 tuổi như linh mục Lê Bảo Tịnh, có một bà lão 60 như bà thánh I-nê Đê, một thiếu niên 14 tuổi như Phao-lô Bột, một trẻ nữ 12 tuổi như Lu-xi-a Liễu, một cậu bé lên 10 như Phao-lô Đạm, một em bé mới 9 tuổi như Gio-an Túc…

+ Các ngài đủ mọi ngành nghề trong xã hội: Có người làm linh mục như cha Phi-líp-phê Minh, làm thầy giảng như thày An-rê Phú Yên, làm nữ tu như 270 dì phước dòng Mến Thánh Giá, làm chủng sinh như chú Tô-ma Thiện, làm quan chức triều đình như Hồ Đình Hy, làm quân lính như Trần Văn Trông, làm trùm họ như Nguyễn Đích, làm công chức như Nguyễn Huy Mỹ, làm lái buôn như Lê Văn Gẫm, làm nông dân như Đa-minh Ninh… Hầu như mọi thành phần, lứa tuổi hay nghề nghiệp đều có đại diện. Người ta đã thống kê được 58 các vị giám mục va linh mục thừa sai, 25 linh mục Việt Nam, 340 thầy giảng, 270 nữ tu và khỏang trên 100 ngàn giáo dân đã chết vì đạo. Trong số đó, vào ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã tôn phong lên bậc hiển thánh 117 vị và sau đó tới lượt thày giảng An-rê Phú Yên được phong lên bậc Chân Phước hay Á thánh. Đây là những vị có đầy đủ hồ sơ chứng minh đã anh dũng chịu chết vì đức tin. Còn hằng hà sa số các tín hữu đã bị giết chết với nhiều cách khác nhau, nhưng do thiếu hồ sơ cụ thể để xin phong thánh, nên vẫn còn chờ sẽ được tôn phong sau này.

2) Phương cách hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa hôm nay là gì ?

+ Về sự bách hại đức Tin thời nay: Ngày nay ma quỷ không dùng cực hình đau khổ thể xác để bắt buộc người tín hữu bỏ đạo như vua chúa xưa, nhưng chúng dùng tiền bạc và đầu độc người tín hữu nhất là giới trẻ bằng những băng đĩa phim ảnh đồi trụy, các video games bạo lực dâm đãng, hút chích ma túy, rượu chè bài bạc… khiến các thanh thiếu niên chán ngại đọc kinh lần hạt, bỏ dự lễ Chúa Nhật… Rồi do không được nghe giảng Lời Chúa và thiếu ơn Chúa nên họ chỉ còn biết tìm kiếm tiền bạc và lao đầu vào việc hưởng thụ mà không nghĩ đến đời sau… và cuối cùng sẽ mất đức tin lúc nào không hay.

+ Ý nghĩa của tử đạo trong cuộc sống hôm nay: Tử đạo trước hết là sống Đức Tin bằng sự hy sinh quên mình phục vụ, sẵn sàng chấp nhận thua thiệt, kể cả hy sinh mạng sống của mình noi gương các thánh Tử Đạo. Sứ mệnh của người tín hữu là phải trở thành muối mặn ướp cho người đời khỏi hư hỏng, thành nắm men tin yêu làm cho thúng bột xã hội dậy lên men tình yêu của Chúa (x. Mt 5,13), nên đuốc sáng chiếu soi cho u tối trần gian như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

+ Tử đạo chính là làm chứng cho Chúa: Đức Giê-su đã sai các Tông đồ đi rao giảng Tin mừng và tiên báo các khó khăn sẽ gặp phải như sau: “Anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18). Người cũng truyền cho các Tông đồ phải làm chứng nhân cho Người: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Các thánh Tử đạo Việt Nam đã chu toàn sứ mệnh làm chứng cho Chúa bằng việc chấp nhận chịu chết vì đức Tin. Con chúng ta hôm nay tuy không có cơ hội chịu chết vì Danh Chúa như xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Chúa bằng một lối sống hy sinh quên mình, khiêm nhường vị tha và luôn yêu thương phục vụ tha nhân vô vụ lợi.

+ Phải làm chứng cho Chúa như thế nào ?: Hôm nay nếu ta chọn làm theo ý riêng ích kỷ là chúng ta đã gián tiếp chối bỏ đức tin; Khi ta chọn làm những việc xấu xa, lỗi phép công bằng và đức bác ái, là ta đang chối Chúa cách gián tiếp và bước qua Thánh giá Chúa bằng chính cuộc sống không tốt của mình. Trái lai, nếu ta năng cầu nguyện dự lễ, kèm theo lối sống công minh chính trực, sẵn sàng dấn thân quên mình và khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi là ta đang làm chứng cho Chúa noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam.

4. THẢO LUẬN:

Người ta thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Bạn quyết tâm sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa tại nhà trường, công sở, nhà máy, các tụ điểm giải trí vui chơi… để xứng đáng là con cháu các thánh Tử đạo Việt nam?

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay chúng con mừng kính các thánh Tử đạo Việt nam, là tổ tiên chúng con. Các ngài đã can đảm làm chứng cho Chúa bằng sự kiên cường bất khuất, sẵn sàng chịu chết vì đức tin. Các ngài đã làm rạng danh dân tộc Việt nam trước toàn thể thế giới khi sống đến cùng ơn gọi làm tín hữu của mình. Sự hy sinh của các ngài đã nói lên chân lý này là: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”, và chết không phải là đi vào cõi tiêu diệt, nhưng là cánh cửa bước vào cõi sống vĩnh hằng. Dù mang thân phận mỏng dòn yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa giúp, các ngài đã chiến thắng sợ hãi và nêu gương sáng đức tin can trường cho chúng con hôm nay.

– LẠY CHÚA. Xin cho chúng con biết luôn sống đức tin noi gương các thánh Tử Đạo Việt Nam. Xin cho chúng con biết nhiệt thành làm chứng cho Chúa, bằng một lối sống hy sinh quên mình và khiêm nhường phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các thánh Tử đạo đã thắp lên sẽ được chúng con tiếp tục làm bùng sáng trên quê hương Việt nam thân yêu. Ước gì máu các ngài đổ ra sẽ làm phát sinh thêm nhiều Ki-tô hữu vừa có lòng mến Chúa lại vừa yêu mến xây dựng quê hương Việt Nam ngày càng tăng tiến tốt đẹp.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

.

VÌ SAO TỬ ĐẠO?

Lm Nguyễn Xuân Trường

Con người ai chẳng muốn sống khỏe sống lâu. Khát vọng sống là khát vọng mãnh liệt nhất của con người. Vậy tại sao Các Thánh Tử Đạo Việt Nam nhà mình lại sẵn sàng chịu chết? Thưa vì tin yêu và hy vọng vào Chúa.

1. Tin yêu. Tin yêu thật sự luôn khiến người ta sẵn lòng hy sinh để chứng tỏ tình yêu, để tình yêu lớn lên. Khi tin yêu đến độ dám hy sinh cả thân mình thì tình yêu trở thành vĩ đại như chính Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình của người thí mạng vì bạn hữu.” Các Thánh Tử Đạo đã đem mạng sống để chứng tỏ lòng tin yêu Chúa. Các ngài dạy chúng ta một bài học khắc cốt ghi tâm, đó là: Hội Thánh Chúa phát triển là nhờ những TÍN HỮU DÁM SỐNG CHẾT CHO NIỀM TIN YÊU của mình.

2. Hy vọng. Niềm hy vọng sẽ có tương lai tốt đẹp giúp người ta dám sống chết cho lý tưởng, cho sự nghiệp, cho quê hương đất nước. Các Thánh Tử Đạo như người gieo giống đã gieo chính hạt giống đời mình chịu chết vì Chúa, và dạt dào niềm hy vọng hạt giống ấy sẽ hóa thành một mùa lúa vàng trĩu hạt như lời Thánh Vịnh đáp ca: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.”

Và thật kỳ diệu, nhờ tin yêu và hy vọng vào Chúa mà Các Thánh Tử Đạo đã không vật vã, nhưng vui vẻ đón nhận cái chết. Chính cái chết thân xác ấy lại làm cho các ngài trở thành những anh hùng bất tử trong sự sống đời đời.

Nhờ máu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam mà Giáo Hội quê hương mới có ngày hôm nay. Với tất cả lòng hiếu kính và biết ơn, chúng ta là con cháu hãy sống sao để không uổng phí xương máu các ngài. Amen.

 

.

HUYẾT TÌNH CA

Trầm Thiên Thu

Đức Tin Ngời Sáng Tươi Dòng Máu Đỏ

Tình Mến Sắt Son Thắm Sắc Da Vàng

Nói đến tử đạo là có liên quan máu. Nói đến máu là ngầm hiểu liên quan tim. Mà tim chính là trung tâm bơm máu để nuôi sống cơ thể. Máu đông thì tim ngừng đập, tim ngừng đập thì sự sống chấm dứt – nghĩa là chết.

Là con người, ai cũng chỉ có một lần sống, và tất nhiên cũng chỉ có một lần chết. Chắc chắn không có kiếp luân hồi. Vì thế, người ta phải nỗ lực để sống có ý nghĩa thì cũng phải cố gắng để chết cho hợp lý. Thật kỳ lạ, trong Nhóm Mười Hai có đến 10 vị Tông Đồ chịu tử đạo, chấp nhận đổ máu ra để minh chứng Đức Tin, trừ người môn đệ trẻ Gioan và người phản bội Giuđa Ítcariốt. Rất phù hợp với Mối Phúc thứ tám: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5:10) Thời nào cũng vẫn có các dạng bách hại, ngày nay còn tinh vi hơn. Bóng tối luôn đối lập ánh sáng, và ác nhân luôn chống lại hiền nhân.

Thật vậy, Chúa Giêsu xác định: “Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Mt 24:35; Mc 13:31; Lc 21:33) Ngài còn nói thêm để tái xác định và chứng minh: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12) Và đó cũng chính là lời động viên những ai trọn niềm tin yêu Ngài.

Chắc hẳn ai cũng biết rằng mỗi người chỉ có MỘT cuộc đời và MỘT lần sống, nhưng hơn thua nhau là biết sống khôn ngoan hay không. Vòng luân hồi chỉ là chuyện “không tưởng”. Cuộc sống không quan trọng ở chiều dài mà quan trọng ở chiều sâu. Ai cũng chỉ có một cuộc đời nhưng số phận có thể khác nhau, Kinh Thánh phân biệt số phận của người công chính và số phận của phường vô đạo. Dụ ngôn “ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó” (Lc 16:19-31) cho thấy số phận đời đời hoàn toàn khác nhau, và đôi nơi có “ranh giới” vĩnh viễn không thể qua lại với nhau.

Riêng về số phận của những người công chính, Kinh Thánh cho biết: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa.” (Kn 3:1) Như vậy là họ được “bay” thẳng về trời, không phải qua “ải” Luyện Hình. Thế thì không còn hạnh phúc nào hơn. Ước gì mỗi chúng ta, với cố gắng chịu đau khổ ở đời này, sẽ qua được “ải khổ” này. Mặc dù ở Luyện Hình chỉ một thời gian ngắn thì cũng khổ vô cùng, bởi vì cực hình ở Luyện Hình chẳng khác gì ở Hỏa Ngục.

Về số phận người lành, Kinh Thánh cho biết thêm: “Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi; khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng tưởng là họ bị tiêu diệt, nhưng thực ra, họ đang hưởng an bình. Người đời nghĩ rằng họ đã bị trừng phạt, nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng được trường sinh bất tử.” (Kn 3:2-4) Trong con mắt của người đời, họ là những người thua thiệt, là dại dột, nhưng thực ra họ lại được chính Thiên Chúa làm gia nghiệp đời đời. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Cười người hôm trước, hôm sau người cười.” Hai chữ khác nhau, chỉ đổi vị trí là đảo nghĩa ngay: “Cười người” thành “người cười”. Thể chủ động (cười) biến thành thể thụ động (bị cười). Việt ngữ rất độc đáo, không chỉ về chữ viết mà cả về ngữ nghĩa.

Về vấn đề thanh luyện, tác giả sách Khôn Ngoan cho biết: “Sau khi chịu sửa dạy đôi chút, họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao. Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách họ và thấy họ xứng đáng với Người. Người đã tinh luyện họ như người ta luyện vàng trong lò lửa, và đón nhận họ như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là vua của họ đến muôn đời. Những ai trông cậy vào Người, sẽ am tường sự thật; những ai trung thành, sẽ được Người yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn.” (Kn 3:5-9) Tiền nhân cũng nói: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý.” Có khổ luyện mới tinh thông, có bị khốn mới nên khôn, có vấp ngã mới biết đi đứng vững vàng.

Cuộc sống mỗi người mỗi khác, nhưng bức tranh cuộc đời của mỗi người đều được vẽ bằng những nét số phận. Cuộc đời của mỗi người cũng là những bài thơ với các thể loại và các vần điệu khác nhau. Cũng vậy, cuộc đời của mỗi người cũng là một bản trường ca với giai điệu khác nhau, tiết tấu khác nhau, âm thể khác nhau, hòa âm khác nhau, kể cả giai kết cũng khác nhau, nhưng ý chính vẫn phải là bản Tình Ca In Yêu. Đối với các thánh tử đạo Việt Nam, bản đời của các ngài là bản hùng ca vô thường, không chỉ viết bằng những nốt nhạc của số phận mà còn viết bằng máu đào, sáng màu tin và thắm màu yêu. Vâng, chính Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Tình yêu đó vĩ đại và tuyệt vời biết bao!

Bất cứ dạng tình yêu nào cũng phải rỉ ra chất hy sinh mới là tình yêu đích thực. Chính cái chết lại khiến người ta hạnh phúc chứ không đau khổ. Hạnh phúc không chỉ tăng lên theo cấp số cộng, mà còn tăng lên theo cấp số nhân: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: ‘Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!’. Việc Chúa làm cho ta, ôi vĩ đại! ta thấy mình chan chứa một niềm vui.” (Tv 126:1-3) Thật là quá đỗi kỳ diệu, ngoài sức tưởng tượng của con người. Chúng ta, dù là người văn hay chữ tốt nhất thế giới, cũng không thể dùng phàm ngôn mà diễn tả hết niềm hạnh phúc như vậy – lớn lao, sâu thẳm, trải rộng,…

Tương tự, không tình yêu nào lại không có ít nhiều đau khổ, bằng cách nào đó. Thật vậy, đau khổ càng nhiều thì hạnh phúc càng lớn, chính nỗi buồn đau làm cho người ta cảm nhận được thế nào là niềm vui sướng. Thánh Vịnh gia xác định: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:5-6) Đó là hệ lụy chắc chắn. Khi ở đỉnh cao niềm vui sướng, vì không còn biết diễn tả bằng cách nào khác nên đôi khi người ta phải bật khóc, để những giọt mặn của niềm vui sướng tự do lăn dài, cả hồn xác ướt đẫm nỗi vui mừng khôn tả. Khóc vì quá vui chứ không vì buồn, như cụ Nguyễn Công Trứ nói: “Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.” (Cây Thông)

Một đời theo Thầy Giêsu và thấm nhuần giáo huấn của Thầy, Thánh Phêrô đặt vấn đề: “Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.” (1 Pr 4:14) Lạ hết sức, “bị sỉ nhục” mà lại là “có phúc”. Chắc chắn những người không có niềm tin Kitô giáo thì không thể nào hiểu nổi, và họ cũng không thể chấp nhận điều đó. Nhưng đối với các Kitô hữu, đó lại là mối phúc: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.” (Mt 5:10-11)

Là người giàu kinh nghiệm tâm linh, Tông Đồ Phaolô vừa chia sẻ vừa tâm sự: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu. Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một SỰ ĐIÊN RỒ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, đó lại là SỨC MẠNH của Thiên Chúa.” (1 Cr 1:17-18) Cây Thập Giá là biểu tượng của đức tin, vì thế mà những kẻ bách hại rất sợ, họ đã dùng Thập Giá để dụ người ta bước qua, nhưng vô ích đối với những người vững tin vào Đức Kitô – cụ thể là hàng trăm ngàn các Việt nhân chịu tử đạo, họ đủ mọi lứa tuổi và đủ mọi thành phần. Những người bị giết vì đức tin nhiều nhất dưới triều ba ác vương Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.

Thiết tưởng cũng nên biết một chút về các nhục hình mà các vị tử đạo ngày xưa phải chịu, để biết các ngài rất kiên cường với đức tin: Lăng Trì – tùng xẻo, Xử Giảo – treo cổ, Tẫn Hình – cắt xương bánh chè, Bào Cách – trói vào cột lửa cho đến chết. Và còn nhiều loại nhục hình khác như xỏ mũi, xâu tai, phanh thây, voi giày, ngựa xéo, rũ tù,…

Thập Giá là sách dạy sống khôn ngoan, là vinh dự của tín nhân. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Có lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao?” (1 Cr 1:19-20) Những câu hỏi nhỏ nhưng không dễ trả lời chút nào, và cũng khó lý giải nếu không có loại tình yêu “khác người”. Thật vậy, “thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan của Người, cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin.” (1 Cr 1:21) Kinh Thánh xác định: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời.” (Hc 1:1)

Đức Khôn Ngoan vô cùng cần thiết, vì “con người ta dẫu thập toàn đi nữa mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài thì cũng kể bằng không không vậy.” (Kn 9:6) Thánh Phaolô cho biết: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:22-25) Hai thái cực trái ngược nhau, vì thế mà người đời không thể hiểu nổi cách lập luận như vậy, nhưng chúng ta may mắn có đức tin Kitô giáo, cho nên chúng ta có thể hiểu cái lý lẽ nghịch-mà-thuận đó – dù mức độ hiểu nhiều hay ít, khác nhau ở mỗi người.

Nơi nào cũng có muỗi, ở đâu cũng có vi trùng. Ác nhân cũng vậy. Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” (Mt 10:17-18) Lời tiên báo đó đã và đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam, càng ngày càng có xu hướng gia tăng chứ chẳng giảm bớt. Thật đáng sợ với mưu thâm kế độc, nhưng đừng hoang mang hoảng sợ, vì Chúa Giêsu căn dặn: “Khi người ta nộp anh em thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10:19-20) Không có gì ngoài Thánh ý Ngài, dù là sợi tóc đen hay trắng, còn trên đầu hay rụng xuống.

Đã đành là bị người ngoài bách hại, những người tin yêu Chúa cũng chẳng yên thân với chính các thân nhân của mình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10:21-22) Không hẳn là những người trong gia đình hoặc trong dòng họ sẽ nộp nhau hoặc ra mặt chống đối, nhưng có thể “bằng mặt mà không bằng lòng”, hại nhau bằng nhiều cách tinh vi: Lườm nguýt, xa lánh, ghen ghét, mỉa mai, gièm pha, khích bác, chê bôi,… Ai “yếu bóng vía” thì sẽ “lung lay” ngay.

Các vị tử đạo Việt Nam cũng là con Rồng cháu Tiên, sinh trưởng trên dải đất nhỏ bé hình chữ S, ở một đất nước như chúng ta, có hoàn cảnh sống như chúng ta, hít thở không khí như chúng ta, ăn uống các loại ẩm thực như chúng ta,… thế nhưng các ngài đã viết khúc Tình Ca tuyệt vời bằng chính những giọt máu đào của mình. Âm nhạc có những cung bậc khác nhau, cuộc đời mỗi người cũng vậy. Chúng ta không viết bản nhạc cuộc đời mình bằng máu tử đạo, nhưng chúng ta có thể viết bằng cách khác. Âm thầm chịu đựng đau khổ vì Chúa cũng là một cách tử đạo liên lỉ, có ích lợi cho chính mình và các linh hồn. Cách nào cũng có mức độ khó đặc trưng, chẳng cách nào dễ hơn cách nào. Vấn đề là bản “tổng phổ tin yêu” của cuộc đời riêng mỗi người có được hoàn chỉnh hay không. Chính mình viết chứ không ai có thể viết thay.

Đời phàm nhân phức tạp đủ thứ, đủ điều. Trên đường lữ hành của cuộc sống đời thường lắm thứ nhiêu khê hơn chúng ta tưởng. Vì thế, cần phải không ngừng cảnh giác nhiều thứ – cả tinh thần lẫn thể lý, nhất là tâm linh. Một trong các thứ cần phải luôn cảnh giác là những người chúng ta giao tiếp hằng ngày, như Thánh Phaolô đã nói: “Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu.” (1 Cr 15:33) Tương tự, người Việt cũng nói: “Chọn bạn mà chơi,” hoặc “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.” Chắc chắn rằng sờ vào bùn đất thì bàn tay không thể không bẩn. Sống trong môi trường ô nhiễm, chẳng mấy ai không nhiễm bệnh. Người khôn luôn ý thức điều này: “Khi nào sức khỏe yếu thì không ra gió.” Về sức khỏe tâm linh cũng tương tự, nhưng thực sự đáng quan ngại hơn.

Lạy Thiên Chúa là Nguồn Sống, là Đầu và Cuối, xin gia tăng sức khỏe tâm linh để chúng con đủ sức đề kháng mọi thứ vi trùng nguy hiểm. Lạy chư vị tử đạo Việt Nam, xin cầu thay nguyện giúp dân Việt, xin đồng hành và tăng lực cho chúng con, nâng đỡ chúng con viết trọn giai điệu cuộc đời của chúng con, rạch ròi và dứt khoát, bằng những nốt tin đậm nét yêu. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *