Năm 1954, ngài vào Chủng viện Thừa sai. Ngày 21/12/1961 thụ phong linh mục. Tiếp đó, ngài theo học môn văn chương tại Sorbonne. Ngày 01/09/1966 đến Nha Trang.
Cha Maïs học tiếng Việt trong hai năm. Sau đó, ngài giảng dạy Văn chương Pháp tại Viện Đại học Đà Lạt và Triết học tại trường Adran.
Sau ngày 30/04/1975, ngài bị công an bắt và giam giữ tại Rừng Lá và trại giam Bà Rịa trong 9 tháng. Khi được trả tự do, ngài gầy gò, sức khỏe suy yếu. Ngày 28/05/1976, ngài bị trục xuất về Pháp.
Khi đó, ngài bỏ ý định sang truyền giáo ở Nhật, ở lại Paris lo cho người Việt tỵ nạn. Ngài trình luận án tại Trường Ngôn ngữ Đông phương về đề tài Morphologie et structuration générale des référents personnels en vietnamien. Ngài viết nhiều bài báo có giá trị. Cuốn ‘‘Être vietnamien’’ do ngài biên soạn đã được tái bản nhiền lần. Ngài cộng tác thường xuyên với tờ Échange France-Asie, hãng thông tấn của Hội Thừa sai Paris và Églises d’Asie. Ngài am tường tiếng Việt, các tài liệu của ngài về Giáo hội Việt Nam có tiếng vang sâu rộng. Với lòng khiêm hạ, ngài là chứng nhân, một đời tận hiến cho đức tin và Giáo hội Việt Nam. Ngài có công bắc nhịp cầu Đông – Tây, như lời Đức Cha François Pallu, đấng sáng lập Hội Thừa sai Paris.
Trong phần nhập lễ và hiệp lễ, các linh mục người Việt đã hợp ca Chúa Chăn Nuôi Tôi của Phanxicô và Hy Lễ Cuối Cùng của Ân Đức.
Các linh mục tại Giáo xứ : Đức Ông Mai Đức Vinh, cha Đinh Đồng Thượng Sách, cha Trần Anh Dũng, cha Vũ Minh Sinh, nhiều giáo dân người Việt đã dự thánh lễ tiễn đưa cha Jean Maïs.
Lê Đình Thông