1. Đức Tổng Giám Mục Gomez kêu gọi bình tĩnh và kiềm chế khi các cuộc biểu tình chống ICE lan rộng ở Los Angeles
Đức Tổng Giám Mục José H. Gomez của Los Angeles, cộng đồng Công Giáo lớn nhất cả nước, đã ra tuyên bố kêu gọi “kiềm chế và bình tĩnh” khi căng thẳng ở Los Angeles tiếp tục leo thang sau khi các cuộc biểu tình nổ ra do Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ, gọi tắt là ICE, bắt giữ những người nhập cư trái phép trở nên bạo lực.
“Tôi rất lo ngại về các cuộc truy quét thực thi luật nhập cư ngày hôm nay tại Los Angeles và tôi đang cầu nguyện cho cộng đồng của chúng ta,” Đức Cha Gomez cho biết.
“Chúng ta đều đồng ý rằng chúng ta không muốn những người nhập cư không có giấy tờ, những kẻ khủng bố khét tiếng hoặc tội phạm bạo lực trong cộng đồng của chúng ta. Nhưng chính phủ không cần phải thực hiện các hành động thực thi theo cách gây ra nỗi sợ hãi và lo lắng cho những người nhập cư bình thường, chăm chỉ và gia đình của họ.”
Trong bài phát biểu của mình, Gomez kêu gọi Quốc hội sửa chữa hệ thống nhập cư “có quá nhiều vấn đề” của đất nước.
Cuộc biểu tình bắt đầu vào ngày 6 tháng 6 để phản ứng lại các cuộc đột kích của ICE tại nhiều địa điểm làm việc, và leo thang sau khi David Huerta, chủ tịch chi nhánh California của Công đoàn Công nhân Dịch vụ Quốc tế, bị bắt vì cáo buộc chặn đường xe của ICE.
Các video cho thấy đám đông vây quanh xe tải, hô vang khẩu hiệu và ngày càng đông hơn khi cuộc biểu tình kéo dài đến tận đêm. Các cuộc biểu tình đã gia tăng vào thứ Bảy, với những người biểu tình tụ tập bên ngoài cơ sở giam giữ nơi Huerta bị giam sau khi anh được xuất viện, nơi anh được điều trị các vết thương trong cuộc biểu tình và vụ bắt giữ sau đó.
Vào Chúa Nhật, tình hình trở nên tồi tệ hơn khi Cảnh sát tuần tra đường bộ California sử dụng lựu đạn gây choáng để giải tỏa xa lộ 101 sau khi những người biểu tình chặn đường, ném các mảnh vỡ, bao gồm cành cây và pháo hoa, vào các xe cảnh sát bên dưới.
Đêm Chúa Nhật chứng kiến thêm tình trạng hỗn loạn khi những người biểu tình đốt nhiều xe taxi điều khiển từ xa Waymo, ném đá vào cảnh sát và làm bẩn khu phố bằng những dòng chữ phản đối ICE.
Buổi cầu nguyện liên tôn thắp nến dự kiến diễn ra vào tối Chúa Nhật tại Tòa thị chính Los Angeles, do Lực lượng đặc nhiệm di trú của tổng giáo phận và các nhóm như Liên minh vì quyền của người nhập cư nhân đạo, Trung tâm tài nguyên Trung Mỹ và LA Voice tổ chức, đã bị hoãn lại vì lý do an toàn do tình hình bạo lực leo thang.
Các nhóm đã ra tuyên bố tái khẳng định lời kêu gọi bất bạo động và cam kết sẽ lên lịch lại buổi cầu nguyện khi tình hình ổn định hơn.
Tổng thống Trump đã điều động Vệ binh Quốc gia vào tối thứ Bảy, viện dẫn lý do các nhà lãnh đạo địa phương không kiểm soát được tình hình. Thống đốc Gavin Newsom phản đối quyết liệt động thái này, gọi đó là hành vi vi phạm chủ quyền của tiểu bang. Vào thứ Hai, California đã đệ đơn kiện chính quyền Tổng thống Trump, phản đối quyết định liên bang hóa Vệ binh Quốc gia California.
Source:Catholic News Agency
2. Báo cáo của Pew: Bối cảnh tôn giáo toàn cầu đã thay đổi như thế nào trong một thập niên qua
Trong khi Kitô giáo vẫn là tôn giáo lớn nhất thế giới, nghiên cứu mới nhất của Pew Research cho thấy số lượng tín hữu Hồi giáo đã vượt qua mọi tôn giáo trên thế giới về dân số trong suốt thập niên qua.
Báo cáo mới công bố gần đây, “Bối cảnh tôn giáo toàn cầu đã thay đổi như thế nào từ năm 2010 đến năm 2020”, bao gồm dữ liệu từ hơn 2.700 nguồn, bao gồm điều tra dân số quốc gia, khảo sát nhân khẩu học và sổ ghi danh dân số. Một số ước tính được đưa ra trong báo cáo bắt nguồn từ dữ liệu về năm 2020 không được công bố cho đến năm 2024 do đại dịch COVID-19, làm chậm trễ dữ liệu điều tra dân số ở ít nhất 65 quốc gia.
Báo cáo bao gồm 201 quốc gia, tập trung vào bảy nhóm tôn giáo: Kitô Giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, những người theo các tôn giáo ít được biết đến khác và những người không theo tôn giáo nào.
Theo báo cáo, tổng số các tín hữu Kitô đã tăng 122 triệu từ năm 2010 đến năm 2020, trong khi tổng số người theo đạo Hồi tăng 327 triệu – “nhiều hơn tất cả các tôn giáo khác cộng lại”. Dân số theo Kitô giáo trên toàn cầu là 2,3 tỷ người vào năm 2020, trong khi dân số theo đạo Hồi trên toàn cầu là 2 tỷ người.
Ngoài người Hồi giáo, nhóm duy nhất tăng trưởng theo tỷ lệ phần trăm dân số toàn cầu là những người tự nhận mình không theo tôn giáo nào, được gọi là “nones”.
Báo cáo mô tả hiện tượng này là “đáng chú ý” vì những người không theo tôn giáo thường lớn tuổi hơn và có tỷ lệ sinh thấp hơn, khiến họ “bất lợi” trong quá trình tăng trưởng dân số.
Tuy nhiên, đến cuối năm 2020, nhóm “nones” chiếm 24,2% dân số toàn cầu, trở thành nhóm lớn thứ ba trong nghiên cứu, sau nhóm Kitô giáo và Hồi giáo.
Theo báo cáo, “những người từ bỏ bản sắc tôn giáo của mình sau khi được nuôi dạy như các Kitô hữu” là lý do chính khiến những người không theo tôn giáo vượt trội hơn những người theo tôn giáo trong thập niên qua. Sau Kitô Giáo, Phật giáo mất đi số lượng tín hữu lớn thứ hai do chuyển đổi tôn giáo.
Hoa Kỳ nằm trong số nhiều quốc gia có tỷ lệ lớn dân số theo Kitô giáo không theo tôn giáo nào từ năm 2010 đến năm 2020. Tuy nhiên, Pew lưu ý rằng những phát hiện từ năm 2020 cho thấy sự suy giảm này dường như đã ổn định. Tính đến năm 2020, Hoa Kỳ có dân số không theo tôn giáo lớn thứ hai trên toàn cầu, sau Trung Quốc.
Xét về phân bố theo khu vực, Phi Châu cận Sahara hiện là nơi sinh sống của phần lớn người theo Kitô giáo trên thế giới, với 30,7% dân số sống ở khu vực này tính đến năm 2020. Đây là sự thay đổi so với năm 2010, khi 24,8% sống ở Phi Châu cận Sahara và 25,8%, phần lớn người theo Kitô giáo trên thế giới, sống ở Âu Châu.
Báo cáo nhận định sự thay đổi này là do cả sự gia tăng dân số tự nhiên ở Phi Châu cận Sahara và “sự tách biệt rộng rãi với Kitô giáo ở Tây Âu”, đồng thời lưu ý: “Đây là một sự thay đổi lớn về mặt địa lý kể từ đầu những năm 1900, khi Kitô hữu ở Phi Châu cận Sahara chiếm 1% dân số theo đạo Kitô toàn cầu và hai phần ba số Kitô hữu sống ở Âu Châu”.
Trên thực tế, các Kitô hữu đã trải qua những thay đổi đáng kể ở nhiều quốc gia hơn bất kỳ nhóm tôn giáo nào khác, tỷ lệ dân số giảm ở hầu hết các quốc gia ngoại trừ một quốc gia — Mozambique, nơi tỷ lệ người theo Kitô giáo tăng 5 phần trăm.
Báo cáo cũng lưu ý rằng mật độ người Do Thái ở các khu vực cũng thay đổi, với 45,9% sống ở khu vực Trung Đông-Bắc Phi và 41% sống ở Bắc Mỹ. Năm 2010, số lượng người Do Thái lớn nhất sống ở Bắc Mỹ. Sự thay đổi này phần lớn là do dân số Israel tăng từ 5,8 triệu lên 6,8 triệu thông qua di cư và gia tăng tự nhiên trong suốt thập niên.
Báo cáo lưu ý rằng ít quốc gia nào có sự thay đổi đáng kể về tỷ lệ người Hồi giáo trong dân số của họ, mặc dù có mức tăng trưởng dân số toàn cầu lớn nhất nói chung. Điều này là do sự tăng trưởng xảy ra ở các quốc gia mà người Hồi giáo đã là nhóm tôn giáo thống trị. Sự gia tăng dân số Hồi giáo phần lớn là do tỷ lệ sinh cao.
Người theo Ấn Giáo là nhóm tôn giáo lớn thứ tư tính đến năm 2020, tăng trưởng khoảng 12% từ năm 2010 đến năm 2020, với mức tăng trưởng đáng chú ý nhất ở khu vực Trung Đông-Bắc Phi, nơi họ tăng lên 3,2 triệu người — tăng 62%. Tuy nhiên, phần lớn người theo Ấn Giáo vẫn ở Ấn Độ và tôn giáo này vẫn ổn định ở mức 14,9% dân số toàn cầu trong suốt thập niên.
Trong số tất cả các tôn giáo được nêu trong báo cáo, Phật tử là nhóm duy nhất chứng kiến sự suy giảm trên toàn thế giới trong giai đoạn 2010 – 2020, với số lượng Phật tử trên toàn thế giới giảm 5% từ 343 triệu người vào năm 2010 xuống còn 324 triệu người vào năm 2020.
Báo cáo giải thích rằng: “Điều này là do sự không liên kết tôn giáo giữa những người theo đạo Phật ở Đông Á và tỷ lệ sinh tương đối thấp ở những người theo đạo Phật, những người có xu hướng sống ở những quốc gia có dân số già”.
Pew cũng xem xét sự tăng trưởng của những người theo “các tôn giáo khác”, bao gồm Baha’i, Jain, Shinto, Sikh, Đạo giáo, Wiccans, Zoroastrian và những tôn giáo khác. Pew ước tính rằng số người thuộc nhóm này tăng 12%, từ 154 triệu lên 172 triệu từ năm 2010 đến năm 2020. Tuy nhiên, dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ gần như tương tự, khiến tỷ lệ người theo “các tôn giáo khác” ở mức ổn định khoảng 2% dân số toàn cầu.
Source:Catholic News Agency
3. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV bổ nhiệm giám mục Trung Quốc mới cho Tổng Giáo Phận Phúc Châu
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã bổ nhiệm Đức Cha Giuse Lâm Văn Đoàn (Lin Yuntuan, 林云团 làm Giám Mục Phụ Tá của Tổng giáo phận Phúc Châu tại Trung Quốc
Tòa thánh ghi nhận thỏa thuận Trung Quốc-Vatican được ký kết vào tháng 9 năm 2019 và gia hạn lần thứ ba vào tháng 10 năm 2024 là cơ sở cho việc bổ nhiệm Đức Cha Lâm Vân Đoàn vào ngày 5 tháng 6.
Tòa thánh thông báo “việc công nhận các tác động dân sự và tiếp quản chức vụ của Đức Cha Giuse Lâm Văn Đoàn”. Thông báo cho biết Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm “trong khuôn khổ cuộc đối thoại liên quan đến việc áp dụng thỏa thuận tạm thời giữa Tòa thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.
Đức Cha Giuse Lâm Văn Đoàn, 73 tuổi, được thụ phong linh mục cho Tổng giáo phận Phúc Châu, thuộc tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, vào năm 1984 sau khi hoàn thành bốn năm học tại chủng viện địa phương. Ngài được tấn phong giám mục bí mật vào năm 2017.
Từ năm 1984 đến năm 1994 và từ năm 1996 đến năm 2002, Cha Giuse Lâm Văn Đoàn được bổ nhiệm làm linh mục chánh xứ cho một số giáo xứ trải dài khắp Tổng giáo phận Phúc Châu.
Những vai trò khác mà ngài đảm nhiệm bao gồm vai trò giảng dạy tại chủng viện Phúc Châu năm 1985, hai nhiệm kỳ làm phó giám đốc ủy ban kinh tế giáo phận từ năm 1994 đến năm 1996 và từ năm 2000 đến năm 2003, và làm Giám Quản Tông Tòa giáo phận từ năm 2003 đến năm 2007.
Trước khi được tấn phong bí mật làm giám mục vào năm 2017, Cha Giuse Lâm Văn Đoàn đã phục vụ với tư cách là giám quản tông tòa của Phúc Châu từ năm 2013 đến năm 2016.
Đức Tổng Giám Mục Giuse Thái Bính Thụy (Cai Bing-rui, 蔡秉瑞) hiện đang lãnh đạo Tổng giáo phận Phúc Châu, được thành lập vào năm 1946.
Trên toàn cầu, 84 giám mục mới đã được bổ nhiệm vào năm 2025. Cho đến nay, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã bổ nhiệm 15 giám mục mới ở Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, Nam Mỹ và Hoa Kỳ
Source:Catholic News Agency
4. Nhật ký trừ tà #347: Một cuộc biểu dương đức tin mạnh mẽ tại Knock
Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #347: A Powerful Rally at Knock”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #347: Một cuộc biểu dương đức tin mạnh mẽ tại Knock”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Tôi vừa kết thúc bài phát biểu và cầu nguyện với khoảng 12 ngàn người hành hương (và hàng ngàn người khác trực tuyến) đến đền thờ được chấp thuận tại Knock Ái Nhĩ Lan cho cuộc tuần hành lần thứ 40. Đức tin chắc chắn KHÔNG chết ở Ái Nhĩ Lan! Đó là ngày được ban phước mạnh mẽ vào đêm trước đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có nhiều lời chứng cảm động về cách Chúa Thánh Thần chạm đến họ trong cuộc tuần hành, bao gồm nhiều ân sủng chữa lành.
Cá nhân tôi rất xúc động trước đoàn người, lời cầu nguyện và cả bài hát tuyệt đẹp về sự hiện ra ở Knock của nhạc sĩ kiêm ca sĩ nổi tiếng Dana Scallon – “Lady of Knock”. Tôi rất may mắn được gặp bà, được nghe về ơn gọi của bà và được đích thân nghe bà hát bài hát nổi tiếng này vào cuối Thánh lễ do Đức Tổng Giám Mục cử hành.
Có những dấu hiệu khởi đầu cho sự hồi sinh của đức tin và Giáo hội tại Ái Nhĩ Lan và nhiều nơi khác. Có vẻ như đây là một loại phong trào quần chúng, đặc biệt là trong giới trẻ. Ví dụ, trong số 260 ngàn người theo dõi Trung Tâm Tổng Lãnh Thiên Thần Micae trên tất cả các nền tảng truyền thông xã hội và kênh YOUTUBE của họ, hơn một nửa là những người từ 25-44 tuổi và nhiều người thậm chí còn trẻ hơn.
Có một cơn đói tâm linh bẩm sinh trong tinh thần con người, khao khát được lấp đầy. Nó có thể được lấp đầy bằng Đức Thánh Linh thật hoặc có thể bị dẫn đi lạc bởi một sự giả mạo. Đức Thánh Linh dẫn đến sự sống vĩnh cửu, niềm vui và sự bình an. Sự giả mạo chỉ kết thúc trong bóng tối và sự chết.
Lần đầu tiên tại Đại hội Kinh Mân Côi, có một cuộc họp đặc biệt vào buổi tối dành riêng cho những người trẻ tuổi. Tôi đã cảnh báo họ về những nguy hiểm của huyền bí, ma thuật, phù thủy và mọi hình thức bói toán huyền bí, đáng buồn thay, đã xâm nhập đáng kể vào thế giới của chúng ta. Giáo hội cần phải làm nhiều hơn nữa để giúp những người trẻ tuổi nhận ra Chúa Thánh Thần đích thực và tránh xa sự cám dỗ lừa dối của huyền bí.
Như thường lệ khi làm công việc của Chúa, tôi đã nhận được nhiều hơn ở Knock so với những gì tôi đã cho đi. Tôi đã ra về với tinh thần được đổi mới và với lòng nhiệt thành ngày càng tăng đối với chức vụ của Đức Mẹ và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ. Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
Source:Catholic Exorcism
5. Các giám mục gửi Quốc hội: AI phải hỗ trợ phẩm giá của con người, lợi ích chung
Trong khi các nhà lập pháp xem xét các quy định liên quan đến sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, gọi tắt là AI, Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, gọi tắt là USCCB đang kêu gọi họ ưu tiên “cuộc sống và phẩm giá của con người và thiện ích chung”.
“Trí tuệ nhân tạo đang nhanh chóng định hình tương lai của xã hội ta”, Đức Cha William D. Byrne, chủ tịch Ủy ban Truyền thông của USCCB, cho biết trong một tuyên bố.
Đức Cha Byrne cho biết: “Là những mục tử được giao phó nhiệm vụ chăm sóc sự sống và phẩm giá con người, chúng tôi kêu gọi các nhà lập pháp lắng nghe lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, để giúp bảo đảm rằng AI được phát triển với trách nhiệm và sự sáng suốt để nó thực sự có thể mang lại lợi ích cho mọi người”.
Mặc dù Quốc hội hiện không tranh luận về các quy định toàn diện về AI, nhưng “Đạo luật One Big Beautiful Bill” do Hạ viện thông qua có thể có tác động lớn đến công nghệ trong tương lai. Một điều khoản trong dự luật sẽ hạn chế các tiểu bang quản lý AI trong 10 năm, về cơ bản là liên bang hóa vấn đề này.
Dự luật đó hiện đang ở Thượng viện, nơi dự kiến sẽ phải đối mặt với một số điều chỉnh. Nếu phiên bản đang chờ của Thượng viện được thông qua, nó sẽ được gửi lại Hạ viện.
Các giám mục, trong khi thừa nhận trong lá thư gửi các nhà lãnh đạo quốc hội rằng các ngài “không phải là chuyên gia kỹ thuật”, đã viết rằng các ngài đang phát biểu với tư cách là mục tử và nêu ra các nguyên tắc đạo đức và cân nhắc chính sách mà các ngài hy vọng các nhà lập pháp sẽ suy ngẫm.
Các giám mục viết: “Xin hãy tin vào lời cầu nguyện và sự sẵn lòng của chúng tôi để hỗ trợ anh chị em trong công việc quan trọng và kịp thời này”.
Nguyên tắc đạo đức
Một trong những mối quan tâm đạo đức chính mà các giám mục lưu ý là “phẩm giá vốn có của mỗi con người”, mà các ngài viết rằng “phải luôn là trọng tâm của sự phát triển công nghệ”.
“AI là một công cụ, khi được thông báo bởi các nguyên tắc đạo đức lành mạnh, có thể giúp vượt qua nhiều trở ngại của cuộc sống và cải thiện tình trạng của con người”, các giám mục viết. “Nhưng công nghệ này nên bổ sung cho những gì con người làm, chứ không phải thay thế họ hoặc các phán đoán đạo đức của họ. Chúng ta cũng phải tránh những cám dỗ hướng tới chủ nghĩa siêu nhân hoặc coi AI ngang bằng với cuộc sống của con người”.
Các giám mục cũng bày tỏ mối quan tâm đối với những người đang phải đối mặt với khó khăn kinh tế, lưu ý rằng “AI sẽ chỉ phục vụ tất cả mọi người khi nó có thể hỗ trợ những anh chị em nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất của chúng ta và khi họ có thể tham gia và hưởng lợi một cách công bằng từ sự phát triển và sử dụng nó”.
Nguyên tắc đạo đức thứ ba được các giám mục nhấn mạnh là “tôn trọng sự thật”, nêu rằng “AI đang bị một số người sử dụng để làm suy yếu phẩm giá của con người và sự tôn trọng sự thật” bằng cách sử dụng sai mục đích tin tức và thông tin chính trị cũng như deepfake, đồng thời nói thêm: “Các hệ thống AI phải có sự giám sát của con người và trách nhiệm giải trình được xác định rõ ràng để thúc đẩy tính minh bạch và các quy trình dân chủ công bằng”.
Những cân nhắc về chính sách
Về vấn đề chính sách, các giám mục lập luận rằng AI có thể mang lại lợi ích cho xã hội khi được sử dụng theo cách đạo đức nhưng có thể gây bất lợi cho xã hội nếu sử dụng một cách phi đạo đức hoặc thiếu các biện pháp bảo vệ cần thiết.
Ví dụ, khi nói đến các vấn đề gia đình, các ngài lưu ý rằng AI “có thể góp phần nâng cao hiệu quả của một số công việc hàng ngày và hỗ trợ giao tiếp” nhưng “cần phải khắc phục tác động cô lập của công nghệ”. Các Giám Mục cho biết AI cũng nên “hoạt động để củng cố và hỗ trợ cuộc sống gia đình” và bảo đảm rằng nó không được sử dụng để “thúc đẩy hoặc tăng cường việc sử dụng công nghệ sinh sản và thao túng gen một cách xúc phạm về mặt đạo đức”.
Về kinh tế, các giám mục cũng nhắc lại mối quan ngại rất phổ biến về “sự thay thế việc làm, bất bình đẳng và bóc lột” từ AI, nêu rằng “các chính sách và quy định phải bảo bảo đảm vệ người lao động, thúc đẩy giáo dục và đào tạo nghề, yêu cầu công chúng phải chịu trách nhiệm về việc chính phủ sử dụng AI và yêu cầu sự giám sát của con người trong các quyết định tuyển dụng do AI thúc đẩy”.
“ Để khuyến khích tinh thần nghệ thuật và sáng tạo, chúng tôi cũng kêu gọi bảo vệ dữ liệu và quyền sở hữu trí tuệ”, các giám mục viết.
Các giám mục đã viết một cách tích cực rằng AI “có tiềm năng cải thiện nhiều khía cạnh của cuộc sống và xã hội” về các vấn đề như nhu cầu về thực phẩm, quần áo, nơi ở, chăm sóc y tế và dịch vụ xã hội. Các ngài lưu ý rằng AI “đã dẫn đến sự phát triển của các loại thuốc và công nghệ mới để cải thiện sức khỏe” và “nó có thể hỗ trợ các công cụ mới để học tập và biến đổi cách chúng ta giao tiếp và tham gia vào xã hội”.
Mặt khác, các ngài cảnh báo rằng nếu không được quản lý đúng cách, “nó thậm chí còn có khả năng phân cực xã hội và làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng”, nêu bật mối lo ngại về cách nó được sử dụng để ra quyết định tự động, chẳng hạn như sàng lọc việc làm, chăm sóc sức khỏe, sàng lọc phúc lợi công cộng và giải quyết nhập cư.
Các giám mục nhấn mạnh rằng: “Nó có thể củng cố những thành kiến hiện có hoặc đưa ra một đường lối thực dụng thiếu đi những cân nhắc cần thiết của con người, với những hậu quả có khả năng tàn phá”.
Các ngài cũng lưu ý những mặt tích cực và tiêu cực về năng lượng và môi trường, nêu rằng AI có thể được sử dụng “để tìm ra giải pháp cho các cuộc khủng hoảng năng lượng và môi trường hiện nay”, nhưng viết rằng các ngài lo ngại về chi phí năng lượng, mức tiêu thụ tài nguyên và rác thải điện tử có chứa thủy ngân và chì.
Về vấn đề chiến tranh, các giám mục bày tỏ thêm mối quan ngại về “việc phát triển và sử dụng vũ khí tự động gây chết người”, đồng thời nói thêm rằng “các chính sách phải làm rõ rằng quyền kiểm soát của con người đối với bất kỳ hệ thống vũ khí nào là điều cần thiết để giảm thiểu nỗi kinh hoàng của chiến tranh và sự xâm phạm các quyền cơ bản của con người”.
Trong thư, USCCB viết rằng những nguyên tắc và hướng dẫn này “không nhằm mục đích bao quát toàn diện” mà đúng hơn là “một sự phản ánh ban đầu khiêm tốn để quý vị cân nhắc khi cân nhắc các lựa chọn cho chính sách liên bang và hành động quản lý”.
Source:Catholic News Agency