Video: Công bố Tin Mừng Phục Sinh tại Giêrusalem và Vatican

 

Lúc 7h30 sáng thứ Bẩy 15 tháng Tư, Đức Tổng Giám Mục Pierbattista Pizzaballa là Giám Quản Tòa Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ Giêrusalem đã cử hành thánh lễ Vọng Phục sinh tại đền thờ Chúa Phục sinh.

Vâng thưa quý vị và anh chị em, Thánh Lễ Vọng Phục Sinh tại Đền Thờ Chúa Phục Sinh, diễn ra vào sáng Thứ Bảy Tuần Thánh lúc 7h30 SÁNG. Sáng thứ Bẩy chứ không phải tối thứ Bẩy, nghĩa là không thống nhất với phần còn lại của Giáo Hội. Việc cử hành sớm như thế là để chắc chắn rằng Giáo Hội Mẹ tại Giê-ru-sa-lem luôn là người đầu tiên công bố Tin Mừng Phục Sinh trong bài Vinh Tụng Ca hát mừng chiến thắng của Chúa Kitô trên sự chết và tội lỗi.

Cùng đồng tế với ngài có Đức Giám Mục William Shomali, và Đức Giám Mục Kamal Batish là Giám Mục phụ tá của Tòa Thượng Phụ Latinh, và Đức Giám Mục Giacinto Boulos Marcuzzo, Giám Mục phụ tá của Nazareth và hơn 250 linh mục.

Cùng đồng tế trong thánh lễ còn có khâm sứ Tòa Thánh tại Israel, là Đức Cha Giuseppe Lazzarotto, và sứ thần Tòa Thánh tại Jordan, là Đức Cha Giorgio Lingua.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong khi đó tại Vatican, lúc 8h30 tối Thứ Bảy Tuần Thánh, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dẫn đầu một đoàn rước bên trong Đền thờ Thánh Phêrô. Cuộc rước sẽ diễn ra trong bóng tối, chỉ được chiếu sáng bởi một cây nến tại bàn thờ.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:

“Sau ngày Sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ” (Mt 28: 1). Chúng ta có thể hình dung ra họ ra đi như thế nào. .. Họ đi như những người đến một nghĩa trang, với những bước đi mệt mỏi và chán nản, như những người thấy khó có thể tin mọi sự đã kết thúc thê thảm như thế. Chúng ta có thể hình dung ra khuôn mặt của họ, xanh xao và đầy nước mắt. Và câu hỏi của họ: Đấng Tình yêu đã chết thật rồi sao?

Không giống như các môn đệ, những người phụ nữ có mặt – như họ đã từng có mặt khi Thầy thở hơi cuối cùng của Người trên thánh giá, và sau đó, cùng với ông Giuse người xứ Arimathêa, khi ông đặt Người vào trong ngôi mộ. Hai người phụ nữ này đã không bỏ chạy, họ là những người vẫn kiên định, những người chấp nhận đối mặt với cuộc sống bất kể nó như thế nào, họ là những người biết rõ mùi vị cay đắng của bất công trong xã hội. Chúng ta nhìn thấy các bà ở đó, trước ngôi mộ, đầy đau buồn nhưng không thể chấp nhận rằng mọi thứ phải luôn luôn kết thúc như vậy.

Nếu chúng ta cố gắng hình dung ra cảnh tượng này, chúng ta có thể nhìn thấy trong khuôn mặt của những người phụ nữ này những gương mặt khác nữa: khuôn mặt của các bà mẹ và những bà nội, bà ngoại, khuôn mặt cuả các trẻ em và những người trẻ, là những người gánh chịu những gánh nặng đau thương của bất công và tàn bạo. Trong khuôn mặt của họ chúng ta có thể thấy phản ảnh tất cả những ai, lê bước trên những hè phố các thành thị của chúng ta, cảm nhận được nỗi đau của cảnh nghèo cùng cực, nỗi buồn nảy sinh từ nạn bóc lột và buôn bán người. Chúng ta cũng có thể nhìn thấy khuôn mặt của những người bị chào đón bằng sự khinh miệt, vì họ là những người nhập cư, bị cướp mất đất nước, nhà cửa và gia đình. Chúng ta cũng nhìn thấy những khuôn mặt với đôi mắt nói lên sự cô đơn và bị bỏ rơi, vì bàn tay của họ nhăn nheo với những nếp nhăn. Khuôn mặt của các bà phản ảnh khuôn mặt của những phụ nữ, những người mẹ đang bật khóc khi thấy cuộc sống của con em mình bị nghiền nát bởi sự tham nhũng khổng lồ đang tước đoạt đi những quyền lợi và làm tiêu tan những mơ ước của họ. Những hành vi ích kỷ hàng ngày đang đóng đinh và sau đó chôn sống hy vọng của người dân. Những cung cách quan liêu tê liệt và cằn cỗi đang chống lại sự thay đổi. Trong nỗi đau của mình, hai người phụ nữ này phản ảnh khuôn mặt của tất cả những ai, đang lê bước trên các nẻo đường trong các phố phường của chúng ta với một nhân phẩm bị đóng đinh.

Khuôn mặt của các bà cũng phản ảnh nhiều khuôn mặt khác nữa, có lẽ bao gồm cả khuôn mặt của anh chị em và tôi. Giống như họ, chúng ta có thể cảm thấy bị thúc đẩy tiếp tục lê bước và chịu khuất phục trước sự kiện mọi chuyện phải kết thúc như thế. Đúng thế, chúng ta mang trong mình một lời hứa và sự xác tín về lòng trung tín của Thiên Chúa. Nhưng khuôn mặt của chúng ta cũng đầy dấu ấn của những vết thương, của cơ man những hành vi bất trung, của chính chúng ta và của những người khác, của những nỗ lực đã được thực hiện và những trận đánh đã bại trận. Trong trái tim chúng ta, chúng ta biết rằng mọi thứ có thể khác, nhưng hầu như chúng ta không nhận thấy một điều là chúng ta đang quen thuộc dần với việc sống chung với những ngôi mộ, sống chung với những thất vọng. Tệ hơn nữa, chúng ta thậm chí còn tự thuyết phục mình rằng đây là định luật của cuộc đời, và làm cùn lương tâm của chúng ta với những hình thức giải thoát mà thực ra chỉ dập tắt hy vọng mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Vì thế, chúng ta thường lê bước như các bà, chập chờn giữa ao ước về Thiên Chúa và sự thoái lui ảm đạm. Không chỉ là Thầy chết, mà hy vọng của chúng ta cũng chết theo với Người.

“Và thình lình, đất rung chuyển dữ dội:” (Mt 28: 2). Thật bất ngờ, những phụ nữ cảm thấy một chấn động mạnh mẽ, như một cái gì đó hay ai đó làm rung mặt đất dưới chân họ. Lại một lần nữa, có người đến nói với họ: “Đừng sợ”, nhưng bây giờ thêm: “Người đã sống lại như Người đã phán hứa:” Đây là thông điệp mà, hết thế hệ này sang thế hệ khác, Đêm Thánh này được truyền lại cho chúng ta: “Đừng sợ, anh chị em; Ngài đã sống lại rồi như Ngài đã phán hứa! Cuộc sống, mà cái chết đã hủy diệt trên thập tự giá, giờ đây trỗi dậy với nhịp đập mới mẻ” (x Romano Guardini, The Lord, Chicago, 1954, p. 473). Nhịp tim của Chúa Phục Sinh được ban cho chúng ta như một hồng ân, một ơn thánh, một chân trời mới. Trái tim đang đập của Chúa Phục Sinh được ban cho chúng ta, và đến lượt mình chúng ta được yêu cầu trao ban món quà này như một lực lượng biến đổi, như men của một nhân loại mới. Trong biến cố phục sinh, Chúa Kitô không chỉ lăn đi tảng đá của ngôi mộ, nhưng Ngài còn muốn phá vỡ tất cả các bức tường đang giam cầm chúng ta trong sự bi quan vô sinh của chúng ta, trong tháp ngà được xây dựng một cách cẩn thận của chúng ta nhằm tách chúng ta ra khỏi cuộc sống, trong nhu cầu quyết liệt của của chúng ta về an ninh và trong tham vọng vô bờ bến khiến chúng ta hạ giá nhân phẩm của người khác.

Vị Thượng Tế và các kinh sư, khi thông đồng với người La Mã, đã tin rằng họ có thể nắm trong tay tất cả mọi thứ, và rằng lời chung cuộc đã được nói ra và việc áp dụng lời ấy như thế nào là tùy thuộc vào họ, Thiên Chúa đã bất ngờ can thiệp, làm đảo lộn tất cả các luật lệ và mang đến những khả năng mới. Lại một lần nữa, Thiên Chúa đến gặp chúng ta, để tạo ra và củng cố một thời đại mới, thời đại của lòng thương xót. Đây là lời hứa đã có mặt ngay từ đầu. Đây là sự ngạc nhiên mà Thiên Chúa dành cho những người trung tín với Ngài. Hãy vui lên! Ẩn sâu trong cuộc sống của anh chị em là một hạt giống của sự phục sinh, một trao ban sự sống đã sẵn sàng để được đánh thức.

Điều mà đêm nay mời gọi chúng ta rao giảng là nhịp tim của Chúa Phục Sinh. Chúa Kitô đang sống! Đó là điều đã khiến bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria nhanh chân bước. Đó là điều đã khiến họ vội vàng quay lại loan báo tin vui này (Mt 28: 8). Đó là điều đã khiến họ lột bỏ khăn tang và vẻ thê lương của mình. Họ quay trở lại thành để gặp gỡ những người khác.

Giờ đây, như hai người phụ nữ này, chúng ta đã đến thăm ngôi mộ, tôi xin anh chị em quay trở lại thành. Chúng ta hãy quay bước và hãy thay đổi dáng vẻ trên khuôn mặt chúng ta. Chúng ta hãy quay trở lại với họ để loan báo tin này ở tất cả những nơi mà ngôi mộ dường như có tiếng nói cuối cùng, và ở những nơi mà cái chết dường như là lối thoát duy nhất. Chúng ta hãy quay trở lại để công bố, để chia sẻ, để tiết lộ rằng đúng thật là Chúa đã sống lại! Ngài đang sống và Ngài muốn chúng ta trỗi dậy một lần nữa nơi tất cả những ai mang những khuôn mặt sầu buồn vì hy vọng, ước mơ và nhân phẩm đã bị chôn vùi. Nếu chúng ta không để cho Chúa dẫn chúng ta trên con đường này, thì chúng ta không phải là các Kitô hữu.

Chúng ta hãy đi. Chúng ta hãy để cho mình được ngạc nhiên bởi bình minh mới này và bởi sự mới mẻ chỉ một mình Chúa Kitô mới có thể mang đến cho chúng ta. Cầu xin cho chúng ta để sự dịu dàng và tình yêu của Ngài hướng dẫn các bước chân chúng ta. Cầu xin cho chúng ta để nhịp đập trái tim của Người đẩy nhanh con tim yếu ớt của chúng ta.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *