1. Nhóm nhân quyền cho biết 59 luật sư bị thủ tiêu trong 6 năm qua ở Phi Luật Tân
Ít nhất 133 luật sư đã bị giết ở Phi Luật Tân kể từ những năm 1980 trong các cuộc tấn công liên quan đến công việc của họ, gần một nửa trong số đó đã bị giết trong sáu năm qua trong nhiệm kỳ đầy biến động của cựu Tổng thống Rodrigo Duterte, một nhóm luật sư nổi tiếng cho biết hôm thứ Bảy.
Liên minh Luật sư Nhân dân Quốc gia cũng cho biết, bất chấp những cảnh báo của Tòa án tối cao nước này và các cơ quan giám sát quốc tế, tình trạng quấy rối luật sư và thẩm phán ở Phi Luật Tân vẫn tiếp diễn dưới thời Tổng thống Ferdinand Marcos Jr., người nhậm chức vào tháng 6.
Năm ngoái, Tòa án Tối cao đã lên án trong một lần hiếm hoi trước công chúng về số vụ giết người và đe dọa đối với các luật sư và thẩm phán gia tăng, đồng thời yêu cầu các tòa án cấp dưới, những người thực thi pháp luật và các nhóm luật sư cung cấp thông tin về những vụ hành hung như vậy trong 10 năm qua để có thể có biện pháp giải quyết. Tòa án cấp cao cho biết “không thể cho phép các cuộc tấn công xảy ra trong một xã hội văn minh như xã hội của chúng ta.
Nhóm luật sư đã báo cáo với các thành viên trong một hội nghị hôm thứ Bảy rằng 59 trong số 133 luật sư bị giết ở nước này kể từ năm 1984 đã bị giết dưới thời Duterte.
Hầu hết các vụ giết người vẫn chưa được giải quyết và những kẻ tấn công không được xác định mặc dù các lực lượng nhà nước đã bị đổ lỗi cho hàng chục cuộc tấn công chống lại các luật sư, những người đại diện cho các nhà hoạt động và bảo vệ nhân quyền.
Được thành lập vào năm 2007 với tư cách là một nhóm tư nhân chủ yếu là các luật sư về nhân quyền, kể từ đó, tổ chức này đã mất đi 5 thành viên “trong các vụ tấn công giết người” trong khi 3 thành viên khác sống sót sau các vụ tấn công bạo lực. Một số thành viên khác “phải đối mặt với những cáo buộc vu khống” và bị quấy rối vì làm công việc của họ.
Với sự ra đời của phương tiện truyền thông xã hội, các mối đe dọa đã trở nên phổ biến trên mạng. Các luật sư thành viên trở thành mục tiêu thường xuyên của các cáo buộc sai sự thật “và gắn mác sai trái như những kẻ khủng bố, cộng sản hoặc những kẻ gây mất ổn định”
Những người khác đã bị “gắn thẻ đỏ” – được chính quyền liên kết với quân du kích cộng sản – và trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công thể lý, đặc biệt là trong nhiệm kỳ tổng thống của Duterte.
Edre Olalia, chủ tịch nhóm luật sư, cho biết các cuộc tấn công đã không ngăn được tổ chức của ông bất kể các lạm dụng các quan chức chính phủ và nhân viên quân đội và cảnh sát. Nhóm của ông đã thúc đẩy các lời kêu gọi cải cách tư pháp và đối xử tốt hơn với các nghi phạm nghèo, bao gồm cả việc áp đặt tiền bảo lãnh với giá cả phải chăng.
Source:AP
2. Người dân New York dừng lại để gặp gỡ Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể trên đường phố Manhattan
Chúa Kitô thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể được cất lên cao trong một cuộc rước qua các đường phố của Thành phố New York vào ngày 11 tháng 10 như một phần trong lời kêu gọi của các giám mục Hoa Kỳ về một sự phục hưng Thánh thể và như một lễ kỷ niệm 60 năm Công đồng Vatican II.
Cuộc rước thánh thể được tiến hành trước Thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu trên Đường 51 West và Đại lộ 10. Sau Thánh lễ, đoàn đi bộ 20 phút qua Trung tâm Rockefeller để đến Nhà thờ Thánh Patrick trên Đại lộ số 5.
Đức Hồng Y Timothy Dolan, Tổng Giám mục New York, dẫn đầu giờ chầu Thánh Thể tại nhà thờ chính tòa.
Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ đã phát động Cuộc Phục hưng Thánh Thể Quốc gia kéo dài ba năm vào tháng Sáu để giúp người Công Giáo “đổi mới Giáo hội bằng cách khơi dậy mối quan hệ sống động với Chúa Giêsu Ki-tô trong Bí tích Thánh Thể”, trang web của sáng kiến cho biết. Sự phục hưng tổ chức các sự kiện đã lên kế hoạch để giảng dạy về Thánh Thể và khơi dậy lòng sùng kính Thánh Thể như một phần của đời sống và sứ mệnh Công Giáo.
Viện Napa là một tổ chức Công Giáo hình thành nên những nhà lãnh đạo trong việc truyền giáo giữa những thách thức của xã hội đã tài trợ cho cuộc rước kiệu này.
Source:Catholic News Agency
3. Ý định ban đầu của Đức Gioan 23 đối với Công đồng Vatican II
Biến cố lớn trong tuần qua là Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ thánh Phêrô, nhân lễ kính thánh Giáo Hoàng Gioan 23 và kỷ niệm 60 năm khai mạc Công đồng chung Vatican II.
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Nhân dịp này, ông vừa có bài viết đăng trên tờ First Things có nhan đề “John 23’s Original Intention For Vatican II”, nghĩa là “Ý định ban đầu của Đức Gioan 23 đối với Công đồng Vatican II”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân
Sáu mươi năm sau ngày khai mạc long trọng vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, liệu có còn điều gì mới để nói về Công đồng Vatican II không? Tôi nghĩ là có. Và tôi hy vọng đã nói điều đó trong cuốn “To Sanctify the World: The Vital Legacy of Vatican II” nghĩa là “Để Thánh Hóa Thế Giới: Di Sản Sống Động Của Công Đồng Vatican II”, vừa được xuất bản bởi Basic Books.
Đọc một sự kiện lịch sử trọng đại là một vấn đề về quan điểm cũng như một vấn đề về sự kiện. Một số người trong Giáo Hội ngày nay “đọc” Công đồng như một biến cố có tác dụng “thay đổi tận căn” trong sự hiểu biết về bản thân Công Giáo, mặc dù các nhà thần học có khả năng biết rằng Giáo hội phát triển giáo lý, chứ không phải thay đổi tận căn. Những người khác, “đọc” Công đồng Vatican II qua lăng kính của sự ghê tởm đối với sự tái cấu trúc trong thời hiện đại đối với các giá trị căn bản và thể chế truyền thống, và tuyên bố rằng Công đồng là một sự đầu hàng chủ nghĩa thế tục; những linh hồn cuồng nhiệt hơn trong khuynh hướng này say mê với những thuyết âm mưu có thể thu hút sự chú ý nhưng có rất ít hoặc không có cơ sở trên thực tế. Những người theo chủ nghĩa hoài cổ và những người trẻ Công Giáo vô tội về kiến thức lịch sử tưởng tượng ra một Giáo hội cực kỳ ổn định vào những năm 50 – một Giáo hội chưa từng có – và nghĩ rằng Công đồng là một sai lầm khủng khiếp mà lẽ ra không bao giờ nên xảy ra. Những quan điểm sai lầm này tạo ra một chứng loạn thị giáo hội khiến người ta khó thấy được Công đồng Vatican II đã hoàn thành những gì.
Trong cuốn “Thánh Hóa Thế Giới”, tôi đề xuất một cách suy nghĩ mới mẻ về Công đồng Vatican II, phân tích sự kiện hoành tráng đó qua lăng kính của ý định ban đầu của Đức Giáo Hoàng Gioan 23 đối với Công đồng mà ngài triệu tập. Ý định ban đầu đó được tập trung vào ba văn bản chính.
Trong hiến chế Humanae Salutis hay Ơn Cứu Độ Loài Người, là văn kiện chính thức triệu tập Công đồng Vatican II, Đức Gioan 23 đã viết về cuộc khủng hoảng văn minh của một thế giới hiện đại “tự hào về những cuộc chinh phục khoa học và kỹ thuật” nhưng lại hằn sâu những vết sẹo bởi những nỗ lực chết người nhằm “tổ chức lại” chính nó “bằng cách loại trừ Thiên Chúa.” Ngài tuyên bố điều mà “trật tự trần thế” rất cần là “ánh sáng của Chúa Kitô,” vì ánh sáng ấy tiết lộ cho nhân loại chân lý về bản chất con người, sự cao quý của phẩm giá con người, và sự vĩ đại của số phận nhân loại — là cuộc sống với Thiên Chúa Ba Ngôi.
Sau đó, một tháng trước khi Công đồng khai mạc, Đức Giáo Hoàng đã đưa ra một bài diễn văn quan trọng trên đài phát thanh, trong đó ngài nói rằng “cụm từ, ‘Nước Trời’ diễn tả đầy đủ và chính xác công việc của Công đồng.” Vatican II, giống như hai mươi công đồng đại kết trước đó, là một cuộc đổi mới của nhân loại về “cuộc gặp gỡ với thiên nhan Chúa Giêsu Phục sinh”. Vì lẽ đó, “mục đích của Công Đồng là… truyền giáo.”
Bản văn thứ ba, và quan trọng nhất, làm sáng tỏ ý định ban đầu của Đức Gioan 23 đối với Công đồng Vatican II là bài diễn văn khai mạc của ngài trước Công đồng vào ngày 11 tháng 10 năm 1962, được biết đến với nhan đề Latinh là Gaudet Mater Ecclesia (Niềm vui của Giáo hội Mẹ). Trong bài diễn văn đó, vị giáo hoàng ở tuổi bát tuần đã nhấn mạnh tính chất thiết yếu là tập trung vào Chúa Kitô của Công đồng Vatican II, và nhấn mạnh rằng “Giáo hội… đón nhận tên của mình, ân sủng của mình, và ý nghĩa hoàn toàn của mình từ Đấng Thánh Cứu Chuộc”. Và điều đó sẽ luôn luôn xảy ra, vì “Chúa Giêsu Kitô vẫn đứng ở trung tâm của lịch sử và của cuộc sống.”
Trích dẫn Thánh Vịnh 116, Đức Giáo Hoàng lưu ý rằng “chân lý của Chúa còn mãi mãi” và sau đó nhấn mạnh rằng chân lý đầu tiên mà Giáo hội công bố là chính Chúa. Chắc chắn rằng, Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, tiếp tục công việc của Chúa trong thế giới. Đức Gioan 23 thúc giục tốt nhất nên làm công việc đó bằng cách đề nghị tình bạn với Chúa Kitô như một phương thuốc cho những bối rối và xung đột của thời hiện đại.
Thánh hóa thế giới – “Kitô hóa” thế giới, nếu bạn muốn – do đó, là ý định ban đầu của Đức Gioan 23 đối với Công đồng Vatican II. Công đồng đã không được triệu tập để phát minh lại đạo Công Giáo, vì Giáo hội có một “hiến pháp”, một cơ chế chân lý và một cơ cấu, được ban cho bởi Chúa Kitô. Công đồng cũng không được triệu tập để đón nhận thế giới hiện đại một cách không phê phán: Công đồng được triệu tập để Giáo hội có thể tham gia hiệu quả hơn vào thế giới hiện đại, nhằm biến đổi thế giới hiện đại.
Đọc qua ý định ban đầu của Đức Giáo Hoàng Gioan 23, mười sáu tài liệu của Công đồng Vatican II được đưa vào trọng tâm, và theo thứ tự thích hợp của chúng. Giáo huấn của Công đồng về sự mặc khải của Thiên Chúa gắn chặt mọi thứ khác: Thiên Chúa đã phán vào sự im lặng của thế giới, và qua Lời Chúa, chúng ta biết sự thật về bản thân và số phận của mình. Sau đó là giáo huấn của Công đồng về Giáo hội: Trong Giáo hội, chúng ta tìm thấy khuôn mẫu để thực hiện công cuộc tìm kiếm cộng đồng nhân loại đích thực thường nản lòng của thời hiện đại (đặc biệt là bằng cách học cách thờ phượng Đấng thực sự đáng được tôn thờ). Sau đó,Công Đồng thảo luận các tình trạng khác nhau của đời sống trong Giáo hội xác định trách nhiệm hỗ trợ lẫn nhau của toàn thể dân Chúa, các giáo sĩ và giáo dân, đối với sứ mệnh của Giáo hội.
Chúa Kitô là trung tâm. Thắp sáng trở lại đức tin hướng về Chúa Kitô một cách triệt để nhằm mục đích truyền giáo, chứ không phải để cho ngàn hoa của Giáo hội nở rộ, là ý định ban đầu của Đức Gioan 23 đối với Công đồng Vatican II.
Source:First Things