Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
Năm 2016
NL: ĐỂ CHÚA ĐẾN
ĐC: TRÈO LÊN CAO SƠN
DL: LỜI DÂNG
HL: TRỜI GIEO SƯƠNG XUỐNG
KL: TRỜI CAO
Năm 2019
Thiên Chúa Tối Cao đã xây dựng hai mầu nhiệm Nhập Thể và Nhập Thế của Chúa Giê-su Ki-tô trên nền móng nào?
Trong Thánh Ý nhiệm mầu, Thiên Chúa đã xây dựng hai mầu nhiệm nhập thể và nhập thế trên nền móng một thụ tạo. Một công cuộc xây dựng vô cùng độc đáo, mà Người đã an bài cách khôn ngoan đến hơn cả tuyệt vời. Thực hiện như thế, Thiên Chúa cho con người thấy sự thông sáng thượng đẳng, khôn ngoan tuyệt đối và quyền năng vô biên của Người hơn những gì chúng ta tưởng nghĩ. Đáng được thụ tạo có lý trí tri ân và tôn vinh danh Thiên Chúa xót thương loài người đời đời.
Chúng ta cùng nhau tìm hiểu các con nhé!
Bài đọc một, cho ta hiểu: Để mở đầu cho thời Tân ước, Chúa Thánh Thần quan phòng cách tuyệt hảo cho hoàn tất những gì Người đã tiên báo tự ngàn xưa, qua lời của ngôn sứ I-sai-a. Điểm độc đáo và nhiệm mầu này cho chúng ta hiểu, có ngôn sứ ngỏ “lời tiên báo” của Thiên Chúa, tức là sự việc đã được Thiên Chúa tiền định. Nghĩa là Thiên Chúa đã sắp đặt một chương trình trước khi có thời gian mà Người sẽ thực hiện trong thời gian.
Đúng vậy, theo Sách Thánh, ngôn sứ I-sai-a được Thần Khí linh ứng viết về Mẹ Thiên Chúa cách đơn sơ “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1,23).
“Một trinh nữ sẽ thụ thai” nghe có vẻ đơn giản quá! Mấy ai hiểu rằng Người Trinh Nữ tức Mẹ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn cách hết sức đặc biệt trong nhiệm mầu Thánh Ý. Làm nền móng để Thiên Chúa xây dựng hai mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Đấng Thiên Sai, hầu đến nhân gian cứu độ con người. Một Trinh Nữ được đặc sủng có một không hai trong thế giới thụ tạo, duy nhất trong tất cả phàm nhân.
Thật vậy, Người Trinh Nữ mà ngôn sứ I-sai-a tiên báo đó, được Thiên Chúa ban ơn cho không ngôn ngữ nào tả xiết, chẳng trí tuệ nào hiểu thấu cho cùng. Một siêu phàm đặc cách trên muôn thọ vật, vẻ đẹp của các thiên thần đem so với Mẹ, chỉ là những vì sao le lói bên vầng nguyệt cao sang sáng rực giữa mùa trăng thu huyền thoại. Người Trinh Nữ được nhận hai ơn Đồng Trinh Trọn Đời và Vô Nhiễm Trinh Thai, tô thắm thêm cho thật cao trọng sắc màu đầy ơn phúc. Hai ơn cực kỳ cao quý này, lại xây nền móng cho ơn làm Mẹ Thiên Chúa của Mẹ Ma-ri-a. Biến Mẹ thành một con người có phẩm giá cao quý, có được sự thánh thiện và địa vị quyền uy vượt xa các thiên thần và các thánh. Con người Mẹ mang ánh huy hoàng tuyệt thế làm rạng rỡ vinh quang ngợp sáng cõi thiên cung, trải khắp thời gian – phủ tràn lên vĩnh cửu. Thêm vào đó, các ưu phẩm của Thiên Chúa cũng đem trang điểm cho Trinh Nữ thêm cực kỳ lộng lẫy. Tất cả tôn vinh người Trinh Nữ thật xứng đáng với vai trò và địa vị Mẹ Thiên Chúa, cùng là bậc Mẫu Nghi cả thiên đàng lẫn hạ giới.
Bản thể của Người Trinh Nữ ấy được Thiên Chúa tạo thành trong mật nhiệm siêu vời, trang sức cho vô vàn nhân đức, tột cùng trong sạch và thánh khiết. Đến những thiên thần xinh đẹp nhất, sáng láng nhất đem so với Mẹ cũng thấy mình còn quá vẩn đục. Sự thánh thiện cao vời của Đức Mẹ đạt đến thượng đẳng sủng ân, tột cùng vinh phúc, khiến cho Mẹ Đồng Trinh trong cõi thiên cung diễm lệ vô song, sáng ngời rạng rỡ bên cạnh Thiên Chúa Hằng Hữu. Đức Mẹ còn được Thiên Chúa ban cho quyền năng tối thượng, uy thế chỉ đứng sau mỗi Người. Nhờ đó, hành trình đức tin của Mẹ Ma-ri-a được xây trên nền của ba nhân đức đối thần ở tuyệt đỉnh thánh ân, cộng với bản tính nhân loại được hoàn thiện cách thượng đẳng bởi ơn vô nhiễm, rất mực xứng đáng là Thiên Chúa Thánh Mẫu. Thiên Chúa toàn năng tạo dựng nên Mẹ Ma-ri-a, một cuộc tạo dựng kỳ vĩ, hơn xa cuộc tạo dựng nên hai cõi tự nhiên và siêu nhiên. Bởi vì linh thể của linh hồn và thể xác Trinh Nữ Ma-ri-a được tạo dựng ngay trong Cung Lòng Chúa Cha. Trong siêu nhiên cao vời của bản thể hằng hữu và bất biến, nơi chẳng có không gian và cũng không có thời gian, vượt trên hết cả những quy luật dành cho thọ vật. Trước tôn nhan Thiên Chúa, chỉ có Mẹ Ma-ri-a là thụ tạo xinh đẹp mà Người trân quý, còn ngay cả các quốc gia trên trái đất thì Kinh Thánh đã ghi
“Mọi nước chỉ là không không trước mặt Người,
Người coi chúng là hư vô trống rỗng.” (Is 40,17)
Mẹ Ma-ri-a ơi! Con gọi tiếng “Mẹ” mà nghe lòng ngọt lịm, hồn tim dâng kính sự ngưỡng mộ vô vàn. Sao một tội nhân như con có được người mẹ quyền quý, cao trọng, thánh thiêng và đầy ân sủng như vậy chứ?!!! Con có là gì đâu, một ngọn cỏ héo ven đời đáng bị quăng vào lửa đời đời. Con được gọi Mẹ Thiên Chúa là Mẹ, vinh dự và hạnh phúc quá đỗi cho con! Cảm tạ Mẹ đã nhận con làm con của Mẹ, cho con được sớt chia nỗi niềm đau trong tim Mẹ, cùng với Mẹ an ủi Đấng cứu độ chúng con. Một lòng hồ hởi tri ân, con vui mừng hạnh phúc thân thưa “Cảm tạ Mẹ Ma-ri-a yêu kính của con!”
Từ lời “xin vâng” của Mẹ, trên chân lý và sủng ân nền tảng là chính Mẹ, Thiên Chúa đã dựng xây lên mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Con Thiên Chúa và cũng là con của Mẹ, để nhân loại được hưởng nhờ. Đúng vậy, Lời Chân Lý cho chúng ta biết Trinh Nữ Ma-ri-a đã sinh ra “con trẻ tên là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”, nên trở thành Mẹ Thiên Chúa. Người Trinh Nữ là thụ tạo của Thiên Chúa, giờ đây lại cưu mang và sinh ra (nhiệm xuất) chính Đấng tạo dựng nên mình. Một cuộc đổi trao thật mầu nhiệm, mang vẻ đẹp thần thiêng siêu thượng, cao khiết và rất đỗi huy hoàng của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Nếu không có Mẹ Ma-ri-a – một con người được tạo dựng linh thể trong bản thể bất biến và nguồn sống của Thiên Chúa cùng với vô số ơn cực kỳ cao trọng. Ngôi Hai Thiên Chúa – Đấng Cực Thánh, thanh sạch và thánh thiêng đến mức không bản thể phàm nhân hữu hạn nào cưu mang nổi bản thể vô biên của Người. Nói chi đến việc Người ngự vào trong cung lòng hư hèn của một phàm nhân tội lỗi để nhập thế, đây là điều không thể. Đồng nghĩa Người sẽ không được sinh ra trong thế gian, mầu nhiệm cứu độ nhân loại của Đức Ki-tô Giê-su do Chúa Cha an bài cũng không thể hình thành.
Vào bài Phúc Âm, thánh sử Mát-thêu tường thuật nỗi niềm của thánh Giu-se, vị thánh thật khiêm nhường. Thánh cả Giu-se đã được Thiên Chúa tuyển chọn và phú bẩm cho người tất cả những ơn cần thiết, hầu có thể kết bạn trăm năm với Mẹ Ma-ri-a mà không bị sai lỗi bất cứ điều gì. Đặc biệt là về đức khiết trinh của Mẹ và của chính thánh cả Giu-se.
Nhân đức và sự công chính của thánh Giu-se được bộc lộ cách tuyệt hảo trong việc Thánh Nhân xử trí lúc nhận ra Đức Thánh Trinh Nữ mang thai Chúa Cứu Thế. Câu Kinh ngắn gọn nói về vị thánh rất cao cả trên thiên đàng “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.” Lời “Ông Giu-se, chồng bà” nói lên tính hợp pháp cuộc hôn nhân của hai vị theo Lề Luật, và vị thế cao trọng đến độc tôn của người chồng trong địa vị gia đình theo não trạng của người Do Thái thời bấy giờ. Một người chồng trong ý nghĩa như thế, thấy vị hôn thê mang thai “của ai đó” mà “không muốn tố giác” và “mới định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Trong lúc với Lề Luật việc tố giác Mẹ Ma-ri-a của thánh Giu-se sẽ dẫn tới hậu quả, Đức Ma-ri-a “sẽ bị ném đá cho tới chết”. Nói lên tâm ý vừa thiện lương, vừa cao thượng, vừa rất tin tưởng cùng tôn trọng vị hôn thê của Thánh Nhân. Thánh Giu-se suy nghĩ cho Đức Mẹ, xem Mẹ là một người nữ công chính, dù trước mắt Mẹ Ma-ri-a “đang mang thai”, tức ở trong một hoàn cảnh éo le mà thánh Giu-se không thể hiểu gì cả. Dù vậy, thánh cả Giu-se vẫn nghĩ Mẹ là một người nữ đức hạnh, với niềm tin này về Mẹ thánh Giu-se không những xứng là một người Bạn Đời tuyệt hảo của Mẹ, mà còn xứng là một vị thánh thật là công chính trong chương trình của Thiên Chúa.
Như lời Phúc Âm kể, sau khi được sứ thần giải thích cho biết sự thật, thánh Giu-se liền thực hiện “ Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.” Điểm này cho ta thấy bên cạnh Mẹ Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa, còn có một điều tất yếu phải có để hình thành nên mầu nhiệm nhập thế của Chúa Ngôi Hai. Đó là vai trò thật tích cực của thánh Giu-se trong nhiệm cục cứu độ của Chúa Con.
Chúng con cảm tạ sự an bài nhiệm mầu của Thánh Tâm Thương Xót Chúa Ba Ngôi về thánh cả Giu-se. Cảm tạ Chúa đã ban cho thánh Giu-se những đặc ân cao trọng, để nhờ người chúng con hôm nay hoan hỷ mừng mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa Con.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Thiên Chúa ở cùng
1. Ghi nhớ:
“Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là:Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta. ” (Mt 1, 23).
2. Suy niệm:
Đức Mẹ Maria và thánh Cả Giuse đã nghe theo lời chỉ bảo của sứ thần Chúa thưa lên lời xin vâng, các Ngài đã cùng cộng tác vào chương trình Cứu Độ Của Thiên Chúa, để Ngôi Hai nhập thể, đến ở cùng loài người được trở thành hiện thực. Theo gương các Ngài, đã có biết bao người nối tiếp, dùng cả cuộc đời mình nói lên lời xin vâng, để mang Chúa đến ở cùng nhân loại.
Cuộc đời của Đúc cha Jaen Cassaigne (Sanh) một người Pháp là một minh chứng điển hình. Ngài là con một trong gia đình, nhưng vâng nghe theo tiếng Chúa gọi từ bỏ tất cả, hiến thân theo Chúa vào dòng Thừa Sai. Sau khi chiu chức linh mục Ngài được chỉ định đến Việt nam để phục vụ. Thương xót trước cuộc sống quá thống khổ của những bệnh nhân cùi, những con người mà theo lời Ngài nói: “Họ thấy thân thể mình hằng ngày đau đớn, đang thối rữa và rụng dần cho đến lúc chết!”.
Thế nên Đức cha đẫ lập làng cùi tại Di linh để đón những người bệnh bị gia đình và xã hội loại trừ bỏ rơi, sống lang thang lây lất và sẽ chết cách cô đơn đói khát và lạnh lẽo, (có khi còn bị thú dữ ăn thịt) trong rừng vắng về để mà chăm sóc thuốc men. Và vì tận tụy băng bó các vết thương cho họ, nên Đức cha đã bị lây bệnh cùi và nhiều bệnh khác như: sốt rét, lao phổi và lao xương.
Ngài đã bị những cơn đau đớn do bệnh tật hành hạ, nhưng đã có Chúa ở cùng nên Ngài vẫn lạc quan vui tươi cho đến khi lìa đời. Đức cha có một ước nguyện là: Được ở cùng những người con cái cùi hủi của mình lúc còn sống và ngay cả khi đã ly trần! Và chiều theo nguyện vọng đó, khi Đức cha qua đời (năm 1973) người ta đã để Ngài được an nghỉ giữa các con cái mình tại làng cùi Di linh.
Cảm kích và ngưỡng mộ trước tấm lòng yêu thương của Đức cha đối với những người bệnh phong, chính phủ Pháp và Chính quyền Việt nam lúc đó đã ban tặng huân chương cho Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Matthêu kể lại sự việc thánh Giuse chưa hiểu ý của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ, nên Ngài đã âm thầm toan tính làm theo ý riêng là từ bỏ Đức Mẹ cách kín đáo. Nhưng sau khi được sứ thần Chúa báo mộng giải thích thì Ngài đã xin vâng và mau mắn thực hiện lời sứ thần dạy là đón Mẹ Đấng Cứu Thế về nhà mình.
Và như vậy chương trình Thiên Chúa đến ở cùng loài người được thực hiện. Có Chúa ở cùng là điều vô cùng hạnh phúc, lời chào của thiên thần Gap-ri-en đã diễn tả niềm hạnh phúc đó: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”. Có lẽ những lời mà con người có thể dùng mà chúc mừng nhau không có câu chúc nào đẹp bằng: “Xin chúc cho ông, bà, anh, chị em… được Thiên Chúa ở cùng”. Trong thánh lễ Misa, linh mục chủ tế nhiều lần chào chúc: “Chúa ở cùng anh chị em”. Cộng đoàn cũng chúc lại: ‘Và ở cùng cha” (bốn lần).
Nhưng muốn có Thiên Chúa ở cùng thì chúng ta phải từ bỏ ý riêng của mình và thưa lên cùng Ngài hai tiếng xin vâng. Đó là thực thi ý Chúa sống đời bác ái yêu thương, trung thực, khiêm tốn. . . Thực hiện được như vậy thì đồng thời chúng ta cũng mang Chúa đến để ở cùng anh chị em chung quanh của mình
3. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Cứu Thế, Chúa đã đến để cứu chuộc chúng con và còn ở lại với chúng con mọi ngày cho tới tận thế. Xin cho chúng con biết trân trọng tình thương bao la của Ngài mà để Ngài luôn ngự trị trong tâm hồn mình bằng việc phải giữ gìn linh hồn sạch sẽ thơm tho, để đón Chúa vào lòng mỗi ngày khi tham dự thánh lễ. Vì chỉ khi có Chúa ở cùng thì chúng con mới có hạnh phúc đích thực. Amen.
4. Sống lời Chúa:
Tôi luôn giữ gìn thân xác tâm hồn trong sạch, hầu xứng đáng là Đền thờ cho Chúa ngự tri.
Đaminh Trần Văn Chính
***
4. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
5. Dòng tộc – Radio Veritas Asia
6. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
***
1. Trời can thiệp
Maria biết rằng mình đang mang thai khi chưa về chung sống với chồng sẽ đem lại nhiều hậu quả không hay: Cha mẹ sẽ buồn, người chồng sẽ nghi ngờ, thiên hạ sẽ dị nghị, bản thân sẽ bị chê cười, nhưng Maria luôn tin vào Chúa và mọi sự đều do sự an bài của Ngài, vì thế Maria luôn bình tĩnh, âm thầm để mặc cho Chúa tự do hành động.
Còn Giuse cũng vậy, thấy người bạn của mình như thế, Giuse không vội vã tức giận, hành động mù quáng và buộc tội gắt gao. Vì không được Maria giải thích, Giuse không hiểu ra làm sao, mặc dù thế Giuse vẫn trao phó mọi sự trong tay Chúa, còn mình thì sẽ trở lại cuộc sống độc thân cao đẹp thuở trước. Nhưng Chúa đã can thiệp, khiến cho Giuse và Maria đều hài lòng, trở lại đời sống vợ chồng và không còn thắc mắc chi nữa.
Nhìn vào lịch sử Giáo Hội chúng ta thấy, nhiều khi Giáo Hội cũng lâm vào những hoàn cảnh đen tối, những trường hợp khó khăn, nhưng rồi bàn tay Chúa cũng đã can thiệp, để Giáo Hội thoát khỏi những hiểm nguy mà phát triển, mà vươn lên. Tôi xin đưa ra những thí dụ điển hình.
Giáo Hội thuở ban đầu rất cần người lãnh đạo và Phêrô đã là người lãnh đạo, đã là vị Giáo hoàng đầu tiên, thế nhưng ngay từ khi bắt tay vào sứ mạng, Phêrô đã bị gông cùm, xiềng xích và tù đày. Ai cũng nghĩ rằng, làm sao Phêrô có thể thoát nổi. Nhưng rồi Chúa đã can thiệp, sai thiên thần xuống tháo rời xiềng xích, dẫn qua đám lính canh và Phêrô được giải thoát.
Tiếp đến là những thế kỷ đầu, Giáo Hội đã phải trải qua những cơn bách hại khủng khiếp dưới thời những bạo vương Lamã. Ai cũng tưởng con thuyền Giáo Hội sẽ bị vùi dập dưới những trận cuồng phong dữ dội nhất của lịch sử. Nhưng rồi kết cuộc ra sao? Hoàng đế Constantinople đã hoán cải, bóng cờ thánh giá đã tung bay và Giáo Hội bước vào một thời đại hoàng kim. Còn những bạo vương Lamã đã phải rơi vào một số kiếp bẽ bàng: Valerio thì thua trận, bị bắt làm tù binh và bị nhục nhã cho đến chết. Diocletiano thì bị bắt giam và bị nhịn đói cho chết. Maxilino thì thắt cổ tự tử, còn Galerio thì bị chứng lở lói đau đớn, không một vị lang y nào chữa nổi.
Qua những chứng tích kể trên, chúng ta hãy thêm tin tưởng vào quyền năng của Chúa, như tục ngữ ca dao vốn diễn tả: Thiên bất dung gian, ác giả ác báo, Trời xanh con mắt là gương, người ghét ít ngó người thương ngó hoài.
Hãy tin tưởng và phó thác cho Chúa vì mọi sự đều do sự an bài đầy quyền năng và tình thương của Chúa. [Mục Lục]
2. Emmanuel
Đối với người Do Thái, thì có con là một sự chúc lành của Thiên Chúa, còn son sẻ là dấu của kẻ bị Thiên Chúa bỏ rơi. Hơn thế nữa, son sẻ còn là một tình trạng tương đương với sự chết chóc. Thực vậy, chết là hết sống. Son sẻ là hết dòng sự sống. Tên tuổi sẽ bị dứt khỏi trần gian.
Quan niệm về đời sau của người Do Thái lúc bấy giờ còn rất mù mờ. Mọi hy vọng của họ là cuộc sống trần gian. Phần thưởng chính là dòng dõi nối tiếp mãi trên mặt đất này. Bởi đó việc tiếp tục có dòng dõi sau tai ương khốn quẫn đã được diễn tả bằng sức sống lại.
Thế nhưng, như lời Kinh Thánh đã xác quyết về Thiên Chúa: Tư tưởng của Ta không giống với tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không giống với đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng và đường nẻo của ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo các ngươi bấy nhiêu.
Chính vì thế, Thiên Chúa thường ghé mắt nhìn đến sự yếu hèn và bất lực, bởi đó mới nảy sinh những điều đáng ngạc nhiên trong hành động của Thiên Chúa. Ngài đã tỏ lộ quyền năng của Ngài trong sự bất lực. Đúng thế, sự đồng trinh của Đức Mẹ cũng là một cái chết, nhưng cái chết đó đã được Thánh Thần Chúa đem lại một sự sống mới. Đó cũng là điều diễn ra nơi thập giá với cái chết của Chúa Giêsu. Bởi vì sự phục sinh và sự sống mới, một sự sống dồi dào đã nẩy sinh từ cái chết đau thương của Ngài trên thập giá.
Đã từ lâu, Thánh Thần vẫn được giới thiệu như là nguyên nhân của sự sống. Khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, thì thần khí đã bay lượn trên nước và làm cho mọi sự được thành hình. Adong được nặn từ bùn đất, nhưng nhờ Thần Khí của Thiên Chúa mà có sự sống. Thần Khí cũng trở thành sự sống của Adong mới. Một trinh nữ thụ thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần đã nói lên sự can thiệp của Thiên Chúa.
Phụng vụ ngày Chúa nhật hôm nay cho chúng ta cải cảm tưởng rằng Chúa Giêsu đang đi vào lịch sử nhân loại. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài ở giữa chúng ta để cứu chuộc, để giải phóng, để dẫn chúng ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Giáo Hội hôm nay chính là sự nối tiếp sự hiện diện hữu hình của Chúa giữa con người trong thế giới, một sự hiện diện cứu chuộc và giải thoát không phải chỉ về mặt thiêng liêng bằng cách trao ban các bí tích, mà hơn nữa một sự giải thoát toàn diện, khỏi tất cả những gì cản trở sự phát triển của con người và xã hội bằng sự dấn thân và liên đới với mọi nỗ lực xây dựng tình thương và công lý. [Mục Lục]
3. Chúa ở cùng chúng ta
Tại Việt Nam và nhất là tại Trung Hoa, người ta có tục tảo hôn, cha mẹ định liệu việc vợ chồng cho con cái từ khi chúng còn nhỏ. Trong tác phẩm “Vượt khỏi Đông và Tây”, tác giả John Wu đã mô tả như sau: “Trước đám cưới, vợ tôi và tôi chả bao giờ thấy mặt nhau. Cả hai chúng tôi đều được giáo dục theo đường lối cổ xưa của người Trung Hoa. Bố mẹ đã đính hôn chúng tôi với nhau khi chúng tôi mới lên sáu. Đến năm mười mấy tuổi tôi mới biết được nhà nàng ở đâu. Tôi khao khát được thoáng nhìn nàng thử xem, nên thỉnh thoảng lúc tan học về, tôi cố tình đi ngang qua nhà nàng, thế nhưng chả bao giờ tôi được may mắn nhìn thấy nàng”.
Từ đoạn văn trên chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được mối liên hệ giữa thánh Giuse và Mẹ Maria trước lúc Chúa chào đời. Theo tập tục Do Thái, mỗi cuộc hôn nhân thường trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất là đính hôn. Việc này thường do cha mẹ hay người mai mối thực hiện, còn đôi bạn trẻ thường chẳng hề biết trước về cuộc đính hôn này.
Giai đoạn thứ hai là hứa hôn. Giai đoạn này thường kéo dài một năm để đôi bạn có dịp quen biết nhau… Khi đã hứa hôn, thì mọi người đều xem đôi bạn như là vợ chồng, mặc dù họ chưa thực sự chung sống với nhau. Lễ hứa hôn này được tổ chức rất long trọng, nên chỉ có sự ly dị mới xoá bỏ được nó.
Giai đoạn thứ ba là kết hôn theo đúng nghĩa. Thánh Giuse hay tin Mẹ Maria có thai khi hai người ở trong giai đoạn thứ hai, tức là đã hứa hôn với nhau.
Tuy nhiên tôi muốn chia sẻ về một điểm khác quan trọng hơn, đó là việc Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thánh Matthêu đã khởi đầu Phúc Âm bằng việc trích dẫn lời tiên tri Isaia: Một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên Con Trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đồng thời thánh Matthêu cũng đã kết thúc Phúc Âm bằng lời hứa của Chúa Giêsu: Này đây Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Vậy thì Thiên Chúa, Ngài đã ở cùng chúng ta như thế nào?
Trước hết, Ngài hiện diện giữa chúng ta qua việc sáng tạo, và đặc biệt qua quyền năng nâng đỡ của Ngài, bởi vì Ngài không phải chỉ tạo dựng mà còn gìn giữ nó được tồn tại trong một trật tự lạ lùng cho đến ngày hôm nay.
Tiếp đến, Ngài còn hiện diện giữa chúng ta qua lời Ngài trong Kinh Thánh. Chúng ta có thể sánh ví Kinh Thánh như là một bức thư của người cha gởi cho con cái mình. Người cha biểu lộ ý nghĩ của mình cho con cái trong bức thư như thế nào thì Thiên Chúa cũng mạc khải ý nghĩ của Ngài cho chúng ta trong Kinh Thánh như vậy.
Cuối cùng Ngài hiện diện giữa chúng ta một cách đặc biệt qua Đức Kitô, Con Một của Ngài. Cùng với việc giáng sinh của Đức Kitô, Thiên Chúa đã bước thêm một bước khổng lồ để đến và cư ngụ giữa chúng ta. Đồng thời nhờ đó chúng ta có thể nhìn ngắm, lắng nghe chính Thiên Chúa. Hay nói một cách khác với mầu nhiệm Giáng Sinh, Thiên Chúa hiện diện giữa chúng ta qua một cách cụ thể và sống động qua một con người bằng máu thịt của Đức Kitô. [Mục Lục]
4. Ơn Cứu Độ – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Đốt lên cây nến thứ tư của Vòng Hoa, chúng ta sắp kết thúc 4 tuần Mùa Vọng. Theo truyền thống lâu đời từ Bắc Âu, trong khí lạnh của mùa Đông, người ta đã đốt lên những cây nến trên những cành cây xanh uốn vòng. Khung vòng tròn và cành cây xanh là biểu tượng của sự sống tiếp diễn. Người ta đã đốt nến trong những đêm tối nhất trong năm, khi mọi người trông chờ những ngày dài hơn của mùa Xuân sẽ xuất hiện. Theo truyền thống, trên Vòng Hoa Mùa Vọng bao gồm có 4 cây nến. Ba cây nến mầu tím và một cây màu hồng. Bốn cây nến của Vòng Hoa biểu tượng ánh sáng dần dần được dọi chiếu vào thế gian. Ba cây nến mầu tím là biểu tượng của hy vọng, bình an và tình yêu. Ba cây nến tím này được đốt vào các Chúa Nhật thứ nhất, thứ nhì và thứ bốn của Mùa Vọng. Cây nến mầu hồng biểu trưng sự vui mừng được đốt vào Chúa Nhật thứ ba. Đôi khi có cây nến thứ năm mầu trắng được đặt ở giữa Vòng Hoa. Cây nến trắng này được đốt lên vào Lễ Giáng Sinh. Mầu trắng biểu trưng sự tinh trắng như các thiên thần và ngày sinh nhật của Chúa Giêsu. Giáo Hội Công Giáo thường dùng các mầu đặc biệt theo từng mùa, như Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh, Mùa Quanh Năm, Mùa Chay và Mùa Phục Sinh để tôn vinh danh Chúa Giêsu.
Tiên tri Isaia đã xuất hiện rao giảng tại Giêrusalem khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên. Trong sự mong đời mịt mù giữa bao thử thách, Isaia đã loan báo một tin vui cho dòng dõi Dân Do-thái: Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu: Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Is 7, 14). Đọc lịch sử ơn Cứu Độ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa đã thực hiện công trình cứu chuộc qua cả ngàn năm. Một diễn tiến rất chậm rãi qua biết bao nhiêu thế hệ và trải qua nhiều biến cố. Thiên Chúa đã sai tiên tri loan tin mừng cứu độ qua một nhóm nhỏ trung tín còn sót lại. Biết rằng xưa kia, người ta không có in ấn sách vở, truyền thanh, truyền hình hay một phương tiện kỹ thuật văn minh nào để phổ biến. Các sứ điệp chỉ được truyền miệng và ghi chép vào các cuốn sách (papyrus) lưu giữ qua nhiều đời.
Dấu chỉ: Một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai là một sứ điệp cao trọng. Sứ điệp này đã từ từ khai mở về ý nghĩa mầu nhiệm Con Chúa giáng trần. Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa với tổ tiên loài người sau khi đã phạm lỗi. Thiên Chúa phán với con rắn là ma quỉ: Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi và mi sẽ cắn gót nó (Stk 3, 15). Chúng ta là hậu sinh được học biết nhiều về qúa trình lịch sử bốn, năm ngàn năm. Đã có biết bao dòng dõi và thế hệ con người liên đới trong công cuộc cứu rỗi này, đặc biệt là Dân Do-thái, dân được tuyển chọn. Dân sống giữa một thế giới đa dân tộc từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ khắp các vùng văn hóa. Đọc lịch sử tôn giáo, chúng ta nhận biết có rất nhiều các tôn giáo cổ đã xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ này như các đạo Hindu, Balamôn, Do-thái Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo và vô số đạo thờ các Thần ngoại. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 4, 200 tôn giáo lớn nhỏ khác nhau.
Trong cuộc lữ hành của người Do-thái, họ đã va chạm với rất nhiều nhóm người với truyền thống tôn giáo và văn hóa khác nhau. Sứ điệp loan báo về Đấng Cứu Thế cũng dễ bị lu mờ qua thời gian năm tháng. Chỉ có một dòng dõi rất nhỏ đã cưu mang sứ mệnh đón chờ con Chúa giáng trần. Thánh Matthêô đã ghi lại gia phả Đức Kitô, con cháu của Đavít và con cháu tổ phụ Abraham. Matthêo tóm gọn lich sử: từ tổ phụ Abraham đến vua Đavít là mười bốn đời; từ vua Đavít dến thời lưu đầy ở Babylon là mười bốn đời và từ thời lưu đầy ở Babylon đến Đức Kitô cũng là mười bốn đời (Mt 1, 17). Chúng ta suy tư về sứ điệp tin mừng đã được thực hiện nơi dòng dõi Dân tộc đã được Thiên Chúa tuyển chọn.
Trong thơ gởi cho tín hữu thành Rôma, thánh Phaolô đã viết: Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người (Rm 1, 2). Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa thực hiện ý định nhiệm mầu của Người để cứu độ trần gian. Đây là biến cố nhiệm mầu duy nhất xảy ra trong thời gian và không gian. Sự linh thiêng kết hợp giữa thần thánh và con người. Ngôi Lời Nhập Thể trong cung lòng của Đức Trinh Nữ: Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18). Sự kiện cao siêu nhiệm mầu vượt trên mọi trí hiểu của loài người. Cho dù đã được các tiên tri loan báo, được các thế hệ truyền rao chuẩn bị cả ngàn năm nhưng cho tới ngày hôm nay, nhiều người vẫn chưa thể chấp nhận sự kiện lạ lùng này. Họ không thể tin và chấp nhận Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần làm người như chúng ta.
Nhiều người không tin vào Đấng Cứu Thế giáng trần nhưng họ vui mừng vì dịp Giáng Sinh sắp đến. Cứ mùa Giáng Sinh về, chúng ta thấy phố xá rộn rã, thiệp chúc mừng trao đổi, chuẩn bị qùa cáp, ánh sáng nhấp nháy mọi nơi và chăng hoa kết đèn mọi góc phố. Cho dù con người có niềm tin hay không, đều mừng vui và hớn hở. Ít ra đây cũng là một tin vui cho mọi người trần thế. Một cơ hội tốt để mọi người giao lưu trao đổi tâm tình. Chúa Giêsu vẫn âm thầm đi vào lòng người qua nhiều cách thế. Có biết bao nhiêu nhà hảo tâm chia sẻ món qùa nho nhỏ cho những người kém may mắn. Ánh sáng của niềm hy vọng chiếu tỏa cùng khắp khiến lòng người nao nức mừng vui. Một điều rất lạ là ai cũng muốn sự bình an, giải thoát và được hưởng nhờ ơn cứu độ nhưng lại không muốn chấp nhận Đấng ban ơn cứu độ.
Chúa Giáng Sinh mang lại niềm vui lớn cho nhân loại vì Thiên Chúa sẽ ở cùng chúng ta. Thánh Matthêo diễn tả: Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1, 22-23). Chúa sẽ đến với từng tâm hồn. Chúng ta có can đảm mở rộng tâm hồn đón Chúa hay không? Chúa có thể sẽ đến với chúng ta qua hình dáng của một trẻ thơ bọc trong khăn hay một trẻ mồ côi đầu đường xó chợ và không nơi nương tựa. Chúa sẽ đến như một người vô gia cư không có nơi gối đầu hoặc một người bị đánh dầm bập tả tơi ngoài phố chợ. Vì khi đón nhận một người cùng khổ là chúng ta đang đón nhận chính Chúa trong đời sống của chúng ta.
Suy tới đây, dừng lại đôi phút để suy nghĩ và cầu nguyện xem chúng ta đang chọn thái độ nào. Đôi khi chúng ta chỉ mong muốn có một lễ Giáng Sinh hoành tráng bên ngoài, một hang đá tuyệt đẹp và một món qùa đáng giá. Chúng ta tìm mua tượng Chúa Hài Nhi thật dễ thương đặt nằm trong máng cỏ với các mục đồng và súc vật bao quanh. Nếu chúng ta chỉ chú ý chuẩn bị những hình thức tổ chức trang trí bên ngoài mà không dọn tâm hồn thật sự để đón Chúa, thì chúng ta cũng đâu khác gì những người ngoại không tin vào Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết mở rộng trái tim yêu thương để đón Chúa. Xin Chúa ở lại với chúng con và ban ơn cứu độ. Xin tẩy sạch tâm hồn chúng con khỏi những sự hoen ố, ích kỷ, tham lam và thơ ơ nguội lạnh. Xin Chúa sưởi ấm tâm hồn với ngọn lửa yêu thương để chúng con biết chia sẻ cuộc sống với tha nhân. [Mục Lục
5. Dòng tộc – Radio Veritas Asia
(Trích từ ‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – RVA)
Có một vị vua kia đã già cả nhưng lại không có con nối dõi tông đường, nên nhà vua đã ra lệnh mời các chàng trai trẻ đến cung vua để chọn một người làm dưỡng tử mà sau này sẽ lên ngôi cai trị. Điều kiện thật đơn giản, chỉ cần người đó biết mến Chúa và yêu mến anh em hết lòng.
Từ một vùng quê xa xôi, một chàng thanh niên cũng biết đến việc chọn này của nhà vua. Chàng muốn đến cung vua ứng thi nhưng khốn nỗi chàng chẳng có một bộ áo quàn nào xứng cho buổi triều yết. Sau một thời gian dành dụm, cuối cùng chàng củng cố gắng sắm cho mình một bộ đồ tạm xứng với lối triều yết.
Đến gần hoàng cung, chàng gặp một ông lão xá lạy bên vệ đường trong bộ quần áo rách rưới. Ông lão ngửa tay xin bộ đồ chàng đang mặc.
Động lòng thương, chẳng chút ngần ngừ chàng đổi cho ông già bộ quần áo của mình.
Khi đến gần cửa thành, lòng chàng lại hoang mang chẳng biết lính canh có cho chàng vào với quần áo tả tơi như vậy không. May mắn thay chẳng một ai hạch hỏi về quần áo của chàng và khi đến trước ngai rồng chàng càng ngạc nhiên hơn nữa, vị vua đang ngồi trên ngai chính là ông già ăn xin đã được chàng giúp cho bộ quần áo. Chàng không tin vào mắt mình. Nhưng kìa, vua đang mỉm cười nhìn chàng: “Hỡi con yêu dấu, hãy đến đây, ta đang chờ con”
Chàng thanh niên đã được chọn làm dưỡng tử và làm thừa kế nhờ tấm lòng quảng đại bao dung của anh. Hôm nay thánh sử Matthêu cũng tường thuận việc Vua trời đất chọn lựa một người Cha cho mình trước khi Ngài đến ở với con người.
Xết về nguồn gốc, thánh Giuse đích thực thuộc dòng dõi David, hậu duệ của vua David. Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra trong dòng dõi này để ứng nghiệm lời các tiên tri đã báo trước: “Này đây đã tới ngày Ta gây cho David một mầm giống công chính, mầu giống này sẽ làm Vua thống trị, sẽ là người khôn ngoan thực hiện công lý và công bình trên đất nước”. Hoặc ở một chỗ khác: “Chúa sẽ lập cho David một nhà. Nhà của Người và triều đại Người sẽ vững bền mãi mãi”.
Tuy nhiên, hậu duệ của David không phải chỉ có một mình Giuse nhưng đã có hàng trăm hàng ngàn hậu duệ David. Đồng thời với Giuse, dù với hậu duệ ấy Giuse đã được chọn làm dưỡng tử của Con Thiên Chúa, vì Ngài quảng đại và bao dung.
Một gia đình sống đời vợ chồng ai lại chẳng mơ ước đến chuyện chung chăn gối, thế mà Giuse lại ký kết hôn ước với một người đã thề hứa suốt đời không biết đến người Nam. Và rồi người Nữ mà Ngài hết lòng yêu mến và quí trọng ấy bỗng dưng lại mang thai. Nàng là người đức hạnh đoan trang sao lại bụng mang dạ chửa cách lén lút?
Theo luật Do thái, Giuse có thể tố cáo người Nữ ấy trước Hội Trường Do Thái để nàng bị ném đá vì tội ngoại tình. Nhưng do tấm lòng bao dung ngãi đã không làm thế. Ngài chỉ muốn âm thầm rút lui, không cãi vã to tiếng. Ngài tôn trọng nàng, ngái muốn để mặc cho nàng tự phận xử.
Đang khi định tâm như vậy thì Thiên Chúa đã ra tay can thiệp, vì ngần ấy diễn tiến cũng đủ để cho Giuse làm dưỡng tử của Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đả trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa thì khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì.
Như chúng ta đã thấy buổi lễ đặt tên cho Gioan Tẩy Giả cũng phải do người cha đặt tên. Ở đây cũng vậy, Giuse được Thiên Chúa ra tay can thiệp để lòng yêu thương nơi Ngài không bị rạn nứt, sứt mẻ mà từ đây lòng yêu thương đã có dịp bộc lộ trọn vẹn. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết òng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người con đang cưu mang.
Thật thế, cuộc đời của mỗi người cũng có lúc căng thẳng, phân vân, đau khổ vì phải chọn lựa quyết định, nhưng Thiên Chúa Ngài đã thông suốt tất cả những giai cấp này thế nhưng Ngài vẫn im lặng chờ đợi. Ngài chờ phản ứng nơi mổi người chúng ta do yêu thương hay dận ghét, nếu chúng ta xử sự với tấm lòng yêu thương quảng đại thì chắc chắn Ngài sẽ kịp thời trợ giúp và chẳng bao giờ Ngài để cho lòng yêu thương bị rạn nứt sứt mẻ. Trong mùa đón chờ vị vua tình yêu giáng thế, ước mong rằng mỗi người trong chúng ta sẽ luôn dùng thái độ bao dung quảng đại làm kim chỉ nam hứng dẫn các suy tưởng và hành động của mỗi người chúng ta.[Mục Lục]
6. Emmanuel, Thiên Chúa Ở Cùng Chúng Ta
Anh chị em thân mến.
Thời gian gần đây có một bộ phim đã đi vào trong lòng người, đó là phim Hoàng Châu Công Chúa. Khi xem qua bộ phim, mọi người đều có cảm tình với nhân vật chính, một người có lòng nhân ái, nhưng vì thẳng thắng nên thường gặp những đều trắc trở. Mọi người càng thỏa mản hơn khi những trở ngại đó dần dần cũng bị phá vở và an bình lại đến. Đó là vì cô công chúa nhờ có bùa hộ mệnh. Vị thần hộ mệnh rất đắc lực, ngài là một vị vua công minh, một người cha nhân hậu. Khi nào có Ngài ở bên cạnh thì vị công chúa và những người thân không còn phải lo sợ gì hết. Chỉ khi vắng bóng ngài, mọi thế lực thù nghịch mới tìm cách hảm hại. Nhưng tất cả đều được hóa giải khi có ngài ở cùng, khi đó những nguy hiểm, những khổ đau không còn tồn tại được nữa.
Giuse lo sợ vì chưa hiểu được Thánh Ý Chúa. Ông đã có những toan tính riêng tư của mình, những toan tính của sự sợ hãi, những toan tính của con người không có Thiên Chúa Ở Cùng. Ông lo âu bối rối không biết giải quyết như thế nào. Nhưng khi ông tỉnh dậy, ông hành động không do dự nữa, hành động cách can đảm, hành động trong sự bình an và vui mừng. Vì ông đã được biết Thánh Ý Chúa, ông biết có Thiên Chúa Ở Cùng ông, ông biết ông không còn hoạt động cách cô đơn nữa. Khi đó mọi thắc mắc đã được tháo cởi, mọi lo âu đã được cất đi, mọi nguy hiểm mà ông nghĩ tới không còn tồn tại nữa. Ông chỉ còn biết vâng phục trong vui mừng, trong hân hoan, vì Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Trong cuộc sống đời người không thiếu những lo âu sợ hãi. Có những điều do hoàn cảnh khách quan đưa đến, cũng có những cái do chủ quan từ bên trong con người. Nếu xét từ nguyên nhân, thì tất cả mọi lo âu sợ hãi trong đời sống đều phát xuất từ cảm giác cô đơn, từ lòng ích kỷ, từ những việc chỉ nghĩ đến bản thân mà quên đi người khác. Quan trọng hơn, đó là vì không thấy Chúa hiện diện ở trong con người của mình, cùng hành động với mình, mà chỉ hành động cách đơn lẻ.
Mỗi người trong chúng ta cũng đã từng trải qua cảm giác cô đơn sợ hãi. Chúng ta cũng đã từng giải quyết nhiều vấn để khúc mắc. Nhưng đã giải quyết như thế nào? Chúng ta đã vượt qua cách khổ sở như lần từng bước đi trong đêm tối, để rồi niếm mùi chua cay thất bại và trải qua nỗi thất vọng ê chề. Chúng ta đã trải qua với sự lo âu thắp thỏm, cùng với những toan tính hại người, nên sợ sẽ bị trả thù. Hay chúng ta đã vượt qua với những bực tức và khó chịu vì không được như ý muốn. Đó là vì chúng ta đã hành động cách cô đơn, hành động mà không Có Chúa Ở Cùng, hành động trong cơn mê, hành động trong đêm tối.
Nếu khi nào chúng cảm thấy bình an thư thái, cho dù bao tai vạ ập đến, những khổ đau cứ dồn vào, những bất hạnh cứ tiếp diễn, mà chúng ta vượt qua cách an toàn, không để lại chút vương vấn trong lòng. Đó là vì chúng ta đang Có Chúa Ở Cùng. Đó là vì chúng ta đã được bừng tỉnh dậy. Nếu chúng ta nhìn thấy được ích lợi chung, nhìn thấy được nhu cầu của bao nhiêu người chung quanh, để sẵn sàng hành động theo tiếng gọi của con tim chân chính, hành động không còn ỷ lại vào con người riêng tư của mình nữa, mà hành động với Chúa Ở Cùng. Nếu được như thế, chúng ta mang được tâm trạng của Hoàng Châu Công Chúa khi có Vua Cha ở Cùng. Quang trọng hơn nữa chúng đang đi trên con đường mà Thánh Giuse đã đi vì vâng nghe Lời Chúa, bởi Ngài đã nhận ra được Có Thiên Chúa Ở Cùng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người được sáng suốt, để nhận ra Chúa Ở Cùng Chúng Ta trong hoàn cảnh sống, trong những người chúng ta gặp hằng ngày, trong những công việc chúng ta đã và đang làm, để biết sống và hành động theo Thánh Ý Chúa.[Mục Lục]
7. Giuse, người công chính
(Suy niệm của Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)
Mở đầu sách Tin Mừng bằng bản gia phả (Mt 1,1-17), thánh sử Mátthêu muốn giới thiệu nguồn gốc lai lịch của Chúa Giêsu: Người là người con của nhân loại, thuộc dòng tộc vua Đavít, được sinh ra bởi Đức Maria. Nhưng do đâu mà Chúa Giêsu thuộc dòng tộc Đavít, vì theo phong tục Do Thái, người ta không kể phụ nữ để xác định gia phả. Vậy Maria thụ thai bởi đâu và đâu là vai trò của Giuse. Trình thuật truyền tin cho Giuse nhằm minh tỏ Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần và Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, con vua Đavít, ứng nghiệm sấm ngôn Isaia (Is 7,14). Giuse có nhiệm vụ nhận Đức Giêsu vào tông tộc của mình, nhờ đó Chúa Giêsu thuộc dòng vua Đavít. Qua trình thuật này, Mt cũng giới thiệu cho ta một mẫu gương sống tinh thần vâng phục trong đức tin : Giuse, người công chính.
- Giuse, người công chính
Giuse đính hôn với Maria như các thanh nam nữ từ thời bấy giờ. Theo phong tục Do Thái, khi hai người nam nữ đính hôn, thì đã thành vợ chồng trước luật pháp, nhưng chưa sống chung; một năm sau đính hôn, chồng rước vợ về chung sống. Thời gian đính hôn, muốn bỏ nhau phải ra toà xin ly dị. Nếu vợ ngoại tình, phải bị xử ném đá theo luật.
Sự kiện xảy ra là trước khi về sống chung, Maria đã có thai. Giuse thật khó xử. Tin Mừng viết: “Giuse, chồng bà là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Giuse được Tin Mừng gọi là “người công chính” theo nghĩa nào ? Trước hết, công chính có nghĩa là vâng phục lề luật (Rm 4,2; Gl 3,6). Công chính còn được hiểu là lòng xót thương nhân hậu (St 12,19; Tv 37,21; Tv 112,4). Theo luật, Giuse phải tố cáo Maria. Nhưng Giuse lại là người nhân hậu, có lòng thương xót, không muốn làm nhục người phụ nữ mà ông rất tin tưởng, mến yêu và kính trọng; ông không muốn Maria bị xử phạt theo luật, nên quyết định âm thầm ra đi.
Thứ đến, công chính là hành động phù hợp với ý Thiên Chúa. Giuse không hề hồ nghi Maria, nhưng không thể nhận bào thai. Một mặt, giả như ông chưa biết là Maria thụ thai do quyền năng Thánh Thần, thì cũng nghĩ rằng đây là một mầu nhiệm. Do đó lời sứ thần nhằm thông tin sự thật về bào thai và trao phó cho ông trách nhiệm đặt tên và làm cha đứa trẻ trước pháp luật. Mặt khác, giả như ông đã biết là Maria thụ thai do Thánh Thần, ông cảm thấy mình bất xứng để đón nhận hài nhi, nên muốn âm thầm rút lui. Và như thế, lời sứ thần nhằm xác nhận là thật điều ông đã biết (dĩ nhiên qua tâm sự của Maria) và trao cho ông trách nhiệm đón nhận hài nhi vào dòng tộc của mình.
Dù giải thích cách nào thì lời truyền tin của sứ thần cũng nhắm mục đích giải thích cho biết Chúa Giêsu được thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần; Giuse được trao sứ mệnh đón nhận Người vào dòng tộc vua Đavít; và Người là Đấng Thiên Sai con vua Đavít, ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã từng loan báo: “ Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1,23).
Trước lời truyền của sứ thần, Giuse chỉ biết vâng phục. Ông không nói lời nào mà chỉ tuân theo cách triệt để. Tin là vâng phục và dấn thân hành động. Giuse, cũng như Maria với lời xin vâng, đã hành động theo mẫu gương của tổ phụ Abraham : vâng phục trong đức tin.
- Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai cứu độ
Sứ thần trao cho Giuse quyền đặt tên cho hài nhi là Giêsu. Quyền đặt tên đồng nghĩa với việc đón nhận Giêsu vào dòng tộc của mình và trở nên cha của đứa trẻ trước pháp luật. Giuse trở nên bạn trăm năm của Maria và dưỡng phụ của Chúa Giêsu.
Tên “Giêsu” có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Danh xưng này bao hàm căn tính và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trong thế gian như là Emmanuel, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, để thi hành chương trình cứu độ nhân loại. Đây chính là sợi chỉ đỏ chạy dài suốt Tin Mừng Mátthêu. Cuối cùng, Mt tuyên xưng Người đã chết và sống lại để chu toàn sứ mệnh cứu thế, và Người hằng hiện diện mỗi ngày với Giáo Hội cho đến tận thế (Mt 28,20).
Các nhà chú giải Kinh Thánh còn nhận thấy một tương đồng trong cấu trúc giữa trình thuật về nguồn gốc lai lịch Chúa Giêsu với hai chương đầu Sáng thế (St 1,1-2,4a // Mt 1,1-17; St 2,4b-25 // Mt 1,18-24). Sự tương đồng ấy nhằm cho thấy việc xuất hiện của Chúa Giêsu như một Ađam mới, khởi đầu một sáng tạo mới.
Kết luận
Hãy đến với thánh Giuse với tất cả niềm tôn kính mến yêu và học tập dưới mái trường của ngài tinh thần vâng phục ý Chúa, lòng khiêm tốn, tính tự chủ và tâm hồn nhiệt thành quảng đại phục vụ.
Tin Mừng nói rất ít về Giuse. Tuy nhiên, qua ít đoạn vắn vỏi ấy, ta cũng cảm nhận được một tương đồng giữa Giuse và Đức Maria. Nếu Thiên Chúa đã chọn Đức Maria làm mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, Ngai cũng đã tuyển chọn Giuse làm dưỡng phụ để chăm nom săn sóc. Trước đề nghị của Thiên Chúa, Giuse và Maria đã sẵn sàng vâng phục ý Chúa. Cũng như Maria, Giuse sống thánh thiện, khiêm tốn, yêu thương và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh. [Mục Lục]
***
SUY NIỆM 2019
MỤC LỤC
1. Đừng sợ (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Giấc mơ đẹp (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Emanuel (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Hãy biến ước mơ thành hiện thực (Lm. Tạ Duy Tuyền)
5. Tin Mừng của Thiên Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Người gọi tôi (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Gốc tích Chúa Giê-su (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
8. Đừng sợ. (Lm. Jos. Hoàng Mạnh Hùng)
9. Suy niệm Chúa Nhật IV MV_A (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
10. Giấc mơ Thánh Giuse (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Hãy để Chúa đến và hiện diện trong cuộc đời (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)
12. Thiên Chúa báo tin cho Giuse (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
13. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 4 MV_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
14. Điều lạ (Trầm Thiên Thu)
15. Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
16. Thiên định (Lm. Vũ Đình Tường)
ĐỪNG SỢ
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lễ Giáng Sinh đã đến gần, Phụng vụ mời gọi chúng ta chuẩn bị tâm hồn, để khi chiêm ngưỡng hang đá máng cỏ, chúng ta nhận ra những nhân vật hiện diện: Đức Trinh nữ Maria, Thánh Giuse và nhất là Chúa Hài Đồng. Sự kiện Sứ thần truyền tin cho Đức Maria trong Tin Mừng Thánh Luca được chú ý nhiều hơn là cuộc truyền tin cho Thánh Giuse, được Thánh Matthêu ghi lại. Trong cuộc truyền tin này, tuy ngắn gọn, tác giả Matthêu cũng giới thiệu về tình trạng của thôn nữ Maria: “trước khi hai ông bà chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Tình trạng này cũng được chính Sứ thần giải thích với Giuse, với lời khuyên hãy đón nhận người bạn đời. Sứ thần cũng hướng dẫn việc đặt tên cho Con Trẻ sắp sinh và nói về sứ mạng tương lai của Con Trẻ, là Đấng Cứu độ.
Giữa bối cảnh đầy lo âu và bất an bất ổn của cuộc sống hôm nay, Lời Chúa nói với chúng ta như đã nói với Thánh Giuse: Đừng sợ!
Đừng sợ đón nhận Chúa đến trong cuộc đời! Biết bao người khước từ Chúa Giêsu, vì họ coi Người chỉ là một vĩ nhân trong lịch sử, hoặc chỉ là một mẫu gương về luân lý đã vang bóng một thời và nay đã lùi vào dĩ vãng. Giữa bao âm thanh hỗn tạp ồn ào của cuộc sống, lời dạy của Chúa dường như ít được đón nhận, vì con người thời nay không đủ can đảm để chấp nhận thập giá. Hãy mở rộng tấm lòng đón Chúa. Đừng nghi ngờ, vì Người là Đấng trung thành. Ai đón nhận Người, sẽ được hạnh phúc và cuộc đời của họ sẽ bớt cô đơn đau khổ.
Đừng sợ khi cất bước theo Chúa. Dù trong cuộc sống xung quanh chúng ta, số đông dân chúng dửng dưng với Người. Thời nào cũng vậy, người ta có khuynh hướng chạy theo đám đông và ưa thích những gì được nhiều người ủng hộ, kể cả những điều không phù hợp với luật Chúa và lương tâm con người, ví dụ như ly dị, phá thai, hôn nhân đồng tính. Trước những trào lưu này, người tin Chúa dường như bị thiệt thòi và trở nên “ngược đời”. Vua A-khát (Bài đọc I) là một người cứng lòng và phạm nhiều tội ác. Ngôn sứ Isaia đã khuyên ông: Nếu vua không tin Chúa thì hãy xin Ngài làm dấu lạ đi. A-khát viện cớ “không dám thử Chúa” để né tránh đối diện với Ngài. Không dừng lại ở đó, ngôn sứ Isaia đã tuyên bố: việc vua thử thách Chúa là vô lễ. Nếu vua không xin, thì Chúa vẫn cho một dấu lạ, đó là người trinh nữ sẽ sinh con và đặt tên là Emmanuel.
Đừng sợ khi phải tuyên xưng đức tin vào Chúa. Ngày nay, vì lợi lộc vật chất hay vì mặc cảm tự ti, nhiều người không dám nhận mình là người tín hữu. Tại một số lãnh vực trong xã hội Việt Nam chúng ta hôm nay, hai chữ “Công giáo” có thể gây nên những hệ lụy và thiệt thòi cho người Kitô hữu. Tuy vậy, thực tế cho thấy, nếu một người chối bỏ danh nghĩa Công giáo vì chức vụ hay lợi lộc trần gian, thì chức vụ hay lợi lộc ấy sẽ không bền và cũng chẳng đem lại cho họ hạnh phúc đích thực.
Đừng sợ khi phải loan báo Tin Mừng cho người khác, mặc dù hoàn cảnh không mấy thuận lợi và mặc dù lời loan báo không được đón nhận. Thánh Phaolô quả quyết rằng, nhờ ơn gọi Kitô hữu, mỗi người đã nhận được đặc ân và chức vụ tông đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu cho danh Chúa được rạng rỡ (Bài đọc II).
Đừng sợ khi phải đón nhận anh chị em và chia sẻ cho họ tinh thần cũng như vật chất, vì Chúa ban cho chúng ta gấp nhiều lần so với điều chúng ta trao tặng rộng rãi và vui lòng cho anh chị em mình. Mỗi khi đón nhận anh chị em là chúng ta đón nhận chính Chúa, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời và đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa. Đối với Thánh Giuse, đón nhận người bạn đời mới đính hôn mà đã mang thai tức là chấp nhận biết bao điều đàm tiếu của người đời. Hơn ai hết, ông là người biết rõ thai nhi trong lòng Maria không phải là sản phẩm của mình. Sau cuộc gặp gỡ với Sứ thần, ông đã đón trinh nữ Maria về nhà mình. Ông tin vào lời Chúa và ông tin vào phẩm hạnh của người bạn đời. Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng ngày 16-12-2019 tại nhà nguyện Thánh Matta đã nói: “Hiện nay tồn tại hai thái độ sống của người Kitô hữu “nửa vời”: một là dồn Thiên Chúa vào chân tường khi nói với Ngài: hoặc là Ngài làm điều này cho con, hoặc là con sẽ bỏ nhà thờ. Thái độ thứ hai là phủi tay trước những người anh chị em đang cơ nhỡ bần hàn. Chúng ta hãy xóa bỏ hai thái độ này và dọn chỗ cho Chúa đến”.
Thiên Chúa là Đấng cao cả đã đến trần gian để ở cùng con người! Điều này gây ngỡ ngàng đối với khá nhiều người. Đây không phải là một huyền thoại, nhưng là một sự thật có tính lịch sử. Thiên Chúa, Đấng vô thủy vô chung, đã làm người và ở giữa chúng ta. Nếu ngôn sứ Isaia loan báo Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, thì sau này, chúng ta sẽ thấy Đức Giêsu tuyên bố trước khi về trời: Thày sẽ ở cùng anh em cho đến tận thế. Lời tuyên bố này như một xác quyết long trọng lời hứa từ ngàn xưa. Sự trường tồn của Giáo Hội chính là bằng chứng cho sự hiện diện đầy quyền năng đó.
Giữa bao nhiêu những bộn bề lo lắng của cuộc sống trần gian, nhiều khi chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Chính vì thế mà chúng ta còn nhìn đời với quan niệm bi quan và còn cố chấp trước những lầm lỗi của người khác. Đức Giêsu đang ở đây giữa chúng ta, không phải chỉ trong Mùa Vọng hay mùa Giáng Sinh mà trong suốt cuộc đời. Ngài hiện diện để lắng nghe ta tâm sự. Người gánh trên đôi vai mình những lo lắng phiền muộn của kiếp sống con người và đặt trên vai họ ách của niềm vui và hy vọng. Người làm như thế bởi Người là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
.
Lm. Jos. DĐH.
Đố ai nằm ngủ không mơ, ru con không hát, đò đưa không chèo. (ca dao). Là người trưởng thành có mơ ước đẹp, nuôi dạy con có kết hợp phương pháp truyền thống với khoa học hiện đại, sống và làm việc có chừng mực, kỷ luật, xác xuất thành công nhất định sẽ cao hơn. Đâu là giấc mơ hạnh phúc, bài hát ru nào hiệu quả, con thuyền nào sẽ cập bến an toàn, hẳn nhiều người vẫn tìm kiếm, hoặc bằng kinh nghiệm riêng tư sẽ trả lời cho sự chọn lựa của mình. Trong khi các bậc sinh thành thật lòng chia sẻ: càng học càng phát hiện ra “cái biết” của mình quá mong manh nhỏ bé ; người trẻ lại cho rằng: biết nhiều khổ nhiều.
Nếu hỏi thế nào là giấc mơ đẹp, nhiều người sẽ nói đó là giấc mơ có chức quyền, giầu sang phú quý, gia đình bình an, con cháu vui khoẻ, người người biết thương yêu nhau. Trong kitô giáo, đại đa số chúng ta tin rằng: giấc mơ đẹp chính là giấc mơ gặp Chúa, có Chúa nơi tâm hồn, có Chúa trong cung cách ứng xử của mình. Trình thuật Tin-mừng hôm nay phát đi một thông điệp đẹp và thật kỳ diệu: “này Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn, vì người con bà cưu mang là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”. Một tin nhắn ý nghĩa là tin nhắn có nội dung đẹp, chất lượng ; một thông điệp hay, là thông điệp được sáng rõ về tính chất sự việc, chất chứa đầy bí mật vượt khỏi tầm mức hiểu biết của con người. Thánh ý Chúa thật cao cả, những chỉ dẫn, những định hướng, vừa sáng vừa tối, Giuse phải quyết định, vì đó là giấc mơ !
Rất nhiều người trong chúng ta vẫn nghe thiên hạ nói: giấc mơ dù đẹp và thật đến đâu cũng chỉ là sự thật trong giấc mơ, ông Giuse đã chứng minh nét đẹp của giấc mơ, đã cho thấy tính nhạy bén về việc ngài gặp Chúa và sống thánh ý Chúa, rất tự do: mến Chúa yêu người. Giuse được biết đến là người công chính, khôn ngoan, và tính mực thước của người thợ mộc, hậu thế còn phải thán phục, bởi chính nhờ lời cầu nguyện thâm sâu mà Giuse hiểu thánh ý Chúa muốn ông làm gì, dù là giấc mơ. “Maria sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân của Người khỏi tội lỗi của họ”. Giấc mơ đẹp, giấc mơ hạnh phúc, hệ tại việc chúng ta hiểu biết và sống niềm tin nơi Chúa cách trọn vẹn thế nào ?
Giấc mơ cuộc đời mỗi người mỗi khác nhau: kẻ muốn được danh phận, người muốn được giầu tiền lắm của, cũng khối kẻ muốn được làm thầy thiên hạ … Giấc mơ nơi Giuse, nơi mỗi chúng ta hôm nay hẳn cũng đang chung một tâm tình, đó là mơ ước hạnh phúc, giấc mơ được sống trọn vẹn ơn gọi và thánh ý Chúa. Theo ý riêng rất hợp lý của mình, Giuse định tâm rút lui, và nhờ giấc mơ đã tháo gỡ mọi vướng mắc, giấc mơ cũng là khởi điểm để ông minh chứng niềm tin thế nào là giấc mơ đẹp mà cả đời ông hằng mong ước. Giá trị của hạnh phúc thật, chỉ có ý nghĩa khi quá khứ, hiện tại, tương lại không tách rời nhau ; thiếu thực hành, giấc mơ chỉ là giấc mơ, mọi lý thuyết trên đời đều mầu xám.
Đời sống của mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay sẽ phong phú biết bao, khi ai ai cũng nhanh nhạy biến giấc mơ của mình thành hiện thực, tiền nhân dạy: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Thiên Chúa qua Giuse bạn trăm năm của Đức Trinh nữ Maria, Ngài muốn nhắc nhân loại: người khôn ngoan là người biết tìm thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Giuse biến những ưu tư thành lời cầu nguyện, ông sống khiêm tốn để nhìn biết con người thật của mình, Giuse để thánh ý Chúa biến giấc mơ cuộc đời của ngài thành lời nguyện đẹp, xứng hợp với tình yêu Chúa trao ban. Thiên Chúa có thể nói với con người bằng nhiều cách thức khác nhau, nhưng trước hết và trên hết là tự do mỗi chúng ta đang sử dụng như thế nào ?
Giấc mơ hoàn hảo và hạnh phúc thật, không thể mua được bằng tiền, giấc mơ ảo, giấc mơ viển vông, cũng mãi là xa vời, lý thuyết, nếu mỗi người chỉ cậy dựa vào sức mạnh của mình. Giấc mơ đẹp ở đời là công danh sự nghiệp, là gieo trồng, đầu tư kiến thức cho con cháu ; giấc mơ đẹp: Thánh Giuse, Đức Maria để lại cho hậu thế chính là niềm tín thác và lời thưa vâng bằng trọn hành trình đời người. Giấc mơ đẹp sẽ không phải là nghèo hèn, ngồi yên chịu vậy với phận số, giấc mơ đẹp, được Thiên Chúa phác hoạ nơi những tâm hồn biết sống tin yêu, biết để ý Chúa vượt lên ý riêng của mình. Nếu mỗi chúng ta nhận biết thánh ý Chúa như Thánh Cả Giuse, hẳn ở tình thế nào chúng ta cũng đang thực thi sứ mạng làm môn đệ Đức Kitô: hoa thơm trồng cạnh bờ rào, gió nam gió bắc, gió nào cũng thơm. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng kimToan
Trước mầu nhiệm truyền tin biết về Mẹ Maria chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Thánh Giuse biết mình chỉ là con người phàm nhân sao có thể đón nhận một sứ vụ cao trọng, là cha nuôi của Chúa Giê su, nên Ngài muốn rút lui. Sự kiện Giáng Sinh bắt đầu hé lộ về mầu nhiệm Emanuel (Thiên Chúa ở giữa loài người). Vừa là Tin Mừng đồng thời cũng ngỡ ngàng, như Thánh Giuse làm sao hiểu, nhân loại có được diễm phúc như vậy.
Sự khiêm hạ.
Thánh Giuse được tôn vinh là Đấng công chính. Theo Cựu Ước, người công chính là người nhận biết mình là ai trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Như Môi sê trước bụi gai cháy, cần cởi dép để bước vào mảnh đất thiêng. Như các cố nhân khi được mời gọi đi thi hành sứ vụ tiên tri, luôn đáp lại một điều nhận ra mình chẳng xứng: “Con là ai mà lại đi nói Lời Thiên Chúa cho dân!”. Thánh Giuse chỉ là một thợ mộc bình dân, nghèo nàn, tay chân rạn nứt, làm sao lại có thể trở thành cha nuôi Chúa Giê su, một Thiên Chúa làm người ở giữa nhân loại.
Thánh Giuse thấy mình bị kéo vào mầu nhiệm Thiên Chúa ở giữa loài người thì sợ hãi. Thế nhưng, Thiên Chúa làm người đã hạ mình xuống thế thật thấp như thế, thì còn ai có thể tự hạ hơn Người được nữa. Dù không xứng đáng, Thánh Giuse trên cơ sở pháp lý không thể để Đức Maria trơ trọi một mình khi mang thai hài nhi Giêsu. Mặt khác, lòng kính tôn Thiên Chúa của Thánh Giuse, việc Mẹ Maria thụ thai là quyền năng Thiên Chúa thực hiện để đưa Người Con của Thiên Chúa vào trần thế, không thể do ý muốn con người được, mà từ lời hứa của Thiên Chúa nên hiện thực.
Con ĐaVit
Thiên Chúa chọn lựa Thánh Giuse là cha nuôi, chính Ngài sẽ đặt tên cho con trẻ. Theo luật pháp Do Thái thời đó, việc đặt tên con là quyền của người cha hợp pháp. Như vậy, Chúa Giê su thuộc dòng tộc Đavit, trở nên một Đavit mới. Chính Chúa Giê su sẽ là một vị Vua mới như các đạo sỹ tìm đến thờ phượng. Người là vị cứu tinh cho nhân loại, dẫn đưa nhân loại đến trật tự hòa bình và tình yêu trong vương quốc của Người.
Emanuel
Thiên Chúa ở giữa nhân loại, là một cụm từ chưa bao nguôi đi tìm kiếm Chúa trên trần thế này. Ngày ba đạo sỹ lên đường tìm chỗ hài nhi sinh hạ cũng là chuỗi ngày của những con người khát khao đi tìm kiếm Chúa. Người ở giữa nhân loại, nhưng giữa chốn đông người, giữa một nhân loại ồn ào và huyên náo, giữa một thế trần vẫn tranh giành hơn thua, giữa những con người vẫn thù hận, giết chết, mua bán nô lệ thời mới, làm sao có thể tim gặp được Người.
Như đạo sỹ, cần lên đường, nghĩa là chấp nhận ra khỏi những ồn ào, huyên náo, hận thù, chia rẽ, để lên đường. Ra khỏi bóng tối để thấy ngôi sao dẫn đường. Ra khỏi chính mình để nghe tiếng chỉ dẫn của Chúa mách bảo. Ra khỏi cuộc sống hằng ngày để ở lại với Chúa, gặp gỡ Chúa với lễ vật đời mình.
Thiên Chúa ở giữa nhân loại, một Thiên Chúa đang bước đi cùng với nhân loại, với từng người. Nhưng, gặp được Người đang bước đi cùng hay đang lạc mất Người giữa đời huyên náo, chật chội. Vì là một Thiên Chúa tự hạ, lòng kiêu hãnh sao gặp được Người. Vì là một Thiên Chúa giữa những người nghèo, đau khổ, bị bỏ rơi… làm sao gặp được Người giữa những phồn hoa tráng lệ, giàu sang với những lễ hội.
Trở về với ngỡ ngàng của Thánh Giuse trước mầu nhiệm Emanuel. con người cũng cần trở lại với chính mình là một phàm nhân trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng cần có một lòng nhân từ, thương xót, để yêu thương, để nâng đỡ những con người đau khổ, nghèo khó, vì Chúa cũng đã đến như vậy giữa họ.
Xin Chúa chỉ dạy con đường đi gặp gỡ Chúa!
.
HÃY BIẾN ƯỚC MƠ THÀNH HIỆN THỰC
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Cuộc đời thánh Giuse được nhắc đến trong Kinh Thánh luôn gắn liền với một giấc mơ. Khởi đầu là việc thánh Giuse, vâng lời thiên thần trong giấc mộng, mà đón Đức Mẹ về nhà làm vợ mình.
Sau khi Chúa Giêsu sinh ra, Thiên Thần Thiên Chúa lại đến báo tin cho Giuse trong giấc mơ: đem Maria và trẻ Giêsu trốn sang Ai cập để tránh bị vua Herode đang tìm bắt sát hại hài nhi. ( Mt 2,13-15).
Và khi vua Herode băng hà, Thiên Thần Thiên Chúa lại lần nữa xuất hiện báo trong giấc mơ cho Giuse đem gia đình từ Ai Cập trở về sống bên quê nhà Nazareth xứ Galile ( Mt 32,19-23).
Qua ba giấc mơ ấy dường như thánh Giuse không hề hoài nghi thắc mắc về tính xác thực của giấc mơ. Ngài làm ngay, làm tức thì như thể nếu không làm ngay sẽ lỡ mất cơ hội giúp người, hay sẽ chậm trễ dẫn đến hệ quả khôn luờng. Thánh Kinh nói rằng trong giấc mơ Thiên Thần Chúa bảo Ông : Giuse hãy chỗi dậy! Ông liền chỗi dậy bắt tay ngay vào việc.
Dân gian thường hay phê bình ai đó sống không thực tiễn: Chỉ mơ màng viển vông! Hay, đó là chuyện hoang đường mơ màng! Thực sự là vậy, nếu chỉ mơ mà không bắt tay vào việc thì nó chỉ là mơ màng viễn vông và hoang đường. Điều này ta thấy nhiều nơi người trẻ, nhiều khi mải mê với giấc mơ, với ý tưởng mới lạ khác lạ, mà quên đứng dậy bắt tay vào việc trong đời sống. Nên nhiều khi sống trong viển vông bỏ lỡ chuyến tầu cơ hội sống thực tế vươn lên.
Thánh Giuse thì luôn nhìn thấy qua giấc mơ một cơ hội để bắt tay làm việc và đó là việc cần làm ngay, làm tức thời để bảo vệ danh dự cho Maria, để cứu hài nhi khỏi hiểm nguy, và để an cư lạc nghiệp cho hạnh phúc gia đình. Nơi thánh Giuse , đó là một con người của những giấc mơ, có thể nhận lấy trách nhiệm, trọng trách lớn lao của mình. Ngài có quá nhiều điều để chúng ta học hỏi trong một thời đại mà người ta chỉ nói nhiều mà không làm, ước mơ lớn mà không thực tiễn nên tất cả chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu hô hoán cho to mà không bao giờ mang ra thực hành.
Điển hình là chủ đề mục vụ của Giáo Hội đưa ra có mấy giáo xứ đã thực hiện? Mỗi năm chúng ta được nghe thuyết trình về chủ đề mục vụ rất tâm huyết, rất say sưa nhưng có khi xa rời thực tiễn. Nói rất hay, hoài bão rất lớn nhưng tất cả chỉ nhìn thấy trên các phông chữ quảng cáo nơi các nhà thờ mà không mấy ai đã dấn thân để mang ra thực hành. Tôi đã từng thấy vài giáo xứ có bảng quảng cáo “Giáo xứ X tích cực sống làm sạch môi trường” nhưng ở dưới bảng là bãi cỏ rác ngổn ngang!
Có ai đó đã từng nói rằng: Hãy nghĩ, hãy làm như thể bạn chỉ còn có thể sống được duy nhất 1 ngày cuối cùng. Khi bạn nhìn thấy cái ngày đó, hẳn bạn sẽ không muốn lãng phí một giây phút nào cho những thứ không quan trọng trong đời.
Mùa vọng nhắc nhớ chúng ta là người khôn ngoan thì phải biết biết nắm lấy thời cơ. Thời cơ của người ky-tô hữu là đón nhận Chúa đến trong cuộc đời của mình và mang Chúa đến cho thế gian. Thánh Giuse đã làm điều đó, đừng bỏ lỡ những lần thực hiện ước mơ trong đời, cụ thể là đón nhận Chúa như Giuse, như Mẹ Maria và như các mục đồng. Các ngài đã mau mắn thực thi điều mà thiên thần Chúa đã loan tin trong giấc mơ và trong hiện thực.
Nếu chúng ta biết trân trọng giây phút hiện tại thì chúng ta cũng sẽ có thái độ dứt khoát như thánh Giuse mau mắn trỗi dậy và thực hiện ý Chúa đã đến trong giấc mơ. Và mau mắn biến ước mơ thành hiện thực cho dù có phải chịu nhiều mất mát và thua thiệt. Amen
.
Bông hồng nhỏ
Đọc trình thuật truyền tin cho Đức Maria trong Tin Mừng theo thánh sử Luca, ta được lắng nghe một lời “xin vâng” rất đẹp của Mẹ. Hôm nay, ta được nghe thánh sử Mátthêu thuật lại việc truyền tin cho thánh Giuse. Sứ thần truyền tin lúc ngài còn đang an giấc. Có lẽ, vì đang ngủ nên ngài không thể dặt câu hỏi như Đức Maria, để được sứ thần giải đáp những thắc mắc, để được củng cố lòng tin. Thế nhưng, ngài đã có một tiếng thưa “xin vâng” rất âm thầm, rất quyết liệt và cũng rất đẹp.
Khi nhận thấy Maria- người vợ chưa từng chung sống đang mang thai, ngài đã suy tính kế hoạch để bỏ đi. Chắc hẳn, ngài đã phải chiến đấu rất nhiều, đã rất đau khổ. Có hai kế hoạch đều bị đổ vỡ: kế hoạch thứ nhất là giấc mơ xây dựng một gia đình hạnh phúc; kế hoạch thứ hai là dự tính “bỏ bà cách kín đáo” (x. Mt 1,19). Khi nhận thấy người vợ mình yêu thương đã mang thai mà không do bởi mình, giấc mơ xây dựng một gia đình hạnh phúc bị tan thành mây khói. Đau khổ bất ngờ ập xuống. Tận sâu trong lòng, ngài vẫn rất yêu thương Maria, càng yêu thương bao nhiêu thì càng đau khổ bấy nhiêu. Trong đau khổ, ngài có cất tiếng thưa lên cùng Thiên Chúa- Đấng mà ngài hằng tôn kính mến yêu? Chính tình yêu đã giúp ngài đi đến quyết định là sẽ “bỏ vợ cách kín đáo”, không để cho nàng phải chết nhục nhã trong đau đớn như Luật Môsê đã định. Ngài đang toan tính như vậy thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng, giải đáp tất cả những thắc mắc đang bủa vây trong lòng. Sứ thần chỉ cho ngài một con đường để bước đi, con đường theo thánh ý vạch ra là “đừng ngại đón bà Maria vợ ông về” (x. Mt 1, 20). Đây quả là một lời mời gọi đầy thách đố. Làm sao để ta cũng có thể nhận ra và đón nhận “Tin Mừng của Thiên Chúa” với lòng vâng phục đơn sơ nhưng cũng rất quyết liệt như thánh Giuse lúc bấy giờ? Để đón nhận những điều trái ngược với ý muốn của ta và đón nhận nó như là Tin Mừng của Thiên Chúa đòi hỏi ta cần phải có một tâm hồn tự hạ, khiêm nhường trước thánh ý Thiên Chúa. Chính Chúa Thánh Thần sẽ từng bước giúp ta khám phá ra Tin Mừng của Thiên Chúa và đón nhận mầu nhiệm ấy bằng một con tim luôn luôn mở ra.
Thánh Giuse đã được sứ thần của Chúa truyền tin lúc đang an giấc. Khi vừa thức giấc ngài đã mau mắn làm như sứ thần Chúa dạy (x. Mt 1, 24). Một thái độ vâng phục cách mau mắn, không chút nghi ngờ; bởi đức tin của ngài đã trải qua bao thử thách và trái tim của ngài đã luôn mở ra trước thánh ý Thiên Chúa và luôn sống cho người khác. Một tâm hồn luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa sẽ được Người yêu thương. Chắc chắn, trong suốt hành trình nơi dương thế, để chu toàn sứ mạng Thiên Chúa trao trong trách nhiệm và ân phúc được làm cha nuôi của Chúa Giêsu và làm bạn trăm năm của rất thánh Đức Maria, ngài đã phải trải qua nhiều thăng trầm thử thách. Cũng như Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, thì thánh Giuse- một người hết lòng sống cho thánh ý Thiên Chúa- cũng đã mang một tâm tình như thế (x. Dt 5, 8) bởi có ai yêu mến Thiên Chúa mà không được Người thử thách. Tin Mừng của Thiên Chúa đến với ta trong muôn ngàn nẻo đường khác nhau, con đường nào cũng đòi buộc ta phải sẵn sàng vâng phục trong đức tin, bỏ đi những toan tính của bản thân để hết lòng sống theo thánh ý Chúa. Mọi sự đều có thể đối với những ai có lòng tin và yêu mến Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Tin Mừng của Thiên Chúa. Chúa đã đến với con trong rất nhiều biến cố, trên muôn vàn nẻo đường con đi. Xin ban cho con một trái tim biết mở ra trước thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để con đừng ngại đón nhận Tin Mừng của Chúa, xin Chúa hãy uốn nắn lòng con nên giống trái tim của Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Thật khó để một người chồng có thể yêu thương và tôn trọng người vợ mới cưới khi nàng đã có thai với người khác. Chỉ khi người đàn ông đó là người thấm nhuần đức tin và chỉ sống theo luật yêu thương của Chúa thì mới thực sự yêu thương và tôn trọng người phụ nữ đó.
Trước khi về chung sống với Mẹ Maria, Thánh Giuse nhận biết mẹ đã có thai. Vì không muốn tố giác Mẹ nên ngài định tâm bỏ Mẹ cách kín đáo. Ngài đang tính toán như vậy thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ngài: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón Bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính người người sẽ cứu dân người khỏi tội lỗi của họ” (Mt 1,20-21).
Thánh Giuse được sứ thần mặc khải cho biết Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, tức là Con Thiên Chúa được sinh ra trong cung lòng đồng trinh của Mẹ Maria do quyền phép của Chúa Thánh Thần. Đồng thời, ngài được mời gọi tham dự vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa khi trở thành cha nuôi của Con Thiên Chúa, là người bảo vệ che chở cho Mẹ và Hài Nhi ở trần gian. Khi biến cố xảy đến với Thánh Giuse, phản ứng đầu tiên của ngài là “định tâm bỏ bà cách kín đáo”. Theo lẽ thường tình, Thánh Giuse có thể tố cáo Mẹ Maria dựa trên luật Dothái. Nhưng ngài không làm, ngài muốn trốn đi để Mẹ tránh khỏi hình phạt nặng dành cho một người phụ nữ đã đính hôn mà lại phạm tội ngoại tình. Về mặt siêu nhiên, việc thánh Giuse trốn đi có thể được hiểu như là việc không dám nhận cho mình một điều lớn lao mà không do công của mình, cũng không phải sở hữu của mình. Biết Giuse là người công chính nên Thiên Chúa đã cho sứ thần báo mộng cho ngài. Việc đặt tên cho Hài Nhi không do chính huyết nhục của mình cũng là lời mời gọi ngài hãy đón nhận sứ mạng làm cha của Hài Nhi trên bình diện pháp lý. Thánh Giuse đã không từ chối, khi thức dậy ngài đã làm như lời sứ Thần Chúa dạy và đón vợ về nhà.
Lý do nào khiến Thánh Giuse không thể từ chối lời sứ thần mời gọi? Ngay từ đầu, Thánh Giuse đã có lòng trắc ẩn xót thương và không tức giận Mẹ. Trái lại, ngài tìm cách bảo vệ. Mặt khác, ngài được gọi là người công chính vì ngài đã sống công chính. Mà Thiên Chúa là đấng công chính, nên ngài được Thiên Chúa tuyển chọn và là người thuộc về Thiên Chúa (x.1Ga 3,7,10). Thiên Chúa dùng người công chính để đem ơn cứu độ cho người tội lỗi: “Ta đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17).
Theo lời sứ thần, Chúa Giêsu sẽ là Đấng giải thoát dân Người khỏi tội lỗi của họ. Chúng ta là những người mang thân phận mỏng dòn yếu đuối và tội lỗi. Chúng ta cần Chúa Hài Nhi đến giải thoát ta khỏi đầm lầy lỗi lầm. Vì vậy, chúng ta hãy mở lòng ra để đón Chúa trong đại lễ gần kề này. Đừng chần chừ nữa, Ngài đang gõ cửa tâm hồn chúng ta vì Ngài yêu thương người tội lỗi.
Lạy Chúa, vì yêu chúng con, Chúa tự trở nên bé nhỏ để ngự vào tâm hồn chúng con, và để chúng con được bồng ẵm trên tay. Xin cho chúng con cũng biết trở nên nhỏ bé và khiêm nhường mà đến với Chúa và anh chị em xung quanh. Để nhờ đó, chúng con được cùng nhau nối kết yêu thương trong Chúa Hài Nhi. Amen.
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 7:10-14; Rm 1:1-7; Mt 1:18-24)
Trong ít ngày nữa, chúng ta sẽ mừng Sinh Nhật của Chúa Giê-su. Nhưng chúng ta không thể mừng sinh nhật của một người mà không biết rõ thân thế của người ấy. Vậy thân thế của Chúa Giê-su như thế nào? Các bài đọc của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đồng loạt trình bày Chúa Giê-su xuất thân từ đâu: ngôn sứ I-sai-a nhận được mặc khải của Thiên Chúa là “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”; thánh Phao-lô thì nhìn thân thế của Chúa Giê-su theo hai chiều kích: là người phàm, Chúa Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít, là Đấng Cứu Độ, Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa; còn thánh sử Mát-thêu, ngài đã tổng hợp những điều kể trên để trình bày và giải thích về “gốc tích” Chúa Giê-su cặn kẽ hơn.
Sau khi vua Sa-lô-môn băng hà, nước Ít-ra-en chia làm hai: vương quốc miền bắc vẫn giữ tên là nước Ít-ra-en và vương quốc miền nam là Giu-đa. Thời vua A-khát trị vì nước Giu-đa, vương quốc miền bắc đã liên kết với vua A-ram để xuống đánh miền nam và thành thánh Giê-ru-sa-lem. Thiên Chúa sai ngôn sứ I-sai-a đến gặp vua A-khát để báo cho vua biết Thiên Chúa hứa không để nước Giu-đa bị tiêu diệt, vì Người sẽ luôn ở với Giu-đa. Chúa còn bảo vua A-khát cứ xin một dấu chỉ để cho thấy lời hứa ấy là chắc chắn. Vua không dám xin thì Chúa đã cho biết dấu chỉ ấy: “Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sẽ sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Dấu chỉ này nói lên thân thế vị cứu tinh của nước Giu-đa thời ấy. Tuy nhiên đây cũng là lời hứa ám chỉ Chúa Giê-su, Đấng Cứu Độ sẽ xuống thế làm người. Chúa Giê-su là con trai của một trinh nữ tức là Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, cho nên bên cạnh nguồn gốc Thiên Chúa vì là Con Một, Người còn thực sự có nguồn gốc nhân loại nữa, tức là con Đức Ma-ri-a. Ngoài ra, Người cũng mang một cái tên của nhân loại: Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-tôi. Tên nói lên sứ mệnh của một người. Với danh hiệu Em-ma-nu-en, Chúa Giê-su thực là Thiên Chúa ở với chúng ta, như thánh sử Gio-an diễn tả: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Ngôn sứ I-sai-a đã nói tiên tri về việc Chúa Giê-su sinh bởi Trinh Nữ Ma-ri-a và sứ mệnh của Người là ở với nhân loại để cứu độ họ. Còn thánh Phao-lô thì diễn tả gốc tích Chúa Giê-su theo quan điểm thần học qua cách phân biệt Chúa Giê-su vừa là một “người phàm”, con của Đức Ma-ri-a, vừa là Con Thiên Chúa, “Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần”. Là người phàm, Chúa Giê-su “xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” và đang khi sống tại trần gian, Người đã thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng, rồi kết thúc sứ mệnh ấy với cuộc Thương khó và sự Phục Sinh. Tuy nhiên cũng Chúa Giê-su ấy, sau khi từ cõi chết sống lại thì Người “đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”. Hoặc nói cách khác theo lời lẽ của kinh Tin kính, Chúa Giê-su vừa là người thật vừa là Thiên Chúa thật. Chính nhờ gốc tích Thiên Chúa và nhân loại này mà Chúa Giê-su có thể chia sẻ cùng một lúc với chúng ta cả bản tính nhân loại lẫn bản tính Thiên Chúa của Người.
May mắn là bên cạnh suy tư thần học cao siêu của thánh Phao-lô về gốc tích Chúa Giê-su, chúng ta lại có đoạn Tin Mừng Mát-thêu thuật lại việc Chúa Giê-su xuất thân như thế nào. Trước hết thánh sử Mát-thêu muốn giải thích sự kiện Chúa Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Mặc dù Chúa Giê-su là con của Đức Ma-ri-a do quyền năng Chúa Thánh Thần, nhưng theo pháp lý Người vẫn là con cháu vua Đa-vít, vì thánh Giu-se thuộc dòng dõi vua Đa-vít đã thành hôn với Mẹ Ma-ri-a. Đúng vậy, Chúa Giê-su ra đời trong tình trạng hôn nhân hợp pháp giữa thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, do đó trên phương diện luật lệ Chúa Giê-su cũng được gọi là con của thánh Giu-se thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Thánh Mát-thêu kể lại “gốc tích” Chúa Giê-su theo phương diện luật pháp, nhưng sứ thần lại cho thánh Giu-se biết tất cả về sứ mệnh của Chúa Giê-su. Trước hết sứ thần nói đến việc thánh Giu-se “phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Thật là sự trùng hợp kỳ diệu: trong Cựu Ước, ngôn sứ I-sai-a nói tiên tri việc đặt tên con trẻ là Em-ma-nu-en thì nay trong Tân Ước, thánh Giu-se phải đặt tên con trẻ là Giê-su, nghĩa là Thiên Chúa cứu. Tuy hai cái tên khác nhau, nhưng cả hai cùng mang một ý nghĩa: Thiên Chúa ở với dân Người để cứu họ khỏi tội lỗi của họ.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Em-ma-nu-en và Giê-su là những danh hiệu chúng ta cần suy gẫm suốt đời. Danh hiệu nào cũng biểu lộ một chân lý cao cả, đó là Thiên Chúa đã yêu trần gian đến nỗi ban Con Một, để tất cả những ai tin vào người Con ấy thì sẽ được sống đời đời. Thánh Phao-lô còn gọi chân lý này là Tin Mừng và ngài vô cùng hãnh diện vì nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, ngài “đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ” để rao giảng Tin Mừng ấy. Chúng ta đang chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Giáng Sinh, nhưng Chúa Giê-su là Đấng Em-ma-nu-en đang ở giữa chúng ta rồi! Quan trọng là ta có dọn tâm hồn thành máng cỏ xứng đáng để Chúa sinh ra, ở lại với ta và trở nên lương thực thiêng liêng cho ta, như cỏ chứa trong máng cho chiên bò được sống không? Thêm nữa, chúng ta được tham gia vào chức vụ tông đồ, vậy ta có rao giảng Chúa cho người khác không?
.
Lm. Jos. Hoàng Mạnh Hùng
Tin Mừng có đến bốn cuộc truyền tin của Thiên Chúa nói với loài người, liên quan đến mầu nhiệm Con Thiên Chúa giáng sinh. Ba cuộc truyền tin trong Tin Mừng theo thánh Luca và một trong Tin Mừng theo thánh Mathêu. Cả bốn cuộc truyền tin, thiên thần đều có chung một lời trấn an: “Đừng sợ!”.
– Với Tư tế Giacaria: “Giacaria, đừng sợ! Vì lời cầu của ngươi đã được chấp nhận”. Sau đó, thiên thần cho biết ông sẽ có một con trai như lòng mong ước. Người con này sẽ nên cao trọng vì “nó sẽ làm lớn trước mặt Chúa” (Lc 1, 5- 20).
– Với Đức Maria: “Maria, đừng sợ! Vì Người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa”. Qua lời thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Đức Mẹ làm mẹ Đấng Cứu Thế (Lc 1, 26- 38).
– Với các mục đồng: “Đừng sợ! Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại”. Qua lời thiên thần, các mục đồng là những người được Thiên Chúa báo tin mừng giáng sinh trước tiên (Lc 2, 8- 15).
– Với thánh Giuse: “Giuse, đừng sợ! Vì thai nơi bà là do Chúa Thánh Thần” (Mt 1, 18- 24).
Hôm nay Chúa Nhật áp lễ Giáng sinh, Hội Thánh suy niệm cuộc truyền tin cho thánh Giuse. Để rút ra bài học, tôi suy niệm lời mời gọi của thiên thần “Đừng sợ“.
“Đừng sợ“. Đó cũng chính là lệnh truyền mà sau này, khi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường ngỏ với các môn đệ:
Khi căn dặn các ông làm chứng cho Người, Chúa nói: “Các con đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn” (Mt 10, 28). Trong bữa tiệc ly, ngay trước giờ tử nạn của mình, Chúa căn dặn: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sau khi sống lại, vẫn chỉ nhấn mạnh lòng can đảm, Chúa tiếp tục ban bình an và cất lời trấn an môn đệ: “Đừng sợ! Hãy đi báo tin cho anh em của Thầy” ( Mt 28, 10).
Bởi đời mỗi người như bị nhấn chìm trong nỗi sợ, nên lời “Đừng sợ” của Thiên Chúa cũng đang là lời nhắn gởi bạn và tôi.
Thuở nhỏ: sợ ma, sợ đòn. Lớn hơn: sợ học tập thua sút bạn bè. Vào yêu: sợ bị bội phản. Ngày lập gia đình, cũng là ngày ta sợ mình không tròn trách nhiệm của người sống đời gia đình. Và cả đời ta, nỗi sợ lớn nhất, có lẽ là sợ chết.
“Đừng sợ, hãy mở rộng cửa đón Chúa Kitô”. Ngay khi làm giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô II mở đầu triều đại của mình bằng sứ điệp với những lời như thế.
Trải dài trên 26 năm lãnh đạo, Đức Thánh Cha không ngừng nhắc lại với thế giới: “Đừng sợ!”. Xoay quanh hai tiếng “Đừng sợ”, ngài cho thấy có những nỗi sợ rất nghịch lý. Lẽ ra không được sợ, lẽ ra phải xây dựng nó, thì ta lại sợ.
Bằng chứng là hai sứ điệp Quốc tế Giới trẻ lần thứ 15 (năm 1985) và lần thứ 16 (năm 1986), Đức Thánh Giáo hoàng nhắc tới nỗi sợ nghịch lý này: “Các con đừng sợ trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ mới” (ngày QTGT lần thứ 15, số 3), và “Các con đừng sợ đi trên con đường Chúa đã đi” (ngày QTGT lần thứ 16, số 6).
Nên thánh mà sợ? Đi con đường của Chúa mà sợ? Đúng lắm! Vì đi trên con đường của Chúa để được nên thánh là khổ nạn, là từ bỏ bản thân, là phải sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, khiêm nhu, hiền từ, vâng lời…
Trong các lần phong thánh mà chính thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II thực hiện, phần đông là các vị tử đạo của thời đại. Điều đó càng cho tôi cảm nhận trọn vẹn lời: “Các con đừng sợ nên thánh, đừng sợ đi trên con đường của Chúa”.
Chính Đức Thánh Cha cho thấy ngài vượt lên trên sự sợ hãi, để tông du khắp thế giới làm cho nhiều tâm hồn thay đổi, Lời Chúa được loan báo.
Còn chúng ta, chắc chắn khi nói tới sợ hãi, thì không là sợ ma, sợ học thua sút, sợ mất người yêu, sợ không tròn trách nhiệm gia đình… Nỗi sợ ấy lớn hơn nhiều.
Đó là nỗi sợ trước một thế giới mà giá trị Tin Mừng bị xem nhẹ, vật chất đang lên ngôi, quyền lực đang thắng thế, tự do tình dục đang được ưa chuộng…
Trong khi quyền của trẻ thơ, của thai nhi bị tước mất. Không chỉ những kẻ lạm dụng, mà cả cha mẹ lại là kẻ đầu tiên tước mất quyền sống của con mình.
Một thế giới mà ngòi nổ của khủng bố, chiến tranh lúc nào cũng sẵn sàng. Sự bình an của tôi, của anh chị em, của cả nhân loại luôn bị đe dọa.
Ngay trên quê hương của Chúa Giêsu, nơi mà ngày xưa Chúa sinh ra, trong một thời gian dài, người ta đang gieo rắc cho nhau rất nhiều bạo lực và chiến tranh…
Trước viễn cảnh của thế giới như thế, người Kitô hữu lại được mời gọi hãy sống các giá trị của Tin Mừng.
Nghĩa là phải ngay thẳng trong một thế giới nhiều gian dối, yêu thương giữa những hận thù, có tinh thần nghèo khó trong một xã hội đề cao tiền của, sống tha thứ giữa những chống đối và bạo lực…
Sống như thế chỉ toàn là thiệt thòi. Bởi đó, ai mà không sợ. Nhưng chính trong lúc chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, một lần nữa, bạn và tôi lại được mời gọi “Đừng sợ”, để có thể sống trong bình an của mầu nhiệm Giáng sinh.
Để có bình an, bạn và tôi hãy đặt hết niềm tin vào Chúa. Tin rằng Chúa sẽ thực hiện chương trình của Người theo ý mà Người muốn. Xin cho Thánh Ý được thể hiện nơi trần gian trong mọi hoàn cảnh của thế giới, của nhân loại, của Hội Thánh, và của mỗi người.
Tôi xin mượn lời thiên thần lặp lại một lần nữa: Bạn và tôi, “Đừng sợ!”.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Lời Thiên Chúa hứa với tổ tiên Ađam và Evà từ ngàn xưa, nay đã được thực hiện. Sự kiện Thiên Chúa nhập thể đã xảy ra trong hoàn cảnh ngoại thường. Một Trinh Nữ đã thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần. Đây là sự can thiệp diệu kỳ của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ.
Đối diện với những sự kiện lạ lùng, thường ai cũng sợ hãi. Thiên Chúa luôn luôn trấn an khi sai sứ giả tiếp xúc với con người. Thiên thần luôn nhắc nhở: Đừng sợ! Như khi Thiên Thần xuất hiện với Giacaria trong đền thánh, ngài nói đừng sợ, vì lời cầu của ngươi được chấp nhận. Khi xuất hiện với Trinh Nữ Maria, Thiên sứ cũng ngỏ lời: Đừng sợ, vì cô được đặc sủng của Thiên Chúa. Rồi thiên thần xuất hiện với Giuse, ngài đã khuyên rằng: Đừng sợ, vì Maria thụ thai là bởi phép Chúa Thánh Thần. Sau cùng khi xuất hiện với các mục đồng, Thiên thần cũng loan tin: Đừng sợ, hôm nay Ta báo cho các ngươi một tin mừng trọng đại.
Trinh nữ Maria và thánh Giuse sống trong sự phó thác hoàn toàn. Các ngài không hiểu được việc Chúa làm. Các ngài tin tưởng sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi. Từng bước Chúa dẫn đi. Chúng ta biết theo thói thường, khi Maria mang thai cách lạ kỳ, thì thiên hạ sẽ có cái nhìn soi mói và gây sự đàm tiếu trong xóm làng. Còn Giuse, người công chính, đã khổ đau trong sự bối rối và lo âu. Tuy rằng Giuse không nghi ngờ Maria, nhưng vẫn khó chấp nhận sự thật.
Maria sống rất can đảm. Maria không cần biện minh, giải thích hay bào chữa. Maria đã phó mặc hoàn toàn vào chương trình dự liệu của Chúa. Maria đã ghi nhớ tất cả những sự kiện và suy niệm trong lòng. Bởi thế Maria xứng đáng là Mẹ của Con Thiên Chúa.
Mỗi người trong chúng ta nếu rơi vào hoàn cảnh của Maria hay Giuse, có lẽ chúng ta không thể ngồi yên. Chúng ta sẽ tìm mọi cách để làm sáng tỏ sự việc vì không muốn chấp nhận mình bị hiểu lầm. Đôi khi chúng ta muốn bỏ cuộc, vì chúng ta cảm thấy chán nản, khổ đau và uất ức trong lòng. Hãy nhớ lời khuyên: Đừng sợ! sự thật sau cùng sẽ thắng.
Ngước nhìn lên thánh Giuse và Đức Maria, chúng ta học bài học khiêm nhường và phó thác. Chúng ta biết rằng không phải tất cả mọi sự thật chúng ta phải nói, nhưng khi nói, phải nói sự thật. Đức Maria giữ kín mầu nhiệm nhập thể trong cung lòng và thờ phượng Thiên Chúa hiện diện nơi chính mình. Mẹ đã tìm được sự ủi an và bình an đích thực.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Con người được sinh ra và lớn lên, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, giàu sang hay nghèo hèn, nông dân hay trí thức đều có những ước mơ và hoài bảo. Đó là nguồn động lực đưa con người tiến đến thành công trên đường đời. Ước mơ là điểm xuất phát cho sự phát triển của con người, cho một gia đình, cho xã hội và nhân loại. ĐGH Phanxicô mời gọi: “Chúng ta hãy có khả năng mơ ước, bởi vì khi chúng ta mơ ước những gì cao đẹp, những gì tốt lành, chúng ta sẽ tiến gần hơn đến ước mơ của Thiên Chúa, tiến gần hơn đến những gì Thiên Chúa mơ ước nơi mỗi người chúng ta. Các bạn trẻ hãy có khả năng mơ ước, hãy có khả năng mang lấy những khó khăn thách đố gặp phải trong những ước mơ ấy. Nguyện xin cho tất cả chúng ta lòng tin ngày thêm lớn mạnh trong sự âm thầm bé nhỏ” (x.conggiao.info/thanh-giuse-giup-chung-ta-co-kha-nang-uoc-mo-nhung-gi-cao-dep).
Xưa cũng như nay, những điều con người cảm nhận, suy nghĩ từ những giấc mơ có thể làm thay đổi đời sống họ rất nhiều. Trong Kinh Thánh Cựu ước cũng xảy ra tương tự với ông Gia cóp, với ông Giuse (x.St 28, 10-29; St 37, 5-11) và với Thánh Giuse thời Tân ước.
Calderón de la Barca, một văn hào Tây Ban Nha vào thế kỷ thứ 17 đã viết một vở kịch thời danh về đề tài: “Cuộc đời là một giấc mơ”. Cuộc đời con người trên hết phản ảnh sự ngắn ngủi của giấc mơ. Giấc mơ xảy ra ngoài thời gian. Trong giấc mơ sự vật không tồn tại như trong thực tế. Những hoàn cảnh, cần nhiều ngày hay tuần lễ, xảy ra trong giấc mơ trong vài phút. Đó là một hình ảnh của cuộc đời con người: khi đến tuổi già, người ta nhìn lại và có cảm tưởng rằng mọi sự đều qua đi như một giấc mơ..
Các nhà tâm lý quả quyết rằng tất cả mọi người đều nằm mơ, mặc dầu nhiều người khi tỉnh dậy không biết là mình có mơ lúc ngủ hay không. Đôi lúc chúng ta có những giấc mơ đẹp, nhưng cũng có lúc chúng ta lại gặp những giấc mơ sợ điếng người. Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc các giấc mơ. Nhà phân tâm Freud định nghĩa “những giấc mơ là những bài thơ chúng ta tự ngâm lúc ban đêm để sống thực những ước vọng nằm trong vô thức”. Nhiều người khác lại nghĩ rằng mơ là cách chúng ta ứng xử khi gặp những tình huống ngặt nghèo. Cũng có những người coi giấc mơ như một loại trị liệu tâm lý khi ngủ. Và rồi có cả một kỹ nghệ chuyên giúp cắt nghĩa những giấc mơ, thường là trong việc giúp người có giấc mơ được hiểu sâu xa hơn về mình.
Trong Kinh Thánh, giấc mơ thường được mô tả như dụng cụ mặc khải của Chúa. Qua những giấc mơ, Chúa hướng dẫn một người vào một thời điểm quan trọng việc phải làm hay nơi phải đi.
Trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nói về giấc mơ của Thánh Giuse. Khi được tin Maria mang thai, Giuse đã gặp một tình thế khó xử. Ngài là một người chính trực, nhưng nếu Ngài cứ làm theo luật tức là hủy hôn ước với Maria, Ngài sẽ công khai làm Maria hổ thẹn. Vậy Ngài phải làm gì để gìn giữ sự chính trực của mình cũng như danh dự của Maria và hài nhi sẽ được sinh ra? Giuse đã nhận được lời giải đáp qua giấc mơ.
Thật thế, một thiên thần Chúa đã hướng dẫn Giuse kết hôn với Maria và giảng nghĩa về nguồn gốc thần linh và sứ mạng của hài nhi, đồng thời thiên thần cũng bảo đảm với Giuse rằng Chúa hiện diện ngay giữa hoàn cảnh rối rắm đó. Giuse đã làm theo điều Chúa đã chỉ bảo (Mt 1,18-25). Giuse còn nhận được trong giấc mơ ba lời hướng dẫn du hành nữa: thứ nhất, Chúa bảo ngài đưa con trẻ và mẹ ngài trốn qua Ai Cập (Mt 2,13-15), thứ hai, trở lại Israel sau khi vua Hêrôđê chết (Mt 2,19-21), và thứ ba, đi tới Galilê thay vì Juđêa (Mt 2,22-23). Rõ ràng các giấc mơ của Giuse đến từ Thiên Chúa và được thông truyền bởi sứ thần Chúa; chính sự vâng lời của Giuse đã làm các lời tiên báo trong Kinh Thánh thành hiện thực. (x.Giấc Mơ Trong Kinh Thánh; Nữ Tu B. E. Reid, OP, Tạp chí “The Bible Today”).
Sứ thần truyền tin cho Giuse trong giấc mơ. Sứ điệp truyền thông là: Mẹ Maria đã thụ thai bởi Đức Chúa Thánh Thần, như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo từ 8 thế kỷ: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”. Sứ thần giải tỏa nỗi lúng túng và bối rối của Giuse, khi báo tin, thai nhi nơi người vợ chưa cùng Giuse chung sống là do quyền năng Thánh Thần. Sứ thần mời gọi Ngài cứ đón nhận Maria làm vợ, và chấp nhận thai nhi như con mình. Lời của sứ thần đã soi sáng giải đáp thắc mắc bấy lâu đang dày vò tâm hồn Giuse. Hơn thế nữa, sứ thần đã trao cho Giuse nhiệm vụ đặt tên cho con trẻ mới sinh. Với người Do Thái chỉ có người cha là người có quyền tối hậu trong việc đặt tên cho đứa trẻ, dù cho bà con thân thuộc có muốn gì đi nữa khi chưa có ý kiến của người cha thì việc đặt tên cũng không mang lại giá trị gì. Và Giuse đã nói tiếng Xin Vâng. Giuse đã đón nhận người bạn đời về nhà mình và hết lòng yêu thương chăm sóc cho nàng cũng như cho người Con nàng đang cưu mang. Như một khí cụ ngoan ngoãn trong tay người sử dụng, thánh Giuse đã được Thiên Chúa “chọn mặt gởi vàng”, chọn làm người bảo trợ Đấng Thiên Sai. Ngài cùng với Đức Maria thực hiện mọi quyết định của Thiên Chúa, dầu có phải trải qua biết bao thử thách gian nan cả vật chất lẫn tinh thần.
Ðể Con Thiên Chúa làm người, cần tiếng Xin Vâng của Mẹ Maria, nhưng cũng cần tiếng Xin Vâng khiêm tốn của Thánh Giuse. Nơi những tiếng xin vâng ấy, lời hứa của Thiên Chúa dần được ứng nghiệm. Nhận Maria đang mang thai về nhà mình, và đặt tên cho Hài Nhi trong tư cách một người cha, những hành động ấy đã cho Giuse một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử cứu độ. Nhờ Giuse, Ðức Giêsu đã là người thuộc nhà Ðavít. Những lời hứa của Thiên Chúa đã ứng nghiệm. Cùng với Giuse, Con Thiên Chúa là Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta cho đến tận thế.
Thiên Chúa đã trao cho thánh Giuse nhiệm vụ là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Ngài đã trung tín chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao.Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho mình chăm nom. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ, luôn làm việc vất vả để mưu sinh cho gia đình.
Thánh Giuse đón lấy những mầu nhiệm mà Ngài không hiểu hết. Maria là một mầu nhiệm. Người con sắp sinh ra bởi Thánh Thần cũng là mầu nhiệm. Thánh Giuse đã để cho các mầu nhiệm vây bọc mình. Cả cuộc đời của Ngài là chiêm ngắm các mầu nhiệm diễn ra một cách bình thường, sát bên cạnh mình.
Thánh Giuse xin vâng không phải bằng lời nhưng bằng hành động.Vâng phục bằng việc làm, đó là thái độ sống của Thánh Cả. Trong giấc mơ Thiên thần nói: “Giuse hãy chỗi dậy!”. Ngài liền chỗi dậy bắt tay ngay vào việc.Thánh Giuse là người sống âm thầm làm việc. Với Thánh Giuse, tuy không nói lời nào, nhưng qua hành động cùng cuộc sống, Ngài đã nói đã chỉ hướng về Thiên Chúa cho mọi thế hệ.
Thánh Giuse luôn thao thức lắng nghe tiếng Thiên Chúa, và khi nghe được rồi thì đáp lại không chần chừ, dù cho phải trả giá.
Một câu ngạn ngữ của người Nigêria nói rằng: Hãy lắng nghe và bạn sẽ nghe đựoc những bước chân của các con kiến. Chúng ta được mời gọi để lắng nghe những bước chân âm thầm của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thánh Giuse là mẫu gương sống tâm tình đạo đức Mùa Vọng. Học với Thánh Giuse, bài học lắng nghe và thi hành Lời Chúa, trong tinh thần khiêm tốn, vâng phục, tin tưởng và phó thác, chúng ta sẽ trở nên người công chính Tân Ước như thánh nhân.
.
HÃY ĐỂ CHÚA ĐẾN VÀ HIỆN DIỆN TRONG CUỘC ĐỜI
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
Vì yêu thương nhân loại, nên Thiên Chúa đã trao tặng cho chúng ta chính người Con Yêu Quý duy nhất của mình, để cho những ai tin thì được sống đời đời. Người con ấy có tên là Giêsu. Khi mặc lấy xác phàm, Đức Giêsu đã trở thành Emmanuen, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Tuy nhiên, khi thực hiện hành động yêu thương đó, Thiên Chúa đã nhờ vào sự công chính của thánh Giuse và lòng trong sạch trọn đời đồng trinh của Mẹ Maira. Nói cách khác, thánh Giuse và Mẹ Maria đã sẵn sàng xin vâng trong sự khiêm tốn để thuộc trọn về Chúa và để Người sử dụng mình như người tôi trung và nữ tỳ, ngõ hầu kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa được hiện thực.
- Thánh Giuse và Mẹ Maria, mẫu gương về sự khiêm tốn
Tuy bài Tin Mừng hôm nay chỉ nói đến việc truyền tin cho thánh Giuse, nhưng nếu đọc lại hai cuộc truyền tin cho thánh Giuse và Mẹ Maria cách song song, chúng ta thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của hai đấng. Vẻ đẹp tuyệt mỹ đến ngưỡng mộ, đó là lòng khiêm nhường.
Nơi thánh Giuse, ngài là một con người âm thầm tuyệt đối. Toàn bộ Kinh Thánh không viết lại một lời nói nào của thánh Giuse. Tuy nhiên, nơi thánh Giuse, ngài luôn là người tuân hành thánh ý Thiên Chúa cách trung thành và trọn vẹn. Vì thế, khi được báo mộng cho biết thai nhi trong lòng Mẹ Maria là do quyền năng Chúa Thánh Thần, thánh Giuse đã hoàn toàn vui vẻ đón nhận Đức Maria về nhà mình để chăm lo.
Nếu không khiêm nhường, thánh Giuse không thể chấp nhận chuyện tầy trời này trong sự yêu mến được.
Còn nơi Mẹ Maria, chúng ta đọc thấy sự phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Mẹ luôn ý thức mình chỉ là nữ tỳ của Đấng Tối Cao. Thế nên, thay vì hãnh diện, kiêu căng vì giữa muôn ngàn phụ nữ, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế, thì ngược lại, trước hồng ân lớn lao đó, Mẹ đã khiêm nhường để cất lên bài ca Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 47-48).
Như vậy, nhờ sự khiêm nhường tuyệt vời của thánh Giuse và Mẹ Maria, mà Thiên Chúa đã đoái thương và tuyển chọn các ngài như những người cộng tác trực tiếp vào công trình cứu chuộc của Mình, để ngang qua đời sống gia đình, Con Thiên Chúa đến giữa trần gian, trở thành Đấng Emmanuen.
Tuy nhniên, muốn có được đức tính khiêm nhường, nơi Mẹ Maria và thánh Giuse không ngừng lắng nghe và mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời.
- Thánh Giuse và Mẹ Maria đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa
Nếu nơi Đức Mẹ và thánh Giuse chưa hề có chương trình, kế hoạch cho cuộc đời mình, thì việc các ngài hướng chiều về một hướng đi mới hay kế hoạch mới là chuyện bình thường, không có gì đáng nói. Nhưng đây, nơi các ngài, cả hai đều có kế hoạch riêng liên quan đến cả cuộc đời của mình. Mẹ Maria thì đã khấn giữ mình đồng trinh trọn đời, còn thánh Giuse thì quyết sống âm thầm để phụng sự Thiên Chúa.
Tuy nhiên, cuộc đời và lựa chọn thủa ban đầu của các ngài đã sang trang khi Thiên Chúa muốn các ngài đi theo một hướng khác. Hướng đi của kế hoạch cứu chuộc mà Thiên Chúa đang muốn các ngài là những cộng sự viên tích cực. Khi biết được thánh ý Thiên Chúa, các ngài đã mau mắn đón nhận, sẵn sàng trung thành với ý định của Thiên Chúa.
Vì thế, nơi thánh Giuse, ngài đã vâng lời sứ thần truyền tin, dù trong giấc mơ: “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về làm vợ mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20) ; “Khi thức dậy, Giuse đã thực hiện điều Thiên Chúa truyền” (Mt1,25), nên đã đón Mẹ Maria về nhà. Sự vâng phục Thiên Chúa còn được thánh Giuse biểu lộ cách trung thành khi đặt tên cho con trẻ là Giêsu và dẫn Đức Mẹ và Hài Nhi trốn sang Ai cập cũng như từ Ai Cập trở về Nazareth.
Nơi Mẹ Maria cũng vậy. Sau khi được giải thích qua sự thắc mắc của Mẹ về việc mang thai, Mẹ không một chút do dự, phản kháng hay phàn nàn, Mẹ đã hoàn toàn buông theo thánh ý Chúa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”.
Như vậy, nhờ tiếng xin vâng của Mẹ Maria, Con Thiên Chúa đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta để trở thành Đấng Emmanuen, thì cũng nhờ sự mau mắn, nhạy bén của thánh Giuse, Con Thiên Chúa từ đây được tháp nhập vào dòng dõi vua Đavít để cứu chuộc những ai sống dưới chế độ lề luật.
- Hãy để cho Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời của ta
Hôm nay, chúng ta đã bước sang những ngày cận kề của việc mừng Đại lễ Giáng Sinh, chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng đều đặt ra cho mình câu hỏi như: chuẩn bị đến lễ Giáng Sinh, mình phải đón Chúa với tâm tình nào?
Có lẽ không có tâm tình nào tốt đẹp và ý nghĩa cũng như giá trị cho bằng tâm tình của Mẹ Maria và thánh Giuse, đó là thái độ vâng phục và khiêm nhường.
Tuy nhiên, hai đức tính này đang là một thách đố lớn lao cho hết mọi người. Bởi vì trong cuộc sống hiện nay, có nhiều điều làm cho chúng ta khó lòng vâng phục. Có biết bao thứ làm cho chúng ta khả nghi huyền nhiệm, tức là giảm thiêng.
Thật vậy, sự hiểu biết và văn minh của con người càng phát triển thì sự vâng phục đức tin lại càng trở thành thách đố, bởi lẽ chúng ta ít tin vào những chuyện thiêng thánh, vì thế, sự dửng dưng là điều mà nhiều người trong chúng ta đang mắc phải.
Lời Chúa đối với chúng ta có lẽ không còn chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc đời. cũng vậy, Lời Chúa không còn trở thành kim chỉ nam cho cuộc sống. Vì thế, việc yêu mến, nhạy bén và thực thi Lời Chúa có lẽ đã trở nên nguội lạnh đến khô cứng trong tâm hồn nhiều người. Mặt khác, cũng không ít người luôn luôn sợ phải thực thi Lời Chúa, vì nếu thi hành Lời Chúa dạy, thì chính Lời Chúa lại là rào cản cho những kế hoạch bất chính của chúng ta. Với những lý do trên, nên nhiều khi chúng ta mừng lễ Giáng Sinh với những gì là lễ hội thuần túy chứ không phải là chiêm ngưỡng, cảm nghiệm và sống sự điệp yêu thương của Mầu nhiệm Giáng Sinh.
Nguyên nhân sâu xa đó là thiếu sự khiêm nhường thực sự. Nếu Đức Mẹ Maria và thánh Giuse đã không khiêm nhường, mà ngược lại, các ngài kiêu ngạo, thì chắc chắn Thiên Chúa phải tìm con đường khác để đến với nhân loại. Nhưng các ngài đã khiêm nhường thẳm sâu, sự khiêm nhường của các ngài đã làm cho chương trình cả Thiên Chúa được hiện thực cách tuyệt vời nhất.
Sư điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống sự vâng lời và khiêm nhường, để chúng ta thuộc về Chúa, và để Chúa hiện diện cũng như lớn lên trong tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào mỗi người biết vâng nghe Lời Chúa và sống trong sự khiêm nhường, lúc ấy, chúng ta mới hưởng được trọn vẹn niềm vui Giáng Sinh. Nếu không, lễ Giáng Sinh đến rồi lại đi như một lễ hội, còn tâm hồn chúng ta vẫn trống rỗng, hoang tàn như bãi cát sa mạc hay như những thửa đất khô cằn sỏi đá.
Lạy Đấng Emmanuen, xin ban cho mỗi người chúng con trở nên thửa đất tốt nhờ việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong sự khiêm tốn. Xin Chúa tha thứ lỗi lầm, thiếu xót và thương ngự xuống trong tâm hồn chúng con như xưa Chúa đã đến và hiện diện trong cuộc đời của Mẹ Maria và thánh Giuse cũng như nơi thế giới con người. Amen.
.
Học viện giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
1–. Ai là nhân vật chính của trình thuật: Chúa Giêsu? Đức Maria? Thánh Giuse? Ai là chủ từ các câu xét về văn phạm? Tại sao nơi câu 18, tác giả lại dùng kiểu nói thụ động (“bà đã chịu thai”)?
2–. Bí ẩn của trình thuật: thánh Giuse tỏ ra công chính ở chỗ nào? phải chăng là công chính theo luật? Như vậy thì tại sao ngài hành động cách bí mật? Phải chăng là lòng từ tâm? Vậy thì tại sao ngài định ly dị Đức Maria nếu nghĩ rằng bà vô tội? Muốn trả lời, phải giải quyết bí ẩn khác sau đây: thánh Giuse cho rằng Maria có tội hay vô tội? hay ngài tôn kính bà như hòm bia Thiên Chúa? Có nền tảng văn chương nào cho những lập trường ấy không? hay chỉ có những khó khăn không vượt qua được?
3–. Việc hiện ra cho Giuse được tường thuật với thể văn của các cuộc truyền tin, loại biến cố trong đó luôn có vấn đề một dấu chỉ được mặc khải và một sứ mệnh được trao phó: so sánh với St 16,11 ; 17, 19 ; Tl 13, 3- 5 ; Is 7, 14 ; Lc 1, 26- 28. Trong trình thuật Mt, ta có gặp lại những yếu tố của lược đồ chung ấy không?
4–. Trong các lần hiện ra của thiên sứ sau đó, Giuse có còn được gọi là “con Đavít ” nữa không? Nơi Mt 1, 1, phải chăng Chúa Giêsu đã không được gọi là Con Đavít? Đối chiếu hai trường hợp.
5–. So sánh câu trích dẫn Is 7,14 trong Mt và trong nguyên bản: đâu là chi tiết thay đổi chính? Chi tiết này có ám chỉ điều gì về ý nghĩa của trình thuật không?
6–. Phải chăng không có đồng nhất cơ cấu giữa sứ điệp (cc.20- 21), câu trích dẫn sấm ngôn (c. 23) và trình thuật (c.25)? Hãy nhấn mạnh đến những hạn từ được lấy lại trong mỗi phần của ba phần câu chuyện.
7–. So sánh viễn tượng của Mt và của Lc trong các trình thuật thời thơ ấu. Lc muốn dạy về việc thụ thai đồng trinh và cho thấy Thiên Chúa làm được mọi sự. Mt có mục đích khác không? (x. 1, 1- 17).
8–. Hãy thử tái lập lại cách dịch cc.20- 21: chữ “vì” mở đầu câu nói đến việc thụ thai đồng trinh có ý nghĩa gì?
9–. Nên gán cho đoạn văn tiêu đề nào: “Việc thụ thai Chúa Giêsu cách đồng trinh” hay “Giuse đứng trước mầu nhiệm”? Có thể tìm được một tiêu đề hay hơn không? Hãy tra cứu các ấn bản sách Tin Mừng.
10–. Có thể so sánh Giuse với Gioan tiền hô theo nghĩa nào? Đâu là vai trò của Giuse trong nhiệm cục cứu rỗi?
CHÚ GIẢI
1–. Nếu đem so sánh bản văn này với các câu song song của Luca, ta thấy có một liên hệ nào đó về nội dung:
+ Mt: “Maria, mẹ Người, đã đính hôn với Giuse “.
– Lc: “… một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse … và tên của trinh nữ là Maria …”.
+ Mt: “Chớ sợ lấy Maria, vợ ông, vì thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần “.
– Lc: “Maria, đừng sợ, vì … Thánh Thần sẽ đến trên bà …”.
+ Mt: “Bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu “.
– Lc: “Này đây bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai mà bà sẽ gọi tên là Giêsu”.
Nhưng, trong lúc Lc trình bày việc truyền tin cho Maria, thì Mt lại trình bày việc truyền tin cho Giuse – và vì thế mọi viễn tượng đều thay đổi.
Hơn nữa, do việc Mt 1 -2 không có một đoạn nào song song với Lc 1-2, nên các trình thuật về thời thơ ấu, nơi Mt, có những dị biệt quan trọng sánh với Lc 1- 2 : (a) nơi Mt, Giuse, “con Đavít” (c.20b), kẻ đưa Chúa Giêsu vào dòng dõi Đavít, là khuôn mặt chính yếu chứ không phải Maria (Lc) ; b) Xem ra Giuse và Maria sống tại Bêlem (Mt), vì hình như họ trở về Nadarét là theo một mặc khải đặc biệt nào đó; (c) Trình thuật của Mt chất chứa cả một loạt hành động được truyền làm từ trong giấc mơ, trong lúc Luca không kể lại giấc mộng nào hết; (d) Các chi tiết chính của trình thuật Mt xem ra được chọn lọc phù hợp với một sấm ngôn, như thể để hoàn thành sấm ngôn ấy.
Đặc điểm sau cùng này (đ) cho thấy Mt, khi chọn lựa chất liệu của mình, đã tự giới hạn vào những chi tiết có một nền tảng Kinh Thánh minh nhiên. Mục đích của ông xem ra có tính cách hộ giáo: trình bày Giuse là cha Chúa Giêsu theo pháp luật và như thế thực sự liên kết Người vào dòng dõi Đavít (x. gia phả Chúa Giêsu). Lối trích dẫn Cựu ước dồi dào, và theo cách riêng của Mt, cho phép nghĩ rằng ở đây tác giả tự do khởi thảo bản văn theo quan điểm riêng của mình hơn. Về hình thức văn chương, ông cảm hứng từ một thể văn khá thịnh hành trong Kinh Thánh, thể văn “truyền tin sinh hạ” (x. St 18, 9-15 ; Tl 13, 2- 7 ; 1 Sm 1, 9- 18 ; Is 7, 13- 17 ; Lc 1, 11- 22. 26- 38); những cuộc truyền tin này thường chứa đựng các yếu tố sau đây, được sắp xếp theo một trật tự thay đổi:
– Việc can thiệp của Thiên Chúa, thường được một thiên sứ loan báo (c.20).
– Một lời kêu gọi nhấn mạnh đương sự được thăm viếng với danh nghĩa nào (ở đây là “con Đavít”, c.20).
– Một trở ngại phải vượt qua, thông thường là sự son sẻ của người đàn bà (ở đây, Giuse phải lấy một trinh nữ mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần: các.18 và 20).
– Một dấu hiệu được ban như bảo chứng về sự hoàn thành lời truyền tin (ở đây là sự sinh hạ cách lạ lùng).
– Sau cùng là những xác định về danh tính và tương lai của đứa bé (ở đây, tên Giê-su và ý nghĩa của tên ấy, c.21).
2–. Liên hệ văn chương giữa 1, 18- 25 và 1, 1- 17 nằm trong thành ngữ to gennêthen “thai sinh” (cái được sinh ra) (c.20c), tiếng nhắc lại động từ “sinh” nằm suốt cả đoạn 1, 1 -17: việc Chúa Giêsu sinh hạ, tuy có vẻ lạ thường, vẫn nằm trong đường hướng các cuộc sinh hạ trước đó . Tiêu đề của đoạn 1, 18- 25: “Chúa Giêsu Kitô sinh ra thế này” (c. 18a) gợi lại tiêu đề ở 1, 1 và củng cố mối tương quan chặt chẽ giữa hai đoạn văn chương một. Về phương diện luận lý, 1 , 18- 25 đưa ra những lời giải thích cho thành ngữ ở 1, 16. Bản gia phả đã mặc khải cho ta biết Chúa Giêsu là ai: là Đấng Thiên sai, con của lời hứa cho Abraham, và phát xuất từ gốc Đavít; bản văn tiếp theo cho thấy Người mang nguồn gốc đó thế nào. Thành ra tiếng “Giêsu Kitô”, kết thúc đoạn văn đầu và khai mở đoạn văn sau, là bản lề của cả hai, nhưng đồng thời là trọng tâm của mỗi một đoạn.
Đôi lúc ta thấy như có một đối nghịch giữa 1, 1- 17 và 1, 18-25: các cuộc sinh hạ trước Chúa Giêsu đều thuần túy tự nhiên, thuộc lãnh vực sinh vật, trong lúc việc sinh hạ của Chúa Giêsu hoàn toàn siêu nhiên. Thế nhưng Mt lại muốn nhấn mạnh hơn đến sự kiện này là: chính Thiên Chúa Tạo hóa và Cứu chuộc đã hành động trong mọi cuộc sinh hạ của lịch sử cứu rỗi và trong việc sinh hạ Chúa Giêsu. Ngược lại, phải tránh xem 1, 18- 25 như là tiếp tục bình thường của 1, 1- 17: không có dấu gì trong bảng gia hệ 1, 1- 17 cho phép nghi ngờ việc Chúa Giêsu xuất hiện một cách lạ lùng như 1, 18- 25 kể lại. Thành ra ở đây cũng như khắp nơi trong Tân ước, ta gặp lại sự đối nghịch giữa hai chi tiết đánh dấu việc Chúa Kitô xuất hiện: Người hoàn toàn liên tục với tất cả các tiền nhân của lịch sử cứu rỗi, lịch sử mà Ngươi hoàn thành; nhưng đàng khác? Hoạt động cứu rỗi của Thiên Chúa trong Người siêu việt hẳn mọi cái đi trước.
3–. Chắc chắn 1,18- 25 trước tiên không có mục đích mô tả việc thụ thai Chúa Giêsu cách lạ lùng; việc này chỉ được nhắc sơ qua như một sự kiện mà ai nấy đều biết. Ta cũng có thể bảo, như sẽ chứng minh dưới đây, là tất cả đoạn văn này nhằm trình bày tại sao Giuse phải đem Maria về nhà mình: không phải vì bà được thụ thai đồng trinh, nhưng đúng hơn là: mặc dù bà thụ thai đồng trinh. Theo khía cạnh đó thì mục đích của Mt rõ ràng có tính cách giáo thuyết. Ông chẳng tìm cách tường thuật lại chính giai thoại ấy đâu, vì ông bỏ qua mọi chi tiết thuật sự thông thường như chẳng xác định thời gian, nơi chốn, đặc tính của các nhân vật; trái ngược với Luca, ông không nêu lên danh tánh vị thiên sứ hiện ra. Loại trình thuật sơ sài cô đọng này là đặc điểm của Mt: thật ra đó là một giáo huấn dưới hình thức thuật sự.
Đàng khác, phải nhận rằng sự kiện cưu mang đồng trinh Chúa Giêsu chỉ có một địa vị hạn hẹp trong lời rao giảng nguyên thủy của Kitô giáo ở thế kỷ I, bởi vì ngoài Mt 1 và Lc 1 ra, thì Tân ước không nói tới điều đó chỗ nào nữa cả. Ví dụ các bản tóm tắt giáo lý và các bản tuyên tín cổ xưa nhất, cũng như các thư Phaolô và văn phẩm của Gioan đâu có ghi nhận sự kiện này. Bởi vậy nhiều nhà phê bình đã cho rằng trình thuật cưu mang đồng trinh Chúa Giêsu chỉ là một sản phẩm muộn màng của Kitô giáo chịu ảnh hưởng những thần thoại Hy-La bàn về việc sinh hạ có tính cách thần linh của các nhân vật quan trọng. Nhưng nếu so sánh tỉ mỉ các huyền thoại ấy với trình thuật của Mt lẫn Lc, ta sẽ thấy vấn nạn thật là yếu ớt. Từ ngữ và tư tưởng của Mt lẫn Lc cho thấy trình thuật của họ bắt nguồn từ môi trường Cựu ước, một môi trường hoàn toàn xa lạ với đa thần giáo Hy-la.
Mt 1, 18- 25 được chia ra làm 5 phần:
1) Tiêu đề của đoạn văn (c. 18a);
2) Tình cảnh của Giuse và Maria (cc. 18b-19);
3) Chúa dùng vị thiên sứ can thiệp để giải thích tình cảnh và thông ban một mệnh lệnh (cc.20- 21);
4) Tác giả gợi lên những chiều kích của hành động thần linh đó (cc 22- 23);
5) Sau sùng, Giuse thi hành răm rắp mọi điều Chúa đã truyền cho (cc. 24- 25)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
Qua tiêu đề bản văn (c.18a), Mt muốn ngỏ lời với các tín hữu để xác định hoặc sửa sai quan niệm của họ về việc Chúa Giêsu Kitô sinh ra. Mt không đưa ra một chỉ dẫn nào về Maria và Giuse; ông nói đến các ngài như những người mà độc giả đều biết rõ. Chủ ý của ông chẳng phải là trưng tài liệu song là dạy giáo lý.
Câu 18b gợi ý (song không minh nhiên quả quyết) rằng Giuse đã biết việc thụ thai con trẻ là do Chúa Thánh Thần.
Động từ sunelthein, theo tự nghĩa là “đến với, phối hợp với một người nào đó “, có thể chỉ việc giao hợp hoặc việc sống chung. Văn mạch gần phù hợp với nghĩa đầu hơn. Cô thiếu nữ Do thái, được đính hôn vào khoảng tuổi 12, thoát khỏi quyền giám hộ của người cha để ở dưới quyền giám hộ của người chồng vào lúc 13-14 tuổi (việc chuyển tiếp này, khai mạc việc sống chung, làm nên lễ hôn phối).
“Do tự Thánh Thần”: giới từ “ek” ở đây nói đến một nguyên nhân lịch sử: do một hành động độc nhất của Thánh Thần. Lc 1, 35 thì loan báo một hoạt động tích cực hơn: Thánh Thần “sẽ đến trên” Đức Maria. Từ ngữ của Mt, vì chỉ ghi nhận sự kiện, nên có vẻ dè dặt hơn. Vả lại, Mt mỗi lần nói đến Thánh Thần, là để công bố hoạt động cao siêu của Thiên Chúa, nhưng không giải nghĩa hoặc phân tích gì thêm (3, 11 ; 4, 1 ; 10, 20 ; 12, 18; 12, 28. 31).
“Giuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà”: sự công chính của Giuse hệ tại chỗ nào? Giai thoại ta đang nghiên cứu đã làm các nhà chú giải bối rối không ít. Phần lớn cho rằng sự công chính đó chính là việc mặc khải cho Giuse biết Maria đã thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, hầu chấm dứt mối băn khoăn nghi ngờ nơi ngài. Nhưng lập trường này đẩy ta vào những vấn đề tâm lý giả tạo và khó giải quyết, những vấn đề hoàn toàn xa lạ với tinh thần của tác giả và độc giả Tin Mừng. Đúng hơn là hình như Giuse băn khoăn không phải về tiết hạnh của bạn mình, song là về mối liên hệ giữa ngài và đứa trẻ, về nhiệm vụ ngài phải gánh vác đối với đứa bé đó. Giuse không công chính theo nghĩa là ngài vâng lời Lề luật vì chả có luật nào buộc phải ly dị vị hôn thê mới bị coi như là ngoại tình cả (Đnl 22,13-21.23-27 chỉ liên hệ tới hôn nhân hoàn hợp, như Đnl 24,1 làm chứng). Đàng khác, nếu âm thầm ly dị Maria, thì Giuse lại càng bất tuân Lề luật, vì chứng thư ly dị chỉ có giá trị pháp lý khi mang tính cách chính thức công khai (Đệ nhị luật có nói đến việc ly dị tổ chức ở cửa thành). (Vẫn biết pháp chế của các tiến sĩ luật có cho phép tổ chức việc ly dị riêng tư trước hai nhân chứng – x.Mishnah, Sotah 1, 5- song hình như pháp chế ấy nằm sau thời Chúa Giêsu; hơn nữa, kiểu ly dị như vậy không thể là điều Giuse nghĩ tới, vì bản văn Mt rõ ràng nói đến một việc ly dị “âm thầm, bí mật” – từ ngừ hy lạp lathra, theo Zorelle, Bauer …, chỉ có ý nghĩa ấy – với lại ly dị mà có hai nhân chứng thì sức mấy giữ được bí mật lâu trong một ngôi làng nhỏ như Nadarét …). Sau cùng, mọi lối giải thích sự công chính của Giuse như là “công chính chiếu luật” sẽ đẩy ta vào chỗ tiến thoái lưỡng nan. Thật vậy nếu theo con mắt của Giuse, Maria phạm tội ngoại tình, thì ta hiểu ngay là ngài đã nghĩ tới chuyện ly dị, song ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến việc ly dị âm thầm, vì bấy giờ việc ly dị sẽ chẳng có hiệu lực pháp lý và lại không thể giữ bí mật được lâu. Đàng khác, nếu Giuse coi Maria vô tội, thì ta không thấy tại sao ngài lại nghĩ đến chuyện ly dị bà, vì pháp luật đâu cho phép và vì, xét như là hôn phu, người có bổn phận bảo vệ vị hôn thê vô tội chống lại mọi nghi ngờ vô bằng cứ của kẻ khác. Thành ra không thể cắt nghĩa sự công chính của Giuse như là “công chính theo luật” được.
Vấn đề ở đây là sự công chính tôn giáo, sự công chính đòi hỏi Giuse tôn trọng công trình Thiên Chúa nơi Maria và cấm ông không được đoạt lấy công lao của một hành động thần linh: Giuse nghĩ rằng mình không được quyền đem về nhà một kẻ mà Giavê đã dành riêng cho Ngài. Trước mầu nhiệm ấy, Giuse muốn rút lui, và vì tế nhị đối với Thiên Chúa. Ngài cẩn thận không muốn “tiết lộ” mầu nhiệm thần linh nơi Maria (tiếng deigmatisai, theo Origène và Eusèbe, không bao hàm ý nghĩa xấu tố giác? bêu nhục) như tiếng paradeigmatisai; Jouon cũng dịch là tiết lộ, bày tỏ “). Ngài phản ứng như hết thảy mọi kẻ công chính trong Thánh Kinh trước việc Thiên Chúa can thiệp vào đời họ: như Môisen cởi giày trước bụi gai rực cháy, như Isaia khiếp đảm truởc sự xuất hiện của vị Thiên Chúa ba lần thánh, như Elidabét tự hỏi tại sao mình được mẹ Chúa viếng thăm, như viên bách quản trong Tin Mừng, như Phêrô cúi mình tâu: “Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ tội lỗi “… Như “Abel người công chính”, Giuse đã tỏ mình ra là kẻ hết dạ tôn thờ Thiên Chúa tabel là người “công chính” duy nhất được Mt gọi tên trong Tin Mừng của ông, 23, 36, công chính không phải vì tuân hành Lề luật, vì Lề luật chỉ được công bố với Môisen !).
Lối giải thích này được văn mạch chung của chương 1 Mt xác nhận. Thật vậy, trong đoạn văn đầu tiên, Mt kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ Abraham và Đavít, đi ngang qua Giuse. Nhưng chính gia phả ấy lại gặp một vấn đề hóc búa nơi Giuse. Hóc búa là vì Chúa Giêsu chẳng phải là con Giuse theo xác thịt. Thành ra bản văn chúng ta đây có mục đích giải thích làm sao Chúa Giêsu thuộc về dòng dõi Đavít, mặc dù Người chẳng phải là con Giuse. Và lời giải thích nằm ngay trong việc Giuse thừa nhận Chúa Giêsu trước mặt pháp lý. Do đó ta thấy rõ trình thuật không có mục đích bênh vực việc thụ thai đồng trinh cho bằng là chứng minh làm sao Chúa Giêsu đã trở nên con cháu Đavít và là Đấng Thiên sai dòng dõi Đavít, mặc dầu Người được mang thai đồng trinh, một yếu tố đã gây nên vấn nạn lớn lao. Hai phần của chương đầu Mt như thế làm nên hai vế của cùng một chứng minh vậy.
Một luận cứ xác nhận khác là chính lời của thiên sứ (cc 20-21), nếu được hiểu đúng. Cách dịch hay nhất có lẽ như thế này: “Hỡi Giuse, con Đavít, chớ sợ đem Maria về nhà làm vợ vì quả thật (Hy ngữ : gar ; pháp ngữ : can certes) thai sinh nơi bà là công thành của Thánh Thần, nhưng (Hy ngữ : dé) bà sẽ sinh một con trai mà ông sẽ đặt tên là Giêsu; vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi “. Đúng vậy, lối dịch chữ gar ra vì quả thật thường được thấy trong Tân ước (1 Cr 9, 19 ; 2 Tx 2, 20 ; Mt 18, 7 ; 22, 14 ; 24, 6 …). Thành ra qua lời mình, thiên sứ giả thiết là Giuse đã biết Maria mang thai đồng trinh rồi và chính việc thụ thai này đã thúc đẩy ngài rút lui trước sự can thiệp của Thiên Chúa; tuy nhiên thiên sứ ra lệnh cho ông dù sao (“nhưng”) cũng phải chấp nhận đặt tên cho đứa trẻ và đưa nó vào dòng dõi Đavít.
“Giêsu”: tên chỉ định con người và, đặc biệt trong Kinh Thánh, chỉ định chức vụ mà Thiên Chúa đặt định cho trong lịch sử cứu rỗi. Iêsous là phiên âm hy lạp của tiếng hy bá Yehôshua (Xh 24, 1 3) hoặc Yéthua (Nhm 7, 7), “Giavê là sự cứu độ”, một tên riêng khá phổ thông trong Cựu ước và Tân ước.
“Vì (từ ngữ mở đầu câu nói về ơn gọi, cái ơn gọi được diễn tả qua danh tánh mà Thiên Chúa truyền phải đặt cho đứa trẻ) chính Người sẽ cứu (động từ “cứu” cũng tái xuất hiện trong ba Tin Mừng Nhất Lãm: 15- 15- 17 là trong Mt-Mc-Lc, trong khi chỉ mình Lc gán cho Chúa Giêsu tước hiệu “Đấng Cứu Thế” nơi chương 2, 11 và dùng chữ “ơn cứu độ “) dân mình tức Giáo Hội, Israel đích thực; lao, “dân”, là một từ ngữ riêng của Mt (14 lần, trong lúc Mc chỉ dùng hai lần) dùng để chỉ dân Thiên Chúa) khỏi tội lỗi (x.Tv 130, 8 ; ta không được bảo toàn thể Do thái giáo đương thời Tân ước đều mong chờ một Đấng Thiên sai thuần túy có tính cách quốc gia và chính trị; Thánh vịnh Salomon 17 vẫn hy vọng rằng Con Đavít sẽ quy tụ dân Người, thanh tẩy và thánh hóa họ).
“Mọi sự này xảy ra … ” (cc.22-23). Công thức quen thuộc này của Mt không muốn quả quyết rằng giữa các bản văn Cựu ước và thực tai của Tân ước có một cái gì bình đẳng. Mt cho rằng bao giờ cũng vẫn là chính Thiên Chúa điều khiển lịch sử thánh, nhưng các thực tại Tân ước mới là đích điểm và là sự viên mãn của Cựu ước.
“Này đây, Trinh nữ sẽ thụ thai”: Mt trích Is 7,14 (x.2V 16, 5- 9) theo bản 70 với chữ parthenos, “tính nữ”, trong lúc nguyên bản dùng chữ almâ, là tiếng vừa chỉ một thiếu nữ, vừa chỉ một người vợ trẻ. Vì thế, dựa vào Is 7,14, Do thái giáo miền Palestine không mong chờ một Đấng Thiên sai sinh hạ đồng trinh, nhưng dù vậy Đấng Thiên sai cũng sẽ là một người con đầu lòng (Lc 2,7). Trong hoàn cảnh lịch sử của Is 7,14, vị ngôn sứ chỉ loan báo một biến cố sắp gây chưng hửng cho vua Achaz cũng lòng tin.
“Emmanuel”: Mt chẳng cố ý nêu ra một tên mới của Đấng Thiên sai, song chỉ muốn nói lên ý nghĩa của con người và của công cuộc Người thực hiện. Chính Is 7, 14, bản văn ông trích dẫn, và 8, 8 cũng đã không nhấn mạnh đến sự hiện diện đơn thuần của Thiên Chúa, điều mà cả Kinh Thánh đều giả thiết, nhưng đến sự hiện diện tích cực, hằng cứu giúp của Ngài. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ hiện diện giữa dân Ngài để cứu vớt họ. Lời hứa long trọng của Chúa Kitô vinh hiển “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”, 28,20) đánh dấu việc thể hiện hoàn toàn lời loan báo trên. Như thế, Tin Mừng Mt mở đầu và kết thúc với ý tưởng này là: Thiên Chúa đã hiện diện tích cực với nhân loại trong con người Chúa Giêsu.
Nơi câu 24- 25, Mt ghi nhận: sau khi được Thiên Chúa báo mộng, Giuse không còn thụ động nữa; ngài “tỉnh giấc” hay “chỗi dậy” tuân hành răm rắp lệnh truyền. Chi tiết các câu 24- 25 tương ứng sít sao với lời dạy của thiên sứ (cc.20-21) và với lời giải thích cùng trích dẫn sấm ngôn (cc.22-23). Như câu 23, câu 25 nhận xét rằng Maria còn đồng trinh lúc hài thi sinh ra; thành ra kiểu nói “ông đã không biết bà cho tới ngày bà sinh con” không phủ nhận cũng chẳng ám chỉ sự đồng trinh sau đó. Vả lại ta nên nhớ mẫu tính đồng trinh của Đức Maria không có ý nghĩa sinh vật học (mặc dầu sự kiện có thật) song là Kitô học, nghĩa là diễn tả đức tin của Giáo Hội vào thần tính và nhân tính của Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Ở hai đầu của lịch sử Lời hứa, có hai ơn gọi làm âm vang cho nhau và bổ túc nhau: ơn gọi Abraham, cha của Lời hứa, và ơn gọi Giuse, kẻ mà lòng vâng phục mệnh lệnh thần linh đã giúp thực hiện lời Thiên Chúa hứa là cho Đấng Emmanuel tới. Và nhờ được Giuse đưa vào dòng dõi Đavít, kẻ thụ thác Lời hứa, Chúa Kitô từ nay liên hệ trực tiếp với mỗi người con cháu Abraham, đón con cháu đông như sao trên trời chẳng ai đếm nổi (St 15, 5).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1–. Sự công chính của thánh Giuse không nằm ở chỗ ngài muốn bí mật ly dị Đức Maria. Thật ra nó nằm ở chỗ thánh nhân từ chối coi mình là cha đứa trẻ mà ngài biết là Con Thiên Chúa. Ngài sợ mang tiếng chiếm đoạt vai trò mà Chúa không ủy thác. Sở dĩ ngài muốn ly dị Đức Maria đó là vì tế nhị, vì vâng theo thánh ý Chúa, Đấng không giao cho ngài sứ mạng gì đối với Đức Maria và Hài nhi cả. Đối với Giuse, Thiên Chúa có mặt trong công chuyện này. Thiên Chúa đã sử dụng vị hôn thê của ngài, và vì thế ngài muốn rút êm để khỏi làm cản trở việc thực hiện một chương trình ngài không hiểu thấu. Nói cho đúng, sự “công chính” của thánh Giuse chính là ý thức của ngài về Thiên Chúa, là sự tôn trọng của ngài đối với mầu nhiệm và thánh ý Thiên Chúa. Người Kitô hữu cũng phải có lòng kính trọng sâu xa như vậy đối với các dự tính của Thiên Chúa về mình, phải có ý thức về sự siêu việt của Thiên Chúa mỗi khi Ngài cho ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài trong đời sống thường ngày: qua niềm vui, qua Thánh Thể, qua thử thách, qua lời kêu van giúp đỡ của tha nhân v.v…
2–. Thánh Giuse đã đón nhận Chúa Giêsu Kitô hằng sống. Chúng ta cũng phải đón nhận Người như thế, vì Chúa đang thực sự sống động trong Giáo Hội; nhờ Giáo Hội mà Người tự thông ban cho ta qua Thánh Kinh và Thánh Thể. Ngày nay, tin vào sự hiện diện sống động của Chúa trong Thánh Kinh và Thánh Thể không khó hơn việc thánh Giuse tin rằng con trẻ mà vị hôn thê của ngày chờ đợi thật là Con Đấng Tối Cao.
3–. Thánh Giuse im lặng: Thánh Kinh không ghi lại một lời nào của ngài, một kẻ dù sao vẫn là con cháu Đavít và đã cho Chúa Giêsu được nên con Đavít.
4–. Emmanuel: Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Giêsu: Thiên-Chúa-cứu. Sở dĩ Thiên Chúa ở với chúng ta, đó là để luôn luôn cứu chúng ta. Sự hiện diện của Người trong đời ta là nguồn bình an và hoan lạc lớn lao nhất. Ngày nay, Chúa Giêsu là Emmanuel đối với chúng ta hơn bao giờ hết, vì sau khi sống lại, người đã hứa ớ với chúng ta cho đến tận thế.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 4 MV_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Mùa Vọng xoay quanh cùng một đề tài: Đấng Mê-si-a, “con vua Đa-vít”.
Is 7: 10-16
Bài Đọc I trích dẫn là lời hứa long trọng mà ngôn sứ I-sai-a gửi đến cho vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, trong bối cảnh bi thảm: đất nước bị phân đôi và chịu áp lực tứ phía, vua không có con nối dòng. Thiên Chúa hứa ban cho nhà Đa-vít một dấu lạ: một Trinh Nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên cho con trẻ là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Rm 1: 1-7
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc nhớ rằng xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
Mt 1: 18-24
Tin Mừng tường thuật “Biến Cố Truyền Tin” cho thánh Giu-se. Sứ thần mặc khải cho thánh nhân nguồn gốc thần linh của người con mà Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cưu mang, và xin thánh nhân nhận đứa con này làm nghĩa tử để tháp nhập con trẻ vào dòng dõi vua Đa-vít.
BÀI ĐỌC I (Is 7: 10-16)
Sấm ngôn I-sai-a này là một trong những sấm ngôn vĩ đại về Đấng Mê-si-a: nó vang lên cách long trọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Vị ngôn sứ ngỏ lời với vua A-khát, vua vương quốc Giu-đa, vào năm 734 trước Công Nguyên, tại Giê-ru-sa-lem trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùng cực.
1-. Bối cảnh
Vào lúc đó, đế quốc Át-sua (thủ đô là Ni-ni-vê) đang bành trướng thế lực: đế quốc này gây sức ép trên cả vương quốc phương Bắc (vương quốc Ít-ra-en, kinh đô là Sa-ma-ri) lẫn vương quốc phương Nam (vương quốc Giu-đa, kinh đô là Giê-ru-sa-lem). Trong vòng ba mươi lăm năm, các đạo quân Át-sua xâm chiếm miền Pa-lét-tin đến sáu lần, tàn phá xứ sở và buộc triều cống nặng nề.
Vua A-khát cai trị vương quốc Giu-đa. Vì sợ hãi, vua tìm cách hòa hoãn với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Trái lại, vua Xy-ri và vua Ít-ra-en liên minh với nhau để chống lại đế quốc Át-sua và muốn vua A-khát gia nhập liên minh vơi họ. Vua A-khát từ chối. Lúc đó, các lực lượng liên minh này mở chiến dịch gây sức ép với vua A-khát và đã tiến quân gần đến Giê-ru-sa-lem. Vua A-khát, bất trung với Thiên Chúa, đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh (2V 16: 3-4).
Những lần can thiệp của ngôn sứ I-sai-a có thể đặt vào trong hoàn cảnh bi đát này. Vị ngôn sư chỉ đưa ra một huấn lệnh duy nhất: “Hãy đặt trọn niềm tin tưởng vào chỉ một mình Đức Chúa”.
Bản văn chúng ta đọc mô tả lần can thiệp lần thứ hai của ngôn sứ I-sai-a bên cạnh vua A-khát. Trong lần can thiệp lần thứ nhất, ngôn sứ I-sai-a cố gắng thức tỉnh đức tin đang chao đảo của vua. Chắc chắn vô ích; vị ngôn sứ thử thuyết phục vua cách khác.
2-. Xin một dấu lạ
Ngôn sứ I-sai-a nói với vua: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu lạ dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”, nghĩa là một động đất, sao băng hay sấm chớp…
Vua A-khát trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Nhà vua tìm cớ thoái thác bằng cách viện dẫn Kinh Thánh: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16). Lúc đó, ngôn sứ I-sai-a cất cao giọng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít!”. Và có lẽ trước toàn thể triều thần, vị ngôn sứ long trọng loan báo rằng thậm chí như vậy, Thiên Chúa vẫn cứ ban một dấu lạ và qua dấu lạ này Ngài sẽ cho biết rằng, bất chấp những tội bất trung của vua, Ngài sẽ không bỏ rơi dân Ngài khi ban cho vua một dấu chỉ: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”.
Tên con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, có nghĩa: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, chắc chắn xuất xứ từ phụng vụ. Chúng ta gặp thấy tên này như một điệp khúc trong Tv 46. Tên này đối lập với thái độ cứng tin và ngần ngại của vua A-khát. Ngoài ra, nó cô đọng điều cốt yếu của những lời Thiên Chúa hứa trong Giao Ước.
3-. Tính thời sự của sấm ngôn
Sấm ngôn theo bản văn Hy-bá loan báo một thiếu nữ hay một người vợ trẻ chưa sinh con, tức là một trong các người vợ trẻ của vua sẽ sinh hạ một con trai cho vua. Sấm ngôn sẽ sớm được ứng nghiệm. Đối diện với hoàn cảnh bi thảm của Giê-ru-sa-lem, trước những đe dọa đè nặng trên vương quyền nhà Đa-vít: một mặt, thế lực liên minh muốn lật đổ vua; mặt khác, vua không có con thừa tự, vị ngôn sứ long trọng trấn an khi đảm bảo rằng Thiên Chúa vẫn phù trợ. Việc dòng dõi nhà Đa-vít vẫn không bị tuyệt tự là dấu chỉ cho thấy Đức Chúa vẫn bảo vệ che chở. Xem ra dấu lạ được loan báo ở đây là việc sinh hạ con của vua A-khát, tức vua Khít-ki-gia tương lai. Trên dòng dõi nhà Đa-vít, những niềm hy vọng về Đấng Mê-si-a được kết tinh.
“Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong”: Diễn ngữ “Sữa chua và mật ong” gợi nhớ những ngôn từ diễn tả những ân ban của Đất Hứa: “Xứ sở chảy sữa và mật ong”. Tuy nhiên, theo văn mạch trực tiếp, quang cảnh về xứ sở màu mỡ này nhuốm màu sắc bi quan. Phần tiếp theo của sấm ngôn I-sai-a loan báo lãnh thổ bị quân Át-sua xâm chiếm và trở thành hoang phế: nghề canh tác sẽ bị tàn phá; không còn dầu, rượu lẫn bánh, “toàn xứ sẽ chỉ có gai góc và bụi rậm”. Những ai vẫn còn ở lại trong xứ sẽ chỉ ăn “sữa chua và mật ong” (Is 7: 21-23). Sự thánh thiện của con trẻ sắp chào đời được miêu tả cách thanh đạm: “biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt”.
Cuối cùng, sứ điệp tối hậu của vị ngôn sứ đem lại niềm hy vọng cho triều thần và đặc biệt cho vua A-khát, đó là hai vị vua liên minh chống vương quốc Giu-đa rốt cuộc sẽ thất bại và bị quân Át-sua tiêu diệt trong tương lai không xa. Quả thật, vào năm 732, hai mươi năm sau sấm ngôn này, vương quốc Xy-ri và vương quốc Ít-ra-en bị triệt hạ hoàn toàn: những của cải của họ bị chuyển đến kinh đô Ni-ni-vê, và dân chúng của họ bị dẫn đi lưu đày. Và sau đó không bao lâu, vào năm 721, vương quốc Ít-ra-en bị họa diệt vong.
4-. Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn
Chiều kích Mê-si-a của sấm ngôn này được mặc khải thành hai thời kỳ. Vào thời kỳ thứ nhất, chính ngôn sứ I-sai-a sẽ triển khai sấm ngôn này. Ở chương 9, vị ngôn sứ công bố: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Nhờ sự xuất hiện của con trẻ thuộc dòng dõi Đa-vít này, ánh sáng huy hoàng sẽ bừng lên chiếu rọi khắp miền Ga-li-lê. Ở chương 11, vị ngôn sứ hết lời ca ngợi những đức tính của con trẻ này, Đấng Mê-si-a vương đế sẽ mang đến cho thế giới sự công minh chính trực và nền hòa bình viên mãn.
Vào thời kỳ thứ hai, “dấu lạ” mà vị ngôn sứ được ơn linh hứng xác định rõ hơn. Vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, bảy mươi nhà thông thái thành A-lê-xan-ri-a họp nhau và dịch bản văn Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá sang Hy-ngữ, vì thế được gọi bản Bảy Mươi. Họ dịch “một thiếu nữ” của bản văn Hy-bá sang “một trinh nữ” của bản văn Hy-ngữ: “Một Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai”. Theo họ, ngôn sứ I-sai-a đã ban một dấu lạ, ấy vậy nếu một thiếu nữ sinh hạ một con trai thì chẳng có gì là lạ lùng cả, vì thế phải là một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai, thì đó mới thật sự là dấu lạ cho thấy Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân tộc mình và của nhân loại.
5-. Dấu lạ
Thiên Chúa thực hiện dấu lạ khi mà những luật tự nhiên không đáp ứng hay không còn đáp ứng nữa, như khi Thiên Chúa cho bà Xa-ra, dù son sẻ và tuổi đã cao, sinh hạ I-xa-ác, hay cho bà Ê-li-sa-bét, chị họ của Đức Ma-ri-a, sinh hạ Gioan Tẩy Giả trong hoàn cảnh như bà Xa-ra. Thiên Chúa sẽ thực hiện dấu lạ còn lạ lùng hơn thế nữa khi cho Đức Ma-ri-a, một trinh nữ thụ thai và sinh hạ một con trai mà không cần đến sự kết hợp phái tính.
Nhưng việc sinh hạ Đấng Em-ma-nu-en có một tầm quan trọng khác nữa. Trong hoàn cảnh sấm ngôn được công bố, sứ điệp được gửi đến cho dân Ít-ra-en thật rõ ràng: bất chấp những bất tín của dân Ngài, Thiên Chúa vẫn ở với họ. Bất chấp tội lỗi của con người, bất chấp tội lỗi của chúng ta, “Thiên Chúa vẫn ở với chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Rm 1: 1-7)
Bài Đọc II trích dẫn phần mở đầu Thư gửi tín hữu Rô-ma. Phần mở đầu này tương ứng với với thể thức thư tính rất quen thuộc vào thời đại này: trước hết tên và thân thế của người gửi, tiếp đó tên và thân thế của người nhận, và cuối cùng lời chào và lời cầu chúc. Tuy nhiên, thánh Phao-lô mở rộng những dữ kiện và Ki-tô hóa chúng.
1-. Tên và thân thế của người gửi
Chúng ta lưu ý đến cách thức thánh Phao-lô tự giới thiệu thân thế của mình: trước hết, thánh nhân tự nhận mình chỉ là “tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô”; thứ nữa, thánh nhân nêu lên đặc tính ơn gọi Tông Đồ của mình: thánh nhân được Thiên Chúa gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa, xa hơn một chút, thánh nhân còn nhấn mạnh: “Nhờ Người (Đức Giê-su Ki-tô) chúng tôi nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ”. Qua cách thức giới thiệu này, thánh nhân nhất quyết xem mình ngang hàng với nhóm Mười Hai. Như họ, thánh nhân đã được Đức Giê-su chọn; như họ, thánh nhân đã được gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh và Ngài đã được trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho lương dân. Đây là lý do duy nhất mà thánh nhân có thể viện dẫn để đến Rô-ma, viếng thăm một Giáo Đoàn mà thánh nhân đã không sáng lập.
2-. Tóm tắt đạo lý
Trong lời mở đầu giới thiệu và chào hỏi này, thánh Phao-lô điểm qua những khái niệm Ki-tô giáo và thậm chí rút gọn đạo lý về thân thế của Đức Giê-su. Xét như một phàm nhân, Đức Giê-su xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít; xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Đức Giê-su đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Chúng ta lưu ý cách diễn đạt rất tinh tế của thánh Phao-lô ở đây. Thánh nhân không nói: “Con Thiên Chúa được sống lại từ cõi chết”, nhưng với tư cách là Con Thiên Chúa, Ngài đã từ cõi chết sống lại và lấy lại quyền năng ẩn dấu của Ngài ở nơi nhân tính.
3-. Con vua Đa-vít
Vài người hiểu kiểu nói của thánh Phao-lô: “Theo xác thịt, Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít” theo sát từ rằng Đức Ma-ri-a cũng thuộc dòng dõi vua Đa-vít như thánh Giu-se. Cách hiểu này quá thu hẹp ý nghĩa thông thường của từ “xác thịt” theo Kinh Thánh. Trong Cựu Ước, từ xác thịt thường nhất chỉ toàn thể con người, tức là một phàm nhân đối lập với thần linh. Bất chấp vài điểm tương đồng, quan niệm Do thái về sự duy nhất của con người khác với quan niệm nhị nguyên của dân Hy-lạp theo đó có một sự đối lập giữa thân xác hư nát và linh hồn bất tử. Thuyết nhị nguyên này thật ra xa lạ với tư tưởng Do thái.
Vì thế, phải hiểu câu nói này rằng về phương diện phàm nhân, Đức Giê-su thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Đây là chủ đề ngự trị cả ba bài đọc Chúa Nhật IV Mùa Vọng này. Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, chính xác là Đức Giê-su, ở nơi Ngài mọi lời hứa đều được thành tựu.
4-. Con Thiên Chúa
Thánh Phao-lô không bao giờ sử dụng kiểu nói “được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần” để chỉ tước vị Con Thiên Chúa của Đức Ki-tô như các sách Tin Mừng Nhất Lãm. Quả thật, thánh Phao-lô không bao giờ ám chỉ đến cuộc thụ thai đồng trinh của Đức Giê-su, cũng như không bao giờ nói về Đức Trinh Nữ, ngoại trừ một lần mà không nêu tên: “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4: 4).
Sự thinh lặng này có thể có lý do. Vào thời kỳ thánh Phao-lô viết Thư này, Đức Ma-ri-a có thể vẫn còn sống, vì thế, để bày tỏ lòng tôn kính Mẹ của Chúa Giê-su, thánh nhân kín đáo không nói về Đức Ma-ri-a. Nhất là, thần học của thánh Phao-lô xoay chung quanh trục biến cố Phục Sinh (và nhất thiết là Thập Giá) chứ không là biến cố Nhập Thể. Chính biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô đã thiết lập một cuộc sáng tạo mới, một con người mới, một thời kỳ mới. Chính trong ánh sáng của viễn cảnh này mà lời công bố này mặc lấy tầm mức quan trọng của chúng: “Nhưng xét như Đấng từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng”.
5-. Lời cầu chúc
Sau cùng, thánh Phao-lô chào hỏi những người nhận thư. Thánh nhân ngỏ lời với hai nhóm người hình thành nên cộng đồng Ki-tô hữu Rô-ma: trước tiên, những người Ki-tô hữu gốc lương dân, nghĩa là “những người được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô”; tiếp đó, những người Ki-tô hữu gốc Do thái, nghĩa là “những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh”. Và thánh Phao-lô hiệp nhất hai nhóm làm một trong lời cầu chúc sau cùng: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Ân sủng” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc lương dân, còn “bình an” là lời chào của người Ki-tô hữu gốc Do thái.
TIN MỪNG (Mt 1: 18-24)
Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se về cuộc thụ thai của Đức Giê-su bởi người mẹ đồng trinh là Đức Ma-ri-a. Trong Cựu Ước, văn thể truyền tin tự nó nói lên rằng việc con trẻ được sinh ra không do ý muốn thường tình của cha mẹ, nhưng do sự can thiệp của Thiên Chúa, như chuyện tích truyền tin cho tổ phụ Áp-ra-ham về cuộc sinh hạ I-xa-ác (St 18: 1-15), và cho cha mẹ của ông Sam-son về cuộc sinh hạ ông, một anh hùng của dân tộc (Tl 13: 1-7).
Quả vậy, ngay từ đầu chuyện tích Truyền Tin này, thánh ký ghi nhận cuộc thụ thai lạ lùng của Đức Giê-su: “Bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã đính hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Chuyện tích xoay quanh nhân vật chính: phản ứng của thánh Giu-se trước việc thụ thai của Đức Ma-ri-a mà tác nhân không phải là thánh nhân. Câu chuyện này thường nêu lên hai vấn đề: trước hết, Đức Công Chính của thánh Giu-se; thứ đến, Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a.
1-. Đức Công Chính của thánh Giu-se
Về Đức Công Chính của thánh Giu-se, cách giải thích truyền thống nhấn mạnh rằng thánh Giu-se không hề hay biết câu chuyện Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a. Vì thế, thánh nhân nghi ngờ đức hạnh vị hôn thê của mình, nhưng vì lòng nhân hậu, thánh nhân không muốn tố giác bà cách công khai, nên định tâm lìa bỏ bà một cách kín đáo. Lối giải thích này bật sáng đức hạnh không chỉ của thánh Giu-se, nhưng còn của Đức Ma-ri-a nữa. Sự im lặng của Đức Ma-ri-a thật đáng thán phục. Đối mặt với một mầu nhiệm không thể nào giải thích theo phương diện con người, Đức Ma-ri-a hoàn toàn tín thác vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu việc thụ thai mà vẫn còn đồng trinh là công việc của Thiên Chúa, thì chắc chắn Thiên Chúa có cách để giải quyết vấn đề. Chắc chắn Thiên Chúa đặt để hai vị thánh này vào một sự thử thách nghiêm trọng. Từ đó rút ra một bài học linh đạo tuyệt vời: chúng ta đừng ngạc nhiên nếu phải chịu trăm chiều thử thách trong cuộc đời. Noi gương thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa và triệt để trung thành với kế hoạch yêu thương của Người.
Tuy nhiên, cách giải thích truyền thống này gặp phải một vấn nạn nan giải: Đức Công Chính theo Lề Luật đòi buộc thánh Giu-se phải tố cáo vị hôn thê của mình, vì thế thánh Giê-rô-ni-mô đã nhận xét chí lý rằng: “Thánh Giu-se ém nhẹm trọng tội của vợ mình mà cho là công chính ư?”. Vì thế, theo cách giải thích hiện đại, làm thế nào Đức Ma-ri-a có thể giữ kín cho riêng mình mà không cho thánh Giu-se biết, người mà Mẹ tin tưởng gửi gắm cuộc đời cho thánh nhân như một người chồng? Vì thế, thánh Giu-se không một chút nghi ngờ về đức hạnh người bạn đời của mình. Điều làm cho thánh nhân trăn trở chính là trong hoàn cảnh này, phải biết xử sự như thế nào cho phải lẽ. Một đàng, trên bình diện công bình pháp lý, với tư cách là người chồng hợp pháp của Đức Ma-ri-a, thánh nhân có quyền nhận Đức Ma-ri-a là vợ của mình và đứa con mà nàng cưu mang là con của mình. Nhưng mặt khác, trên bình diện công bình tôn giáo, thánh nhân bị đòi buộc phải kính trọng công việc của Thiên Chúa ở nơi Đức Ma-ri-a mà cho đến lúc này thánh nhân không được Thiên Chúa mời gọi dự phần vào.
Lúc đó, thánh nhân quyết định âm thầm rút lui, nhường bước trước kế hoạch của Thiên Chúa, chấp nhận dâng hiến điều đắt giá nhất của cuộc đời mình: tình yêu đối với Đức Ma-ri-a. Chính trong tâm trạng tiến thối lưỡng nan này mà thánh nhân giữ kín ý định cho riêng mình vì không thể nào thổ lộ hay giải bày với người bạn đời của mình. Vì thế, động từ Hy ngữ được dùng trong bản văn này không có ngữ nghĩa tiêu cục “tố cáo” hay “tố giác” như cách giải thích truyền thống đã hiểu, nhưng mang ý nghĩa tích cực: “thổ lộ” hay “giãi bày”: “Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính, vì thế không muốn ‘thổ lộ’ (giải bày) ý định của mình cho Đức Ma-ri-a”.
Quả thật, để xua tan những nghi ngại của thánh nhân, sứ thần tái khẳng định những gì mà thánh nhân đã biết, đó là thai nhi mà Đức Ma-ri-a cưu mang là công việc của Chúa Thánh Thần, đồng thời mời gọi thánh nhân tham dự vào công việc này trong vai trò là người chồng của Đức Ma-ri-a và là người cha hợp pháp của thai nhi qua việc thánh nhân đặt tên cho con trẻ, nhờ đó con trẻ được sáp nhập hợp pháp vào hoàng tộc Đa-vít, có như thế, sấm ngôn của ngôn sứ Na-than về Đấng Mê-si-a (2Sm 7: 12) được ứng nghiệm. Vì thế, bản văn đòi buộc phải đọc là “Này ông Giu-se, hậu duệ Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì quả thật (“gar”) thai nhi mà bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh thần. Vì thế bà sẽ sinh con trai, còn ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì quả thật (“gar”) chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi của họ” .
Như vậy, Đức Công Chính của thánh Giu-se không dính dáng gì đến việc tuân giữ Lề Luật, (phải nói là việc tuân giữ Lề Luật quá nghiêm nhặt sẽ dẫn đến việc giết chết Đức Ma-ri-a và thai nhi Giê-su), nhưng thành tâm thiện chí lắng nghe để khám phá ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố đời thường của mình và mau mắn tìm cách đáp trả một cách tích cực: “Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà mình”. J. Escriva ca ngợi Đức Công Chính của thánh Giu-se như sau: “Thánh Giu-se là một thường nhân mà Thiên Chúa tin tưởng để thực hiện những điều vĩ đại. Thánh nhân đã làm đúng như Đức Chúa muốn thánh nhân làm, trong từng mỗi một biến cố hình thành nên cuộc đời của thánh nhân. Đó là tại sao Kinh Thánh ca ngợi thánh Giu-se là ‘người công chính’” (Bl. J. Escriva, Christ is passing by, 40).
2-. Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a
Cả hai cách giải thích, truyền thống hay hiện đại, đều nêu bật chủ đích của thánh Mát-thêu: nguồn gốc thần linh của Đức Giê-su trong việc thụ thai đồng trinh. Điều này được khẳng định qua việc trích dẫn sấm ngôn I-sai-a: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nhưng Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a được đặt thành vấn đề ở câu cuối cùng: “Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai”. Anh em Tin Lành thường hiểu liên từ Hy-lạp “cho đến khi” theo nghĩa liên từ tiếng Anh: “until” hay tiếng Pháp “jusqu’a ce que”, theo cách hiểu này Đức Đồng Trinh của Đức Ma-ri-a chỉ giới hạn trước và trong khi sinh con. Tuy nhiên, liên từ Hy-lạp này không khẳng định cũng không bác bỏ việc đồng trinh vẫn tiếp tục sau khi sinh con.
Phải nói rằng qua việc sử dụng liên từ Hy-lạp này, thánh ký không quan tâm đến điều gì đã xảy ra sau đó, nhưng chỉ đơn giản lưu ý điều gì xảy ra cho đến lúc đó, tức là, việc Đức Ma-ri-a thụ thai Đức Giê-su không do bởi tác nhân nam giới, nhưng hoàn toàn do bởi sự can thiệp duy nhất của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy cũng liên từ này ở Ga 9: 18, ở đó những người Pha-ri-sêu được nói cho biết họ đã không tin vào việc anh mù từ lúc mới sinh được chữa lành một cách diệu kỳ cho đến khi họ gọi cha mẹ của anh. Tuy nhiên, sau đó, họ cũng không tin. Sự bỏ ngỏ này được lấp đầy bởi truyền thống Giáo Phụ và Huấn Quyền như lời dạy của Công Đồng La-tê-ra-nô: “Nếu bất cứ ai không tuyên xưng theo các thánh Giáo Phụ rằng theo ý nghĩa đích thật Đức Thánh Nữ Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh là Mẹ Thiên Chúa, bởi vì vào thời sau cùng, không với yếu tố nam nhân nhưng bởi Chúa Thánh Thần, Mẹ đích thật cưu mang Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã sinh ra bởi Chúa Cha từ muôn thuở, và Mẹ sinh hạ Ngài mà không có bất kỳ tổn hại nào đối với Đức Đồng Trinh của Mẹ, vẫn không bị xâm phạm ngay cả sau khi sinh hạ Ngài; thì kẻ ấy sẽ bị vạ tuyệt thông” (can. 3).
3-. Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng
Trọng tâm của câu chuyện Tin Mừng này là nhằm mạc khải nguồn gốc đích thật của Đức Giê-su được gói trọn ở nơi danh xưng “Em-ma-nu-en”, Đức Giê-su không đơn giản là một con người được tuyển chọn, nhưng là Thiên Chúa làm người để ở cùng chúng ta và cứu độ chúng ta.
Hằng năm, theo tiến trình Phụng Vụ, trước ngày đại lễ Giáng Sinh, Giáo Hội cử hành một tuần lễ thường được gọi “Bát Nhật Giáng Sinh” kể từ ngày 17 đến ngày 24 để mời gọi các tín hữu suy gẫm các biến cố và các nhân vật có liên quan trực tiếp đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Như mọi năm, vào ngày 17 và ngày 18, bắt đầu Bát Nhật Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm nguồn gốc nhân loại của Đức Giê-su qua gia phả của Ngài và nguồn gốc thần linh của Ngài qua chuyện tích Truyền Tin cho thánh Giu-se, được đặt ngay từ đầu sách Tin Mừng Mát-thêu, ngỏ hầu khi chiêm ngắm con trẻ trong máng cỏ, chúng ta cũng có tâm tình như các mục đồng xưa: “Các mục đồng ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ” (Lc 2: 20).
.
Trầm Thiên Thu
Đời Nhân Thế Tím Hoa Mong Đức Chúa
Kiếp Tội Nhân Xanh Lá Vọng Ngôi Hai
Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Người ta vẫn nói vậy. Bởi vì sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con cháu cũng chịu chung số phận. Nhưng Thiên Chúa hứa sẽ giải thoát nhân loại theo kế hoạch cứu độ của Ngài. Từ đó, loài người không ngừng mong chờ Đấng Thiên Sai – Đấng Cứu Độ. Cả Cựu Ước và Tân Ước (Is 7:14 và Mt 1:23) đều nói tới Đấng đó với tước hiệu đặc biệt: Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đấng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể làm người, chính Ngài sẽ giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của ma quỷ.
Xưa nay không có ai cao trọng bằng Thiên Chúa, mà cũng chẳng có ai bình dân và thân thiện như Ngài, đến nỗi Ngài đích thân vi hành và vui thích ở giữa nhưng con người hèn mọn là chúng ta – EMMANUEL (chữ Emmanuel cũng được viết là Immanuel). Theo ngữ nghĩa, người ta cho rằng chữ Noël (Pháp ngữ) được giản lược từ chữ Emmanuel – dạng cổ là Naël, và chữ này lại có gốc từ Latin là nātālis (diēs) – nghĩa là “(ngày) sinh”. Chữ phải có nghĩa, chữ nghĩa luôn liên quan cuộc sống. Sự liên kết thật là kỳ diệu.
TỪ SỰ LẠ…
Thời Cựu Ước, Kinh Thánh cho biết rằng chính Đức Chúa phán với vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” (Is 7:11) Ngài cho phép, nhưng vua A-khát không dám. Ông nói: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.” (Is 7:12) Thiên Chúa cho phép ông cứ xin một “dấu lạ” nhưng ông không xin, vì ông biết rõ và tin thật Ngài là Đấng toàn năng, biến không thành có, biến hư vô thành thế giới hữu hình.
Thật tuyệt vời với đức tin của vua A-khát. Đó là cái phúc của ông. Đức tin rất quan trọng và cần thiết, thế nhưng thường thì người ta chỉ tin khi nào mắt thấy tỏ tường, đồng thời cũng thích “chạy đua” tìm kiếm những “dấu lạ” hoặc “sự lạ”, thỏa tính hiếu kỳ rồi thôi, thế mà đôi khi lại mạo nhận là mình có đức tin mạnh mẽ. Có lẽ đa số phàm nhân là thế. Ngày xưa, ngôn sứ Isaia đã phải lên tiếng: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel.” (Is 7:13-14) Mặc dù loài người quấy rầy và cứng lòng, nhưng Thiên Chúa không chấp, Ngài vẫn hứa và giữ trọn lời hứa đó.
Thiên Chúa Ngôi Hai chính là Đấng Emmanuel ấy, là Đức Giêsu Kitô, cũng là Đấng “làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư” và Ngài tạo “nền trái đất dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông.” (Tv 24:1-2) Đấng Emmanuel là Đấng Thánh, cao cả và vĩ đại, thế thì “ai được lên núi Chúa và được ở trong đền thánh của Ngài?” (Tv 24:3) Một câu hỏi xem chừng khá “hóc búa”. Và đó cũng là cách nhắc nhở chúng ta xem lại cách sống của mình.
Mọi thứ đều kỳ diệu về Đấng Emmanuel, Thiên Chúa uy linh cao cả, nhưng Ngài không thích dùng “quyền” mà “hành” người khác như những phàm nhân có chức có quyền, tự cho mình có “thế” hơn người khác. Ngày nay có nhiều dạng “ngu–chảnh” lắm. Ngược lại, Chúa Giêsu lại khiêm hạ và hòa nhã với mọi người, dù người nào đó ô uế vết tội xấu xa. Theo Thánh Vịnh gia, những người được lên núi Chúa và ở trong đền thánh của Ngài là những người “tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối”, và rồi họ “sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng.” (Tv 24:4-5) Thánh Vịnh gia gọi họ là “dòng dõi những kẻ kiếm tìm Ngài, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp.” (Tv 24:6) Dẫu là bùn đất cũng hóa thành vàng ròng và kim cương, bởi vì “những người cậy trông Đức Chúa thì được thêm sức mạnh.” (Is 40:31)
Nhận ra ý Chúa và biết mình là ai, Thánh Phaolô cho biết: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa.” (Rm 1:1) Và ông giải thích rõ ràng: “Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu Kitô.” (Rm 1:2-6) Ôi, chúng ta thật diễm phúc!
Thật vậy, không hạnh phúc sao được, bởi vì dù là tội nhân khốn nạn mà vẫn được Thiên Chúa kêu gọi để thuộc về Ngài, muốn chúng ta hoàn toàn nên giống Ngài: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5:48) Kỳ diệu lắm, chúng ta thực sự là các thánh, thánh-nhân-lữ-hành, cùng sống trong một Hội Thánh, hiệp thông với các thánh-nhân-vinh-hiển (các thánh trên trời) và các thánh-nhân-đau-khổ (các linh hồn thánh nơi luyện hình). Trong tinh thần thánh đức đó, Thánh Phaolô cầu chúc mọi người: “Kính gửi tất cả anh em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.” (Rm 1:7) Hạnh phúc gia tăng, điều đó củng cố đức tin để chúng ta kiên trì chờ đợi trong khoảng Mùa Vọng – chờ mong Chúa Giêsu giáng sinh và quang lâm.
…TỚI MẦU NHIỆM
Kinh Thánh cho biết: “Sự tuyệt hảo của Thiên Chúa cao hơn các tầng trời, sâu thẳm hơn âm phủ, trải dài hơn cõi đất, rộng hơn cả biển sâu.” (G 11:8-9) Mãi mãi phàm nhân không thể hiểu được. Thiên Chúa vô hạn, nhưng loài người và mọi thứ hữu hạn.
Thời gian không dài ra mà ngắn dần. Và Lễ Giáng Sinh đã kề cận, Giáo Hội muốn chúng ta biết rõ “gốc tích” của Đức Giêsu Kitô qua trình thuật Mt 1:18-24, liên quan “dấu lạ” mà ngôn sứ Isaia đã tiên báo từ xa xưa. Thánh sử Mát-thêu cho biết: Cô Maria, mẹ Người, đã thành hôn với Chú Giuse, nhưng trước khi hai người về chung sống, Cô đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Quả thật, đó là điều rất lạ, những người không có niềm tin thì không thể nào tin được. Chắc chắn như thế.
Điều lạ này tiếp điều lạ khác. Cứ theo sự thường thì lời Sứ Thần không khác gì là “tiếng sét ngang tai”, là “chuyện tày trời”. Chắc rằng nếu nghe người ta xì xầm chuyện Cô Maria có thai thì Chú Giuse buồn lắm. Tiến thoái lưỡng nan. Khó xử lắm. Bỏ thì thương mà vương thì tội. Vả lại, cả hai Cô Chú còn trẻ, cùng khấn giữ đồng trinh, vậy mà sao lại có “chuyện động trời” như thế? Đúng là “căng” thật. Nhức óc, đau tim, rối lòng, ăn không ngon và ngủ chẳng yên. Rối quá!
Vốn dĩ đã ít nói rồi, nay Chú Giuse càng trầm mặc hơn, bởi vì là người công chính và cũng không muốn tố giác Cô Maria, thế nên Chú Giuse định tâm âm thầm lặng lẽ bỏ đi xa, có lẽ đó là thượng sách. Tuy nhiên, người tính không bằng trời tính. Kế hoạch của Thiên Chúa rất mầu nhiệm, loài người không thể hiểu nổi.
Y như rằng, trong khi Chú Giuse đang phân vân toan tính như vậy, Chúa sai Sứ Thần hiện đến báo mộng ngay: “Này Chú Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Cô Maria vợ Chú về, vì người con Cô cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cô sẽ sinh con trai và Chú phải đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” (Mt 1:20-21) Chắc hẳn Chú Giuse thở phào nhẹ nhõm vì ẩn số được giải đáp rõ ràng, chính xác, không còn nghi ngờ nữa. Thế thì thực thi thôi!
Mọi sự đều được ứng nghiệm đúng mọi chi tiết, đúng từng dấu chấm, dấu phẩy. Tất cả sự kiện này đã xảy ra đúng như lời Chúa phán qua miệng ngôn sứ Isaia từ ngàn xưa: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” (Mt 1:23) Sau khi tỉnh giấc, Chú Giuse mau mắn làm đúng lời sứ thần nói, vô tư và vui vẻ đón vợ về nhà. Chắc chắn không tránh khỏi lời dị nghị, người nói ra, kẻ nói vào, nhưng tất cả chẳng nghĩa lý gì, chỉ cần tập trung một điều duy nhất: Thi hành Thánh Ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi điều và quan phòng mọi sự, xin soi sáng cho chúng con nhận biết Thánh ý Ngài trong mọi biến cố cuộc đời, để chúng con vui nhận và mau mắn thi hành trọn vẹn. Xin Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse cầu thay nguyện giúp để chúng con có thể sẵn sàng và âm thầm hành động như các ngài trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Chúng ta đang tiến gần tới lễ Giáng Sinh với việc cử hành Chúa Nhật IV Mùa Vọng. Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta chủ đề “Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Chủ đề này như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả ba bài đọc. Chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa của danh hiệu Emmanuen.
1- Emmanuen, hơn cả một tên gọi
Đối với văn hóa Do Thái, tên gọi không chỉ đơn thuần là một từ ngữ, nhưng nó diễn tả một thực tại. Khi một người được đặt tên thì tên gọi đó đại diện cho người đó. Tên gọi nói lên căn tính và sứ vụ của họ. Họ hành xử theo tên gọi của mình. Vậy, tên gọi Emmanuen có nghĩa là gì?
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia giới thiệu với chúng ta nhân vật vua Akhát. Vị vua này đang ở trong thời kỳ mà triều đại ông đang gặp thử thách gian truân. Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa báo cho vua biết rằng: Ta sẽ ở đây với ngươi; Ta sẽ bảo vệ ngươi. Ngươi không cần phải ký kết các giao ước với bất kỳ ông vua nào trên trái đất để bảo vệ dân và triều đại ngươi. Ngươi hãy tin tưởng vào Ta và hãy xin một dấu chỉ. Ta là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu chỉ dưới đáy âm phủ hoặc ở trên trời cao xanh (x. Is 7,10-14). Nghĩa là ngươi có thể xin một dấu chỉ lớn lao nhất, vĩ đại nhất làm bảo chứng rằng Ta sẽ ở với ngươi và bảo vệ ngươi.
Chúng ta hãy nhìn vào điều này: Thiên Chúa sẵn sàng ban tặng một dấu chỉ làm bảo chứng cho vua Akhát. Nhưng Akhát đã từ chối sứ điệp của Thiên Chúa với những lời xem ra rất đạo đức: Tôi không muốn làm phiền lòng Thiên Chúa. Tôi không muốn thử thách Thiên Chúa. Tôi không muốn ép Chúa phải làm cho tôi điều này điều kia.
Cách thức của ông từ chối là rất đúng, nhưng ở bên trong, ẩn chứa sự cứng lòng của vua Akhát. Bởi vì, ông thích ký kết các giao ước với vua trần thế hơn là sự hiện diện quan phòng của Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ cuộc. Chúng ta hãy lắng nghe điều gì đó rất ý nghĩa đã xảy ra ở đây. Thiên Chúa đã đi bước trước, ngay cả khi Akhát từ chối không xin một dấu lạ nào. Thiên Chúa nói rằng: Ta sẽ ban cho ngươi một dấu chỉ. Dấu nào vậy?
“Này đây, người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7,14). Một con trai sẽ được sinh ra như lời đã hứa; tên con trẻ này có nghĩa là Thiên Chúa ở với dân Người và bảo vệ dân bằng sự hiện diện của mình.
Như thế, ý nghĩa của vị Thiên Chúa hiện diện, ở bên cạnh để sẵn sàng đáp cứu được thể hiện nơi Đấng Emmanuen. Sự hiện diện này được ban cho chúng ta như là một món quà, mặc dầu bị từ chối, Thiên Chúa vẫn luôn đi bước trước: Ta sẽ ở với ngươi vì Ta là Đấng Emmanuen. Nhưng Đấng Emmanuen là ai?
2- Đức Giêsu là Emmanuen
Thánh Phaolô trong bài đọc II nói rằng: Đó là Đức Giêsu Kitô và theo thánh Phaolô, trung tâm điểm của Tin Mừng chính là Đức Giêsu, là con người Chúa Giêsu, chứ không phải là những khái niệm, những ý tưởng, hay những lý tưởng, nhưng là con người Giêsu, Người xuất thân từ dòng dõi vua Đavít. Như thế, Người thực sự là con của Đavít, đến từ dòng dõi vua, Người thực sự là một con người, nhưng cũng theo Phaolô, con người nhân bản này, Chúa Giêsu Kitô có nguồn gốc rất rõ ràng từ dòng dõi vua Đavít, thực sự là Con Thiên Chúa. Điều này được mạc khải nhờ Chúa Thánh Thần sau khi Người phục sinh. Như thế, Người không phải là một người con bình thường, cũng không phải là một hậu duệ bình thường của Đavít, nhưng Người thực sự là Con Thiên Chúa, Người được Thiên Chúa sai đến giữa chúng ta. Người là Tin Mừng về ơn cứu độ. Người là Tin Mừng về sự hiện diện của Thiên Chúa. Chính vì thế, thánh Phaolô được Thiên Chúa tuyển chọn làm Tông Đồ để loan báo Tin Mừng này.
Nhưng ở đây có sự liên hệ đến Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở cùng chúng ta trong Đức Giêsu Kitô. Điều này có tạo nên sự khác biệt không?
Thưa rằng: Có, theo thánh Phaolô, để Chúa Giêsu ở với chúng ta, Thiên Chúa ở với chúng ta. Chúng ta phải ở với Chúa Giêsu. Phaolô rao giảng Chúa Giêsu để chúng ta có thể thuộc về Người theo cách thức mà Chúa Giêsu ở với chúng ta.
Vậy chúng ta đáp trả thế nào đối với Đấng Emmanuen? Nếu Người ở với tôi và khi đó tôi có muốn ở với Người không? Như thế, tên Người không chỉ là tên gọi, mà là một lời mời gọi: Chúa ở với bạn và bạn cũng sẽ ở với Chúa.
3- Một dự phóng làm đảo lộn
Trong bài Tin Mừng, chúng ta có một trình thuật về sự sinh hạ của Chúa Giêsu, Đấng Emmanuen. Vâng, đó là một câu chuyện rất bình thường. Nhưng tôi muốn tập trung vào điểm này.
Chúng ta nói Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta, nhưng trong kinh nghiệm của Đức Maria và thánh Giuse, Đấng Emmanuen đến trong cuộc đời các ngài như là sự quấy rầy làm đảo lộn toàn bộ đời sống bình thường. Không ai trong chúng ta mong muốn dự phóng đời mình bị đảo lộn. Chúng ta không muốn một sự trở ngại nào cả; chúng ta muốn có một sự hoàn thành thật êm ái cho những dự phóng của mình.
Nhưng Đức Maria như chúng ta biết chuyện xảy ra, trong chương trình này của Chúa, Mẹ phải chấp nhận bị xem là phản bội với Giuse, sẽ phải bị hiểu lầm… nhưng có điều gì đó kỳ diệu xảy ra ở đây phải không?
Chúa Thánh Thần đến can thiệp, nhờ đó, thánh Giuse quay trở về và sẵn sàng đón nhận Đức Maria là vợ của mình. Ông nhận ra rằng Maria đã có thai bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Thật là một sự can thiệp kỳ diệu! Vì là một người Do Thái trung thành, Giuse muốn tuân theo lề luật và phải từ bỏ Maria. Là một người công chính, ông muốn rút lui trong âm thầm, không muốn công khai tố cáo và kết án bà Maria theo lề luật, bởi khi làm như thế Maria phải chết. Những dự định của ông đã sẵn sàng: tôi sẽ bỏ bà, tôi sẽ li dị bà. Một lần nữa, Thiên Chúa đến can thiệp nhờ một thiên sứ trong giấc mơ: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20).
Như thế, Thiên Chúa đã đi bước trước. Thiên Chúa đã ra tay hành động nơi Giuse, để ông không chỉ là chồng của bà Maria, nhưng còn là cha của người con này, ông sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ. Và người con Giêsu này là sự thành toàn, sự viên mãn của lời ngôn sứ Isaia về Đấng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta. Ở đây, chúng ta có sự viên mãn của sự hiểu biết về ý nghĩa danh xưng Emmanuen – Thiên Chúa ở với chúng ta như là Đấng đến cứu độ chúng ta. “Thiên Chúa ở với chúng ta” không phải như một sự hiện diện tĩnh lặng, khô khan. Nhưng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta như là tình yêu, là ơn cứu độ, như là một Ai đó gần gũi để hướng dẫn chúng ta tới những điều tốt lành và để bảo vệ chúng ta từ cánh tay yêu dấu Người.
Như thế, chúng ta đừng quá thất vọng khi gặp phải sự đảo lộn trong cuộc sống của mình. Bạn hãy biết rằng lúc đó Chúa đang muốn đồng hành với bạn và muốn cứu độ bạn. Có thể Thiên Chúa đang hỏi bạn: Ta ở với con nhưng con có ở với Ta không? Đó là câu hỏi mà trong Giáng Sinh năm nay bạn hãy tự trả lời với Chúa. Amen!
.
Lm Vũđình Tường
Đức Kitô sinh ra không phải là sự kiện lịch sử hay biến cố bình thường, mà chính là đặc sủng Thiên Chúa ban cho nhân loại. Đức Kitô sinh ra nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi loài người phạm tội bất tuân, Thiên Chúa không để mặc nhân loại chìm đắm trong nô lệ tội lỗi, nhưng hứa ban Đấng Cứu Thế. Chính Thiên Chúa là Đấng đưa ra chương trình cứu độ nhân loại. Nhân loại trông chờ ngày đó đến. Tiên tri Isaiah nhiều lần loan báo Đấng Cứu Thế đến, và nhân loại phải chờ đến tám thế kỉ sau, Đấng Cứu Thế mới sinh ra. Bởi nhân loại bất tuân Thiên Chúa, nên Đức Kitô xuống thế làm người, và Ngài vâng lời Thiên Chúa cho đến chết trên thập tự. Đức Kitô, một thành viên của xã hội nhân loại, Ngài vâng lời Chúa Cha cách tuyệt hảo, đền thay tội bất tuân của toàn thể nhân loại. Chính Đức Kitô nhiều lần xác quyết điều đó:
Ta đến không phải làm theo í Ta, nhưng theo í của Đấng đã sai ta’ Gn 4,34; 5,30; 6,38.
Đức Kitô sanh tại Bethlehem nhưng được nhận biết là Đức Kitô thành Nazareth, nơi sinh của hai ông bà Juse và Maria. Ngài chọn cách viếng thăm dân Ngài cách âm thầm, đơn giản, bình dị ngoài sức trông chờ của mọi người. Đơn sơ, nghèo hèn đến độ nhân loại không tin, Ngài là Con Thiên Chúa sinh xuống trần gian. Ngài làm điều đó với mục đích tỏ cho nhân loại biết, Đấng Cao Cả chọn cuộc sống nghèo hèn, hèn mọn để đến với dân Người. Cha mẹ nhân loại của Ngài là ông Juse và bà Maria, cả hai là dân quê. Cuộc sống nghèo, đạm bạc, tấm lòng hết mực khiêm nhường, đời sống đạo hạnh, công chính, trọn đời phó thác vào Thiên Chúa. Cả hai cùng chọn chương trình riêng cho mình, nhưng khi sứ thần đến viếng thăm, cả hai đều từ bỏ chương trình riêng của mình, đón nhận í Chúa, và cả hai trung thành với lời đoan hứa cho đến trọn đời. Cô thôn nữ Maria nguyện sống cuộc sống độc thân, nhưng rồi theo í Chúa, cô chấp nhận làm mẹ Đấng Cứu Thế. Phần ông Juse khi biết trinh nữ Maria có thai trước khi hai người về chung sống, ông dự tính âm thầm ra đi. Có lẽ điều này cô Maria không hề biết. Thời buổi đó sau ngày ‘đặt trầu’ đám cưới là bước kế tiếp, bước cuối. Đầu xuôi, đuôi lọt. Dù chưa cưới nhưng nếu huỷ bỏ hôn ước được hiểu là li dị, và cần phải ra trước pháp luật để điều đó thành sự. Luật lệ Do Thái lúc đó coi việc có thai trước khi cưới là một trọng tội, tội ngoại tình, và tội này bị xử chết bằng cách ném đá. Để tránh cho cô Maria bị tử hình, ông Juse âm thầm trốn đi. Với Juse là kín đáo, là âm thầm, chỉ mình ông hay, chỉ mình ông biết, chỉ mình ông quyết định. Điều thầm kín đó lại tỏ tường với Thánh Thần Thiên Chúa và Ngài đã soi sáng, hướng dẫn ông giải quyết sự việc cách ổn thoả. Thánh thần còn cho biết thêm ngay cả việc đặt tên cho đứa trẻ cũng đã được Thiên Chúa định trước, vì thế em bé sinh ra sẽ được gọi là Đấng Cứu Độ dân Chúa- (Mat 1,21) và đó là sứ mạng trọn đời của Chúa Cứu Thế. Chính lúc ông Juse quyết định chia tay, sứ thần Chúa đến nói với ông là, thai nhi trong cung lòng trinh nữ không phải do loài người, mà chính là do Thánh Thần Chúa xếp đặt. Ông Juse nhận cô Maria về lo lắng, bảo trợ. Về phương diện nhân loại thì rõ ràng hai ông bà Juse và Maria, đóng vai trò chính trong việc sinh Đức Kitô. Về phương diện tâm linh, chính hai ông bà nhận biết cách tỏ tường bàn tay Thiên Chúa hoạt động tích cực trong đời sống hai người. Thánh Thần Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh, trong cuộc sống của hai người, từ khởi đầu cho đến khi hoàn thành sứ mạng, và còn tiếp tục hiện diện cho đến ngày hai ông bà về hưởng Nhan Thánh Chúa.
Việc Augustus ra lệnh cho dân chúng về nơi sinh để làm sổ kiểm tra toàn dân, đây là lần kiểm tra đầu tiên trong lịch sử; sự việc này cũng không phải do ngẫu nhiên, hay trùng hợp. Sự việc đó không nằm ngoài í định của Thiên Chúa. Đức Kitô sinh ra nơi chốn không người, ngụ í nói cho nhân loại biết cuộc sống trần gian chỉ là chốn tạm bợ. Ngài sinh nơi ngoài đồng hoang, không nhà cửa, ngụ í nói quê hương thật của chúng ta là quê trời, nơi có Thiên Chúa ngự trị. Đức Kitô sinh ra giữa đám nghèo hèn, bị xã hội chối từ, bỏ rơi, ngụ í nói cho chúng ta biết Thiên Chúa không xua đuổi một ai, dù họ ở trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngài đến với họ, hy vọng họ mở tấm lòng đón Ngài. Mục đồng lội tuyết đi đến cùng Đức Kitô, ngụ í cho biết bất cứ ai thành tâm tìm kiếm Ngài chắc chắn sẽ tìm gặp. Ba vị từ phương đông đi tìm gặp Ngài, ngụ í cho biết dù xa cách ngàn trùng, dù không biết đường, không thuộc lối nhưng thành tâm ra đi tìm Ngài, họ sẽ được chỉ đường.
Chúa Cứu Thế sinh ra làm tròn điều Chúa hứa xưa, thoả mãn lòng mong đợi của những tâm hồn thành tâm trông chờ. Ngài đến ban sự sống và sự sống trường sinh cho nhân loại.