Cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Đa Minh Bruno Cadoré, OP, và Đức Cha David Martinez de Aguirre Guinea, OP, Giám quản tông toà Puerto Maldonado, cùng Đức Thánh Cha Phanxicô trong cuộc gặp gỡ các dân tộc vùng Amazzonia.
Toà Giám Quản Puerto Maldonado được thành lập ngày mùng 10 tháng 3 năm 1949 rộng 150.000 cây số vuông, có hơn 334 ngàn dân cư, đa số theo công giáo. Giáo đoàn địa phương có 21 giáo xứ, 4 nhà thờ, 40 linh mục triều, 3 đại chủng sinh, 18 nữ tu, 21 tu huynh và 33 thành viên các dòng nữ. Giáo hội điều khiển 65 cơ sở giáo dục và 11 trung tâm bác ái xã hội.
Từ phi trường ĐTC đã đi xe về trung tâm thể thao Coliseo Mẹ Thiên Chúa cách đó hơn 4 cây số để gặp gỡ các dân tộc vùng Amazzonia. Trung tâm thể thao này ba tầng có 5.000 chỗ đã đuợc xây năm 2010 và khánh thành năm 2013. ĐTC đã đi một vòng để chào 4.000 tín hữu thuộc nhiều bộ tộc thổ dân quy tụ về đây.
Chương trình gặp gỡ mở đầu với vũ điệu chào đón của các trưởng lão Arambut. Tiếp đến là lời chào mừng của ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, giám quản Puerto Maldonado, rồi chứng từ của một cặp vợ chồng đại diện các dân tộc vùng Amazzonia. Sau đó là lễ nghi trao bản dịch Thông điệp Laudato si trong các ngôn ngữ địa phương, trong khi ca đoàn trình tấu một bài ca Machirenga.
** Ngỏ lời với mọi người ĐTC đã mạnh mẽ tố cáo các đường lối phát triển khai thác chỉ nhắm các lợi nhuận gây thiệt hại cho các thổ dân và nền văn hoá của họ. Ngài đề cao các giá trị văn hoá phong phú và tinh thần cao quý của các thổ dân và khích lệ họ cộng tác với Giáo Hội trợ giúp các giám mục và các thừa sai nam nữ trong việc đối thoại với tất cả mọi người, và nhào nắn một Giáo Hội với gương mặt Amazzonia, một Giáo Hội với gương mặt thổ dân, duy trì căn tính và bênh vực các quyền lợi của thổ dân.
ĐTC cám ơn các lời chào mừng của ĐC David Martinez de Aguirre Guinea, và chứng từ của ông Hector, hai bà Yescica và Maria Luzmila. Qua họ ngài cám ơn và chào thăm tất cả mọi người dân toàn vùng Amazzonia. Họ đến từ nhiều dân tộc của vùng này: Harakhut, Esse-ejas, Matsiguenkas, Yines, Shipibos, Ashaninkas, Yaneshas, Kahintes, Nahuas, Yaminahuas, Juni Kuin, Madija, Manchineris, Kukamas, Kandozi, Quichuas, Huitotos, Shawis, Achuar, Boras, Awajun, Wampis. Cũng có các dân tộc đến từ vùng núi Andine sinh sống và trở thành dân Amazzoni. ĐTC nói Sự hiện diện của anh chị em giúp tôi trông thấy gần, nơi gương mặt của anh chị em, phản ánh của vùng đất này. Một gương mặt đa diện, một khác biệt vô tận, và một sự phong phú sinh thái, văn hoá và tinh thần. Những người không ở trong vùng này cần tới sự khôn ngoan, các hiểu biết của anh chị em có thể vào sống tại đây mà không tàn phá kho tàng của vùng này. Tôi nghe vang lên các lời Thiên Chúa nói với sông Môshê: “Hãy cởi dép ra, vì đất trên đó ngươi đang đứng là thánh địa” (Xh 3,5)
Xin anh chị em cho phép tôi lập lại một lần nữa “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì công trình kỳ điệu của các dân tộc Amazzoni và toàn sinh thái khác biệt mà các vùng đất này chứa đựng!.
Bài ca chúc tụng này bị bẻ gẫy, khi chúng ta lắng nghe và trông thấy các vết thương sâu đậm mà vùng Amazzonia và các dân tộc của nó đang mang trong mình. Tôi đã muốn đến để viếng thăm và lắng nghe anh chị em, để ở trong con tim của Giáo Hội, hiệp nhất với các thách đố của anh chị em, và tái khẳng định việc lựa chọn xác tín bênh vực sự sống, bảo vệ đất đai và các nền văn hoá.
Có lẽ chưa bao giờ các dân tộc vùng Amazzonia bị đe dọa như hiện nay trong chính vùng đất sống của mình. Amazzonia là vùng đất bị tranh luận trên nhiều phiá: một đàng là tân chủ trương khai thác và áp lực mạnh của các lợi nhuận kinh tế lớn hướng dẫn các tham lam của chúng đối với dầu hoả, hơi đốt, vàng, các trồng tiả chuyên nhất của kỹ nghệ nông nghiệp; đàng khác là sự đe dọa chống lại đất đai của anh chị em, cũng đến từ vài đường lối chính trị thăng tiến “việc duy trì” thiên nhiên, mà không chú ý tới con người, và cụ thể là không chú ý tới các anh chị em Amazzoni sống trong đó. Chúng ta biết là có những lúc nhân danh việc duy trì rừng già người ta chiếm hữu các vùng rùng đất rộng và thương lượng chúng bằng cách tạo ra các tình trạng áp lực đối với các dân tộc sống trong đó nhưng lại không thể hưởng đất đai và các tài nguyên của nó. Vấn đề này bóp nghẹt các dân tộc của anh chị em, vì tạo ra các cuộc di cư của các thế hệ mới trước việc thiếu các cơ may tại địa phương. Chúng ta phải bẻ gẫy mô thức lịch sử này coi vùng Amazzonia như là một quán bán thực phẩm vô tận của các quốc gia, mà không chú ý tới các người dân của nó.
** Cần phải cố gắng tạo ra các không gian cho các cơ cấu biết tôn trọng, biết thừa nhận và đối thoại với các dân tộc bản địa, bằng cách tiếp nhận và cứu vãn nền văn hoá, tiếng nói, các truyền thống, các quyền lợi và giá trị tinh thần của họ. Một cuộc đối thoại liên văn hoá, trong đó anh chị em là các tác nhân chính đối thoại, nhất là trong lúc có các dự án lớn liên quan tới các không gian sống. Việc thừa nhận và đối thoại sẽ là con đường tốt nhất để biến đổi các tương quan cũ đã bị ghi dấu bởi sự loại trừ và kỳ thị.
Đàng khác cũng phải thừa nhận các sáng kiến hy vọng nảy sinh từ các thực tại địa phương và các tổ chức của anh chị em tìm cách khiến cho các dân tộc bản địa và các cộng đoàn trở thành những người giữ gìn rừng già và các tài nguyên phát xuất từ đó sinh lợi cho gia đình của anh chị em, cải thiện các điều kiện sống, sức khoẻ và nền giáo dục trong các cộng đoàn của anh chị em. Hành động tốt này phù hợp với các thực hành sống tốt trong sự khôn ngoan của các dân tộc anh chị em. Và nếu có ai coi anh chị em như là một chướng ngại hay một cản trở, thì với cuộc sống của mình anh chị em là một tiếng kêu hướng tới lương tâm của một kiểu sống không có khả năng đo lường các giá mắc mỏ của nó. Anh chị em là ký ức sống động nhắc nhớ sứ mệnh mà Thiên Chúa dã tín thác cho tất cả chúng ta: đó là săn sóc căn nhà chung.
Tiếp tục bài nói chuyện ĐTC khẳng định: việc bảo vệ trái đất không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ sự sống. Chúng ta biết có người trong anh chị em đã đau khổ vì dầu hoả chảy ra ngoài, đe dọa nghiêm trọng cuộc sống gia đình anh chị em và gây ô nhiễm môi sinh.
Song song cũng có một sự tàn phá sự sống khác nữa gây ô nhiễm môi sinh đó là việc khai thác bất hợp pháp: tôi muốn nói tới việc buôn người: công nhân làm việc như nô lệ và việc lạm dụng tính dục. Bạo lực chống lại các người trẻ và phụ nữ là một tiếng kêu thấu tới trời. Tình trạng của những người trở thành đối tượng của các hình thức buôn người đã luôn luôn khiến tôi đau đớn. Tôi muốn người ta lắng nghe tiếng kêu của Thiên Chúa hỏi tất cả chúng ta: “Em con đâu?” (St 4,9) Người anh em nô lệ cuả con đâu… Chúng ta đừng giả bộ như không có gì. Có rất nhiều đồng lõa. Câu hỏi này là cho tất cả mọi người.
Làm sao không nhớ tới thánh Toribio, khi ngài đau đớn nhận ra trong công đồng Lima thứ ba rằng “không phải chỉ trong các thời đại quá khứ người ta đã gây ra biết bao xúc phạm và bạo lực quá đáng cho các anh chị em nghèo này, mà ngay cả ngày nay nữa nhiều người vẫn tiếp tục làm cùng các điều ấy”. Rất tiếc sau 5 thế kỷ các lời này vẫn còn thời sự. Anh Hector và chị Yesica cũng nhắc cho chúng ta biết đó là tiếng kêu của dân chúng bị bắt buộc phải im lặng không được nói. Lời tiên tri nói trên của những người có đức tin phải tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội để bênh vực các người đau khổ.
** Từ sự lo lắng này phát xuất ra việc lựa chọn bênh vực sự sống của những người không đuợc bênh vực. Tôi đang nghĩ tới các dân tộc gọi là “các dân tộc thổ dân tự cô lập”. Chúng ta biết họ là những người dễ bị tổn thương nhất trong những người bị tổn thương. Những gì xảy ra trong quá khứ đã bắt buộc họ bị cô lập bởi chính các chủng tộc của họ và bị gạt bỏ trong những nơi xa xăm nhất của rừng già để có thể sống tự do. Anh chị em hãy tiếp tục bênh vực các anh chị em bị tổn thương này. Sự hiện diện của họ nhắc cho chúng ta biết chúng ta không thể tuỳ tiện sử dụng của chung theo nhip độ tham lam của tiêu thụ. Cần có các hạn chế giúp chúng ta bảo vệ mình khỏi việc tàn phá môi sinh hàng loạt.
Chúng ta không phải là chủ nhân của tạo vật. Cần cấp bách tiếp nhận phần đóng góp nòng cốt của các dân tộc này cho toàn xã hội… Quan niệm của họ về vũ trụ, sự khôn ngoan của họ có thể dậy chúng ta nhiều điều.
Nền văn hoá của các dân tộc chúng ta là một dấu chỉ của sự sống. Ngoài việc là một vùng sinh thái, Amazzonia cũng là một kho tàng văn hoá cần dược duy trì trước các chủ trương thực dân mới. Gia đình là và sẽ luôn luôn là cơ cấu xã hội góp phần nhiều nhất vào việc duy trì sống động các nền văn hoá của chúng ta. Trong các thời điểm khủng hoảng của quá khứ, đứng trước các đế quốc mới, gia đình các dân tộc thổ dân đã là cơ cấu tốt nhất bảo vệ sự sống. Chúng ta được mời gọi đặc biệt săn sóc gia đình đừng để cho mình bị bắt bởi các chủ trương thực dân ý thức hệ, mang mặt nạ tiến bộ từ từ phá tán các căn tính văn hoá và thiết lập một tư tưởng đồng nhất, một chiều… yếu kém.
ĐTC cũng khích lệ mọi người biết lắng nghe các người già, vì họ có sự khôn ngoan khiến cho họ tiếp xúc với siêu việt và khám phá ra nòng cốt sự sống. Chúng ta đừng quên rằng một nền văn hoá bị mất đi cũng trầm trọng như việc biến mất của một loài vật hay một loài thảo mộc. Điều chị Yesica và anh Hector đã chia sẻ thật quan trọng: “Chúng con muốn con cái của chúng con học hành, nhưng không muốn rằng nhà trường xoá bỏ các truyền thống, tiếng nói của chúng con, chúng con không muốn quên đi sự khôn ngoan của tổ tiên”.
ĐTC đặc biệt xin mọi người dành ưu tiên cho việc giáo dục, vì giáo dục giúp chúng ta bắc các nhịp cầu và làm nảy sinh ra nền văn hoá gặp gỡ. Trường học và giáo dục các dân tộc bản địa phải là một ưu tiên và là một dấn thân của chính quyền, dấn thân toàn diện và hội nhập văn hoá có các tôn trọng toàn vẹn như thiện ích của toàn quốc gia.
ĐTC xin các GM Perù tiếp tục thăng tiến việc giáo dục liên văn hoá và hai thứ tiếng trong các trường học và các cơ cấu giáo dục sư phạm và đại học. ĐTC chúc mừng các sáng kiến của Giáo Hội Perù đối với việc thăng tiến các dân tộc bản địa: qua các trường học, nhà nội trú cho sinh viên học sinh, các trung tâm nghiên cứu và thăng tiến như Trung tâm văn hoá Jose Pio Aza, và nhiều trung tâm khác. ĐTC cũng chúc mừng các bạn trẻ thổ dân cố gắng soạn thảo một nền nhân chủng học mới và đọc lại lịch sử các dân tộc của họ từ các quan điểm mới. Ngài cũng khích lệ mọi sinh hoạt nghệ thuật hội họa, văn chương, thủ công nghệ, âm nhạc diễn tả sư phong phú và vẻ đẹp văn hoá của họ.
Sau cùng ĐTC nhắc tới phần đóng góp và các hy sinh của biết bao nhiêu các thừa sai nam nữ dấn thân bênh vực quyền lợi của các thổ dân và thăng tiến cuộc sống của họ. Ngài nhắn nhủ mọi người đừng ngã quỵ trước các âm mưu nhổ mất gốc rễ đức tin công giáo của họ. Mọi nền văn hoá đều làm giầu cho Giáo Hội. Vì thế ĐTC kêu gọi các thổ dân trợ giúp các GM và các thừa sai trong việc nhào nắn một Giáo Hội có gương mặt Amazzoni.