Thánh Jeronimô Hermosilla LIÊM OP
Giám mục Dòng Đaminh (1800 – 1861)
Kính ngày 01 tháng 11.
Trong 38 Tử đạo thuộc gia đình Đaminh Việt Nam.
Trích “Uống Nước Nhớ Nguồn”,
linh mục Px. Đào Trung Hiệu OP, Chân Lý 1988.
Tranh sơn dầu : họa sĩ Phêrô Lê Hiếu OP.
Cột trụ giáo hội Việt Nam
Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và can đảm nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể (1835-61 giáo phận Đàng Trong) và đức cha Retord Liêu (1940-58, giáo phận Tây Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nã của ba triều vua và các Tổng đốc Nam Định, đã khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành trách nhiệm một cách tuyệt vời.
33 năm thừa sai không một ngày yên ổn. 20 năm Giám mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đã chủ phong cho bốn Giám mục (Đức cha Jimenô Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đã điều khiển giáo phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc, đủ khả năng tách làm hai, và khi gục ngã dưới lưỡi gươm của lý hình thì theo sử gia Rodriguez : Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một vì sao.
Thỏa niềm ước mong
Jeronimô Hermosilla sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đình tuy nghèo nhưng đạo đức (nước Tây Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha dòng Biển Đức và có ý định xin vào dòng này năm 15 tuổi. Thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các dòng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đã đưa cậu đến dòng Thuyết Giáo và lãnh tu phục năm 19 tuổi.
Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải giải tán, tài sản giáo hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đành phải rời nhà Dòng, đăng ký vào quân đội cho đến năm 1823. Khi vua Fernando khôi phục lại quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn dòng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ đã mãi mãi lưu lại với vị tu sĩ này tính xông pha, lòng gan dạ, và đức kiên nhẫn.
Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Manila, thày Hermosilla và 11 người khác liền tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn Đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 02.03 năm sau, 12 tu sĩ này đã đến Manila quỳ phục dưới chân cha Giám Tỉnh và thưa : “Này con đây xin hãy sai con”. Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh dòng, vì 20 năm qua, tỉnh dòng chỉ nhận được 27 người, bên cạnh con số 86 vị đã qua đời vì tuổi già. Năm 1826, thày Hermosilla lãnh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi.
Năm 1828, cha tình nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 2.5.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ sở cha chính Amandi Chiêu và sáng hôm sau cha tới trình diện Đức cha Delgado Y.
Tả sao cho xiết niềm vui của vị Giám mục. Cả giáo phận Đông Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Hernares Minh, cha chính Hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đã chạy ra và vui sướng : “Vọng ! Vọng ! Ước Vọng !” Và từ đó, Vọng trở thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla.
Sau vài tháng miệt mài học tiếng Việt, cha Vọng đã không phụ lòng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha hòa mình rất nhanh với các tín hữu cũng như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa sai 30 tuổi không ngừng di chuyển thăm viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền viết thư xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.
Danh “Trùm Vọng” thời vua Minh Mạng.
11 năm thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động truyền giáo của dòng Đaminh trong giáo phận : Bốn năm phụ tá cha chính Amandi Chiêu, ba năm bề trên dòng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ năm 1838. Nhưng thực tế, khi làm phụ tá, vì cha chính già yếu, mọi công việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đã nâng số linh mục bản xứ lên đến 40 vị, đủ sức đương đầu với cơn bách hại sắp tới.
Bão tố đã thực sự bùng lên trên giáo phận Đông đàng Ngoài từ năm 1838, khởi từ sau lá thư gửi cho bốn thừa sai và hai linh mục Việt Nam của cha Viên bị phát hiện. Hai Giám mục và cha Chính chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đổ máu vì đức tin. Cũng vì một trong sáu lá thư gửi cho cha Vọng, nên”danh trùm Vọng” được ghi vào đầu sổ truy lùng của vua Minh Mạng và quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ngày 18.1.1839 dành một đoạn nói về cha : “Hãy còn danh trùm Vọng chưa bắt được, dù quan quyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lãnh thưởng mười ngàn quan tiền…”
Để giúp dân dễ nhận diện, vô tình vua Minh Mạng lại cho chúng ta biết đôi điều về chân dung vị thừa sai này : “Người cao lớn, mũi dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương phi…” Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi bước. Quả thực, trong giai đọan này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường cơn giận dữ của “hỏa ngục”. Dĩ nhiên là không phải không có những giây phút hồi hộp, khi thì suýt bị bắt với Đức cha Y khi phải cắm đầu cắm cổ vượt vòng vây chạy trốn. Có những lần, một mình đi giữa đêm tối trên những đoạn đường quanh co xa lạ.
Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc
Chúa gìn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đã thấy cha trong phòng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện “Xin cho ý Chúa được thể hiện …” Thế mà lính không thấy gì cả, cho đến khi họ nhìn thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát.
Lần khác, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 lính với hàng chục chiếc thuyền bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi dông bão, thế là quan quân hoàn toàn thất bại : hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.
Vào cuối thời vua Minh Mạng, giáo phận chịu thiệt hại đáng kể. Trên 1.000 nhà thờ bị rỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng viện, 40 nhà chung, 60 họ đạo, 22 nhà phước Đaminh, 3 nhà phước Mến Thánh Giá, đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân thì bơ vơ, hai Giám mục và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên, với sự cộng tác của hai thừa sai, 37 cha dòng Việt và một số linh mục triều, năm 1840, giáo phận đã rửa tội thêm 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người và chứng hôn 1.630 đôi.
Thời gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng.
Thứ nhất là lá thư cha báo cáo về tình hình Bắc Việt cho Bề trên tỉnh về sự kiên cường của các vị tử đạo và “sức sống ngầm” của Giáo Hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thư đã làm cho cả tỉnh dòng vui mừng. Tại nhà thờ thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đã sốt sắng hát kinh “Te Deum” và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thư này được phổ biến khắp nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Grêgoriô XIV viết cho Giáo Hội Việt Nam một lá thư mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.
Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đã đến Yên Trì được gần một năm mà không có cách nào trình diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ (sắc Ex Quo). Lúc ấy, cha Vọng đang làm Bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp người bề dưới tiến hành việc tuyên thệ này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực tiễn.
Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn còn xảy ra ở một vài nơi. Tòa thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông tòa thay thế hai Đức cha Y và Minh đã tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retord Liêu ẩn trú. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Trên đường áp giải về dinh, dân chúng kháo với nhau: “Kìa ! Đó là danh Trùm vọng !”. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết mình đã lầm, liền tức giận, cho đóng cũi, tra tấn dã man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha hai vị về (1843) (xem thêm hạnh bà Thánh Annê Đê).
Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. Vì đã biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng, lội suối, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, lúc ngoài đồng hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã cho đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần nâu xắn lên tới dầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc lại, đầu đội nón lá… rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.
Vị Giám mục khôn ngoan
Đến Vĩnh Trị, cha Vọng tìm đến tòa Giám mục của Đức cha Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân bất ưng đến thăm. Tại đây, ngày 25.04, cha được tấn phong. Đức tân Giám mục tìm đường trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá cả vạn quan. Ít lâu sau, Tổng đốc cũng ngã bệnh và qua đời.
Lợi dụng tình hình lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng. Ngày 26.6, ngài tấn phong Giám mục cho cha Jimenô Lâm làm phụ tá. Sau lễ, ngài tập họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó cả giáo phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác còn bị giam giữ. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam Am (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm bổn mạng giáo phận và xin phép tòa Thánh mừng lễ hàng năm (1).
Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.
Năm 1844, ngài mở lễ kính thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục “Lễ Đầu Dòng” trong giáo phận. Số tân tòng ngày càng gia tăng. Ngày 22.08.1844 tại Đông Xuyên, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng, tám lý trưởng, một thày cúng.
Sự phát triển ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, Đức cha xin tòa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai : Giáo phận Trung (nay là Bùi Chu, Thái Bình) được trao cho Đức cha Marti Gia, còn Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư (trên mười triệu), mà ít tín hữu (chỉ 0,4 phần trăm). Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc dù vua Tự Đức bắt dầu bách hại đạo. Năm 1852, giáo phận của Đức cha Liêm rửa tội được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.
Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua giáo phận Trung, hai thày giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lý xứ Hữu Bàng, phải chuộc mất 300 quan.
Năm 1858, trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ không còn ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên là Tuấn, để khỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân sáp ra đời.
Nỗi đau của vị chủ chăn
Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn dòng Thuyết Giáo. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha An và Xuyên, biết bao hung tin mỗi ngày : các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thày giảng bị ngã gục. Giờ đây chiếu chỉ phân sáp lại nhắm đến giáo dân. Ý thức bổn phận chủ chăn, ngài liền viết thư luân lưu cho khắp giáo phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa quan phòng, vì “lá cây nhỏ mọn mặc lòng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu”, khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững vàng, năng suy niệm cuộc thương khó mà Chúa đã chịu vì nhân loại hầu được thêm can đảm.
Đêm thu 14.8 năm Tân Dậu (18.9.1861), trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nhìn cảnh vật mà lòng xúc động trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đình tín hữu bị phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ … Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó, chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, những mầm non của giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động
“Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành … Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. nếu Chúa để chúng ta còn sống thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt…”
Cũng đêm đó, Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức. 33 năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đã chất chứa những gánh nặng trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đã giảm sút, râu tóc đã bạc phơ chỉ duy đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt nhọc trên quãng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao ? Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ còn chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay những kẻ đang truy nã.
Cùng đi với Đức cha có thày giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato Bình dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi, khích lệ nhau thêm can đảm và tạ ơn Chúa vì dịp may hiếm có này. Sau đó, các vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.
Dưới sự tận tình che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và thày giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vả giữa cha con ông Trương Bính, người con trai vì tức giận cha mẹ, đã đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng một số tiền và nói : “Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những người đánh cá nghèo nàn này đi”. Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự thì Đức cha cản lại rằng : “Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho Thánh ý Chúa”. Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.
Đồng hành về trời
Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, đứng cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy, ngài vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù, và rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.
Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Vinh và cha Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nhìn nhau, nhưng lòng đầy hân hoan, vì thấy được đòan tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.
Ngày xử được ấn định là 1.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân 500 người. Đức cha Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.
Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc. Bản án được đọc lên. Ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo, tranh nhau thấm máu tử đạo. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối) rồi đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng, đi dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.
Đức Piô X suy tôn Đức cha Jeronimô Hermosilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày 20.5.1906. Ngày 19-6-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Đức cha đã nằm xuống, nhưng chân lý ngài đã truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống mãi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.