Ngôi Lời nhập thể là ánh sáng mang lại sự sống đời đời (25.12 – Bài Hát và Suy Niệm Lễ Giáng Sinh)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng

Năm 2019

Năm 2022

NL: TRỜI HÂN HOAN

ĐC: THÁNH VỊNH 97

HALL: CHÚA ĐÃ SINH RA

DL: TÂM TÌNH HÒA BÌNH

HL: CAO CUNG LÊN

KL: HANG BÊ LEM

LỄ GIÁNG SINH

Thánh lễ Ban Đêm

✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. (

1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều về thành của mình mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se cũng từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít gọi là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình và dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với bà Ma-ri-a là người đã thành hôn với ông, lúc ấy bà đang có thai. 6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng có đạo binh thiên quốc đông đảo hợp với sứ thần cất tiếng ca tụng Thiên Chúa rằng :

14“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

LỄ GIÁNG SINH

Thánh lễ Rạng Đông

Lời Chúa: Is 62,11-12, Tt 3,4-7, Lc 2,15-20


LỄ GIÁNG SINH

Thánh lễ Ban Ngày

Lời Chúa: Is 52,7-10, Hr 1,1-6, Ga 1,1-18

 


Khởi đầu Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. (

1Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.
Điều đã được tạo thành 4 ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
6Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gio-an.
7Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
8Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.
9Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
10Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
11Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
12Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.
14Ngôi Lời đã trở nên người phàm
và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
15Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố :
“Đây là Đấng mà tôi đã nói :
Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
16Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
17Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
18Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả ;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

***

Ngôi Lời nhập thể là ánh sáng mang lại sự sống đời đời (25.12.2023)

Ghi nhớ:

“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” (Ga 1, 18) .

 Suy niệm:

Lịch sử truyền giáo Viễn Đông có kể rằng: Khi đề đốc Magellan dẫn một đoàn thuyền đi về miền Viễn Đông thì gặp nạn. Một trận cuồng phong đánh chìm tất cả, chỉ còn lại duy nhất con thuyền của đề đốc đang bồng bềnh chống chọi với ba đào sóng gió. Trền thuyền, lúc đó mọi người thuỷ thủ cũng như hành khách đều tập trung lại, tất cả ở trên cầu tầu để chờ chết!

Đứng giữa đoàn người thất vọng và đang lo sợ, đề đốc như có một ơn soi sáng, ông nhìn thấy bên cạnh mình có một bà mẹ đang ẵm một đứa con thơ ấp ủ trong lòng. Đề đốc liền xin bà mẹ cho mình ẵm đứa trẻ. Rồi ông đưa đứa bé lên cao, ngửa mặt lên trời và nói: “Lạy Chúa, con và đoàn người đây đều là những kẻ tội lỗi đang sắp chết chìm trong đại dương này! Nhưng xin Chúa vì em bé vô tội này mà tha thứ cho chúng con”. Chuyện kể lại rằng; khi cầu nguyện xong câu đó thì lạ lùng thay; lập tức gió yên và biển lặng trở lại!

Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã cho họ đôi mắt đẹp để chiêm ngắm và nhìn xem, thế nhưng đôi mắt ấy sẽ trở nên vô nghĩa nếu như không có ánh sáng. Thật vậy, con người ta sẽ trở nên mù loà nếu như phải sống trong cảnh tối tăm, lúc đó có mắt cũng như không! Đó là nói về phần thể xác, bước sang lãnh vực tâm linh thì: Có thể nói rằng; kể khi nguyên tổ phạm tội ăn trái cấm thì coi như ánh sáng phát xuất từ Thiên Chúa đã bị chính con người dập tắt và tất nhiên họ phải sống trong cảnh tối tăm, lầm than; nhưng từ xa xưa. Vị tiên tri I-sai-a đã tiên báo trước về ngày Ngôi Hai Giáng thế rằng: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết(Is 9, 2). Như vậy, kể từ khi Ngôi Hai Giáng thế, thì nhân loại lại được nhìn thấy bởi nhờ Ánh Sáng mà Người mang lại. Thánh Kinh đã mượn hình ảnh mặt trời để diễn tả và nói về Đức Chúa Giê-su. “Người là Mặt Trời công chính”.

Sinh Nhật Chúa Hài Nhi là ngày mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, Kỷ nguyên tràn đầy sự sáng và nhân loại đã chính thức  thoát ra khỏi cảnh lầm mò đi trong tối tăm. Bóng tối cũng là đồng nghĩa với lầm lạc dẫn sự chết, (vì sau khi nguyên tổ phạm tôi ăn trái cấm thì ông bà đã đánh mất sự sống siêu nhiên, mất hết những đặc ân Chúa ban, lòng trí ra yếu đuối tối tăm, phải đau khổ và phải chết)

Khi Ngôi Hai sinh hạ xuống thế làm Người, Người đã xua tan bóng tối và khôi phục lại Ánh Sáng để mở ra cho đôi mắt tâm linh của con người được thoả chí mà ngắm nhìn về Thiên Chúa, cũng như về Chân-Thiện-Mỹ.

Chính Ngôi Hai đã đến trần gian để mặc khải cho nhân loại biết một điều tối quan trọng đó là: Nhân loại có một Thiên Chúa Cha và Người Cha ấy rất yêu thương nhân loại, yêu thương nhiều đến nỗi đã phó ban cho họ Người Con Một Chí ái. Người Con Một ấy cũng giống như Người Cha; rất yêu thương nhân loại, yêu thương đến độ sẵn sàng hy sinh mạng sống vì nhân loại và sau công trình cứu chuộc Người Con về trời thì đã không để nhân loại bơ vơ mà con cử Ngôi Ba Thánh Thần đến trần gian để tiếp tục nâng đỡ, bảo ban, dìu dắt và thánh hoá nhân loại trên con đường lữ thứ trần gian để họ đi về tới Nước Trời.

Ánh Sáng luôn phát sinh nhiệt độ ấm.Trong cuộc sống tâm hồn, thì con người ta rất sợ hãi nỗi băng giá cô đơn, thật là bất hạnh cho những bậc cha mẹ, nếu có con cái nhưng về già thiếu sự quan tâm săn sóc của những đứa con, và cũng buồn không kém cho những ai phải sống trong cảnh đìu hiu, cô quạnh, không có bạn bè, người thân để chia sẻ, hàn huyên tâm sự! Nhưng tất cả hãy  cùng vui lên vì chúng ta sẽ không bao giờ phải sống trong cảnh cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời này, bởi vì, chúng ta đã có Đấng Em-ma-nu-en. Đấng ấy đã từ bỏ trời cao mà trở thành phàm nhân, sống cùng nhân thế, chia sẻ, đồng hành với tất cả mọi người và chỉ những ai từ chồi Người thì kẻ ấy mới phải sống trong nỗi bất hạnh, lạnh giá cô đơn mà thôi. Về phần Đấng Em- ma- nu -en, Người chẳng từ chối và từ bỏ ai bao giờ. Có chăng chỉ có con người mới từ chối và từ bỏ Người mà thôi!

Ôi! Hạnh phúc thay hỡi loài người! Vì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến! Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm! (Tv 8, 5).    

Cầu Nguyện:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Lạy Chúa Hài Nhi, Người đã đến để mang lại bình an và Ánh Sáng soi chiếu cho muôn người biết đường lối mà đi để nên thánh. Xin cho mọi người biết đón nhận bình an và Ánh Sáng mang lại sự sống muôn đời, xin cho chúng con một lòng theo Chúa đừng bao giờ để chúng con lầm lạc, u tối mà đánh mất ơn cứu độ của Người. Amen.

Sống Lời Chúa:

Luôn lấy Ánh Sáng Phúc Âm để làm lẽ sống.

Đaminh. Trần Văn Chính.

Thiên Chúa đã làm người (25.12.2022)

Đẹp thay trên đồi núi
bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an,
người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ
và nói với Xi-on rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị.

Ngộ thật. Sao ngôn sứ I-sai-a lại nói “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng”, núi đồi là nơi hoang vu hay thật ít người ở cơ mà? Trong khi đó, phố xá thị thành không có lắm người để công bố Tin Mừng hay sao? Ở đây, qua lời Chúa, ngôn sứ I-sai-a cho ta những ý nghĩa sâu xa hơn bình thường. Tin Mừng được rao giảng ở nơi đông đúc dân chúng là chuyện thường tình, còn những bước chân vất vả vượt khó đem Tin Mừng đến vùng hẻo lánh, nơi thật xa xôi, thật khó khăn. Cho mọi người biết tin hạnh phúc “Thiên Chúa ban ơn cứu độ”, mới đáng được Lời Chúa hoan ca. Lời Kinh còn cho ta ý nghĩa cao xa hơn nữa, là người đem Tin Mừng đến được với những não trạng cao ngạo như núi đồi hoang vu chân lý. Để họ nghe được lời chân lý về sự sống vĩnh hằng, đã được Thiên Chúa công bố trong Tin Mừng của Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế. Những bước chân đó thật đáng ca khen và ghi dấu vinh quang muôn đời.

Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được thấy tận mắt ĐỨC CHÚA đang trở về Xi-on.

Quân canh gác” những người được tuyển chọn và thao luyện, giữ nhiệm vụ canh phòng bảo vệ cho thành. Bối cảnh lời Chúa hướng về Chúa Giáng Sinh, nên không dừng lại ở những người lính của Ít-ra-en ngày nào. Lời ngôn sứ I-sai-a còn hướng đến tương lai, nói về những người được Thiên Chúa tuyển chọn để bảo vệ Thành Đô, tức Hội Thánh của Người, là Xi-on của mọi thời đại. “sẽ được thấy tận mắt ĐỨC CHÚA”, ý nghĩa này phá vỡ não trạng của dân Ít-ra-en: Thiên Chúa là Đấng vô hình, Đấng cao cả và đáng sợ “Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta, vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” (Xh 33,20) Đấng ấy giờ được “thấy tận mắt”, tức đã nên hữu hình và không còn “đáng sợ” nữa. Một Hài Nhi mới được sinh ra thì có gì đáng sợ! Hình ảnh tự nhiên này, đưa chúng ta vào huyền nhiệm tình cứu độ, Chúa Ngôi Lời nhập thể đã đến thế gian vì nhân loại. Người ở giữa chúng ta để yêu thương và cứu chuộc chúng ta. Không những thế, Người còn nâng phận người lên bằng những ân sủng trọng đại, để con người được Thiên Chúa Cha đón nhận và được hưởng vinh quang vĩnh phúc với Người.

vì Đấng tiền phong của các ngươi sẽ là ĐỨC CHÚA,
và Đấng hậu vệ sẽ là Thiên Chúa của Ít-ra-en
.”

Lời Chúa qua ngôn sứ I-sai-a nhắc chúng ta nhớ đến lời Chúa trong sách Khải Huyền “Đức Chúa là Thiên Chúa phán: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng.” (Kh 1,8) Trước và sau cũng là chính Người, và người đang đến với con người.

Đấng ấy chính là Thánh Tử mà trong bài đọc hai thánh Phao-lô nói với chúng ta “nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử”. Một vị Thánh Tử có vị thế trước tôn nhan Chúa Cha “Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” Tuyệt hơn và cao trọng hơn nữa “Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa.” Bản thể Thiên Chúa, một bản thể cực siêu nhiên bấy giờ lại có “hình ảnh trung thực”, một “hình ảnh trung thực” của một bản thể siêu nhiệm, hoàn toàn vô hình với thụ tạo cõi siêu nhiên cũng như cõi tự nhiên, một điều lạ lùng khôn tả xiết. Nhưng như thế cũng làm cho ta đủ ngỡ ngàng, và còn ngỡ ngàng hơn với ý nghĩa: Đấng chịu chết treo trần trụi trên Thập Giá và phơi trần sự bất lực với tháng năm lại “là phản ánh vẻ huy hoàng” của Thiên Chúa Toàn Năng. Chân lý đến với chúng ta từ phần thật lạ lẫm, nhưng rất xác thực, vì chỉ có như vậy mới ứng nghiệm được câu “Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật.

Câu kết này nơi bài đọc của thánh Phao-lô, dẫn chúng ta vào sâu hơn đến chạm vào mầu nhiệm nhập thể và nhập thế “Thật vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta.

Phượng hoàng chân lý của thánh Gio-an Tông Đồ cất cánh bay cao vượt muôn trùng thụ tạo, vạch màn tăm tối cho ta chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa ở thời điểm chưa có thời gian

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Lúc khởi đầu” là khởi điểm “Ta là An-pha”, một khởi đầu không có thời gian, ở trong bản thể Thiên Chúa. Khởi đầu của Thiên Chúa Cha sinh ra Ngôi Hai, cho ta thấy rõ hai ngôi vị hoàn toàn tách biệt. Vì thế, nên “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa”, nếu là “một” ý chí và lý trí sẽ không có sự “hướng về nhau”. Nhưng điều trên cả tưởng nghĩ của con người “Ngôi Lời là Thiên Chúa.”, tức là Thiên Chúa có hai ngôi vị: Cha và Con, Thiên Chúa và Ngôi Hai Thiên Chúa.

ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Chúng ta phải hiểu “sự sống” ở đây không những là sự sống tự nhiên (thể lý) mà còn là sự sống của linh hồn mang tính vĩnh cửu. Sự sống tự nhiên được nuôi dưỡng bằng vật chất, còn sự sống siêu nhiên của linh hồn được nuôi dưỡng bằng ánh sáng bản thể Thiên Chúa, là ánh sáng chân lý dẫn tới sự sống đời đời. Bởi như vậy nên Chúa Giê-su mới nói “Đức Giê-su lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12) Đây là lý do thánh sử Gio-an viết “và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.

Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.

Khổ Kinh này nói lên cảnh ngộ của Chúa Ngôi Lời nhập thế, Người giáng sinh ở giữa chúng ta, tặng cho nhân gian món quà vô giá là chính Người. Đấng “thế gian đã nhờ Người mà có”, “nhưng lại không nhận biết Người” nên mới xảy ra bi kịch thê thảm của mầu nhiệm Tình Thập Tự. Chúa Giê-su Ki-tô giáng trần trong hình hài một trẻ thơ bé bỏng, sự đơn sơ nhỏ bé xuất hiện trong cảnh nghèo hèn ấy, lại ẩn chứa một tình yêu bao trùm cả vũ trụ, cả muôn loài thọ tạo. Mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh mở đầu cho mầu nhiệm thương khó của Người, Chúa Hài Nhi được sinh ra là để chết cho mỗi người chúng ta và cho cả nhân loại. Chúng ta có cảm được ý nghĩa này không?

Thiên Chúa sáng tạo nên muôn vật giấu mình nơi máng cỏ, ngày Người nhập thế được ca mừng bởi gió lạnh mùa đông. Hang đá trú ẩn của mục đồng và gia súc, nơi thật nghèo hèn lại che chở cho Đấng Cao Sang chứa đựng cả đất trời. Giữa buốt giá, Đấng đạo binh các thiên thần uy mãnh nhất, thánh thiện nhất, trong trắng nhất phải sấp mình thờ lạy, chúc tụng và tôn vinh, giờ chỉ có hơi thở hôi hám của bò lừa sưởi ấm suốt đêm đông…

Mầu nhiệm nhập thể và nhập thế đọng lại được gì ở lòng ta? Để có thể cho đức tin của ta tràn trề niềm hy vọng làm thay đổi sắc màu đời con Thiên Chúa. Không còn ở trong thân phận những gia nhân không nhận biết được chủ về, nhưng xác tín Người đang ở giữa mình anh em. Niềm hy vọng tất cả chúng ta đã được cứu độ phát xuất từ mầu nhiệm nhập thể, có sức lan tỏa lên chính mình và tha nhân niềm vui hạnh phúc mừng Con Chúa Giáng Sinh.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Mừng Chúa Giáng Sinh

Đã đến giờ thụ vật cất tiếng reo hò vang dậy, những nụ cười tươi sung sướng tận cõi lòng. Niềm hy vọng trong tâm hồn bỗng tràn ra chiếm lĩnh cả không gian cho hạnh phúc chan đời như nắng sớm. Xưa kia con người không hiểu Đức Chúa là Đấng Thiêng Liêng

Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa.

Từ ngữ “Ngôi Lời”, một cách diễn tả của con người và cho con người. Bởi thế, được hiểu trong đường hướng này

– Ngôi: tức ngôi vị – một Ngôi trong ba Ngôi.

– Lời: Là lời phát (xuất) ra từ Thiên Chúa, Lời của Thiên Chúa, Lời Nội Tại tương thông giữa Ba Ngôi. Lời là một Ngôi Vị, tức Ngôi Hai Thiên Chúa, còn gọi là Ngôi Con.

Với con người, có Lời là ngôn ngữ, có Lời không ngôn ngữ:

– Lời có ngôn ngữ: là lời Chúa ngỏ với con người qua Sách Thánh, qua mạc khải, qua lời nói riêng cùng các linh hồn.

– Lời không ngôn ngữ: là Lời-thần-khí sự sống và sáng tạo – toàn năng và siêu nhiệm, Lời phong phú và huyền diệu quan phòng chở che thọ tạo, Lời sức mạnh từ Thiên Chúa quản trị các quy luật dành cho thụ tạo, Lời thụ tạo có thể nghe và Lời thọ tạo không thể nghe.

Ngôi Lời là Ngôi Con nên vẫn luôn hướng về Ngôi Cha là Thiên Chúa. Song cả Ba Ngôi có cùng một bản thể, do đó Ngôi Lời cũng là Thiên Chúa.

Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì được tạo thành.

Câu “Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.” trong trích đoạn Phúc Âm này có hàm ý sâu rộng hơn câu “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,” Vì nhóm từ “Lúc khởi đầu” mang ý nghĩa Ngôi Lời hiện hữu cùng lúc với Thiên Chúa, trước (xa) sự khởi đầu của thụ tạo. Và “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa” có ý nói Chúa Cha là Đấng Tạo Hóa đầu mối của mọi nguồn sống. Và Chúa Ngôi Lời hiệp nhất với Chúa Cha trong công cuộc tạo dựng nên muôn loài thụ tạo. Chương trình của Chúa Cha được Ngôi Lời thực hiện và Người đã tạo thành mọi sự ở trong Người. Nói theo cách con người, đây là giềng mối làm cho Ngôi Lời “gần hơn” với thụ tạo, với con người hơn Chúa Cha một ít. Đầu mối sợi dây nối kết tình ái giữa Ngôi Lời và con người, cùng muôn vật là ở đây. Ngôi Lời như Người Mẹ gắn bó cùng Cha, ở trong Cha sinh ra con. Vì thế, từ ban đầu Ngôi Hai Thiên Chúa đã yêu con người trong Thánh Tâm Chúa Cha và Thánh- Tâm- Của- Người- Mẹ là chính Người. Tình yêu này càng lúc càng nảy nở, dù con người xa cách Thánh- Tâm- Của- Người- Mẹ sau khi được tạo dựng và được đặt để trong môi trường hạnh phúc nhất ở Địa Đàng, bằng tội lỗi của chính mình gây ra.

Điều đã được tạo thành
ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối,
và bóng tối đã không diệt được ánh sáng.

Thánh Gio-an Tông đồ quả thật chính xác khi đã nói ra sự thật nơi Ngôi Lời: “Điều đã được tạo thành nơi Ngôi Lời là sự sống”: Sự sống tự nhiên và sự sống thần linh. Ngôi Lời yêu hơn con người và các thiên thần sau khi tạo dựng, bởi vì thấy được “hình ảnh” của chính mình nơi hai loài thụ tạo độc đáo này. Sự sống thần linh cũng đồng nghĩa là sự sáng của Thiên Chúa “chiếu soi lên” nhân loại. “Chiếu soi lên” một từ ngữ nhiệm mầu, mang ẩn nghĩa tuyệt vời chứa chan tình yêu thương xót Ngôi Lời dành cho con người. “Chiếu soi lên” còn có nghĩa là truyền ban sinh lực, là thẩm thấu phận người trong âu yếm yêu đương khôn tả. Cho dù phận người hiện đang ở trong bóng tối tăm nghịch cùng Thiên Chúa và thật bất xứng với Người.

Đến đây, lời Phúc Âm mở ra một mầu nhiệm mới: Ánh sáng nơi Ngôi Lời đã chiếu soi từ bản thể Thiên Chúa vào cõi tự nhiên, mở đường cho công cuộc nhập thể. Ngay từ đây, ngay trong bí nhiệm của Tình Yêu, Thiên Chúa Ngôi Hai đã bắt đầu lấp đi khoảng cách giữa Đấng Tạo Hóa và thọ vật. Đồng thời cũng bắt đầu cuộc phân tranh giữa ánh sáng và bóng tối, tức sự sống thần linh và sự chết đời đời. Cuộc phân tranh này một bên đã khai chiến từ cõi siêu nhiên, trước thời gian, trên chốn thiên cung, rồi âm ỉ bành trướng để độc bá loài thụ tạo có lý trí trong thế giới tự nhiên là con người. Đó là thế lực hỏa ngục mà kẻ cầm đầu là anh Lu-xi-phe, nhưng Phúc Âm đóng ấn, ghi lại “và bóng tối đã không diệt được ánh sángLời này là sự thật trong Thiên Chúa, lời vượt không gian và thời gian, không dừng lại ở quá khứ, hiện tại hay tương lai. Nhưng xuyên suốt cả lịch sử của thời gian cho đến khi thời gian chấm hết.

 Có một người được Thiên Chúa sai đến,
tên là Gio-an.

Trong chương trình nhập thể và nhập thế của Chúa Ngôi Hai, vì tầm vóc vĩ đại khôn sánh và sâu nhiệm vô lường so với các mầu nhiệm liên quan đến thụ tạo. Đem lại lợi ích vô cùng lớn lao cho nhân loại, Đấng Tạo Hóa đã sai sứ giả đi trước Chúa Con – Vua Nước Trời để dọn đường cho Người. Câu kinh “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an.” ý nói đến thánh Gio-an Tiền Hô lãnh nhận ơn tiền định một lần duy nhất trong lịch sử nhân loại, được Thánh Ý Chúa hữu định tuyệt đối. Nên Thiên Chúa không cần sai nhiều sứ giả đến dọn đường cho Chúa Con, bởi thánh Gio-an Tẩy Giả được mang ơn thần khí rất mạnh giống như ngôn sứ Ê-li-a. Một mình Ông có thể dẹp tan tà lực ác thần ngáng đường Chúa đến với con người. Một mình Ngôn Sứ có thể uốn lòng dân Chúa về với Đức Chúa, những ai còn yêu thích sự thiện và lẽ công chính. Đồng thời, giúp Thánh Nhân có thể nhận biết được thần tính của Chúa Giê-su qua hình ảnh một phàm nhân. Điều này còn có nghĩa Thiên Chúa yêu thương con người cách đặc biệt hết sức. Người nâng con người lên trong tương quan với Thiên Chúa, cho con người được cộng tác với Người thực hiện việc cứu độ nhân loại. Ngoài Đức Trinh Nữ Maria, Gioan Tẩy Giả là con người đầu tiên được Thiên Chúa kéo về với tình yêu thương xót vô biên của Người ở bậc ân sủng cao vời. Thiên Chúa mở đầu mầu nhiệm nhập thể bằng hành động yêu thương rất đặc biệt nầy.

Thánh Gio-an Tẩy Giả đã được chọn, được biệt riêng cho chương trình của Thiên Chúa. Cuộc sống của ngài nơi hoang địa và cái chết vì chân lý nói lên ơn gọi độc đáo này.

Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để mọi người nhờ ông mà tin.
Ông không phải là ánh sáng,
nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.

Lời Chúa thật bí nhiệm và thật hay, thánh Gio-an Tông Đồ biết rõ thánh Gio-an Tẩy Giả làm chứng về Chúa Ki-tô Giê-su, nhưng ngài vẫn ghi “làm chứng về ánh sáng”. Điểm huyền diệu và siêu việt là ở đây. Trong lịch sử nhân loại, không có vĩ nhân hay hiền triết hoặc giáo chủ nào dám xưng mình là “ánh sáng”. Bởi vì ánh sáng này không những là ánh sáng vật chất, hay tinh thần mà còn là ánh sáng tinh khôi thần khí. Tức ánh sáng được phát ra không lệ thuộc bất cứ thọ vật nào, cũng đồng nghĩa vừa là ánh sáng tỏa ra mà cũng là nguồn sáng. Ánh sáng phát ra vì tự chính mình là ánh sáng, như vậy chỉ có bản thể của Thiên Chúa mới có ánh sáng vừa là nguồn sáng mà thôi. Như vậy, chủ ý của thánh Gio-an Tông Đồ nói thánh Gio-an Tiền Hô đã làm chứng về Đức Chúa, về thần tính siêu việt của Người

 ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi,
Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng.
” (Xp 3,17a) Và Đức Chúa cao vời kia nay mặc lấy xác phàm, nơi Đấng tự xưng mình là ánh sáng “Đức Giê-su lại nói với người Do-thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống…  Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga 8,12; 9,5) Lời chứng của Gio-an Tẩy Giả để cho người Do Thái tin vào Chúa Giê-su là Đức Chúa. Còn bản thân ông, Thánh Gio-an Tông đồ khẳng định Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng bởi nguồn sáng. Có được dồi dào ân sủng thì Gio-an Tẩy Giả cũng chỉ là ngọn đèn tỏa sáng mở đường cho rạng đông của Mặt Trời Công Chính mà thôi “Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng của ông trong một thời gian.” (Ga 5,35)

Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người.
Người ở giữa thế gian,
và thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng lại không nhận biết Người.
Người đã đến nhà mình,
nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Vâng đúng, Ngôi Lời mới là ánh sáng thật, Người đã tự xưng như thế trong tư cách một con người hiệp cùng thần tính. Người đến thế gian để chiếu sáng ánh sáng chân lý và ơn cứu độ. Nhưng nghiệt ngã thay! Thế gian đã được chính Người tạo dựng nhưng không nhận ra Người. Lời của thánh tông đồ Gio-an pha lẫn men chua chát “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” Phũ phàng làm sao!

Vì chẳng chịu đón nhận nên con người đã miệt mài xua đuổi lúc Chúa Ngôi Lời được sinh ra trong thế gian, hùa nhau đẩy vào đồng vắng nơi hang bò lừa. Rồi còn xua đuổi đánh Người cho đến chết trên Thập Giá.

Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
Họ được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc do ước muốn của người đàn ông,
nhưng do bởi Thiên Chúa.

Mặc dầu con người nói chung không còn sáng suốt để tự nhận ra Ngôi Lời, nhưng vẫn còn riêng một số thành tâm thiện chí tin nhận lời vị sứ giả dọn đường cho Đức Chúa, đồng thời cũng tin vào chính lời của Đấng Ki-tô rao giảng. Một số người mà Thiên Chúa yêu thương giữ lại cho chính mình, không để bóng tối tà thần che lấp tâm hồn họ. Số này được chọn bởi Thần Khí trước khi họ sinh ra theo huyết nhục thường tình nhân loại. Bởi thế Phúc Âm mới ghi “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa.

Chân lý nầy còn được hiểu rằng, những ai được cứu độ đều bởi do Lòng thương xót Thiên Chúa chuẩn bị cho họ có đủ lòng tin đến cùng trên bước đường nhân gian. Điều nầy giải thích ý nghĩa: ơn đức tin là ơn nhưng không của Thiên Chúa ban cho một người.

 Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:

“Đây là Đấng mà tôi đã nói:
Người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.

Đến đây, vị thánh mang tâm linh cao vời ơn thông hiểu cao xa như được thêm đôi cánh. Người đã cùng ăn, cùng uống, cùng ngủ bên cạnh Đấng Thiên Sai, chứng kiến vinh quang khi Người còn tại thế: khi làm phép lạ, lúc đi trên biển, khi biến hình trên núi và nhất là cuộc phục sinh của Người sau cái chết thảm sầu. Thánh Nhân đã làm chứng về sự hiện hữu trong thực tế nhân sinh của Ngôi Lời Nhập Thể – Con Một và cũng là Con Duy Nhất của Thiên Chúa sinh ra.

Đức Chúa phán bảo rằng: 

“Ngày đăng quang con nắm quyền thủ lãnh,
vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh.
Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện,
tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con
.” (Tv 110,3)

Và một điều độc đáo nữa, ở khổ văn trình thuật Phúc Âm nầy Thánh Sử đã chủ ý nói đến lời chứng của ngài và lời chứng của thánh Gio-an Tẩy Giả, có nghĩa có hai người đứng ra làm chứng. Làm tròn ý nghĩa “làm chứng” theo Lề Luật dân Ít-ra-en (x. Đnl 17,6; 19,15)

Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.

Quá đúng! Thánh Gio-an Tông Đồ đưa ra một nhận định đầy lòng tri ân với Thiên Chúa Nhập Thể – Chúa Giê-su Ki-tô. Chúng ta đã lãnh nhận vô số ân huệ từ Người, ơn về sự sống tự nhiên và ơn siêu nhiên, nhưng chúng ta đâu biết ơn Người cho đủ. Chẳng mấy ai nghĩ đến việc đáp tạ ơn Người, lại còn hững hờ quay lưng, cố tình phạm tội đến trở thành lý hình tra tấn hành hạ Chúa đủ điều. Xót xa thay cho phận người!

Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết
.

Lời khẳng định của thánh Gio-an Tông Đồ rất thực tế và xác đáng: tất cả nhờ Chúa Giê-su Ki-tô con người mới có ân sủng và sự thật dẫn đưa tới sự sống đời đời. “Mà sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giê-su Ki-tô.” (Ga 17,3) Nhưng làm sao con người có thể nhận biết Chúa Cha, nếu không được Chúa Con – Đấng cùng hiện hữu với Chúa Cha tỏ cho biết. Từ ngữ “biết” ở đây rất sâu rộng, không dừng lại ở “thấy” rồi biết, hay “nghe” mà biết. Thấy hay nghe đều rất giới hạn, vì nằm trong khả năng của giác quan và trí tuệ con người. Bởi thế, cho dù ông Mô-sê được lời Thiên Chúa nói “Ta nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn, và hình dáng ĐỨC CHÚA, nó được ngắm nhìn.” (Ds 12,8) nhưng vẫn không được thánh Gio-an Tông đồ cho là người đã biết Thiên Chúa. Cho nên “biết” mà thánh Gio-an Tông Đồ nói ở đây, cái biết còn thâm sâu hơn vợ chồng biết nhau, hay người mẹ biết con ở trong dạ mình, hoặc Hội thánh biết Chúa Ki-tô. Từ “biết” này vốn là biết đến đồng bản thể, biết đến “không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém”. Sự biết bởi “Lời Nội Tại giữa Ba Ngôi” có cùng bản thể. Ở phần thụ tạo, “biết” tức hòa tan bản thể mình trong Thiên Chúa, biết không dừng lại ở kiến thức mà là trao đổi cá vị cho nhau. Cho nên ngôn sứ Mô-sê chỉ mới diện kiến Nhan Thánh, được sẻ chia thánh khí chứ chưa đạt được mức hòa tan mình vào chính Người. Ông vẫn chưa biết Chúa đủ.

Bây giờ, Chúa Ngôi Hai nhập thể và nhập thế mở cho chúng ta con đường đi đến Thiên Chúa, đến biết Người ở mức độ cao siêu nhất. Lời Phúc Âm giới thiệu cho chúng ta hành trình và cứu cánh tuyệt hảo này. Thật phúc trọng lớn lao đến ngần nào mầu nhiệm Chúa Giáng Sinh, Chúa đến và nâng chúng ta lên tột đỉnh sủng ân. Lời các thánh Giáo phụ “Con Thiên Chúa làm người để con người làm con Thiên Chúa” ở mức hoàn thiện nhất, vinh quang, danh dự  và hạnh phúc nhất.

Chúc tụng Chúa Giáng Sinh. Ngợi khen Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng con. Amen. Allêluia.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Lời nguyện… Giáng Sinh (25.12.2021)

 “Này, sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức Chúa – Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán…” (Gr. 33, 14)

Vâng ! Giáng Sinh chính là cách Thiên Chúa thực hiện và diễn tả điều tốt lành mà Người đã phán hứa – tình thương lớn lao nhất – đối với nhân loại.

Lạy Chúa là Thiên Chúa Tình Yêu, 

Nguyện xin ân sủng của Chúa ngự trị trong lòng chúng con và tình yêu của Chúa đến ở với chúng con để thực hiện Lời của Ngài đã hứa đem đến cho nhân loại tình yêu thương và ơn giải thoát, hòa bình thay cho chiến tranh, tha thứ thay cho hận thù, ánh sáng thay cho bóng tối, sự sống thay cho sự chết. Để nhờ đó trong thời đại chúng con đang đối mặt, chúng con có thể hiệp đoàn với nhau để cùng nhau ca tụng Tình Yêu Chúa và thờ phượng Chúa cách xứng hợp.

Lạy Chúa, 

Mầu nhiệm Giáng Sinh làm cho chúng con trở nên một dân tộc thuộc về Chúa và nhận được sự chăm sóc, bảo ban của Ngài.

Hãy để Mầu nhiệm Giáng Sinh thấm sâu trong hồn chúng con mỗi khi chúng con  suy ngẫm và cầu nguyện.

Lạy Chúa Hài Nhi, 

Xin hãy dạy chúng con biết đón nhận Ngài vào trong cuộc đời mỗi người chúng con.

Trước những đau thương mất mát do dịch bệnh Covid-19 gây ra, việc đón nhận Chúa hiện tại vẫn là một thách thức cho mỗi người chúng con và cho toàn thế giới. Bởi lẽ, tin Chúa, đón nhận Chúa, đòi buộc chúng con phải đặt Ngài vào trong tâm hồn của mình, để Ngài nên ánh sáng và nên nguồn sức sống cho cuộc đời chúng con và cho cả thế giới này. Bởi chính vì yêu thương nhân loại chúng con mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể và nhập thế, trở nên người phàm cư ngụ giữa chúng con, để chia sẻ nỗi đau kiếp người với chúng con.

Lạy Chúa, 

Chúng con thiết tha cầu xin Chúa ban thêm cho chúng con sức mạnh của trái tim để bất cứ khi nào đau thương hay nỗi buồn ập đến với chúng con, thì nó đủ quảng đại đón nhận và không hề lo lắng, bối rối, hay loạn nhịp.

Xin hãy để thánh ý Chúa được tỏ lộ qua sự bé bỏng, yếu ớt của một trẻ thơ.

Xin Chúa cho tất cả nhân loại được ơn nhận biết rằng Chúa chính là chủ tể nắm giữ, quyết định vận mạng của họ;

Chúng con hằng tin tưởng chính Chúa ra tay cứu thoát chúng con và sẽ ở lại với chúng con đến muôn đời.  Vì tên của chúng con đã được ghi trong kế hoạch Cứu Độ ngàn đời của Chúa và chúng con muốn ở lại với Cha chúng con, Đấng ở trên trời.

Chúng con không muốn gì khác ngoài việc trở thành con cái của Chúa trong thế giới này, được trở thành những đứa bé con trong sự chăm sóc của Ngài từ giờ cho đến mãi muôn đời.  Amen.

CÁT BIỂN

MỪNG SINH NHẬT CHÚA (25.12.2020)

Ghi nhớ:

Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1, 16).

Suy niệm:

 Anh giáo lý viên nói với các em thiếu nhi:

– Bây giờ anh đặt ra một câu chuyện giả sử rồi các em cho anh ý kiến nhận xét nhé. Có hai ông bố mỗi người đều có một đứa con trai. Hai ông cùng dạy con của mình rằng phải cố gắng chăm lo học hành,  để sau này trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội, đồng thời cũng là để bố được hãnh diện với chòm xóm và với anh em bà con trong gia tộc. Nhưng cả hai không vâng lời, đều thích chơi game hơn ham học. Khi hai ông bố  biết chuyện, một ông  thì tức giận, nọc con ra, đánh cho một trận đòn nhừ tử. Còn ông bố kia thì chỉ bắt con quỳ gối và răn dậy con cách nhẹ nhàng. Vậy anh hỏi các em tại sao cùng một lỗi phạm mà một em bị bố đánh nhừ đòn còn em kia bố chỉ bắt quỳ gối và lấy lời nhẹ nhàng khuyên răn? Nhiều cánh tay giơ lên xin được trả lời…Hầu hết các em đều cho rằng tính tình của hai ông bố này rất khác biệt! Một ông thì có lòng hiền từ và điềm đạm ngược lại ông kia thì tính khí khó khăn, nóng nảy.

– Các em nhận xét có phần đúng nhưng chưa trọn vẹn, glv giải thích. Theo anh thì người cha chỉ bắt con quỳ và lấy lời lẽ chân thành bảo ban con là vì tình thương của ông dành cho đứa con trai mình lớn hơn tội lỗi mà nó đã gây ra. Đến đây anh muốn hướng các em suy niệm về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Các em thấy đấy Thiên Chúa là Đấng vô cùng quyền năng và thánh thiện, thế nhưng nhân loại, được tác tạo từ bụi đất; trong đó có các em và anh lại đã bao lần xúc phạm đến Ngài, theo lẽ công bằng thì chúng phải bị trừng phạt, phải bị tru diệt  vì những tội lỗi đó. Thế nhưng vì tình thương của Thiên Chúa dành cho chúng ta quá lớn, nó lớn đến nỗi đã khỏa lấp lên hết những tội lỗi của chúng ta, để rồi thay vì nổi cơn thịnh nộ, giận dữ, trừng phạt.Thì Ngài lại thương xót và  cảm thông! Bằng cách ban cho chúng ta Con Một Người để nhờ Người Con ấy đền thay tội vạ cho chúng ta, để chúng ta được sống. Các em đọc lời của Thánh sử Gioan thì rõ: “ Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con Của Người mà được cứu độ” ( Ga 3, 16-18).

Các em nghĩ sao? Khi có một người  vứt bỏ đi những của cải vàng bạc, kim cương mà mình có để rồi đi ăn cắp của người khác những thứ chẳng ra gì như con gà và những bộ quần áo cũ?.

– Thưa đó là một con người không có trí khôn, nếu không muốn nói là điên khùng và ngu ngốc!

– Các em thấy đấy xã hội bây giờ, báo đài thông tin người ta hối lộ, tham nhũng, mua quan bán chức, bán bằng giả, gian lận, ngoại tình, trộm cướp…Đấy là vì người ta đã không phân định được hoặc cố tình không phân định những gì không thuộc về mình mà chối từ, họ lại cố tình dùng đủ mọi thủ đoạn để chiếm hữu lấy những cái vốn không thuộc về mình. Trong khi đó họ lại khước từ Tình Thương của Thiên Chúa và Nước Trời vốn dĩ thuộc về chính họ!

Bài học mà các em và anh cùng nhau rút ra trong Mùa Giáng Sinh này là: Chúng ta phải biết trân quý tình thương cao vời mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta và phải sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa để xứng đáng với tình yêu mà Ngài đã ban tặng cho chúng ta một cách nhưng không đó!

Hôm nay, Giáo Hội hân hoan mừng Lễ Chúa Giáng Sinh. Đây là một biến cố vĩ đại vì Ơn Cứu Độ đã được Thiên Chúa Cha ban cho nhân loại. Chúa Giêsu đến thế gian Người khai mở ra cho nhân loại một Thời Đại mới. Thời Đại mà Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết họ có Một Đấng Thiên Chúa yêu thương họ vô bờ bến,  đã đến sống giữa họ để cảm thông, đồng hành, dạy dỗ và nhất là để Cứu Chuộc họ. Ngôi Hai Thiên Chúa đến trần gian được ví như Vừng Đông xuất hiện xua đi đêm đen và giá rét. Người là Mặt Trời Công Chính mang lại sự sống. là ánh sáng chiếu soi cho nhân loại. Trong vũ trụ này mặt trời là chủ thể của sự sống, nếu không có mặt trời tỏa sáng thì tất cả sẽ tiêu vong. Chính vì thế thánh sử Gioan đã viết: “Nhờ Người mà muôn vật được tạo thành và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống” (Ga 1,3). Như vậy Chúa Giê-su là Hồng Phúc đến cho nhân loại bởi nhờ Người mà muôn vật mới được sống. Thế nhưng: xem ra nhân loại ngày nay không mặn mà, họ còn dửng dưng trước Hồng Ân vô cùng to lớn này “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. (Ga1,11). Bởi thế, đã hơn hai ngàn năm trôi qua mà nhân loại vẫn con mải mê sống trong u tối. Nhìn vào xã hội hiện nay chúng ta thấy vẫn còn đó những bất công, những thù oán, những dối trá. Ánh sáng Phúc Âm và chân lý mà Chúa Giê-su mang đến chưa được nhiều người đón nhận. Chính vì thế, trước bối cảnh đó, chúng ta phải trở nên như những  “Gioan nhỏ” để làm chứng về Người. Bằng cách cố gắng sống chu toàn bổn phận, đồng thời luôn cầu nguyện, hy sinh, hãm mình sống bác ái yêu thương để nhờ đó nhiều người nhận ra Chúa và theo Chúa để được ơn  Người Cứu Chuộc.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giê-su Hài Đồng, chúng con ngợi khen và cảm tạ Ngài vì đã đến ở cùng và cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con và tất cả mọi người biết mở lòng ra để  lãnh nhận hồng ân cứu chuộc mà Ngài đem đến. Xin cho mỗi người chúng con hiểu biết rằng: Cuộc đời chỉ có giá trị và ý nghĩa khi tuân giữ các huấn lệnh của Ngài là luôn sống đời yêu thương bởi đó chúng con được hưởng niềm vui, hạnh phúc và sự bình an của Ngài. Amen.

 Sống Lời Chúa:

Kính mến Chúa và yêu thương mọi người

Đaminh Trần Văn Chính.

Tin Mừng cho toàn dân

Tin Mừng hôm nay là một biến cố trọng đại có một không hai “Thiên Chúa giáng sinh làm người”. Một biến cố mà người viết không muốn hoặc không dám viết nữa. Vì nó quá cao trọng, hạnh phúc, linh thiêng… mà không biết dùng từ ngữ nào để trình bày cho nội dung cao sâu ấy. Niềm vui ấy đã được ngôn sứ Isaia loan báo từ mấy trăm năm về trước trong bài đọc 1: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỷ… Như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm…”. (Isaia 9,1-6).

Mở đầu vị hoàng đế đã truyền lệnh cho dân chúng ai nấy phải về quê quán mình mà khai tên tuổi. Vậy là Thánh Giuse tức tốc phải đưa Đức Mẹ đang bụng mang dạ chửa qua hàng trăm cây số về cố hương. Nào ngờ đến ngày mãn nguyệt khại hoa, khi không tìm được nhà trọ, Chúa Cứu Thế đã phải sinh ra tại hang đá Be lem nơi bò lừa trú ẩn. Như là tình cờ, nhưng không phải, mọi sự  xảy ra trên đời này, không ngoài thánh ý Chúa. Dù tốt lành hay sự dữ có điều Chúa muốn cho xảy đến, hay cho phép xảy đến. Thánh Giuse và Đức Mẹ đã vâng lệnh nhà cầm quyền, mà Belem đã thành nơi Chúa giáng sinh. Điều mà ngôn sứ Mikha đã loan báo mấy trăm năm trước:“Phần ngươi, hỡi Belem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi ngươi Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mệnh thống lãnh Itraen…” (Mk 5,2). Ta hãy nghe lời loan báo của sứ thần Chúa với các trẻ mục đồng: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em… Người là Đấng KiTô Đức Chúa”.

Đem “Tin Mừng trọng đại cho toàn dân”.

Hỏi rằng thế gian này xưa nay ai đã làm được điều ấy? Những cuộc cách mạng ở các nước nghèo thường đem niềm vui cho nhóm dân nghèo, còn các nhà tư bản độc tài thì thường thất vọng phẫn chí. Đến như cuộc  giải phóng miền Nam thống nhất đất nước mà cố thủ tướng Việt Nam còn thốt ra “có hàng triệu người vui thì cũng có hàng triệu người buồn”. Đã hơn hai nghìn lần kỷ niệm Chúa giáng sinh mà lần nào vẫn cứ thấy mới mẻ háo hức vui tươi. Hỏi có ngày sinh của ai được như vậy?

Tin Mừng cho “toàn dân” là những điều Chúa dạy cho ta biết Thiên Chúa là Cha toàn năng yêu thương đã tạo dựng muôn loài. Mọi người phải yêu thương nhau vì cùng một Cha trên trời. Vì tội nguyên tổ nên khổ đau, tội lỗi ngày càng tràn ngập thế gian. Nhưng Thiên Chúa đã không bỏ, mà hứa ban Đấng Cứu Thế đến chuộc tội cho họ bằng cái chết của Người. Và nay dù dân Do Thái đã được các ngôn sứ dạy dỗ bao thế kỷ. Nhưng họ và toàn dân vẫn chìm đắm trong đau khổ oán thù, sống vô phương vô vọng.

Chúa đã đến để bất cứ ai tin và thực thi lời Người dạy thì sẽ được hưởng trọn niềm vui ơn cứu độ của Người. Được bình an ngay trên đời này và ngày sau được hạnh phúc muôn đời trong nước Chúa.“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm

Lạy Chúa Giêsu chỉ có Người là Đấng duy nhất từ trời,là hiện thân của Chúa Trời đến thế gian cứu chuộc chúng con. Con cảm tạ Chúa. Amen.

Gs. Ngọc Năng

MẦU NHIỆM TÌNH YÊU…

Trong mùa Giáng Sinh đâu đâu cũng nghe những bài thánh ca ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người qua Mầu Nhiệm Nhập Thể. Mầu Nhiệm Nhập Thể là bằng chứng tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người. Ngài yêu và chấp nhận con người như họ là, nghĩa là, dù cho con người tội lỗi, phạm tội chống lại Ngài thì Ngài vẫn yêu họ và đến với họ.

Thiên Chúa là Tình Yêu, và người yêu thường làm những chuyện bất ngờ dành riêng cho người mình yêu.

Tình yêu càng vĩ đại thì bất ngờ càng lớn lao.

Tình yêu vô hạn thì bất ngờ cũng vô cùng tận.

Chúa Giê-su Hài Đồng chính là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa; là một khởi đầu cho sự biểu lộ cách cụ thể và trọn vẹn huyền nhiệm tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

Để từ đây, Ngôi Lời vĩnh cửu đã trở nên người phàm, cũng có thân xác giới hạn như chúng ta, hiện diện trong lịch sử nhân loại, và ở giữa nhân loại trên cùng một trái đất (x. Ga 1,14). Đấng tạo thành trời đất muôn vật nay sẽ là Đấng Cứu độ loài người, để ai tin vào Ngài thì Ngài sẽ cho họ quyền làm con cái Thiên Chúa (x. Ga 1,12).

Lễ Giáng Sinh là đại lễ Thiên Chúa xuống trần cứu độ con người.Thiên Chúa đã trao tặng cho nhân loại món quà cao quý, chính là Người Con duy nhất. Chẳng ai trông thấy hay biết rõ Thiên Chúa bao giờ. Nhưng qua Đức Giê-su, mọi người được nhận biết và gặp gỡ Thiên Chúa. Vì duy chỉ mình Người Con là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha đã cho nhân loại nhận biết (x. Ga 1,18).

Lễ Giáng Sinh đem lại niềm vui cho toàn thể thế giới. Vì Con Thiên Chúa đã mang phận con người cũng vất vả, chịu nhiều đau khổ. Nên cuộc đời con người, dù cho gặp khó khăn, đau khổ cũng có ý nghĩa, và đáng sống.

Lễ Giáng Sinh cũng mời gọi mỗi người nhìn lại đời mình, nhìn lại khuôn mặt những người đang sống chung quanh mình. Cách riêng, nhìn lại gia đình mình và các thành viên trong nhà mình với lòng kính trọng, vui sướng, và biết ơn vì Chúa đã ban tặng họ cho ta.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã đến trần gian làm người để cho con người được làm con Thiên Chúa; Chúa đã đến đem bình an cho con người. Xin Chúa cho con cũng biết đem niềm vui Chúa Giáng Sinh đến cho anh chị em chung quanh con. Amen.

CÁT BIỂN

Thiên Chúa là Tình Yêu (25.12.2016)

1. Ghi nhớ:

 “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. ” Ga1. 5-9.

2. Suy niệm: 

Chuyện kể rằng: Triết gia Diogene(413-323) có một cuộc sống rất thanh bạch, đơn sơ và khó nghèo. Nhà của ông ở được làm bằng gỗ,  nhỏ bé giống như cái mái vòm. Một buổi sáng nọ Alexander đại đế đến trước cửa vòm nhà triết gia thấy vậy liền nói: “Hỡi Diogene Trẫm sẽ cho khanh một lời cầu xin,  khanh muốn gì thì cứ nói, Trẫm hứa sẽ ngay lập tức thỏa đáng cho khanh. ” Diogene trả lời.  “Điều thần sẽ xin là: Tâu bệ hạ, Người hãy tránh sang một bên để cho ánh sáng có thể chiếu soi vào được nhà của hạ thần. ”

Sống trên trần gian này, cái bất hạnh lớn nhất mà con người phải chịu là: sống trong cảnh tối tăm! Thật vậy, ca dao Việt Nam có câu “Có đau mắt mới thương kẻ mù”,  Nhưng có đôi mắt sáng mà lại phải sống trong tăm tối thì quả thật có khác chi là bị mù lòa

Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Gioan giới thiệu cho chúng ta Ngôi Lời Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Ngài được ví như Ánh Sáng. Chính tiên tri Isaia cũng đã báo trước cho dân Do thái rằng: “Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết.” (Is 9, 2).

Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Ngài được ví như Mặt trời Công Chính. Vì Người đến để xóa đi đêm tối lạnh lẽo, và soi rọi Ánh Sáng vào mọi tâm hồn u mê tăm tối. Người soi chiếu Ánh Sáng chân lý, yêu thương vào lòng nhân loại.

Trên thế gian này Ánh Sáng  là chủ thể của sự sống. Nếu không có Ánh Sáng, loài người và muôn vật sẽ chết dần trong lạnh lẽo và tối tăm! Đó là nói về sự sống tự nhiên. Bước sang lãnh vực siêu nhiên. Nếu không có Chúa soi sáng hướng dẫn thì chúng ta cũng sẽ chết vì “lạnh giá và tối tăm”mà thôi. . . Nhưng để đón nhận được Ánh Sáng ban sự sống đời đời của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì chúng ta cần phải từ bỏ, loại trừ tối tăm là những mê đắm của cải thế gian, những thỏa mãn xác thịt bất chính, những gian ác ích kỷ. kiêu căng…có như vậy thì  ánh sáng của Chúa Hài Đồng mới đến được trong tâm hồn chúng ta. Và như thế thì đời sống của chúng ta nơi trần gian này sẽ thật sự trở nên hạnh phúc vì luôn được sống trong ánh sáng mang lại sự sống của Người.

 Chúa bỏ trời cao, xuống thế gian.

                                        Bởi thương nhân loại sống lầm than,

                                        Người như Ngọn Lửa, xua băng giá.

                                        Chúa tựa Vầng Hồng, xóa đêm đen.

                                        Người phủ tình yêu trên mặt đất.

                                        Chúa ban ân sủng khắp gian trần,

                                        Ngàn dân ơi. Hãy đến tôn thờ.

                                        Đấng Cứu Độ. Vua sự bình an.

3. Cầu nguyện:

Lạy Chúa Hài Nhi, Người đã đến mang Ánh Sáng cho thế gian. Xin mở mắt tâm hồn để chúng con đón nhận được sự sáng của Chúa soi rọi tâm hồn mình. Cho chúng con biết sống xứng đáng với bổn phận làm người con được Chúa xuống thế cứu chuộc. Và lạy Chúa,  trong những ngày này, đón mừng lễ Giáng sinh, đón mừng Năm Mới, chúng con thương yêu chúc  những điều tốt lành. Nhưng những lời lẽ đó sẽ không có giá trị gì, bởi chúng con chẳng làm gì được! Cúi xin Chúa thương thực hiện những điều mà chúng con chân thành nguyện chúc cho nhau. Chúng con cùng cầu xin Chúa. Amen.

4. Sống lời Chúa:

Con xin kính chúc Quý Cha, Quý Thầy và tất cả anh chị em trong đại Gia Đình thánh Phụ Đaminh, được hưởng một mùa Noel tràn đầy niềm vui, ân sủng; một Năm Mới hạnh phúc và bình an trong Chúa Hài Đồng Giê-su.

Đaminh Trần Văn Chính

Ánh Sáng Thật (25.12.2015)

Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người…. Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. (Ga 1,9-12)

Ngôi Hai Thiên Chúa, là “Ánh sáng bởi Ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật,” đã “vì loài người chúng ta, và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế” (Kinh Tin Kính). Thiên Chúa, Ngài đã biểu lộ tình yêu và lòng thương xót cho một nhân loại tội lỗi và bất an, bất hạnh. Chỉ có một Ánh sáng thật, cũng là Nguồn sáng thật. Ngoài ra chỉ là bóng đèn hay bóng mờ, bóng tối. Về phía con người, bằng thái độ đức tin đón nhận Ánh sáng thật này, sẽ được trở nên con cái Thiên Chúa, được giải thoát khỏi mọi tội lỗi, sự dữ và bất an buồn phiền.

‘Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận’ (c.11). Thiên Chúa cao cả tuyệt đối muốn hạ mình đón nhận chúng ta như người nhà, để thứ tha và thương xót như ‘người Cha đối với con cái, chứ không như quan tòa đối với phạm nhân’ (ĐGH Phanxicô). Chúng ta có sẵn sàng phó thác đời mình, kể cả tội lỗi, cho lòng từ bi đó của Chúa không? Để được như vậy, chúng ta luôn thành tâm cầu nguyện “xin Chúa ban thêm Đức Tin” cho mình.

Lạy Chúa Giê-Su Hài Đồng rất yêu mến, trong ngày Đại lễ Giáng Sinh hôm nay, xin cho tất cả chúng con ý thức được tình yêu bao la của Chúa dành cho từng người chúng con, nên Chúa mới hạ mình xuống thế trong đơn sơ khó nghèo đến tột cùng của cái nghèo trần gian…Tất cả là từ tình yêu thương vô bờ bến của lòng Chúa xót thương dành cho loài người mọn hèn tội lỗi chúng con. Chúa đã đến để thực hiện chương trình cứu độ, cứu chúng con thoát khỏi sự chết đời đời do tội lỗi mình gây ra.

Lặng ngắm Mầu Nhiệm Chúa Giáng Sinh…

Ôi làm sao suy thấu hết ân tình…

Chỉ biết trầm mình cung bái Chúa con yêu.

BCT

***

LỄ GIÁNG SINH – LỄ ĐÊM

Lời Chúa: Is 9,1-6; Tt 2,11-14; Lc 2,1-14.

Mục lục

1. Đêm hôm  nay (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Chúa Giáng sinh giữa những người khổ đau  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Một người con đã được ban tặng cho ta (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

4. Từ trí qua tâm đến hành động  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

5. Đêm ánh sáng – Đêm an bình (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

6. Ánh sáng Tin mừng  (Trầm Thiên Thu)

7. Sứ điệp yêu thương của Mầu nhiệm Giáng sinh  (Lm. Đan Vinh)

 

.

LỄ GIÁNG SINH – LỄ BAN NGÀY

Lời Chúa:  Is 52,7-10;  Dt 1,1-6;  Ga 1,1-18

Mục lục

1. Ngày hồng phúc  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người? (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

3. Đánh mất cơ hội ngàn vàng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

4. Loan báo niềm vui Giáng sinh cho anh em  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

5. Hài Nhi Giêsu là ai? (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

6. Sung mãn  (Trầm Thiên Thu)

7. Ánh sáng đã đến chiếu soi cho mọi người trong trần thế (Lm. Đan Vinh)

 

 

ĐÊM HÔM NAY

Lm. Jos. DĐH.

Bậc cha mẹ có nghĩa vụ chia sẻ kinh nghiệm, cho đi sự hiểu biết của mình, cắt nghĩa, giải thích, hướng dẫn con cháu từng bước đi, hoặc “kích thích” chúng chạy thật nhanh tới một danh hiệu cao quý. Phận làm con bao giờ cũng được phản ánh bởi quan niệm rất phong phú: cây tốt, sinh trái tốt ; cha anh hùng, con hảo hán. Đêm hôm nay có khác đêm hôm qua không, đêm hôm nay, bậc sinh thành sẽ chia sẻ kiến thức, sự dao động của trí lòng ?  Đêm hôm nay, có phải tất cả những người làm con đang thổn thức vì “món quà” được hứa hẹn, hay chỉ một số trẻ em thơ ngây đã từng tỉnh thức đợi chờ ? Dù nhiệt độ có thay đổi thì đêm hôm nay, cả nhân loại vẫn đang nóng lên bởi “tình người giáng sinh”, bầu khí ấm áp yêu thương ở sát gần với mọi gia đình.

Đêm hôm nay khắp trần thế đang vui mừng kỷ niệm Con Chúa giáng trần, biết bao tâm hồn đã đi theo tiến trình thức tỉnh chờ đợi của 4 tuần mùa vọng, cũng không thiếu những hoạt động sẻ chia quà Giáng Sinh cho trẻ thơ, cho người nghèo hèn bất hạnh. Đêm hôm nay trẻ em giầu nghèo, người đau bệnh hay trẻ khoẻ, người thành tâm thiện chí, kẻ mưu mô xảo kế, tất cả đều có cơ hội quy chiếu về Hài Nhi Giêsu, hang đá trí lòng mỗi người sẽ trả lời đêm nay là ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN. Lời kêu gọi trở về quê quán để đăng kiểm, hình ảnh những đôi vợ chồng túng thiếu vật chất bị xã hội lãng quên, hoàn cảnh trẻ em mất đi tuổi thơ vì phải lam lũ trước cái ăn cái mặc, thương đau đó, là lời gọi hãy trở về với cõi lòng mình. Đêm hôm nay, tiếng hát Thiên Thần vẫn vang lên: vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người thiện tâm, cho dù sự hào nhoáng và tính thế tục còn ồn ào, chưa lắng đọng.

Đêm hôm nay là “Đêm Thánh vô cùng”, cha Giuse, mẹ Maria, Hài nhi, Các Đấng thinh lặng, nhưng các mục đồng vẫn cảm nhận được niềm vui hạnh phúc, vì tin rằng Thiên Chúa cứu độ đã đến. Đêm hôm nay, sự “linh thánh” của cõi lòng, thế trần có rất nhiều bậc cha mẹ đã hiểu: “tình yêu thương” chính là căn bản nâng phận người lên làm Con Thiên Chúa, chứ đâu phải tài giỏi, giầu sang. Đêm hôm nay, dẫu chưa hết bất công, còn nhiều gia đình nghèo đói vật chất, nhiều trẻ em đường phố đang cần được quan tâm chăm sóc. Lời nói, việc làm yêu thương sẽ còn âm vang: “các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho toàn dân, hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho các ngươi”.

Đêm hôm nay Hài nhi Giêsu sẽ không cô đơn, khi mà người người đến hang Belem không phải chỉ có các mục đồng, nhưng là mọi đối tượng, có cả những người đến thăm vì hiếu kỳ, Chúa hằng có cách giúp họ. Đêm hôm nay, ở nơi thành thị, ở nông thôn trên khắp địa cầu, đều mọc lên hang đá và có ý nài xin Hài nhi Giêsu đến ở với muôn dân. Đêm hôm nay, nhiều người sẽ quên tuổi tác, nhiều người quên bệnh tật, quên hận thù, đơn giản vì mọi người tin rằng họ cần Chúa đến cõi lòng họ, cần tình yêu thương và ơn cứu độ. Đêm hôm nay sẽ còn là đêm liên kết muôn tấm lòng, vì có sự thông hiệp giữa các hiền tài với các mục đồng, có tiếng hát trầm ấm của các ca sĩ nghiệp dư, chuyên nghiệp, hoà chung với tiếng hát của các Thiên Thần hát nhắn gởi: “các ngươi sẽ thấy một Hài-nhi mới sinhbọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.

Đêm hôm nay, sự hoành tráng của niềm tin đang lấn át những phàn nàn tiêu cực: trời cho ai, người ấy hưởng, vì chưng, gặp được nhau đã là một cái duyên, có những người chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng lại khiến ta lưu luyến suốt đời. Các mục đồng năm xưa được Thiên Thần dẫn dường tới gặp Gia Đình Thánh, họ trở về cuộc sống với bao niềm vui say của hồng ân Chúa ở cùng. Đêm hôm nay, từ gia đình đến xã hội, từ người thánh đức đến người lem lấm bụi trần, mọi người không phân biệt mừng Chúa Giáng Sinh hay mừng lễ hội No-el, tất cả đều đang cùng tiếng nói yêu thương, tất cả sẽ nghe tiếng rõ đất trời giao hoà phúc an. Đêm hôm nay, trẻ vui nhà, già vui chùa, muôn dân thiên hạ sẽ thấm nhuần đạo làm người, đạo làm con Chúa thật sống động, vì Thiên Chúa đã làm những điều kỳ diệu. Hài nhi Giêsu đang sinh ra ở khắp mọi hang đá tâm hồn, tình yêu thương của Hài nhi Giêsu hiện diện ở nơi ông già No-el, ở nơi những nhà thiện nguyện, họ thật phấn khởi chia sẻ tình thân ái cho nhau. Amen.

 

.

CHÚA GIÁNG SINH GIỮA NHỮNG NGƯỜI KHỔ ĐAU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Đôi khi nghe  bài hát “Điệu lý qua cầu ”tôi vẫn tự hỏi liệu có ai dám bỏ phố thị về quê chung sống theo người tình trăm năm hay không? Liệu dòng sông thơ mộng với cù lao xanh có mang lại hạnh phúc khi phải sống thiếu thốn dưới mái tranh nghèo và chiếc xuồng ba lá làm phương tiện sinh sống mà bài hát đã diễn tả thật rộn ràng hấp dẫn hay không?

Bằng lòng đi em về với quê anh

Một cù lao xanh một dòng sông xanh

Một vườn cây xanh hoa trái đơm hương

Thuyền ai qua sông dòng hò mênh mông.

Bằng lòng đi em anh đón qua cầu

Mùa mưa cầu tre dẫu khó đưa dâu

Bằng lòng theo anh dưới mái tranh nghèo

Về đây người quê chỉ có tấm lòng

Có chiếc xuồng ba lá để yêu em

Ôi đóa hoa tím trôi líu riu

Dòng sông nước chảy líu riu

Anh thấy em nhỏ xíu, nhỏ xíu nên anh thương ơ…ơ…

Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc

Mình anh ca điệu lý qua cầu.

Ôi đoá hoa …..anh thương ơ…ơ…

Ôi những đêm ngắm sông nhớ em buồn muốn khóc

Mình anh ca điệu lý qua cầu.

Hình như tình yêu của đôi uyên uơng này có gì khang khác với các đôi trai gái thời nay. Bởi vì khi yêu ai thì người ta muốn được giàu sang và có mọi phương tiện hiện đại, nhưng với anh này thì anh chỉ có mái tranh nghèo với tình yêu bằng cả tấm lòng. Và, người yêu của anh chỉ nhỏ xíu bên cạnh cái dòng sông nước chảy liu riu thôi!

Cái nhìn của anh, quan niệm của anh rất khác so với nhiều người, nhưng quan niệm tình yêu ấy lại rất đúng vớicái nhìn, quan niệm của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa yêu con người và tìm đến với con người nơi những mảnh đời khổ đau. Ngài đã bỏ tất cả để đến cư ngụ giữa những người mình yêu dầu chỉ là dưới mái tranh nghèo nơi cánh đồng hoang Belem và lớn lên sinh sống bên mái tranh nghèo miền thôn dã Nagiaret.

Đêm nay chúng ta cùng với muôn thiên thần hát lên thật to rằng: “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời, Chúa sinh ra đời nằm trong hang đá nơi khó nghèo”. Đây là niềm vui và hạnh phúc cho những người thành tâm thiện chí xây dựng hoà bình, và đặc biệt là những gia đình đang khổ đau. Vì từ nay Con Thiên Chúa đã ở cùng chúng ta. Từ nay Ngài đi vào cuộc đời để hiểu và đồng cảm những khó khăn của chúng ta.

Đây là cái nhìn của Thiên Chúa khác với loài người chúng ta, vì chính Ngài cũng từng nói:  “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi ”(Is 55,8).  Đúng vậy, có bao giờ chúng ta ngạc nhiên và sửng sốt  bởi cách hàng động của Chúa không ? NhưngThiên Chúa là vậy! Ngài giáng trần không phải vì tìm kiếm sự giầu sang phú quý. Ngài càng không tìm đến những chốn phố thị nguy nga tráng lệ. Ngài đã đến để cư ngụ giữa những người khổ đau đang thất vọng vì cuộc sống có quá nhiều vất vả lầm than.

Điều quan yếu là Ngài đã tự nguyện đến và lưu lại nơi những người Ngài thương yêu đang còn đói nghèo, bất hạnh và khổ đau. Ngài mong tình yêu của Ngãi sẽ bồi đắp lại cho những bất hạnh của họ bằng chính tình yêu phục vụ của Ngài.

Năm nay với đường hướng đồng hành với gia đình khó khăn, giáo hội muốn nhắn nhủ các gia đình đang gặp những khó khăn hãy vui lên vì Chúa đang ở giữa anh chị em. Hãy tin tưởng và hân hoan vì Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt khổ đau cho anh chị em. Hãy tin tưởng vào tình thương của Ngài. Ngài sẽ đến và lưu lại nơi những mái tranh nghèo, nơi những con người lầm than bởi bệnh tật, bởi vất vả bôn ba với miếng cơm manh áo. Ngài sẽ đồng hành với anh chị em di dân đang lênh đênh nơi đất khách quê người.

Ước mong lời loan báo tin vui Chúa đã giáng sinh cho chúng ta được loan đi khởi đầu dành cho những mái tranh nghèo của các mục đồng hôm nay lại tiếp tục được loan báo đến cho những ai đang gặp bất hạnh hôm nay. Hãy vui lên vì Chúa đã giáng sinh cho chúng ta. Hãy vui lên vì Ngài là hoàng tử bình an, là ông vua thái bình sẽ mang lại niềm vui hạnh phúc cho chúng ta.

Cầu chúc cho mọi người một đêm giáng sinh an lành. Xin Chúa Hài đồng ngự đến từng mái nhà đơn sơ của chúng ta để chúc phúc và ban bình an cho những ai thành tâm đón nhận Ngài. Amen.

 

.

MỘT NGƯỜI CON ĐÃ ĐƯỢC BAN TẶNG CHO TA

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Mỗi độ Giáng Sinh về, chúng ta tặng quà cho người thân, bạn bè. Mỗi món quà dù lớn, dù bé, dù đắt hay rẻ, đều mang thông điệp yêu thương mà người tặng gửi gắm trong đó. Khi nhận quà, người nhận phải khám phá và đọc ra được sứ điệp đó.

1- Món quà ý nghĩa

Người ta kể rằng: có một anh lính từ chiến trường xa trở về thăm vợ con nhân dịp mừng lễ Giáng Sinh. Lâu ngày xa cách, nhớ vợ thương con, nay được trở về, anh muốn mua một món quà để tặng vợ nhưng trong túi không có đồng nào. Về gần tới nhà, anh nghĩ ra một cách làm vợ con ngạc nhiên. Anh lấy một băng vải, viết lên trên đó hàng chữ: “Quà tặng em.” Rồi anh mang lên ngực. Nghe tiếng gõ cửa. Người vợ liền mở cửa và rất vui mừng vì thấy chồng trở về bình an. Nhưng bất ngờ và ngạc nhiên khi nhìn thấy hàng chữ, người vợ xúc động và ôm lấy anh. Vì quả thật đối với chị, chồng là món quà quý nhất, hơn mọi món quà khác trong ngày lễ Giáng Sinh.

Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta nói đến một món quà khác giá trị hơn các món quà vật chất. Đó là món quà Hài Nhi Giêsu mà Thiên Chúa tặng ban cho chúng ta.

Quả thế, từ xa xưa trong Cựu Ước, tiên tri Isaia tiên báo về món quà mà Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại: “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng… Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu độ ta, một người con đã được ban tặng cho ta” (Is 9,1.5). Những lời này đã thực ứng nghiệm qua biến cố Con Thiên Chúa sinh ra tại Bêlem cách đây hơn 2000 năm. Đó là Tin Mừng cho toàn thể nhân loại, được các thiên thần loan tin trong bài Tin Mừng: “Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa” (Lc 2,11).

2- Quà tặng và người tặng quà

Thần học gia nổi tiếng người Đức, Karl Rahner nói rằng: “Nơi Thiên Chúa, người tặng và quà tặng là một. Thiên Chúa không ban một cái gì, một vật gì, mà ban chính mình Người cho chúng ta. Nhờ quà tặng là Thiên Chúa, mà chúng ta mới có thể đón nhận sự sống của Thiên Chúa nơi chúng ta.” Thiên Chúa đã ban cho chúng ta chính Con Một yêu dấu của Người.

Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng quý nhất mà Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại. Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ con người nên Người sai Ngôi Hai xuống thế làm người, cứu nhân độ thế. Chiêm ngắm biến cố này, thánh Gioan cảm nghiệm: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Khi tặng ban Con Một, Thiên Chúa đã ban điều lớn lao nhất, điều quý giá nhất, để minh chứng tình yêu lớn lao nhất của Người đối với nhân loại. Yêu là cho đi. Yêu là hiến mình. Yêu là cứu độ.

Thế nên, sứ điệp mà Hài Nhi Giêsu mang đến cho nhân loại trong đêm nay là sứ điệp yêu thương: Thiên Chúa yêu thương chúng ta; Thiên Chúa muốn cứu độ chúng ta. Nếu lịch sử của con người là lịch sử của sa ngã và phản bội, thì lịch sử của Thiên Chúa là lịch sử của trung thành và cứu độ. Thiên Chúa không bỏ mặc con người phải hư mất trong lầm than và tội lỗi.

Thánh Phanxicô Assisi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự vấn: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng.”

3- Trở nên quà tặng cho nhau

Đêm nay, chúng ta cử hành đại lễ mừng Con Chúa giáng sinh. Đây là đêm an lành, đêm hồng ân và đêm ánh sáng. Tất cả chúng ta được mời gọi quỳ bên hang đá, để thờ lạy Chúa Hài Nhi, chiêm ngắm Con Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn, để cảm nghiệm tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là “lễ tình thương,” tình Chúa giáng sinh trên tình người. Khi đón nhận món quà giáng sinh, niềm vui giáng sinh là Chúa Hài Đồng, chúng ta hãy mang Chúa về trong gia đình và chia sẻ niềm vui đó với mọi người xung quanh. Sứ điệp giáng sinh là sứ điệp hãy sống hòa bình, tôn trọng và nhân ái đối với tha nhân. Và để sống mùa Giáng Sinh ý nghĩa, thánh Phaolô trong bài đọc II mời gọi chúng ta: “Phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2,11-12).

Chúng ta cũng được mời gọi trở thành món quà cho nhau. Nếu trong gia đình và cộng đoàn, ai chưa hòa giải với Chúa và với nhau, mùa Giáng Sinh và năm mới là dịp thuận tiện để chúng ta hòa giải với Chúa và làm hòa với nhau. Như thế, việc cử hành lễ Giáng Sinh mới mang lại ý nghĩa đích thực cho chúng ta. Bởi lẽ, như lời các Giáo Phụ dạy: “Nếu Chúa Giêsu tiếp tục giáng sinh hàng ngàn lần ở Bêlêm, mà không một lần giáng sinh trong lòng chúng ta, thì những lần giáng sinh đó có mang lại ý nghĩa gì cho chúng ta chăng?”
Kính chúc anh chị em được đầy niềm vui, ân sủng của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh và năm mới này. Nguyện xin Chúa Giêsu Hài Đồng chúc lành cho tất cả chúng ta. Amen!

 

.

TỪ TRÍ QUA TÂM ĐẾN HÀNH ĐỘNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Thế là một mùa Giáng Sinh lại đến với nhân trần. Với bà con rất nhiều quốc gia trên thế giới thì bầu khí Giáng Sinh như đã mở hội từ đầu tháng 12. Bóng hình các ông già Noel lẫn bà già Noel tung tăng khắp các đường phố và cả ngõ ngách chốn thôn dã để gieo rắc niềm vui và tình thương đến mọi nhà. Có thể nói mùa Giáng Sinh là mùa của ân tình, mùa của thiện tâm. Mong sao tâm tình và sứ điệp Giáng Sinh không dừng lại trong một vài ngày của tháng 12 mà phải được thắp sáng trong suốt hành trình dương thế của con người, mọi thời và mọi nơi.

“Anh em đừng sợ! Này ta báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh…Người là Đức Kitô…”(Lc 2,10). Đấng giáng sinh chính là Mặt trời công chính và là Hoàng tử hòa bình. Ngài bỏ trời cao xuống thế gian này là để chiếu soi ánh sáng chân lý cho muôn người như lời Ngài khẳng định với Philatô (x.Ga 18,37). Ai đón nhận chân lý Ngài truyền thì sẽ được giải thoát khỏi ác thần và hiệu quả là sẽ được sự bình an và hạnh phúc đích thực (x.Ga 8,21-22).

Đã là người thì dẫu trong thời đại nào, hoàn cảnh nào đều khát mong được sống trong bình an và hạnh phúc. Theo các con số thống kê của các Bộ Ngành, nhất là Ngành Y tế nước Việt chúng ta thì dường như khát mong ấy đang còn quá xa khi mà chính sức khỏe, sự sống của con người đang bị đe dọa đủ bề. Căn bệnh ung thư đã hủy hoại sự sống hơn 300 người dân Việt mỗi ngày mà nguyên nhân chủ yếu là do thực phẩm bẩn, độc hại. Theo thống kê của Viện nghiên cứu phòng chống ung thư, ước tính Việt Nam có khoảng 94.000 người chết vì ung thư/năm. Bên cạnh đó vấn đề đáng lo ngại là số người mắc bệnh ung thư ở Việt Nam đang có xu hướng ngày một tăng nhanh. Năm 2000 Việt Nam có khoảng 69.000 ca ung thư mắc mới, năm 2015 lên đến 150.000 ca mắc mới. Ước tính đến năm 2020 số ca ung thư mắc mới ở Việt Nam sẽ xấp xỉ 200.000 người, một con số nếu xét tỷ lệ với dân số thì cao nhất thế giới. (Báo Việtnammới – Ung thư ở Việt Nam: Những con số đáng ngại -ngày 19-3-2018). Theo VTV – Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, mỗi năm có khoảng 300.000 ca phá thai. Đây chỉ là con số được báo cáo tại những cơ sở y tế công, số lượng thực tế chắc chắn lớn hơn rất nhiều vì chưa kể các sơ sở y tế tư và những điểm phá thai chui. (VTV9-Thứ hai, ngày 02/07/2018 11:08 GMT+7). Chỉ với con số thống kê qua các cơ sở công mà thôi thì nước Việt Nam đã đứng hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Nga.

Vì sao con người lại hành xử tàn ác với đồng loại như thế, lại độc ác với cả giọt máu của mình? Nhìn lại lịch sử thì dân Việt chúng ta vốn có đó chữ thiện trong tâm. Chuyện “thương người như thể thương thân”; “lá lành đùm lá rách”; “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”… là chuyện như rất thân thương và bình thường của con dân máu đỏ da vàng Việt Nam. Thế thì ví cớ nào sự độc dữ lại xảy ra nhan nhãn trước mắt chúng ta chỉ nội mấy mươi năm gần đây?

Cha Giuse Việt trình bày trên trang mạng xã hội của ngài qua nhân vật một nhà giáo nhận định rằng các hành vi độc dữ có nguồn là từ cái tâm ác. Cái tâm ác độc là do bởi cái trí lệch lạc, sai lầm. Xưa nhà độc tài Hitler đã gieo vào cái đầu của nhiều cộng sự viên và dân chúng thời Đức quốc xã cái ý tưởng cao ngạo về một sắc dân ưu việt Aryan. Và từ cái sai lầm về cái ý tưởng chủng tộc ưu việt của họ nên họ đã dã tâm tru diệt một sắc dân Do Thái mà họ cho là cạnh tranh với chủng tộc họ. Khoảng sáu triệu người Do Thái đã bị giết cách dã man, đặc biệt trong các lò hơi ngạt. ( Face book Joseph Viet)

Phải chăng vì bị gieo rắc một cái nhìn không có Đấng Tạo Hóa, không có linh hồn, không có lương tâm, cũng chẳng có đời sau hay chuyện thưởng phạt nên người ta dần dà làm cho lương tâm của mình thành chai đá và rồi nhìn tha nhân chỉ như là kẻ cạnh tranh sinh tồn với mình. Từ cái ý tưởng lầm lạc ấy trong đầu thì rồi sẽ dần làm cho cái tâm của ta thành ra ác, xấu khi nào chẳng hay và dẫn đến các hành vi ác độc là chuyện như đương nhiên. Miễn sao có lợi cho tôi, cho gia đình tôi, cho nhóm của tôi thì tôi sẵn sàng làm mọi sự bất nhân, vô đạo. Và chuyện sản xuất bán buôn lương thực, thực phẩm độc hại, chuyện phá thai vô tội vạ, chuyện buôn bằng bán chữ, gian lân thi cử, chuyện xách nhiễu, hối lộ, tham ô và những cuộc thanh trừng độc ác khác là những hậu quả kéo theo mà thôi.

Đêm nay, cùng với tín hữu Kitô nói riêng và cùng với cả nhân loại trên thế giới chúng ta mừng kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa đã làm người trong thân phận của một bé thơ nghèo hèn nhắc nhở cho chúng ta về phẩm vị cao quý của con người. Dù là một bé thơ dân dã hay một bào thai dị tật trong dạ mẹ… tất thẩy đều là hình ảnh của Đấng Tạo Thành, vì thế cần phải được trân quý, tôn trọng và bảo vệ. Chúng ta tin nhận Đấng làm người là Mặt trời công chính. Ngài đến để rọi soi chân lý cho loài người. Một trong những chân lý nền tảng Ngài chiếu tỏa đó là loài người chúng ta là loài thụ tạo, được dựng nên do bởi tình yêu và quyền năng của Đấng Tạo Thành là Thiên Chúa. Đấng Tạo thành chúng ta tôn thờ chính là Cha Toàn năng chí ái và như thế chúng ta là anh chị em với nhau. Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đã mạc khải chân lý ngàn đời này khi dạy chúng ta lời kinh duy nhất: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” (Mt 6,9-13)

Đến với máng cỏ chúng ta sẽ nhận ra cội nguồn của mình và từ đó hiểu được mối tương quan giữa mình với tha nhân. Từ cái trí suy đúng đắn và chuẩn mực này thì cái tâm thiện sẽ được dệt xây và từ đó hình thành các hành vi liên đới yêu thương.

Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (Lc.2,14). Phải xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Lời Thánh Vịnh khẳng định rằng Thiên Chúa yêu thương hết thảy mọi loài do tay Người tác tạo. Thế nhưng để có được sự bình an và hạnh phúc đích thực thì còn tùy sự đáp trả của con người vốn là loài được Thiên Chúa phú ban cho sự tự do. Một trong những điều kiện tất yếu phải có, đó là cái thiện tâm của con người. Và ta có thể nói: Vinh Danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người có thiện tâm. Sứ điệp Giáng Sinh là thế đó. Đến với Con Thiên Chúa làm người để cái tâm của chúng ta dần dà được cải thiện. Có được thiện tâm thì bao hành vi yêu thương liên đới sẽ tự nhiên thành hiện thực. Sự bình an và hạnh phúc sẽ ngày càng tỏa lan. Và dĩ nhiên để có cái tâm thiện thì trước hết cần loại bỏ cái lối nghĩ suy cao ngạo sai lầm cho rằng không có Đấng Tạo Thành; không có linh hồn, không có đời sau; không có chuyện thánh thiêng và cứ mãi ngông cuồng lầm lạc cho rằng tín ngưỡng và tôn giáo chỉ là một thứ thuốc phiện. Đây là lối nghĩ suy của một chủ nghĩa đã bị Nghị Viện Châu Âu kết vào tội ác chống loài người và theo Victor Hugo nó “là giấc mơ của vài người nhưng là cơn ác mộng của nhân loại”.

 

.

ĐÊM ÁNH SÁNG – ĐÊM AN BÌNH

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Bầu khí của đêm Giáng sinh hôm nay cho chúng ta một cảm nhận rất lạ, một bầu khí nhẹ nhàng, bình an thanh thản trong tâm hồn, mặc dù cuộc sống bên ngoài có vẻ như rất vội vã. Cùng với muôn màu lấp lánh của hàng vạn dây điện là những bài thánh ca du dương mừng Con Chúa ra đời, khiến cho lòng người như lâng lâng bước vào một khung trời mới. Cảm nhận này không chỉ là của riêng những Kitô hữu, mà là cảm nhận chung của nhiều người. Trong đêm Giáng sinh, mặc dù chưa tin Chúa, nhưng nhiều người đang hiện diện nơi đây cũng muốn hòa mình vào niềm vui chung của nhân loại trong đêm Giáng sinh này. Tại sao vậy?

Dù muốn hay không muốn, tin hay không tin, thì nhân loại này cũng không thể phủ nhận được đêm nay là đêm mừng sự kiện Đức Giêsu giáng sinh. Ngài là Đấng mà các Kitô hữu tin là chính Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, là nguồn ánh sáng và là Hoàng Tử – Vua Bình An. Cuộc giáng sinh của Ngài đã đặt một cột mốc, mở ra một trang sử mới cho cả nhân loại. Các bài đọc Kinh Thánh đêm nay muốn giới thiệu cho chúng ta cuộc Giáng sinh trong đơn sơ khó nghèo của vị Vua Bình An này.

Từ năm trăm năm trước công nguyên, tiên tri Isaia đã nói trước về sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế. Lúc đó, dân Israel đang sống trong cảnh tăm tối của tình trạng lưu đày khổ dịch bên Babylon. Trước mặt họ là một tương lai mờ mịt, niềm hy vọng trở về Giêrusalem khôi phục lại đất nước còn quá mong manh xa vời. Những lời của Tiên tri Isaia hôm nay là nguồn tăng lực cho họ, lời lẽ của ông ngập tràn ánh sáng: “Đoàn dân đang bước đi trong tăm tối đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người ngồi trong bóng tối nay được chiếu soi. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm vui mừng hoan hỷ. Họ hân hoan vui mừng như trong mùa gặt”.Tiên tri Isaia cho thấy lý do đổi đời của họ là vì một Đấng Cứu Tinh sẽ sinh ra, được ban tặng cho nhân loại. Đấng Cứu thế sẽ đem lại ánh sáng, niềm vui và hạnh phúc cho Israel. Ngài sẽ bẻ gẫy cái ách nô lệ đang đè trên cổ họ, Ngài thiêu hủy những cái roi đang quất xuống trên họ. Những đoàn quân của kẻ áp bức sẽ bị dẹp tan và một tương lai mới sẽ được thiết lập và ban tặng cho Israel. Vì Đấng Cứu Thế được sinh ra sẽ là đấng quyền năng, là người cha muôn thuở, là thủ lãnh hòa bình. Ngài sẽ thiết lập hòa bình trên toàn cõi địa cầu.

Lời tiên báo của Isaia ngày xưa đã được ứng nghiệm nơi cuộc sinh hạ của Đức Giêsu mà Thánh Luca thuật lại. Nếu Isaia dùng những hình ảnh hết sức mạnh mẽ, cụ thể để nói về Đấng Cứu Thế, thì hôm nay cuộc giáng sinh của Ngài lại hết sức đơn sơ, thầm lặng đến bất ngờ. Các mục đồng là những người đầu tiên được loan báo tin mừng trọng đại này và là những nhân chứng đức tin đầu tiên về cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Thế.
Thiên Chúa đã chọn một con đường hết sức bình thường để bước vào trần gian trong gia đình Giuse – Maria. Giuse và Maria cũng giống như bao gia đình khác tại Israel, nhưng Giuse và Maria là những người biết rõ nhất về hài nhi mà Maria đang cưu mang không phài là người thường, mà là “Con Đấng Tối Cao”. Vì sự nghèo khó của hai ông bà, nên khi về quê, họ không được người thân đón tiếp và cũng không có khả năng để thuê một quán trọ để qua đêm. Hai ông bà đã phải tìm đến một túp lều ngoài cánh đồng để dừng chân. Chính trong đêm đó, trong khung cảnh tồi tàn đáng thương đó, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh. Bà Maria sinh một con trai đầu lòng, lấy tã bọc con và đặt nằm trong máng cỏ.

Tin Mừng cho thấy sự tương phản nơi khung cảnh nghèo hèn của một hang bò lừa với vẻ huy hoàng của sự xuất hiện của Thiên Chúa. Giữa đêm tăm tối, ánh sáng đã bừng lên, vinh quang của Thiên Chúa đã tràn ngập bầu trời. Những con người đầu tiên được đón nhận tin vui trọng đại này là các mục đồng. Họ là những người thấp kém trong xã hội, những người nghèo, bị loại trừ, phải đi làm thuê làm mướn, nhưng họ có một tâm hồn thật đẹp, thành tâm thiện chí, khao khát Đấng Cứu Thế. Thánh Luca thuật lại: “Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra đứng bên họ, vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa khắp vùng khiến họ sợ hãi kinh hoàng. Sứ thần đã trấn an họ: Anh em đừng sợ, này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa”.

Trong suốt thời gian đợi chờ, người Do Thái chỉ mong ngày “Thiên Chúa viếng thăm” như xưa Người viếng thăm dân Người, giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập và đưa họ về từ đất Babylon. Với cuộc giáng sinh của hài nhi Giêsu, sứ thần đã quả quyết với các mục đồng rằng: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã đến với anh em”.Hôm naylà cột mốc thời gian Thiên Chúa viếng thăm nhân loại, để vĩnh viễn giải thoát nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, khôi phục lại phẩm giá và địa vị cho con người và đưa nhân loại trở về quê hương là Nước Trời. Vì thế khi nghe những lời loan báo của sứ thần, các mục đồng đã nhận ra đêm nay là đêm khởi đầu một kỷ nguyên mới, Đấng Cứu Độ là Hoàng Tử Bình An, là Đấng sẽ xóa tan màn đêm u tối, sẽ bao trùm nhân loại này bằng ánh sáng vinh quang và quyền năng của Ngài. Các thiên thần cũng chỉ cho các mục đồng một dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu Thế, đó là: “Một trẻ sơ sinh được bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ”.

Các thiên thần và đạo binh thiên quốc đã phá vỡ sự im lặng và u tối của cánh đồng Bêlem bằng ánh sáng và những lời ca tụng Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Lời ca này còn âm vang đến chúng ta ngày hôm nay và cho thấy khi Danh Chúa được tôn vinh ca tụng, được mọi người nhận biết, tôn thờ, thì bình an của Thiên Chúa sẽ ban xuống cho tất cả nhân loại là những kẻ Ngài đã yêu thương. Lời ca của sứ thần còn trao gửi cho chúng ta sứ mạng phải có bổn phận góp phần làm cho Danh Chúa được tôn vinh trên trời và dưới đất, mọi người nhận biết tôn thờ và là những người đem bình an của Chúa đến cho mọi người mọi gia đình và toàn thể nhân loại này.

Thế giới ngày nay vẫn chưa ngưng tiếng súng, sự bất công đói nghèo đang là mối đe dọa cho nhân loại. Những cuộc di dân lớn tại Châu Âu, Châu Mỹ đang khiến nhiều người bất chấp nguy hiểm, bỏ lại gia đình và quê hương để tìm đến nơi yên ổn. Bình an, ánh sáng và niềm vui Giáng sinh của Thiên Chúa dường như chưa đến được với những con người đau khổ này. Cũng vậy, quanh chúng ta còn nhiều người, nhiều gia đình vẫn đang sống trong cảnh bất an, bất ổn, đang bị đau khổ dày vò. Tình trạng bạo lực, giết người, phá thai dường như đang càng ngày càng gia tăng. Con người dường như càng ngày càng đánh mất phẩm giá của chính mình, để cho mình sống theo bản năng, phản ứng và cư xử với nhau thiếu tình người vv. Chúng ta sẽ phải làm gì để có thể đón nhận được sự bình an của Chúa Giáng Sinh, để phục hồi lại phẩm giá và tình trạng thánh thiện của tâm hồn?

Thánh Phaolô chỉ cho chúng ta rằng: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được ban tặng cho con người. Ân sủng cao quý nhất chính là Đức Giêsu Kitô. Ân sủng này dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và đam mê trần tục mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vây là vì chúng ta là những người trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi là ngày Chúa đến để đưa chúng ta về với Chúa”.Như thế có nghĩa là những Kitô hữu tuyên xưng Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian, phải đón nhận Ngài và sống theo lời dạy của Chúa Giêsu. Chúng ta phải dám từ bỏ khỏi mình lối sống bất công, gian dối, gian ác, không dùng bạo lực để đáp lại bạo lực nhưng dùng tình yêu và tha thứ. Chúa đến để phục hồi phẩm giá con người, vì thế chúng ta cần phải biết tôn trọng phẩm giá chính mình và tôn trọng phẩm giá người khác, tôn trọng sự sống và sức khỏe người khác, bảo vệ giúp đỡ những người yếu đuối, đón nhận và bảo vệ các thai nhi và các trẻ em. Khi cố gắng sống mỗi ngày như thế, niềm vui, ánh sáng và bình an của Chúa Giáng Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn chúng ta và sẽ là niềm vui làn tỏa đến những người chung quanh.

Kính chúc mọi người mùa Giáng Sinh đầy tràn ơn bình an, tình yêu thương và phúc lành của Thiên Chúa. Amen

 

.

ÁNH SÁNG TIN MỪNG

Trầm Thiên Thu

Thiên tử giáng trần – vinh danh Thiên Chúa

Thế nhân thờ kính – hạnh phúc loài người

Đêm Con Thiên Chúa giáng trần là đêm vô cùng đặc biệt đối với cả nhân loại, kể cả những người không phải là Kitô hữu, dù cho đối với họ chỉ là một lễ hội theo xã hội. Không một nhân vật nào có ngày sinh nhật được mọi người biết đến và háo hức mong chờ, chỉ có Chúa Giêsu mà thôi. Có lẽ cảm thấy mình hèn kém nên một số kẻ có chức quyền cấm cả các Ông Già Noël không được phát quà tại các trường học.

Nhưng dù những kẻ thủ ác theo phe bóng tối bày đủ trò hèn hạ để bách hại thì họ càng tự chứng minh sự hèn hạ của mình, và không thể ngăn cản ánh sáng của Thiên Chúa. Lịch sử đã và đang chứng minh như vậy. Chính Thiên Chúa Cha đã từng minh định bằng lời tuyên phán về Chúa Giêsu: “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2:7). Đó là Đấng Emmanuel, cư ngụ và vào đời với chúng ta.

Trong lịch sử loài người, đã có hằng ngàn hài nhi trở thành vua, nhưng chỉ có một lần một Vị Vua trở thành một Hài Nhi: Đức Giêsu Kitô. Trong Đêm Cực Thánh lung linh muôn ánh sao này, Lời Chúa khiến tất cả chúng ta đều phấn khởi vui mừng, vì Đấng Cứu Độ đã được Chúa Cha trao ban cho nhân loại. Đó là Tin Mừng của các tin mừng, vì chính từ đêm nay, sự bình an đích thực đã từ trời ban xuống cho nhân thế – trong đó có mỗi chúng ta. Niềm hạnh phúc quá lớn lao nên không thể bày tỏ bằng phàm ngôn!

Thật tuyệt vời! Thế thì không vui mừng sao được khi mà “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9:1). Ôi, hồng ân cao cả vô cùng, với lý do rất minh nhiên: “Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm” (Is 9:2). Đúng như lời ông A-xáp xưng tụng: “Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần” (1 Sb 16:25).

Cuộc đời bất công đã tạo ra nhiều đau khổ nên con người rất cần Thiên Chúa. Khi Ngài đến, không còn bất công và áp bức, công lý được sáng tỏ: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa. Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:3-5). Những Tôn Danh đó vô song, và chỉ có thể dành cho Thiên Chúa, không một người nào hoặc một thần linh nào xứng đáng với các Tôn Danh đó. Vì ảo tưởng mà ích kỷ, vì ích kỷ mà mê muội, thế nên vua chúa ngày xưa đã dám tự xưng là “thiên tử”. Kinh dị và quái gở thật!

Belem nhỏ bé, hẻo lánh, bỗng dưng trở nên to lớn và quan trọng, vì được chọn làm nơi Hài Nhi giáng sinh. Hài Nhi đó chính là Vua Công Lý, Ngài đích thân đến để giải thoát tội nhân khỏi ách nô lệ, các tử tù cũng được trắng án: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” (Is 9:6). Lời hứa từ ngàn xưa đã ứng nghiệm, nên trọn.

Đêm Con Thiên Chúa giáng sinh là Đêm Hồng Ân, Đêm Ánh Sáng, Đêm Giao Hòa, Đêm Cứu Độ, Đêm Bình An, đêm tràn ngập Ánh Sáng Tin Mừng Cứu Độ. Niềm vui trào dâng tràn ngập đất trời, chan hòa lòng người. Không ai có thể bất động mà không hân hoan thốt lên: Hãy vui lên! Thật vậy, Thánh Vịnh gia đã phải lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu! Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người” (Tv 96:1-3). Không ai có thể giấu kín niềm vui, dù chỉ là thoáng vui.

Thánh Vịnh gia không chỉ mời gọi người khác mà còn kêu gọi cả muôn loài cùng thể hiện niềm vui sướng đó: “Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật, ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Hỡi cây cối rừng xanh, hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa, vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian. Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người” (Tv 96:11-13). Niềm vui mừng rộn rã đó thật là chính đáng, vì chính đêm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Đức Kitô Chúa chúng ta, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

Chính Ngài là Ánh Sáng đến phá tan bóng tối, là Hòa Bình dập tắt chiến tranh, là Công lý triệt tiêu áp bức, là Tình Yêu tiêu diệt hận thù. Thật kỳ diệu, Ngài tự hạ để nâng chúng ta lên cao, Ngài chấp nhận nghèo khó để chúng ta giàu có, Ngài chịu bơ vơ để chúng ta sum họp,… Vô cùng tạ ơn Chúa Hài Đồng, phàm phu tục tử chỉ biết nói thế, vì phàm ngôn không đủ để có thể diễn tả hết ý nghĩa cao siêu về Thiên Chúa.

Đêm nay là đêm linh thánh và huyền diệu, đêm ứng nghiệm lời hứa từ ngàn xưa, tất cả đã được nên trọn theo ý Chúa: “Ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao chúng ta phải cố gắng sống khác lúc trước? Thánh Phaolô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Vâng, không còn hạnh phúc nào lớn hơn nữa. Nguyện xin tất cả vì vinh danh Chúa mà thôi, đó là trách nhiệm và bổn phận của mọi chúng nhân!

Trình thuật Lc 2:15-20 ngắn gọn mà đầy đủ chi tiết về Cổ-Tích-Giáng-Sinh, một câu chuyện cổ tích CÓ THẬT chứ KHÔNG hoang đường hoặc huyền thoại. Thánh sử Luca kể…

Vào thời gian đó, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. Mọi người đều phải về nguyên quán để khai tên tuổi cho đúng thủ tục. Theo luật, Chú Giuse cũng phải từ Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít – tức là Belem, miền Giu-đê, vì Chú thuộc Hoàng tộc Đa-vít. Chú lên đó khai tên cùng với tân nương là Cô Maria, lúc ấy Cô đang mang thai.

Trong khi hai người đang ở đó, Cô Maria tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Và rồi Cô sinh Con Trai đầu lòng, lấy tã bọc con đặt nằm trong máng cỏ, vì hai Cô Chú không tìm được chỗ trong nhà trọ. Khó khăn đủ thứ, càng khó khăn hơn vì trời đã nửa khuya giữa đồng không mông quạnh!

Belem là vùng quê nhỏ bé, hẻo lánh, dân nghèo, đêm đó có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức để canh giữ đàn súc vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Hãi hùng là cái chắc, vì các mục đồng là những con nhà nghèo, học hành không nhiều, có thể cũng có người chẳng biết chữ. Dân quê chân chất, mộc mạc, nhưng rất chân thành. Đang đêm ngon giấc mà họ thấy ánh sáng chiếu sáng chói cả mắt, lại đang ngái ngủ, họ hoảng sợ là chuyện bình thường thôi, không có chi lạ.

Biết họ hoảng sợ, sứ thần liền trấn an họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11). Họ nghe nhưng có lẽ chả hiểu ất giáp chi cả, hẳn là họ tròn mắt và há miệng vì quá đỗi ngạc nhiên, y như những chú Tàu nghe kèn vậy. Ôi, lúc đó nhìn họ chắc thấy “tội nghiệp” lắm!

Biết họ chân chất thật thà nên sứ thần nói rõ ràng luôn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2:12). Ôi chao, dấu hiệu cũng “lạ”, hoàn toàn khác thường. Vậy mà họ không hề thắc mắc, thật thà chính hiệu. Họ liền mau mắn kéo nhau đi gặp Trẻ-Sơ-Sinh-Bọc-Trong-Tã như đã được thông báo. Và họ đã thấy y chang như sứ thần đã mách bảo. Các mục đồng thật diễm phúc vì là những người đầu tiên được thấy Đấng Cứu Thế, những chứng nhân đầu tiên đem Ánh Sáng Tin Mừng đến với người khác. Thật kỳ diệu và tuyệt vời!

Trong tâm tình tin mến và hòa chung niềm vui rộn rã tưng bừng, chúng ta cùng hợp lời với muôn vàn thiên binh hợp và sứ thần để cùng cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2:14).

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin tỏa Ánh Sáng Tin Mừng để dẫn chúng con đến với Nguồn Sáng Giêsu và những con người hèn mọn nhất, xin giúp chúng con nhận biết Ngài qua tha nhân và xin cho người khác cũng nhận ra Ngài nơi chúng con, làm cho chúng con trở nên chứng nhân sống động của Tình Yêu Thương qua việc xây dựng nền văn minh tình thương và văn minh sự sống. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

 

.

SỨ ĐIỆP YÊU THƯƠNG CỦA MẦU NHIỆM GIÁNG SINH

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Lc 2,1-14

(c 1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (c 2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (c 3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (c 4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (c 5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (c 6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa. (c 7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (c 8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đoàn vật. (c 9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (c 10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: (c 11) Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (c 12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”.(c 13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (c 14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.

  1. Ý CHÍNH:

Tin Mừng Lu-ca mô tả hoàn cảnh và thời gian của Con Thiên Chúa giáng trần: Tuy được sinh ra trong cảnh nghèo hèn… nhưng Người lại là Thiên Chúa quyền năng. Người đời đã hất hủi xua đuổi Đấng Cứu Thế trong khi các thiên thần lại vui mừng hát ca. Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót đã đến trong thân phận nghèo hèn để đồng cảm với người nghèo và mời gọi mọi người hãy yêu thương nhau, thể hiện qua việc quảng đại chia sẻ cơm áo và niềm vui cho nhau.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 1 : + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rôma cai trị từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).

– C 2 : + “thành vua Đa-vít”: Khi gán tước hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bê-lem (x. Mt 2,6), Tin Mừng dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).

– C 5 : + “Người đã đính hôn với ông Giu-se là bà Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).

– C 7 : + Bà sinh con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng” chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Lu-ca đề cập đến “con trai đầu lòng” ở đây là muốn nhắc đến điều luật Mô-sê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho Chúa”(x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm để chuộc lại con, sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi Giê-su (x. Lc 2,23). + Không tìm được chỗ trong nhà trọ: Các chủ quán từ chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ đón phụ nữ mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc kinh doanh của họ!

– C 11 : + Đấng Ki-tô Đức Chúa: Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Quyền Chúa Tể và Vương Đế của Người được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2,36).

– C 14 : + Bình an dưới thế”: Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9,5-6 ; Mk 5,4).

  1. HỎI ĐÁP:

HỎI: Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?

ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vấn đề ở đây là ý nghĩa thực sự của từ “cho đến khi” và “anh em và chị em của Đức Giê-su” như thế nào? :

+ “Cho đến khi”: Câu Mt 1,24-25 nên được diễn giải như sau: Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần trong giấc mộng: Một là ông “tổ chức lễ cưới chính thức để rước cô dâu Ma-ri-a” về nhà mình; Hai là ông “không ăn ở với Ma-ri-a như vợ chồng” vì Ma-ri-a đã được thánh hiến dâng mình phục vụ Thiên Chúa như một nữ tu khấn trọn; Ba là “cho đến khi” Ma-ri-a sinh con thì ông “đặt tên cho con trẻ là Giê-su” như lời sứ thần truyền để nhìn nhận trẻ Giê-su là con chính thức của mình về luật pháp (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết: hai ông bà đã không ăn ở cho đến khi Ma-ri-a sinh con thì lại ăn ở với nhau, như có người lầm tưởng!

+“anh em và chị em của Chúa Giê-su”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, các từ “anh em ông”, “chị em ông” (x. Mt 13,55-56) hay “mẹ và anh em của Người” (x. Mt 12,46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà thôi. Vì Chúa Giê-su là “con trai đầu lòng”, là người con thứ nhất, nên nếu Đức Ma-ri-a có thêm các người con khác thì họ phải được gọi là “các em trai” và “các em gái” thay vì được gọi chung chung là “anh em” và “chị em” như ở đây. Hơn nữa, bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Đức Ma-ri-a chỉ có một con trai duy nhất là: Chúa Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và “Kể từ giờ đó, người môn đệ đã rước bà về nhà mình” (Ga 19,26-27). Chắc Đức Giê-su sẽ không trối Mẹ Ma-ri-a cho môn đệ Gio-an rước về nhà mà phụng dưỡng sau khi Người chết, nếu Mẹ Ma-ri-a còn có nhiều người con khác.

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa (Lc 2,11).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) MÓN QUÀ GIÁNG SINH QUÍ NHẤT

Người ta tìm thấy trên bàn làm việc của một ông giám đốc xí nghiệp vừa từ trần một bức thư với nội dung như sau: “Thưa ông giám đốc, chiều nay tôi và cả gia đình tôi mới nhận được một tin vui là ông giám đốc đã nhận tôi vào làm công nhân trong nhà máy của ông. Tôi coi tin này là một món quà to lớn trong mùa Giáng Sinh năm nay. Vì từ hôm nay, vợ con tôi lại có cơm ăn áo mặc hàng ngày và có tiền để trang trải các khoản chi phí mà chúng tôi đang thiếu hụt. Tôi xin chân thành cám ơn ông giám đốc”. Bên dưới bức thư này có mấy dòng chữ của ông giám đốc mới qua đời phê vào bức thư như sau: “Bức thư này quả là một món quà tinh thần quí giá nhất mà tôi đã nhận được trong lễ Giáng Sinh năm nay. Tôi chắc sẽ không bao giờ quên được niềm vui lớn lao mà món quà này đã mang lại cho tôi”.

2) MỘT LỄ GIÁNG SINH ĐẸP NHẤT TRONG ĐỜI THÁNH GIÁO HOÀNG GIO-AN 23:

Theo một thông lệ từ lâu trong Giáo Hội, các Đức Giáo Hoàng đều bị hạn chế đi lại trong bốn bức tường rào của điện Va-ti-can và không được tự do ra ngoài. Đây là điều Đức Gio-an 23 khi mới được bầu làm Giáo Hoàng cảm thấy vô lý. Cuối cùng ngài đã quyết định phá bỏ thông lệ ấy. Ngài chia sẻ: “Vào ngày Lễ Giáng Sinh năm đầu tiên làm Giáo Hoàng, tôi muốn đến thăm các trẻ em đau yếu đang được điều trị tại bệnh viện Chúa Giê-su Hài Đồng ở thủ đô Rô-ma. Nếu lễ Giáng Sinh là lễ của các trẻ em thì tại sao môt vị Giáo Hoàng lại không đến thăm các em? ”. Thế là vị Giáo Hoàng được mệnh danh là người cha hiền từ, đã quyết định ra ngoài Va-ti-can để đến gặp gỡ các em bệnh nhi tại bệnh viện dành riêng cho các em. Vừa thấy bóng ngài, các em đã réo gọi ngài bằng tên Gio-an như một người bạn thân. Ngài đã gặp gỡ chuyện trò thân mật với các em. Ngài ngồi bên cạnh một em bé bị thương nặng thể hiện lòng nhân từ thương xót của Chúa Giê-su. Sau này Ngài đã coi Lễ Giáng Sinh năm đó là ngày đẹp nhất trong đời giáo hoàng của ngài và cũng là ngày vui vẻ hạnh phúc nhất đối với các em nhi đồng.

  1. THẢO LUẬN:

Đấng Cứu Thế đến thiết lập một Nước Trời bình an, hy vọng, vui tươi và hạnh phúc. Trong Mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta cần làm gì cụ thể để tích cực cho Nước Trời ấy mau đến ngay tại gia đình, khu xóm và nơi làm việc của chúng ta?

  1. SUY NIỆM:

1) Giáng Sinh là lễ của tình thương: Thiên Chúa là Tình yêu đã sai Con Một xuống thế cứu chuộc làm người là Đức Giê-su. Người là Lời sáng tạo quyền năng nhưng đã hóa nên một trẻ thơ yếu đuối, sinh bởi một trinh nữ, nên giống như chúng ta mọi đàng ngọai trừ không có tội. Khi giáng sinh, Người đã hóa nên một trẻ thơ để mời gọi mọi người yêu thương trẻ nhỏ, nâng đỡ người nghèo hèn. Đến ngày tận thế, Đức Vua Thẩm Phán Giê-su sẽ tái lâm để phán xét chung mọi người: “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm… Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,34-40).

2) Giáng Sinh là Tin Mừng trọng đại cho tòan dân: Trong bài Tin Mừng hôm nay sứ thần đã báo tin vui cho các mục đồng ở ngọai ô Bê-lem : “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa  Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người.: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” ( Lc 2, 10-12). Trong Mùa Giáng Sinh này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để chia sẻ tin mừng cho tha nhân bên cạnh ?

3) Giáng Sinh với việc thực hiện bài ca thiên thần: Lời ca khen hát mừng của các sứ thần trong đêm Chúa Giê-su giáng sinh “Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” vẫn luôn vang lên trong dịp Giáng Sinh và cần phải được tiếp tục vang lên trong tâm hồn của các tín hữu, biến thành lời ca chúc bình an với ước mong cho mọi người đều làm sáng danh Thiên Chúa và đều đem bình an hạnh phúc cho tha nhân. Chúng ta hãy noi gương các mục đồng ở Bê-lem cùng nhau đến thăm viếng giúp đỡ những trẻ Giê-su khó nghèo tại các trại mồ côi, an ủi những ai đang bị giam cầm và những tâm hồn đau khổ bị đối xử bất công giữa lòng xã hội. Đêm nay, dưới gầm cầu, bên hàng hiên của những ngôi nhà cũng vẫn còn đó những trẻ Giê-su đang nằm co ro vì lạnh, vì đói và vì không có nhà để đi về…

4) Giáng Sinh – lễ của niềm vui chia sẻ: Vào dịp lễ Giáng Sinh, người ta thường thể hiện tình cảm quí mến đối với bạn bè và những người thân quen, bằng việc gửi đi những cánh thiệp chúc mừng Giáng Sinh. Theo phong tục của những nước phương tây, buổi sáng ngày lễ Giáng Sinh, cha mẹ thường thay ông già No-en tặng quà cho con cái của mình, người lãnh đạo tặng quà cho các nhân viên thuộc cấp, chủ nhà tặng quà cho các người giúp việc… còn chúng ta thì sao? Trong mùa Giáng Sinh này, mỗi người chúng ta sẽ tặng gì cho những người thân quen, những người đã giúp đỡ chúng ta suốt năm qua, nhất là những người đáng thương như các cụ già neo đơn, các bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang, các người mù lòa khuyết tật và những người đang lang thang đầu đường xó chợ…?

  1. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giê-su. Trong đêm Giáng Sinh, Hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đã lâm vào hoàn cảnh cùng cực tại thành Be-lem, khi Đức Ma-ri-a phải sinh con trong một chuồng chiên nghèo hèn, giữa cảnh trời đồng lạnh giá. Tin Mừng đã ghi lại như sau: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,7). Ôi! Thật trớ trêu: “Ngôi Lời Thiên Chúa ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,5.10-11).

– LẠY CHÚA. Hôm nay Giáng Sinh lại về. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người quên ngủ, vui vẻ liên hoan… Kìa, hai người lữ hành Be-lem đã từng lỡ bước đêm xưa vẫn đang còn lỡ bước đêm nay, vì các chủ quán trọ năm xưa vẫn đang còn đó! Giàu: chủ đón rước vào nghỉ trong khách sạn. Nghèo: hãy theo gót Giu-se Ma-ri-a ra vỉa hè công viên hoặc tại những nơi đầu đường xó chợ! Xin Chúa giúp chúng con biết nhìn thấy hài nhi Cứu Thế đang hiện thân nơi những kẻ nghèo hèn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị, những trẻ em đang sống lang thang hè phố, những cụ già cô độc không con cái chăm sóc… để chúng con biết thể hiện tình thương đối với họ bằng những việc làm cụ thể như: thăm viếng và chia sẻ tình người, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó, chúng con xứng đáng trở thành những môn đệ đích thực của Chúa.

HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

.

 

NGÀY HỒNG PHÚC

Lm. Jos. DĐH.

Có những ca khúc chúng ta hát hoài hát mãi và vẫn thấy hay, vì lời nhạc đã đi vào lòng người, gọi là bất tử. Có thể nhiều lần chúng ta chứng kiến tình huống con cái xúc phạm đến bậc sinh thành, rồi sau đó chúng hối lỗi, các ngài vẫn tha thứ, đơn giản vì nước mắt chảy xuôi, không chảy ngược. Xung quanh chúng ta hẳn không thiếu những người đàn ông vì “máu đỏ đen”, để rồi nhà tan cửa nát, trách trời không thương. Thời nào cũng có những người tài giỏi đức độ, mà xã hội, xóm làng bỏ qua, như không hề hay biết và trọng dụng. Mơ ước thành công, tìm kiếm hạnh phúc, là điều chính đáng, còn sử dụng thời giờ hợp lý, biết ứng xử có lý có tình, lại rất cần đến một quân sư trợ giúp, nếu không ta cũng chỉ là đứa học trò đầy thiếu sót sai lầm: cây cao bóng mát không ngồi, ra ngồi chỗ nắng trách trời không râm !

Cuộc sống chớ trêu, có những người hả hê đắc thắng cho rằng: tôi làm chơi mà ăn thật ; lại cũng có khối kẻ than thở, tại sao cái nghèo khổ cứ bám theo tôi ! Chẳng ai so sánh và đem lên bàn cân đo, tinh thần đạo đức giữa các luật sĩ biệt phái với những mục tử chăn chiên thế nào, cũng thật là thiếu công bằng, nếu chỉ có các mục đồng mới nhận ra hôm nay là ngày “hồng phúc”, ngày Con Thiên Chúa giáng trần. Thiên Chúa không thiên vị một gia đình hay một cá nhân nào, dịp thuận tiện để tới hang Belem, cơ hội để gặp Hài nhi Giêsu, bậc hiền tài, hoặc kẻ phàm phu đều giống nhau. Cũng không phải vì may mắn hơn người, hay vì Con Thiên Chúa đến thế trần chỉ muốn thông qua các mục đồng nghèo. Vấn đề phức tạp ở chỗ là làm sao chúng ta có thể nghe, hiểu, và cảm nhận Hài nhi Giêsu là Thiên Chúa thật, chuẩn, như các mục đồng ?

Nghe, hiểu, tiếng hát của các thiên thần, các mục đồng không ngại cất công đến Belem khám phá sự thật về ánh quang toả rạng, dù sao thì các mục đồng cũng là những vị đã gặp, đã xem thấy, đã tin, Hài nhi nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa mà nhân loại hằng mong đợi. Ngày hôm nay, tiếng hát của thiên thần vẫn đang vang lên, tiếng hát ấy vẫn là thiêng liêng, bất tử, mọi người có lòng thành đều cảm nhận được ngày giờ là của Chúa, thời gian cứu độ là của Chúa. Ngày hôm nay là ngày yêu thương, ngày mà Con Thiên Chúa sẽ khởi đầu cho kế hoạch giải thoát tội lỗi cho từng tâm hồn chúng ta.

Hành trình mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay đến Belem, hẳn vẫn như các mục đồng, bầu khí thinh lặng, nhưng ấm áp tình Chúa, tình người, mắt tâm hồn sẽ giúp ta hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa. Ngày hôm nay sẽ mãi là ngày thánh, vì cường độ của tình yêu tỉ lệ với việc lãnh nhận ơn ban, người được gặp, được xem thấy, cũng là người tin Thiên Chúa yêu thương cứu độ. Ngày hôm nay, ở bên hang đá không còn là cô đơn lẻ bóng một vài cá nhân ngoan đạo, vì sự linh thánh vẫn đang toả chiếu vào tâm trí con người một niềm vui, một tình yêu không đổi thay, cũng là tình yêu của Thiên Chúa cứu độ. Ngày hôm nay, hang đá của cõi lòng mỗi người đã và đang được biến đổi thành bầu khí tin yêu, cầu nguyện, và niềm an vui thực sự trở nên chứng nhân tin mừng cho toàn dân.

Ngày hôm nay chính là ngày hồng phúc, ngày mà từng người trong chúng ta đây sẽ trở nên những mục đồng, được ghi tên vào lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta đã ý thức việc đến Belem chưa đủ, nhưng chúng ta sẽ kết hiệp cầu nguyện để thấu hiểu Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa đến trần gian là vì muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc. Ngày hôm nay, người ta yêu thôi chưa đủ, người ta phải thấu hiểu tâm hồn nhau, chứng minh được lực hút của con tim khối óc mới gọi là tình yêu đúng nghĩa. Con Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta sòng phẳng theo quan niệm hòn đất ném đi, hòn chì ném lại, song niềm tin yêu của mỗi người phải được trưởng thành theo chiều dài chiều rộng của thời gian.

Cha ông chúng ta có câu: người khôn nói ít làm nhiều, còn như người dại lắm điều điếc tai. Các ngài có ý nhắc nhớ con cháu hãy bằng lòng với sự hiểu biết của mình, mỗi người hãy sống tận tâm tận lực, qua đó mỗi ngày sống là mỗi ngày chúng ta hiểu được giá trị của tình yêu mà chúng ta lãnh nhận. Các mục đồng đến hang Belem thờ lạy rồi cũng sẽ trở về với cuộc sống thường ngày, nhưng chứng nhân về Hài nhi Giêsu vẫn là trọng trách của các mục đồng. Hang đá do tay con người làm ra cho Chúa Hài nhi hôm nay, dù có lộng lẫy đồ sộ tới đâu rồi cũng sẽ cất vào kho, nhưng người nghèo khó bất hạnh vẫn ở xung quanh chúng ta, sứ mạng Con Thiên Chúa đi vào tâm hồn mỗi người không thể im lặng và đửng dưng khi chúng ta đã từng được ơn ban. Xin tình yêu của Đấng Emmanuel, mãi mãi ở trong tâm hồn chúng ta, hầu mỗi giây phút trong đời, trong ngày, mỗi lời nói việc làm của chúng ta đều phản ánh được giá trị tình yêu thương của Chúa. Amen.

 

.

TẠI SAO THIÊN CHÚA XUỐNG THẾ LÀM NGƯỜI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Thánh Phanxicô Assissi quỳ bên hang đá, chiêm ngắm tình yêu Thiên Chúa giáng sinh, ngài tự hỏi: tại sao Thiên Chúa quyền năng lại trở nên một em bé thấp hèn? Tại sao Thiên Chúa cao sang lại sinh ra trong hang lừa nghèo khó? Từ đó, ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập lòng yêu mến và không thể kiềm chế cảm xúc, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: “Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI thốt lên lời thán phục: “Thiên Chúa quá cao cả đến nỗi Người có thể trở nên bé nhỏ, quá toàn năng đến nỗi có thể trở nên yếu kém và để gặp gỡ ta như một đứa trẻ không có bảo vệ để ta có thể yêu mến Người”.

Tất cả ý nghĩa của lễ Giáng Sinh đều xoay quanh một đứa trẻ. Hài Nhi ấy là Thiên Chúa đã thật sự làm người, đã thật sự sinh ra trong hình hài một đứa trẻ, với cha mẹ là Giuse và Maria.Và đó là Tin Mừng mà thiên sứ đã trao cho những người chăn chiên: “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (Lc 2,10-11). Tin Mừng sứ thần loan báo cho các mục đồng tại làng Bêlem năm xưa thực sự là Tin Mừng cho nhân loại mọi nơi và mọi thời.

Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người.Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ.

Tại sao Thiên Chúa xuống thế làm người ?

Kinh Tin Kính Công đồng Nixêa (năm 325) đã trả lời: “Vì loài người chúng tôi, và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”. 

Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo đã đưa ra 4 lý do : là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457-460).

  1. Thiên Chúa sinh xuống làm người là để cứu độ loài người.

Các thiên thần báo tin cho các mục đồng tại Bêlem : “Đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, cũng là tin mừng cho cả toàn dân : hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi trong thành vua Đavít” (Lc 2,10-11). Thánh Gioan tông đồ viết : “Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng Cứu Độ thế gian” (1Ga 4,14).

Từ nay,Thiên Chúa không còn đến với con người qua trung gian mà là Con Một được tặng ban cho nhân loại. Tình yêu Thiên Chúa không chỉ là lời hứa mà bằng chính nghĩa cử cao đẹp Ngôi Lời nhập thể. Từ nay, lời hứa cứu độ đã được thực hiện nơi Một Hài Nhi đã sinh ra. Lời hứa ngọt ngào từ thưở địa đàng khi Nguyên Tổ sa ngã đánh rơi khỏi tầm tay trái táo hạnh phúc (St 3,15). Rồi trải qua hàng ngàn năm bằng sự loan báo của các Ngôn sứ, Thiên Chúa vẫn mãi lời hứa tình yêu cứu độ.

Hài Nhi giáng sinh là một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.

Chính nơi Ngôi Lời Nhập Thể, Thiên Chúa đã hoàn toàn tỏ mình và ban chính mình cho nhân loại. Ngôi Lời Nhập Thể là tuyệt đỉnh thời gian viên mãn đối với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Hài Nhi Giêsu đã trở nên một sự tái tạo mới. Tái tạo khởi đi từ tha thứ và yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Cứu Độ làm nên trọng tâm sứ điệp của đức tin Kitô giáo. Từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, Giáo Hội công bố niềm tin ấy dọc dài thời gian giữa những thách đố của thế giới. Giáo Hội uỷ thác cho con cái mình như kho tàng quí giá để gìn giữ và chia sẻ cho người khác. Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.

  1. Thiên Chúa sinh xuống làm người để giúp con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa.

Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định : “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8).Thiên Chúa là Đấng vô hình không ai thấy được và do đó con người cũng khó nhận ra tình yêu của Người. Vì thế thánh Gioan viết tiếp : “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này : Thiên Chúa đã sai Con Một đến trần gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).

Nếu tội tổ tông gây tác hại là làm mất tình trạng ơn phúc và để cho tội lỗi lẻn vào thế giới, từ đó đau khổ và sự chết mặc sức hoành hành. Hài Nhi Giêsu sinh đến trong xác phàm lại là khởi đầu một mùa giải thoát. Hết rồi đêm tối vì Hài Nhi là ánh sáng. Hết rồi lỗi tội vì Hài Nhi là thánh ân. Hết rồi chết chóc vì Hài Nhi là nguồn sống. Hết rồi sầu muộn vì Hài Nhi là thiên đàng. Như vậy, khi xuống thế, Thiên Chúa đã đem thiên đàng vào cõi trần gian, để mối tình trời đất bị cắt đứt bao đời lại được kết nối một cách mầu nhiệm cho vinh danh trời cao và cho an bình dưới thế.

Tình yêu Thiên Chúa được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14,10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.

Trong ba năm rao giảng công khai, Ngài đã luôn gần gũi với những người nghèo hèn trong xã hội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của họ và ưu tiên rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho những người bé nhỏ, những người bị bỏ rơi.Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó, sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó. Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Nadarét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Giakêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Samari để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Mađalêna, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phaolô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại…Ngài chính là Thiên Chúa yêu thương.

  1. Thiên Chúa sinh xuống làm người để trở thành mẫu mực thánh thiện cho con người.

Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri” (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa “Ai thấy Thầy là thấy Cha“. Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha nhân hậu giàu lòng xót thương.

Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chúa Giêsu đã dạy con người phải sống thánh thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện. Chúa Giêsu, một con người thánh thiện không có một dấu vết tội lỗi nào. Chính Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống đã làm người, giống chúng ta mọi phần, chỉ trừ tội lỗi. (Dt 4,15). Ngài dạy cho nhân loại con đường thánh thiện, và nêu gương thánh thiện. Vì thế, Ngài đã có thể nói : “Hãy học cùng tôi” (Mt 11,29). Khuôn mẫu thánh thiện mà Ngài để lại cho chúng ta được biểu lộ một cách rõ ràng qua tình yêu của Ngài đối với chúng ta, vì tình yêu là cốt lõi của lề luật. Vì thế Ngài dạy rằng : “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Nơi Thiên Chúa, tình yêu và sự thánh thiện là một, bởi vì Thiên Chúa là Tình Yêu và đồng thời cũng là Đấng Thánh.

Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh. Đó là một ơn gọi rất cao cả như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Công Ðồng Vatican II cũng lập lại ý tưởng đó: “Mọi Kitô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (GH 11,3). Trong các thư của Thánh Phaolô, ngài gọi các tín hữu là những vị thánh. Qua Bí Tích Rửa Tội, mọi tín hữu được tham dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Gioan Phaolô II nói rằng: thành công đẹp nhất của một cuộc đời là sự thánh thiện. Tin Chúa, yêu Chúa và sống theo lời Chúa dạy qua Tám Mối Phúc Thật, mọi tín hữu sẽ nên thánh.Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu.

  1. Thiên Chúa sinh xuống làm người để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.

Thánh Irénée đã nói về Đức Kitô rằng : “Người đã trở nên giống chúng ta, để chúng ta trở thành như Người”. Đó không phải là một sự thần hóa thật sự và trọn vẹn trong Con Thiên Chúa nhập thể sao? Về sau, Clément (Alexandrie) và Grégoire (Naziance) đã làm biến đổi suy tư ấy một cách sâu xa khi quả quyết : “Thiên Chúa đã làm người để con người làm Chúa”. Nhà thần học Karl Rahner viết :“Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”, để con người trở thành con Thiên Chúa, với món quà tuyệt vời: “Thiên Chúa đã ban tặng cho chúng ta những gì rất qúy báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa…” ( 2Pr 1,4).

Trước Máng Cỏ Bêlem, thật ngạc nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra tình thương bao la của Thiên Chúa. Lời hứa từ thuở ban sơ, hôm nay đã được thực hiện. Thiên Chúa tỏ bày tình thương bằng cách trao ban chính Con Một của Ngài cho nhân loại.Thánh Phaolô diễn tả: Thiên Chúa bước xuống phận con người, để con người được thông phần bản tính Thiên Chúa.

Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Ngôi Lời làm người mang lấy bản tính nhân loại và làm cho bản tính ấy được thông phần bản tính Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã tự nguyện sinh ra làm con loài người để loài người trở thành con Thiên Chúa nhờ kết hợp với Ngài. Từ khi xuống thế làm người, Con Thiên Chúa đã tự đồng hóa mình với mỗi người trong nhân loại. Từ đây, phẩm giá của con người được nhìn nhận không chỉ vì họ là con người vượt trên mọi loài, nhưng còn vì họ là con Thiên Chúa.

Tin Mừng Giáng Sinh nâng cao phẩm giá con người ngay từ khi được cưu mang trong dạ mẹ và vừa mới sinh ra. Chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, chúng ta sẽ học được nhiều bài học về Sự Thật, Tự Do, Công Lý, Hoà Bình và Tình Thương. Hài Nhi Giêsu đã mở ra triều đại của Công Lý Tình Thương trên “nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,5-6). Nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng sinh ra tại Bêlem, Thiên Chúa nhận lấy thân phận con người, để chúng ta có thể đến được với Thiên Chúa và để thiết lập giao ước với loài người và con người giao ước liên đới với nhau.Giáng Sinh trở thành một đại lễ của nhân loại.

Giáng Sinh là ngày hội lớn duy nhất trên trái đất được đón mừng bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội. Từ núi cao, trong rừng sâu, xuống đồng bằng, vào thị tứ giàu sang… Qua đủ mọi hình thức: nhóm vài cây củi trên rừng, thắp ngọn nến đơn sơ trong ngôi Nhà Thờ bé nhỏ nghèo nàn vùng quê hẻo lánh, hay trăm ngàn ánh đèn muôn mầu rực rỡ chốn đô hội văn minh tráng lệ, khắp nơi đón mừng và cùng hát lên tâm tình:

Vinh danh Thiên Chúa trên trời.

Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương’’

Giáng Sinh, đất trời giao duyên trong hôn phối nhiệm mầu của tình yêu cứu độ. Thiên Chúa làm người, nối nhịp cầu tương giao giữa Thiên Chúa và nhân loại, bắc nhịp cầu nối liền giữa con người với nhau. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn mọi người đáp lại bằng lòng yêu mến Ngài và yêu thương nhau.

 

.

ĐÁNH MẤT CƠ HỘI NGÀN VÀNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Có một vị thái tử vào rừng săn bắn, tình cờ gặp một cô gái quê đang kiếm củi một mình. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà hai con người có địa vị cách biệt quá xa lại tỏ ra tâm đầu ý hợp và hai bên lại yêu nhau tha thiết ngay từ giây phút gặp mặt đầu tiên.

Sau đó, hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến. Thế rồi, do lòng yêu thương thúc đẩy, anh khẩn khoản nài xin vua cha cưới nàng cho bằng được.

Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực, hay chỉ yêu vì gia tài, địa vị, quyền thế của chàng, vua cha truyền dạy hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái.

Thế là vị hoàng tử quyền quý, hoá trang thật khéo, y hệt người nông dân quê mùa chất phác, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng, làn da cháy nắng, đôi tay chai sần. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.

Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và khát mong được kết hôn với vị hoàng tử mà cô đã gặp trong rừng, nhưng trớ trêu thay, cô ta không nhận ra vị hoàng tử nầy trong hình hài người nông dân nghèo khổ nên đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh đi, trong khi lòng cô vẫn thổn thức nhớ thương chàng hoàng tử hào hoa mà cô đã gặp trong rừng!

Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất một người yêu lý tưởng, mất luôn cả vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lại.

Như vị hoàng tử rời khỏi hoàng cung, hoá thân thành nông dân đến cắm lều ở bên cạnh nhà cô gái, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ bỏ ngai trời, hoá thân thành người phàm và đến ở giữa chúng ta. Ngài là Em-ma-nu-en, là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài tự đồng hoá mình với những người láng giềng đang sống quanh ta.

Chúa Giê-su khẳng định rằng mỗi người đang sống chung quanh ta cũng chính là Ngài. Những ai cho người đói khát cơm ăn áo mặc thì Ngài nói là họ đang cho Ngài ăn, mặc. Những ai chăm sóc người đau bệnh là đang chăm sóc Chúa. Tóm lại, bất cứ điều gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Chúa… Vì những người đó là phần thân thể của Chúa Giê-su (Matthêu 25, 34 – 40).

Thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II cũng dựa vào giáo huấn nầy để nhắn nhủ các gia đình: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.” (trích “Tâm thư gửi các gia đình của thánh Giáo hoàng Gioan Phao-lô II”)

Thật trớ trêu, đang khi chúng ta vẫn yêu mến, suy tôn chúc tụng Thiên Chúa ngự trên cõi trời cao hoặc cung kính bái lạy tượng ảnh Ngài trên bàn thờ, thì chúng ta lại tỏ ra thờ ơ hờ hững và thậm chí còn đối xử tồi tệ với tha nhân là những chi thể sống động của Ngài, là hiện thân của Ngài đang hiện diện chung quanh.

Hôm nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đóng vai người nông dân, người cùng khổ, người láng giềng, người bạn đồng nghiệp và cả những người nhà, để sống với chúng ta. Thế nhưng chúng ta không nhận ra Chúa nơi những người đó, nên chúng ta thường đối xử tệ bạc với họ. Thế là bi kịch cô gái nghèo hết lòng yêu thương chàng hoàng tử hào hoa nhưng lại phụ bạc anh ta dưới lốt nông dân nghèo khổ vẫn còn đang tiếp diễn từng ngày, từng giờ từng phút. Thế là “Ngài đã đến nhà của Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Gioan 1, 11).

Thật vô cùng đáng tiếc cho cô gái trong câu chuyện trên đây vì đã đánh mất cơ hội ngàn vàng: Cơ hội trở thành công nương chốn cung đình, cơ hội được hạnh phúc trăm năm bên hoàng tử giàu sang phú quý!

Và cũng vô cùng đáng tiếc cho chúng ta khi chúng ta tiếp tục lặp lại bi kịch ấy trong cuộc đời mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Thánh Phanxicô Assisi nhận ra người phong cùi là một phần chi thể đang bị ung nhọt của Chúa nên ngài đã ôm hôn người phong ấy với tình yêu thắm thiết.

Mẹ thánh Tê-rê-xa Calcutta cũng đã nhận ra những người bệnh tật, hấp hối là những phần chi thể bị tổn thương của Chúa Giê-su nên mẹ đã dành phần lớn đời mình yêu thương chăm sóc họ.

Xin soi sáng cho chúng con biết rằng Chúa và những con người mà chúng con  gặp gỡ hằng ngày chỉ là một, để rồi chúng con biết tôn trọng, yêu thương và phục vụ Chúa nơi những anh chị em đó.

 

.

LOAN BÁO NIỀM VUI GIÁNG SINH CHO ANH EM

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Có dịp quan sát các bạn trẻ dắt nhau đi xem hang đá và dự lễ Giáng Sinh, nhiều người tỏ ra khá rụt rè. Được hỏi thăm, một bạn đã nói: “Con là người ngoại đạo, nhưng quen với các bạn Công Giáo, các bạn ấy rủ đi chơi đêm Giáng Sinh, nghe thánh ca và dự lễ, nên con cũng đến đây. Điều khiến con ấn tượng đó là trong bầu khí ấm cúng của thánh đường, những bài thánh ca giáng sinh được hát lên ngân nga vui tươi thánh thiện như tiếng hát của thiên thần”.

Thưa quý OBACE, đại lễ mừng Chúa Giáng sinh ngày nay không còn phải là lễ riêng của người Kitô hữu, mà đã trở thành ngày lễ cho nhiều người kể cả những người ngoại giáo. Đây là điều đáng mừng và cũng đáng lo ngại. Đáng mừng, vì là dịp để nhiều người biết đến đạo Công Giáo, và biết về ngày lễ mừng Chúa Giêsu Giáng Sinh. Còn việc Ngài Giáng sinh để làm gì thì nhiều người vẫn chưa biết. Điều đáng lo là một khi lễ Giáng sinh trở thành ngày lễ hội, thì chính những Kitô hữu chỉ còn đón mừng ngày lễ này như một dịp lễ hội dân gian giống như bao nhiêu lễ hội dân gian khác, là dịp đi chơi, mua sắm mà thôi và cũng không biết Chúa Giáng sinh để làm gì.

Các bài đọc Lời Chúa thôi thúc chúng ta theo bước các mục đồng: “Nào chúng ta sang Bêlem để xem những việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết. Họ đến nơi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ… Các mục đồng khi trở về vừa đi vừa tôn vinh Thiên Chúa và nói cho mọi người những điều mắt thấy tai nghe”.Mừng lễ Chúa Giáng sinh hôm nay, Tin Mừng muốn chỉ cho chúng ta ba bước đi trong đức tin của các mục đồng. Các mục đồng không đi xem Hài Nhi như người ta đi xem hang đá, nhưng họ tin theo lời của sứ thần để lên đường; gặp và tin Hài nhi Giêsu là Đấng Messiah và khi trở về hân hoan nói cho mọi ngườivề niềm tin của mình.

Đang đêm các mục đồng bị đánh thức dậy, các anh hết sức ngỡ ngàng bởi ánh sáng bao trùm cả cánh đồng, cùng tiếng ca hát của các thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.Sứ thần của Thiên Chúa hiện ra báo tin: “Này đây ta báo cho anh em một tin mừng, hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.Để tin vào lời của sứ thần, chắc chắn các mục đồng phải là những con người đang rất khao khát mong chờ Đấng Cứu Thế, đấng mà các tổ phụ, các ngôn sứ đã loan báo. Hơn ai hết, các mục đồng là những người đang mong chờ tin vui mừng này, vì họ tin rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải thoát họ khỏi kiếp lầm than vất vả. Vì thế khi được sứ thần loan báo tin vui, thì chính niềm vui này trở thành động lực để họ bỏ lại đằng sau tất cả quá khứ hôi hám, bỏ đàn vật và cả cơn buồn ngủ giữa khuya để cùng nhau lên đường đến Bêlem. Kinh Thánh nói : “Họ hối hả lên đường”.Điều đó cho thấy sự mau mắn của các mục đồng khi đón nhận được tin vui giáng sinh, họ muốn tìm đến để gặp được Hài Nhi.

Hình ảnh đầu tiên các mục đồng gặp thấy tại Bêlem là hình ảnh của một gia đình nghèo khó, đơn sơ nhưng tràn đầy thánh thiện. Họ gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh. Các mục đồng đã tin Hài Nhi bé nhỏ đang bọc trong khăn nằm trong máng cỏ kia là Đấng Cứu Thế. Niềm tin này thật không dễ dàng để đón nhận. Các mục đồng đã phải vượt qua cái nhìn tự nhiên để thấy nơi hài nhi bé nhỏ kia là chính Thiên Chúa quyền năng, nơi em bé được quấn tã nằm trong máng cỏ kia lại là Đấng tạo dựng trời đất, là Ngôi Lời của Thiên Chúa. Sau này Gioan suy gẫm về Mầu Nhiệm Giáng Sinh và viết trong lời tiền ngôn Phúc Âm Gioan: “Ngôi Lời đã có từ khởi đầu, Ngài là chính Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Ngài là ánh sáng chiếu soi trong đêm tối, là ánh sáng sự thật. Ngài đến nhà mình mà người nhà đã chẳng đón nhận Người, còn những ai đón nhận Người, tin vào Người, thì Người cho họ quyền được làm con Thiên Chúa”.

Bước thứ ba trong hành trình của các mục đồng đó là họ trở về; kể lại điều họ đã tai nghe mắt thấy về Hài Nhi. Điều đó có nghĩa là họ đã đón nhận được niềm vui mà sứ thần loan báo, niềm vui vì họ đã gặp được Đấng Cứu Thế, niềm vui cứu độ và đã tin vào Ngài. Niềm vui này khiến họ không thể giữ kín trong lòng cho riêng mình, nhưng phải kể ra, nói lại cho mọi người về kinh nghiệm được gặp gỡ Hài Nhi Giêsu. Những người nghe các mục đồng kể lại cũng hết sức ngạc nhiên về những việc Chúa đã làm. Kinh Thánh còn cho thấy các mục đồng không chỉ nói cho mọi người, mà còn vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa về tất cả những gì họ đã nghe và đã thấy. Điều đó chỉ ra rằng: niềm vui và tâm tình tạ ơn Thiên Chúa được các mục đồng thể hiện qua cả cuộc sống của họ, từng bước đi từng lời nói của họ giờ đây trở thành lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa. Các mục đồng đã thực hiện điều tiên tri Isaia loan báo:“Hãy loan truyền cho khắp cùng cõi đất; hãy nói với thiếu nữ Sion, kìa ơn cứu độ của ngươi đang tới. Chúng sẽ được gọi là ‘dân thánh’ là ‘những người được Chúa cứu chuộc’”.Ơn Cứu độ là ơn lớn lao nhất mà Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại qua Hài Nhi Giêsu – Đấng cứu độ. Ơn này thanh tẩy, canh tân và phục hồi phẩm giá con người đã bị chà đạp bởi tội lỗi và ma quỷ, hơn nữa còn ban cho con người địa vị được làm con Thiên Chúa. Tất cả những con người khiêm nhường, thấp hèn trong xã hội nhưng có tâm hồn rộng mở, đơn sơ, chân thành như các mục đồng đã được ưu tiên để lãnh nhận.

Thưa quý OBACE, mừng đại lễ Giáng Sinh hôm nay, chúng ta tuyên xưng một niềm tin hết sức quan trọng về Chúa Giêsu: “Ngài là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”.Như thế, chúng ta tuyên xưng Hài Nhi được sinh ra nơi máng cỏ Bêlem năm xưa là vì chúng ta và để cứu độ chúng ta. Từ việc tuyên xưng trên môi miệng đến việc tìm đến bái thờ và hân hoan ca tụng Thiên Chúa cùng nói cho mọi người về niềm vui Giáng Sinh này là trách nhiệm của mỗi chúng ta. Chúng ta không chỉ vui niềm vui Giáng Sinh như một cuộc vui bên ngoài, nhưng phải thực sự đón nhận như một niềm vuisâu xatrong tâm hồn. Cuộc vui sẽ sớm tàn, còn niềm vui có sức biến đổi và thôi thúc chúng ta chỗi dậy lên đường tìm đến với Chúa. Có thể chúng ta nghe tin vui Chúa Giáng Sinh này rất nhiều lần trong cuộc đời, nhưng chúng ta vẫn không thoát được sự cám dỗ của cơn buồn ngủ, chiều theo dục vọng xác thịt và sự ươn hèn của mình, không chỗi dậy khỏi bóng tối để tìm đến với Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng. Nhiều người không cảm thấy bị thôi thúc để hối hả lên đường tìm kiếm Chúa, bởi vì chúng ta còn đang mải tìm kiếm nhiều thứ khác như nhà cửa, ruộng đất, tiền bạc, địa vị và thành công hơn là tìm kiếm Chúa Hài Nhi. Có nhiều người, nhiều gia đình đã không để cho Chúa giáng sinh trong tâm hồn và trong gia đình, khiến cho tâm hồn và gia đình thiếu vắng niềm vui, thiếu sự bình an và ơn lành của Chúa. Vì thế họ không cảm thấy bị thôi thúc để nói cho mọi người về niềm vui ơn cứu độ mà Chúa đem lại cho nhân loại và cho mỗi người.

Mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta được mời gọi trở thành các sứ giả loan báo niềm vui Giáng sinh và ơn cứu độ đến cho mọi người, đặc biệt là những người bé mọn, đau khổ và những người chưa biết Chúa. Chúng ta sẽ phải thành những sứ giả của sự bình an và niềm vui của Chúa để tất cả mọi người khi gặp gỡ tiếp xúc với người Công Giáo, họ cảm nhận được sự bình an lan tỏa đến họ. Chúng ta phải sống sao để mọi người có thể cảm nhận được niềm vui thiêng liêng sâu xa nơi mỗi tín hữu cho dù phải trải qua những lúc đau khổ tăm tối của cuộc sống. Mỗi người sẽ phải có trách nhiệm đem niềm vui và bình an của Chúa về trong tâm hồn, trong gia đình, trong xóm ngõ của chúng ta, tạo nên một bầu khí vui tươi hân hoan cho gia đình và lối xóm.

Xin cho lời ca của sứ thần trong đêm Giáng sinh: “Vinh Danh Thiên Chúa trên trời, bình an dười thế cho loài người Chúa thương”,được mỗi chúng ta cảm nghiệm cách sâu xa và làm cho lời ca ấy ngân vang trong từng ngày sống của mình; xin cho bình an của Chúa được lan tỏa trong gia đình và mọi nơi, Danh Chúa được mọi người tôn vinh. Amen.

 

.

HÀI NHI GIÊSU LÀ AI?

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong ngày mừng đại lễ Sinh Nhật Chúa Giêsu, chúng ta cùng nhau tìm hiểu câu trả lời cho câu hỏi: “Hài Nhi Giêsu là ai?”

Bài Tin Mừng trong lễ Ngày Giáng Sinh được trích từ lời Dẫn nhập của Tin Mừng Gioan. So với thánh lễ Đêm và thánh lễ Rạng Đông Giáng Sinh, chúng ta thấy sự khác biệt rõ rệt trong bài Tin Mừng của ngày lễ này. Trong khi các bài Tin Mừng của các thánh lễ trước là những tường thuật về biến cố Chúa Giêsu sinh ra đã xảy ra như thế nào, ở đây, trong Tin Mừng Gioan, chúng ta được dẫn tới một suy tư sâu sắc về ý nghĩa của tường thuật giáng sinh này. Vì thế, ở đây, chúng ta không có một tường thuật về việc Chúa giáng sinh, nhưng chúng ta có một lối nhìn chiêm niệm cao siêu về sự sinh hạ của Chúa Kitô và chúng ta có câu hỏi như là tâm điểm suy niệm của chúng về ngày Lễ Giáng Sinh: Chúa Giêsu là ai? Hài Nhi vừa mới sinh là ai? Tại sao chúng ta phải cử hành sinh nhật của Người?

Chúng ta tìm thấy câu trả lời rất rõ ràng ngay tại những dòng đầu tiên của Tin Mừng Gioan: Chúa Giêsu chính là Lời của Thiên Chúa, là Ngôi Lời (Logos) hằng hữu. Người hiện hữu với Thiên Chúa trước khi tạo thành thế giới. Người ở với Thiên Chúa và Người đã là và là Thiên Chúa.

Điều này đòi hỏi chúng ta có cặp mắt đức tin để có thể nhìn thấy trong Hài Nhi nhỏ bé này là Thiên Chúa, là Ngôi Lời hằng hữu, Người có tiền hữu từ trước khi tạo thành thế giới.

Trong bài đọc II, thư Do Thái quả quyết: Người chính là Lời của Thiên Chúa, Đấng đã hoạt động trong tiến trình sáng tạo. Nhờ Người mọi sự được tạo thành. Chúa Cha đã tạo dựng mọi sự và mọi loài nhờ Ngôi Lời. Ngôi Lời cũng chia sẻ vinh quang, vinh dự và quyền năng với Chúa Cha. Người là ánh sáng cho muôn dân. Người là ánh sáng bởi ánh sáng (x. Hr 1,1-6). Đó là điều chúng ta tin và tuyên xưng trong Kinh Tinh Kính Nicêa: “Người là ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha.” Nguồn gốc của Chúa Giêsu được nói ở đây bắt nguồn từ Lời tựa của Tin Mừng Gioan.

Như thế, câu hỏi Chúa Giêsu là ai được thánh Gioan và tác giả thư Do Thái trả lời cho chúng ta hôm nay: Người là Ngôi Lời Thiên Chúa; Người là ánh sáng của Chúa Cha; Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng mà duy trì vạn vật. Nhờ Người chúng ta mới hiện hữu và mới được sống. Nếu không có Người, không có gì được tạo dựng; Người chính là Lời sáng tạo của Chúa Cha.

Một phần của mầu nhiệm mà chúng ta đang cử hành là Ngôi Lời hằng hữu này, Ngôi Lời mà nhờ Người chúng ta hiện hữu và sống động, Ngôi Lời đó được sai đến, làm người và ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy hình dung xem: Đấng Tạo Hóa nay đã trở thành một thụ tạo, chia sẻ mọi điều kiện của thụ tạo mà Người đã tạo dựng! Thật khó tin quá! Chúng ta hãy dành nhiều thời gian trong ngày này để suy nghĩ về điều đó. Hình ảnh của Đấng Sáng Tạo quyền năng nay trở thành một em bé, nghèo hèn, đơn sơ, nhỏ bé, như chúng ta. Đấng mà nếu không có Người, chúng ta không hiện hữu được, nay lại trở thành một thụ tạo mỏng giòn như chúng ta; Đấng Sáng Tạo ra khỏi tình yêu, tự do để vâng lời Chúa Cha đã xuống thế, cắm lều ở giữa chúng ta. Người thực sự trở thành một người như chúng ta. Người vui với niềm vui con người. Người buồn với nỗi buồn chúng ta. Người cũng đói khát, cũng bị cám dỗ; Người cũng trải qua mọi kinh nghiệm thường nhật của kiếp người, ngoại trừ tội lỗi. Người thực sự “cắm lều” ở giữa chúng ta. Người thực sự đã hội nhập, sống chết với điều kiện con người. Ôi, đây thật là một vinh dự lớn lao! Thật hạnh phúc vì chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa và Thiên Chúa thuộc về chúng ta.

Chúng ta hãy hình dung, nếu có một ai đó cao trọng đến viếng thăm gia đình chúng ta, chẳng hạn như một giám mục viếng thăm một gia đình giáo dân nghèo, chúng ta thường nghe họ nói: Lạy Chúa tôi, nhà con không đáng để Đức Cha đến viếng thăm! Chúng con bất xứng để được Đức Cha viếng thăm…” Đó cũng là vọng lại âm hưởng của lời mà viên đại đội trưởng trong Tin Mừng khi ông gặp Chúa Giêsu và chúng ta nói trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.” Đó là cách thức Thiên Chúa đến với chúng ta, khi Người trở thành một người bé mọn, để chúng ta có thể tới gần Người và yêu mến Người. Người trút bỏ mọi thứ vinh quang, địa vị của Thiên Chúa, để trở thành một người trong chúng ta; Người quả thật là Thiên Chúa ở với loài người. Nhờ đó, chúng ta có thể đến gần, đụng chạm tới Người và yêu mến Người.

Nhưng có một thực tế thật đáng buồn vì con người đã và đang khước từ Con Thiên Chúa. Sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa trong cách thức nhân loại, trong con người Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta có sự đáp trả, nhưng thay vì đáp trả nhiều người khước từ Người. Đoạn Tin Mừng hôm nay không dấu diếm thực tại đáng buồn này: Người đến với gia nhân của mình. Nhưng gia nhân Người không tiếp nhận Người (Ga 1,11). Đây là điều đáng buồn vì Chúa Giêsu có thể bị từ chối bởi chúng ta. Con người không nhìn thấy nơi Người ánh sáng của Thiên Chúa, ánh rạng ngời của Chúa Cha, họ không nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Người. Nên họ không thấy và không đón nhận Người. Sự thật này có thể vẫn còn xảy ra hôm nay, cả trong ngày lễ Giáng Sinh: chúng ta đón nhận điều gì? Chúng ta đón nhận quà tặng, thích nhận phần thưởng và nhận lời mời đi dự tiệc… Chúng ta đón nhận rất nhiều món quà Giáng Sinh, cả những ân sủng và phúc lành nữa, nhưng có thể chúng ta không đón nhận chính Chúa Giêsu, là nhân vật chính của ngày lễ, là ánh sáng của Chúa Cha. Thật là một niềm vui lớn lao khi biết rằng Chúa Giêsu đến với chúng ta vì một mục đích như Tin Mừng Gioan nói: Người đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta để Người cho chúng ta quyền trở nên con Thiên Chúa (x. Ga 1,12). Người đến để chia sẻ với chúng ta quyền làm con của Người. Người đến để dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Cha, vì Người là đường dẫn tới Thiên Chúa. Người đến để thần hóa chúng ta và làm cho chúng ta nên giống Người.

Như thế, lễ Giáng Sinh không phải là dịp làm cho chúng ta thu nhập nhiều hơn vì quà cáp; cũng không phải là ngày lễ hội để chúng ta vui chơi, ăn uống nhiều hơn v.v… Nhưng là ngày để đón nhận ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa đến với chúng ta qua Hài Nhi Giêsu. Ngôi Lời trở thành người phàm nhờ đó chúng ta được trở thành con Thiên Chúa. Đây chính là quà tặng lớn nhất mà chúng ta đón nhận nơi Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nhận biết hồng ân đó. Chúng ta hãy học biết sứ mạng và hồng ân mà Người mang đến cho chúng ta hôm nay khi đến chiêm ngắm và thờ lạy Hài Nhi Giêsu nơi hang đá. Người là Ngôi Lời hằng hữu, là Thiên Chúa, nay làm người để cứu độ chúng ta.

Kính chúc anh chị em một Mùa Giáng Sinh an lành, thánh đức và tràn đầy ân lộc của Chúa Hài Đồng Giêsu. Amen!

 

.

SUNG MÃN

Trm Thiên Thu

Mùa vọng tím mong chờ con Thiên Chúa

Giáng sinh xanh mãn nguyện nỗi khát khao

Sung mãn là tình trạng phát triển trọn vẹn nhất. Cách sống càng sung mãn càng bình an – cả đời thường và tâm linh. Chúa Giêsu đến thế gian để chúng ta được sống và sống dồi dào (x. Ga 10:10), và chính Ngài là Đấng làm cho chúng ta sống sung mãn: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1:16). Thánh Phaolô xác định: “Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2:9-10).

Lễ Giáng Sinh là biến cố trọng đại, nhắc chúng ta nhớ sự kiện nhập thể và nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa – Đức Kitô Giêsu, Đấng Ngôi Lời. Ngài đã làm người vì thương xót phàm nhân chúng ta. Ánh Sáng Lòng Thương Xót đã bừng sáng khắp nơi, và địa cầu tràn đầy Ân Sủng Thiên Chúa. Mặt Trời Công Chính đang chiếu soi rạng ngời. Ân Tình Giáng Sinh đang chan hòa khắp thế giới. Thực sự chúng ta đã nhận được Tin Mừng ấy, do đó chúng ta có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng Lòng Thương Xót cho tha nhân bằng bất cứ cách nào theo hoàn cảnh riêng của mỗi người – cụ thể là bằng cách sống tốt lành.

Mừng Chúa Giáng Sinh không cần rườm rà bề ngoài, nên giữ TĨNH LẶNG và KHIÊM NHƯỜNG theo bí quyết của Đức Mẹ dạy Thánh Kowalska Faustina (*). Đó cũng là cách loan báo Tin Mừng – nhiệm vụ chung tuyệt vời và rất giá trị mà ai cũng phải thi hành. Thật vậy, Ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52:7a), và ông nói với Sion: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị” (Is 52:7b).

Xác định và động viên, ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion. Hỡi Giêrusalem điêu tàn hoang phế, hãy đồng thanh bật tiếng reo mừng, vì Đức Chúa an ủi dân Người, và cứu chuộc Giêrusalem” (Is 52:8-9). Thiên Chúa thấy loài người thật đáng thương, thế nên Thiên Chúa Cha đã sai Thiên Chúa Ngôi Con phải đích thân giáng sinh làm người để chia sẻ đau khổ với chúng ta. Thật vậy, “trước mặt muôn dân, Đức Chúa đã vung cánh tay thần thánh của Ngài: ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta, người bốn bể rồi ra nhìn thấy” (Is 52:10). Chắc chắn không ai có thể làm ngơ hoặc im lặng khi thấy những điều kỳ lạ, đặc biệt là điều xảy ra quá đỗi nhiệm mầu.

Thánh Vịnh gia đồng cảm điều đó và đã lên tiếng mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Ngài đã thực hiện bao kỳ công. Ngài chiến thắng nhờ bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí thánh của Ngài” (Tv 98:1). Động thái xưng tụng Thiên Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm vinh hạnh của chúng ta, bởi vì “Chúa đã biểu dương ơn Ngài cứu độ, mặc khải đức công chính của Ngài trước mặt chư dân; Ngài đã nhớ lại ân tình và tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta” (Tv 98:2-3). Lời hứa xưa đã nên trọn, sự thật đã hiển nhiên.

Rất có thể vì cảm thấy bồn chồn, sốt ruột, thế nên Thánh Vịnh gia lại phải tiếp tục kêu gọi: “Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa cầu, mừng vui lên, reo hò đàn hát. Đàn lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương!” (Tv 98:4-6). Biết chắc điều gì đó chính xác, người ta không thể không chia sẻ với người khác, muốn nói ra ngay với bất cứ ai, không thể trì hoãn, càng sớm càng tốt.

Tất nhiên có rất nhiều lý do để chúng ta chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác nhận bằng cách dẫn chứng chứng cớ từ xa xưa: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài” (Dt 1:1-2). Chính xác như vậy. Vả lại, “chính Ngài phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa, là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1:3a). Và rồi, “sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Ngài lên ngự bên hữu Đấng Cao Cả trên trời” (Dt 1:3b). Tuần tự như tiến. Mạch lạc. Rạch ròi. Chính xác.

Thật đúng là như vậy, bởi vì Thiên Chúa quá trác tuyệt và cao siêu, vượt xa ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Danh hiệu mà Chúa Con được thừa hưởng cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu thì Ngài lại nổi trội hơn bấy nhiêu. Quả thật, chẳng bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào rằng “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”, hoặc “Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ là Con Ta”. Do đó, khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa đã minh định như một mệnh lệnh tuyệt đối: “Mọi thiên thần của Thiên Chúa phải thờ lạy Ngài” (Dt 1:6). Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và rõ ràng. Tất nhiên trách nhiệm rõ ràng đó cũng là trách nhiệm của chúng ta, bởi vì chính Thiên Chúa đã truyền lệnh chúng ta chỉ được phép thờ lạy một Chúa duy nhất và kính mến Ngài hết lòng. Ngoài Ngài không có thần linh nào khác (Đnl 4:35 và 39; Is 45:21; Is 46:9), và người ta cũng phải công nhận như vậy (Đn 3:29).

Hài Nhi giáng sinh nơi Belem là ai? Ngài là Ngôi Hai, là Đấng Thiên Sai, là Thánh Tử, là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời, là Đấng giàu lòng thương xót. Đấng ấy có từ bao giờ? Kinh Thánh nói rõ: Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời, chính Ngài là Al-pha và Ô-mê-ga (Kh 1:8; 21:6; Kh 22:13) – tức là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. Thánh Gioan nói: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1:1). Cách diễn tả tuyệt vời quá! Và ông giải thích tiếp: “Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:2-5). Chính những hình ảnh đối nghịch nhau lại có thể làm nổi bật nhau. Đó là điều rất kỳ diệu và thú vị!

Thánh sử Gioan không dùng đại từ ở ngôi thứ nhất số ít, nhưng nói rằng “có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan”. Và ông dùng đại từ ngôi thứ ba số ít với ý nói về chính mình: “Ông [tức là ông ấy] đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng” (Ga 1:7-8). Cách dùng đại từ tinh tế bao hàm sự khiêm nhường. Nhưng khi nói về Đấng Thiên Sai thì ông nói rạch ròi: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11). Cũng vẫn có những điểm trái ngược. Văn phong độc đáo đấy!

Xưa nay vẫn thế đối với sự đời, chín người thì có tới mười ý, chẳng có ai giống ai. Ông Gioan nói: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12). Ôi, diễm phúc biết bao! Tại sao vậy? Bởi vì được làm con Thiên Chúa mà chỉ với một điều kiện đơn giản: Tin nhận và tín thác vào Ngài. Các tín nhân đó được sinh ra không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. Quả là sự kỳ diệu vô cùng!

Chính ngày này năm xưa, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14a). Con Thiên Chúa giáng sinh và ở cùng nhân loại. Niềm vui dâng cao tột đỉnh. Ông Gioan trẻ (Gioan tông đồ) làm chứng xác thực: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14b). Đã được mục kích sở thị, ông Gioan Tẩy Giả hăng say làm chứng về Đức Kitô, và ông mạnh mẽ tuyên bố: “Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”(Ga 1:15). Người sinh trước mà có sau, người sinh sau mà có trước. Thật khó hiểu vì quá vô lý, nhưng hoàn toàn là sự thật, và điều đó không thể lý luận theo kiểu phàm tục, nhưng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).

Giáng sinh là yêu thương. Thiên Tình Giáng Sinh là Đại Dương Thương Xót, thật là tuyệt vời và khôn tả! Niềm vui mừng đó cứ ngồn ngộn, không thể mô tả hoặc thể hiện bằng các động thái phàm nhân. Thánh Gioan giải thích: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã LÃNH NHẬN HẾT ƠN NÀY ĐẾN ƠN KHÁC. Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1:16-17). Chưa bao giờ có ai thấy Thiên Chúa – vì con người tội lỗi bất xứng và con mắt phàm tục không thể chịu nổi ánh sáng vinh quang của Ngài, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết. Vì thế, điều rất quan trọng cần lưu ý là “Đức Tin quan trọng hơn phép lạ”. Nghĩa là đừng bao giờ “chạy đua” theo những “sự lạ” mà hãy không ngừng “chạy đua” trên Hành Trình Đức Tin, trên Hành Trình Đức Ái – tức là cố gắng hết sức để thể hiện Lòng Chúa Thương Xót một cách cụ thể và sống động, bằng tất cả con người của mình, theo điều kiện sống của mình.

Mỗi người được Chúa ban cho khả năng khác nhau. Các khả năng khác nhau là để cộng tác với nhau chứ không phải để tự mãn hoặc kèn cựa nhau. Ai có khả năng gì là cách Chúa thể hiện ý Ngài muốn người đó hoạt động về lĩnh vực đó – đặc biệt là các sở trường, thế mạnh hoặc yếu điểm – điểm mạnh (khác với nhược điểm – điểm yếu). Tất cả đều là hồng ân, chứ chúng ta chỉ là vô tích sự mà thôi!

Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin cảm tạ Ngài đã ban Thánh Tử cho chúng con, đồng lao cộng khổ với chúng con, chia sẻ đau khổ kiếp người với chúng con. Xin thúc giục chúng con hành động theo Con Chúa bằng cách sống công bình, bác ái và thương xót mọi người theo tiêu chuẩn của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

—-

(*) Đức Mẹ cho Thánh nữ Maria Kowalska Faustina (1905-1938) biết cách đón Chúa Giêsu Hài Đồng: “Này con gái, hãy cố gắng giữ thinh lặng và khiêm nhường, để Chúa Giêsu, Đấng luôn ngự trong linh hồn con, có thể nghỉ ngơi. Hãy thờ lạy Ngài trong tâm hồn, đừng ra khỏi nội tâm”(Nhật Ký, số 785).

 

.

ÁNH SÁNG ĐÃ ĐẾN CHIẾU SOI

CHO MỌI NGƯỜI TRONG TRẦN THẾ

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 1, 1-18

1  Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2  Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3  Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,  và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành 4  ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5  Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6  Có một người được Thiên Chúa sai đến,  tên là Gio-an. 7  Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8  Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9  Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian,và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:  “Đây là Đấng mà tôi đã nói:  Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

  1. Ý CHÍNH:

Tin Mừng lễ Ban Ngày mừng Chúa Giáng Sinh chính là Lời tựa của sách Tin Mừng theo thánh Gio-an (1,1-18). Nội dung bài Tin Mừng gồm hai điều như sau:

Một là trình bày Đức Giê-su chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Sự Sống và là Ánh Sáng chiếu soi cho trần gian (1,1-13).

Hai là Người đến để ban ân sủng cứu độ và mặc khải sự thật về Thiên Chúa cho nhân loại (1,14.16-18).

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”. (Ga 1,14).
  2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:

1) GIÁNG SINH LÀ LỄ HỘI VUI MỪNG CHUNG CỦA TOÀN THỂ NHÂN LOẠI:

– Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi bạn: “Bạn có biết lễ gì mà hầu hết mọi người trên thế giới đều biết và chia sẻ niềm vui cho nhau không?”

Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ mừng Chúa Giáng Sinh của đạo Công giáo đấy”.

– Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào của mọi tín hữu chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ hội chung của mọi người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với các tín hữu chúng ta, là có mấy ai trong chúng ta đã hiểu và sống đúng ý nghĩa của mầu nhiệm lễ Giáng Sinh hay không?

2) GIÁNG SINH MỜI GỌI CHIA SẺ TÌNH NGƯỜI:

– Hôm ấy, vào đêm vọng Giáng Sinh, trong một trường giáo dục trẻ em tàn tật ở Mỹ, người ta cho các trẻ em diễn một hoạt cảnh Giáng Sinh, trước sự hiện diện của phụ huynh và ân nhân.

Vở kịch có ba màn. Màn đầu diễn ra ở Nagiaret, với sắc lệnh của Hoàng đế Xê-sa-rê Au-gút-tô. Màn hai diễn lại cảnh Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a vào quán trọ, bị chủ quán xua đuổi. Màn ba là cảnh Chúa Giáng Sinh trong hang lừa máng cỏ.

Ban giám đốc và các phụ huynh khá lo âu, sợ các em diễn xuất vụng về. Nhưng màn đầu diễn ra tốt đẹp. Qua màn hai, người ta thấy Giu-se và Ma-ri-a đến gõ cửa các quán trọ. Nhìn thấy ông Giu-se áo quần nghèo khó, còn Ma-ri-a lại đang bụng mang dạ chửa, các chủ quán đã giơ tay xua đuổi lia lịa với lời từ chối: “Không có chỗ, không có chỗ ! “ Hai vợ chồng lên tiếng năn nỉ vì trời đêm giá lạnh. Chủ quán tỏ vẻ lưỡng lự, những rồi sau đó chỉ vào hàng chữ trên quán: “Không còn chỗ”. Cảnh van xin và từ chối lại diễn ra. Nhưng khi thay vì nói: “quán đã hết chỗ” theo kịch bản, thì em đóng vai chủ quán đã nghẹn ngào không nói nên lời. Em đưa tay ra giật tấm bảng có ghi hàng chữ “Không còn chỗ” xuống, và nói trong nước mắt: “Con xin nhường phòng con cho hai người !”.

Trước cảnh xảy ra bất ngờ đó, giáo viên đạo diễn tỏ vẻ lúng túng và cho ngưng vở diễn vì đã ra ngoài kịch bản. Nhưng hầu như toàn thể khán giả hiện diện đều cảm xúc ra mặt, trước vẻ hồn nhiên trong sáng của em bé diễn viên tốt bụng. Cử chỉ, ngôn ngữ và cung cách của em nói cho mọi người hay về ý nghĩa thực sự của Lễ Giáng Sinh: Giáng Sinh là lễ của tình thương chia sẻ.

– Có lẽ nhiều người chúng ta, cách nầy hay cách khác, cũng đã có lần đóng vai chủ quán năm xưa khi chúng ta xua đuổi những kẻ nghèo hèn đến nhà ăn xin. Có lẽ nhiều lần chúng ta cũng đã treo tấm bảng: “Không còn chỗ” của chủ quán năm xưa qua thái độ giả điếc làm ngơ, trước những nhu cầu của tha nhân. Ước gì khi nghe câu Lời Chúa: “Bà Ma-ri-a đã bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, chúng ta quyết tâm sẽ không bao giờ xua đuổi Chúa ra khỏi lòng chúng ta, ra khỏi gia đình chúng ta.

3) GIÁNG SINH ĐÒI CẢM THÔNG “VUI VỚI NGƯỜI VUI, KHÓC VỚI NGƯỜI KHÓC”:

– Trong một gian hàng bán quà Giáng Sinh, một cậu bé 5 tuổi đang cầm trên tay một con búp bê rất xinh. Người bán hàng nói với cậu rằng: “Chắc cháu không đủ tiền mua con búp bê đắt tiền này đâu ?”. Nhưng cậu bé vẫn tiếp tục cầm con búp bê xinh đẹp trên tay.

Bấy giờ một người đàn ông bước đến gần hỏi xem cậu bé mua con búp bê làm gì ? Cậu đáp: “Đây là con búp bê mà em gái cháu rất thích. Nó luôn tin rằng năm nay thế nào ông già No-en cũng sẽ mang đến tặng nó một búp bê xinh đẹp trong đêm Giáng Sinh”. Khi được hỏi em gái đang ở đâu, cậu bé trả lời: “Em cháu mới được về với Chúa rồi và mẹ cháu cũng sắp sửa đi theo em gái cháu”. Cháu yêu mẹ nhiều lắm và ước mong mẹ đừng đi, nhưng bố cháu bảo rằng mẹ cháu bệnh nặng sắp phải theo em cháu rồi”.

Lựa lúc cậu bé không để ý, người đàn ông cho tay vào túi quần lôi ra một ít tiền lẻ. Ông nói với cậu: “Cháu đã có bao nhiêu tiền rồi ? Để ta giúp cháu đếm lại lần nữa xem sao nhé”. Sau khi đếm xong số tiền trong đó có thêm số tiền người đàn ông kín đáo cho vào, cậu bé vui vẻ nói: “Cảm ơn Chúa đã cho cháu có đủ tiền mua búp bê rồi. Cháu đã cầu xin Chúa cho cháu để dành đủ tiền mua búp bê tặng em gái dịp lễ Giáng Sinh và Chúa đã nhậm lời”.

Người đàn ông chợt nhớ lại bản tin ông đã đọc trên tờ báo vào chiều hôm trước: “Một chiếc xe tải đi quá tốc độ đâm vào xe hơi cùng chiều, làm một bé gái thiệt mạng và mẹ em cũng bị chấn thương sọ não khó lòng qua khỏi”. Hôm sau, báo lại đưa tin, người phụ nữ trẻ trong tai nạn hôm trước đã chết. Chiều hôm đó, người đàn ông theo địa chỉ trên báo đã đến nhà thăm. Ông ta thấy hai quan tài với di ảnh của hai mẹ con mới qua đời. Đứa con trai đứng gần quan tài chính là cậu bé ông mới gặp chiều hôm trước. Ông cũng thấy một con búp bê xinh xắn nằm trên quan tài của cô bé gái.

– Khi biết đón nhận Hài Nhi Giê-su vào lòng, chúng ta sẽ dễ dàng cảm thông với tha nhân để chia sẻ niềm vui nỗi buồn với họ, giống như người đàn ông trong câu chuyện trên. Chúng ta sẽ sẵn sàng trao tặng người khác một nụ cười, một cái bắt tay thân ái, một cử chỉ thân thiện,… chúng ta sẽ dễ dàng giúp đỡ người nghèo vượt qua hoàn cảnh khó khăn với hết khả năng Chúa ban. Trong mùa Giáng Sinh năm nay chúng ta sẽ làm gì để thi hành sứ điệp của Chúa là viếng thăm chia sẻ tình người như lời thánh Phao-lô: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15).

4) GIÁNG SINH NGÀY LỄ CỦA HÒA BÌNH:

– Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.

Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính hai bên vui vẻ đi dạo chung quanh khu vực đang có chiến tranh, nhưng người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện gia tăng thêm, thì người ta tổ chức một trận bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin hai bên hòa hoãn này đã lan tới tai các vị tướng trên cao, và họ đã ban những mệnh lệnh gay gắt phải cấp thời chấm dứt mọi chuyện. Các sĩ quan đã dồn binh lính trở lại xuống hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Sau lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến giữa hai bên lại tiếp tục như trước.

Chúa đến đem bình an cho nhân loại như lời các thiên thần đã ca hát trong đêm Chúa Giáng Sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2,14).

– Mỗi người chúng ta tuy không thể làm được những việc xây dựng hòa bình trên bình diện quốc tế, nhưng chúng ta vẫn có thể ăn ở thuận hòa với những người chung quanh như kinh Tám Mối Phúc: “Phúc cho ai ăn ở thuận hòa, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Vậy trong Mùa Giáng Sinh năm nay mỗi chúng ta có thể làm gì để làm hòa với những người đang có ác cảm với chúng ta thể hiện qua hành động nói hành nói xấu và gây thiệt hại cho chúng ta ?

  1. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA. xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng cho đi một nụ cười thân ái, một lời động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến vói những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở việc trao tặng của cải vật chất bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết trở thành vòng tay lớn, xây dựng thế giới chúng con đang sống ngày một an bình thịnh vượng và đầy tràn niềm vui của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON

 

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *