Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH 2022 – C
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH 2021 – B
NL: NÀO TA HÃY
ĐC: THÁNH VỊNH 117
HALL: Chúa phán:Tôma con đã xem thấy Thầy nên con tin. Phúc cho người không xem thấy mà tin.
DL: LỄ VẬT DÂNG HIẾN
HL: ÁNH MẮT CHÚA XÓT THƯƠNG
KL: TÁN TỤNG HỒNG ÂN
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH 2020 – A
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH 2019 – C
NL: HÁT LÊN ĐI
ĐC: KHẢI HOÀN CA 1
ALL: Chúa phán: Tô-ma con đã xem thấy Thầy nên con tin. Phúc cho người không xem thấy mà tin.
DL: LỄ DÂNG PHỤC SINH
HL: TÔ-MA
KL: NÀO TA HÃY
Lời Chúa Năm A: Cv 2,42-47; 1Pr 1,3-9; Ga 20, 19-31
Lời Chúa: Cv 4,32-35; 1 Ga 5,1-6; Ga 20, 19-31
Lời Chúa: Cv 5,12-16; Kh 1,9-11a.12-13.17-19; Ga 20, 19-31
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 20, 19-31)
19 Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em !” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông : “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : “Bình an cho anh em.” 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” 28 Ông Tô-ma thưa Người : “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” 29 Đức Giê-su bảo : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin !”
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Thương xót vô biên (07.04.2024)
Đầu bài Phúc Âm, Thần Khí đã dẫn chúng ta vào một chương trình rất nhiệm mầu “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
Lời bí nhiệm “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.”, nói lên trong lịch sử nhân loại đây là điều chưa từng có, quá đỗi cao sâu nhiệm mầu. Lời cho biết con người được nâng lên cao vợi, Thần Linh có thể hòa nhập vào với con người, ngự nơi con người, trao cho con người năng quyền của chính Thần Linh. Nói cách khác, con người được nhận lấy Ngôi Ba Thiên Chúa, có Người ngự giữa hồn, cùng đồng hành và nâng đỡ, gìn giữ trong ân sủng tình Trời…, đã là phúc vô vàn. Huống hồ chi, lời này còn ẩn giấu ý nghĩa “Nay được Con Thiên Chúa trao cho con người thực hiện một quyền bính. Một quyền bính không chỉ cách chung cho những vị đại diện Giáo Hội, trong tính cách cơ cấu, phẩm trật. Mà còn là một quyền bính thiêng liêng, trong việc ban ơn tha thứ, xá giải tội lỗi. Đem lại bình an cho tâm hồn người thế, và ơn cứu độ của Chúa Ki-tô. Tái tạo lại ân sủng, thánh khí sau khi hối nhân đã mất vì tội lỗi.” Quả là một sự nâng nhấc lên cao vời cho phận người! Điều này mở ra một chương đặc biệt cho những trang đời của nhân sinh, mang sắc màu ánh vinh quang thiên giới. Khung trời của ân sủng lòng thương xót Chúa thật là vĩ đại, đã từ đó bao phủ lấy phận người hư ảo. Lập nên một kỷ nguyên của Lòng Thương Xót bởi Thánh Tâm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Các con biết không, có một người thường ngẫm lại chính cuộc đời mình. Bốn mươi lăm năm người ấy luôn nhìn lại bản thân mình mỗi ngày, hay xét mình ngay liền sau một sự việc, hoặc một cuộc tiếp xúc đột xuất nào đó. Đa số ngày, vô số lần nhận ra sự khiếm khuyết, sai lỗi, bất toàn, sa ngã của bản thân. Nói chung, khám phá thêm sự xấu xa của chính mình, một sự cảm nghiệm từ thực tế nội tâm một con người. Bởi đó, nghiệm ra hậu quả của tội nguyên tổ, và tội lỗi của cha ông, thật sự tác hại kinh khủng đến thế nào nơi chính bản thân mỗi một người. Thật đúng như lời sách Ai-ca
“Số phận của chúng tôi là vực thẳm và kinh hoàng,
là đổ nát và tan hoang.” (Ac 3,47)
Phận người này thánh tông đồ Tô-ma cũng không khác được. Trước sự phơi bày của Phúc Âm, cho thấy một người mang nặng sự tăm tối, lại đưa lý trí với não trạng tự nhiên ra để xét mầu nhiệm Chúa. Rồi cứng lòng không tin mầu nhiệm phục sinh của Chúa Giê-su, mặc dù đã được chính Chúa Giê-su báo trước nhiều lần “Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”
Không ngoại lệ, với phận người, người ấy, con người vừa được nói đến ở trên. Sau hơn bốn mươi lăm năm tu, quyết tâm hạ mình sống khiêm tốn trước tha nhân. Nhưng người ấy cũng không thể hạ gục nổi con quái thú kiêu ngạo đang sống trong chính mình, nó thể hiện ra vô vàn điều xấu khi tương tác với tha nhân và cả với Thiên Chúa. Khiến cho tâm linh người ấy, một thời bị giày vò bởi cảm giác chua xót, đau đớn, hụt hẫng vô tả với chính mình, linh hồn quằn quại rên xiết trong nỗi bất lực khôn cùng. Vì cảm giác này phát xuất từ trong nội tâm một con người hết lòng, hết sức chân thành khát khao nên thánh. Một hành trình tâm linh như đi xuyên qua đường hầm phận người dài đăng đẳng như thế, chắc hẳn trong các con cũng có người cảm nhận được phần nào đó nơi bản thân.
Nhưng ít ai ngờ rằng, những cảm giác đau khổ, giằng xé nội tâm, cùng với ý thức bất lực trong việc chiến thắng bản thân ấy. Phải xảy ra nơi tâm linh một linh hồn khát khao tiến đức, mới được Thần Khí dẫn đưa sâu hơn vào đời sống sủng ân cao trọng. Bởi vì khi nhận ra thực trạng tâm linh băng hoại bởi tội lỗi nơi chính mình, mới đặt được móng nền khiêm hạ cho căn nhà nội tâm. Làm cho xứng đáng được thừa hưởng di sản thương khó của Đức Ki-tô
“Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy tôi trung của Ta
mặt mày tan nát chẳng ra người,
không còn dáng vẻ người ta nữa,” (Is 52,14)
Tội lỗi, khuynh hướng xấu và đam mê làm cho linh hồn ta tan nát, chiếc áo trắng của ngày rửa tội không những bị hoen lấm mà còn tả tơi, rách nát. Một thực trạng quá đỗi bi đát với phận người, khiến cho vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người thêm xa thẳm vời vợi. Nhưng cũng nhờ đó, tạo nên cơ hội đặc thù cho lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa chứng tỏ giá trị chân lý – sự sống – tình yêu vĩnh hằng và lòng thương xót không giới hạn của Thiên Chúa dành cho con người.
Bối cảnh mà sách Huấn Ca diễn tả
“Theo kế hoạch của Người, Người chế ngự vực thẳm
và trồng những hòn đảo lên trên.” (Hc 43,23)
Vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người tội lỗi, đã được Thiên Chúa Ba Ngôi và Đức Ki-tô Giê-su lấp đầy bằng công trình của tình yêu cứu độ. Bằng cách để cho lòng thương xót vô biên được thể hiện qua các thời đại, qua vô số sủng ân, như những hòn đảo lớn nhỏ lấp đầy vực thẳm ngăn cách giữa con người và Thiên Chúa, giữa Đấng Tạo Hóa và thụ vật của Người. Cho nên, càng khám phá ra sự bất toàn của bản thân, chúng ta mới càng nhận ra giá trị của ơn cứu độ. Cũng đồng nghĩa nhận ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho bản thân và cho toàn nhân loại, đặc biệt với Hội Thánh rộng sâu nghĩa tình và quảng đại thánh ân đến ngần nào.
Trở lại với bài Phúc Âm, “Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Chúa Giê-su trong thân xác phục sinh, hay nói khác đi, thân xác vật chất của Người đã được hoàn toàn biến đổi ở trong trạng thái siêu nhiên. Không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa, tính chất không bị giới hạn này không dừng lại ở việc vượt không gian và thời gian. Nhưng còn có thể hòa lẫn cả siêu nhiên và tự nhiên vào trong nhau, như trường hợp Chúa Giê-su sau khi phục sinh vẫn ăn uống bình thường không khác một con người trong tự nhiên (x. Lc 24,41-42). Điều kỳ diệu vì là thân xác siêu nhiên, nên Chúa Giê-su ăn mà thức ăn không phải tiêu hóa và bài tiết nữa. Song lại được biến đổi hòa lẫn vào siêu nhiên một cách thần kỳ. Đây chính là sự liên kết vừa hài hòa, vừa dị biệt giữa trạng thái siêu nhiên và tự nhiên nơi thân xác Chúa Giê-su phục sinh. Các quy luật tự nhiên không ràng buộc thân xác phục sinh của Chúa Giê-su được nữa. Hay nói một cách khác nữa, các tông đồ thấy Chúa Giê-su ăn là hiện thực tự nhiên được lồng trong một thị kiến (x. Tb 12,19).
Đến đây, chúng ta càng trân trọng lời của Chúa Giê-su nói với thánh Tô-ma “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Thánh Tô-ma, mang một não trạng tự nhiên, có một ngón tay mang vật chất tự nhiên, đem đặt vào dấu vết thương tích của một thân xác vừa hiện thực vừa siêu hình. Có thể tác động làm cho não trạng tự nhiên được cầm cương bởi lý trí, lại buông bỏ suy luận, để chỉ còn lại một đức tin tinh ròng “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Một cái chạm nhiệm mầu, làm cho lý trí của Thánh Tô-ma chạm vào điều ngoài sức tưởng nghĩ của con người, lại làm nên một xác tín. Mở ra một cánh cửa lớn hơn, lớn đến vô hạn, lớn đến thánh Gio-an tông đồ bảo rằng “Còn có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.” (Ga 21,25)
Tất cả những gì chúng ta vừa tâm sự với nhau, phô diễn nhiều chiều kích rộng sâu vô hạn của lòng thương xót Thiên Chúa dành cho con người và muôn thụ tạo. Các con càng tin, thì hoa trái của lòng tin ấy càng nở rộ ra trong tâm hồn và cuộc sống của các con, như thánh Tô-ma vậy. Bởi thế, sống mầu nhiệm phục sinh cũng là vững tin vào lòng thương xót của Thánh Tâm Thương Xót Chúa Ba Ngôi, để có thể bước qua mọi nghịch cảnh của cuộc đời. Hóa giải mọi kiếp nạn cuộc sống trong ý nghĩa tình yêu Thiên Chúa, khiến cho cuộc sống và tâm hồn các con hết sức bình an, vui thú với những gì Chúa thương xót quan phòng cho các con. Hạnh phúc cứ mãi ùa đến trong tâm linh, mặc dù có thể bên ngoài sóng gió đang tung hoành gieo bao nghiệt ngã. Sự vĩ đại và giá trị vô song của đức tin, là ở chỗ thay đổi tự bên trong, nguồn sống dồi dào lẫn niềm hạnh phúc tràn đầy ở mỗi người chúng ta.
Chúc tụng lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Thương Xót Chúa Ba Ngôi.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Chúa sống lại (16.04.2023)
Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh rồi. Quả thật, tuy Hội Thánh tưởng niệm lại ngày Chúa sống lại, nhưng thật vui mừng biết bao vì mầu nhiệm này đã được hình thành. Nó làm sống dậy từng thế hệ đức tin cho nhân loại, bởi Chúa Ki-tô Giê-su làm ra một kỷ nguyên mới của đức tin: đức tin Ki-tô giáo. Một đức tin mạnh mẽ, sẵn sàng xem nhẹ mọi của cải, tài sản, những thứ thuộc về thế gian. Cho nên, người tín hữu thời sơ khai mới đem bán hết tài sản mình mà đặt tiền bán được dưới chân các Tông Đồ “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.” Đức tin ấy đưa người tín hữu Ki-tô, tới một tầm cao tín trung và trọn lòng thờ phượng “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ.”
So sánh, chúng ta sẽ thấy sự khác biệt rất lớn giữa đức tin Do Thái Giáo thời bấy giờ, so với đức tin Ki-tô vừa mới ra đời. Những người lãnh đạo Do Thái Giáo đưa buôn bán vào Đền Thờ để làm ra vật chất của tiền cho mình (x. Mt 21,12-13; Lc 19,45-46). Thiên Chúa, dù họ chủ ý hay không chủ ý cũng trở thành phương tiện cho con người lợi dụng để sinh tồn. Đền Thờ thành ra nơi tạo môi trường “gian trá, lọc lừa…”, như người xưa hay nói “thương giả, trá giả”, tức là làm nghề buôn bán, ắt có dối trá, lừa gạt. Còn bấy giờ, người tín hữu Ki-tô thời sơ khai, lại đảo ngược cách sống và niềm tin của cha ông họ. Bởi các vị chứng kiến điều chưa từng xảy ra, thấy tận mắt, nghe tận tai “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.
Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.”
Không phải chỉ có Đức Giê-su Ki-tô làm những điềm thiêng dấu lạ, mà các Tông Đồ cũng theo bước Thầy mình làm nên điều quá ư lạ lẫm. Đưa tới một kỷ nguyên đức tin của sự sống và sự sống lại, làm cho tràn ngập tâm hồn những người tin một niềm hy vọng lớn. Họ hy vọng sẽ đến ngày được sống bên Chúa và sống với Chúa trong cõi vĩnh hằng “Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em,”. Hạnh phúc cũng từ đó chiếm lĩnh mọi chiều kích cuộc sống, đến của cải đời này bị xem nhẹ, không còn là lý tưởng, là ước muốn phải theo.
Đức tin này, hơn ai hết, vị Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh thừa cảm nghiệm “mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, – vàng là của phù vân, mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” Điều này nói lên rằng, nếu đức tin của chúng ta chưa được Chúa quan phòng cho “thử lửa”, tức vượt qua đau khổ, sỉ nhục, bệnh tật, hy sinh, mất mát… lớn lao, chúng ta chỉ sở hữu một đức tin yếu kém, tầm thường.
Qua bài Phúc Âm, chúc bình an cho nhau, một mỹ tục của nhiều dân tộc. Con người chúc bình an cho nhau, trao lời chúc như một lời cầu bình an, đồng thời gởi một thông điệp của tình thương. Nhưng lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh cho các môn đệ mình, bao hàm những ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Ở đây, lời chúc bình an của Chúa Giê-su – Thiên Chúa Nhập Thể sau khi vinh thắng khải hoàn, Đấng nắm mọi chủ quyền phúc họa của nhân gian. Người nói “Bình an cho anh em!”, là không những ban phúc lành bình an bên ngoài cuộc sống, tức được bình yên. Mà còn gia tăng thánh khí cho có bình an trong nội tâm, để dầu khi phải đối mặt với khó khăn thử thách đức tin cũng an bình vượt thắng. Hơn thế nữa, Người còn trao cho sự bình an nội tại sâu thẳm, như một tiềm lực thiêng liêng để linh hồn đủ sức hướng tới sự bình an vĩnh cửu trên thiên đàng.
Chúa Giê-su không đột ngột xuất hiện với các Tông Đồ, vì Người đã nhiều lần báo trước. Bảo thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la về nhắn lại với các môn đệ của Người, hay hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau như một lời nhắn v.v… Dầu vậy, các môn đệ không khỏi bàng hoàng kinh sợ, hoảng hốt đến hoài nghi khi đối mặt với con người vẫn sống sau khi đã chết. Thêm vào đó, trong bối cảnh các môn đệ còn vô cùng sợ hãi người Do Thái “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái.” A! Khi Chúa Giê-su chưa phục sinh, chưa gặp gỡ và ban bình an cho các Tông Đồ, các ngài còn mang một đức tin đầy nỗi sợ. Để rồi, con người vẫn sống sau khi đã chết ấy đã “cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”
Lời kể Phúc Âm tràn ngập sắc màu rất tự nhiên, “xem tay và cạnh sườn” là cho thấy, cho chạm vào xương thịt của Thầy hẳn hoi, và dấu tích khổ hình vẫn còn đây. Thầy đã sống lại thật, không hoài nghi gì được nữa. Nên giờ đây, sau mỗi lời “Bình an cho anh em” của Chúa Giê-su, các Tông Đồ được thêm một lần chạm vào mầu nhiệm phục sinh nơi con người của Chúa. Đức tin, tình mến và lòng cậy trông được nuôi dưỡng lớn lên làm tan dần nỗi sợ, bù đắp vào những hụt hẫng vừa qua.
Nhưng trong mười một Tông Đồ thiếu đi một vị không hiện diện hôm nay. Dường như mọi sự được Thánh Thần quan phòng cho mầu nhiệm Chúa phục sinh được sáng hơn nữa, được tô điểm thêm hầu niềm xác tín càng thêm lớn, thêm mạnh. Thánh Tông Đồ Tô-ma không có mặt, lời chứng của các anh em không đủ lớn để vượt qua não trạng đã in dấu ngàn năm về sự chết. Phúc Âm tường thuật “Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Lời Thánh Nhân khá khoa học, khá thực tiễn, chắc nuội một lập trường đầy lý trí. Nhưng não trạng con người lý trí ấy bỗng chốc tan mau, vì Thầy lại hiện ra, đứng đó, không phải trong mơ, càng không phải ảo giác. Giữa anh em Thầy còn nói lại điều mình nói khi Thầy không có mặt “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.”
Có rất nhiều khoảnh khắc trong cuộc đời chúng ta cũng kém tin, kém tin hơn cả thánh Tô-ma nữa. Bây giờ, ngay lúc này đây, chúng ta có tin Chúa thật sự phục sinh không? Có dám dấn thân theo Đấng Phục Sinh không, dấn thân trọn vẹn, dấn thân đến cùng?
Đừng để hoài nghi làm lỡ chuyến đò đời, đừng để cách sống nửa vời làm lỡ hành trình nên thánh nhân của chính mình!
Lòng thương xót Chúa Ba Ngôi được tuôn đổ cho nhân gian qua mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Chúa Giê-su. Khát khao nên thánh vừa là mở cửa lòng cho sủng ân Lòng Thương Xót tuôn đổ xuống dồi dào nơi linh hồn ta, vừa là đáp thỏa được kỳ vọng của Chúa Giê-su dành cho ta qua cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Bình an cho anh em
Não trạng thường tình của chúng ta thường nghĩ rằng Lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho nhân loại thường được thực hiện qua những việc Người ban may mắn, sự tốt lành cho con người. Nhưng không, ngay cả trong đau khổ lớn lao, trong khốn khó cùng cực hay những sự bất ưng thê thảm xảy đến, Lòng thương xót Chúa vẫn tồn tại muôn đời. Đặc biệt qua biến cố Chúa Giê-su tử nạn, chúng ta nhận ra rằng tình thương xót của Chúa Cha vẫn luôn ở cùng Người, nên mầu nhiệm phục sinh được thực hiện cách diệu kỳ. Để nhờ đó, giờ đây, các thánh Tông Đồ được thừa hưởng ân sủng sức mạnh thần khí của Chúa Giê-su, – Đấng đã chiến thắng tất cả sức mạnh của thế lực ác thần.
Bài đọc một kể lại việc các thánh Tông Đồ làm những điềm thiêng dấu lạ, nói riêng là thánh Phê-rô vị Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh. Ân phúc được ban cho Thánh Nhân, được tỏa ra nơi cả cái bóng của ngài. Cho chúng ta cảm nghiệm các Tông Đồ vinh dự được hưởng một nguồn ân sủng dạt dào vô hạn, nhờ việc tin và giữ lời của Chúa Giê-su. Vui mừng thay, bởi ân phúc này cũng được truyền lại cho chúng ta, dù tùy theo mức độ đức tin và sự thánh thiện của mình mà được nhận bao nhiêu phần ân sủng,- những môn đệ xa vời vợi theo chân các ngài.
Bài đọc hai trích sách Khải Huyền, một cuốn sách mang dấu ấn tiên tri nên thật bí nhiệm. Trình thuật mở cho chúng ta một bối cảnh thánh thiêng, thánh Gio-an ở đảo Pát-mô được ơn xuất thần, tức linh hồn ra khỏi xác được nâng lên để có thể thấy điều mà ở trong xác thể tự nhiên không thể thấy. Ngài thấy Thiên Chúa Thụ Tạo trong thâm cung huyền nhiệm của cõi trời cao thẳm, Đấng oai hùng lên tiếng “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ.” (Kh 1,18) Lời Chúa là lời “trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5,18). Bởi vậy, nội dung cuộc xuất thần này minh chứng Đức Giê-su Ki-tô thực sự là Đấng Thần Nhân – Con Thiên Chúa Tối Cao và cũng là Thiên Chúa. Đấng ban cho các thánh Tông Đồ nguồn ơn thật mạnh mẽ tỏa ra ân sủng nơi cả cái bóng của mình.
Tất cả những ý nghĩa này dẫn ta đến ý nghĩa bài Phúc Âm. Thánh Gio-an gặp gỡ Đức Ki-tô Giê-su phục sinh trong cơn xuất thần, còn các Tông Đồ gặp gỡ Chúa Ki-tô trong hiện thực cuộc sống sau khi Người đã phục sinh. Đây là hai bối cảnh độc đáo, mở ra một quy luật siêu nhiên – một cánh cửa huyền bí tương thông giữa cõi trời siêu nhiên huyền nhiệm với cõi đất tự nhiên. Không dừng lại ở đó, trình thuật Phúc Âm còn cho chúng ta bài học về sự chuyển tiếp thân phận người hay chết. Từ phận người rất tự nhiên, có thể đi đến thân phận con Thiên Chúa trong thần khí phục sinh của thân thể bất hoại và bất biến.
Chúa Phục Sinh hiện đến ban bình an cho các Tông Đồ.
Ơn bình an của Chúa Phục Sinh ban cho các thánh Tông Đồ và những người tin vào Người rất cao sâu. Thường thì mỗi người chỉ hưởng được một phần nào ơn bình an này
Chúng ta có thể tóm gọn ơn bình an Chúa Phục Sinh ban trong hai chiều kích chính:
- Bình an tự nhiên:
– Bình an thể chất (thân xác), bình an tinh thần (nội tâm) và bình an cuộc sống đức tin.
- Bình an siêu nhiên:
– Bình an trong ân sủng, bình an trong ơn gọi, bình an trong sứ mạng, bình an trong tương giao với chính mình, với thụ tạo, bình an trong tương giao với Thiên Chúa.
- Bình an tự nhiên
– Bình an thể chất:
Ơn bình an cấp thấp: Ơn bình an tự nhiên không những là ơn được bình yên, mà là dầu có trải qua sóng gió, trân chuyên hay gặp chuyện thập phần nguy hiểm thì Chúa cũng gìn giữ cho thân xác vẹn toàn. Giống như ơn Chúa từng hứa với những ai đọc 15 lăm kinh nguyện của Thánh nữ Brigitta (1303 – 1373)
“Người nào đọc kinh nguyện này trong một năm, được Chúa ban cho khỏi mọi tai nạn nặng gây hư hỏng ngũ quan, khỏi chết bất đắc kỳ tử,”
– Bình an tinh thần:
Ơn bình an cao hơn và tích cực hơn: Bình an này giúp cho dễ thắng vượt cảm xúc, dễ dàng vượt qua buồn phiền, đau khổ, thất vọng hay những mất mát tài sản, sự nghiệp, uy tín, danh dự… hay mất mát những giềng mối tình cảm thụ tạo, tình thân.
– Bình an cuộc sống đức tin:
Ơn bình an này khá cao, giúp linh hồn đứng vững, bình an trong thử thách nặng nề, đau khổ dài lâu, chịu sự sỉ nhục tư bề, trợ sức cho an bình tiến đức. Đồng thời đủ lòng tin để phó thác cho tình yêu quan phòng của Chúa.
Khởi sự từ ơn bình an này, linh hồn bắt đầu nếm được vị ngọt trong chén đắng cuộc đời.
- Bình an siêu nhiên:
– Bình an trong ân sủng:
Đây là bình an không dựa vào những nguyên lý tự nhiên. Ở mức độ thấp, linh hồn không thấy thất vọng, buồn chán hay xem nhẹ những ơn Chúa ban cho. Ở cấp độ cao hơn, linh hồn hân hoan phấn khởi đón nhận mọi ơn Chúa ban cho dù tốt lành hay khốn khó
“Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ,
tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng.
ĐỨC CHÚA đã ban cho, ĐỨC CHÚA lại lấy đi:
xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!”
Trong tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1,21-22)
Nhờ ơn bình an này, linh hồn biết khao khát và lãnh nhận ơn Chúa một cách thánh thiện. Không xin ơn Chúa cách tùy tiện, cạn nghĩ hay hướng về thế tục. Giúp cho biết tri ân Chúa thật tích cực trước những ân sủng Chúa ban.
– Bình an trong ơn gọi:
Đây là ơn cho biết chọn lựa ơn gọi theo đúng ý Chúa, sống trung thành với ơn gọi, hoan lạc- nhiệt huyết dấn thân theo hành trình ơn gọi. Dù gặp ngăn trở hay gian khó, linh hồn cũng đủ an bình để tiến bước.
– Bình an trong sứ mạng:
Bình an này thật sự là một phúc lành, dành cho những linh hồn được Chúa chọn cách riêng. Dù họ được trao cho sứ mạng nặng nề, cao cả, có nhiều gian khổ hay nguy khó, truân chuyên và sỉ nhục… Họ vẫn không nhụt chí, không nản lòng. Qua tháng năm nhiệt huyết vẫn không thay đổi, họ hăng say phục vụ theo ý Chúa từ trẻ cho đến già.
– Bình an trong tương giao với chính mình:
Đây là thứ bình an nội tại, dù chiến đấu cùng cám dỗ hay đòi hỏi phải từ bỏ quyết liệt. Hoặc gặp bệnh tật, gian khổ, nhọc nhằn, vất vả… tổn thương tinh thần, thể xác, trong sâu thẳm họ vẫn thấy an bình. Linh hồn cũng không cảm thấy khổ sở trước Thánh ý Chúa quan phòng, trái lại còn mừng vui sống đức tin trong hân hoan. Trong đau khổ và thử thách, linh hồn dễ nhận ra thánh ý Chúa và vâng phục, tâm linh không nổi loạn khi quá sức chịu đựng của con người.
Sự bình an giúp họ sống thành thật với chính mình và với Chúa. Nên không rơi vào tình trạng giấu tội, hay có tự ái cao, hoặc buông thả theo tính dục. Nói chung, linh hồn không rơi vào tình trạng mắc tội trọng.
– Bình an với thụ tạo:
Lòng kiên vững trước quyến rũ thế gian, không hỗn loạn tâm trí, bất an một khi bị các anh tấn công. Dễ dàng vâng theo ý Chúa một khi Chúa đòi hỏi phải từ bỏ hay cắt đứt những giềng mối tình cảm với thụ tạo. Trái lại, lòng không giận oán, hận thù khi gặp người nhiều lần hãm hại, chơi xấu, bất nghĩa, vong ân v.v…
– Bình an trong tương giao với Thiên Chúa:
Đây là ơn đặc biệt Chúa ban cho những người có ơn tiền định hay ơn gọi nên thánh. Các ngài an bình, hạnh phúc khi cận kề bên Chúa và không bất mãn, nhụt chí, nản lòng một khi Chúa đòi hỏi phải đi qua đêm tước lột dù rất nặng nề. Ngay trong đau khổ tột mức vì không hiểu việc Chúa làm, linh hồn cũng được an bình để tín thác.
Linh hồn phấn khởi tìm kiếm Thiên Chúa, mau mắn giao hòa với Người. Ở bậc cao hơn, linh hồn hân hoan vượt qua muôn vàn trắc trở để sống trong tương giao mật thiết với Thiên Chúa.
*
Chúa Giê-su nhiều lần ban bình an cho các thánh Tông Đồ chính là muốn nâng cấp bình an này cho các ngài “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27), (x. Ga 20,19.21.26)
Chúa Giê-su cho các thánh Tông Đồ xem tay và cạnh sườn, chứng thực Người đã chết vì khổ hình và giờ đã phục sinh. Một cách củng cố đức tin toàn vẹn cho các Tông Đồ, đồng thời cũng tỏ cho các ngài biết cách xác tín “chết không phải là hết”, còn có cõi sống vĩnh hằng sau khi phục sinh. Và cõi sống vĩnh cửu ấy đang chờ các ngài và tất cả những người tin vào Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh.
Hãy mừng vui vì chúng ta được là người có đạo tin vào Chúa Giê-su Ki-tô cách tông truyền. Thừa hưởng đức tin chính thống, cũng là thừa hưởng trọn vẹn dòng ân sủng mà Chúa Giê-su để lại cho Hội Thánh của Người. Niềm hy vọng thật vĩ đại, chan chứa hạnh phúc và bình an Chúa đã ban cho.
Hãy sống mầu nhiệm phục sinh trong cuộc đời! Chúng ta sẽ tận hưởng được sự bình an kỳ tuyệt và hạnh phúc vô tả. Allêluia.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Đặt ngón tay con vào đây
Hôm nay, sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thưởng lãm một bức tranh tuyệt vời nói lên hiệu quả ân sủng của mầu nhiệm Phục Sinh và Thánh Thần Hiện Xuống thời các thánh Tông Đồ. Một cộng đoàn đông đảo nhưng đã “chỉ có một lòng một ý”, một điều tưởng chừng như không thể ở con người. Nó hoàn toàn trái ngược với tính tự nhiên “chín người mười ý” của phận người, con người tự bản chất là chia rẽ, chia rẽ bên trong chính mình và chia rẽ với muôn thụ tạo. Thế nhưng, thật diệu kỳ ân sủng Chúa Phục Sinh đã kết nối các linh hồn nên hiệp nhất trong Chúa Ba Ngôi. Phận người được biến đổi, được thăng hoa đến đỉnh cao kỳ diệu phúc ân. Điều nầy thể hiện tột mức Lòng Thương Xót của Thánh Tâm Chúa Ba Ngôi qua Đức Giê-su Ki-tô cứu Chúa phục sinh.
Lễ Lòng Thương Xót, lễ tôn vinh chứng tích tình yêu cứu độ: các dấu đinh và vết đòng dẫn tới cái chết và sự phục sinh của Người. Chúa Giê-su nói với thánh Tô-ma “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Quả thật, trong đời sống đức tin nhiều khi chúng ta còn cứng lòng hơn cả thánh Tô-ma, chúng ta muốn chạm vào sự thật, muốn gặp gỡ Thiên Chúa, muốn thực hiện mục đích của niềm tin, muốn ở thiên đàng. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta còn có nhiều ước muốn mãnh liệt hơn, đốt cháy cuộc đời mình hơn với những điều tưởng chừng như hư ảo, thật phù phiếm và chóng qua. Những làn khói thuốc, những ván cờ, những bộ phim, bi-da, chơi chim, son phấn, sắm sửa, ngồi lê tán gẫu, nói lời thừa thải, chủ trương tìm hư danh… chúng đang ngốn ngấu lấy đời mình, giết chết thời gian mình có, làm quên đi cả việc bổn phận. Trở thành người tắc trách với người thân, thiếu sót bổn phận… đang trên đà hư đi mà chúng ta vẫn cứng lòng không nhìn lại bản thân.
Chính Chúa Giê-su mời gọi chúng ta sống hoàn thiện, mà được mấy ai dốc lòng tìm kiếm con đường hoàn thiện. Mấy ai chọn mối phúc thứ tư, và đầu tư cuộc sống mình cho mối phúc đó, chấp nhận một cuộc sống tiêu hao vì Chúa, vì phần rỗi các linh hồn. Các con tự hỏi mình xem, đã có khát khao cháy bỏng lòng để sống cho Chúa không, hay vẫn còn trì trệ bởi bao chuyện nhân gian?
Chạm vào vết thương tích nơi chân tay và cạnh sườn Chúa Giê-su để tin, là đưa ta tới “chạm vào” cuộc khổ nạn của Người. Cũng đồng nghĩa làm như vậy là tan mình vào cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su, thông chia cho đến cùng tình yêu thập tự, hiến thân mình sống và chết cho tình yêu. Như thế, tức hòa tan được mình vào Lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Thương Xót Vô Biên Chúa Ba Ngôi. Chúa yêu thích cuộc đời một người con chân thành dâng hiến, sẽ không đoái hoài gì đến những thiếu sót, bất toàn hay lầm lỗi của chúng ta. Tình thương xót của Người quá lớn lao sẽ cưu mang tất cả những ai muốn thuộc về Người.
Ngay cả những hồn thơ nhỏ bé nhất, bất toàn nhất, tội lỗi nhất và hoàn toàn bất lực, khao khát được hưởng nhờ Lòng Thương Xót Chúa. Chỉ cần trọn niềm tin và trung kiên trong việc kiếm tìm lòng thương xót Chúa, Thánh Tâm Thương Xót Vô Biên Chúa Ba Ngôi sẽ ấp ủ linh hồn trong tình dấu ái ngọt ngào khôn tả.
Kiếm tìm – khao khát – trung kiên được thể hiện bằng tâm tình dứt lòng không làm Chúa Giê-su đau khổ vì mình nữa, và quyết tâm sống để an ủi Người.
Mừng Lòng Thương Xót Chúa để được tắm gội, chìm ngập linh hồn trong Lòng Thương Xót vô biên đó. Chúc tụng Chúa Amen.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Lạy Thiên Chúa của con!
Sau cái chết như “một tử tội” của Thầy Giêsu, các môn đệ vô cùng khiếp sợ. Ngay cả sau khi Thầy đã sống lại, các ông vẫn chưa hoàn hồn vì nỗi sợ người Do Thái. Vào buổi chiều Chúa nhật, phòng ở của các ông còn đang đóng kín các cửa, bỗng Chúa hiện đến đứng ngay giữa và trấn an: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19b).
Vì sợ hãi làm cho tâm hồn các ông bị khép kín, sống co cụm, cách biệt các mối tương quan, không gặp gỡ giao tiếp với ai. Khi có Chúa ở giữa với lời ban bình an, các ông như được cởi bỏ mối lo sợ đang ngập tràn. Để họ an tâm xác nhận, Người cho các ông xem chân tay và cạnh sườn rồi thổi hơi (ban Thánh Thần) cho các ông. Người truyền sai đi và ban quyền tha tội cho các ông. Có sự hiện diện với ơn bình an của Chúa Phục Sinh, các ông như được mở tung cõi lòng, như tia nắng mới, làn gió mát ùa vào khiến họ tự tin vững vàng để làm chứng cho Thầy mà không sợ hãi. Sự bình an của Chúa là ơn đặc biệt mà “thế gian chẳng thể ban được”. Sự bình an luôn là niềm khát vọng ngàn đời của cả nhân loại.
Lần trước Chúa hiện đến với các môn đệ thì ông Tôma vắng mặt. Các môn đệ khác nói lại nhưng ông không tin. Có lẽ nhiều người hôm nay chê trách Tôma quá cứng lòng. Nhưng thật ra, Chúa Giêsu đã chết rồi “tự sống lại” là chuyện chưa từng xảy ra trong lịch sử, ông lại không nhìn thấy nên thật khó để tin. Ông đại diện cho những người không sống theo dư luận, không hùa theo đám đông khi chưa nhìn rõ sự việc gì hệ trọng, mà phải là mắt thấy, tai nghe và tay rờ. Tin Mừng hôm nay là chuyện tám ngày sau, hôm ấy ông Tôma cùng ở đó và đã nhìn rõ Thầy mình. Chắc chắn ông đã tin, nhưng biết lòng người môn đệ này, Chúa còn lấy tình thân thương mà “nhắc nhủ” riêng ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 27). Lúc này ông vừa tin, vừa yêu, vừa kính sợ và chỉ còn biết kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Tình yêu và sự bình an của Chúa Phục Sinh đã tràn ngập tâm hồn ông, khiến ông cảm nhận thật rõ lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh! Hôm nay là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa, vì tình yêu và lòng xót thương, Chúa đã chịu chết, chịu lưỡi đòng đâm thấu Trái Tim, để từ đây Máu và Nước đã tuôn trào như suối nguồn thương xót chúng con. Như thánh Tôma Tông đồ, xin Chúa cho chúng con luôn cảm nhận, tin yêu và tín thác trọn cuộc đời mình trong Trái Tim yêu thương của Chúa, để đời chúng con luôn sống trong sự bình an của Chúa, lạy Thiên Chúa của con! Amen.
Én Nhỏ
PHÚC THAY NHỮNG NGƯỜI KHÔNG THẤY MÀ TIN
1. Ghi nhớ: Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20, 29).
2. Suy niệm:
Chuyện kể rằng: Trong một ngôi nhà thờ ở nước Pháp. Hôm đó, các tín hứu đang tụ họp đông đảo để chầu Thánh Thể, trong một bầu khí nghiêm trang và sốt sáng, thì bỗng nhiên họ nhìn thấy dung nhan Chúa Giêsu hiện ra trong “Mặt Nhật.”
Vài vị quan nhìn thấy liền chạy về bẩm báo với nhà vua Louis IV rằng:
Tâu đức vua, Ngài hãy mau đến thánh đường mà xem: Chúa Giêsu đang hiện ra trên bàn thờ trong tấm bánh Thánh.
Nhà vua điềm nhiên trả lời:
Ai trong các khanh chưa tin thật Chúa Giêsu hiện diện trong tấm bánh Thánh Thể thì cứ đi đến đó mà xem. Phần trẫm, trẫm đã từ lâu tin rằng: Chúa Giêsu luôn hiện diện trong Bí tích Thánh Thể.
Bài Tin Mừng hôm nay, tường thuật lại việc Chúa Giêsu đến với các môn đệ của Ngài khi Chúa Phục Sinh. Lời đầu tiên mà Chúa nói với các môn đệ là” |Bình an cho anh em.”
Trong cuộc sốngcủa mỗi con người ngoài những điều kiện cần để cho cho thể xác sống được như: ăn, uống… thì về phần tâm hồn con người cũng rất cần đến “Sự Bình An” để cho cuộc sống được vui tươi, hạnh phúc.
Thật vậy, cho dù chúng ta được sống trong sung túc giàu sang, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, nhưng tâm hồn luôn lo âu, sợ hãi, hồi hộp bất an, thì cuộc sống bất hạnh mà thôi.
Nếu muốn có được cuộc sống “Bình an” thực sự, chúng ta phải tìm đến với Chúa Giêsu, và đặt hoàn toàn niềm tin vào Ngài. Bởi vì, chỉ có Ngài mới đem lại cho ta sự bình an thực sự mà thôi.
Tin tưởng tuyệt đối vào Ngài và tuân giữ các điều Ngài dậy thì dù cuộc đời có nhiều biến động bể dâu, có nhiều trắc trở gian nan đến đâu đi nữa, thì chúng ta vẫn giữ được một tâm hồn bình an.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, người ta ghi nhận có 365 từ “Đừng sợ” và cũng có 365 từ “Có Chúa”. Như vậy, có thể hiểu rằng trong một năm, hay nói cách khác trong cả cuộc đời của chúng ta, mỗi ngày chúng ta sống đều có Chúa. Nghĩa là có Chúa ở cùng chúng ta, ta chẳng còn sợ hãi bất cứ một kẻ thù nào, một thế lực nào. Vì có Chúa thì Ngài sẽ bảo vệ ta khỏi mọi lo lắng, ưu phiền hay sợ hãi điều gì. Ngài sẽ luôn gìn giữ chúng ta trong “Sự Bình An”.
3. Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Chúa đã sống lại để khẳng định cho chúng con biết Chúa đã chiến thắng tử thần. Xin cho chúng con biết tin tưởng tuyệt đối vào Ngài, để luôn được sống trong Chúa và vượt qua mọi thử thách ở trần gian. Mỗi ngày chúng con có Chúa bên cạnh và Chúa sẽ gìn giữ tâm hồn và thể xác chúng con trong sự bình an, mà chỉ có Chúa mới ban cho chúng con được thôi.
4. Sống Lời Chúa
Luôn sống trong tâm tình là mang lại cho những người chung quanh niềm vui và sự bình an.
Đaminh Trần Văn Chính
***
MỤC LỤC
1. Tẩy sạch mùi cọp
2. Phục Sinh
3. Niềm tin.
4. Đức Kitô đã sống lại thật – ViKiNi
5. Ơn Phục Sinh
6. Đấng Phục Sinh
7. Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)
8. Đức Kitô sống lại
9. Ánh sáng Chúa Kitô
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
11. Đón nhận ơn Phục Sinh
12. Vui lên, toàn trái đất
13. Tin Mừng Phục Sinh – Lm. Vinh Sơn SCJ
14. Sống lại cùng Chúa Phục Sinh
15. Những Chứng Nhân đầu tiên
16. Sự sống lại là niềm hy vọng
17. Sống lại với Chúa
18. Sự nhầm lẫn
19. Biến đổi trở thành con người mới
20. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
21. Chúa đã sống lại
22. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
23. Chúa Giêsu Phục Sinh
24. Chúa đã sống lại! Alleluia – R. Veritas
25. Chúa đã sống lại
26. Chúa đã Phục Sinh – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
27. Ánh sáng Chúa Kitô – Lm. Phạm Quốc Hưng
28. Niềm vui Phục Sinh – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
29. Nhìn với cặp mắt trong sạch
30. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
31. Ngày thứ nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
32. Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh
33. Niềm hy vọng
34. Niềm tin
35. Trở nên tạo vật mới – Lm. Minh Vận
36. Niềm hy vọng sống lại
37. Ra khỏi mồ
38. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái
39. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
40. Ngôi mộ trống.
41. Chúa Nhật Phục Sinh B
42. Tin mừng Phục Sinh – Noel Quesson.
43. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
44. Mặt trời hé mọc.
45. Ông đã thấy và đã tin.
46. Sống niềm vui Phục Sinh
47. Người đã trỗi dậy rồi.
48. Chúa đã sống lại (Ga 20, 1-9).
49. Chúa Nhật Phục Sinh
50. Tình yêu dẫn đến đức tin (Ga 20,1-9).
51. Chúa Nhật Phục Sinh
52. Phục Sinh.
53. Hãy khai phóng tâm trí (Mc 16,1-8).
54. Đức tin của chúng ta (Lc 24,13-35).
55. Sứ Điệp Phục Sinh.
56. Mầu nhiệm.
57. Sự sống.
58. Sáng và tối.
59. Niềm hy vọng sống lại.
60. Hai cái nhìn.
61. Niềm vui Phục Sinh.
62. Chiến thắng.
63. Sống lại.
64. Phụ nữ.
65. Ngôi mộ trống – JKN.
66. Phục sinh cùng Chúa
67. Chúa Kitô phục sinh – Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
68. Sự biến đổi kỳ diệu
69. Như tạo vật mới – Lm. Minh Vận
70. Ơn Phục Sinh – Lm. Thu Băng, CMC
71. Ngôi mộ trống – Ts.Trần Duyệt
72. Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng
73. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
74. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
75. Chú giải của Noel Quesson (Mc 16,1-8).
76. Chú giải của William Barclay (Mc 16,1-8).
1. Tẩy sạch mùi cọp
Tạp chí “Bách Khoa Văn Học” số ra tháng sáu năm 1991, có đăng một truyện ngắn với tựa đề là “Mùi Cọp”. Câu truyện đại khái như thế này:
Có một đôi vợ chồng trẻ nọ. Chồng là giảng viên đại học. Còn vợ vừa là diễn viên, vừa là người dạy thú của một đoàn xiếc. Người chồng, mặc dù nhận thấy nghề dạy thú của vợ mình có một cái gì đó không bình thường, nhất là cái mùi cọp, lúc nào cũng hăng hắc, xuất phát từ thân thể của vợ. Tuy nhiên, anh vẫn yêu vợ tha thiết. Cái mùi cọp thật là khó chịu, nhưng người diễn viên dạy thú không thể không cần đến cái mùi ấy. Chính nhờ cái mùi ấy mà bày cọp dữ mới nhận ra cô và mới ngoan ngoãn vâng lời cô. Cho đến một hôm, họ giận nhau. Tình trạng này kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng, người vợ chủ động làm lành. Chị chọn một giải pháp rất bất ngờ đối với anh và cũng rất xa lạ đối với chị, đó là chị đã tẩy sạch mùi cọp bằng nước hoa thơm phức. Họ đã làm hòa cùng nhau. Thế nhưng, đêm hôm sau, người vợ ấy đã chết. Chị đã chết vì con cọp dữ mà chị đã thuần hóa. Số là nó đã không nhận ra chị, bởi vì cái mùi cọp quen thuộc không còn, mà chỉ có mùi nước hoa xa lạ. Con cọp dữ đã hoảng hốt trước cái mùi lạ lẫm ấy, nên đã tự vệ bằng cách tấn công chị. Và thế là chỉ trong khoảng khắc, chị đã bị tan xác dưới những móng vuốt của con cọp mà chị đã hết lòng yêu thương.
Từ câu chuyện trên, chúng ta cảm nhận được tình thương yêu của người vợ. Vì yêu thương chồng, chị đã chấp nhận gột rửa chính mình và cuối cùng đã hy sinh chính mạng sống của mình. Tình yêu đích thực không phải chỉ là chết đi một ít, nhưng là chết đi trọn vẹn, để làm phát sinh sự sống mới. Đó cũng chính là ý nghĩa cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, mà Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong mùa Phục sinh.
Thực vậy, Ngài đã yêu và yêu cho đến cùng, nghĩa là hiến chính mạng sống mình vì chúng ta như lời Ngài đã xác quyết: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu. Và sự Phục Sinh vinh hiển của Ngài chính là một sức sống mới bừng lên từ tình yêu tha thiết ấy,
Chúng ta cũng thế, trong đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta lặp lại lời hứa của ngày lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Với bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được mai táng với Đức Kitô, đề rồi được phục sinh trong sự sống mới của Ngài. Mai táng vơi Đức Kitô, có nghĩa là chôn vùi con người cũ tội lỗi của chúng ta, là khước từ cái mùi của dục vọng sai trái, là từ bỏ tất cả những gì lôi kéo chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và Thánh Phaolô cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Hãy mai táng con người cũ, đề mặc lấy con người mới của Đức Kitô.
Xin Đức Kitô Phục Sinh luôn chiếu tỏa anh sáng của Ngài vào trong tâm hồn u tối của mỗi người, để chúng ta hiểu được những đòi hỏi đích thực của đức tin, vì theo Chúa đó là bước đi trên con đường thập giá, bước đi trên con đường chiến đầu và hy sinh, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục Sinh với Ngài.
2. Phục Sinh
Làm thế nào để mỗi người chúng ta ý thức được tầm mức quan trọng của việc Chúa sống lại, đó chính là mục đích của phụng vụ hôm nay và của mùa Phục Sinh.
Thực vậy, nếu không ý thức được tầm mức quan trọng đó, chúng ta sẽ không tha thiết với việc kết hợp cùng Đức Kitô phục sinh. Và nếu không kết hiệp với Ngài thì chúng ta cũng chẳng có đời sống mới. Cuộc đời của chúng ta sẽ hoàn toàn vô ích về phương diện tôn giáo, chính thánh Phaolô đã viết: Nếu Đức Kitô không sống lại, thì đức tin của anh em trở thành hão huyền và chúng ta quả là những kẻ dại dột nhất. Nói cách khác, vì đạo của chúng ta xây dựng trên nền tảng niềm tin Chúa sống lại, nên chúng ta phải xác tín, phải chắc chắn về niềm tin ấy, thì mới hy vọng xây dựng được một đời sống đạo đức vững vàng. Vậy chúng ta hãy theo phụng vụ của Giáo Hội để thêm ý thức về niềm tin ấy.
Trước hết phụng vụ lần lượt trích dẫn các đoạn văn Kinh Thánh nói về việc Chúa sống lại. Qua đó chúng ta thấy việc Chúa sống lại là một biến cố rõ ràng, nhưng quá bất ngờ đối với tất cả mọi người, đặc biệt đối với những người tin Chúa. Mặc dù Ngài đã khẳng định một cách công khai và không úp mở rằng Ngài sẽ bị nộp, bị đánh, bị treo trên thập giá và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Thế nhưng Phêrô chỉ để ý đến đoạn đầu mà thôi. Ông khăng khăng xin Chúa đừng làm như vậy, đừng để mình bị bắt. Ông không để ý đến câu cuối cùng nói rằng: Ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.
Các tông đồ khác cũng chẳng để ý hơn. Họ có nghe nói nhưng không tin. Nói đúng hơn là họ không muốn tin. Nên vừa thấy Chúa bị bắt, là họ đã bỏ Chúa, chối Chúa, muốn trở về làng cũ và chấm dứt lý tưởng theo Chúa. Hay họ đã rút lui vào nhà, đóng kín cửa, không dám ló mặt ra. Họ chỉ nhớ Đức Kitô chịu chết. Người Do Thái có thể sắp đến bắt họ.
Kẻ thù của Chúa thì cẩn thận hơn. Họ đã nghe Chúa nói đến việc Ngài sẽ sống lại. Họ nhớ vậy nên xin Philatô cho đặt lính gác mồ. Họ tưởng rằng có thể ngăn chặn không cho Chúa phục sinh.
Nhưng Chúa đã làm một việc kỳ diệu trước mắt thiên hạ, cả những kẻ tin cũng như không tin. Ngài làm một việc thật ngoạn mục, để ai tin thì được thấm thía tình Ngài yêu thương họ, còn ai không tin thì phải bàng hoàng khiếp sợ.
Việc Chúa phục sinh vì thế không phải là chuyện do mấy tông đồ bịa đặt ra. Họ không còn đầu óc nào, để nhớ lại lời Chúa nói trước, thì làm sao có được trí tưởng tượng xếp đặt khéo léo cho câu chuyện. Cả Phêrô lẫn Gioan đều nhận được tin Thầy sống lại và được Madalêna cho hay xác Thầy không còn ở trong mồ nữa. Hai ông đã ra đi, người đi chậm kẻ chạy nhanh. Nhưng cả hai đều đã quan sát rõ ràng và tỉ mỉ: Các khăn liệm còn đó nhưng Chúa Giêsu thì ở đâu? Phải đợi đến khi nhận được nhiều bằng chứng khác thêm vào bằng chứng mồ rỗng và nhất là khi được Chúa hiện ra trò chuyện, ăn uống và dạy dỗ thêm, thì các ông mới thật sự tin rằng Chúa đã sống lại.
Như vậy, niềm tin của các tông đồ không những đã căn cứ vào lời Chúa báo trước, mà còn vào các sự kiện, các bằng chứng rõ ràng của nhiều người khác nhau. Đức tin ấy sáng suốt và vững vàng đến nỗi tất cả đã bằng lòng chịu chết để làm chứng cho việc Chúa đã sống lại. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã sống như thế nào và đã làm được những gì, để niềm tin Chúa sống lại nơi chúng ta được chiếu toả cho những người chung quanh.
3. Niềm tin.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng. Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa. Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
4. Đức Kitô đã sống lại thật – ViKiNi
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
- “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng. Và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng. Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả của Thiên Chúa, như thế là chúng tôi chống lại Thiên Chúa” (1Cor. 15, 14-15).
Thánh Phaolô thật rõ ràng, thật quả quyết về Đức Giêsu đã sống lại, nếu Người không sống lại thì Phaolô và tất cả các tông đồ, các tín hữu thời đó vừa phạm tội ác chống lại Thiên Chúa, vừa bị người đời bắt bớ, đánh đập, tù ngục và đóng đinh giết đi. Các tông đồ chịu chết vì điều giả dối đó để làm gì ? Để chịu khốn nạn hơn hết mọi người sao ? Và giả dối thì tất nhiên, Giáo hội không thể xuất hiện và tồn tại bền vững cho đến ngày nay được. Nhưng chính vì Đức Kitô đã sống lại, đã tiếp xúc với các tông đồ, các ông đã trông thấy, ăn uống, đã đụng chạm đến Người, đã nhận nhiệm vụ Người trao phó đi giảng dạy muôn dân, cho muôn dân tin mà được cứu độ, được sống lại, giải thoát họ khỏi cái chết kinh khủng ngàn thu. Chính vì Đức Kitô sống lại, Phaolô đã bỏ đường bắt đạo, trở lại giảng đạo, giảng sự sống lại của Đức Kitô, ông đã sống chết vì Đức Kitô, đã chịu trăm ngàn khổ cực, đã chịu đóng đinh như Đức Kitô để rao giảng Đức Kitô sống lại cho muôn dân được sống lại với Đức Kitô.
Khi Đức Giêsu bị bắt, bị xét xử, bị đóng đinh chết trên thập giá, thì các tông đồ bỏ trốn, tinh thần các ông đã chết, khi các ông nghe tin mồ trống, các ông cũng khủng hoảng, vì lính canh mồ đang phao tin các môn đệ đã lấy trộm xác. Đó là án tử hình đang đeo vào cổ các ông. Luật thời đó kết án tử hình kẻ trộm cắp. Nhưng khi gặp Đức Giêsu sống lại, các ông đã trở nên dũng mạnh, can trường đứng trước công trường rao giảng Đức Giêsu đã chịu chết và sống lại cho toàn dân đang dự lễ tại đền thánh Giêrusalem (Cv. 2,14-4,31). Các ông còn vui mừng khi bị điệu ra trước thượng hội đồng Do thái để chịu xét xử tù ngục, đánh đòn, chịu khổ vì Đức Kitô. Tuy nhiên, người ta vẫn thắc mắc: Sự sống lại của Đức Kitô quan trọng như vậy, đã thay đổi cuộc sống của các tông đồ như vậy, đã lôi cuốn dân chúng đồng thời với các ông trở lại như vậy, để xây dựng Giáo hội tồn tại vững bền như vậy, tại sao bốn thánh sử chỉ kể lại vắn tắt hai ba lần Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ thôi ? Còn về cuộc chịu chết khổ nạn của Đức Giêsu thì các ngài viết rất dài và đầy đủ chi tiết.
- Thánh Marcô chỉ viết 8 câu kể tên 3 bà đi thăm mộ và hoảng sợ khi vào trong mộ thấy một thanh niên mặc áo trắng nói: Đức Giêsu Nagiareth …. đã chỗi dậy rồi …”.
Thánh Luca kể hai lần Chúa hiện ra: Một lần hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau, một lần hiện ra với các tông đồ, Người chúc bình an cho các ông rồi cho các ông rờ xem chân tay có xương thịt rõ ràng, chứ không phải ma, và ăn trước mặt các ông. Rồi Người dạy dỗ và mở trí các ông hiểu Kinh Thánh ứng nghiệm về Người. Người truyền cho các ông đi rao giảng cho muôn dân, rồi Người được rước lên trời.
Thánh Matthêu chỉ kể vắn tắt Đức Giêsu hiện ra với các phụ nữ, rồi hiện ra với 11 môn đệ. Ngài nhấn mạnh đến việc các thượng tế lừa đảo, bảo lính canh mồ phao tin các môn đệ lấy trộm xác.
Thánh Gioan kể dài hơn: Chúa hiện ra ba lần: trước hết với Maria Madalena, và hai lần với các môn đệ: một lần không có ông Tôma, lần sau có cả Tôma, và đoạn 21 cuối do các môn đệ Gioan kể thêm Đức Giêsu hiện ra ở biển hồ Tiberia lúc các ông đánh cá. Người nướng cá cho các ông ăn và hỏi ba lần Phêrô “Con có yêu mến Thầy không ?”.
Thánh Gioan cũng thêm một chi tiết khá tế nhị: Phêrô và Gioan chạy ra mộ khi vào mộ, ông thấy những băng vải và khăn che đầu Đức Giêsu cuốn lại và xếp riêng ra một nơi, chứng tỏ: Không ai đưa xác đi đâu và Đức Giêsu đã sống lại đàng hoàng mới có sự sắp xếp như vậy.
- Sở dĩ các ngài viết vắn tắt về sự sống lại của Đức Giêsu, có lẽ vì những lý do sau:
Thứ nhất: Sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại mà Người đã cho Lagiarô hay con trai bà góa thành Naim và con gái ông Giairô chết được sống lại ở đời này, rồi lại chết. Sự sống lại của Đức Giêsu là sự sống đời đời: “Người không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa” (Rm. 6, 9). Thân xác Người trở nên vinh hiển: “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Phil. 3, 21). “Thiên Chúa còn đặt mọi thù địch dưới chân Người, thù địch cuối cùng là sự chết” (1Cor. 15, 25-26). Như vậy Người đã chiến thắng sự chết. Cho nên không thể dùng ngôn ngữ trần gian nào diễn tả sự sống lại huyền diệu của Đức Giêsu được. Các ngài chỉ có thể kể: Người hiện ra đúng như Người lúc bị đóng đinh, có xương thịt, có lỗ đinh đóng chân tay và cạnh sườn, có ăn nói, dậy dỗ, trao quyền rao giảng Tin mừng, chứ không như bóng ma quái. Đồng thời Người lại giống như thần thiêng, không bị lệ thuộc vật chất, Người hiện ra gặp các ông mọi nơi, mọi chỗ dù cửa nhà đóng kín. Thật lạ lùng mãnh liệt đối với các ông. Cho nên chỉ kể thế là đủ.
Thứ hai: Các tông đồ đã trực diện hiển nhiên trước sự sống lại diệu huyền của Chúa, đâu cần phải sống lâu bên Chúa mới nhận ra Người sống lại. Các ông tiếp xúc trực tiếp với Người bằng tất cả mọi giác quan: tai, mắt, miệng lưỡi, chân tay, lòng trí và cả tâm hồn với mọi cảm tính từ hoảng sợ, nghi ngờ đến vui mừng, yêu mến tha thiết, từ đời sống lo âu đến đời sống bình thường, từ chốn ẩn lánh kín đáo đến công trường trước đông đảo quần chúng, hơn nữa chính Chúa còn mở trí cho các ông thấu hiểu các sách luật Môisê, các Ngôn sứ và Thánh vịnh, Thánh Kinh đã ứng nghiệm về Người (Lc. 24, 44-45). Chính các tông đồ là những cuốn sách sống động cho muôn dân hơn muôn vàn sách viết chữ. Chính các ông là những chứng nhân trực tiếp rõ ràng nhất bằng lời giảng, bằng đời sống, bằng gương lành, và bằng chính những cái chết anh dũng của các ngài, nhất là bằng ân sủng của Chúa Con, bằng tình yêu của Chúa Cha và bằng tác động của Chúa Thánh Thần. Những người có thiện tâm đều tin vững vàng Đức Giêsu đã sống lại thật. Kẻ cố chấp, ác tâm thì dù biết mọi chi tiết rõ ràng, như quân dữ, họ cũng viện mọi lẽ để không tin Người.
Thứ ba: Như Tử Cống hỏi Khổng Tử: “Người chết còn biết không ?”. Người đáp: “Nếu Ta nói: Người chết còn biết, thì sợ con cháu hiếu thảo liền chết theo ông cha, nếu Ta nói người chết không còn biết nữa, thì sợ con cháu bất hiếu, cha mẹ chết bỏ không chôn” (Khổng Tử gia ngữ: Trí tự VIII.)
Cũng vậy, nếu Chúa không sống lại, hay vật chất hóa sự sống lại của Chúa bằng xương bằng thịt cho người ta thấy luôn luôn, thì người ta không còn tin Chúa bởi trời xuống nữa. Người ta chết là hết, hay người ta tìm được thuốc trường sinh, thì người ta không cần Thiên Chúa nữa. Người ta sẽ sống thoải mái theo thú tính của mình và chắc chắn thế giới này sẽ nguy hiểm kinh khủng vì ai cũng lo giành dựt, xâm chiếm về cho mình hưởng thụ.
Nếu Đức Giêsu sống lại hoàn toàn vô hình, các tông đồ không thấy Người sống lại thì chắc các ông sẽ không thể tin Người sống lại, do đó, các ông đâu còn dám chết đi để làm chứng Người sống lại.
Cho nên Đức Giêsu đã xuống thế gian làm người để chết đi và sống lại cho người ta thấy tình thương bao la hữu hình của Người để người ta kính mến Người, và lên trời vô hình để người ta tin Người là Thiên Chúa hằng sống.
Lạy Chúa Giêsu, Người đã sống lại thật. Alleluia. Chúng con phấn khởi vui mừng. Alleluia. Chúng con cảm tạ và tung hô Chúa muôn đời. Alleluia.
5. Ơn Phục Sinh
Cuốn sách “Ngang qua thung lũng sông Kwai” cho chúng ta thấy: Vào thời đệ nhị thế chiến, những người lính đồng minh bị quân đội Nhật bắt làm tù binh, được đem tới vùng biên giới Miến Điện và Thái Lan để xây dựng tuyến đường sắt vận chuyển vũ khí. Cuộc sống ở đây thật là khắc nghiệt. Họ bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng như đổ lửa, có khi lên tới những 49 độ. Họ bị đối xử một cách tàn thệ. Chính cuộc sống khắc khổ này đã làm cho họ trở nên độc ác. Họ lấy luật rừng mà cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ và chỉ điểm lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra: Có hai tù nhân nọ, đã tổ chức cho những bạn tù của mình trở thành một nhóm để cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Và nhờ sự học hỏi này, mà Lời Chúa bắt đầu thấm vào tâm hồn họ, để rồi chính họ khám phá ra Đức Kitô đang sống giữa họ. Ngài hiểu và cảm thông với họ, bởi vì Ngài cũng đã từng sống vất vưởng, đã từng chịu đói khát mệt mỏi, đã từng bị phản bội và bị đánh đòn. Tất cả những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang một ý nghĩa mới và trở nên sống động đối với họ. Đám tù nhân không còn nghĩ rằng mình là nạn nhân của một cuộc chiến dã man. Họ không còn chỉ điểm và trộm cắp của nhau, nhưng bắt đầu đối xử với nhau bằng thương yêu và nhất là họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau.
Từ đó, trong trại bắt đầu có những tiếng hát vui tươi thay thế cho sự thinh lặng oi bức và căng thẳng, giống hệt sự khác biệt giữa cái chết và sự phục sinh. Hay nói một cách khác, sự biến đổi xảy ra trong trại tù là một lễ phục sinh, là một phép lạ làm cho họ tin tưởng lẫn nhau thay vì trước đó đã nghi ngờ nhau. Làm cho họ biết chia sẻ với nhau thay vì trước đó chỉ biết trộm cắp của nhau. Làm cho họ biết giúp đỡ nhau thay vì trước đó chỉ tìm cách chỉ điểm lẫn nhau.
Ơn phục sinh và sự biến đổi này cũng có thể xảy ra cho bản thân chúng ta, nếu như chúng ta biết mở rộng tâm hồn để đón nhận Đức Kitô và ơn sủng của Ngài. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tin tưởng nhau như xưa chứ đừng phản bội nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta yêu thương nhau như xưa chứ đừng từ khước nhau. Hãy để Ngài giúp chúng ta biết tiếp tục hy vọng khi niềm tin tưởng đã tan vỡ. Hãy để Ngài giúp chúng ta nhặt lên những mảnh vụn và khởi sự lại từ đầu khi mà chúng ta dường như sẵn sàng xoá bỏ chúng đi. Hãy cộng tác với Ngài trong cộng cuộc thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời vì như lời thánh Augustinô đã từng xác quyết: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài.
Và như thế, không cần phải đợi đến lúc chết, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ, chúng ta đã có thể tham dự vào quyền năng phục sinh của Chúa.
6. Đấng Phục Sinh
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất. Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền”. Có bao nhiêu bậc vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người, nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi, và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: “Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài”. Họ không thể là một nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
7. Tin Mừng Phục Sinh (Mc 16,1-7)
(Suy niệm của Thiên Phúc, trong “Như Thầy Đã Yêu” năm B).
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm… Bỗng một sáng Chúa nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng.
Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đó cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
***
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh hoạ cho chúng ta bài Tin Mừng Phục Sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacobe, và bà Salome là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong một đá. Còn lại gì? Hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc 16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó, sứ thần chờ để loan báo Tin Mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galile” (x. Mc 16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu, hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin Mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa nhật Phục Sinh.
Tin Mừng chính là: Hễ có bình minh là có niềm hy vọng, có trở về là có đôi mới.
Tin Mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
Tin Mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục Sinh.
***
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang Phục Sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục Sinh của Chúa. Amen.
8. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã đượcđẩy qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường tình yêu của Chúa.
9. Ánh sáng Chúa Kitô
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Ngọc Long)
Trong đêm Phục Sinh mừng kỷ niệm Chúa Giêsu sống lại, Giáo hội rước Cây nến Phục sinh cháy sáng bừng bừng tiến vào nhà thờ và hát ca ngợi: Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô!
Trong khung cảnh đêm tối chỉ một mình ánh sáng từ Cây nến Phục sinh tỏa ra hương vị thánh thiêng cả nhà thờ. Ánh sáng lung linh thật đẹp và thi vị! Nhưng phải chăng ánh sáng này có gì đặc biệt khác với ánh sáng từ các ngọn nến khác khi cũng được đốt lên? Tại sao Giáo hội lại xưng tụng đây là Ánh sáng Chúa Kitô từ Cây nến Phục sinh trong đêm này?
Trong đời sống nhiều khi chúng ta phải ngồi suy nghĩ hằng giờ, có khi cả tuần lễ, cả tháng trời mong tìm ra giải đáp cho một vấn đề. Nhưng vẫn trong vòng bế tắc… Bỗng dưng một tia sáng lóe lên trong tâm trí.. thế là trong người rộn lên niềm mừng vui vì ta tìm ra đáp số cho vấn đề đang suy nghĩ. Ánh sáng này thật lạ lùng huyền bí và có giá trị khôn lường. Cả tâm hồn lẫn trí khôn cùng làn da thớ thịt gân cốt mạch máu lúc này bừng lên sức sống mới. Trong người cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng. Trên gương mặt lộ hẳn niềm rộn vui. Có người cảm thấy sung sướng quá cười nói, ca hát, múa nhảy như lúc lên “cơn”! Ánh sáng này chiếu tỏa từ trong thâm tâm ra bên ngoài. Ánh sáng này đánh thức ta bừng dậy.
Tia sáng lóe lên trong tâm trí. Đó là điều bất ngờ xảy đến không ai có thể làm ra được. Tia sáng này không được bật lên như ngọn đèn điện, khi em bé đưa tay bật nút điện ở trên tường hay do bạn trẻ bật hộp quẹt lấy lửa hút thuốc. Không, tia sáng này không do chúng ta nối chế ra. Tia sáng này đến từ một nguồn ánh sáng khác. Tia sáng này là quà tặng, là ân đức từ trời cao chiếu xuống. Tia sáng lóe lên trong tâm trí!
Kinh thánh thuật lại công trình sáng tạo trời đất bắt đầu bằng việc Thiên Chúa tác tạo ánh sáng. Ngài phán: “Hãy có ánh sáng! Và liền có ánh sáng” (Gen 1,3). Ánh sáng này là hình ảnh Chúa Giêsu đến chiếu sáng trần gian như chính ngài khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian” (Gioan 8,12) Ánh sáng Chúa Kitô: Lumen Christi!
Ngày nay những phong trào, những lý thuyết hứa hẹn mang lại ánh sáng, hào quang soi chiếu cuộc sống, tâm hồn con người luôn luôn thu hút mọi giới. Con người khao khát tìm về ánh sáng cho cuộc đời. Và những gì ngoài đường xá phố chợ đèn điện chiếu sáng thường gợi chú ý mọi người. Nhưng tia sáng bừng lên trong tâm trí không phải là món hàng bày bán trong cửa tiệm bán đồ điện. Người ta không thể bật tia sáng này lên như bật ngọn đèn neon trong nhà mình.
Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô không phải là sản phẩm như cây nến có thể mua trong cửa hàng đem về đốt lên trong phòng khách, trong bàn ăn, để tăng vẻ đầm ấm thân mật.
Không, Ánh sáng Chúa Kitô không dừng lại nơi đây như thế. Ánh sáng này dọi chiếu, soi đường chỉ phương hướng cho con người, như chính Chúa Giêsu khẳng định: “Thầy là ánh sáng trần gian”.
Trong ánh sáng Chúa Kitô con người nhận ra nhau là anh em con một Cha trên trời. Cho dù khác nhau về nhiều mặt, nhưng trong ánh sáng Chúa Kitô tất cả mọi người cùng có nhân vị như nhau. Chúa Giêsu đến trần gian mang ánh sáng tình yêu đến cho mọi người. Ngài không dùng quyền hay làm phép lạ xóa tan bóng tối, nhưng Ngài không sợ bóng tối, trái lại soi chiếu vào trong bóng tối. Trong ánh sáng Ngài chúng ta nhận ra những khuyết điểm yếu kém đời mình.
Lumen Christi – Ánh sáng Chúa Kitô là ánh sáng lóe lên từ trong tâm hồn. Ánh sáng này có sức soi chiếu mang niềm vui mừng phấn khởi cho tâm hồn con người.
10. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
RAO TRUYỀN ƠN PHỤC SINH
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
- Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
- Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
- Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
- Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
11. Đón nhận ơn Phục Sinh
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi trở nên tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt trong một câu ngắn gọn: “Ông đã thấy và ông đã tin”.Nhờ đâu các ngài đã thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày, nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa. Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ, các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì, nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại: Các ngài đã “cúi xuống nhìn vào ngôi mộ”. Khi cúi xuống nhìn vào ngôi mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình. Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào “Ông thấy những băng vải còn ở đó”. Khi đã bước vào trong mộ, Ông “thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi”.
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của Thày, thánh Gioan lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại, tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con được sống lại thật. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chỉ một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?
2) Khi ngắm thứ nhất mùa Mừng: “Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn”, bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi mới cuộc đời không?
3) Bạn sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
12. Vui lên, toàn trái đất
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Đêm Vọng Phục Sinh (Mc 16, 1-8)
Đêm Canh Thức Phục Sinh là đêm trọng nhất và là đỉnh cao nhất trong Năm Phụng Vụ của Hội Thánh. Từ xa xưa, đêm nay là “đêm của Đức Chúa” (Xh 12, 42) và buổi canh thức cử hành đêm nay, tưởng nhớ đến đêm Chúa sống lại, đêm Thánh “mẹ của mọi đêm thánh” (thánh Augustinô). Vì trong đêm nay Giáo hội đợi chờ Chúa Phục Sinh và cử hành các bí tích khai tâm kitô giáo.
Đêm nay là đêm tôn vinh và cảm tạ, vì Thiên Chúa đã, đang và mãi mãi yêu thương con người, đêm nối kết trời với đất, con người với Thiên Chúa, và con người trần thế với nhau.
Lễ nghi Canh Thức long trọng đêm nay làm cho chúng ta sống lại biến cố Chúa Phục Sinh, một biến cố có tính cách quyết định và luôn thời sự, Mầu Nhiệm trung tâm của đức tin Kitô giáo. Đêm nay, vô số những cây nến phục sinh được đốt lên trong các nhà thờ tượng trưng ánh sáng Chúa Kitô đã và còn đang sáng soi nhân loại, ánh sáng không bao giờ lụi đi, ánh sang chiến thắng bóng tối của tội lỗi và sự dữ…(x. Exsultet). Còn hạnh phúc và hy vọng nào lớn lao hơn, khi Con Thiên Chúa sống lại, để tất cả những ai tin vào Người cũng sẽ được sống lại vinh quang. Vì thế Giáo hội trần thế đêm nay với niềm vui khôn tả đều đồng thanh công bố Tin Mừng Phục Sinh cho toàn thế giới: “Mừng vui lên”, mừng vui lên hỡi muôn lớp cơ binh thiền thần… Cùng vui lên hỡi các nhiệm mầu thánh này…Và vui lên, toàn trái đất…Cùng vui lên, ôi Mẹ Hội Thánh…(x. Exsultet) vì Chúa đã sống lại.
Chúa Giêsu thành Nagiarét, Đấng chịu đóng đinh, đã sống lại từ trong cõi chết sau ba ngày bị mai táng trong mồ, đúng như lời Kinh Thánh. Lời loan báo của “một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng” (Mc 16, 5) làm các bà vui mừng nhưng cũng làm “các bà khiếp sợ” (Mc 16, 5). Người thanh niên đó bảo bà Maria Mađalêna, bà Maria, mẹ ông Gia-côbê và bà Salômê rằng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nadarét chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại, không còn ở đây nữa ”. (Mc 16, 6). Vâng Người đã sống lại rồi.
Chúng ta cứ thử tưởng tượng xem tâm tình của mấy phụ nữ đi “mua thuốc thơm để đi xức xác Chúa Giêsu. Và từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, khi mặt trời hé mọc, các bà đến mồ ” (Mc 16, 1-2), biết mình phận liễu đào tơ, chân yếu tay mền, khó khăn lớn nhất đối với các bà là tảng đá lấp cửa mồ, họ bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mồ cho chúng ta?” (Mc 16, 3). Đang khi bàn tán như vậy thì này kìa “tảng đá đã được lăn ra bên cạnh” (Mc 16, 4). Phải nói thật là những tâm tình u buồn và chán nản vì Chúa đã chết, những tâm tình không tin và kinh ngạc vì sự việc quá bất ngờ để có thể tin thật rằng Chúa đã sống lại. Nghe tin ấy cho dù người thanh niên đã trấn an, các bà vẫn “chạy ra khỏi mồ trốn đi, run rẩy kinh hồn chẳng dám nói gì với ai vì sợ hãi” (Mc 16, 8).
Vâng, Chúa Kitô đã đã sống lại sáng láng bước ra khỏi mồ, sau khi tiêu diệt sự chết, bẻ gãy mọi ràng buộc của ngôi mộ. Chính vì thế mà các Thiên Thần từ trời cao đã tuyên bố: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16, 6). Con Thiên Chúa không còn ở trong mộ, bởi vì Người không thể nào là người tù của sự chết (x. Cv 2, 24) và ngôi mộ không thể nào giữ lại “Đấng hằng sống” (Kh 1,8), Đấng là chính nguồn mạch của sự sống đã kết thúc cuộc hành trình nơi ngôi mộ như mọi người, nhưng Người đã chiến thắng sự chết, sống lại ra khỏi mồ. Người đã mở lòng đất và mở ra thật rộng để hướng về Trời, đưa chúng ta ra khỏi mồ tăm tối, dẫn chúng ta từ đất về trời với Chúa Cha.
Mừng vui lên, sao không thể không vui, bởi vì đêm nay Chúa Kitô ra khỏi ngục vinh thắng, đêm mà xiềng xích sự chết do Tội tổ tông gây ra bị bẻ gãy. Sự chết đó đã khiến cho bao người thất vọng, làm tiêu tán hết mọi nỗ lực của con người. Nay Con Thiên Chúa, vì yêu thương đã vâng phục, với cái giá phải trả là chết trên thập giá, để hòa giải tội nhân với Chúa, mang lại sự sống cho con người. Từ nay con người phải chết sẽ được sống, ơn làm con cái Chúa được phục hồi, sự chết sẽ không còn cơ hội để khống chế và tiêu tan những cố gắng của con người nữa. Nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta được kết hiệp với Chúa Kitô, sự Phục Sinh của Người trở thành sự phục sinh của chúng ta, như lời tiên tri Ezechiel đã loan báo: “Đây, Ta mở ra các mồ mả của các người; Ta phục sinh các người từ các mồ mả, hỡi dân ta ơi, và ta sẽ dẫn các người trở lại xứ sở của Israel” (Ed 37,12). Những lời tiên tri trên có một giá trị đặc biệt trong ngày Chúa phục sinh, bởi vì hôm nay được nên trọn lời hứa của Đấng Tạo Hóa.
Ngày hôm nay, trong thời đại chúng ta đây, thời đại bị ghi dấu bởi sự lo âu và không chắc chắn, thời đại khủng hoảng, mất niềm tin vào nhau, chúng ta được sống biến cố Phục Sinh, một biến cố đã thay đổi dung mạo cuộc đời chúng ta, đổi thay cả lịch sử nhân lọai. Tất cả những ai đang bị áp bức bởi những mối dây ràng buộc của đau khổ, của sự chết, đang chờ đợi niềm hy vọng từ Chúa Kitô Phục Sinh, cả đôi khi họ chờ đợi một cách vô ý thức.
Cùng với Giáo Hội, những lời của bài ca Exsultet, “Hãy vui lên, hỡi ca đoàn các thiên thần, hãy hát lên… hỡi trái đất, hãy nhảy mừng”. Biến cố Phục Sinh của Chúa bao trùm toàn thể vũ trụ, và liên kết đất trời chung lại với nhau. Một lần nữa, với những lời của bài ca “Hãy vui lên”, chúng ta có thể cao rao: “Chúa Kitô… Đấng từ cõi chết sống lại và chiếu toả ánh sáng bình an của Người trên toàn thể nhân loại, Đấng là Con Thiên Chúa, là Đấng hằng sống và hằng trị mãi mãi muôn đời”. Amen.
13. Tin Mừng Phục Sinh – Lm. Vinh Sơn SCJ
(Lc 24,1-12; Ga 20,1-9)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
– Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
– Chuông các thánh đường im tiếng.
– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
– Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống…
– Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết (theo Radio Veritas)
Trung tâm niềm tin Kitô giáo biểu lộ là Đức Kitô tự nguyện chết để cứu độ nhân loại, Ngài đã phục sinhnhư Thánh Augustino ghi nhận rằng:“Lòng tin của Kitô hữu là sự Phục sinh của Chúa Kitô”. Bởi vì sẽ không hiểu được những gì đã qua đi, và tương lai sẽ mịt mờ, nếu Niềm tin đó không được vững chắc như Thánh Phaolô tuyên tin: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và cả đức tin của anh em nữa cũng trống rỗng… và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em” (1 Cr 15,14.17).Trống rỗng tức không thể nào có tương lai, và quá khứ và hiện tại thế gian vẫn còn rên siết trong tội lỗi.
Thật thế, Đức KitôPhục sinh dẫn nhân loại vào cuộc sống mai sau- bất diệt, nhưThánh Phaolôdạy: “Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới. Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại” (Rm 6,4-5).
Đức Kitô Phục sinh Halléluia …
Cả bốn Tin Mừng và sách Tông Vụ Tông Đồ đều trình bày biến cố Đức Giêsu phục sinh hiện ra (x. Mt 28,9-20; Mc 16,1-19; Lc 24,13-53; Ga 20,11-23; Cv 1,6-11). Phêrô loan báo Đức Kitô sống lại trước toàn dân Israel (x. Cv 3,14-26) cũng như trước Thượng Hội Đồng Do thái (x. Cv 4,10). Phaolô cũng đã tuyên xưng cùng một niềm tin cho dân Do thái (x. Cv 13,33; 17,3) và trước Thượng Hội Đồng Do thái (x. Cv 23,6). Philiphê truyền bá Tin Mừng Phục sinh cho viên thái giám Êtiôpia (x. Cv 8,35), Phaolô loan bao Đức Kitô Phục Sinh cho dân ngoại (x. Cv 17,31). Chính các Tông đồ đã lấy máu đào và cái chết của mình để tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô sống lại.
Không chỉ có những người theo Chúa tuyên xưng, cả người ngoài như Sử gia Flavius Josephus (37 – 100) chứng thực. Ông là một công dân La Mã gốc Do Thái cùng thời với các Tông Đồ, trong tác phẩm Antiquitates Judaicae (Cổ sử Do Thái), viết khoảng năm 93, có đoạn gọi là “Testimonium Flavianum” nói về sự chết và phục sinh của Giêsu: “Khi Pilate, theo cáo buộc của những người lãnh đạo chúng ta, kết án [Giêsu] đóng đinh trên thập tự giá, những kẻ yêu thương người ấy không chịu từ bỏ người, vì người hiện ra cùng họ trong ngày thứ ba, sống lại, như các tiên tri đã báo trước, cùng với nhiều điều kỳ lạ liên quan đến người…”
Trải qua 2000 năm, bất cứ ở đâu và trong các thời, Giáo hội cũng như mọi người con Kitô hữu luôn tuyên xưng niềm tin: Đức Kitô sống lại và loan truyền cho thế giới. Chính các anh hùng tử đạo cũng đã đổ máu đào để chứng thực niềm tin vào Chúa Sống lại là bất diệt, các vị Thánh nhân bác ái sống niềm tin Chúa phục sinh bằng phục vụ anh chị em bằng sức sống phi thường giữa thế gian.
Bởi vì tin vào Chúa sống lại, người Kitô Hữu mang sức sống với nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh (Cl 3,1). Chính thân xác phục sinh của Ngài đã trở nên “con đường mới và sống động” (Dt 10,19-25) cho chúng ta. Người Kitô hữu cảm nghiệm trong thân xác phải chết của mình bằng niềm tin của Phaolô: “Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng” (1 Cr 15,54). Thật thế, chính trong niềm tin này chúng ta sẽ được như Đức Kitô “Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,44).
Cuộc sống mới của chúng ta, cuộc sống mang niềm tin Chúa sống lại được “chỗi dậy” (Cv 10,40), “lại đứng dậy” (x.1Tx1,10; Rm 10,91; Cr 15,20), “được tôn vinh” (Cv 3,13), “được nâng lên” (Cv 2,33. 5,31; 1Tm 3,16)…
Ơn Phục Sinh trong cuộc sống mới với sự “chỗi dậy” “lại đứng dậy” giúp chúng ta tẩy trừ mọi tội lỗi,đẩy lui sức mạnh của sự chết ra khỏi con người bất toàn của chúng ta, chữa lành mọi vết thương tâm hồn. Những điều mà Thánh Gioan đã nói ngôn sứ trước cho những người sống niềm tin phục sinh: “Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ biến mất” (Kh 21,4)
Trói Tử thần vào chân cây thập giá
Diệt tử thần khi Ngài tung huyệt đá
Là Chúa ôi! khi rạng rỡ Phục sinh
Chúng con đây tất cả được biến hình…
(Xuân Ly Băng, Phục sinh)
Thật thế biến hình trong Đức Kitô Phục sinh thân phận hạt lúa: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống … chết đi, mới sai hoa kết trái” (Ga 12,24 ).
Khi chết là khi có sống vĩnh cửu… (Thánh Phanxicô Asisi).
14. Sống lại cùng Chúa Phục Sinh
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Khi thi thể của Valdelucio Goncalves, 54 tuổi, được mang đến nhà xác Bệnh viện đa khoa Menandro de Farias ở Salvador, miền đông Brazil, các bác sĩ khẳng định ông đã qua đời vì “suy hô hấp và suy tạng.” Khi đến nhà xác để liệm thi thể anh mình, Walterio, em trai của nạn nhân, đã sốc khi thấy xác người anh quằn quại trong túi đựng xác.
“Việc cần làm lúc đó là mặc đồ mới cho anh ấy để nhân viên tang lễ đến mang anh ấy đi. Nhưng khi đến gần thì tôi thấy thi thể cử động.” Ông Walterio kể lại. “Tôi như hóa rồ và thét lên để gọi nhân viên y tế. Họ kiểm tra và xác nhận anh ấy còn sống”, ông này cho hay.
Gia đình ban đầu ngỡ Goncalves đã đầu hàng với căn bệnh ung thư dạ dày và cũng đã chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết cho đám tang người này.
“Tất cả chúng tôi đều bàng hoàng khi họ gọi báo bác ấy đã qua đời. Mọi chuyện đã được sắp xếp trước sáng ngày tổ chức lễ tang. Chúng tôi cũng đã đăng báo cáo phó, mua quan tài và đăng ký làm đám ma cho bác”, cô Patricia Cintra, cháu ông Goncalves, nói với Daily Mirror. “Chân bác ấy đã được cột lại, mũi và tai đều đã được nhét bông gòn”,
Sau khi tỉnh lại, ông Goncalves nhanh chóng được đưa sang phòng chăm sóc đặc biệt, nhưng do quá lo lắng, nên người thân ông này đã chuyển ông sang một bệnh viện khác.
Do không nói được, Goncalves đã viết một lá thư miêu tả quá trình quay trở lại dương thế. Ông miêu tả việc sống lại như một phép màu được ban từ Chân phước Irma Dulce, một nữ tu Công giáo dòng Phan Sinh, được xem như một nữ thánh ở Brazil. “Tôi, Valdelucio, đã thấy thần chết ngay chân mình, nhưng đức tin quá lớn nên tôi đã được chữa khỏi,”ông viết.
“Hiện diện trước Chân phước Irma Dulce, tôi đã xin ban phép lạ cho tôi và ngài đã nghe lời thỉnh cầu của tôi,”người về từ cõi chết thuật lại. (Hoàng Uy, Daily Mirror 27.8.2014)
Với sự cầu bầu của Chân phước Irma Dulce, ông Valdelucio Goncalves đã thực sự hồi sinh, có nghĩa Goncalves mới chết lâm sàng, chưa hẳn chết thật. Chúa nhật hôm nay tôn vinh Chúa Giêsu đã chịu chết công khai trên thập giá, sau ba ngày an táng trong mộ, đã huy hoàng sống lại. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ vào sáng sớm, thì thấy ngôi mộ trống và xác Đức Giêsu không còn ở đó nữa. Bà về báo tin ngay cho các Tông Đồ. Ông Phêrô và ông Gioan cùng chạy đến mồ. Nhưng vào ngay lúc đó, chỉ có duy nhất mình ông Gioan “đã thấy và đã tin” Chúa Giêsu đã Phục sinh.
“Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô và đến mộ trước ông.” (Ga 20, 4) Chẳng phải chỉ vì sức trẻ, cường tráng, mà ông Gioan chạy nhanh đến mồ trước ông Phêrô. Mà chính vì “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi,” (2Cr 5, 14) như Thánh Phaolô đã diễn tả trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, ông Gioan đã được thúc bách bởi niềm tin và Tình Yêu cuồng nhiệt dành cho Đức Giêsu.
Tin Yêu
Trong Tin Mừng Thánh Gioan, ngài lấy làm vinh dự tự nhận mình là “Người môn đệ được Chúa yêu quý.” Ngài có một vị trí nổi bật trong số các tông đồ. Cùng với Phêrô và Giacôbê, ông Gioan là nhân chứng trong việc Đức Giêsu cho con gái ông Giaia sống lại (Mc 5, 37), Đức Giêsu biến hình (Mt 17, 1) và trong Vườn Cây Dầu (Mt 26, 37). Ông và Phêrô đã được Đức Giêsu sai vào thành phố, để thực hiện các việc chuẩn bị cho Bữa Tiệc Ly. (Lc 22, 8)
Trong bữa tiệc, ông được ngồi bên cạnh và ngả đầu vào ngực Đức Giêsu (Ga 13, 23-25). Gioan cũng là môn đệ duy nhất đứng dưới chân thập giá trên đồi Calvê cùng với Mẹ Maria và các phụ nữ khác. Ông cũng đã đón Mẹ Maria về chăm sóc theo như lời trối của Đức Giêsu. (Ga 19, 25-27) Ngoài việc thấy và tin Chúa Phục Sinh từ ngôi mộ trống, ông Gioan cũng là người đầu tiên nhận được Chúa tỏ mình hiện ra bên Biển Hồ Tiberia. (Ga 21, 7)
Như thế, Tin Yêu chính là động lực khiến ông Gioan luôn gần gũi với Chúa Giêsu trong suốt cuộc khổ nạn, luôn tìm đến, nhận biết Chúa Giêsu đã Phục Sinh thật bén nhạy, mau mắn và chính xác.
“Không phải tin một Chúa xa xôi, mơ hồ, nhưng tin như Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống,” tin như Gioan: “Ai không yêu mến, thì đã không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (Đường Hy Vọng, số 277)
Vâng phục
Mặc dù “Người môn đệ được Chúa yêu quý” đến cửa mộ trước, ông vẫn không tự tiện vào, mà kính lão đắc thọ, nhường cho ông Simon Phêrô vào trước. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước.
Ông Gioan hoàn toàn tỏ ra khiêm nhường, kính trọng và vâng phục ông Phêrô, người anh cả trong các Tông đồ, mà Chúa Giêsu đã trao sứ mạng lãnh đạo Hội Thánh. (Mt 16, 18-19).
Hiệp thông cùng thái độ đó, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người vâng lời, phục tùng Chủ Chiên: “Anh em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa.” (Dt 13, 17)
“Luxiphe đã nổi loạn và liên lỉ xúi giục khởi nghĩa đó đây trong Hội Thánh. Khẩu hiệu của nó là: “Bất tuân phục.” (Đường Hy Vọng, số 394)
Đặc ân
“Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.” (Ga 20, 8-9) Chỉ nhìn thấy những khăn liệm và dải băng sắp xếp ngay ngắn, thì ông Gioan đã hiểu và đã tin chắc chắn Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Đức tin không hề đơn sơ, giản dị và dễ dàng, vì ông Phêrô và bà Maria Mađalêna cũng nhìn thấy như vậy, sao cả hai lại đều chưa tin? Như vậy, niềm tin của Gioan chính là một đặc ân, ơn sủng của Chúa Giêsu ưu ái ban riêng. Phải chăng, nhờ toàn tâm toàn ý tin yêu và vâng phục, mà ông Gioan mới được diễm phúc này.
“Đức tin có phải là một hồng ân của Thiên Chúa không? Chắc chắn là vậy. Như thế, người nào không có đức tin, có thể được tha thứ không? Không. Tại sao? Tại vì nếu không có đức tin, thì làm sao lãnh nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa được!” ( P. Charles)
“Thành thực cầu xin như các Tông Đồ: “Xin Thầy thêm sức mạnh cho đức tin chúng con. “ (Đường Hy Vọng, số 282)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con vốn yếu đuối, bất nghĩa, bất tín, bất trung, xin Ngài ban cho chúng con đầy ân sủng Chúa Thánh Thần, để củng cố niềm Tin Yêu và hy vọng, hầu luôn được tìm thấy và gặp gỡ, hạnh ngộ cùng Chúa trên đường đời.
Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ phù hộ chúng con khiêm tốn nhận biết thân phận mòng dòn, yếu đuối, dễ sa ngã, hầu canh tân, đổi mới. Kính xin Mẹ cứu giúp chúng con sống lại phần hồn cùng Chúa Giêsu Phục Sinh. Amen.
15. Những Chứng Nhân đầu tiên
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Người đầu tiên phát hiện ngôi một trống, chính là bà Maria Macđala, vào sáng sớm đầu tuần, thấy tảng đá chặn cửa mồ đã lăn ra. Trước đó bà đã đứng dưới chân Thánh Giá cùng với Mẹ Maria và bà Maria, vợ ông Cơlôpat (G19, 25). Rồi sau đó, bà còn dự cuộc mai táng Chúa Giêsu. (Mt 27, 61)
Như thế bà Maria Macđala là nhân chứng thứ nhất và trọn vẹn nhất, vì đã theo dõi tường tận mọi việc. Tiếp đến, nhân chứng thứ hai là Người Môn Đệ Được Chúa Thương trẻ trung, nhanh nhẹn đến trước mồ. Thứ ba là ông Phêrô chậm chạp đến sau, nhưng lại vào mồ trước.
Nhân chứng Maria Macđala tuy vậy, chỉ dừng lại nghi vấn rất cụ thể: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ, và chúng tôi chẳng biết người ta để Người ở đâu?”(Ga 20,2) Như thế dữ kiện đầu tiên chỉ mới xác định ngôi mộ trống, mà chính bà Macđala biết chính xác Chúa Giêsu đã được mai táng tại đây.
Nhân chứng thứ hai và thứ ba vào trong mồ, đều thấy “những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giê su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại xếp riêng ra một nơi”(Ga 20, 6-7) Ngay tức khắc Người Môn Đệ Được Chúa Thương liền giải mã được dấu chỉ này, nên “ông đã thấy và đã tin “ Chúa Phục Sinh. (Ga 20, 8)
Suốt ba năm sống bên cạnh Chúa, hẳn Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã quá quen với thói ngăn nắp, thứ tự của Chúa Giêsu. Nên khi nhìn thấy tấm khăn liệm và khăn che đầu được sắp xếp cẩn thận và gọn ghẽ, thì ông hiểu ngay sự việc đã diễn biến thế nào, đồng thời hiểu Chúa nhắn lại điều gì.
Hơn nữa, cùng hiện diện với bà Maria Macđala dưới chân Thánh Giá, Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã được Chúa trăn trối, giao phó cho Đức Mẹ: Thưa bà, đây là con của Bà. Rồi Người nói với môn đệ: Đây là mẹ của anh.”(Ga 19, 26=27) Tình bằng hữu hay tình thầy trò, nay được nâng cấp thành tình huynh đệ thắm thiết. Từ động lực tình yêu này, Người Môn Đệ Được Chúa Thương đã sớm có cái nhìn siêu nhiên, sớm ngộ ra Chúa đã sống lại thật.
Như thế, khi giang tay chịu đóng đinh trên cây Thập tự, Chúa Giêsu đã quy tụ những ai theo Người thành một gia đình hợp nhất, dưới sự che chở của Đức Thánh Mẫu Maria. Hố sâu xa cách đã được lấp đầy.
Mầu nhiệm Phục Sinh do vậy có thể gọi là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.
Lạy Chúa Giêsu xin soi sáng tim con bằng lửa Mến, như thánh Gioan ngày xưa, để con luôn biết trông cậy vào mầu nhiệm Phục Sinh, làm chứng nhân cho Tình Yêu Chúa.
Lạy Mẹ Thánh Mẫu, xin dìu dắt con trên đường hy vọng, như xưa kia Mẹ đã ân cần chăm sóc các Tông Đồ, để xứng đáng hưởng ơn cứu độ của Chúa. Amen.
16. Sự sống lại là niềm hy vọng
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Nếu sự chết là nỗi sợ hãi nhất của con người thì sự phục sinh là niềm hy vọng lớn nhất cho kiếp người chúng ta. Sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình, nhưng chết rồi đi đâu mãi là câu hỏi của con người qua mọi thời đại. Con người vẫn trăn trở, thắc mắc. Có biết bao tôn giáo, có biết bao các hiền sĩ đã mải công đi tìm câu trả lời. Thánh Phao-lô cũng từng đối diện với câu hỏi đầy hóc búa ấy. Qua đây, thánh Phao-lô đã cho chúng ta hiểu thế nào về sự sống lại. Ngài nói:
“Khi anh em gieo giống, nếu hạt giống không chết đi thì sẽ không bao giờ nẩy mầm sống lại, cây non từ hạt giống mọc lên trông khác hẳn hạt lúc gieo xuống đất. Thiên Chúa cho nó hình thể theo ý Ngài, mỗi loại hạt giống sinh ra một loại cây; sự sống lại của người chết cũng thế, chết là thân thể hư nát nhưng sống lại là thân thể không hư nát, chết là thân thể xương thịt nhưng sống lại là thân thể thần linh, vì đã có thân thể xương thịt tất nhiên cũng có thân thể thần linh. Tôi xin tỏ cho anh em huyền nhiệm nầy, chúng ta sẽ không chết hết nhưng tất cả đều sẽ biến hóa trong giây lát, trong chớp mắt, khi có tiếng kèn cuối cùng, vì kèn sẽ thổi. Người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta, những người còn sống sẽ được biến hóa” (1 Cor 15, 35-52)
Hóa ra sự sống lại của con người cũng giống như một hạt giống được gieo xuống đất, mục nát chết đi thì sẽ trồi lên một cây mới. Sự sống của cây mới chắc chắn sẽ khác với hạt giống khi gieo xuống. Cây lúa khác với hạt lúa. Con người sau khi sống lại cũng hoàn toàn đổi mới. Vì mang thân xác thần linh thì hoàn toàn khác với thân xác hữu hạn trần thế. Khi Chúa Giêsu sống lại trên thân xác của Ngài vẫn còn những vết sẹo. Ngài đã đề nghị Tô-ma hãy xỏ ngón tay vào những dấu đinh trên thân thể Ngài. Nhưng đó là một thân xác hoàn toàn mới, nên các môn đệ, các người phụ nữ thân tín cũng không nhận ra Người. Đó cũng là điều sẽ xảy ra cho tất cả mọi người như lời Chúa đã dạy: “Trong giây lát, trong chớp mắt sẽ có tiếng kèn cuối cùng vì kèn sẽ thổi, người chết sẽ sống lại với thân thể không hư nát nữa và chúng ta những người còn sống sẽ được biến đổi nên mới hơn”.
Tuy nhiên, Thánh Gioan còn cho biết: “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thiên Chúa mà xuống, sửa soạn sẵn như một người vợ mới cưới trang sức cho chồng mình. Tôi nghe một tiếng lớn từ nơi ngai mà đến, nói rằng: nầy, đền tạm của Đức Chúa Trời ở giữa loài người! Ngài sẽ ở với chúng, và chúng sẽ làm dân Ngài; chính Thiên Chúa sẽ ở với chúng. Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi”.
Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc trường sinh. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống trên thiên đàng mới là cuộc sống vĩnh viễn. Cuộc sống thiên đàng có Chúa tỏ tường. Cuộc sống ấy không còn đau khổ vì chính Thiên Chúa sẽ lau khổ dòng nước mắt. Chính Thiên Chúa sẽ ban bình an, hoan lạc cho con cái của Người.
Chúa Giêsu hôm nay đã bước qua cuộc sống tạm đời này để trở về cuộc sống vĩnh cửu trên trời. Sự sống lại của Ngài là niềm hy vọng lớn lao cho kiếp người chúng ta. Từ nay chúng ta không còn lo lắng về bước đường tương lai “chết rồi đi đâu?”. Từ nay chúng ta có một con đường để đi, để tiến về quê trời. Đó là con đường Giêsu. Con đường vâng phục thiên ý Chúa Cha. Con đường yêu thương và phục vụ cứu đời.
Cuộc sống này sẽ qua đi. Nhưng cuộc sống này lại là hạt giống, là căn nguyên để hình thành sự sống mai hậu. Điều này có nghĩa là sự sống của chúng ta có vĩnh cửu ở đời sau hay không còn tủy thuộc chúng ta đã sống một cuộc đời hôm nay như thế nào? Chúng ta có là hạt lúa thì mới sinh ra cây lúa ở đời sau. Chúng ta có sự sống trong Chúa hôm nay thì mai sau chúng ta mới sống lại trong Chúa vĩnh viễn.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chọn Chúa trong cuộc đời này là cùng đích để mai sau chúng ta cũng được sống lại với Người. Amen.
17. Sống lại với Chúa
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Một hôm, Đức Giáo Hoàng Innocenté IX mời người bạn thân của mình là cha Bề Trên Tổng Quyền Dòng Tên, lúc đó là cha Laudius Aquaviva, vào phòng riêng và chỉ cho cha một cái hộp nhỏ để trên bàn làm việc của mình và nói:
– Cha biết có gì trong hộp này không? Trong đó có điều quí nhất. Cha hãy mở ra xem.
Cha Aquaviva mở hộp ra và cha rất ngạc nhiên khi nhìn thấy trong hộp một xác người nhỏ xíu nằm ngay ngắn và giống như Đức Giáo Hoàng. Cha đang phân vân không biết tại sao, thì Đức Innocenté IX tâm sự như sau:
– Này Cha, hình người chết giống như tôi nằm trong hộp đó là điều rất quí giá. Bởi vì nó gợi lại cho tôi nhớ đến lúc mình sẽ phải chết. Và mỗi lần tôi cần phải quyết định điều gì quan trọng thì sau khi đã cầu nguyện, xin ơn Chúa soi sáng, tôi vào đây, mở hộp này ra, nhớ đến giây phút tôi phải chết rồi mới quyết định. Trước mọi quyết định, tôi đều tự hỏi: “Nếu tôi phải chết ngay trong lúc này thì tôi sẽ phải quyết định như thế nào”. Chính vì thế mà chiếc hộp này rất qúy đối với tôi.
Quả thực, chiếc quan tài là dấu chỉ của sự chết. Nhìn vào chiếc quan tài con người mới thấy sự mong manh của kiếp người. Có sinh – có tử. Cuộc đời vẫn vô thường. Như bông hoa sớm nở chiều tàn. Như “bóng câu qua cửa sổ”. Khoa học dù có tiến bộ tới đâu cũng không níu kéo được thời gian và tuổi thanh xuân. Tuổi xuân xinh đẹp rồi cũng tàn theo năm tháng. Con người luôn phải chịu những khắc nghiệt của nhân sinh: Sinh – bệnh – lão – tử.
Nếu cuộc đời con người chỉ chìm đắm trong bể khổ: “sinh – bệnh – lão – tử”, thì quả thực là một mất mát trong kiếp người! Nếu cuộc đời con người phải vật vã khổ đau trong đời sống rồi tàn sức và chết đi thì cuộc sống con người là một bất hạnh! Nếu cuộc đời con người sinh ra rồi chết đi, tan biến không còn để lại gì thì cuộc đời này thật bất công cho những điều tốt chúng ta đã xây dựng, những việc lành chúng ta đã làm cho tha nhân. Nhưng là người ai trong chúng ta cũng tin có sự sống sau khi chết. Chết không phải là hết. Chết là chuyển đổi hình thức sống. sống tốt hơn, sống sung mãn hơn. Sự sống đời sau là điều phải có để trả lại lẽ công bằng cho những khuyến khuyết đời này. Đời sống đời sau phải có thì những nỗ lực vươn lên, những cố gắng sống có trách nhiệm mới làm cho những công việc đó có giá trị hạnh phúc đời này và vĩnh cửu đời sau. Niềm tin vào đời sau được thể hiện qua đời sống nơi các tôn giáo rất phong phú trên địa cầu. Có tôn giáo cho rằng chết là về miền cực lạc, về cõi bồng lai, vào niết bàn, hay đi gặp Đấng Ala…
Niềm tin ky-tô giáo mời gọi chúng ta tin vào sự phục sinh của Chúa Ky-tô. Niềm tin của sự sống lại sau cái chết. Sống lại nhưng không trở về cuộc sống dương gian. Nhưng sống lại để vào cõi phúc trường sinh, về nơi quê trời vinh hiển…
Hôm nay những người phụ nữ ra thăm mồ. Họ đã nhìn vào nấm mồ, nhưng không thấy gì. Nấm mồ trống. Nấm mồ không còn thân xác Chúa. Nấm mồ là bằng chứng nơi mai táng Giêsu hôm qua. Thế mà, hôm nay họ chỉ thấy nấm mồ trống Đây chính là bằng chứng của sự phục sinh của Chúa Giêsu. Nấm mồ hôm qua đã đậy kín bởi tảng đáng lấp mồ. Nấm mồ đã được lính gác canh giữ đề phòng các môn đệ lấy trộm xác Chúa. Nhưng hôm nay, tảng đá đã được lăn ra ngoài. Lính gác đã bỏ chạy trong đêm. Chỉ còn một ngôi mộ trống như dấu tích về sự trỗi dậy của Chúa Giêsu.
Vâng, nếu chiếc quan tài là dấu chỉ sự mong manh của kiếp người thì ngôi mộ trống là dấu chỉ cho sự sống lại của Chúa Giêsu. Chúa đã phục sinh theo như lời Người từng tiên báo: “Sau ba ngày Ta sẽ sống lại”. Chúa đã sống lại để mời gọi chúng ta tin rằng: Ngài cũng cho những ai tin vào Ngài thì đều được sống lại. Sự sống lại của Chúa Giêsu là phần thưởng của Chúa Cha dành cho Ngài vì cả đời tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa Cha. Sự sống lại của Chúa Giêsu là câu trả lời cho ý nghĩa cuộc đời này. Con người sinh ra để làm gì? Chết rồi đi đâu?
Vâng, con người sinh ra để tôn vinh Chúa. Con người luôn quy hướng về Đấng tạo thành. Con người từ tạo thiên lập địa vẫn tin có Trời, có thần thánh, có Đấng Tạo Dựng. Thế nên, đã là người đều tin có thần linh. Niềm tin Ky-tô giáo mời gọi chúng ta tin vào Thiên Chúa phải biết tôn vinh Chúa. Tôn vinh Chúa bằng đời sống lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Tôn vinh Chúa khi sống theo lẽ phải, theo tiếng nói của lương tâm là lề luật Chúa khắc ghi vào trong tâm hồn con người. Con người còn có thể tôn vinh Chúa khi hết lòng yêu mến và phục vụ tha nhân… Khi con người tôn vinh Chúa ở đời này, Chúa sẽ ân thưởng hạnh phúc Nước Trời cho những ai tôn vinh Ngài.
Xin nhờ sự Phục Sinh của Chúa, ban cho chúng ta tìm được niềm vui trong đời sống hằng ngày khi cố gắng vươn lên hoàn thiện mình, khi dấn thân phục vụ tha nhân trong tình mến Chúa yêu người thiết tha. Amen.
18. Sự nhầm lẫn
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc: “chúc mừng khai trương cơ sở mới”. Ngược lại, thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: “Thành thật chia buồn”.
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về, là quy tiên, là trờ về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: “ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?”. Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ”. Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra – lớn lên – gia nua – rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam – Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: “Ta đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đó chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.
19. Biến đổi trở thành con người mới
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng, theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước, đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi”.
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô, và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
20. Chúa Giêsu khai sinh kỷ nguyên mới
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt ngã lên té xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giêsu đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ. Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Israel.
Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Ngài ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Ngài hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng quát bảo cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe… Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người…
Đức Giêsu đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.
Thế rồi điều kỳ diệu xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, bà hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa. Bà hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các môn đệ ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh. Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giêsu đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giêsu nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.
Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy Ngài là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: “Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”
* * *
Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ phá huỷ sự sống đi. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.
Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giêsu đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Ngài đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giêsu phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giêsu đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.
Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Ngài ban tặng.
21. Chúa đã sống lại
(Trích từ ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
22. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật, Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ” mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
23. Chúa Giêsu Phục Sinh
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước,
cũng đi vào. Ông đã thấy và ông đã tin (Ga 20, 8).
Biến cố Chúa Giêsu phục sinh là một sự kiện lịch sử vĩ đại, siêu việt là căn nguyên của niềm tin Kitô giáo. Chính Ngài đã khai mở cho con người một Trời mới, một đất mới và một cuộc sống mới.
Thời sơ khai, để diễn tả Đức Giêsu (Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết nay đã sống lại và đang sống) các sách Phúc Âm đã không ngần ngại dùng những tang chứng vật chất như: Người cho động đến mình, cho xem dấu đinh, ăn uống… Ngày nay, dựa vào những hiểu biết khoa học, khoa chú giải thánh kinh đã không còn giải thích thánh kinh theo đúng với nghĩa đen của nó nữa. Nhưng điều đó không có nghĩa là gác bỏ đi sự thực hư của việc sống lại, mà là nghĩ đến ý nghĩa của việc Chúa Giêsu sống lại đối với đời sống chúng ta.
Quả thật, nếu nhìn các chứng từ trong thánh kinh như là một sự kiện lịch sử thì không thể làm thoả mãn được sự phục sinh của Chúa Giêsu, bởi ngoài sự kiện lịch sử, biến cố này còn là một biến cố đức tin. Do vậy, sự làm chứng của các Tông đồ (những người đã từng sống với Chúa Giêsu, đã từng xem Ngài là Đấng Messia, và nay lại công bố đã thấy Ngài vẫn sống sau cái chết) có cái gì đó không lịch sử và không thể lịch sử bởi chính sự phục sinh cũng như chính hành vi bước từ sự chết sang sự sống vĩnh cửu chỉ là một thực tại dành cho đức tin, vả lại các Tông đồ không thể tự đứng ra làm chứng cho hành vi này. Vậy điều chúng ta có thể cho là lịch sử chính là ngôi mộ trống và những lần hiện ra.
Ngôi mộ trống
Giá trị làm bằng chứng hiển nhiên của Ngôi Mộ trống nếu tách khỏi ngữ cảnh, tức là sự chứng kiến của các Tông đồ về những lần hiện ra thì vẫn là chi tiết khó chấp nhận, bởi việc khám phá ra ngôi mộ trống được các Phúc Âm thuật lại chẳng có vai trò bao nhiêu trong căn nguyên nảy sinh đức tin của các Tông đồ. Vả lại việc loan báo Tin Mừng thời sơ khai của các Tông đồ đã không nhắc đến cách rõ ràng về ngôi mộ trống. Thực ra, ngôi mộ trống tự mình nó không chứng minh được sự phục sinh, nhưng có lẽ đó là điều kiện cần thiết cho niềm tin của các tín hữu sơ khai ở Giêrusalem.
Những lần hiện ra
Trong Phúc Âm, các lần hiện ra của Chúa Giêsu là những bằng chứng then chốt cho biến cố Phục Sinh của Người. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu không phải là hồi sinh trở lại với cuộc sống trước kia của Người. Thân xác Người không thuộc về vũ trụ vật lý. Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cũng không phải là tiếp tục sự sống sau cái chết, nhưng là chiến thắng sự chết, và “Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm con Thiên Chúa với tất cả quyền năng ” (Rm1,4). Như vậy, những lần hiện ra cũng chính là Chúa Giêsu, nhưng với một cánh hiện hữu mới. Điều này làm cho ta có thể hiểu tại sao các Tông đồ đã không nhận ra Chúa Giêsu ngay khi Người hiện ra: cô Maria Macđala tưởng là người làm vườn cho đến khi Người gọi tên cô (Ga20,16); hai người môn đệ trên đường Emmau ngộ nhận Người là một Người lạ mặt (Lc 24,31); các môn đệ tưởng là ma (Lc 24,40)
Và như thế, những lần hiện ra của Chúa Giêsu không phải là những sự kiện hiển nhiên để các Tông đồ nhận biết rằng: người đã hiện ra với họ là chính Chúa Giêsu mà họ đã từng biết trước khi Người chết trên thập giá, rồi sau đó họ tin vào Đấng Phục Sinh là Chúa Giêsu; nhưng là một tiến trình ngược lại, đó là: họ nhận ra sự hiện diện của một người, nhưng họ không biết là ai, và từ sự nhận thấy này, họ bước sang lĩnh vực đức tin nhờ một suy nghĩ về cuộc sống trước đó của họ với Chúa Giêsu, bây giờ sáng tỏ nhờ thánh kinh mà ” người đó ” giải thích cho. Họ nhận ra kẻ đó chính là Chúa Giêsu sống động, và chính Chúa Giêsu đã chỉ lối cho họ, bắt đầu từ quá khứ của họ, hướng về tương lai bằng cách giao phó cho họ một sứ mệnh: sứ mệnh làm nên Giáo Hội.
Tóm lại:
Sự sống lại của Chúa Giêsu là tín điều sống còn của đức tin kitô giáo, nếu Ngài không sống lại thì biến cố về sự Phục Sinh của Ngài chỉ là thần thoại và kitô giáo trở thành trò lừa bịp mọi người. Các chứng cứ về sự Phục Sinh có thể làm cho họ nghi ngờ, nhưng điều gì đã làm cho các Tông đồ từ những kẻ nhút nhát, sợ sệt lại hăng say ra đi làm chứng cho sự Phục Sinh, dù phải chịu đau khổ, gian nan và cả đến sinh mạng mình?
Vâng, đó chính là vì họ đã nhận ra được Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã chịu đóng đinh, đã chết, nay thật sự đã sống lại.
Sự sống lại của Chúa Giêsu còn là nguyên nhân cho sự sống lại của con người, bởi Ngài đã đánh bại sự chết bằng chính mạng sống của mình, và đã Phục Sinh để thân xác chúng ta được sống lại: ” Người đã chết và sống lại vì chúng ta” (2Cr5,15). Hơn thế nữa, đ ức tin kitô giáo dạy rằng: ” nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Người ” ( 2Tm 2,11). Với niềm tin ấy, người kitô hữu đã tìm được câu giải đáp cho số phận tương lai của mình, và như thế, vấn nạn về sự sống lại của Chúa Giêsu không những là đáng tin mà còn là điều phải tin trong thế giới ngày nay.
Xin cho những người mang danh là kitô hữu cũng biết chết đi chính thân xác mình, tức là chết đi những hận thù, chia rẽ, ghen ghét… biết luôn tin tưởng, phó thác và sống trong niềm hoan lạc Phục Sinh của Chúa Kitô. Xin cho cuộc sống của mỗi người kitô hữu luôn là chứng nhân cho sự Phục Sinh của Ngài. Amen.
24. Chúa đã sống lại! Alleluia – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc tìm được xác ông Giêsu:
– Không ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
– Một linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
– Chuông các thánh đường im tiếng.
– Các nữ tu cởi khăn trùm đầu.
– Thánh giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
– Đèn bên những ngôi mộ bị dập tắt.
– Thế giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến, câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt lên: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc sống, bà tự nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng, nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp điều không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết. Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
25. Chúa đã sống lại
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cách đây ít lâu, một tờ báo phát hành tại Ca-li-phóc-ni-a, Hoa kỳ đứa tin như sau: có một công ty nhận làm dịch vụ ướp xác chết trong tủ lạnh để khỏi bị hư thối. Rồi với những khám phá và tiến bộ khoa học, những người chủ trương hy vọng rằng: họ có thể tìm ra nguyên nhân cái chết của xác đó, tình trạng bệnh lý của cái xác đó trước khi chết. Và trong tương lai, họ có thể điều trị chứng bệnh đã tìm thấy và làm cho cái xác ấy được sống lại và sống mãi.
Chúng ta thực sự không biết được chương trình này rồi sẽ ra sao, thành công hay không, chúng ta cứ chờ xem. Nhưng hôm nay, nói về sự sống lại của Chúa Giêsu, chúng ta không nói đến chuyện con người sẽ sống lại để tiếp tục sống mãi với cái thân xác mà người ta gọi là xác đất vật hèn này.
Vậy Chúa Giêsu sống lại là thế nào? Khi sống lại Ngài có sống với thân xác cũ không? Ngay từ thời thánh Phao-lô tông đồ, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rinh-tô, ngài cho biết đã có những người đặt ra các câu hỏi như thế. Và ngài đã khẳng định với họ rằng: thân xác phục sinh không giống như thân xác cũ trước kia, nhưng bất tử và thiêng liêng. Nghĩa là Chúa Giêsu đã sống lại trong thân xác của Ngài. Nhưng thân xác lúc sống lại hoàn toàn khác thân xác lúc còn sống trước kia. Cũng là thân xác lúc trước thật, nhưng sau khi sống lại thân xác Chúa Giêsu trở thành siêu việt, không còn bị ràng buộc bởi những cản trở vật chất nữa, không còn bị chi phối bởi những định luật của không gian và thời gian nữa, nên muốn đi lại đâu tùy ý, vượt qua tường hay vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, và biến mất liền sau đó như các sách Tin Mừng đã thuật lại. Vì thế, thánh Phaolô nói: “Ngài là Người Trời”.
Đây cũng là tình trạng của thân xác chúng ta sau này, nghĩa là sau ngày tận thế, thân xác chúng ta cũng sẽ trở nên giống thân xác của Chúa Giêsu sau khi sống lại, tức là trở nên siêu việt và linh thiêng như thế, tuy vẫn là thân xác của mình. Về điều này trí óc chúng ta không thể hiểu thấu được, vì chúng ta còn bị giới hạn trong những phạm trù của không gian và thời gian, và chúng ta chỉ có thể chấp nhận được bằng đức tin. Nhưng tin có cơ sở, có bằng chứng, đó là sự sống lại, sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại, có nghĩa là Chúa Giêsu chết trên thập giá, bây giờ vẫn đang sống. Và nếu Ngài muốn, Ngài cũng sẽ xuất hiện cho chúng ta gặp Ngài tận mắt như các tông đồ xưa. Vì thế, chúng ta tin Chúa Giêsu là chúng ta tin một người sống, một người có thể gặp được. Những vĩ nhân trên đời, những anh hùng dân tộc…sự nghiệp của họ lẫy lừng nên chúng ta khâm phục; cuộc đời họ đáng quí, nên chúng ta tưởng nhớ. Và tưởng nhớ vì họ đã chết. Đâu còn gì để gặp gỡ và đâu còn gặp gỡ nữa mà bảo tin. Còn Chúa Giêsu thì hằng sống, Ngài đang sống thực. Chúng ta tin Ngài vì chúng ta vẫn gặp Ngài.
Trải qua gần hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Chúa, là Con Thiên Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện giờ Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong thánh lễ, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành giới răn mới của Ngài.
Chúng ta hãy nhớ: ai cũng sống lại: người tội lỗi hay người công chính, người có đạo hay không có đạo…đều sống lại. Nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục…đều tùy thuộc vào cuộc sống hôm nay trên trần gian. Vì thế, cuộc sống hôm nay, tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cái giá cho cuộc sống mai sau. Cho nên chúng ta cần sống đúng người Kitô hữu đã được cứu chuộc để được sống mãi với Chúa Ki-tô.
Dưới tựa đề “Trái tim của chàng E-rôn Phơ-lin (Errol Flinn) đã quá lâm lụy”, báo Pa-ri Mát (Paris Match) cho in tấm hình của Phơ-lin, một tài tử lừng danh của Hô-ly-út (Holywood). Tấm hình chụp Phơ-lin nằm trần như nhộng trên chiếc ghế xếp, tay phải cầm ly rượu uýt-ki, tay trái đặt nhẹ trên vai một phụ nữ xinh đẹp cũng đóng khố như chàng. Bên trên tấm hình có hàng chữ sau: “Errol Flinn đã chết như khi chàng sống”. Thì ra tấm hình này, tuy chụp Phơ-lin lúc còn sống, nhưng đồng thời nó cũng ghi lại đầy đủ chi tiết cái chết của chàng. Khi bệnh tim đến kết liễu đời chàng, người ta thấy Phơ-lin giống hệt như trong tấm hình chụp lúc còn sống.
Cây nghiêng về hướng nào sẽ ngả theo hướng đó. Đời sống thế nào, cái chết sẽ thế ấy. Anh chị em tin có đời sau và chắc anh chị em cũng đồng ý với tôi: sống thế nào chết thế ấy. Thế thì chúng ta phải sống thế nào cho xứng đáng với phẩm giá con người. Hơn nữa, chúng ta còn phải cố gắng sống sao cho xứng đáng với chức vị là con Chúa nữa.
26. Chúa đã Phục Sinh – Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu đã sống lại. Ngài vẫn còn đang sống. Đó là niềm tin của các tông đồ. Đây cũng là niềm tin của tất cả Hội Thánh, của mọi Kitô hữu. Đức Giêsu đã sống lại, biến cố này làm chấn động tất cả, đặc biệt các tông đồ là những người liên hệ cụ thể với Đức Giêsu.
- Các tông đồ trước cái chết ô nhục của Đức Giêsu
Biến cố Đức Giêsu bị bắt và bị giết diễn ra quá nhanh, chỉ từ đêm thứ năm đến trưa thứ sáu, làm các tông đồ và các môn đệ bàng hoàng sửng sốt. Đức Giêsu bị giết, kéo theo tất cả các mơ ước của các tông đồ. Từ mơ ước “ngồi bên tả ngồi bên hữu” đến hoài bão xây dựng một nước Israel mới. Cái chết của Đức Giêsu đánh đổ mọi hy vọng của các tông đồ.
Bây giờ Kitô hữu biết Đức Giêsu như các tông đồ biết Đức Giêsu sau khi Ngài đã sống lại; tuy nhiên, khi Đức Giêsu còn đang sống tại thế với họ, thì các tông đồ chưa biết rõ Đức Giêsu như sau khi Ngài phục sinh. Trước khi Đức Giêsu chết và sống lại, các tông đồ cũng như đa số dân Do Thái, tin Đức Giêsu là một tiên tri, và hơn nữa, là Đấng Kitô Thiên Chúa sai tới để giải phóng dân. Đa số người Do Thái thời đó đang mong chờ Đấng Thiên Sai giải phóng họ khỏi cảnh đô hộ của người Roma. Họ mong chờ Đấng Thiên Sai (Đấng được xức dầu, Đấng Kitô) giải phóng họ, như trong quá khứ cha ông họ đã chờ đợi, cầu xin, và Thiên Chúa đã ban cho họ Môsê và các thẩm phán, để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Đức Giêsu chết, và một cái chết trần trụi ô nhục, làm các tông đồ vỡ mộng. Các tông đồ không chỉ vỡ mộng, mà còn bị khủng hoảng vì tại sao Thầy Giêsu của họ, một người tốt, một người làm nhiều dấu lạ, mà bây giờ Thiên Chúa lại bỏ Ngài, để Ngài phải chết ô nhục như vậy! Lúc Đức Giêsu còn đang sống với các tông đồ, các Ngài chưa biết Thiên Chúa là Ba Ngôi, và Đức Giêsu là Thiên Chúa Con như các Kitô hữu bây giờ. Các tông đồ buồn sầu, thất vọng, và bị khủng hoảng cả về niềm tin vào Thiên Chúa nữa.
- Các tông đồ trước sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh
Tin Đức Giêsu đã sống lại, do các chị phụ nữ mang lại, làm các tông đồ xao xuyến. Chuyện như mơ. Điều các chị phụ nữ nói làm sao tin được? Họ là phụ nữ mà. Gioan và Phêrô chạy tới mộ. Mồ trống. Cái gì đã xảy ra? Tin mừng Gioan nói: “ông thấy và ông tin” (Ga.20, 8). Gioan tin cái gì? Gioan không nói rõ về điều này. Chỉ biết rằng theo tin mừng Máccô: “Sau cùng, Người đã tỏ mình ra cho chính nhóm mười một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trổi dậy” (Mc.16, 14).
Không phải chỉ có tông đồ Thomas không tin Đức Giêsu sống lại cho dù các chị phụ nữ và các tông đồ khác đã loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho ông (Ga.20, 24-29), mà tất cả các tông đồ đều không tin Chúa phục sinh, kể cả hai môn đệ đã chán nản bỏ cuộc và đang trên đường về quê (Mc.16, 12-13). Biến cố Đức Giêsu phục sinh là biến cố rất khó tin, kể cả đối với các tông đồ, vì chẳng có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh nếu đã không được Đức Giêsu phục sinh hiện ra cho họ. Họ chỉ tin Đức Giêsu phục sinh khi họ thấy Ngài.
Trong các tin mừng có nói Đức Giêsu đã loan báo ba lần Ngài sẽ chết và sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 30-32; 10, 32-34), nhưng các tông đồ đã quên điều này khi Ngài bị giết. Tại sao họ quên? Có thể vì chuyện đó không thể tin được nên các tông đồ đã quên. Chỉ sau khi sự thực xảy ra, nghĩa là, chỉ sau khi Đức Giêsu phục sinh, mới làm các tông đồ nhớ lại các lời đó thôi. Biến cố Đức Giêsu phục sinh, là biến cố không thể tin nếu không được tận mắt thấy Ngài (như các chị phụ nữ và các tông đồ), và nếu có ai tin thì đó là một ơn vô cùng lớn: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga. 20, 29).
III. Con người trước tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh
Một số người thời các tông đồ đã cho rằng, các tông đồ trộm xác Đức Giêsu và loan tin Ngài sống lại (Mt.28, 11-15). Thế nhưng, các tông đồ đã làm chuyện đó để làm gì? Tại sao tất cả các tông đồ (trừ Gioan) đã đem chính mạng sống họ để làm chứng rằng Đức Giêsu đã phục sinh? Tại sao họ lại phải vất vả, gian khổ, và phải chết vì chuyện đó (nếu đó là gian dối thực!)?
Một số người thời đại cho rằng các tông đồ đã bị hoang tưởng tập thể. Họ đã mong Đức Giêsu sống lại, nên cứ tưởng rằng Đức Giêsu sống lại thật. Tuy nhiên, như các tin mừng làm chứng, các tông đồ đâu có dễ tin Đức Giêsu sống lại. Chẳng có ai tin Đức Giêsu sống lại, nếu không phải chính họ đã thấy Ngài. Trường hợp tông đồ Thomas giúp Kitô hữu thấy điều này rõ ràng hơn. Sự cứng lòng của Thomas lại là một lý chứng giúp các Kitô hữu vững tin vào sự kiện Đức Giêsu phục sinh.
Một số khác cho rằng, Đức Giêsu có phục sinh hay không, cũng không quan trọng. Điều quan trọng là tin mừng Phục Sinh gợi cho người ta một ý nghĩa nào đó. Đức Giêsu Phục Sinh là một biểu tượng của một đời sống mới, của sự chiến thắng. Thánh Phaolô cũng phải đương đầu với lối giải thích này, và ngài nói: “nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, … thì đức tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em…. Và nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cor.15, 12-19).
Kitô hữu là người tin Đức Giêsu sống lại thật sự, tuy dù sự sống lại của Đức Giêsu khác với sự sống lại của Ladarô (Ga.11, 1-44), của em bé (Mc.5, 21-43) được Đức Giêsu cho sống lại. Thân xác của Đức Giêsu Phục Sinh đã được biến đổi, vật chất không còn giới hạn được Ngài nữa. Thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh là thân xác thần khí. Đức Giêsu phục sinh, là biến cố vô cùng quan trọng, và giúp con người hiểu hơn về Đức Giêsu, hiểu hơn về Thiên Chúa, và hiểu hơn về chính con người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có tin Đức Giêsu đã phục sinh không? Tại sao bạn tin Ngài phục sinh?
- Tin Đức Giêsu phục sinh, bạn được lợi ích gì?
27. Ánh sáng Chúa Kitô – Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong Nghi Thức Phụng Vụ Vọng Phục Sinh, khi rước cây nến Phục Sinh đã được làm phép và thắp sáng vào trong nhà thờ, linh mục chủ tế đọc hay hát ba lần lời tung hô “Ánh Sáng Chúa Kitô” và cộng đoàn cùng hân hoan đáp lại “Tạ ơn Chúa”. Từ đó, cây nến Phục Sinh chiếm một vị trí quan trọng trên cung thánh và luôn được cung kính như biểu tượng của chính Chúa Kitô-Đấng là chính Ánh Sáng đem lại sự sống đời đời.
Ánh sáng tuyệt đối cần thiết trong đời sống tự nhiên thế nào, niềm tin vào Chúa Kitô cũng tuyệt đối cần thiết trong đời sống thiêng liêng như thế. Nhờ ánh sáng tự nhiên, mắt chúng ta mới nhận biết các sự vật xung quanh. Nhờ Chúa Kitô là Ngôi Lời Nhập Thể, với con mắt đức tin chúng ta mới nhận biết các thực tại siêu nhiên, nhất là thực tại về Thiên Chúa và về chính con người chúng ta.
Qua bao thế hệ, loài người sống trong bóng đêm do tội lỗi gây ra. Trong bóng đêm ấy, con người bị trăn trở bởi biết bao bức xúc nghi nan, bị đau đớn buồn phiền vì bao hận thù chia rẽ, bị sợ hãi lo âu bởi đủ loại bệnh tật chiến tranh và luôn bị ám ảnh bởi tử thần. Trong bóng đêm ngàn đời ấy, con người khao khát ánh sáng toàn diện để nhận biết ý nghĩa cho cuộc sống của mình, mong mỏi tìm được câu trả lời cho những khúc mắc thẳm sâu của lòng mình.
Công Đồng Vaticanô II diễn tả những bức xúc muôn thuở của con người trong Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” với những lời thật súc tích như sau: “…trước sự tiến hóa hiện nay của thế giới, càng ngày càng có nhiều người hoặc đặt vấn đề hoặc nhận thức sâu sắc mới mẻ về những vấn đề hết sức căn bản như: Con người là gì? Đâu là ý nghĩa của đau khổ, sự dữ, cái chết? Sao chúng còn tiếp tục tồn tại mặc dù đã có bao nhiêu tiến bộ? Bao chiến thắng đạt được với giá đắt ấy có ích gì? Con người có thể đem lại gì cho xã hội và có thể trông đợi gì ở xã hội? Cái gì sẽ tiếp theo sau cuộc sống trần gian này?” (#10).
Tất cả những câu hỏi và những bức xúc muôn thuở của con người như được cô đọng nơi lời than của Chúa Giêsu Chịu Đóng Đinh Thập Giá trong cơn hấp hối vào Thứ Sáu Thánh: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15:14).
Với Tin Mừng Phục Sinh, “Ánh Sáng Chúa Kitô” là câu trả lời cho tất cả!
Đó chính là điều Hội Thánh rao giảng cho mọi thời đại, như Công Đồng Vaticanô II xác định trong cùng văn kiện trên: “Giáo Hội tin rằng Chúa Kitô đã chết và sống lại cho mọi người. Vì thế qua Thánh Thần của Người, Người ban cho con người ánh sáng và sức mạnh để con người có thể đáp lại thiên chức cao cả của mình. Giáo Hội cũng tin rằng dưới bầu trời này chẳng còn danh hiệu nào khác được ban cho loài người để loài người nhờ đó mà được cứu rỗi. Cũng thế, Giáo Hội tin rằng đầu mối, trung tâm và cùng đích của toàn thể lịch sử nhân loại đều ở trong Đức Kitô là Chúa và là Thầy của Giáo Hội. Hơn nữa, Giáo Hội còn tin rằng qua mọi thay đổi, có nhiều điều vẫn không đổi thay vì nền tảng cuối cùng của những điều không thay đổi này là Chúa Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Vậy dưới ánh sáng Chúa Kitô, Hình Ảnh của Thiên Chúa vô hình, Trưởng Tử giữa mọi thọ sinh, Công Đồng muốn nói với mọi người để làm sáng tỏ mầu nhiệm về con người và để cùng nhau tìm giải đáp cho những vấn đề chính yếu của thời đại chúng ta”.
Ánh Sáng Chúa Kitô Phục Sinh cho thấy rằng chính vì không muốn bỏ rơi nhân loại trong bóng tối của tội lỗi và sự chết, nên Thiên Chúa đã muốn Chúa Giêsu phải chịu bỏ rơi và chịu chết trong đau khổ nhục nhã ngút ngàn trên thập giá, để Người sẽ sống lại trong vinh quang chiến thắng tội lỗi và sự chết hầu đem lại Ánh Sáng Đức Tin và Sự Sống Đời Đời cho nhân loại.
Ánh Sáng Chúa Kitô là Ánh Sáng Đức Tin chiến thắng tội lỗi, là Ánh Sáng Sự Sống tiêu diệt sự chết, là Ánh Sáng Tình Yêu xóa tan mọi hận thù, là Ánh Sáng Bình An xoa dịu mọi bức xúc, là Ánh Sáng Chân Lý phá tan mọi dối trá, là Ánh Sáng Toàn Thiện hủy diệt mọi gian ác, là Ánh Sáng Toàn Mỹ xóa bỏ mọi khuyết tật, là Ánh Sáng Hiệp Nhất hủy bỏ mọi chia rẽ và là Ánh Sáng của Tin Mừng làm biến tan mọi nỗi sầu khổ và làm thỏa mãn mọi ước vọng thẳm sâu nhất của cõi lòng mọi người.
Chấp nhận Ánh Sáng Chúa Kitô với lòng tin là đón nhận mọi phúc lộc cao quý tốt đẹp nhất hơn cả những gì lòng người có thể mơ tưởng và cầu xin!
Từ khước niềm tin vào Chúa Kitô là tự chọn ở lại trong bóng tối của tội lỗi ngàn đời!
Lạy Mẹ Maria là Nữ Vương Thiên Đàng, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con có được đức tin mạnh mẽ và tuyệt hảo của Mẹ, để chúng con luôn được sống trong Ánh Sáng Chúa Kitô hôm nay và mãi mãi. Amen.
28. Niềm vui Phục Sinh – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trước khi rời nghĩa trang các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ, các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62), và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đức Giêsu.
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghỉ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu”.
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”. diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh. Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
Chúa đã sống lại thật! Allêluia! Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ “thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn “tin tối đa”. Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Xin cho mỗi người Kitô hữu chúng ta biết sống niềm vui Phục Sinh một cách mạnh mẽ, để có thể làm chứng cho Chúa bằng một đời sống tốt đẹp chan hòa bình an và sức sống.
29. Nhìn với cặp mắt trong sạch
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có: có địa vị, có quyền thế, có bằng cấp, có tiền của, có sức mạnh, có tài năng … mới làm nên chuyện.Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Khi sáng tạo vũ trụ,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng không không: “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2).Thiên Chúa vẫn thích khởi đi từ cái không không để tạo dựng và tái tạo.
Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác: Ngày Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”, Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi, Gioan “đã thấy và đã tin”.
Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ và thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Tin tức hối hả đưa về khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và Gioan vội vã đi kiểm chứng sự việc. Cả hai cùng chạy ra mồ. Tốc độ khác nhau vì khả năng thể lý khác nhau. Phêrô đi vào trong mộ trước và thấy các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra mộtgóc. Người môn đệ Chúa yêu thương đến mộ trước nhưng lại vào sau. Gioan đi vào bên trong và thấy những băng vải liệm được xếp gọn gàng. Phêrô và Gioan không thấy xác Chúa trong ngôi mộ mở toang.
Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngũ. Các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say. Sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức, mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ. Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh.Họ hả hê vui sướng. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vui. Xác Đức Giêsu nằm trong mộ huyệt tối tăm, như hạt lúa mục nát trong lòng đất.
Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết. Không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác, một kẻ chết, nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ.
Phản ứng của Phêrô là thinh lặng. Ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối. Ông chưa hiểu sống lại nghĩa là gì.
Còn Gioan thì “đã thấy và đã tin”. Gioan thấy gì? Thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống. Khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm. Còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu: Ngài phải chịu nhiều đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ Lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
Trước mọi phản ứng đó, Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm. Không rình rang giữa tiếng kèn trống. Không cờ quạt giăng giăng khắp lối. Không tung hô reo hò của toàn dân.
Đức Kitô đã chiến thắng tử thần.Thân thể bằng xương bằng thịt của Người hôm nay đã được “Thần Khí Hoá”. Từ đây, Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí, vì chỉ “Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” (Ga 6,36). Các phép lạ về sự sống lại như con trai bà góa thành Naim (Lc 7,11-17), như con gái ông Giaia (Lc 8,40-56), như Lazarô (Ga 11,1-45) là hồi sinh trở về đời sống cũ. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là sống lại từ cõi chết. Người hoàn toàn chiến thắng sự chết. Người trở nên nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho nhân loại “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,24)
Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Người không mặc lấy một thân xác khác. Thân xác Phục Sinh của Người vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình, chết trên thập giá. Nay thân xác đó được biến đổi. Thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Người được Thần Khí Hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ, cũng cố đức tin, chuẩn bị tâm hồn cho các Tông đồ đón nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, các Tông đồ trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa.
Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức là trở về đời sống thanh bạch. Đó là đời sống trong sạch, ngay lành và có tinh thần nghèo khó.
Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng không ai nhận thấy được Người vì họ thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch. Sứ điệp Giới trẻ năm 2015, ĐGH Phanxicô chọn câu Tin Mừng: “Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8). Đại hội Giới trẻ TGP Sài Gòn đã chọn chủ đề “Sống Sạch”. Giới trẻ sống sạch trong Tình Bạn, sạch trong Tình Chúa, sạch trong Thân xác, sạch trong Tâm hồn.ĐGH Phanxicô kêu mời mỗi người trẻ học cách phân định điều gì có thể “làm vẩn đục” tâm hồn của mình và học cách làm cho lương tâm của mình công chính nhạy bén để có thể “nhận định ý Chúa, biết được điều gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Từ đó người trẻ thêm lòng yêu mến Chúa và dấn thân phục vụ. Thánh Gioan “Người môn đệ Đức Giêsu thương mến“ đi đến niềm tin nhờ lòng yêu mến nồng nàn. Đức Giêsu yêu mến Gioan, và Gioan cũng rất yêu mến Thầy. Gioan vẫn gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì trong cuộc khổ nạn.Chính kinh nghiệm tình yêu đối với Đức Giêsu đã làm cho Gioan tin nhận Đấng Phục Sinh khi nhìn thấy các dấu chỉ; và cũng chính kinh nghiệm này đã làm cho thánh nhân nhận ra “Hài Nhi bọc tả nằm trong máng cỏ“ là Ngôi Lời trở thành xác phàm (Ga 1,14).
Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống. Gioan nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Gioan không thấy Chúa, nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh. Dầu vậy Gioan vẫn tin. Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Phần chúng ta không thấy Chúa nhưng thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người. Chúng ta có thể thấy Chúa bằng tâm hồn khiêm nhu, bằng việc thực thi đức ái, sống phục vụ quên mình. Chúng ta có thể gặp Chúa qua nội tâm thanh thản bình an. Đó là những dấu chỉ Đấng Phục Sinh ban tặng.
Không có Phục Sinh, đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền. Cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết, nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này?
Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục Sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi thường …
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
30. Ngôi mộ là điểm khởi đầu hay là điểm cuối?
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Ngôi mộ là điểm cuối của cuộc đời?
Đối với người vô thần, thì ngôi mộ là điểm tận cùng của một kiếp người. Nơi đây vua cũng như dân, tướng cũng như quân, bậc anh hùng cũng như tên vô lại, người quyền quý cũng như kẻ cơ bần… đều phải vùi mình xuống, mục nát đi và trở thành cát bụi. Theo quan điểm nầy, ngôi mộ là điểm tận cùng của kiếp người, là dấu chấm hết cho tất cả sự nghiệp.
“Trăm năm còn có gì đâu?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. (Nguyễn Du)
Ngôi mộ là cửa đưa xuống âm ty?
Theo quan niệm của một số người khác, tuy ngôi mộ không phải là điểm tận cùng, là điểm kết thúc của kiếp người, nhưng được xem là một cánh cửa hãi hùng: cửa đưa xuống âm ty hay vào chín tầng địa ngục.
Ngôi mộ không còn là cửa tử nhưng là cửa sinh.
Bằng cuộc Vượt Qua của mình, Chúa Giêsu đã bật tung cửa mồ sống lại, đẩy lùi quyền lực sự chết đang bao trùm thế giới.
Người biến ngôi mộ là điểm cuối của đời người trở thành cửa ngõ dẫn vào cõi trường sinh; Người khiến cho cửa mồ đã từng há rộng nuốt lấy bao người xuống cõi âm ty trở thành cổng chào hân hoan tiếp đón nhân loại vào thiên quốc; Người đã biến đau thương của sự chết thành niềm hoan lạc của ngày phục sinh; biến ngày cuối của kiếp sống trần gian trở thành ngày thứ nhất trong đời sống mới!
Từ đây ngôi mộ không là cửa tử nhưng là cửa sinh, đưa muôn người vào đời sống vinh quang bất diệt.
Phục sinh với Chúa Giêsu
Để cho ngôi mộ không còn là điểm tận cùng bi đát nhưng trở thành ngõ vào cuộc sống vinh quang thì trước hết chúng ta hãy gắn bó với Chúa Giêsu như chi thể liên kết với thân mình và vững tin vào Người như lời Người mời gọi: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Hễ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. (Ga 11, 25)
Vậy thì cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy giã từ ngôi mộ giam nhốt chúng ta lâu nay trong tội lỗi. Cùng với Đức Giêsu Kitô, chúng ta hãy cởi bỏ những giây băng, những khăn trùm đầu, những tấm vải liệm ràng buộc gò bó chúng ta bấy lâu nay để vùng đứng lên bước vào đời sống mới. Cụ thể là chúng ta hãy từ bỏ những đam mê tội lỗi vốn trói buộc chúng ta và làm cho đời sống tâm linh chúng ta giẫy chết.
Chúa Giêsu là Đầu của chúng ta đã khải hoàn bước vào thiên quốc, là thân mình của Người, chúng ta chắc chắn sẽ được cùng Người tiến vào cõi vinh quang bất diệt.
Vậy ngay hôm nay, chúng ta hãy bắt đầu ngày thứ nhất của cuộc đời mới với Chúa Giêsu bằng tiếng reo alleluia và với niềm vui tràn ngập tâm hồn.
31. Ngày thứ nhất – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Phúc âm của thánh Gioan viết là ‘ngày đầu tuần’ và thánh Matthêô, Marcô và Luca gọi là ‘ngày thứ nhất trong tuần’, từ sáng sớm khi trời còn tối thì các bà ra thăm mộ và thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ. Ngôi mộ trống. Xác Chúa Giêsu không còn ở đó. Được báo tin, ông Phêrô và Gioan cùng chạy ra xem. Các ông chỉ thấy những khăn liệm và những giây băng còn lại đó. Đây là sự kiện nền tảng đã làm thay đổi tất cả. Một sự kiện chưa bao giờ xảy ra. Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Sự kiện mồ trống và việc Chúa Giêsu hiện ra với nhiều người đã mở ra một kỷ nguyên mới của Nước Trời. Khởi đầu là ngày thứ nhất trong tuần, không còn theo ấn định ngày Sabát của Đạo Do-thái. Nước Trời không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Chúa Giêsu đã mở một biên cương ngang qua ngưỡng cửa của sự chết tới sự sống lại.
Ánh sáng thật đã dọi chiếu vào thế gian. Chúa Giêsu đã phá tan bóng tối của sự chết và mở đường dẫn vào sự sống thật. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự sống được trao ban cho mọi loài, nhất là con người. Sự sống không bị tiêu diệt nhưng sự sống được thăng hoa. Sự sống cụ thể sẽ dẫn đến một sự sống tinh tuyền. Chúa Giêsu đã phán dậy: Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời (Mt 22,30). Sự sống đời đời vì Thiên Chúa là tác giả của sự sống. Thiên Chúa là Chúa của các kẻ sống. Thiên Chúa không tạo dựng con người để rồi bị tiêu diệt về hư vô. Đây chính là niềm hy vọng sự sống lại của chúng ta. Trong khi đối thoại với nhóm Sađucêo, họ không tin có sự sống lại, Chúa Giêsu đã trưng câu Kinh Thánh: Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống.” (Mt 22,32)
Mỗi người chúng ta chỉ có kinh nghiệm về sự sống trong vật thể hay thân xác. Sự sống của thực vật, động vật và con người. Sự sống có nhiều cấp bậc, từ đơn sơ cho đến phức tạp. Điều kiện quan trọng nhất của sự sống là cần có nước, khí thở và của ăn nuôi dưỡng. Thiên Chúa đã quan phòng đặt để tất cả mọi điều kiện sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa phán: “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” (Stk 1,20). Sự sống liên kết với vật chất và thể xác làm cho một vật sống. Sống là có sự chuyển động tự bên trong ra bên ngoài. Tiên tri Êdêkiel diễn tả: Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống (Êdêkiel 47,9).
Quan sát tất cả các loại thảo mộc từ những sợi rong rêu bé tí cho tới những cây cổ thụ già cỗi, đều có sự sống luân chuyển hấp thụ dưỡng nuôi. Thực vật có sinh, có phát triển và có chết. Các loài động vật cũng thế, từ những siêu vi khuẩn nhỏ li ti cho tới những con khủng long vĩ đại, đều có sự sống tiềm ẩn và nẩy sinh trong cơ thể. Mỗi loài thực vật cũng như động vật đều có sự truyền sinh riêng biệt. Sự sống nào cũng cần có sinh trưởng như hấp thụ, ăn uống, phát triển, già nua và diệt vong. Thiên Chúa tác tạo loài người có xác, có hồn và có khả năng phát triển không ngừng. Thiên Chúa trực tiếp tạo dựng con người và ban sự sống: Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (Stk 2,7). Chúng ta không thể hiểu về mầu nhiệm sự sống. Chúng ta chỉ biết chiêm ngưỡng và cảm nghiệm sống.
Sự sống trao ban sự sống. Khi sự sống đã khởi đầu dù chỉ trong trứng nước là đã đi vào hiện hữu. Mỗi một sự sống là một qùa tặng vô giá của Thượng Đế. Con người không làm ra được sự sống nhưng chỉ nhận lãnh. Ngày nay con người dùng khoa học tân tiến để chiếm đoạt bản quyền của Đấng ban sự sống. Họ muốn ghép tạo ra sự sống theo ý họ. Con người đi tìm đủ mọi cách tiêu diệt sự sống tự nhiên để chuyển hoán qua sự sống nhân tạo. Chính con người đã toa rập giết chết Đấng trung gian sự sống. Tác giả sách Tông Đồ Công Vụ đã viết: Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng (Tđcv 3,15).
Chúa Giêsu là chính nguồn ban sự sống. Mỗi người chúng ta đều được chia sẻ sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Sự sống nối dài từ đời này qua đời kia. Sự sống được chuyển đổi chứ không mất đi. Đức Giêsu phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11,25). Sự sống lại thật không còn tùy thuộc thân xác như cần ăn uống, hít thở mà là giống như các thiên thần. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết và mang lại sự sống thật cho những kẻ đặt niềm tin nơi Chúa. Sự sống của chúng ta được ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20,36).
Chúa Giêsu đã trút hơi thở trên thánh giá. Chúa đã từ giã cõi trần. Chấm dứt sự sống nơi thân xác. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở (Lc 23,46). Sự sống tạm cần phải thoát ly khỏi thân xác hay hư nát. Như hạt giống bị chôn vùi và tan rữa để sinh ra mầm sống. Chúa Kitô giã từ thân xác mà Ngài đã mặc lấy để trở thành con người. Chúa Giêsu đã hoàn tất sứ mệnh cứu độ trên thập giá. Chúa luôn mở rộng cánh cửa Nước Trời mời gọi mọi người bước vào. Nhận lãnh ơn cứu độ là trách nhiệm riêng của mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể chấp nhận hay từ chối ơn cứu độ. Chúa không ép buộc chúng ta nhưng Chúa ban đủ ân sủng để giúp chúng ta thắng đạt.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3,17). Ơn cứu độ phổ quát cho mọi người. Ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Tin vào Chúa, có nghĩa là phải sống và thực hành lời Chúa dậy. Đức tin không có việc làm là đức tin mơ hồ, trừu tượng và lý thuyết. Chúng ta tin vào một Thiên Chúa yêu thương sống động. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38). Vũ trụ chuyển động, mọi sự sinh động và tất cả sinh linh đều đang sống trong sự quan phòng của Chúa. Thiên Chúa hằng hiện hữu và làm việc luôn. Thánh Gioan ghi rằng: Đức Giêsu đáp lại, “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 5,17).
Chúa Kitô đã sống lại từ cõi chết, là hoa qủa đầu mùa của những kẻ an giấc. Thánh Phaolô viết: Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu (1Cr 15,20). Chúa Giêsu mở đường sự sống và đem lại cho chúng ta niềm hy vọng viên mãn. Chúng ta biết rằng vật chất thì thay đổi, tan biến và hư nát. Mọi vật hiện hữu trên trần thế rồi lại trở về hư vô cát bụi. Chỉ có Thần khí mới ban sự sống: Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống (Ga 6,63). Chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa Giêsu Kitô. Ngài là Alpha và Ômega, là khởi điểm và là cùng đích. Mọi sự đều phải qui thuộc về Ngài. Hy vọng sau cuộc đời lữ hành dương thế, chúng ta sẽ được chung hưởng hạnh phúc viên mãn với Ngài. Alleluia!
32. Bài giảng lễ Vọng Phục Sinh
(Bài giảng của ĐGM Giuse Nguyễn Năng – Lm Phêrô Nguyễn Hồng Phúc ghi)
Anh chị em thân mến!
Đêm Chúa Phục Sinh, chúng ta ca hát Halleluia! Và Hội Thánh mời gọi chúng ta hãy vui lên, bởi vì Chúa đã sống lại. Nhưng phải nói rằng, chúng ta rất khó cảm nhận được niềm vui của Mùa Phục Sinh, của Đêm Vọng Phục Sinh này. Khi anh chị em mừng lễ Giáng Sinh, chúng ta cảm nhận niềm vui ấy dễ dàng. Vì ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự sinh ra. Cha mẹ sinh ra con cái và người con được chào đời. Đó là niềm vui cho gia đình, cho xã hội, cho tất cả loài người. Trong Đêm Giáng Sinh, chúng ta cảm thấy mình vui một cách rất tự nhiên. Với Đêm Vọng Phục Sinh hôm nay thì chúng ta lại không có cảm nhận ấy. Phải nói rằng, cái cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh này, cái cảm nhận đầu tiên không phải là cảm nhận vui mừng mà là cảm nhận của một nỗi sợ hãi.
Bài Tin Mừng năm nay là Phụng vụ năm B theo thánh Macco (Mc 16, 1-7). Thánh Macco thuật lại câu chuyện về những người phụ nữ vào buổi sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, mang theo bình dầu thơm ra xức dầu cho Chúa, bởi vì chiều hôm qua Chúa chết vào giờ muộn quá, không kịp xức dầu thơm để ướp xác Chúa. Cho nên sáng ngày thứ nhất trong tuần, các bà mới vội vã ra đi, và khi các bà ra tới tận mộ thì các bà đã cảm nhận được điều gì đó. Chỉ trong 8 câu Tin Mừng, mà thánh Macco đã nhắc đi nhắc lại sự sợ hãi rất nhiều lần. Như là các bà ra mộ, nhìn thấy dấu chỉ của Thiên Thần đến loan tin Chúa đã sống lại, Chúa không còn ở trong mộ nữa. Thiên Thần trấn an: “Các bà đừng sợ! Bởi vì Chúa đã sống lại rồi”. Sau khi nhận được lời từ Thiên Thần nhắn với các tông đồ đến Galile và Chúa sẽ gặp các ông ở đấy thì các bà vội vàng chạy về. Vừa đi vừa run lẩy bẩy, kinh hoàng hết hồn hết vía. Những người phụ nữ đi mà không dám nói với ai điều gì. Bởi vì các bà sợ. Thánh Macco đã nói với chúng ta như vậy.
Cho nên, kinh nghiệm và cảm nhận về Đêm Vọng Phục Sinh không phải là niềm vui, mà là sự sợ hãi. Tại sao lại sợ hãi? Sợ hãi là bởi vì, ở đây, con người đang đứng trước sự can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa. Người ta sợ vì nhiều lý do. Nỗi sợ tự nhiên, đó là con người đứng trước thiên nhiên, sóng cao biển cả, bão táp thì con người thấy mình nhỏ bé quá, con người bất lực nên con người sợ. Con người sợ vì mặc cảm tội lỗi, vì những việc làm xấu, sợ tiếng lương tâm oán trách, sợ Thiên Chúa phạt. Nhưng vẫn còn nỗi sợ khác, nỗi sợ của sự thánh thiện. Nỗi sợ khi mà mình đối diện với quyền năng của Thiên Chúa. Nỗi sợ khi mà đối diện với sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong lịch sử của nhân loại. Điều ấy đã xảy ra trong Đêm Vọng Phục Sinh này.
Trong Đêm Vọng Phục Sinh, những người phụ nữ sợ sự can thiệp của Thiên Chúa vào trong nhân loại. Chúa Giêsu đã chết, Ngài đã đi vào qui luật bình thường của con người, đó là có sinh có tử. Nhưng cho tới ngày hôm nay, dòng nhân quả, một diễn tiến tự nhiên của dòng đời đã bị cắt đứt, vì hôm nay, chính Thiên Chúa can thiệp và Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu trỗi dậy từ trong cõi chết. Đứng trước mầu nhiệm cao cả này, những người phụ nữ đã sợ. Chính cái cảm nhận sợ hãi này, là bằng chứng, cho dù không đủ, nhưng là bằng chứng rất mạnh cho thấy sự can thiệp của Thiên Chúa để Chúa Giêsu sống lại. Khi Chúa Giêsu sống lại thì Chúa đã chiến thắng sự chết. Chúa đã chiến thắng đau khổ, tội lỗi và hận thù!
Trong những ngày vừa qua, chúng ta đã suy niệm về những mầu nhiệm Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể và Chúa Giêsu hiến mình trên cây Thánh Giá. Chúng ta nói rằng, Chúa Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc sống mới, một qui luật sống mới. Đó là qui luật của sự quên mình để sống cho người khác, để phục vụ cho anh chị em của mình. Tuy nhiên, tình yêu ấy đã bị phản bội, tình yêu ấy đã bị kết án. Nhưng nếu chỉ có vậy mà thôi thì không ai dại gì mà yêu thương, không ai dại gì mà hiến mình thay cho người khác. Nhưng hôm nay, chúng ta thấy câu trả lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với chúng ta rằng: Những ai yêu thương, người ấy không bao giờ phải thất vọng. Thiên Chúa muốn khẳng định với chúng ta rằng: Thiên Chúa chiến thắng sự chết. Thiên Chúa là tình yêu đã chiến thắng hận thù. Chúa Giêsu mở đường cho chúng ta đi và ai đi theo Chúa Giêsu thì người ấy không bao giờ phải thất vọng. Đó là lời quả quyết, mạnh mẽ mà Thiên Chúa muốn nói với chúng ta trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới, mà người ta gọi là, thế giới của nền văn minh sự chết. Người ta sống trong hận thù, trong chiến tranh, trong bạo lực, có thể chém giết nhau bất cứ lúc nào. Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy dẫy những sự ích kỷ, những tham nhũng, những bóc lột, những chèn ép và cạm bẫy xảy ra hàng ngày trong xã hội và trên thế giới. Chúng ta đang sống trong xã hội mà người ta chỉ biết hưởng thụ, hay đi tìm khoái lạc. Một xã hội tội lỗi của cá nhân, tội lỗi của thế giới, tội lỗi của toàn thể nhân loại. Xã hội này, thế giới này, nhân loại này cứ theo qui luật bình thường như vậy thì chắc chắn sẽ đi tới tận diệt. Cuối cùng sẽ là cái chết. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng, cũng như dân Do Thái ngày xưa (x. Xh 14,15.15,1a), khi phía trước là biển cả, sau lưng là quân đội Ai Cập, họ cảm thấy cái chết gần kề, cảm thấy cùng đường, cảm thấy bế tắc, cảm thấy thất vọng. Nhưng chính trong sự thất vọng ấy thì Thiên Chúa đã can thiệp, đã mở đường cho dân Do Thái đi qua biển Đỏ. Đó là sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh báo trước cho sự can thiệp vĩ đại hơn nữa. Thiên Chúa đã mở đường cho chúng ta đi, Chúa Giêsu đã chết nhưng đã sống lại, cũng như ngày xưa, Thiên Chúa đã dẫn đường cho dân Do Thái đi thì hôm nay Chúa Giêsu cũng dẫn đường cho chúng ta đi. Và nếu chúng ta đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ tìm thấy niềm hy vọng, giữa một thế giới đầy chết chóc và tăm tốinày. Chúng ta hãy để cho Chúa dẫn mình đi, chúng ta hãy để cho Chúa thực hiện công trình, quyền năng của Người nơi cuộc đời chúng ta. Là những Kitô hữu, chúng ta phải là sứ giả của niềm hy vọng. Niềm hy vọng không phải ở nơi tiền bạc, nơi của cải vật chất. Niềm hy vọng không phải là sức mạnh của quân đội, chính trị, nhưng là niềm hy vọng của sự thật và tình yêu. Chúng ta tin vào Chúa, chúng ta hãy đi theo Chúa.
Hôm nay, Chúa Giê su đã sống lại, Chúa mở đường cho chúng ta đi. Chúa mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy. Trong Đêm Vọng Phục Sinh, chúng ta nhìn ngắm cây nến Phục Sinh. Đó là biểu tưởng hết sức ý nghĩa. Thế giới tăm tối này, nếu không có ánh sáng của Chúa thì vẫn chìm ngập trong bóng đêm, vẫn là tăm tối, vẫn là tội lỗi, vẫn là chết chóc. Nhưng ánh sáng của Chúa đã thắp lên để chiếu soi thế giới, chiếu soi cuộc đời của mỗi người chúng ta. Anh chị em hãy nhìn lên ánh sáng của Chúa Giêsu để mà tiến bước. Ánh sáng này, ánh sáng của chân lý, ánh sáng của tình thương Phúc Âm, luôn luôn bị những cơn lốc, những cơn gió của tội lỗi tìm cách làm tắt đi. Cơn gió của trào lưu tục hóa, luôn luôn muốn thổi mạnh lên thành bão táp để làm tắt ngúm cây nến Phục Sinh, là Lời Chúa, là tình thương của Chúa. Thánh Gioan lại khẳng định, bóng tối tìm cách trấn áp ánh sáng nhưng mà không bao giờ lại có thể làm tắt được ánh sáng của Chúa Giêsu. Ánh sáng của Chúa, một khi đã được đốt lên thì chúng ta cứ tin tưởng mà bước theo Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại, đó là lời bảo đảm cho chúng ta rằng Ánh sáng của Chúa Giêsu sẽ còn mãi.
Khi Chúa Giêsu sống lại, Chúa đã đưa chúng ta sang bờ bên kia của biển Đỏ. Chúa Giêsu dẫn đưa chúng ta từ cõi chết tới cõi sống. Chúa Giê su đã đặt thế giới này trong tình trạng “bất khả hồi”, không bao giờ có thể chịu thua quyền lực của sự chết. Như thánh Phaolô nói: “Chúng ta đã được cùng chết với Chúa và cùng sống lại với Chúa qua bí tích Rửa tội”( x. Cl 2,12). Chúng ta ngồi đây, theo qui luật tự nhiên, chúng ta sẽ phải chết. Nhưng trên nguyên tắc, nhờ Bí tích Rửa tội, tất cả chúng ta đang ngồi đây, chúng ta đã có sự sống lại của Chúa Giêsu rồi. Đức Kitô Phục Sinh đang ở trong chúng ta. Thần Khí của Thiên Chúa là chính Chúa Thánh Thần đang ở trong chúng ta. Chúng ta được đưa vào thế giới của sự sống, thế giới của ánh sáng. Hãy giữ lấy ngọn nến mà anh chị em đã thắp lên ở trong tay của mình, ngọn nến của linh hồn. Chúng ta hãy để cho Tin Mừng của Chúa chiếu soi chúng ta, và cho dù chúng ta có phải chết về phần xác, nhưng đừng để tâm hồn của chúng ta chết trong tội lỗi.
Anh chị em thân mến!
Anh chị em hãy luôn luôn giữ ngọn nến linh hồn mình để trở thành sứ giả của niềm hy vọng. Anh chị em hãy công bố cho mọi người biết khi chúng ta theo Chúa thì chúng ta sẽ được sống. Anh chị em hãy gieo rắc niềm hy vọng trong cuộc đời đầy tăm tối, đầy lo âu, đầy hận thù, chết chóc, đầy những ích kỷ của thế giới này. Chúng ta phải sáng lên niềm hy vọng nơi chân lý Phúc Âm. Chúa Giêsu đã sống lại, chúng ta hãy hát mừng, mà chỉ có người nào thực sự cảm nhận niềm vui ấy, mới có thể hát lên “Halleluia!”. Cho nên từ cảm nhận nỗi sợ hãi, chúng ta tiến tới niềm vui và cảm nhận niềm vui mừng, bởi vì Chúa đã sống lại!
Trong niềm vui Chúa đã sống lại, tôi xin chúc mừng niềm vui tới tất cả mọi người, xin cho ngọn nến Phục Sinh này cháy sáng mãi trong cuộc đời của anh chị em. Xin niềm vui và bình an của Đức Kitô Phục Sinh ở lại mãi với tất cả mọi người chúng ta. Amen.
33. Niềm hy vọng
Bản tin trên Internet ngày 23-3-1998 có ghi: “Nạn tự tử tại Nhật Bản đạt tới mức kỷ lục. Các giới Nhật Bản cho biết mức độ tự tử trong nước tăng đến mức báo động. Trong mười tháng của năm 1998, hơn 27.000 người tự sát. Hầu hết những người tự tử là các nhà quản lý hay doanh nghiệp, do ảnh hưởng tình trạng suy thoái kinh tế trong nước Nhật kéo dài”. Và báo Công giáo và Dân tộc số 1296 năm 2001: ở An Độ đã có nhiều nông dân tự tử vì cảm thấy không còn lối thoát nào khác, khi giá nông sản giảm sút trầm trọng. Năm 2003 vừa qua có 120 người tự tử tại bang Pradesh và ở các bang khác cũng có những người tự tử tương tự.
Không chỉ riêng những nhà doanh nghiệp Nhật Bản, và các người nông dân An Độ mà còn nhiều người khác nữa, khi họ đặt mục tiêu của cuộc đời là sống thành công, thành công trong học hành, trong gia đình, trong việc làm và thành công ngoài xã hội. Họ bỏ mọi công lao, sức lực, tài trí để mong đạt được ước mơ này. Nhưng khi kỳ vọng đó gặp trở ngại, thất bại, họ cảm thấy chán nản, đau buồn vô vọng và tìm cách quyên sinh.
Đối với các môn đệ Đức Giêsu, biến cố ngày thứ sáu đã làm cho dự tính tương lai của các ông tan thành mây khói. Bao nhiêu hy vọng đã bị chôn vùi trong ngôi mộ cùng với thân xác Đức Giêsu. Ngôi mộ biểu hiện cho sự thất bại hoàn toàn. Tâm trạng các môn đệ cũng giống như tâm trạng của những người nông dân An Độ hay những thương gia Nhật Bản, cũng đau khổ thất vọng, tương lai xán lạn nay đã bị chôn vùi. Không những thế các môn đệ còn lo sợ, lo sợ bị truy lùng bởi hàng lãnh đạo Do thái. Họ đã giết Thầy, thì coi chừng môn đệ họ cũng không tha. Vì thế các ông phải trốn tránh.
Nhưng, khi nghe bà Maria Madalena báo tin: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết để Người ở đâu?”, thì tâm trạng của các ông lại biến đổi ngược lại, theo lẽ bình thường, khi nghe báo tin người ta đem xác Chúa đi đâu mất, thì sự sợ hãi của các ông càng tăng lên gấp bội. Nhưng ở đây, hai ông lại thoát khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Các ông rời bỏ nơi ẩn nấp, vội vã chạy đến mộ. Trong sự vội vã và náo nức ấy, chúng ta thấy có một cái dấu hiệu gì đó, một dấu hiệu hy vọng loé lên, các ông đang hướng về một niềm hy vọng, niềm hy vọng này còn mơ hồ, nghi ngại, nhưng các ông vẫn chạy. Dù các ông đã biết xác Chúa không còn trong mộ nữa, nhưng họ vẫn chạy ra mộ, ra mộ không phải để thấy xác Chúa, mà họ hy vọng một tương lai, và để rồi chính nơi đây niềm hy vọng đã loé lên trong họ bây giờ được bừng sáng.
Thế nhưng, các ông đã thấy điều gì? Đã thấy Thầy mình chăng? Không! Các ông không thấy gì ngoài ngôi mộ trống rỗng với tảng đá lớn đã bị đẩy sang một bên, và những khăn liệm bên trong. Thánh Gioan cho chúng ta thấy Phêrô là người đầu tiên đi vào trong mộ. Ông thấy băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Nhưng không nói Phêrô có nhận ra dấu chỉ hay không? Phúc âm thánh Luca tường thuật lại rằng Phêrô chứng kiến ngôi mộ trống, nhưng trở về nhà “rất đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết”. Còn Gioan, người môn đệ Đức Giêsu thương mến, ông cũng bước vào, ông đã thấy. Ông thấy cái gì? Ông cũng chỉ thấy những điều Phêrô đã thấy mà thôi. Nhưng ông đã nhận ra, nhận ra sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Nếu như xác bị ăn trộm, thì kẻ trộm đâu có thời giờ để gỡ vải liệm, và khăn cuốn đầu được cuộn lại và đặt đúng chỗ, bên trong băng vải? Như vậy không có bàn tay bên ngoài tham dự vào. Chỉ một mình Gioan, với tâm hồn nhạy cảm, ông đã nhận ra Thầy mình hiện đang ở đâu qua ngôi mộ trống. Chúng ta tự hỏi chỉ qua ngôi mộ trống mà Gioan xác tín Đức Giêsu đã Phục sinh? Thì xem ra niềm tin của Gioan không vững chắc, vì với một dấu chỉ mơ hồ là ngôi mộ trống mà ông đã tin: thật ra ông tin không phải dựa vào ngôi mộ, mà qua ngôi mộ và cách sắp xếp trong ngôi mộ, ông đã nhận ra Lời Chúa dạy dỗ các ông đã được ứng nghiệm: “Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Trong cuộc sống của chúng ta có biết bao dấu chỉ, thế nhưng chúng ta có hiểu được, có đọc được ý nghĩa của dấu chỉ đó hay không? Một cử chỉ, một lời nói, một sự vật… là những dấu chỉ còn hàm hồ, ẩn chứa bí mật! Chúng ta cần được giải thích: sự việc đó muốn nói gì? Cử chỉ đó hiểu như thế nào? Đó là một điều khó đối với chúng ta. Nhưng nếu chúng ta để cho Lời của Chúa soi sáng, để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, chúng ta sẽ hiểu được các biến cố đó.
Biến cố Phục sinh làm biến đổi hoàn toàn đời sống các môn đệ. Đời của họ đã giở sang một trang mới, mà không một khó khăn nào cản trở được niềm tin vào Đức Kitô, tin rằng sẽ được hưởng phúc vinh quang với Ngài, cho dù bao nhiêu lần bị đói khát, đánh đòn, tù đày… Nếu sự Phục sinh của Chúa Giêsu thật cần thiết cho các môn đệ, thì sự Phục sinh cũng thật cần thiết cho cuộc sống hôm nay của nhân loại, một cuộc sống còn nhiều khó khăn, đau khổ, chết chóc… Những lúc đó, chúng ta cần phải có sự nhạy cảm như Gioan, nhận ra Đấng Phục sinh, Đấng của niềm hy vọng. Người đã Phục sinh để khai mở một thế giới mới, một thế giới của công bình và bác ái, hoan lạc và bình an, khai mở một nhân loại mới, trong đó mọi người là anh em. Khi khai mở một thế giới mới, một nhân loại mới, Người đã cống hiến cho chúng ta một tương lai có khả năng lấp đầy những khát vọng sâu xa chất chứa trong lòng con người, khát vọng vốn làm nên biết bao dự phóng đời người.
Thế nhưng, trong đời sống nhiều khi chúng ta còn gặp biết bao nhiêu khó khăn, thử thách: trong công việc làm ăn, chúng ta cố gắng làm ăn lương thiện, nhưng vẫn thất bại, trì trệ không phát triển được; rồi bao nhiêu cố gắng trong việc giáo dục con cái, thế nhưng vẫn không thành công, cũng như nhiều lần bị hiểu lầm, bị lừa gạt làm cho chúng ta đánh mất đi niềm tin trong cuộc sống. Những lúc đó chúng ta có còn nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, có còn dám tin tưởng và đặt hy vọng vào Đức Kitô hay không? Và nếu như một khi nhìn ra sự hiện diện và nghe được lời mời gọi của Đấng Phục sinh, đặc biệt là những biến cố đau thương, chúng ta có khả năng biến cuộc sống thành lời hy vọng hay không?
Như vậy, hy vọng của chúng ta, không phải là những thành công, những lợi lộc, tiếng tăm… ở trần gian này, vì chúng ta biết rằng đây chỉ là điều tạm thời, chóng qua, không có giá trị lâu bền, nó không làm cho tâm hồn chúng ta hạnh phúc được và khi chết chúng ta cũng chẳng mang đi được. Hy vọng của chúng ta chính là Đức Kitô, là Đấng đang sống, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha và đang cầu bầu cho chúng ta.
Trong niềm vui của ngày Chúa Phục sinh, chúng ta xin Chúa Kitô ban cho chúng ta nguồn hy vọng để biết nhìn thấy quyền năng sống lại của Thiên Chúa trong các cơn thử thách. Xin Ngài lăn tảng đá che lấp hy vọng ra khỏi cuộc đời chúng ta. Để rồi mỗi người chúng ta trở nên chứng nhân hy vọng, là dấu chỉ, là ánh sáng phục sinh chiếu toả cho những anh chị em đang sống trong sự thất vọng.
34. Niềm tin
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”, đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng cái chết treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì “chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó, thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ: từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi loan báo và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm, không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới của Ngài.
35. Trở nên tạo vật mới – Lm. Minh Vận
Giáo Hội Đông Phương có một tục lệ rất hay và có nhiều ý nghĩa trong ngày mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh. Sau khi việc cử hành các nghi lễ phụng vụ được hoàn tất, người ta phân phát trứng đã làm phép cho mọi người đang tham dự Thánh Lễ trong Thánh Đường, để chỉ rằng, tất cả đều được thông phần trong muôn phúc lành của Chúa trong ngày Đại Lễ. Sau đó người ta chúc mừng nhau và đập trứng. Khi đập trứng, người này xướng: “Chúa Kitô đã sống lại”. Người kia đáp lại: “Người đã sống lại thật”.
Đập bể trái trứng, gà con chui ra, tượng trưng sự mở cửa mồ của Chúa Kitô, để Người bước ra. Cái trứng cũng chỉ sự sống mới, vì trong cái trứng chứa đựng một mầm sống của con gà con. Khi gà con nở ra khỏi trứng, xuất hiện một tạo vật mới.
Chúa Kitô sống lại, bước ra khỏi mồ cũng có một sự kiện tương tự như thế. Vì Chúa Kitô thực sự đã chịu tử hình và nay Ngài đã phục sinh vinh quang trước nhiều nhân chứng; cũng như cái trứng dường như là một vật chết trước khi nó phát sinh sự sống mới.
- NIỀM TIN MẦU NHIỆM CHÚA PHỤC SINH
Qua bốn mươi ngày chay tịnh sám hối chuẩn bị tâm hồn; nhất là trong Tam Nhật Thánh, chúng ta đã diễn lại Thiên Tình Sử đẫm máu của Chúa Cứu Thế, để tưởng niệm mầu nhiệm tình Chúa yêu thương nhân loại. Giờ đây, trong Đêm Cực Thánh này, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ, cử hành đêm canh thức với tất cả tâm tình sốt mến của Mẹ Chí Thánh Chúa và các Tông Đồ của Người đang trông đợi vào lời tiên báo “Chúa sẽ phục sinh”. Nay đã được thực hiện, bằng tất cả niềm tin kính sùng mộ.
Chúng ta hân hoan long trọng mừng Đại Lễ Chúa Phục Sinh, là chúng ta mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cõi chết để bước vào nguồn sống mới bất diệt. Chúng ta mừng kính cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên kẻ thù nghịch, là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi và quyền lực hỏa ngục, để đạt tới cuộc khải hoàn vinh quang vĩnh cửu.
Quả thật, Chúa Kitô đã phục sinh, sự kiện lịch sử này đã được các sử gia đáng tin cậy minh xác, không ai có thể chối cãi được. Cả bốn Thánh Ký đã ghi chép rõ ràng trong Tin Mừng và sách Tông Đồ Công Vụ, bằng những chứng tích xác thực, đã được các chứng nhân thế giá, từng được diễm phúc chung sống với Chúa. Như Thánh Phêrô đã quả quyết: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những sự việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết, khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã cùng được ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại” (Act 10:39-4). Chính Chúa đã tỏ mình cho bà Maria Madalena khi bà tới thăm mồ vào tảng sáng, Người cũng hiện đến với các Tông Đồ trong Nhà Tiệc Ly và trên bờ biển Teberia, với hai môn đệ trên đường đi làng Emau. Đặc biệt, Người còn hiện đến với đông đủ các Tông Đồ đang hội họp trong Nhà Tiệc Ly lúc cửa vẫn đóng kín và phán với các ông: “Bình an cho các con!”. Rồi Người còn phán bảo riêng với Tôma, kẻ đã không tin vào lời các Tông Đồ khác thuật lại việc Chúa hiện đến với các ông, khi Tôma vắng mặt: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin”. Bấy giờ Tôma mới sửng sốt và sung sướng kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lậy Thiên Chúa của tôi!”. Chúa Giêsu đáp lại: “Hỡi Tôma, vì con đã trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai đã không thấy mà vẫn vững lòng tin” (Jn 20:26-29).
Tất cả chúng ta là những con cái đã được Chúa yêu thương chúc phúc, vì chúng ta đã không thấy mà chúng ta vẫn vững lòng tin vào lời các Tông Đồ và Hội Thánh truyền dạy.
- HẠNH PHÚC ƠN LÀM CON THIÊN CHÚA
Cũng trong Đêm Cực Thánh này, Giáo Hội muốn chúng ta tưởng nhớ lại hồng phúc chúng ta được làm con Thiên Chúa, nhờ công nghiệp cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô, bằng việc truyền dạy chúng ta ôn lại những lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
Trong ngày đó, chúng ta đã long trọng tuyên thệ: Từ bỏ tội lỗi để được sống sự tự do của con cái Thiên Chúa; từ bỏ mọi quyến rũ của tội lỗi để khỏi bị ách tội lỗi chế ngự; từ bỏ Satan là kẻ cầm đầu mọi tội lỗi. Đồng thời, chúng ta tuyên xưng niềm tin kính Thiên Chúa là Cha chúng ta và Đức Giêsu Kitô Con Chúa, sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria và đã sống lại từ cõi chết, đang ngự bên hữu Chúa Cha; tin kính Chúa Thánh Thần, tin Giáo Hội Công Giáo và tất cả mọi điều Giáo Hội truyền dạy.
Được diễm phúc làm con Thiên Chúa là một ơn cao trọng vô cùng, là căn nguyên mọi ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, như lời Thánh Gioan nhắn nhủ: “Anh chị em hãy xem, Thiên Chúa yêu thương chúng ta dường nào, để chúng ta được gọi là con cái Thiên Chúa và sự thực là thế” (I Jn 3:1). Bởi vì, chúng ta chỉ là một thụ tạo bất xứng, đã từng là nô lệ dưới quyền thống trị của Satan hỏa ngục và tội lỗi, là kẻ phản bội chỉ đáng Chúa trầm luân hỏa ngục vì án phạt nguyên tội di truyền và muôn vàn tội lỗi riêng chúng ta hằng xúc phạm đến Chúa. Nhưng nhờ công nghiệp sự chết và phục sinh của Chúa Kitô, chúng ta đã được tuyển chọn giữa muôn triệu người trên trần gian, được nâng lên hàng con cái Thiên Chúa, để được thừa hưởng lời Chúa hứa, sẽ được phục sinh với Người và lãnh gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái trung thành, trong vinh quang bất diệt với Chúa trên Quê Trời.
III. ĐIỀU KIỆN SỐNG ƠN GỌI LÀM CON CHÚA
Để sống xứng với ơn gọi cao cả làm con cái Chúa và đáng được phục sinh với Chúa Kitô, để hưởng hạnh phúc gia nghiệp vĩnh cửu Chúa đã hứa ban, chúng ta hãy tuân giữ các giáo huấn Chúa dạy và sống theo mẫu gương đời sống Chúa đã thực hiện. Chính mẫu gương đời sống của Chúa Cứu Thế đã là một mãnh lực vô song thu hút, lôi cuốn muôn tâm hồn thiện chí tiến bước theo Chúa, sẵn sàng khước từ tất cả và chính bản thân, để được trở nên môn đệ của Chúa và cố gắng họa lại nơi bản thân và cuộc sống mình chân dung đích thực và sống động của Đấng đã kêu gọi các ngài: “Nếu các con muốn theo Thầy, các con hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy” và Chúa còn nhắn nhủ: “Thầy đã làm gương cho các con, để các con bắt chước mà làm như Thầy đã làm”.
Để lập nên giá Ơn Cứu Độ chúng ta, Ngôi Hai Thiên Chúa đã phải từ khước mọi vinh quang cao cả, nhập thể mặc lốt phàm nhân, mang thân nô lệ, sống đời tôi tá và sau cùng, tự nguyện lãnh nhận mọi ô nhục, xỉ vả, hành xích của cuộc khổ nạn và bản án bất công như một tội nhân trọng phạm bị tử hình trên Thập Giá. Chính nhờ lễ hy sinh đó, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả những ai tin kính thuần phục Người.
Trong một xưởng thợ, cả một nhóm công nhân nam nữ đang đua nhau chê bai Đạo Công Giáo, bọn họ cho rằng: Đạo làm mê muộn trí khôn, bóp nghẹt lẽ phải, làm sai lạc trí phán đoán tự nhiên của con người… Khi bọn họ vừa ngừng lời, một nam công nhân đã dõng dạc lên tiếng: “Phải, vì Đạo Chúa tôi đã mất tất cả!”
Mọi người đều hướng mắt trừng trừng nhìn anh ta. Người thợ nói tiếp: “Tôi là một tên bợm rượu say sưa tối ngày, đập đánh vợ con, phá tán xóm làng, cờ bạc hút xách, khiến ai cũng khinh chê thù ghét. Đạo Chúa đã hoán cải tôi, làm cho tôi đoạn tuyệt được tất cả những thứ đó. Đạo Chúa còn làm cho tôi mất đi biết bao tâm địa xấu xa, những đam mê tật xấu khác nữa… Xưa kia, Satan thống trị gia đình tôi, đã biến cái tổ ấm yêu đương thành một hỏa ngục. Thì nay, mọi phần tử trong gia đình tôi đã trở nên các Tín Hữu, con cái Thiên Chúa. Như vậy, tôi đã mất tất cả”.
Sau hết, người thợ đã lớn tiếng kêu gọi: “Hỡi các bạn, bây giờ các bạn biết Đạo Công Giáo đã làm cho tôi mất những gì rồi. Vậy các bạn hãy làm như tôi, hãy tin như tôi, tôi cam đoan chắc chắn với các bạn rằng, các bạn sẽ không phải hối hận đâu”.
Kết Luận
Lời Chúa phán dạy chúng ta: “Nếu hạt lúa miến gieo xuống lòng đất mà thối đi, nó chỉ trơ trơ không thể nào sinh được bông hạt; nhưng nếu nó có chịu mục nát, nó mới nảy sinh mầm sống, vươn lên thành cây, trổ sinh bông hạt, đem lại một mùa thu hoạch dồi dào, khiến người thợ gặt được hân hoan vui sướng”.
Câu truyện trái “Trứng Phục Sinh” gợi lên cho chúng ta một hình ảnh cụ thể và sống động: Nó như một nấm mồ mà Chúa Kitô đã được mai táng tại đó. Con gà con làm bể chiếc trứng để chui ra, nhắc nhở chúng ta việc Chúa Kitô Phục Sinh bước ra khỏi mồ.
Là con cái Chúa, chúng ta chỉ được hưởng trọn niềm hân hoan trong ngày Đại Lễ mừng mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh, khi chúng ta sống đúng với ơn gọi cao cả được làm con cái Chúa, trở nên một tạo vật mới bằng cách quyết tâm từ bỏ tất cả những gì phản với tinh thần Chúa, tin kính mến yêu thực thi tất cả mọi giáo huấn Chúa và Giáo Hội truyền dạy như chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy.
36. Niềm hy vọng sống lại
Trong những ngày này, chúng ta hớn hở mừng vui. Tiếng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Phải chăng vì Đức Kitô đã chiến thắng kẻ thù? Phải chăng vì Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: sống lại từ trong kẻ chết? Tất cả những điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến cố Phục sinh. Tuy nhiên, niềm vui còn dạt dào hơn nữa, khi chúng ta ngắm nhìn ngôi mộ rỗng của Ngài. Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như sau: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.
Chúng ta thường nghe thấy lời phàn nàn và kết án như sau: Đạo Công giáo là một đạo quá nghiêm khắc bởi vì Đức Kitô đã nói: Ta đến không đem sự bình an, nhưng đem gươm giáo. Với lưỡi gươm lưỡi giáo này, phải chăng Ngài đã cắt đứt xác thịt và cuộc đời chúng ta? Đọc kinh, đi lễ, bố thí mà thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chúng ta phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Ngài, từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Tôi không được phép hưởng thụ những điều bất chính, dù chỉ trong tư tưởng mà thôi. Tôi muốn ăn uống no say, nhưng hôm nay lại là ngày giữ chay, nên tôi không được phép. Tôi muốn nằm ngủ nướng cho đẫy con mắt, nhưng hôm hay là Chúa nhật, tôi có bổn phận phải thức dậy để đi tham dự thánh lễ…Cho dù tội lỗi có hấp dẫn và quyến dũ, luôn mời gọi và lôi kéo đến đâu chăng nữa, thì chúng ta cũng không được phép chạy theo. Công giáo là một đạo nghiêm khắc, đòi chúng ta phải làm chủ thân xác, chế ngự những thèm muốn và hy sinh đời sống cho Đức Kitô. Thế nhưng, cái đạo nghiêm khắc ấy đã đem đến cho chúng ta một tin mừng, đã hứa ban cho chúng ta một điều không ai có thể đem lại được, đó là: nếu Đức Kitô đã sống lại, thì rồi chúng ta cũng sẽ được sống lại. Nghĩa là một ngày kia, chúng ta sẽ tìm lại được cuộc sống vĩnh cửu đã mất đi vì tội lỗi.
Niềm tin vào sự sống lại trước hết đã được chính Chúa Giêsu truyền dạy. Ngài đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng của nó. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã ghi lại: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ nghe tiếng Ngài và bứơc ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là: bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời.
Trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại, Ngài đã phán với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời. Sau cùng, khi bọn Sađucêô, những kẻ không tin vào sự sống lại dã nêu lên vấn nạn về một người đàn bà có bảy đời chồng và như vậy khi sống lại, bà ấy sẽ thuộc về ai? Chúa Giêsu đã trả lời cho họ như sau: Lúc bấy giờ, không còn vấn đề vợ chồng. Họ sẽ không chết nữa, nhưng sẽ trở nên như thiên thần. Họ sẽ là con cái của Thiên Chúa và của sự sống lại.
Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại của Ngài để tìm thấy ở đó niềm hy vọng ủi an. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Phải, trước khi Đức Kitô phục sinh, một tảng đá nặng cũng đã lấp kín phần mộ của chúng ta và của những người thân yêu. Tảng đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Bởi vì ngôi mộ chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một bên, bởi vì Ngài đa giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ có sự sống đời đời.
Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Trước Đức Kitô, con người phải chết và trên bia mộ chúng ta ghi: Đây là nơi an nghỉ trong bóng tối và trong tuyệt vọng. Nhưng từ khi Đức Kitô phục sinh, chúng ta có thể ghi trên bia mộ ấy như sau: Đậy là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng.
Sau cùng, chúng ta có thể dùng suy luận để thấy được rằng: sự sống lại là một cái gì thích hợp với chương trình của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa. Thực vậy, chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác. Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Bởi đó, sự phát triển toàn vẹn của con người đòi buộc hồn xác phải kết hiệp với nhau sau một thời gian bị cái chết tạm thời chia rẽ. Hơn thế nữa, việc sống lại còn là đều thích hợp với sự công bằng của Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta đã tham dự vào tất cả những hành vi thánh thiện cũng như tội lỗi. Vì thế, sự công bằng đòi buộc: nếu thân xác đã tham dự vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác.
Tóm lại, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chết và chúng ta chết là để được sống đời đời.
37. Ra khỏi mồ
Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm rồi, và ngày nay có lẽ chúng ta cũng không thể cảm nhận được nỗi niềm vui sướng và hy vọng của các tông đồ ngày xưa khi nghe tin Chúa Giêsu sống lại. Tuy vậy, trong ít phút ngắn ngủi này, chúng ta thử làm sống lại một chút những tâm tình của các tông đồ trong ngày Chúa Phục Sinh, để thấy được sự kiện Phục Sinh của Chúa Giêsu đã đem lại ý nghĩa nào cho cuộc đời của các ông. Từ đó, chúng ta cũng hãy để cho Chúa Phục sinh tác động làm cho cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa. Hòa chung niềm hy vọng với dân tộc mình, các tông đồ cũng chờ mong một vị Cứu Tinh để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh nô lệ ngoại bang. Trong niềm hy vọng ấy, Đức Giêsu đã xuất hiện như một con người có thể đáp lại những khát vọng mãnh liệt của các ông. Chính vì thế mà các ông đã bỏ mọi sự để theo Người, tin tưởng hoàn toàn nơi Người, phó thác trọn cuộc đời cho Người và chấp nhận mọi đòi hỏi của Người. Thế nhưng, đáng buồn thay cho các ông biết bao, khi mà vào một buổi tối ngày thứ 5, thần tượng Giêsu của các ông đã bị bắt, bị tra tấn, bị đánh đòn, bị lăng mạ và cuốci cùng bị kết án tử hình, một cái chết đớn đau và tủi nhục trên thập giá. Điều đó làm các ông thất vọng biết là dường nào. Thế là hết. Thầy Giêsu đã chết, đã được chôn trong mồ đá. Điều đó có nghĩa là những niềm hy vọng, những hoài bão, những tin tưởng của các ông cũng chết theo và cuộc đời của các ông cũng bị chôn vùi trong những nấm mồ của tuyệt vọng và sợ hãi. Hiểu ván đề như thế chúng ta mới hiệu được rằng: khi các phụ nữ báo tin cho ông Phêrô và ông Gioan về việc Chúa sống lại thì quả thật đó là một nguồn tin gân chấn động rất mạnh cho các ông. Thầy Giêsu đã sống lại cũng có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của các ông cũng được sống lại. Chính vì vậy mà cả ông Phêrô và ông Gioan đã vội vã chạy ra mộ Chúa Giêsu như để kiểm nghiệm nguồn tin mà các phụ nữ vừa loan báo. Khi tới mồ, các ông thấy mồ trống, chỉ còn lại khăn liệm và khăn phủ đầu Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã viết về chính mình: “Ông thấy và ông tin”. Rồi những ngày sau đó Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ nhiều lần như để củng cố niềm tin chắc chắn rằng: Thầy Giêsu của mình đã sông lại thật thì niềm tin ấy đã tạo nên một biến đổi triệt để nơi các ông.
– Trước đây các ông sợ hãi chạy trốn các nhà cầm quyền đạo đời, thì nay các ông hiên ngang ra vào công đường để rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh. Các ông can đảm chấp nhận bắt bớ, chấp nhận đòn vọt và bao nhiêu thử thách khác để làm chứng rằng Đức Giêsu đã Phục Sinh.
– Trước đây các ông là những người nhỏ nhen, ham danh ham lợi, ghen tị với nhau về chỗ ngồi trên dưới, thì nay các ông quên bản thân mình để chỉ sống và chết cho Đấng Phục Sinh, đồng thời cũng sống và chết cho anh chị em mình.
Thế hệ của chúng ta hôm nay không được diễm phúc để thấy Chúa Phục Sinh như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta tin lời rao giảng của các Ngài vì các Ngài là những chứng nhân trung thực bởi các Ngài đã dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật ấy. Tuy nhiên, tin vào sự Phục Sinh không phải chỉ là chấp nhận trong trí khôn một chân lý, một sự kiện đã xảy ra trong lịch sử, nhưng còn là để cho Chúa Phục Sinh biến đổi cuộc đời mình, là để Người đưa mình ra khỏi những nấm mồ ích kỷ, hận thù, gian tham, lọc lừa, kiêu căng, tự mãn, ham mê sắc dục… Bao lâu chúng ta còn cố tình sống trong những nấm mồ ấy thì bấy lâu chúng ta chưa thật sự tin vào Chúa Phục Sinh. Và nếu thế thì lời tuyên xưng của chúng ta về việc Chúa Phục Sinh chỉ là những lời đâu môi chót lưỡi và chẳng đem lại lợi ích nào cho đời sống của chúng ta.
Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta kính nhớ hôm nay trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta đám sống, dám chết cho Chúa và cho nhau.
38. Suy niệm của Lm. Hồ Bặc Xái
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI
- Dẫn vào Thánh lễ
“Chúa đã sống lại rồi”, đó là tiếng hô vui mừng của Phêrô, của Gioan, của Phaolô và của mọi thế hệ kitô hữu. Đó là niềm tin của Giáo Hội. Cho dù cuộc sống có muôn vàn khó khăn và ai cũng phải chết, nhưng cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng, bởi vì sau khi chết là sống lại, và ai chết trong Chúa thì sẽ được sống lại với Ngài.
Trong Thánh lễ này, xin Chúa cho chúng ta càng ngày càng xác tín hơn về điều ấy.
- Gợi ý sám hối
– Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên chúng ta sống như mục đích của cuộc đời chỉ là ở thế gian này.
– Vì chưa xác tín vào việc sống lại nên khi gặp gian nan thử thách, chúng ta ngã lòng, thất vọng.
– Cuộc sống chúng ta chưa là một bằng chứng trước mặt người thế về niềm tin có sự sống lại.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I: Cv 10,34.37-43
Lời rao giảng này của Phêrô được các nhà Thánh Kinh gọi là Kerygma, tức là bài giảng truyền giáo. Lần đầu tiên ngõ lời với một nhóm thính giả mới, các tông đồ luôn giảng Kerygma.
Mỗi Kerygma, cho dù có khác nhau trong những chi tiết phụ, nhưng luôn gồm những yếu tố chính về Đức Giêsu: a/ Tóm tắt cuộc sống trần thế của Đức Giêsu; b/ Cái chết của Ngài; c/ Việc Ngài sống lại; d/ Kêu gọi tin vào Ngài để được cứu độ.
Tin vào nội dung Kerygma là bước đầu tiên và là điều quan trọng cơ bản để trở thành Kitô hữu.
- Đáp ca: Tv 117
Thánh vịnh này là tâm tình của người đã cảm nghiệm được tình thương và quyền năng của Thiên Chúa. Quyền năng và tình thương ấy đã chiến thắng tất cả, cho dù là khổ đau, là chết chóc. Tác giả muốn sống mãi để có thể ca tụng Thiên Chúa đến muôn đời.
- Bài Tin Mừng: Ga 20,1-9
Những chi tiết quan trọng nhất của bài tường thuật này là ngôi mồ trống và 3 phản ứng trước hiện tượng ấy.
Maria Mađalêna nghĩ rằng “Người ta đã lấy mất Chúa rồi”. Bà hoang mang chạy đi báo tin “chẳng lành” ấy cho các tông đồ khác. Phải chờ đến khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với bà thì bà mới tin Ngài sống lại.
Phêrô nhìn thấy những hiện tượng nhưng chưa có phản ứng nào cả.
“Người môn đệ kia” khi thấy thì nhớ lại những lời Đức Giêsu đã nói trước nên đã tin ngay.
- Bài đọc II: Cl 3,1-4
Thánh Phaolô dạy cách sống của người thực sự tin vào việc Đức Giêsu sống lại:
Kitô hữu là người đã chết với Đức Giêsu và sống lại với Ngài.
Hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới.
Hãy hướng lòng trí về những gì thuộc về thượng giới.
- Gợi ý giảng
* 1. Hai cách nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
– Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
– Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh Kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
*
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy.
Theo định nghĩa, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn Thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi” (Pl 1,21). Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
* 2. Tin là thế nào?
Đức tin của các tín hữu thường chỉ có một chiều kích, đó là chiều kích của trí óc: tin có Thiên Chúa; tin rằng Ngài đã tạo dựng mọi sự, Ngài biết mọi sự và điều hành mọi sự.
Đức tin của các tín hữu thường hướng tới đời sau: tin rằng mình sẽ được ở với Thiên Chúa sau khi từ giã cõi đời này.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay buộc ta phải điều chỉnh lại đức tin ấy: phải có thêm chiều kích hiện sinh nữa: Không chỉ tin bằng trí óc mà còn bằng cả cuộc sống. Không chỉ nhắm tới cuộc sống mai sau, mà phải nghĩ tới cuộc sống hiện tại. Thánh Phaolô dạy: “Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô”.
* 3. Làm chứng là thế nào?
Chỉ có các tông đồ là những “chứng nhân” đúng nghĩa: các ngài đã cùng sống với Đức Giêsu, đã thấy Ngài chết và thấy Ngài sống lại. Việc làm chứng của các ngài dựa trên điều các ngài đã thấy.
Nhưng lời chứng xuất phát từ cảm nghiệm cũng có giá trị, nhiều khi lại còn có sức thuyết phục hơn. Chúng ta có thể làm chứng cho Đức Giêsu phục sinh theo cách thứ hai này: sống làm sao cho người ta biết chúng ta đang sống một cuộc sống mới, chúng ta hạnh phúc, chúng ta tự do, chúng ta vui mừng trong cuộc sống mới đó, và trong bất cứ hoàn cảnh nào lòng chúng ta cũng tràn trề hy vọng.
* 4. Tâm thức kiêu căng của kẻ chiến thắng
Nhiều người trách rằng những người công giáo có tâm thức kiêu căng vì nghĩ rằng mình là kẻ chiến thắng, kẻ mạnh, kẻ giỏi hơn người… Tiếng pháp là “triomphalisme”. Thực ra, chúng ta có tâm thức đó không? Và xét cho cùng, nên có tâm thức đó không?
Chúng ta xác tín rằng chúng ta có một chỗ dựa vô cùng vững chắc là Đức Giêsu phục sinh, và cũng xác tín rằng nếu có Ngài phù trợ thì chúng ta sẽ vượt thắng tất cả. Những câu đáp ca hôm nay trích từ Thánh vịnh 117 tuyên bố niềm xác tín đó: “Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa cao cả vô song. Tôi không phải chết nhưng còn sống mãi, để tường thuật những kỳ công Chúa làm”.
Thế nhưng, chúng ta không nên kiêu căng, cũng không nên khinh chê những người khác không có được niềm xác tín của chúng ta. Đúng hơn, chúng ta cần làm chứng cho họ và chia xẻ với họ niềm xác tín ấy, một niềm xác tín vẫn giúp con người lạc quan hy vọng cho dù đang ở giữa bao khổ đau, thất bại, bệnh tật và thậm chí sắp chết.
* 5. Mộ mở toang
Gioan “cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó… Ông đã thấy và đã tin. “
Nhưng ông thấy gì? Chẳng thấy gì hết. Có gì đâu mà thấy. Tuy vậy điều ông thấy đã dẫn ông tới chỗ tin.
Ta hãy nghiêng mình xuống như Gioan. Ta thấy gì? Một hố sâu thăm thẳm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông dâng đầy mầm sống. Cờ tang khăn tang chuyển biến thành y phục ánh sáng. Một sự vắng mặt vang dội sự có mặt. Một sự im lặng của nấm mồ nói nhiều hơn mọi bài diễn văn. Một bức tường mà ta chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết quả của tất cả mang dáng dấp khởi đầu. Một cái chết có bộ mặt một cuộc giáng sinh. Mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí mật.
Vậy ai đã tạo ra ngôi mộ trống. Ngôi mộ đâu có trống. Vì Gioan đã thấy chân dung thực sự của Đức Giêsu, bạn ngài.
Ngôi mộ không trống, không sâu, không câm nín, không vương mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó còn nói với ta. Ta có bị cụt hứng không? Vì sự vắng mặt này, lớn như một nấm mồ, chính là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới nhãn quan của não trạng hiện đại, đã thấm nhiễm vào ta, chết là hết. Chấm hết. Chết rồi chẳng còn gì ráo. Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất cả. Cái chết chôn kín đời ta.
Nhưng ở đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người đã mở ra. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Mầu nhiệm mang tên chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở lòng mở trí ta. Ký ức sống và sống lại. Ta mở hồn ra với đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã vượt qua bức tường sự chết, đã nâng phiến đá che mộ, đã hoàn thành Phục sinh báo trước. (G. Boucher, “Le ciel sur terre”, được trích trong Fiches dominicales, năm A, trang 122-123).
* 6. Tin mừng Phục sinh
Bà Regina Riley hằng cầu nguyện cho hai cậu con trai đã xa rời đức tin nhiều năm. Bỗng một sáng Chúa Nhật, bà không thể tin vào mắt mình, hai đứa con bước vào nhà thờ ngồi ghế đối diện với bà. Tan lễ, bà liền hỏi lý do nào khiến các con trở về với Chúa. Đứa con nhỏ mau mắn kể lại:
Thời gian nghỉ hè tại Colorado, vào một sáng Chúa Nhật, chúng con đang lái xe thả dốc trong cơn mưa tầm tã. Bỗng nhiên, một cụ già không dù che, người ướt sũng đang vội vã bước đi, dáng điệu khập khiễng. Chúng con dừng lại mời cụ lên xe, mới được biết cụ đang đi lễ, đến một nhà thờ cách đó 5 cây số. Chúng con liền đưa cụ đến dự lễ. Nhưng vì trời vẫn mưa nên hai anh em quyết định vào xem lễ rồi cùng đón cụ về. Lạ thay, sau khi lắng nghe Lời Chúa chúng con rất xúc động, tâm hồn như được đổi mới hoàn toàn. Mẹ biết không, lúc bấy giờ chúng con như được trở về nhà sau một chuyến đi dài đầy mệt mỏi.
*
Câu chuyện hai anh em gặp gỡ cụ già xa lạ sẽ minh họa cho chúng ta bài Tin mừng Phục sinh hôm nay.
Bà Maria Macđala, bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê là ba phụ nữ nhân đức từng theo giúp Đức Giêsu và các môn đệ. Các bà đã từng được Thầy Giêsu dạy dỗ, yêu thương. Nhưng giông tố kinh hoàng của chiều thứ Sáu Tuần Thánh đã cướp đi người Thầy rất đáng kính yêu của họ. Giờ đây, Thầy đã nằm yên trong mộ đá. Còn lại gì? hay chỉ còn bao kỷ niệm thân thương và nước mắt. Để vơi đi nỗi sầu, các bà chỉ biết mua dầu thơm về ướp xác Thầy. Nhưng “Ai sẽ lăn dùm tảng đá ra cho chúng ta?” (Mc.16,3).
Kinh ngạc thay, khi đến nơi, các bà đã thấy tảng đá được lăn ra một bên, và xác Thầy cũng không còn nữa. Chỉ còn đó sứ thần chờ để loan báo Tin mừng: “Đấng bị đóng đinh đã sống lại rồi, Người hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê” (x. Mc.16,7). Từ ngôi mộ trống, nơi tối tăm và chết chóc, sự sống đã bừng lên.
Hai anh em trong câu chuyện trên cũng đã một thời tin theo Chúa. Nhưng giông tố của thời niên thiếu đến, đã cướp đi bao kỷ niệm đạo đức thuở ấu thơ. Thế rồi, cụ già đã xuất hiện loan báo một Tin mừng, không phải bằng lời mà bằng gương sáng đạo đức: “Thầy Giêsu hẹn gặp lại các con nơi thánh đường”.
Tin mừng chính là: Hễ có giông tố của chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, thì cũng có bình an của sáng Chúa Nhật Phục sinh.
Tin mừng chính là: Hễ có bình an là có niềm hy vọng, có trở về và có đổi mới.
Tin mừng chính là: Nếu ta cùng chết với Đức Kitô, ta sẽ cùng được sống lại với Người.
Tin mừng chính là: Nếu có tình yêu quằn quại trên thập giá, thì cũng có tình yêu rạng rỡ sáng Phục sinh.
*
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con, luôn xác tín rằng:
Mỗi lần chúng con trở về sau những lầm lỗi, là chúng con đang phục sinh với Chúa.
Mỗi lần chúng con tin tưởng sau những lần phản bội niềm tin, là chúng con đang sống lại với Người.
Mỗi lần chúng con tiếp tục cố gắng sau những lần thất bại đắng cay, là chúng con đang ra khỏi mồ trống.
Xin giúp chúng con biết mở rộng tâm hồn để đón nhận ân sủng Phục sinh của Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
- Lời nguyện cho mọi người
(Như Lễ Đêm)
Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay toàn thể Hội thánh long trọng mừng Đức Giêsu Kitô sống lại vì đó là nền tảng cho niềm tin của Hội thánh, là nền tảng cho Tin mừng Người loan báo. Chúng ta hãy phấn khởi dâng lên Chúa những lời cầu nguyện sau đây:
- Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / đã được chết cho tội lỗi và sống lại trong Đức Kitô nhờ Bí tích Thanh tẩy / biết mau mắn từ bỏ tội ác / và sống theo đời sống mới của con cái Thiên Chúa.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người không tin Chúa, chống lại Chúa và sống trong tình trạng tội lỗi / biết mở lòng mở trí đón nhận ánh sáng của Chúa Phục sinh / để tìm được chân lý và hy vọng cho đời mình.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang sống trong nghèo đói, thất nghiệp không nhà không cửa / gặp được nhiều người giúp đỡ ủi an / và nhận ra Đức Giêsu là đã chết và sống lại vì yêu thương họ.
- Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em giáo hữu trong họ đạo chúng ta / biết dùng lời nói và việc làm để làm chứng về Đức Giêsu Phục sinh / cho những người lương dân sống chung quanh chúng ta.
CT: Lạy Đức Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã đem niềm vui phục sinh đến cho chúng con hôm nay, xin cho chúng con biết chia sẻ niềm vui và niềm tin ấy cho mọi người chúng con gặp để tất cả được chung hưởng niềm vui của con cái Chúa. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
- Trong Thánh lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu phục sinh đã thiết lập cơ sở vững chắc cho Nước Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho Nước ấy được mở rộng khắp nơi, trong lòng mọi người.
– Sau kinh Lạy Cha: “… xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, sự bình an mà Đức Giêsu phục sinh đã ban cho các môn đệ. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp, chúng con trở thành những con người mới, sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi và được an toàn khỏi mọi biến loạn…”
– Trước khi rước lễ: “Đây Chiên Thiên Chúa… phúc cho ai được mời đến dự tiệc của Đức Giêsu phục sinh, Đấng ban cho chúng ta một sự sống mới”.
VII. Giải tán
Đức Kitô đã sống lại và đang sống mãi. Ngài sống trong cuộc đời chúng ta và trong thế giới này. Chúng ta hãy làm những chứng nhân nhiệt tình cho Ngài, mang niềm vui và an bình đến cho mọi người. Halleluia, Halleluia.
39. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của Chúa Giêsu – “người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu”, và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, – “ông đã thấy và đã tin”.
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp: thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về. Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ, tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của Ngài như trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với thân xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác: những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức…
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa Kitô đã Phục Sinh!”. Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói “đúng thế” mặc dù tôi không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không ngớt biểu lộ.
40. Ngôi mộ trống.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin được ghi: “Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra”.
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được, Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: “Người ta đã lấy mất xác thầy rồi!” Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ Chúa yêu đã thấy và đã tin: “Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật rồi”.
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: “Ngài không còn ở trong mộ nữa, vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói”. Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục, nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi, phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào, không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền, không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục Sinh.
41. Chúa Nhật Phục Sinh B
“Theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. (Ga 20, 9)
Chúng ta đã theo Chúa Giêsu đi vào tuần thương khó mà đỉnh cao là chứng kiến chính Chúa Giêsu đã chết trên thập giá. Hôm nay chúng ta hoan hỉ mừng biến cố Chúa Giêsu phục sinh.
Hoà cùng với niềm vui cùng đất trời, chúng ta sẽ được dẫn vào một luồng sáng mới. Luồng sáng này sẽ dẫn chúng ta ra khỏi tăm tối, đau khổ, chết chóc và chúng ta sẽ không còn đi trong bóng tối nữa vì ánh sáng đã đẩy lùi bóng tối sự chết qua một bên, giờ đây chỉ còn lại ánh sáng đem lại sự sống đó là Chúa Kitô, Ngài đã sống lại để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Bài phúc âm hôm nay (Ga 20, 1-9), Thánh Gioan đã mô tả hành trình đức tin của ba nhân vật: Maria Mađalêna, Phêrô và Gioan. Cả ba nhân vật trong phúc âm đều có hành động là “chạy”. Trước tiên là bà Maria Mađalêna, bà là người đầu tiên “chạy” ra mồ và đã khám phá ra ngôi mộ trống. Khi thấy ngôi mộ trống, bà không hiểu ai đã “lấy cắp” xác Chúa cho nên bà liền “chạy” về báo tin cho hai môn đệ Phêrô và Gioan. Tiếp sau đó, hai ông cũng “chạy” ra mồ và đã thấy sự việc như lời của bà Maria vừa thuật lại. Vậy, họ “chạy” để tìm cái gì? Mục đích của họ “chạy” là để tìm Chúa. Đây là cuộc hành trình của Đức tin mà Chúa đã sắp đặt những dấu chỉ để giúp họ tìm. Những dấu chỉ mà trong Tin Mừng nhắc đến là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm được xếp gọn… Qua đó cũng cho chúng ta thấy được lòng tin của họ, khi hai môn đệ “chạy” ra mồ và đã tới thì chỉ có một môn đệ tuy đến sau nhưng ông đã thấy và đã tin như trong Tin Mừng có nói “Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”(Ga 20, 9). Thực ra, Chúa Giêsu đã nói nhiều lần trong kinh thánh là việc Chúa chịu chết và sống lại nhưng các ông vẫn chưa hiểu. Và hôm nay, Thánh Gioan đã hiểu Lời Chúa đã tiên báo: Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa, cũng có nghĩa là Chúa chịu chết trên thập giá, đã chịu mai táng trong mồ và Ngài đã sống lại.
Đối với mỗi người chúng ta, chúng ta biết rằng trong cuộc sống đời thường của mình không phải duy nhất sẽ vật chất, thể xác mà còn nhắc nhở cho chúng ta sự sống Lời Chúa là sự sống về phần linh hồn. Như Chúa Giêsu đã nói “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích lợi gì” (Mc 8, 36). Có thể, trong cuộc sống nhiều lúc mọi sự xung quanh chúng ta đều chìm trong bóng tối nhưng chỉ có một tia sáng hy vọng lóe lên thì chúng ta phải làm gì? Chắc hẳn là sẽ có người nhanh chân “chạy” đến tia sáng đó, nhưng cũng có nhiều người không “chạy” tới mà chỉ biết đứng đó mà than khóc vì họ không tin, không yêu thương và không hy vọng vào ánh sáng đó sẽ cứu họ ra khỏi nơi tối tăm. Chúng ta nhớ rằng, trong cuộc sống của mỗi người không hẳn chỉ có bóng tối hoàn toàn mà vẫn còn một tia sáng đó là tia sáng của đức tin, của hy vọng và của yêu thương. Vì thế, chúng ta cần phải đặt niềm tin, niềm trông cậy, lòng mến vào Chúa để được Chúa dẫn vào ánh sáng của sự sống. Đối với tôi, cuộc sống của tôi nhiều lúc cũng gặp khó khăn, thử thách làm cho mình luôn đi trong tăm tối không còn biết tin tưởng, hy vọng vào ai và cuộc sống của tôi trở nên chán nản! Tôi nghĩ cuộc sống của tôi vẫn còn một tia sáng mà bấy lâu tôi không tìm ra, cho đến ngày hôm nay tôi đã tìm ra ánh sáng đó là Lời Chúa. Vì “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho tôi bước và ánh sáng chỉ đường cho tôi đi” (Tv 118, 105). Mỗi người chúng ta hãy tìm đến Lời Chúa để lời Chúa dẫn đường cho mỗi người. Vì thế chúng ta phải có niềm tin vào Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình, đó là Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa thông minh và chân thật. Chúng ta cũng cần đặt niềm hy vọng, cậy vào công nghiệp của Chúa, Chúa mời gọi từ khởi sự cho đến hoàn thành. Và chúng ta cũng phải có lòng yêu mến vì Thiên Chúa là tình yêu luôn làm cho chúng ta cảm nhận tình yêu đó là thập giá. Cuộc sống mới là cuộc xây dựng trong tình yêu của mình. “Yêu thương là tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả, hy vọng tất cả” (1Cr 13, 7).
Qua đoạn phúc âm này, chúng ta luôn ý thức tham dự thánh lễ cho sốt sắng, ý thức về giá trị Lời Chúa để Lời Chúa soi sáng cho chúng ta nhất là những ai còn ngủ mê trong tội lỗi hãy chỗi dậy để thấy vinh quang Phục Sinh của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại và ra khỏi mồ, xin cho mỗi người chúng con biết đứng lên và trở về với Chúa sau mỗi lần vấp ngã để chúng con cũng được Phục Sinh với Chúa. Xin chiếu tỏa vinh quang của Chúa cho chúng con. Amen.
42. Tin mừng Phục Sinh – Noel Quesson.
“Alleluia! Alleluia!”
Một thời ở miền Nam này người ta đã xôn xao bàn tán về chuyện một người lính. Sau một trận đánh lớn, gia đình được giấy báo anh đã chết mất xác. Thân nhân anh đón nhận tin buồn này với tâm trạng hoảng hốt, buồn sầu. Một tang lễ lớn được cử hành với mọi thủ tục. Ba tháng sau người lính đột ngột trở về. Anh chưa chết, anh chỉ thất lạc và đã được anh em dân tộc nuôi dưỡng. Nay anh trở về. Vợ con và thân nhân anh phải mừng vui đến mức nào!
Niềm vui của các môn đệ và bạn hữu Chúa Giêsu trước Tin Mừng Chúa sống lại còn lớn lao hơn nhiều. Bao nhiêu người đi theo Chúa nghe những lời hay đẹp và mới lạ của Chúa, đặt cả tin tưởng và hy vọng vào Chúa, nhưng Chúa đã chết, chết đau khổ và nhục nhã. Mọi người được chứng kiến cái chết của Chúa, và đã an táng Chúa trong mộ được ba ngày.
Hôm nay là ngày đầu tuần. Mấy bà thân thuộc của Chúa đưa thuốc thơm ra mồ xức xác Chúa, biểu lộ cảm tình với người quá cố. Các bà vừa đi vừa lo không biết ai sẽ vần tảng đá lớn che cửa mồ ra giúp mình, nhưng khi tới nơi, các bà thấy tảng đá đã lăn ra một bên, mồ mở trống. Có một thanh niên mặc áo trắng ngồi bên phải mồ, khiến các bà hoảng sợ.
Thánh Marcô luôn chú tâm tới sự kiện. Ông diễn tả sự việc xảy ra mà không chú giải thêm gì. Ta thấy người thanh niên mặc đồ trắng, và màu trắng là màu ánh sáng, màu vinh quang. Một trang sử mới đã lật qua. Không còn mờ tối, không còn dấu ẩn. Chúng ta nghĩ tới cuộc tỏ hiện của Chúa trên núi Tabo xưa. Trong sách Khải huyền, màu trắng luôn biểu tượng cho cảnh vật trên trời. Đó cũng là điều kiện tâm hồn ta phải có để được tham dự vào vinh quang Phục Sinh của Chúa. Nhưng các bà đã hoảng sợ. Nỗi kinh sợ là dấu tỏ ra mình đang đối diện Thiên Chúa. trước khung cảnh khác lạ, hoặc đôi khi một niềm vui lớn quá cũng làm người ta hoảng sợ.
Người thanh niên bảo các bà: “Các bà đi tìm Giêsu Nagiaret, người bị đóng đinh phải không? Người đã sống lại, không còn ở đây nữa. Các bà hãy đi nói cho các môn đệ hay tin này”. Tin Mừng Chúa sống lại. Chúa đã ra khỏi mồ, mọi người phải ra đi báo Tin Mừng cho anh em. Tin Chúa sống lại cho tới nay vẫn là một mạc khải. Chúng ta còn nhớ chuyện Maria Mađala gặp Chúa Phục Sinh đã tưởng đó là bác làm vườn. Còn hai môn đệ trên đường Emau, vừa đi vừa nói chuyện với Chúa lâu giờ mà vẫn không nhận ra Người. Muốn nhận ra Chúa cần phải có tâm hồn xứng hợp sẵn sàng đón nhận Chúa. Phải được dọn dẹp bằng chính ân sủng trước khi được tiếp xúc với Chúa.
Thái độ các bà trong chuyện đã cho ta hiểu điều đó. Chúng ta đừng nghĩ mình có thể tìm ra những sự kiện rõ ràng trong Tin Mừng của Chúa. Tin Mừng luôn là một tia sáng từ trời. Chỉ những ai thành tâm, thiện ý, sẵn sàng đón nhận với tâm tình khiêm tốn mới có thể hưởng nhờ ơn Cứu độ.
Xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho những người đang thành tâm tìm kiếm Chúa. AMEN. ALLELUIA!
43. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
44. Mặt trời hé mọc
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi lóe lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: “Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?” Tảng đá to thật là một trở ngại… Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn…
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.
45. Ông đã thấy và đã tin
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả người môn đệ được Đức Giêsu thương mến…
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
- Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ thắng sự dối trá không?
- Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
46. Sống niềm vui Phục Sinh
Lễ Phục Sinh là một đại lễ của người Công giáo. Đây là ngày của Đức Giêsu, Người “anh” (Trưởng tử) của chúng ta đã phá tan xiềng xích của sự chết và sống lại vẻ vang từ trong nấm mồ. Đây quả thật là ngày của Chúa. Nhưng cũng là ngày của chúng ta, vì Chúa Giêsu đã chia sẻ hoa quả chiến thắng khải hoàn cho của chúng ta. Vì thế chúng ta hãy mở lòng mình ra để đón nhận niềm vui của ngày đại lễ này.
Bài Tin Mừng tường thuật cho chúng ta về việc Maria Macdala khám phá ra ngôi mộ trống với những mãnh vải liệm bề bộn còn đó. Điều này tự nó chưa phải là bằng chứng xác thực về sự Phục Sinh. Tuy nhiên, đây là những dấu chỉ gợi mở để dẫn ta đến một niềm tin mạnh mẽ rằng: Đức Giêsu đã thoát khỏi sự ràng buộc của của tử thần và chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận Chúa Phục Sinh.
Chúng ta không thể hiểu hết được niềm vui lớn lao của Đức Giêsu Phục sinh nếu như chúng ta hiểu được cái chết thật sự của Người. Các Tông Đồ, đặc biệt là hình ảnh và thái độ của Maria Madala đã theo chân Chúa trong suốt những chặng đường khổ giá cho phép chúng ta nhìn lại niềm tin của mình vào mầu Phục Sinh và chúng ta đã sống niềm tin ấy như thế nào?
Trước hết, chúng hãy nhìn về cuộc đời và sự biến đổi của Maria Madala. Hành trình đức tin của một cuộc đời với nhiều đau khổ và tủi nhục. Dù Phúc Âm không nói nhiều về bà, chúng ta chỉ biết bà là người ở Macdala và được Chúa Giêsu chữa khỏi bảy quỷ (x.Lc 8,2). Nhưng với chi tiết bà đi ra mồ Chúa lúc mờ sáng và phát hiện ra ngôi một trống. Bao nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta hiểu được tấm lòng yêu mến mà bà đã dành cho Chúa Giêsu.
Nhìn lại những ngày đầu, khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem chịu khổ hình với đông đảo các môn đệ, đặc biệt là Nhóm Mười Hai là những môn đệ thân cận, được Chúa chọn cách riêng để cùng đồng cam cộng khổ với Người. Nhưng kết quả thật phủ phàng, tất cả đều bỏ Chúa, ngay cả Phêrô thủ lãnh của các Tông đồ đã từng thề hứa sống chết với Thầy, nhưng Phúc Âm cho thấy ông là người phản bội Chúa hơn ai hết. Theo Đức Giêsu đến chân thập giá chỉ toàn là phụ nữ ngoại trừ thánh Tông Đồ Gioan (Ga 19, 25). Thật là một điều đáng để chúng ta suy nghĩ. Đến khi Chúa chết, hạ xác và an táng cho Ngài cũng chỉ là những người mà không ai nghĩ là họ trung thành với Chúa.
Đặc biệt là hôm nay, ra mồ viếng Chúa sớm nhất chính là Maria Macdala (Ga 20, 1). Tin Mừng không nói các Tông Đồ và các môn đệ khác ở đâu và đang làm gì nhưng có điều chắc chắn là họ không nôn nao ra thăm mộ Chúa. Còn Maria Macdala, có lẽ suốt đêm qua bà không hề chợp mắt. Trong khi cả thành Giêrusalem ồn ào náo nhiệt ăn lễ Vượt Qua, thì Maria chỉ mong cho trời mau sáng để để có thể ra thăm mồ của Thầy mình, một người Thầy đã cứu vớt và mở ra cho cuộc đời bà một tia hy vọng, một con đường sống. Và lòng trung thành yêu mến Chúa của bà đã được đền đáp. Nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh là một hồng ân đặc biệt, hơn nữa bà còn được Chúa trao cho sứ mạng là loan báo Tin Mừng này cho các Tông Đồ và những người khác.
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta ít hay nhiều cũng cảm nhận được Chúa đã cứu vớt mình. Nhưng cảm nhận không chưa đủ mà chúng ta phải đáp trả tình thương đó ra sao mới là quan trọng. Giống như Maria Macdala, người phụ nữ của Tin Mừng Phục Sinh đã đáp trả bằng cả cuộc đời mình.
Chúa đã Phục Sinh Cách mấy ngàn năm, nhưng mỗi năm Giáo Hội tưởng niệm, kính nhớ ngày ấy không phải như biến cố đã qua mà còn nhắc nhở mỗi người chúng ta phải biết sống niềm tin đó. Nếu như cuộc sống của chúng ta bị bao bọc bởi ngày thứ tuần Thánh đợm màu tang tóc, thì ngày lễ Phục Sinh sẽ làm tan biến mọi đau khổ, thất vọng và mở ra cho chúng ta một tia hy vọng đằng sau cái chết chính là sự Phục Sinh vinh hiển. Vì khi đặt niềm tin vào Chúa Phục Sinh sẽ dẫn chúng ta đến một sự hoán cải và thay đổi. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh cũng sẽ làm cho chúng ta không còn đặt nặng tìm kiếm những thú vui chóng qua ở đời này. Nhưng niềm tin ấy sẽ làm cho chúng ta quảng đại hơn trong việc hy sinh cuộc sống mình để lo lắng và làm cho mọi người được hạnh phúc.
Lạy Chúa! Xin cho chúng con hiểu rằng đau khổ và cái chết chì là là chìa khoá mở vào cuộc sống vĩnh cửu. Xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa chiếu soi tâm hồn chúng con để xoá tan bóng đêm âm u tội lỗi. Xin Chúa ban bình an Phục Sinh Ngài cho chúng con.
47. Người đã trỗi dậy rồi.
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8). Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương.
Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
“Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết”.
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh.
Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ…
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới.
Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường.
Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ.
Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
48. Chúa đã sống lại (Ga 20, 1-9).
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – của Radio Veritas Asia)
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
49. Chúa Nhật Phục Sinh
Anh chị em thân mến.
Có lần tôi nhìn thấy một trẻ nhỏ rất dể thương, mọi người đang xúm quanh nó để bồng bế. Bổng nhiên đứa bé có vẽ như khó chịu và khóc lên. Mọi người cố tìm cách cho nó đừng khóc, ngỡ là nó đói, nên có người trao lại cho mẹ nó. Nhưng không phải thế, vì nó vẫn không chịu vật gì cho vào miệng. Người mẹ mới nhìn đứa trẻ một chút, bà mới tìm chay dầu, thoa lên bụng nó. Từ từ tiếng khóc của nó nhỏ dần, rồi dứt hẳn. Dường như nó mệt, nên nó nằm ngủ ngay trên tay của người mẹ. Tôi ngạc nhiên hết sức. Vì bà mẹ trẻ này không phải là một bác sĩ, cũng không phải là một thầy thuốc gì hết, nhưng tại sao bà chỉ nhìn con mình và biết nó đang cần gì.
Tôi chợt hiểu: Chỉ có tình yêu mách bảo cho bà. Thật thế, vì yêu thương con nên bà nhìn thấy những dấu hiệu, và tình yêu thúc bảo bà phải làm gì cho con mình. Ôi tình yêu bao la tuyệt vời.
Bao nhiêu người tới mồ Chúa Giêsu từ sáng sớm. Họ chạy tới, chạy lui, tìm người này người nọ. Nhưng tất cả đều không biết việc gì đã xảy ra, mặc dù họ cũng đã từng nghe câu: “Con người phải chịu đau khổ, chịu chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại”. Vậy mà nhìn thấy thế họ vẫn không hiểu biết gì. Vì họ không có thời gian để nhớ, để hiểu những gì đã được nghe. Họ chỉ nghe, sau đó tất cả đều qua đi và không còn chút gì ở lại trong họ. Khi vị tông đồ trẻ chạy đến, ông cũng nhìn thấy tất cả như những người kia. Nhưng Ông thấy và ông tin. Tại sao thế?
Ông có nhìn thấy điều gì khác đâu, làm sao ông có được thái độ khác người như thế? Chính do tình yêu mách bảo ông. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương nhất, và chắc chắn ông cũng yêu thương Ngài nhiều hơn những ông khác. Những đấu hiệu của tình yêu đã mách bảo ông nên Ông đã thấy và Ông tin. Ông tin những điều Ngài đã nói, tin những việc Ngài đã làm và tin những gì Ngài đã hứa. Ôi sức mạnh của tình yêu.
Mỗi người trong chúng ta có một hoàn cảnh sống. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta phải vất vã đấu tranh để mình được tồn tại. Còn hơn thế nữa, trong đấu tranh sinh tồn, ai cũng muốn cho đời sống của mình mỗi ngày được nâng cao hơn. Nhưng rồi mỗi người cứ làm việc như một cái máy, làm mà không cần suy tư. Có khi nào, chúng ta chợt tỉnh giấc, tự hỏi về mục đích cuộc đời của mình. Cũng được bao nhiêu lần, chúng ta ngồi yên tĩnh để nhìn lại quảng đời mình đã đi qua, xem nó tốt, xấu như thế nào không? Chắc là rất ít khi chúng ta nhận ra được dấu hiệu của tình yêu trong đời sống hằng ngày của mình. Chúng ta cứ chạy, cứ làm việc, cứ tìm kiếm. Nhưng, những gì mình đã nhận được. – Chúng ta cũng không bao giờ biết. Những gì mình không nhận được. – cũng không ảnh hưởng gì đến chúng ta. Những đều xảy ra bên ngoài, trước mắt chúng ta, vang động bên tai, có khi cũng làm cãn bước chân.
Nhưng tất cả những điều đó cũng không đánh động gì nỗi con người của chúng ta. Vì chúng ta làm, hoạt động, lo lắng, tất cả những đều đó chúng ta chỉ biết lo cho bản thân mình, vì chúng ta chỉ biết yêu có chính mình. Nhớ kỷ mà xem: Chúng ta lo gia đình, nhưng nếu có thành viên nào trong gia đình không chịu vâng theo những ý kiến riêng tư của chúng ta, khi đó phản ứng của chúng ta sẽ ra sao? hay có ai chỉ trích những việc làm của chúng ta, khi đó chúng ta có thành tâm nhìn lại để điều chỉnh cho đúng. Hay chúng ta vẫn ngoan cố và tìm cách loại địch thủ ra khỏi vòng cuộc sống. Nếu chúng ta đặt để tình yêu trong công việc, thì trong tất cả mọi biến cố xảy đến trong cuộc đời, đều là dấu chỉ của Tình Yêu Thiên Chúa. Từ những may mắn, những bất hạnh của bản thân hay của những người chung quanh.
Tất cả đều là những dấu chỉ của Tình Yêu mà Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta. Những dấu chỉ này chỉ những người luôn sống trong sự yêu thương bằng chính đời sống hằng ngày, trong tất cả mọi công việc bình thường của mình, họ mới nhận ra được. Còn ai không sống trong tình yêu thương, thì cho dù họ có giàu sang, tài giỏi hay thông minh xuất chúng đi nữa, vẫn không ích lợi gì. Vì họ nhìn mà không biết, nghe mà không hiểu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nên Ngài cũng luôn ban những dấu chỉ tình yêu. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mình biết luôn yêu thương, để tất cả những việc làm đều phát xuất bởi tình yêu. Xin Chúa cũng cho chúng ta được biết nhận ra những dấu chỉ tình yêu của Ngài gửi đến, để biết sống theo những dấu chỉ của Tình Yêu.
50. Tình yêu dẫn đến đức tin (Ga 20,1-9).
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ của Radio Veritas Asia)
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã viết về chính mình rằng: “Ông thấy và ông đã tin”.
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy, ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại. Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ “bình yên”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này. Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói “người môn đệ Chúa Giêsu yêu mến”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước. Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
51. Chúa Nhật Phục Sinh
Chúng ta đã trải qua những ngày kỷ niệm Chúa Giêsu đi vào cuộc thương khó, chịu chết để cứu chúng ta. Chúa là Đấng vô tội nhưng đã gánh lấy tội lỗi của chúng ta. Chúa đã chết vì tội của chúng ta. Chúa đã chết thay cho chúng ta. Nếu Chúa không chết thay cho chúng ta thì chúng ta sẽ phải chết.
Nhưng để cứu chúng ta Chúa Giêsu đã không dừng lại ở cái chết, Chúa đã chiến thắng sự chết và Chúa đã sống lại để cho chúng ta cũng được sống lại với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về sự kiện sống lại của Chúa Giêsu. Hôm táng xác Chúa vào trong huyệt đá, vì gần đến ngày Sabát nên việc ướp xác Chúa chưa hoàn tất, chỉ mới làm sơ xài thôi; nên qua ngày Sabát, bà Maria Madalêna đã vội vả ra mộ Chúa từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác Chúa.
Khi đến nơi bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ từ lúc nào rồi, nhìn vào ngôi mộ trống, không còn thấy xác Thầy nữa, Bà liền chạy tìm và gọi ông Phêrô cùng người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến cách đặc biệt. Nghe vậy hai môn đệ Chúa Giêsu chạy đến, có lẻ họ nghĩ rằng ai đó đã lấy mất xác Thầy mình rồi. Chạy đến nơi mộ Chúa, các ông đã quan sát và thấy rõ mọi việc, điều đó làm các ông phân vân.
Tảng đá đã được lăn ra khỏi mộ, nhìn vào ngôi mộ trống các ông thấy: ” các dây băng nhỏ xếp để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ “. Ai đã trộm xác Thầy chăng? Nếu có kẻ nào đó trộm xác Thầy thì sao các dây băng và vải liệm lại xếp ngay ngắn và gọn gàng như thế. Kẻ trộm xác Chúa là kẻ có ý đồ xấu xa, làm sao lại có thể xếp các dây băng và vải liệm gọn gàng như thế, các thứ này vốn là đồ bỏ đi thì đâu cần phải làm thế đâu. Có một điều gì đó mà các môn đệ Chúa chưa hiểu nên các ông phân vân.
Ngôi mộ trống của Chúa Giêsu và vải khăn liệm là những dấu chỉ hổ trợ cho niềm tin vào Chúa Phục Sinh của Hội Thánh Công Giáo chúng ta. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp Hội Thánh Công Giáo chúng ta luôn tồn tại với bao thay đổi không ngừng của lịch sử nhân loại.
Điều quan trọng và ích lợi cho chúng ta hơn cả là làm sao chúng ta sống mầu nhiệm Chúa Giêsu Phục Sinh trong đời sống làm kitô hữu của chúng ta đây?
Chúa đã chết cho chúng ta, nhờ đó chúng ta không phải hư mất đời đời. Chúa đã sống lại để ban sự sống mới cho chúng ta. Sự sống đó sẽ dẫn chúng ta về quê thật của mình là Nước Trời. Phần Chúa, Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta tất cả rồi! Còn phần chúng ta, chúng ta đã chuẩn bị như thế nào trong việc đón nhận sự sống đời đời mà Chúa đã ban cho chúng ta?
Để đón nhận sự sống đời đời, chúng ta cần phải ” chết đi ” mỗi ngày với những tánh hư tật xấu, những ràng buộc của tội lỗi, những bất xứng trong đời của chúng ta đối với Chúa, đối với tha nhân và với bản thân của mình nữa.
Đồng thời chúng ta cần phải trao dồi những điều tốt đẹp, học hỏi các nhân đức, thấm nhuần những lời dạy của Chúa Giêsu, rập khuôn mẫu đời sống mình theo mẫu gương của Chúa Giêsu. Làm cho đời sống mình mỗi ngày một sung mãn, phong phú và làm cho đời sống anh chị em chung quanh cũng được sung mãn, phong phú trong sự sống mới mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta.
52. Phục Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng, mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ, như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại cho chúng ta.
53. Hãy khai phóng tâm trí (Mc 16,1-8).
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Trên lãnh vực bình giải uyên bác, bốn thiên ký sự của bốn Phúc Âm cùng thuật về sự Chúa sống lại, những ký ức ấy mới đây là đề tài cho nhiều công trình nghiên cứu, những tập nghiên cứu hay nhất đều đưa đến một sự khơi sâu đức tin. Tường trình ở đây về công cuộc nghiên cứu đó, là một việc không làm được. Ý định của Giáo Hội khi dạy đọc Phúc Âm trong phần phụng vụ thánh lễ là để xếp đặt một sự gặp gỡ sống động giữa tín hữu và Chúa Giêsu. Thế mà Phúc Âm cốt để loan báo trước hết là cho người nghèo. Vì vậy chúng ta sẽ cố gắng có được một não trạng của kẻ nghèo khó để đọc những thiên ký sự về Chúa sống lại. Sự nghèo khó, nói đến ở đây, không có nghĩa là ngu dốt hoặc ngây ngô khờ dại. Nghèo, nghĩa là dẹp bỏ hết những cái gì kềnh càng vướng vít của sự giàu có, dù là giàu có về kiến thức, để ao ước của cải quý trọng nhất là sự gặp gỡ Đức Kitô sống động. Chúng ta hãy vượt lên trên những phân tích, giả thuyết v,v… tuy không dám chê những công trình đó. Bằng một vận dụng đức tin, chúng ta hãy đi tìm Chúa. Nhiều khi chúng ta có ấn tượng rằng chúng ta đã đóng đinh Chúa, hoặc đã để mất Chúa… Không bao giờ lòng tin của chúng ta lại “thật” hơn khi thấy mộ Chúa trống rỗng –Khi ta chấp nhận Tin Mừng trọng đại: Chúa Giêsu sống, Người hòa giải chúng ta, Người làm cho chúng ta sống.
Trong ký sự của thánh Maccô, chúng ta thấy mấy bà từ mờ sáng đi thăm mộ Chúa. Họ có ý định đến làm cho xong việc xức thơm thi hài Chúa. Họ chẳng nghĩ gì khác ngoài cuộc bận tâm đó. Các bà tự hỏi ai sẽ vần dùm tảng đá đậy cửa mồ. Nhưng mặc dù băn khoăn, họ vẫn tiến bước, tâm hồn bị thúc đẩy bởi lòng trung thành với Chúa. Thế mà, sửng sốt làm sao, họ tới nơi thì thấy tảng đá đã được ai vần sang một bên rồi. Họ đành liều, bước vào phòng ngoài của ngôi mộ, thấy một thanh niên cất tiếng nói với họ. Người đó cho biết Chúa Giêsu không còn là một người chết, nay Chúa đã sống lại. Từ ký sự của thánh Maccô, chúng ta rút ra được suy niệm gì bổ ích cho lòng tin của chúng ta?
1) Câu chuyện mấy bà đi tảo mộ Chúa rất có ý nghĩa cho một trong những giai đoạn của đức tin. Hành vi tin, lúc bắt đầu, là một sự cất bước không đắn đo suy tính, đi tìm một Đấng mà người ta không biết được toàn thể mầu nhiệm. Các bà chưa được biết mầu nhiệm Chúa Giêsu. Đối với họ, Chúa là Thày. Cái chết thê thảm của Thày làm cho họ chìm trong đau khổ và hoang mang quá đỗi. Nhưng linh tính khiến họ cảm thấy giữa Thày và họ chưa hết, vẫn còn liên hệ dù chỉ là việc đến mộ hoàn tất viếc xức thơm thi thể Thày đầy thương tích sau cuộc khổ hình. Thăm mộ đem lại gì cho họ? Đem lại một sự hoang mang ghê gớm hơn nữa, họ chỉ thấy một khoảng trống. Họ khiếp sợ đến nỗi không thốt lên lời. Chỉ mãi sau này các bà mới tin. Có bao giờ chúng ta tự nhiên đến với Đức Kitô mà vẫn có ấn tượng về một sự trống rỗng mênh mông? Khoảng chân không đó cần thiết cho hành vi tin của chúng ta được thuần khiết. Chúng ta làm điều hợp lý khi nghe theo nội tâm thúc giục chúng ta tìm đến Đức Kitô.
2) Họ thấy tảng đá đã được vần sang một bên. Theo não trạng những Kitô hữu tiên khởi gốc Do Thái, đó là mộtsự kiện có ý nghĩa. Có nghĩa là thần chết đã bị đánh bại. Mộ được mở ra, tức là người chết không còn thuộc về cõi âm ty, nơi mà người Do Thái tưởng tượng những kẻ quá cố cư ngụ. Trong đời sống đức tin của chúng ta cũng vậy. Nếu có những lần chúng ta có ấn tượng về một khoảng trống rỗng mở ra trong cõi huyền vi chính vì những lúc đó trong một góc sâu tâm khảm chúng ta một sự sống lại đang chuẩn bị. Chúng ta chưa nắm được cái hiển nhiên –nhưng Chúa không muốn bị gò bó trong những hạn chế của chúng ta về tư tưởng, ước vọng, về cung cách sống đời Kitô hữu- Chúa vần sang một bên tảng đá nó đóng kín tâm trí chúng ta và Chúa chuẩn bị chúng ta sống lại cho một đời sống cuồng nhiệt hơn, thật hơn.
54. Đức tin của chúng ta (Lc 24,13-35).
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA CÓ THEO KỊP HÀNH TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI KHÔNG?
(Đoạn suy niệm sau đây được đề nghị dùng ngày lễ Phục Sinh, trong lễ chiều. Tuy nhiên không cấm dùng trong các lễ sáng).
Sự việc Chúa hiện ra với các môn đệ thành Emau, chỉ có thánh Luca mới thuật. Các thánh chép sử khác không nói đến. Tuy nhiên trong Phúc Âm theo thánh Maccô, chương 16, câu 12, có một sự kiện “hiển nhiên” (theo nhận xét của cha Lagrange) đó là biến cố Emmau, và có thể đó là tóm lược ký sự của thánh Luca. Tất nhiên có những lần hiện ra khác mà các thánh chép sử không ghi lại. Mỗi vị chọn lọc trong những nguồn tài liệu truyền khẩu hoặc thành văn, và ưu tiên chọn những sự kiện nào cùng hướng với những mối quan tâm của mình.
Với những lần Chúa hiện ra, chúng ta ra ngoài phạm vi lịch sử thuần túy nhân loại để bước vào lĩnh vực làm chứng cho một hành động của tc. Thực tại mà người ta kiểm soát được trong điểm này là: có những vị đã đứng lên làm chứng rằng các vị đó đã tận mắt nhìn thấy Chúa Giêsu sống sau khi xảy ra một sự kiện được người đương thời kiểm nhận, đó là sự việc Chúa chết trên thập giá. Tất cả những chứng từ các vị nêu ra khiến cho trên bình diện lịch sử, chúng ta có những lý do cực kỳ vững mạnh để tin các vị. Sở dĩ những lý do ấy, nhìn bằng mắt khoa học, thì không có tính cách ép buộc phải tin – là bởi vì Chúa đã muốn dành một chỗ đứng cho ân sủng đức tin. Điều trực tiếp thu hút sự chú tâm của chúng ta ở đây, trong nội giới đức tin chúng ta, chính là nội dụng của chứng từ.
1) Trước kia, các môn đệ tưởng mình hiểu rõ Chúa. Này đây một nỗi thất vọng mênh mang đã phá tan niềm trông cậy họ có được nhờ vì hiểu Chúa. Thật ra, họ không thật sự hiểu Người. Thế mà xảy ra một biến cố tuyệt đối bất ngờ. Chúa hiện ra với họ. Lúc đó, xuyên qua sự nhận ra Thày, họ thấy nổi lên trong lòng một cung cách mới để hiểu Chúa. Để tiện so sánh chúng ta có thể gợi lại lần sinh ra và lần tái sinh của chúng ta. Sau lần sinh ra, kế tiếp là thực nghiệm về cái chết –sự sống lại của chúng ta sẽ là lần tái sinh để sống sự sống viên mãn. Cũng vậy các môn đệ sau lần “hiểu biết” đầu tiên và thiếu sót về Chúa, tiếp đến thực nghiệm về thất vọng, họ “tái hiểu biết” Chúa Giêsu trong một lần gặp gỡ sâu sắc hơn. Họ bắt đầu thực sự hiểu biết Chúa.
Có một điều gì nổi lên trong họ những dịp tiếp xúc đầu tiên với Thày, những tháng ngày Người sống trong thể xác. Điều họ tưởng là bị tiêu hủy rồi, giờ đây lại nổi dạy, được khuếch đại và thanh lọc trong cuộc gặp gỡ sâu sắc với Chúa sống lại. Câu chuyện Emmau dĩ nhiên là phi thường. Tuy nhiên một câu chuyện khác ở cấp độ thấp hơn thế chẳng đã thôi thúc chúng ta dùng đức tin để thực nghiệm những khoảnh khắc mà sự khuất bóng người thân yêu làm cho ta thất vọng, sau đó, trong một vài trường hợp, là sự sống lại làm ta lóa mắt?
2) Về những ký sự thuật việc Chúa Phục Sinh, chúng ta trích dẫn sau đây một đoàn giáo huấn của hàng giáo phẩm hữu quyền, vì nó hợp thời:
“Nhờ những đoạn Phúc Âm đó, tôi có thể ngày nay trở nên giống các môn đệ Emmau, để hiệp thông với Chúa bằng lời nói và lương thực. Chúa Giêsu trên thập giá là hình ảnh “tình yêu bị đóng đinh” Chúa dạy tôi hãy nhận ra Người trong anh em đang đau khổ, xấu số, bị bách hại bởi công lý người đời. Chúa dạy tôi phấn đấu để tăng tình thương và công lý trong thế gian mà Chúa đã đến để cứu rỗi bằng thập giá và Phục Sinh của Người” (Đức Cha Weber, tập san “Tài liệu tham khảo Công giáo” số ngày 19-12-1971).
Sống hiệp thông với Chúa Giêsu chết và sống lại trong ta, chúng ta có thể đồng hành xứng đáng với nhân loại trong hành trình đi tìm hy vọng, và đem đến cho nhân loại Tin Mừng: Chúa Giêsu sống và làm cho chúng ta sống.
55. Sứ Điệp Phục Sinh.
GỬI QUA TỘI LỖI
Lúc bấy giờ trời đã bắt đầu tối, các tông đồ buồn bã ngồi thinh lặng trong phòng tiệc ly và cửa thì đóng kín. Các ông khẽ bàn bạc với nhau về Đức Kitô. Phêrô và Gioan đã đi đến ngôi mộ, nhưng ngôi mộ hoàn toàn trống trơn. Rồi những lời đồn thổi của các phụ nữ được loan truyền. Các môn đệ vừa lo sợ nhưng cũng cảm thấy một tia hy vọng lóe lên.
Thế rồi sự gì đã xảy ra? Có phải là một luồng ánh sáng? Hay là một bóng ma, một ảo ảnh? Không. Đó chính là Đức Kitô bằng xương bằng thịt với đôi mắt trìu mến. Ngài nói với các ông: Bằng an cho các con. Thầy đây mà. Đừng sợ. Có lẽ Ngài đã nói tiếp với các ông: Các con hãy vui mừng vì Ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Chiến thắng tội lỗi và sự chết là hai sứ điệp quan trọng mà Đức Kitô Phục sinh muốn gửi đến chúng ta, những người đã đặt trót niềm tin tưởng và cậy trông nơi Ngài.
Như chúng ta đã biết: Tội của Adong Eva được sánh ví như là một chiếc móc xích đầu tiên, kéo theo một chuỗi dài tội lỗi của nhân loại qua muôn thế hệ. Tội của Adong Eva đã mở toang cánh cửa để tội lỗi ùa tràn và ngự trị trần gian. Bởi tội của một người mà chúng ta phải chết, thì giờ đây, nhờ công phúc của một người mà chúng ta được sống. Thánh Ambrosio đã nói: Trời và đất cũng sẽ được sống lại trong Đức Kitô. Trần gian này, nhân loại này sẽ được sống lại, có nghĩa là những vết thương, những khổ đau do tội lỗi gây nên, sẽ được hàn gắn, sẽ được chữa lành, sẽ được xóa bỏ. Adong đã làm cho nhân loại chìm ngập trong tội lỗi và sự chết, thì giờ đây Đức Kitô Phục sinh sẽ khai mở một thế hệ mới trong ân sủng và tình thương nhờ đó mà nhân loại được bước vào cõi sống muôn đời.
Vì thế, lời nói đầu tiên của Đức Kitô Phục sinh là gì, nếu không phải là lời cầu chúc bình an: Bình an cho các con. Khi nói lời ấy, Ngài thổi hơi, tượng trưng cho Chúa Thánh Linh, trên các ông và trao cho các ông quyền tha tội. Chúa Giêsu đã thấu suốt tâm hồn chúng ta, Ngài biết rằng tâm hồn chúng ta đang khao khát sự bình an. Thế nhưng tội lỗi và sự bình an không thể nào đi đôi với nhau được. Tội lỗi là như trái phá, làm nổ tung sự bình an. Nó hủy diệt và phá vỡ sự bình an trong tâm hồn cũng như ngoài xã hội. Bởi đó, để chúng ta có được sự bình an đích thực, thì trước hết Ngài phải tha thứ tội lỗi chúng ta, Ngài phải chiến thắng quyền lực của tội lỗi: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Một tâm hồn tội lỗi bao giờ cũng sống trong lo âu, trong hận thù và không thể nào có được sự bình an, bởi vì sự bình an chỉ là kết quả của việc hòa giải giữa chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau, cũng như giữa chúng ta với chính bản thân mình. Cuộc tử nạn và sống lại của Chúa là nhịp cầu hòa giải, là nhịp cầu cảm thông đầu tiên, nối liền đất với trời, nối liền nhân loại với Thiên Chúa, nhờ nhịp cầu này mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa thứ tha.
GỬI QUA SỰ CHẾT
Hậu quả của tội lỗi là sự chết. Cái chết phần xác và nhất là cái chết phần hồn. Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, con người đã phải run sợ trước cái chết. Họ ra sức tìm kiếm viên thuốc trường sinh bất tử, để khỏi phải chết. Thế nhưng viên thuốc trường sinh ấy mãi mãi chỉ là một câu chuyện huyền thoại. Một giấc mơ chưa bao giờ trở thành sự thật. Cái chết là như một tiếng chuông gọi hồn. Nó sẽ vang lên bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu. Dù là vua chúa uy quyền thì cũng vẫn phải cúi đầu vâng theo. Không ai có thể chống cự lại nó. Cái chết là khung cửa hẹp đẩy chúng ta vào vùng tăm tối.
Thế nhưng Đức Kitô đã hiên ngang bước vào, đã chiến thắng anh dũng và đã chiếu dọi vào khung cửa tăm tối ấy một luồng ánh sáng huy hoàng. Kể từ nay với Đức Kitô Phục sinh, dù chúng ta vẫn còn phải chết, nhưng cái chết không còn là một trạm cuối cùng để chấm dứt mọi sự, nhưng là một bước đi dứt khoát, để nhờ đó chúng ta được tiến vào vùng ánh sáng, được tiến vào cõi sống đời đời. Vì chúng ta đã được ghép, đã được tháp vào Đức Kitô. Hạt giống của sự sống vĩnh cửu đã được gieo trồng nơi con người chúng ta. Từ đó những tháng ngày hiện tại sẽ ngập tràn hy vọng, bởi vì cuộc đời chúng ta đang được dấu ấn trong Thiên Chúa, nơi Đức Kitô, nó sẽ nẩy mầm, đâm bông và kết trái trong ngày sống lại, khi Đức Kitô ngự đến trong vinh quang.
Cái chết là một định luật chung của số kiếp con người. Cho dù sông có cạn, núi có mòn thì sự thật này vẫn không hề thay đổi, vì từ trước đến nay, nào có ai thoát khỏi cái chết. Nó không phải là một cái gì xa lạ, nhưng là một cái gì thật gần gũi. Nó không phải là một con dao cắt đứt cuộc đời chúng ta, nhưng là một yếu tố luôn ở sẵn trong chúng ta. Từ khi chúng ta bắt đầu sống, thì chúng ta cũng bắt đầu chết. Càng đi xa trong cuộc sống, thì chúng ta lại càng tiến gần tới cái chết. Nếu cuộc sống là một chấm hỏi, thì cái chết cũng là một chấm hỏi, một vấn đề làm cho chúng ta băn khoăn lo nghĩ. Cái chết là như một vị nữ hoàng quyền uy, mà mọi người chúng ta đều phải vâng phục.
Tuy nhiên như chúng ta đã thấy: có một người trên trái đất này đã chiến thắng, đã vượt qua cái uy quyền của sự chết. Người ấy chính là Đức Kitô. Thánh Phaolô đã diễn tả như sau: Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết. Ngài sẽ không còn chết nữa và sự chết không còn quyền hành gì trên Ngài nữa. Hỡi sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu? Hỡi sự chết, sức mạnh của ngươi ở đâu? Hãy cảm tạ Chúa, Đấng đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Kitô.
Kitô giáo là đạo của Tin Mừng. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, Kitô giáo đã trở thành một tin mừng cho nhân loại khi rao giảng sự chết của Đức Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự phục sinh của Ngài đã chiến thắng cái chết. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta có quyền hy vọng và nói lên rằng: chúng ta sống là để chết và chúng ta chết là để được sống muôn đời. Cái thung lũng nước mắt chúng ta đang sống mới chỉ là một tiền đường, một khởi đầu cho tòa nhà vĩnh cửu, mà rồi chúng ta sẽ sống ở đó sau này. Ngày tháng hiện tại là hạt giống được gieo xuống đất để nảy sinh những hoa trái vĩnh cửu. Đó chính là sứ điệp mà Đức Kitô phục sinh đã gửi cho chúng ta.
Lạy Đức Kitô phục sinh,
Đã chiến thắng tội lỗi và sự chết,
Xin thương xót chúng con.
56. Mầu nhiệm.
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn, Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống sao?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: “Con Người sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại”. Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính quyền bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác. Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì sự việc đó vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo, không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng và sẽ còn đúng mãi: “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của chúng ta sụp đổ”. Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết: mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm… những cái nhìn mới ấy không sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa, công bằng và yêu thương với mọi người… Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.
57. Sự sống.
Hai Chúa nhật trước chúng ta suy niệm về vai trò của hy sinh và đau khổ, cũng như cách chúng có thể là người dọn đường cho sự sống. Hôm nay, chúng ta cử hành chính sự sống. Sự Phục sinh của Chúa Giêsu là dấu chỉ và là lời hứa, đem lại hy vọng cho chúng ta, mỗi khi chúng ta phải sống giữa những thử thách, đau khổ và nghịch cảnh. Chúng ta cử hành ngày Phục sinh kỳ diệu, là sự thật và là chiến thắng tối hậu của sự sống và tình yêu.
Tiếng reo vui từ khắp nơi: “Chúa Giêsu đã sống lại rồi”. Tiếng reo vui đó xuất phát từ kinh nghiệm được bà Maria Mađalêna kể lại: “Tôi đã thấy Chúa”. Đó cũng là thực tại mà các tông đồ sẽ chia sẻ với ông Tôma trong bài Tin Mừng tuần tới. Tin Mừng về việc Chúa Giêsu đã sống lại sẽ còn được chúng ta chia sẻ với toàn thể thế giới.
Ngày hôm nay không còn việc sầu thương khóc lóc nữa. Ngày hôm nay là thời giờ để vui mừng và tạ ơn.
Tất cả những đau khổ và hy sinh mà chúng ta đã trải qua là quan trọng vì chúng ta sẽ đem lại cho chúng ta một cảm nghiệm về niềm hoan lạc tràn đầy của ngày Phục sinh. Nếu không có thập giá, nếu không có những đau khổ của Chúa Giêsu, thì sự sống lại sẽ mất đi quyền năng của nó là dấu chỉ của cuộc chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết. Ngày hôm nay, chúng ta đã bắt đầu được chia sẻ cuộc chiến thắng quyết định của Chúa Kitô, và mang lấy trách nhiệm chia sẻ Tin Mừng này với mọi người. Sự Phục sinh làm biến đổi cách chúng ta nhìn về cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta không còn thất vọng khi phải đương đầu với thử thách và đau khổ nữa, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy trước với niềm hy vọng sẽ được hưởng vinh quang mà các thánh sẽ lãnh nhận trong ngày tận thế.
Chúng ta hãy bước ra khỏi bóng tối của ngôi mồ và bước vào ánh sáng Phục sinh, rồi sống cuộc đời của mình trong niềm tín thác vào tình yêu vô biên mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chúng ta hãy mở lòng ra để đón nhận ân sủng hy vọng. Chúng ta hãy để cho tâm trí mình được đổi mới và sống trong niềm xác tín vào lời hứa về sự sống đời đời, mà Chúa Giêsu đã hứa ban cho chúng ta nếu chúng ta đặt niềm tin, cậy, và yêu mến vào Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến và đổi mới cuộc sống của con trong chân lý về sự sống lại. Xin đừng để con thất vọng khi gặp phải đau khổ và tội lỗi xảy đến trong cuộc đời, nhưng xin cho con luôn xác tín và chia sẻ cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trong từng ngày sống của con.
58. Sáng và tối.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm trong bóng tối. Bóng tối tượng trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục sinh, sự dữ, sự ác còn thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục sinh. Đức Kitô Phục sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục sinh là sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình, Đức Kitô đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng dìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa.
59. Niềm hy vọng sống lại.
Đức Kitô đã sống lại thế nào, thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy. Thế nhưng, làm sao chúng ta có thể sống lại được?
Có những kẻ nghĩ rằng: Sự sống lại làm sao có thể xảy ra cho những người chết mất xác, chết không toàn thây, chẳng hạn như bị pháo kích thân xác nổ tung thành từng mảnh nhỏ, hay chết chìm dưới lòng biển cả làm mồi cho cá mập? Chết mà không để lại một dấu vết nào cả.
Tôi xin hỏi lại họ: Phải chăng đó là điều khó khăn đối với quyền năng Thiên Chúa? Dựng nên một sự sống khi nó chưa có hay là phục hồi nó một khi đã có, thì đằng nào khó hơn? Làm cho một thân xác được sống lại hay là tạo thành nó từ hư vô, đằng nào khó hơn? Chẳng lẽ Đấng Toàn Năng, đã tạo dựng vũ trụ lại bất lực, không thể cứu chúng ta khỏi sự hư mất sao? Trong bức thư gửi giáo dân Côrintô, thánh Phaolô đã viết: Có người bảo kẻ chết làm sao sống lại được, họ sẽ lấy thân xác nào mà phục sinh? Thật là vô lý. Đúng thế. Thật là vô lý, nếu chúng ta bảo rằng Đấng đã tạo thành sự sống, lại không có thể trao ban sự sống ấy lại một lần nữa. Thật là vô lý nếu chúng ta bảo rằng một thân xác đã chết và bàn tay uy quyền của Chúa sẽ không thể nào làm cho nó sống lại.
Có kẻ thì nói: Tất cả đã bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, tất cả đã trở về với cát bụi, thì làm sao có thể nghe thấy tiếng Con Thiên Chúa?
Như chúng ta đã biết: Lời của Thiên Chúa là Lời của uy quyền. Lời ấy đã phán: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy chỗi dậy. Lập tức chàng trai thành Naim đã chỗi dậy, đã sống lại. Đứa con gái của ông Giairô, cũng đang nằm chết ở trên giường và Lời ấy đã vang lên: Hãy chỗi dậy. Lập tức, cháu bé ấy cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại. Cũng như Lagiarô, mặc dầu đã được chôn táng trong mồ những bốn ngày rồi, nhưng khi Lời ấy vang lên, thì Lagiarô cũng đã chỗi dậy, cũng đã sống lại và ra khỏi mồ. Và như thế, Lời ấy cũng sẽ vang lên một lần nữa và tất cả mọi người đã chết đều được sống lại.
Nhìn vào cảnh vật thiên nhiên, chúng ta sẽ thấy được rằng Thiên Chúa đã in dấu chiến thắng trên vật chất. Sau đêm tối là hừng đông rạng rỡ. Sau mùa đông băng giá là mùa xuân huy hoàng. Một hạt giống mục thối cho mầm non vươn lên.
Với chúng ta cũng vậy, sẽ có một cuộc phục sinh để hoàn tất chương trình cứu độ. Bấy giờ sẽ không tang tóc và đau khổ, chết chóc và buồn phiền, bởi vì Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt chúng ta. Bấy giờ chúng ta sẽ tiến lên, lãnh nhận cuộc sống vĩnh cửu.
Vậy niềm tin vào sự sống lại sẽ đem đến cho chúng ta những hậu quả nào?
Hậu quả thứ nhất, đó là một lời báo động: Hãy chuẩn bị cho ngày ấy vì ngày ấy là một ngày trọng đại nhất của lịch sử nhân loại. Cũng như ngày đầu tiên, Thiên Chúa phán: Hãy có ánh sáng và ánh sáng liền có. Thì trong ngày cuối cùng ấy, Thiên Chúa sẽ nói: Hãy có bóng tối và chấm dứt mọi sự. Lập tức đã xảy ra như thế. Rồi những người đã chết sẽ chỗi dậy và sống lại: Từng triệu triệu người, từ những ngôi mộ lộng lẫy hay từ lòng đất ở một nơi xa xôi nào đó, cũng như từ biển khơi bao la; những kẻ đã bị quên lãng, không một ai biết đến; những kẻ đã từng nếm mùi khổ đau trong cuộc sống; những người trung thành với Đức Kitô cũng như những kẻ phản bội Ngài…Tất cả sẽ nhìn thấy Con Người ngự đến trong vinh quang.
Hãy chuẩn bị cho ngày ấy. Nếu một lúc nào đó chúng ta sẽ được sống lại, thì ngay từ giờ chúng ta phải mến Chúa và yêu người, vì cuộc đời vĩnh cửu không thể nào được tạo nên bởi một nếp sống tầm thường, trống rỗng và không một chút công nghiệp. Cũng như một hạt lúa lép hay một chiếc vỏ trấu sẽ không thể nào nảy mầm và mọc lên thành một cây lúa xanh tươi. Bởi đó, hãy chuẩn bị cho mình tấm áo cưới là tâm hồn trong sạch và đôi tay chất đầy công nghiệp, vì đó là những thứ hành trang cần thiết để được đón nhận vào nước trời.
Niềm tin tưởng vào sự sống lại còn là một nguồn sức mạnh cho chúng ta trong những cám dỗ và thử thách. Thực vậy, thánh Phaolô đã viết: Nếu anh em được sống lại với Đức Kitô, thì anh em hãy tìm kiếm những sự trên trời. Nhờ việc Phục sinh mà chúng ta có được sức mạnh để đứng vững, để trung thành cùng Chúa. Nếu như bây giờ chúng ta phải chờ đợi, thì chắc chắn ngày huy hoàng ấy sẽ xuất hiện. Nếu như bây giờ chúng ta phải bước đi trong đêm tối, thì chắc chắn bình minh sẽ bừng sáng. Điều quan trọng đó là đừng bao giờ chúng ta thất vọng, đừng bao giờ chúng ta nản chí. Bởi vì, chúng ta không thể nào gặt hái khi những bông lúa còn xanh và chưa được chín vàng.
Sau cùng, niềm tin tưởng vào sự sống lại sẽ là một niềm an ủi cho chúng ta. Thực vậy, người ta kể lại rằng: Những sắc dân bán khai ở Pérou, mỗi khi có nhật thực, mặt trời bắt đầu tối lại giữa ban ngày, thì họ vội vã giật tóc và nức nở khóc lóc một cách thảm thiết vì họ nghĩ rằng sẽ chẳng còn mặt trời nữa.
Với chúng ta thì khác. Từ ngày Đức Kitô Phục sinh, chúng ta biết rằng: Bóng tối và cái chết chỉ kéo dài một thời gian ngắn. Chúng ta có thể buồn và khóc trên phần mộ của những người thân yêu, nhưng nỗi buồn của chúng ta sẽ chẳng bao giờ đi đến chỗ tuyệt vọng như những kẻ không tin tưởng, bởi vì chúng ta biết rằng: Hạt lúa cần phải mục nát đi thì mới nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái.
Thiên Chúa đã làm cho Đức Kitô sống lại thế nào, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại như vậy. Chúng ta cũng biết rằng: Mặt trời lặn vào ban chiều, nhưng sáng hôm sau, sẽ là hừng đông rạng rỡ. Mùa thu thì lá vàng rơi, nhưng khi mùa xuân trở lại, thì những cành cây trơ trụi sẽ đâm chồi nẩy lộc và trở nên xanh tươi.
Sau cùng, chúng ta cũng biết rằng: Hiện thời thân xác chúng ta sẽ phải chết đi, nhưng rồi ngày hội lớn sẽ đến và chúng ta sẽ được sống lại như lời Chúa đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống. Và Ta, Ta sẽ cho họ được sống đời đời.
Cái chết là khung cửa hẹp mà tất cả chúng ta đều phải bước qua. Kẻ thì lo buồn run sợ, kẻ thì khóc lóc chống cự. Chỉ có một người đã hiên ngang bước vào, đã chiến thắng và đã chiếu vào khung cửa tối tăm ấy một luồng ánh sáng. Người ấy chính là Đức Kitô Phục sinh, Ngài đã cầm trên tay cành lá chiến thắng và đem đến cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu.
60. Hai cái nhìn.
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai cái thấy khác nhau:
– Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống xấu nhất: “Người ta đẽ đem Chúa ra khỏi mộ!” Cái nhìn tình cảm này không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
– Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ. Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông niềm vui: “Ông đã thấy và đã tin”.
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghã, “Tín hữu” là người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Còn thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt đức tin, đã kết luận “Tất cả là hồng ân”.
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
61. Niềm vui Phục Sinh.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến 1, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ huy của Gregory, được mở đầu như sau: “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy…”
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày, ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi cô bắt đầu đọc “Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng…” thì ông liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
12 ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ 13, một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích “Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!”.
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
62. Chiến thắng.
Chúng ta không thể nào đánh giá được tính cách vĩ đại nơi sự sống lại của Đức Giêsu, trừ phi chúng ta nhìn nhận đầy đủ sự thật về cái chết của Người. Đức Giêsu chết đi trong tối tăm. Nhưng Người đủ tin tưởng nơi Thiên Chúa, để có thể đương đầu với bóng tối, và chờ đợi sự sống lại. Cú nhảy vọt trong lòng tin của Người không uổng công. Chúa Cha đã nâng Người lên. Hiếm khi Kinh Thánh và Giáo hội tiên khởi nói rằng “ Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”, nhưng nói rằng “Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết”. Đức Giêsu cũng phải thực hiện một cú nhảy vọt trong lòng tin, mà một ngày kia, chúng ta sẽ được mời gọi thực hiện.
Đức Giêsu đã đi vào trong bóng tối của cõi chết, và bật dậy trong chiến thắng. Ngài đã giành được chiến thắng của Người – Người đã chế ngự sự chết. Nhưng chiến thắng đó phải vận hành theo cách thế của nó, và trở thành một thực tại nơi chúng ta, các môn đệ của Người. Chúng ta đạt được chiến thắng của Người ngay trong bản chất của chúng ta. Nếu chúng ta không chiến đấu và chiến thắng ngay trong bản chất của mình, thì chúng ta sẽ không có khả năng được hưởng lợi từ chiến thắng của Người, nhưng chúng ta vẫn còn ở dưới quyền lực của cái chết.
Chúng ta không bao giờ được nghi ngờ về tự thân sự sống lại – Thiên Chúa không thể chết được. Nhưng điều đáng ngạc nhiên và là quà tặng của lễ Phục sinh chính là sự sống lại cũng cho cả chúng ta nữa. Đức Giêsu đã được sống lại trong máu thịt của chúng ta. Chính cái chết của chúng ta đã bị đánh bại.
Và chúng ta tiếp tục đi tới trong cuộc đời, dần dần trở nên có ý thức về tính hay chết của mình, và về cuộc hành trình không thể tránh khỏi hướng đến cái chết. Cái chết tạo ra một thách đố khổng lồ đối với lòng tin của chúng ta, bởi vì chúng ta chỉ nhìn vào phía sau cái chết, giống như xuyên qua một tấm kính tối tăm. Nhưng trong ngày hôm nay, chúng ta được hít thở luồng không khí trong lành của sự sống đời đời.
Dường như sức mạnh của bóng tối có thể đang lan tràn, nhưng chúng ta đã giành được chiến thắng rồi. Chúng ta phải tin tưởng vào chiến thắng đó, và không được sống như thể cái chết vẫn còn thống trị chúng ta.
Trở nên người Kitô hữu là trở nên một con người của niềm hy vọng, nhờ những gì đã xảy ra trong ngày thứ ba. Nhưng niềm hy vọng của người Kitô hữu không phải là sự lạc quan hời hợt, dựa trên sự khước từ nhìn vào các sự kiện. Nói đúng hơn, đó chính là niềm tin tưởng sâu xa nơi Thiên Chúa.
Ngày Thứ Sáu Tuần thánh, một ngày của bóng tối và cái chết, đến với tất cả mọi người. Cũng vậy, ngày Thứ Bảy Tuần Thánh là một ngày của sự trống rỗng và u buồn. Trong mấy ngày này, thật khó mà tin tưởng được. Nhưng ngày Chúa nhật Phục sinh, ngày của sự sống và niềm vui, chắc chắn sẽ giống như ánh bình minh vậy. Kẻ thù cuối cùng là sự chết đã bị chế ngự.
Trong lòng từ ái của Người, xin Chúa mở lòng trí chúng ta ra, để chúng ta có thể tin tưởng vào tin vui nơi chiến thắng của Người vượt lên trên sự chết. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa lôi kéo chúng ta hướng ra bên ngoài, để đi vào một nơi mà chúng ta chưa biết, ở thật xa, trong cõi vô biên, trong chốn đời đời. Chúng ta tiến tới một cách tin tưởng và hy vọng hơn, bởi vì Đức Giêsu, Anh Cả của chúng ta, đã đi trước chúng ta.
63. Sống lại.
Trong Tin Mừng sáng Chúa nhật Phục Sinh hôm nay, thánh Gioan kể cho ta câu chuyện ba người đi tìm Chúa: Maria Madalena, Phêrô và Gioan. Khi đọc đoạn Phúc Am đó chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận thấy rằng, tất cả ba người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện “mồ trống và khăn liệm để qua một bên”, nhưng chỉ có một mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan viết về chính mình rằng: “Tôi thấy và tôi tin”.
Để hiểu rõ sự kiện chúng ta hãy trở lại chiều thứ Sáu, sau khi Chúa Giêsu chịu chết, Phúc Am ghi lại rằng, chiều Thứ Sáu hôm đó người Do thái đến xin Philatô cho hạ xác những người bị đóng đinh xuống, vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày Thứ bảy là ngày nghỉ lễ, gọi là ngày Sabat. Hơn nữa, ngày Sabat đó lại là ngày Sabat trong mùa lễ Vượt qua của họ. Phép tắc thủ tục xong, xác Chúa Giêsu được hạ xuống thì đã chiều tà, và theo phong tục của người Do thái, họ tính ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn, khi mỗi người với mắt thường nhìn thấy được ít nhất vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì thế Đức Mẹ cùng với bà Maria Madalena và các môn đệ phải hối hả lo chôn xác Chúa Giêsu cho xong để về nhà trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo, vì ngày Sabat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết qua về cách liệm xác của người Do thái; cách liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại trong tấm vải trắng, xong lấy băng vải quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đấy thì đem đặt xác vào hang đục sẵn trong đá và lấy tảng đá lớn đậy cửa hang lại. Vì hối hả cho nên Maria Madalena về nhà nhận thấy mình không cẩn thận đủ với Thầy kính yêu của mình, nên bà nán lòng chờ đến ngày Thứ Bảy là sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, tức là Ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp lại xác Chúa. Nhưng đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra mà không thấy xác Chúa Giêsu còn trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan, vì Gioan còn trẻ nên chạy nhanh hơn do đó mà đến mồ trước. Gioan chỉ đứng ngoài chờ Phêrô tới, cả hai cùng vào một lượt, họ nhìn thấy vải liệm và khăn che mặt để gọn vào một chỗ, nên Gioan thú thật trong lòng là ông tin Chúa đã sống lại.
Phân tích tâm lý của ba nhân vật chúng ta sẽ thấy tại sao đối với Maria Madalena, bà đến mồ chỉ mong ướp xác Thầy lại cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm nơi tay mà đầu óc bà chỉ nghĩ đến một thi thể đã nằm yên bất động, nói tắt một lời là bà đến mồ để tìm xác chết. Trong một tâm trạng như thế, khi thấy ngôi mộ trống không, bà khó có thể nhận ra việc Chúa Giêsu sống lại thật.
Còn Phêrô, ông sợ hãi, ông đã chối Thầy mình trong giờ phút bị hành hạ nhục nhã và ông sợ sệt bị liên lụy vì Thầy đã chết, đã chôn yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin được hai chữ “bình an”. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu, ông đang lo có lẽ đứa nào đó sau khi giết Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ, để xử tử họ nữa chăng. Ông là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra, trong lòng chỉ nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng, Chúa Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Am của ông, khi viết điều gì có thể liên quan đến mình thì thánh Gioan luôn dùng kiểu nói: “Người môn đệ được Chúa Giêsu yêu dấu”. Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu đó thể hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giờ phút cuối cùng, thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên đường thập giá và cũng là tông đồ duy nhất đứng dưới chân thập giá. Cuối cùng, ngài chỉ về nhà cùng với Đức Mẹ sau khi chôn cất Chúa Giêsu xong.
Kinh nghiệm cho thấy rằng khi yêu ai thì người ta thường hay nghĩ đến người ấy, luôn cảm nghiệm cách hiện diện của người ấy trong cuộc đời của mình, dù cho nhiều khi hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau hoặc từ biệt. Gioan yêu mến Thày, vì thế Chúa Giêsu luôn hiện diện trong ông, vì vậy ông luôn nhớ lại lời giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại. Vì Thầy đã từng nói: “Con Người sẽ bị nộp vào tay quân dữ, họ sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại”. Với tâm tình đó, Gioan nhận ra dễ dàng việc Chúa Kitô Phục sinh. Ông đã thấy và ông đã tin.
Qua việc phân tích tâm lý của ba nhân vật phần nào có thể giúp cho chúng ta một bài học thật quí giá là: “Chỉ có tình yêu đích thực từ đáy tâm hồn mới làm cho người ta dễ nhận ra Chúa Kitô Phục sinh”. Thật vậy, cuộc đời của người Kitô hữu là một cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng đi tìm Chúa, chúng ta có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa. Chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của mọi biến cố trong cuộc đời của mình, nếu chúng ta biết yêu Chúa như Gioan, nghĩa là làm cho tâm hồn mình luôn tiến bước trên con đường tình yêu của Chúa.
Ước gì cuộc hành trình đức tin ấy luôn là ngọn đèn soi dẫn chúng ta tiến bước trong cuộc sống trần gian này, để rồi giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta biết nhận ra được sự hiện diện của Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Xin Ngài gìn giữ đức tin của chúng ta luôn vững mạnh, đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
64. Phụ nữ.
Chưa bao giờ Phụng vụ Lời Chúa lại dành cho giới phụ nữ một vị thế đáng trân trọng như hôm nay. Vâng, thực đấy. Tin Mừng lễ Phục Sinh nói nhiều đến họ. Họ là những người nhận được tín hiệu Phục Sinh đầu tiên, họ cũng là những người được Đấng Phục Sinh cho gặp mặt trước hết, và chính họ còn là những người được trao nhiệm vụ lớn lao là đem Tin Vui Phục Sinh đến cho các tông đồ. Nói khác đi, sở dĩ giới nữ có được vị thế trân trọng là vì ưu thế của họ trước Tin Mừng Phục Sinh. Nhưng tại sao họ lại có được ưu thế ấy? Phải chăng chỉ vì họ là phụ nữ? Tất nhiên không phải thế, mà vì những lý do khác.
- SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT TRÁI TIM CHÂN THÀNH
Phúc Am kể: từ sáng sớm khi trời còn tối ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ đã đến thăm mồ Chúa Giêsu. Các bà đến chẳng phải vì tò mò, bởi nếu có, thiết nghĩ sự sợ hãi còn lớn hơn sự tò mò nữa, mà đúng ra chỉ vì cảm tính rất phụ nữ: các bà yêu mến Chúa Giêsu, nên muốn được biểu tỏ cảm tình chăm sóc Ngài, cho dẫu Ngài đã bị đóng đinh, đã chết và đã được an táng trong huyệt đá. Thế thôi.
Người ta bảo: trái tim giới nam có nhiều ngăn được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên lâu ngày thành nếp, ngày nào thứ tự ấy bị đảo lộn, ngày ấy có lộn xộn trong nhịp sống. Không biết có phải vì thế mà giới nam ưa bị nhồi máu cơ tim? Người ta cũng bảo: trái tim giới nữ chỉ có một ngăn duy nhất, một khi ngăn ấy đã dành cho ai thì chỉ có trời mới biết điều gì xảy ra. Có lẽ vì thế, ghen tuông chính là thuộc tính đi liền với giới nữ? Không biết đúng sai? Nhưng nếu không sai, thì rõ ràng là trong khi đáng lẽ phải lâm vào cảnh thất vọng sợ sệt co cụm khép kín, thì giới nữ trong bài Phúc Am lại vượt lên để bất chấp tất cả: bất chấp sự chết, bất chấp mồ bị niêm phong, bất chấp cả lính canh, miễn là họ được ở gần vị Thầy tôn quý.
Thiết tưởng, một trái tim chân thành như thế, ở giới nữ cũng như ở bất cứ ai, cũng xứng đáng nhận được Tin Mừng Phục Sinh.
- SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ MỘT GẮN BÓ TRUNG THÀNH
Phúc âm hôm nay không thấy bóng tông đồ nào. Trước thảm kịch ngày thứ sáu tuần thánh, chẳng ai bảo ai, họ trốn chạy mỗi người một ngả. Mạnh miệng như ông Tôma có lần hạ quyết tâm “Nào cùng lên Giêrusalem chịu chết cả đám”, thế mà trong ngày thương khó của Chúa, ông là “người thợ lặn” giỏi nhất, lặn biệt tăm. Sôi nổi như ông Phêrô có lúc đã quyết liệt “Dẫu mọi người bỏ Thầy, con đây xin đồng sinh đồng tử với Thầy”, thế rồi sau đó chính ông trở thành kẻ chối Chúa táo bạo nhất, không chỉ một lần mà những ba lần.
Trong khi ấy, phụ nữ lại là những kẻ gắn bó trung thành với Chúa Giêsu hơn bất cứ ai. Họ có mặt bên Chúa trong cuộc khổ nạn, họ đứng gần dưới chân thánh giá cùng với Mẹ Chúa, họ góp sức trong lúc an táng, và hôm nay, dẫu Chúa đã ba ngày bị vùi chôn trong ngôi mộ niêm phong, họ vẫn trung thành đến viếng thăm ngay từ khi bình minh ló rạng. Và thế là mồ đã mở toang và họ được hạnh phúc là những người đầu tiên ghi nhận sự kiện phục sinh, cho dẫu đó mới chỉ là dạng thức sơ khởi của một ngôi mộ trống vắng.
Nếu hạnh phúc không phải từ trời rơi xuống, mà “như ngọc trong đá không có cho ai đi qua hững hờ”, thì rõ ràng gặp được Tin Vui Phục sinh chính là hạnh phúc cho họ và cho tất cả những ai đã trung thành gắn bó với Đức Kitô trong cuộc khổ nạn đời sống hằng ngày, bất luận họ là giới nữ hay giới nam.
- SỞ DĨ GIỚI NỮ CÓ ĐƯỢC ƯU THẾ TRƯỚC TIN MỪNG PHỤC SINH, LÀ BỞI VÌ HỌ CÓ NHỮNG BƯỚC ĐI NHIỆT THÀNH
Để ý một chút, người ta thấy hình ảnh người nữ nêu lên trong Phúc âm hôm nay rất lạ. Thay vì dáng vẻ yểu điệu thục nữ như trong các buổi biểu diễn thời trang áo dài Việt Nam nhiều người đã xem, thay vì những bước chuyển động nhẹ nhàng và dịu dàng giới nữ muôn đời vốn có, hôm nay qua trang Tin Mừng họ lại chạy, chạy vội vàng, chạy hớt hải, cắm đầu mà chạy. Nhưng đó chính là hình ảnh sinh động minh họa cho một chuyển động nhiệt thành, chỉ có được khi đã tiếp cận với dấu chứng phục sinh và đã trở thành điều kiện cần thiết để loan tin vui Phục sinh đến với mọi người.
Trước biến cố Phục sinh, bọn lính canh đã khiếp sợ, bởi vì họ chỉ là những kẻ canh giữ xác chết, còn người phụ nữ ban đầu có vẻ sợ đấy, nhưng lòng nhiệt thành đã giúp họ thắng vượt tất cả. Để mãi mãi hiểu rằng: Tin Mừng Phục Sinh một khi đã nhận được, người ta không thể giữ riêng làm của gia bảo, cũng không thể dửng dưng lạnh lùng, gỗ đá, càng không thể đa hệ nửa sợ hãi nửa vui mừng, mà chỉ còn lại một niềm vui duy nhất là sẵn sàng gieo bước loan tin Phục sinh bằng đời thấm đẫm tin yêu hy vọng. Đó là ba lý do giải thích tại sao giới nữ lại có ưu thế trước Tin Mừng Phục sinh, và thiết tưởng đó cũng là những điều kiện cần thiết cho tất cả mọi người trong lòng tin vào Đức Kitô Nguồn Sống. Hôm nay, cùng với Giáo Hội, ta lặp lại lời tuyên xưng đức tin: Đức Kitô là điểm đến của chương trình cứu độ. Nếu Thiên Chúa đã sáng tạo con người cách lạ lùng, thì Ngài còn tái tạo con người trong Đức Kitô Phục Sinh một cách lạ lùng hơn nữa, dù đời người và người đời đầy dẫy những vực thẳm tội lỗi chết chóc, nhưng vẫn có đó chiều cao của ơn thánh và sự sống. Đức Kitô chiến thắng tội lỗi và sự chết là để mở ra cho ta đường vào cuộc sống mới, nhưng ta có mới được hay không, mới nhiều hay ít, mới trong hay ngoài là tùy thuộc vào tâm tình của ta hôm nay trước Chúa Kitô. Sẽ là đong đầy sự sống nếu ta biết dành cho Ngài một trái tim chân thành sẵn sàng rung động trước những lời gọi của Tin Mừng giữa con lốc xoáy của kiểu sống kinh tế thị trường hiện tại. Sẽ là ngọt ngào sự sống nếu ta biết trung thành gắn bó với Đức Kitô vượt qua những nghịch cảnh không thiếu giữa chốn chợ đời. Và sẽ còn là vô cùng sự sống nếu ta biết dệt đời mình bằng những bước đi nhiệt thành tin yêu, cho dẫu ở đâu đó, người ta vẫn còn cư xử với nhau bằng hung ác của những trái tim chó sói, hay vẫn còn hiện diện bên nhau bằng giả dối của những chiếc mặt nạ da người. Được như thế, niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh mới là niềm tin của sự sống và người ta mới có thể sống vươn lên nhờ lòng tin của mình. Và như thế, nghĩ đến ưu thế của giới nữ trước Tin Mừng Phục sinh hôm nay rốt cuộc cũng chính là nghĩ về mình. Chẳng phải vì muốn chơi đẹp như phép lịch sự phương Tây, cũng chẳng phải vì tình cờ ngẫu hứng mà Đức Kitô đã dành cho giới nữ ưu tiên ấy, mà chỉ vì muốn thông qua họ, cho thấy một chân lý. Đó là: tất cả những ai chân thành tin, trung thành hy vọng và nhiệt thành yêu mến gắn bó với Đức Kitô, dù phải trải qua những khổ nạn trong cuộc sống cụ thể hằng ngày, họ sẽ là những người hạnh phúc biết sống do và cho Đấng Phục sinh. Hôm nay Phụng vụ hát lên niềm vui Allêluia, chúc mọi người trở thành những nốt nhạc sống động trong khúc hát mới của những con người mới đi trên đường mới của Đức Kitô Phục sinh.
65. Ngôi mộ trống – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
- Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
- Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
- Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1Cr 15,14); “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1Cr 15,17-19).
- Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
- Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại” (1Cr 6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?
- Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: “Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
- Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới: “Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự hủy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy “cái tôi ích kỷ” của ta, thì “cái tôi” ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
- Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy “cái tôi ích kỷ” của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
- Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: “Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa” (Ep 4,24); “con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình” (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, “hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn” (Ep 4,23); “Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới” (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
66. Phục sinh cùng Chúa
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Chúa đã phục sinh. Lẽ ra ta phải phục sinh với Chúa, phải bước ra khỏi vùng tối tăm để nhập cuộc với ánh sáng huy hoàng của ơn phục sinh.
Nhưng nhiều lần xét mình, ta chợt thảng thốt: cứ hết lễ phục sinh này đến lễ phục sinh khác, hết mùa phục sinh năm nay, lại đến phục sinh năm tới…, tâm hồn ta vẫn còn thuộc về bóng tối,
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực sâu không có lối thoát.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí, khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm tội. Vì lợi nhuận mà làm thiệt hại người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù làm tâm hồn ta không lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến linh hồn ta không tìm thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Mùa phục sinh luôn luôn có hình ảnh cây nến. Nến phục sinh tượng trưng Chúa Kitô, Đấng đã thoát ly khỏi tối tăm của thế gian, mang lại ánh sáng phục sinh vô biên cho chính thế gian, phá tan bóng tối thế gian.
Như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới giữ được ánh sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân, quên mình, chịu chết cho tội lỗi, để sống một đời sống mới cho Chúa và trong Chúa.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng của Chúa. Amen.
67. Chúa Kitô phục sinh – Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Chiếm vị trí quan trọng trong Kitô giáo, mầu nhiệm Phục sinh trở thành mầu nhiệm trung tâm của niềm hy vọng vĩnh cửu mà loài người mong đợi. Bởi thế không lạ gì thời gian cử hành mầu nhiệm Phục sinh là thời gian cao điểm của cả năm phụng vụ. Vì là mầu nhiệm cao cả, lễ Phục sinh trở thành Đại lễ mà không lễ nào có thể vượt qua.
Nhưng không phải chỉ có phụng vụ mới nhấn mạnh tầm quan trọng của lễ Phục sinh. Đúng hơn, phụng vụ chỉ dựa trên những gì đã được mạc khải, vì thế ta hãy nhìn lại chính lời mạc khải của Chúa từ trong Thánh Kinh, nhất là nơi các sách Tin Mừng như nền tảng của đời sống Giáo Hội để mà suy nghĩ, để cầu nguyện và để sống.
Chỉ nơi bốn sách Tin Mừng mà thôi, ta đã có đến 131 câu đề cập đến biến cố Phục sinh, kể từ lúc các phụ nữ đi thăm mồ từ sáng sớm, đã phát hiện ra ngôi mộ trống và được báo cho biết Chúa đã sống lại, đến biến cố thăng thiên. Sách Công vụ Tông đồ và các thư Tân Ước còn cung cấp thêm 160 câu về đề tài Phục Sinh của Chúa chúng ta. Chỉ riêng thánh Phaolô đã có 22 lần nhắc đến.
Không ai phủ nhận rằng, mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô là mầu nhiệm có tầm quan trọng. Vì khởi đi từ mầu nhiệm này, Con Thiên Chúa làm người. Phải có một con người – Thiên Chúa ấy, thì hôm nay mới có Đại lễ Vượt qua thánh thiện này. Biến cố giáng sinh còn là một sự kiện lịch sử quan trọng, không chỉ vì biến cố ấy trở thành cái mốc quan trọng của thời gian, nhờ đó loài người biết được năm tháng ngày giờ, nhưng biến cố nhập thể còn quan trọng hơn nhiều trong niềm tin vào một dòng lịch sử có bàn tay Thiên Chúa đang điều khiển từng ngày, để hướng dẫn, lèo lái mọi biến cố lịch sử theo ý Ngài: lịch sử cứu độ. Chính biến cố nhập thể ấy, đã làm cho lịch sử cứu độ lật sang trang mới. Và Đấng Phục Sinh hôm nay là trung tâm của cả dòng lịch sử đang trôi giữa mọi chiều kích lịch sử của con người. Bởi thế, không ai còn nghi ngờ rằng, mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh là mầu nhiệm rất quang trọng. Thế nhưng mầu nhiệm quan trọng ấy chỉ được nhắc đến ít hơn nhiều so với mầu nhiệmVượt qua.
Vì sao sự Phục sinh của Chúa Kitô lại quan trọng như thế? Là bởi vì Kitô giáo không bao giờ là một mớ lý thuyết trừu tượng, nhằm cung cấp một hệ thống giáo điều hay tín lý. Nhưng Kitô giáo trước tiên là một phẩm vị, là một lẽ sống, là chân lý được cụ thể nơi một con người. Con người ấy cũng chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, sống trong trần gian và dạy người ta phải sống các giá trị cao cả, các giá trị mang chiều kích thánh thiên hướng về Thiên Chúa: “phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo”; “phúc cho các người là người hiền lành”; “phúc cho các ngươi là những người phải chịu đau khổ”; “phúc cho các ngươi là những người ao ước trọn lành”; “phúc cho các ngươi vì các ngươi biết xót thương”; “phúc cho các ngươi vì đã giữ lòng trong sạch”; “phúc cho các ngươi là người mang lại bình an”; “phúc cho các ngươi vì lẽ đạo mà bị bắt bớ”…
Vì Kitô giáo đặt trung tâm vào Chúa Kitô, bởi thế tất cả những gì là chân lý Kitô giáo phải thuộc về một chân lý nguồn, chân lý mà từ đó phát xuất mọi lẽ sống. Do đó, những giá trị cao cả hướng về Thiên Chúa được tóm gọn trong các mối phúc ấy, đã bị người đời đóng đinh cùng với Đấng đã từng giảng dạy nó. Và hôm nay, hay cho hết mọi thời, nếu loài người đã đóng đi Giêsu, thì những giá trị mà Giêsu rao giảng cũng đã chết một cái chết đáng thương như chính Giêsu vậy. Nhưng không, Giêsu đã chiến thắng. Giêsu là một con người rất bình thường, nhưng cũng là một Thiên Chúa mà tình yêu của Người có sức cứu độ diệu kỳ. Vì thế, một khi Giêsu đã bước ra khỏi mồ, đã toàn thắng, đã khải hoàn phục sinh, thì tất cả những giá trị cao cả mà Giêsu đã rao giảng, đã sống, và đã chết cho nó, trở thành những giá trị vĩnh cửu, những giá trị mà tất cả những ai nghe theo và sống, sẽ mang trong mình chiều kích phục sinh như chính Giêsu, Đức Chúa chúng ta.
Bởi thế, nếu giáo thuyết của Chúa Giêsu có cao đến đâu, siêu phàm cách mấy, nhưng bản thân Người không phục sinh, Người chỉ là một kẻ nói dối, một tên bịp bợm. Và những giáo thuyết ấy sẽ không có bất cứ một giá trị nào. Nhưng hôm nay Chúa Giêsu đã sống lại và vẫn đang sống, sống đến muôn đời, cho nên nếu Kitô giáo là chân lý cụ thể nơi một con người mang tên Giêsu, và chính Đấng mang tên Giêsu là trung tâm của Kitô giáo, thì giáo thuyết của Người là một giáo thuyết tuyệt đối, một giáo thuyết chứa chan niềm an ủi, niềm hy vọng và vĩnh cửu.
Tắt một lời: Đối với Kitô giáo, chỉ có Chúa Kitô, nhờ Chúa Kitô, và trong Chúa Kitô, mọi giá trị của cuộc sống trở thành vĩnh cửu. Trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, Kitô giáo mãi mãi đặt niềm hy vọng cánh chung của mình nơi Người. Bởi thế mà Phục sinh trở thành Đại lễ, và niềm tin phục sinh chiếm chỗ quan trọng trong mọi sinh hoạt của đời sống Giáo Hội, đi từ Lời mạc khải của Thánh Kinh, đến phụng vụ, và đến từng ngõ ngách của đời sống riêng tư nơi mỗi Kitô hữu. Vì nói như thánh Phaolô: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì đã đặt tin tưởng và một chuyện hảo huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, ta vẫn mang tội lỗi ở trong mình, không ai có thể giải cứu được, không ai đưa ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa kitô không sống lại, thập giá chỉ là dấu của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát, cái chết của con người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt (1Cr 15, 12 tt).
Lạy Đấng Phục Sinh là Đức Chúa chúng con tôn thờ, chúng con tin Chúa và hy vọng vào Chúa, vì chỉ có Chúa, Đấng Phục Sinh duy nhất mới có thể đưa chúng con đến với Thiên Chúa. Xin ban bình an cho chúng con, để dù vác thập giá nặng nề đến đâu, dù thập giá có làm chúng con ngã xuống vì hết sức, vì tàn hơi, chúng con vẫn can đảm đặt niềm tin và hy vọng vào Chúa, Đấng Phục sinh vinh hiển đang đổ tràn ơn Phục sinh trong cuộc đời chúng con.
68. Sự biến đổi kỳ diệu
(Suy niệm của Lm. Mark Link, S.J.)
Chủ đề: “Phục sinh chính là tin mừng rằng
Chúa Giêsu sẵn sàng làm phép lạ trong cuộc đời chúng ta, nếu chúng ta để Người thi hành.”
Ernest Gordon có viết một quyển sách tựa đề Through the Valley of the Kwai River (Ngang Qua Thung Lũng Sông Kwai), trong đó ông trích dẫn một chuyện có thật xảy ra tại một trại tù binh Nhật dọc bờ sông Kwai trong thế chiến II. Nhiều người trong chúng ta đã nghe nói về trại này trong cuốn phim Bridge Over the River Kwai (Cầu Sông Kwai). Nơi đây 12 ngàn tù binh đã chết vì bệnh tật và bị đối xử tàn tệ khi họ phải xây một tuyến đường xe lửa.
Đàn ông bị cưỡng bức lao động dưới cái nóng đôi khi lên đến 120 độ F (khoảng 49 độ C). Đầu trần, chân đất, họ vác từng thúng đá trên vai để xây cho xong toàn bộ tuyến đường. Họ chỉ mặc mỗi manh áo rách và nằm ngủ trên mặt đất không chăn chiếu.
Nhưng kẻ thù khủng khiếp nhất đối với họ không phải là lính Nhật hay cuộc sống gian khổ mà lại là chính họ.
Theo lời kể của Gordon, vì quá sợ lính Nhật, nên các tù binh đã bị mắc chứng hoang tưởng. Họ lấy luật rừng cư xử với nhau. Họ trộm cắp của nhau, nghi ngờ nhau và chỉ điểm lẫn nhau.
Bọn canh gác cười nhạo khi thấy những người lính da trắng từng kiêu hãnh biết bao giờ đây đang tiêu diệt lẫn nhau.
Thế rồi một điều khó tin đã xảy ra. Hai tù nhân nọ chia nhóm học hỏi Kinh Thánh cho các tù nhân khác.
Qua việc học hỏi này, dần dà các tù nhân khám phá ra Chúa Giêsu là một người đang sống giữa họ.
Hơn nữa, họ còn khám phá được rằng Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh của ho. Người cũng không có chỗ gối đầu vào bên đêm. Người cũng đói khát, trơ trụi. Người cũng bị phản bội, cũng nếm roi đòn trên lưng.
Tất cả những gì về Chúa Giêsu–Người là gì, Người nói gì, Người làm gì–bắt đầu có ý nghĩa và trở nên sống động.
Các tù nhân không còn cho rằng họ là nạn nhân của một tấn bi kịch độc ác nào đó. Họ không còn chỉ điểm. Họ không còn tiêu diệt lẫn nhau nữa.
Sự thay đổi tâm hồn của họ được tỏ lộ không đâu rõ rệt cho bằng trong lời cầu nguyện.
Họ bắt đầu cầu nguyện cho nhau nhiều hơn cho chính mình. Và nếu có cầu xin cho chính họ, thì họ chẳng xin cho được điều gì. Mà xin cho sức mạnh mới mẻ trong tâm hồn của họ được bộc lộ.
Dần dà, cả trại đã được biến đổi, đến nỗi không phải chỉ đám lính Nhật mà cả các tù binh cũng phải ngạc nhiên.
Một đêm nọ, sau khi gặp gỡ với nhóm học hỏi Kinh Thánh xong, Gordon khập khiễng bước về trại của mình. Đang lúc lần mò trong bóng đêm, ông bỗng nghe có tiếng nhiều người ca hát, có người dùng mảnh gỗ để gõ nhịp vào loong thiếc.
Tiếng ca hát và tiếng gõ nhịp làm cho bóng đêm trở nên sống động. Sự khác biệt giữa tiếng hát vui tươi lúc đó và cái yên lặng chết chóc của những tháng qua là sự khác biệt giữa sự sống và sự chết-sự khác biệt giữa sự chết và sự phục sinh.
Câu chuyện về sự biến đổi trong trại tù của Nhật là một minh họa tuyệt vời cho lễ Phục Sinh hôm nay.
Phục Sinh là phép lạ làm cho các tù nhân tin tưởng lẫn nhau sau khi đã nghi ngờ nhau.
Phục Sinh là phép lạ giúp họ biết chia sẻ với nhau thay vì chỉ biết bóc lột nhau.
Phục Sinh là phép lạ khiến họ biết giúp đỡ nhau thay vì chỉ tìm cách tố cáo nhau.
Và điều đó đã quy tụ chúng ta lại nơi giáo đường này trong buổi sáng Phục Sinh đẹp trời hôm nay. Đối với chúng ta, Phục Sinh là gì?
Phục Sinh là sự nhận thức rằng sự biến đổi đời sống nơi các tù nhân kia cũng có thể xảy ra trong chính cuộc sống chúng ta.
Phục Sinh là sự nhận thức rằng sự thay đổi nơi trại tù binh nọ cũng có thể xảy ra trong thế giới chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta cần là điều mà các tù nhân ấy đã thi hành.
Tất cả những gì chúng ta cần là mở rộng tâm hồn để đón nhận các ơn sủng mà Chúa đã chiến thắng cho chúng ta vào dịp Phục Sinh cách đây 2000 năm.
Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô, tin mừng Phục Sinh là không gì có thể chế ngự chúng ta được nữa–dù là sự ngã lòng, sự bất hạnh, sự ruồng bỏ, sự đớn đau và kể sự chết.
Tin Mừng Phục Sinh là chúng ta không cần phải đợi đến khi chết mới được tham dự vào quyền năng phục sinh. Chúng ta có thể bắt đầu thi hành điều ấy ngay tự bây giờ.
Như thế, Phục Sinh mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Giêsu Phục Sinh để Người làm cho chúng ta điều mà Người đã làm cho các tù binh trong trại tù của Nhật.
Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta tin tưởng lẫn nhau sau khi phản bội nhau.
Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta yêu thương nhau sau khi đã khước từ tình yêu của nhau.
Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta lấy lại hy vọng sau khi chúng ta đã làm hy vọng ấy tan thành từng mảnh.
Phục Sinh mời gọi chúng ta hãy để Chúa giúp chúng ta nhặt lại những mảnh vỡ ấy và bắt đầu lại sau khi chúng ta đã sẵn sàng bỏ cuộc.
Đây là tất cả ý nghĩa của Phục Sinh.
Đó là một tin vui cho biết Chúa Giêsu Phục Sinh đang ở giữa chúng ta, ngay trong thánh đường này, vào buổi sáng hôm nay.
Đó là một tin vui cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng sự dữ, sự chết và chúng ta cũng sẽ như vậy, nếu chúng ta mở rộng tâm hồn cho Người.
Đó là một tin vui cho biết Chúa Giêsu sẵn sàng làm phép lạ cho chúng ta, nếu chúng ta để cho Người thi hành.
Đó là một tin vui cho biết không gì có thể tiêu diệt được chúng ta, dù là đau đớn, ưu phiền, bị chối từ, tội lỗi và ngay cả sự chết.
Tóm lại, đó chính là tất cả những gì mà Phục Sinh mang lại cho chúng ta. Và đó chính là điều mà chúng ta hân hoan cử hành khi cùng nhau chuẩn bị bẻ bánh nhân ngày khai sinh đức tin Kitô Giáo của chúng ta hôm nay.
69. Như tạo vật mới – Lm. Minh Vận
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội hân hoan mừng kính mầu nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh. Đây là một sự kiện xác thực đã được lịch sử minh chứng tường tận, không ai có thể chối cãi được. Qua bài sách Tông Đồ Công Vụ, Thánh Sử Luca đã quả quyết: “Chúng tôi là chứng nhân tất cả những việc Chúa Kitô đã thực hiện trong nước Do Thái và tại Jerusalem, Người là Đấng người ta đã giết chết khi treo Người trên Thập Giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và đã hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là những nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước, chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại”.
Cũng chính trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Sử Gioan đã tường thuật sự kiện lịch sử này: Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu mến, sau khi nghe Maria Madalena cho biết: “Người ta đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu”. Thế là hai vị chạy ra mồ, cúi xuống xem và đi vào trong mồ, không còn thấy xác Chúa mà chỉ còn thấy khăn liệm xác, bấy giờ các ông mới tin, bởi lẽ các ông chưa hiểu rằng, theo Thánh Kinh, thì Người phải sống lại từ cõi chết. Nếu chúng ta đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện ra với Thánh Nữ Madalena khi hai Tông Đồ trở về nhà, lúc bà còn ngồi lại bên mồ mà khóc. Chính Thánh Sử Gioan còn thuật lại ba lần Chúa hiện ra với các Tông Đồ. Lần thứ nhất, chiều tối lúc các Tông Đồ đang hội họp trong một nơi, cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do Thái, Chúa hiện đến đứng giữa các ông và phán: “Bình an cho các con!” Lần hai, vì Tôma lúc đó vắng mặt, được các Tông Đồ thuật lại, nhưng ông không tin. Tám hôm sau, các Tông Đồ cũng đang hội họp trong phòng đóng kín khi có mặt Tôma, Chúa hiện đến và phán với các ông: “Bình an cho các con!” Rồi Người bảo Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, xem có phải tay Thầy không, lại cũng thọc bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng nữa, hãy vững tin!” Bấy giờ Tôma sung sướng kêu lên: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi!” Chúa Giêsu đáp: “Hỡi Tôma! Vì con trông thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai chẳng xem thấy mà cũng tin!” Tin Mừng còn thuật lại lần thứ ba Chúa hiện ra với các môn đệ trên bờ biển Tiberia, rồi sách Tông Đồ Công Vụ còn thuật lại việc Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường đi về làng Emau, cùng ăn uống và đàm đạo dạy dỗ các ông nhiều điều. Như thế, mọi lời tiên tri từ ngàn xưa đã nói về Người đều đã được ứng nghiệm.
- Xác tín ơn Phục Sinh vinh hiển
Là con cái Thiên Chúa, chúng ta được diễm phúc hơn cả các Thánh Tông Đồ, như lời Chúa đã phán với Thánh Tôma: “Vì con thấy Thầy nên con mới tin; phúc cho những ai chẳng xem thấy mà vốn vững niềm tin”. Bởi vì: “Tất cả những ai đặt niềm tin vào Chúa Kitô, thì nhờ danh Người mà được ơn tha tội, được cứu độ và đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời”.
Nhờ Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phục Sinh làm bảo đảm vững chắc, chúng ta xác tín rằng: Chúng ta cũng sẽ được phục sinh vinh hiển với Chúa Kitô. Khi đó, chúng ta như một tạo vật mới, được nên giống như Chúa, để cũng được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu và đồng hiển trị với Chúa trong Vương Quốc vinh quang bất diệt của Người.
Để hiểu được phần nào mầu nhiệm Phục Sinh chúng ta sẽ được, khi chúng ta trở nên một tạo vật mới của Chúa; chúng ta lấy một ví dụ trong thiên nhiên: Khi con tằm đã đủ ngày đầy tháng, người ta đặt nó bám trên tấm phên tre kết thêm những cọng rơm, phơi dưới ánh nắng trong ngày đẹp trời. Con tằm nhả tơ trong bụng và từ từ kết thành một tổ kén bằng tơ lụa vàng óng ánh tuyệt đẹp dưới ánh nắng. Khi xong nhiệm vụ, con tằm rút mình nằm trong tổ kén một thời gian, khi đó được gọi là con nhộng. Sau chu kỳ, con nhộng biến thái thành con nhài có cánh bay được, mà người ta gọi là con bướm, con nhài hay con bướm cắn tổ bay ra sinh trứng và nở thành những con tằm con… Cũng vậy, khi thân xác chúng ta được phục sinh, chúng ta cũng trở thành một tạo vật mới tương tự. Còn hơn nữa, thân xác chúng ta được nên giống thân xác vinh hiển của Chúa Kitô, nó có thể thấu nhập tựa ánh sáng chiếu qua thủy tinh, như chính Chúa Kitô đã thấu nhập và hiện ra với các Tông Đồ trong phòng vẫn đóng kín.
- Từ cõi chết tới nguồn sống
Chúa Kitô đã vượt qua từ cõi chết tới nguồn sống, nghĩa là để được phục sinh vinh hiển, Ngài đã phải lãnh nhận mọi khổ thống trong cuộc khổ nạn và cái chết ô nhục, như một lễ hy sinh hiến tế dâng lên Chúa Cha, đền tạ phép công bình Thiên Chúa bị xúc phạm và trở nên Giá Ơn Cứu Độ cho nhân loại.
Để được xứng đáng hưởng Ơn Phục Sinh như Chúa, được lãnh Ơn Cứu Độ và đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa; chúng ta cũng phải sẵn sàng lãnh nhận mọi đau thương thử thách, phải chiến đấu can trường, cho tới lúc đạt được chiến thắng trong vinh quang, để được cùng với Chúa khải hoàn tiến về quê hương hạnh phúc, nơi mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được, hạnh phúc Chúa đã dành cho con cái trung thành của Chúa.
Như hạt lúa miến, cần phải chịu chôn vùi và chịu mục nát dưới lòng đất, mới có thể vươn lên thành cây xanh tươi đầy sức sống, trổ sinh bông hạt.
Như Chúa Cứu Thế, phải chịu muôn vàn đau thương, chịu chết ô nhục trên Thập Giá, mới nên Giá Cứu Chuộc chúng ta. Chúng ta cũng phải cùng với Chúa vượt qua: “Từ thập giá tới vinh quang”, từ cõi chết tới nguồn sống. Vì theo lời Thánh Phanxicô: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
III. Một tấm gương anh dũng
Đây một tấm gương anh dũng: Ngày 22.9.1922, một nhóm 52 người Công Giáo đã chịu tử đạo tại Nhật Bản. Trong đoàn các Vị Tuẫn Giáo anh dũng đó, có một bà mẹ với cậu bé trai mới lên 4 tuổi tên là Ignatiô. Một năm trước đó, Cha Spinola đã ban Phép Thánh Tẩy cho em; lúc này chính Cha cũng đang chờ án chết. Ngài muốn gởi đến đoàn Anh Hùng đang chờ án tử hình những lời nhắn nhủ sau cùng của Vị Chủ Chăn. Thấy bà mẹ mà không thấy đứa con, Cha hỏi em bé ở đâu. Tức khắc, bà mẹ bồng con dơ lên cao cho Vị Chủ Chăn trông thấy. Bà nói:
– Thưa cha, cháu đây. Cháu sắp chết với con và cháu hạnh phúc lắm rồi.
Rồi bà nói với con: “Con ơi, hãy nhìn xem vị Linh Mục đã biến con thành con Thiên Chúa, con hãy xin ngài ban phép lành cho con”.
Bé Ignatiô với bộ đồ mới tinh trắng toát, đôi tay chắp lại, dáng vẻ sốt mến như Thiên Thần, cúi đầu lãnh phép lành. Mọi người hiện diện nơi pháp trường thấy thế òa lên khóc. Nhiều chiếc đầu bị chém lăn lóc dưới chân em bé, kể cả chiếc đầu của mẹ em. Em vẫn không tỏ vẻ khiếp đản, trái lại còn tỏ ra rất anh dũng. Em quì xuống giữa vũng máu đào và nghiêng đầu, giơ cổ cho tên đao phủ chém.
Kết Luận
Lạy Chúa, xin thêm Đức Tin cho chúng con, để nhờ đó cuộc sống chúng con được biến đổi, bản thân chúng con được siêu thăng và trở nên một tạo vật mới. Chớ gì Đức Tin của chúng con đng được Chúa chúc phúc, vì chúng con không chỉ dựa vào điều mắt thấy tai nghe, nhưng là do niềm xác tín vào Lời Chúa mạc khải, bằng tất cả lòng yêu mến Chúa thiết tha, xứng với nghĩa vụ chúng con là con cái ngoan thảo của Chúa.
70. Ơn Phục Sinh – Lm. Thu Băng, CMC
Hàng năm chúng ta cùng với Giáo Hội long trọng mừng đại lễ Phục sinh, mừng biến cố Chúa Kittô sống lại để phục hồi chúng ta trong ơn nghĩa tử. Đây là dịp tốt để chúng ta suy tư về sự phục sinh của mình. Mỗi người chúng ta có hai biến cố phục sinh: Phục sinh với Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy và phục sinh viên mãn trong ngày chúng ta cùng sống lại trong vinh quang.
- Phục sinh trong Bí Tích Rừa tội.
Thực vậy, khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta được phục hồi ơn làm con Thiên Chúa, được quyền hưởng gia nghiệp nước trời, được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Ơn Phục sinh này là cửa ngõ đón nhận chúng ta vào nhà Giáo hội, được biến đổi từ con người không có ơn nghĩa Chúa, đến tình trạng làm con, được gọi Chúa là Cha và được toàn thể các thánh trên trời và mọi phần tử Giáo hội trần gian là anh chị em. Cũng qua Bí tích này chúng ta được hiệp nhập với mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, được thừa hưởng kho tàng ơn thánh mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội, được có khả năng làm việc lành đáng thưởng công và có một cuộc sống mới trong Chúa Thánh Thần (Glcg.1262). Chúng ta có thường xuyên cảm tạ Chúa vì ơn trọng này không?
- Phục sinh trong Bí Tích hòa giải:
Lại nữa, qua Bí tích Hòa giải, chúng ta được ơn trở về mỗi khi chúng ta dại dột phạm tội mất lòng Chúa. Nhờ Bí Tích này, chúng ta không những được làm hòa với Thiên Chúa, mà lại còn được thêm ơn thánh để bền lòng chiến đấu với những cơn thử thách mới. Như thế mỗi lần lãnh nhận Bí tích Hòa giải lại là một lần chúng ta cử hành lễ Phục sinh, tái diễn việc sống lại từ cõi chết tinh thần.
- Phục sinh trong ngày tận thế.
Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng vững vàng “xác loài người sống lại để hưởng vui sự sống đời sau”. Điều này chứng tỏ chúng ta đang mong đợi một cuộc sống mới vĩnh cửu, mà Thiên Chúa vĩnh viễn ban lại cho chúng ta sự phục sinh bất diệt của thân xác, một cuộc sống lại kỳ diệu giống như cuộc sống lại với thân xác vinh quang của Đức Kitô, một thân xác linh thánh vượt trên cả vật chất.
Lễ Phục sinh thật là một cơ hội quí báu và thích hợp để chúng ta hướng về gia đình thiên quốc, hướng về sự sống vĩnh cửu quê trời. Khi nhắc lại cho mình tới nơi hạnh phúc ấy, chúng ta nhắc lại trách nhiệm của mình là làm sao sống xứng đáng với nghĩa vụ làm con dân nước trời? Phải sống theo lời mời gọi “trọn hảo hơn” của tin mừng. Không chỉ làm lợi cho cuộc đời trần thế, mà phải dành dụm cho sự sống ngày sau “Hãy lợi dụng của đời này mà mua lấy nước thiên đàng”. Chúng ta hãy kiểm xem trong gia đình ai là người khao khát tìm kiếm sự sống lại? Ai là người biết đặt nước Thiên Chúa trên tất cả những lo lắng trần thế?
Xin Mẹ Maria, Mẹ Chúa Phục sinh chúc lành cho gia đình anh chị em và ban cho chúng ta ơn biết lợi dụng mùa thánh thiện này để nhớ đến ơn cứu sống Chúa Phục sinh dành cho chúng ta.
71. Ngôi mộ trống – Ts.Trần Duyệt
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ, oan kiên và tất tưởi của cuộc sống. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công đã đưa Ngài đến cái chết. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con” (Mt 27:46). Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.
Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã chỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Mađalêna và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu” (Gio 20:2). Điều này cũng làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.
Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Mađalêna và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Đức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x Gio 20:1-10).
Thời gian là buổi sáng phục sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ấy, ta mường tượng các phụ nữ kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.
Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Golgotha. Nơi mà buổi chiều thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vàng.
Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài lịch sử cứu độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng vẫn còn là một nghi vấn! Và những chứng từ ấy có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?
Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Mađalêna và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng phục sinh không: “Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lại” (Gio 20:15).
Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quì một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.
Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc phục sinh không: “Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất” (Gio 20:3-5).
Đời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Mađalêna. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô lẫn Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.
Nhưng có lẽ ít ai để ý và dành cho ngôi mộ trống kia một chỗ xứng hợp trong biến cố phục sinh. Phải chi ngôi mộ ấy đã bị phá hủy ngay đêm thứ Sáu do lính của La Mã thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc phải chăng đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới vẫn còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại vẫn còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy nên nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố phục sinh.
Ngôi mộ trống cho ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Đức Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của phục sinh.
Ngôi mộ trống còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến ta lúc này, thì Ngài sẽ nhìn thấy một tinh thần vượt thoát từ mồ sâu tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn.
Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong vòng tội lụy, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài phục sinh như Tông Đồ Phaolô đã khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh” (Rom 6:5).
Cuộc đời và cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày phục sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự sống lại của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Để được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đĩn nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, phục sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu phục sinh và vinh hiển.
Ngôi mộ trống vẫn không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng vẫn im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng vẫn chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng phục sinh, với Maria Mađalêna, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa – Đấng xóa tội trần gian – đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài phục sinh vinh hiển.
Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra Chúa đã phục sinh.
72. Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng
Tại sao Chúa hiện ra với Mai Đệ Liên trước các tông đồ?
Dân tộc nào cũng có những câu chuyện thần thoại, càng thần thoại nếu trí tưởng tượng của họ càng giàu. Tuy nhiên câu chuyện của một người đã chết đi ba ngày, rồi tự mình sống lại, là một câu chuyện khó tin, vượt sức tưởng tượng của loài người. Đối với những người không tin, thì đó chỉ là một câu chuyện hoang đường, không hơn, không kém. Tuy nhiên câu chuyện Đấng Cứu thế chết đi sống lại đã được các tiên tri loan báo cả ngàn năm trước, và chính Chúa cứu thế cũng tự loan báo. Để tẩy chay lời tiên tri về việc Đấng cứu thế phục sinh, những kẻ kết án Chúa đã sai quân lính canh mộ Chúa hầu tránh cái âm mưu có thể xẩy ra do môn đệ lấy trộm xác Chúa, rồi phao tin là Thày mình đã sống lại.
Việc Chúa phục sinh từ cõi chết là một biến cố quan trọng không những trong lịch sử Kitô giáo, mà còn có một chỗ đứng đáng kể trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên cả thành Giêrusalem đều mê ngủ trước biến cố phục sinh của Chúa, và mọi sinh hoạt trong thành đều diễn ra bình thường. Còn các môn đệ Chúa thì hoang mang, không biết đâu là thực hư. Tất cả họ đều bị khủng hoảng trầm trọng, không con hi vọng gì nữa. Tâm trí họ bị rối loạn vì những khiếp sợ và bực mình. Họ khiếp sợ vì người Do Thái bách hại. Họ bực mình vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan mọi mối hi vọng.
Chỉ có bà Maria Mađalêna, có tên Việt là Mai Đệ Liên, là người đầu tiên đã xuất hiện đi ra khỏi nơi trú ẩn để tìm Chúa. Bà ta quá sầu khổ về cảnh đóng đinh của Thày mình, nên khi thấy mồ trống, bà ta không còn nghĩ gì khác, mà chỉ nghĩ về việc người ta đã lấy trộm xác Chúa. Mađalêna là người đầu tiên thấy Chúa sống lại, nhưng không nhận ra Người. Bà tưởng đó là người làm vườn cho tới khi Chúa gọi bà bằng tên Maria (Ga 20:16). Đến đây bà vội vã đi về kể cho Phê-rô và Gio-an là xác Chúa không còn ở trong mồ nữa.
Thật là một điều khó tin khi Mađalêna được coi là người đầu tiên loan báo tin mừng Chúa sống lại. Tuy bà ta không ý thức được rằng mình đã được chọn để loan báo cho hoàn cầu việc Chúa phục sinh. Làm sao Chúa hiện ra với bà, một người tội lỗi có lòng ăn năn sám hối, trước khi hiện ra với các môn đệ? Đó là vì bà đã ra viếng mộ Chúa trước tiên.
Cuối Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay được thêm một ý tưởng rất quan trọng: Trước đó họ chưa hiểu rằng, theo Thánh kinh, Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết (Ga 9:20). Chính ông Phêrô đã không hiểu tại sao khăn liệm xác lại được để riêng một bên. Việc đối diện với Chúa phục sinh đã đổi hẳn tất cả. Bây giờ họ thấy, và họ tin. Sách Công Vụ Tông Đồ hôm nay ghi lại: Trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại (Cv 10: 41).
Cũng như các tông đồ, cũng như Mađalêna, ta cũng có những lần hồ nghi về việc Chúa sống lại. Có những khi ta cảm thấy những giờ phút tuyệt vọng, chán chường, những ngày giờ, những năm tháng mà tâm hồn bị bóng tối bao phủ. Ta cảm thấy như là Chúa đi vắng, và không còn gì để bám víu. Tuy nhiên cũng như Mađalêna, cũng như Phêrô và Gio-an, ta vẫn phải đi tìm Chúa, ngay cả khi ta cảm thấy khó tin vào Chúa. Chúa vẫn ở đó chờ đợi ta. Chúa vẫn đến với ta trong đời sống hằng ngày. Ta sẽ khó lòng tìm thấy Chúa nếu ta quá bận tâm lo lắng về những sự vật trần thế, nếu ta mê đắm theo đuổi những chuyện viển vông.
Phục sinh là thời giờ mà ta phải tìm ra câu trả lời cho những thắc mắc và khắc khoải của loài người:
* Ta đang tìm kiếm những gì?
* Có phải ta tìm Chúa và sự công chính của Nước Người hay không?
* Cái lẽ sống và cùng đích của đời sống ta là gì?
* Đâu là chỗ ta có thể bám víu khi mất đi của cải và người thân yêu?
* Ai là người có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn?
* Và ai là người có thể đem lại ý nghĩa cho cuộc sống?
73. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
NGÔI MỘ TRỐNG (16,1-8)
Khi đọc lại trình thuật này, một lần nữa ta cảm thấy đang đọc một bản tường thuật trực tiếp về một người đang sống. Như ta đã thấy, rõ ràng Maccô không phải là một phóng viên chuyên nghiệp, dù văn phong của ông rất sôi động, những tường thuật của ông không mang dáng vẻ gì là trực tiếp cả. Bằng những nét cụ thể, ông muốn truyền thông cho cộng đoàn Kitô hữu một kinh nghiệm về niềm tin sâu xa và chín chắn: đó là một quá trình 40 năm suy niệm (từ năm 30-70). Từ những nhận định này, ta phải hết sức lưu ý đến sứ điệp Maccô muốn nhắn gửi trong trình thuật này, qua những chi tiết ông viết lại.
Sau ngày Sabbat, mọi sự trở lại bình thường (c.1). Bối cảnh thời gian là chiều tối thứ bảy, khi những ngôi sao đầu tiên bắt đầu xuất hiện trên nền trời, báo hiệu ngày lễ nghỉ thánh đã hết. Trước khi trời tối hẳn, các cửa hiệu đều mở cửa bán hàng lại. Người Do Thái có tính lo. Chính vì vậy mà ba phụ nữ chứng kiến Chúa Giêsu chịu chết (15,40) đã lo lắng đi mua dầu thơm để tẩm xác Chúa Giêsu (công việc đáng lẽ phải được làm hôm trước đó). Đây không phải là ướp xác đúng nghĩa theo cách thức người Ai Cập, nhưng chỉ là xức hương liệu lên thi thể theo tập tục người Do Thái (Ga 19,40). Bằng lối tương phản mà Maccô rất sở trường, bóng tối của sự chết (15,33-34) được đặt song song với ánh sáng của một ngày mới (c.2). Ở đây tác giả Tin Mừng đã quy tụ mọi biểu hiệu tượng trưng cho việc khai sinh một thời đại mới. Nó ám chỉ rõ rệt đến buổi sáng đầu tiên của cuộc Sáng thế (St 1,3-5): đó là khởi nguyên cho một thế giới mới vừa xuất hiên. “Ngày thứ nhất trong tuần”, sau ngày hưu lễ Sabbat của người Do Thái, nay sẽ trở thành “ngày Chúa nhật”, dies dominica, “ngày của Chúa” Phục Sinh.
Buổi bình mình mới này xuất hiện trước cả các phụ nữ, những bà vẫn canh cánh mối bận tâm là phải đến cho bằng được để tỏ lòng với Người đã chết hôm trước. Câu hỏi các bà đặt ra khá vô duyên và muộn màng (c.3); hẳn các bà đã biết rằng cần hai hoặc ba người đàn ông mới vần nổi tảng đá rất nặng ra khỏi cửa mồ. Nhưng ở đây tác giả lại không hề chú trọng đến tâm lý nhân vật. Mối lo lắng của các bà là nhằm làm nổi bật nỗi ngạc nhiên xảy ra sau đó: các bà phát giác ra rằng tảng đá mà các bà lo lắng không thể lăn nổi nay đã được vần ra rồi (c.4). “Một bàn tay vô hình” mạnh mẽ phi thường đã thực hiện việc này. Trong văn bản Hy Lạp, người ta đọc thấy câu này: “Hòn đá đã bị lăn đi”. Lối dùng theo thể thụ động này diễn tả hành động của chính Thiên Chúa, tuy không nói rõ tên Ngài ra (x.Mt 28,2): Thiên thần của Chúa, đấng thay thế Ngài, đã lăn tảng đá. Sự kiện cửa mồ được mở ra mới chỉ là điều ngạc nhiên đầu tiên. Một sự thể đáng ngạc nhiên khác quan trọng hơn nhiều, đang chờ đợi các bà: các bà nhìn thấy một thanh niên ngồi bên phải, mặc toàn đồ trắng (c.5a). Cảnh tượng này làm cho độc giả ngày nay phải suy nghĩ. Việc một kẻ ăn mặc như thế, ngồi ở đấy, nơi chôn kẻ chết có ý nghĩa gì? Người ta nghĩ ngay đến chàng trai trẻ khi Chúa Giêsu bị bắt, đã quăng tấm vải choàng đi hầu dễ bề tẩu thoát (tấm vải=vải liệm chăng?) (14,51-52). Hơn nữa, người thanh niên “ngồi bên phải”… Đó là vị trí danh dự như người Kitô hữu hằng coi Chúa Giêsu vinh quang “ngự bên hữu” Chúa Cha (x.16-19b). Sau cùng, “mặc áo trắng” cũng như khi Chúa Giêsu biến hình các môn đệ thấy Ngài cũng mặc như vậy (9,3). Hầu như mọi sự kiện này đều khiến ta nghĩ rằng chính Chúa Giêsu “xuất hiện”! Nhưng tác giả Tin Mừng không cho là như thế. Và truyền thống Tin Mừng ở trình thuật này lại cho rằng đó là một hoặc hai Thiên thần (Mt 28,2b-3; Lc 24,4; Ga 20,12). Thiên thần là “sứ giả” của Thiên Chúa, là đấng thay thế Thiên Chúa vô hình. Sự xuất hiện của Thiên thần ở đây có nghĩa rằng sứ điệp các vị loan báo không phải là của loài người, mà đến từ Thiên Chúa. Thực vậy, người thanh niên loan báo Tin Mừng vượt khỏi trí khôn loài người (c.6b). Sứ điệp này mang một sắc thái hết sức mâu thuẫn: kẻ bị đóng đinh nay đã Phục Sinh. Kẻ bị chết đi, chết tàn nhẫn bằng khổ hình thập giá nay đã trở về cõi sống: Ngài là Đấng Hằng Sống! Đây chính là sứ điệp “Vượt Qua” mà các Tông đồ đã loan báo cho muôn dân (. Cv 2,22-36; 3,12-20 v.v…). Sự bối rối của các phụ nữ biểu lộ mối xúc động tôn giáo sâu xa khi đứng trước cõi siêu nhiên. Từ ngữ “hoảng sợ” (c.5) rất mãnh liệt và chỉ riêng Maccô dùng. Maccô luôn nhấn mạnh đến vực thẳm cách biệt giữa nhân loại và Thiên Chúa (x. 1,27; 9,15; 10,24a). Tin Mừng về Chúa Giêsu chiến thắng sự chết phải được công bố. Bởi vậy các bà được khuyên nhủ phải thông báo cho các môn đệ, nhất là Phêrô (c.7). Mọi Tông đồ đều được nhắn bảo tập trung về Galilê, ở đó Đấng Phục Sinh sẽ gặp lại họ và Ngài sẽ tới đó trước họ. Thế nghĩa là gì? Miền Galilê ở mãi phía bắc Palestin, là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ của mình (1,14-15), nơi Ngài dong duổi khá lâu trước khi lên Giêrusalem (9,30). Tác giả đã nhận định Galilê là môi trường điển hình cho việc tương giao Do Thái ngoại giáo, tượng trưng sự cởi mở đối với toàn thế giới. Bởi thế các môn đệ được mời gọi nhóm họp lại sau lưng Đức Giêsu Phục Sinh để chuẩn bị cho một sứ mạng rao truyền mới.
Như vậy các phụ nữ là những người được ký thác cho một chương trình tuyệt vời: phục hồi Tin Mừng với một sức mạnh mới mẻ.
Ta biết thêm gì nữa? Các bà chạy trốn, lòng đầy sợ hãi, mà chẳng thông báo cho ai cả (c.8). Thái độ này khiến ta ngỡ ngàng. Và càng làm độc giả phải suy nghĩ đắn đo hơn khi biết rằng Maccô đã kết thúc tác phẩm của mình ở đây (ở câu 8). Các nhà chuyên môn đều đồng ý như thế. Phần nối tiếp sau đó (16,9-20), đoạn kết, không phải là văn phong của Maccô. Đó chỉ là một bản “phụ lục” thêm vào tác phẩm để tránh cho nó khỏi bị kết thúc đột ngột, đồng thời mang lại một chung cục có hậu hơn.
Bởi vậy ta cần tìm hiểu tại sao Tin Mừng Maccô nguyên thủy lại kết thúc với việc các phụ nữ sợ hãi, bỏ trốn và câm lặng như thế. Trước hết, nỗi lo sợ. Văn bản Tin Mừng ghi rằng các bà “run lẩy bẩy, hết hồn hết vía”. Maccô bao giờ cũng trung thành từ đầu tới cuối khi nói đến khía cạnh này trong tác phẩm: khi chứng kiến các biểu lộ của Thiên Chúa con người bị hoảng loạn cực độ. Đó là trường hợp của đám đông dân chúng (2,12), của các môn đệ khi họ chứng kiến phép lạ của Thầy mình (5,42b; 6,50). Do vậy lẽ nào các phụ nữ lại không hoảng sợ và run rẩy khi được loan báo về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu?
Kế đến là sự im lặng. Việc các phụ nữ không nói gì với ai cả còn chướng hơn việc họ đã nhận lãnh một sứ điệp phải truyền đạt (c.7). Và nếu quả thực các bà không truyền đạt lại –như các tác giả Tin Mừng cũng công nhận (Mt 28,8; Lc 24,9; Ga 20,2-18) ắt hẳn các Tông đồ cũng không thể biết gì cả… rồi chúng ta cũng vậy! Không biết gì! Nhưng ngay cả thái độ im lặng của các bà cũng đã ăn sâu vào máu thịt của Maccô. Ta thấy rằng các lời mặc khải mầu nhiệm Chúa Giêsu đã nhiều phen khiến bạn hữu Ngài hoàn toàn không hiểu gì. (Họ không dám hỏi lại Ngài 9,32). Do đó không lạ gì thái độ sợ hãi và câm lặng của các phụ nữ khi nhận được tin quá sức tưởng tượng rằng Đấng bị đóng đinh nay đã sống lại. Tin Mừng “Chúa Kitô đã Phục Sinh” bao giờ cũng là một tin khó rao truyền nhất, bởi lẽ hoàn toàn ngược với lý trí.
Đoạn cuối này của Tin Mừng Maccô hẳn làm cho ta phải kinh ngạc. Ta phải hết sức lưu ý chuyện cửa mồ được “mở ra” và sứ điệp của Thiên Chúa giao cho ta chỉ được đón nhận với một đức tin trần trụi như thế này: chứng minh là “kinh nghiệm sống” của những kẻ đã theo Thầy trong cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.
74. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
CHÚA GIÊSU SỐNG LẠI (Ga 20,1-9)
Những lần hiện ra (20,1-29)
Các chương 20 và 21 thuật lại bốn lần Chúa Giêsu hiện ra khi Người sống lại: hiện ra với bà Maria Macđala (cc. 14-18), với các môn đệ mà không có ông Tôma (cc.19-23), với các môn đệ có ông Tôma trong tuần sau đó (cc. 19-23), với các môn đệ bên bờ Biển Hồ (chương 21 là chương mới được thêm vào Tin Mừng sau này). Một phần của nội dung trần thuật này đều thống nhất ở cả bốn Tin Mừng (ngôi mộ trống, hiện ra với các bà và với các Tông đồ). Thế nhưng Gioan, quả có sẵn trong tay các nguồn văn giống như các Tin Mừng Nhất Lãm, đã khôi phục lại cách rất khéo léo. Đặc biệt ông đã cá nhân hóa các kinh nghiệm về đức tin sau Phục Sinh, bằng cách quy kết các kinh nghiệm này cho những cá nhân riêng biệt, cũng như đánh dấu riêng các hình thức tin rất khác biệt: môn đệ được Chúa Giêsu thương mến tin mà không cần thấy (20,8); bà Maria Macđala chỉ nhận biết Chúa Giêsu khi Người gọi tên bà (20,16); các môn đệ thấy Người và tin vào Người (20,20); còn ông Tôma không muốn tin mà không thấy trước và sờ được Người.
Đối với Gioan, cuộc Thương Khó và cái chết là Giờ được tôn vinh. Sự sống lại của Chúa Giêsu và những lần Chúa Giêsu hiện ra trong vinh quang quả là quan trọng, vì chúng đến thánh hóa toàn bộ quá trình của Chúa Giêsu, suy diễn từ buổi sơ khai bắt đầu từ sự sống lại sau cùng: “Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó; họ tin vào Kinh Thánh và lời Chúa Giêsu đã nói” (2,22). Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị thời kỳ của Giáo Hội khi Chúa Giêsu lên cùng Chúa Cha.
Bà Maria Macđala, ông Simon Phêrô và người Môn Đệ Kia (cc. 1-18)
Tiểu đoạn 1-18 được xây dựng chung quanh bốn nhân vật: bà Maria Macđala, ông Phêrô và người môn đệ kia và Chúa Giêsu. Sự việc diễn ra gần bên mộ, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Macđala mở đầu và kết thúc bài trần thuật với hai sứ điệp dành cho các môn đệ, thoạt đầu đưa tin Chúa bị đem đi khỏi mộ (c.2), sau đó loan báo sự Phục Sinh (c.18). Có nhiều cảnh tượng khác nhau; đoạn dành cho bà Maria Macđala bị việc đi thăm mộ của hai môn đệ làm gián đoạn. Tuy vậy độ cao bi thảm hiện rõ trong những lần liên tiếp chạy đi chạy lại ngôi mộ: Bà Maria “thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ” (c.2); người môn đệ kia “thấy những băng vải (vải liệm theo bản dịch phụng vụ) còn ở đó”. Ông Phêrô thấy “băng vải và khăn che đầu” (c.7). Cuối cùng người môn đệ kia “thấy và tin” (c.8). qua các dấu chỉ càng lúc càng rõ nét, độc giả được chuẩn bị đi từ các dấu lạ tiến đến mặc khải về sự Phục Sinh của Chúa Giêsu.
NGÔI MỘ TRỐNG (cc.1-2)
Gioan có trước mặt trình thuật liên quan đến nhiều phụ nữ (chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu). Các Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận có hai bà (Mt 28,1), ba bà (Mc 16,1) hoặc nhiều hơn nữa (Lc 24,10). Gioan chọn xây dựng bài trần thuật của mình chung quanh một mình bà Maria Macđala. Việc bà đi đến mộ không nhằm mục đích thực dụng, bởi vì việc tẩm thuốc thơm đã được hai người đàn ông thực hiện vào áp ngày Sabát. Bà đến mộ trong tư thế thân thương và hiếu hạnh nhằm làm chậm đi sự chia cách với Chúa Giêsu và kéo dài tang lễ (như đã xảy ra trong Ga 11,31). Tình huống nhắc đến đêm tối (của sự chết) và một bước khởi đầu (ngày thứ nhất). Tảng đá đã bị lăn khỏi mộ. Giống như các thánh sử khác, Gioan phòng giữ mầu nhiệm về sự can thiệp của Thiên Chúa diễn ra mà không có nhân chứng, trước khi bà Maria đến. Cuộc gặp gỡ giữa bà Maria và Chúa Giêsu bị chậm lại vì được xen vào việc bà Maria chạy về gặp hai môn đệ.
HAI MÔN ĐỆ (cc.3-10)
Ông Phêrô và môn đệ Chúa Giêsu thương mến, cả hai đều có mặt ngay từ khởi đầu cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong một sự hết sức gần gũi với Người, đau thương cho ông Phêrô vì đã chối Thầy, trung thành nơi người môn đệ kia. Tích cực trong cuộc Thương Khó, hai ông còn tích cực hơn nữa trong việc khám phá mầu nhiệm Phục Sinh. Có sự chênh lệch giữa hai người cũng như có sự trổi vượt trong đức tin của người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến, bởi lẽ môn đệ kia chạy tới mộ nhanh hơn (dấu chỉ sự vồn và ân cần lớn hơn chăng?), sau đó “ông thấy và tin”: dụng ngữ rõ ràng diễn đạt quá trình từ “thấy” đến sự gắn bó trọn vẹn với Chúa Giêsu Phục Sinh. Cảnh tượng đồ liệm hoặc trật tự các đồ này được sắp xếp chứng tỏ rằng thi hài của Chúa Giêsu không bị đánh cắp, mà Chúa Giêsu đã bỏ đi, để lại khăn so có thứ tự nếp nang và đặt đúng vị trí Người mặc. Khác với anh Ladarô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải, Chúa Giêsu không còn cần đến khăn vải nữa vì lẽ Người lìa bỏ thế giới loài người. Gioan không hề nói gì đến đức tin của ông Phêrô (Lc 24,12 nhấn mạnh ông Phêrô rất đỗi ngạc nhiên khi thấy những khăn liệm). Cho đến lúc ấy Kinh Thánh chưa hoàn toàn thuyết phục, tiếp nhận sự chứng nhận của nhiều dấu chỉ dồn dập trên đường của các môn đệ. Họ trở về nhà, nơi mà bà Maria Macđala sẽ mang Tin Mừng đến cho họ. Không tranh luận, không cạnh tranh ngoài mặt, cả hai môn đệ ra khỏi bài trần thuật cùng với sự trổi vượt thích đáng cho mỗi người: ông Phêrô được gia nhập trước tiên, trở nên cho Giáo Hội sơ khai một chứng nhân không thể chối cãi được. Còn người môn đệ kia trổi vượt hơn ông bởi sự gắn bó với Đức Kitô. Mối tương quan phức tạp giữa hai môn đệ này sẽ được minh giải nơi chương 21.
75. Chú giải của Noel Quesson (Mc 16,1-8).
Mỗi năm, chúng ta mừng Lễ Phục Sinh bằng cách lắng nghe sứ điệp của mỗi thánh sử. Năm nay, sau Bài thương khó theo thánh Maccô, chúng ta đọc tiếp trình thuật về biến cố “Phục sinh theo Thánh Maccô” trong Đêm canh thức này, trình thuật của Maccô hết sức ngắn gọn, chỉ gồm có tám câu.
Vừa hết ngày Sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria, mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để ướp xác Đức Giêsu.
Chúng ta đã ghi nhận vai trò quan trọng của các “người nữ”. Theo Maccô, chỉ có các bà mới dám đi với Đức Giêsu tiến đến cái chết của Người trên đồi Golgotha… còn tất cả các nam môn đệ đều đã bỏ trốn (Mc 14,50-15,50).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu trung thành hơn. Xin Chúa đừng để chúng con bỏ rơi những người chúng con yêu thương.
Tôi ngắm nhìn những “phụ nữ tẩm xác”, tay bê nặng những bình dầu thơm, trời còn mờ sáng đang tiến thẳng tới một nghĩa địa. Các bà này chỉ lo lắng một điều: làm sao tẩm dầu thơm cho một xác chết, kết thúc bước đường phiêu lưu của “Đức Giêsu Nagiaret”… thể hiện những bổn phận yêu thương cuối cùng đối với một người thân yêu quá cố, bổ sung cho việc an táng một tử tội khả quan hơn, bởi vì buổi chiều ngày hành quyết người ta không có đủ giờ chôn cất đàng hoàng.
Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Đó là một buổi sáng. Một buổi sáng vùng Địa Trung Hải. Trời mát, không khí tươi dịu trên con đường dẫn đến các bà bước tới, lòng đau đớn với biết bao kỷ niệm. Chung quanh các bà, chim chóc đã bắt đầu ca hót. Xuyên qua các cành cây đang trổ những đọt mầm xanh non, mặt trời nhô lên ở chân trời.
Một buổi sáng mới khởi sự Halleluia, Halleluia…
Vâng, bắt đầu một tuần lễ mới, một thế giới mới, một cuộc tạo thành rưới, một kỷ niệm mới.
Các bà vừa đi vừa bảo nhau: “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây:” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn qua một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm.
Chi tiết cụ thể này rất quan trọng. Cả bốn thánh sử đều đã ghi nhận. “Tảng đá đã được lăn ra”. Nhưng chỉ mình Maccô ghi nhận thêm, tảng đá đó lớn lắm? Chi tiết lịch sử này có thực, hoàn toàn phù hợp với kiểu cách mộ phần thời bấy giờ. Nhưng đối với Maccô cũng như đối với chúng ta ngày nay, thì đó là chi tiết tượng trưng đầy ý nghĩa: một bức tường thực sự ngăn cách con người với sự Phục sinh… được coi như một sự kiện không thể có được… ”Ai có thể cất gỡ được chướng ngại này?”. Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể hủy bỏ được sức nặng ghê gớm của cái chết đang đè nặng trên nhân loại.
Vào trong mộ các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng.
Trình thuật của Maccô, có vẻ giản đơn hơn trình thuật của Matthêu, vì không nói đến “thiên thần”, đến “đất rung chuyển” đến tia chớp sáng”… nhưng chỉ đề cập đến một “người thanh niên”. Maccô có ý giữ nét giản dị như thế: ông chỉ mượn một hình ảnh tối thiểu trong ngôn ngữ khải huyền thông dụng, để tránh những kiểu “tả vẽ” về biến cố Phục sinh. Ông cố khẳng định nguyên sự kiện đó. Nhưng ta biết rằng màu “trắng” luôn là dấu chỉ: đó là màu của ánh sáng, nghịch với bóng tối… đó là màu của vinh quang, màu của các vật thể trên trời. Vào ngày Biến Hình, cũng chính Maccô đã nói đến “một thứ trắng tinh không có một thợ nào trần gian giăt trắng được như vậy” (Mc 9,3). Trong sách Khải Huyền của Gioan, màu “trắng” luôn tượng trưng cho thế giới trên trời (Kh 2,17; 4,14-19; Ed 9,2; Đnl 7,9; Is 1,18; Kh 7,14-19,1-14).
Các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói: “Đừng hoảng sợ!”.
Tất cả những trình thuật về Truyền tin (loan báo một sứ điệp của Chúa) trong Kinh Thánh đều ghi lại chi tiết này. Những gì thuộc về Thiên Chúa thường gây bối rối cho lý trí của con người và tạo nên một thú vị ngạc nhiên, sợ hãi thiêng thánh. Ở đây Maccô sử dụng một từ quen thuộc với ông (exéthambêthêsan = có nghĩa là các bà bối rối, hồn siêu phách lạc). Cũng như không người “Caphacnaum đã kinh ngạc” trước sự can thiệp đầu tiên của Đức Giêsu (Mc 1,27 xem thêm Mc 10,24-32 và 14,33).
Nhưng nếu sự đột xuất của Đấng hoàn toàn khác lạ thường gây bối rối, thì sự hiện diện của Người lại trấn an và làm ta bình tâm ngay. Thiên Chúa không đích thực là Đấng chỉ nhằm hù dọa chúng ta. Người vẫn thường nói: “Các ngươi đừng sợ”.
Thế nên, ta cần lưu ý, Maccô không thuật lại sự hiện ra đúng nghĩa của Đức Giêsu… Nhưng chỉ ghi một “Lời” mạc khải, qua một thiên sứ, nói lên “đức tin”, một trong những điểm của “kinh Tín Kính” ta vẫn đọc.
Các bà tìm Đức Giêsu Nagiaret, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã sống lại rồi, không còn ở đây nữa.
Người bị đóng đinh vì chúng tôi dưới thời Phongxiô Philatô, Ngày thứ ba, Người đã sống lại”
Đó là lời tuyên xưng Đức tin của các Kitô hữu tiên khởi (Cv 2,23; 3,15; 4,10; 10,39; 13,28-30) Đó cũng là đức tin của chúng ta.
Trình thuật của Maccô nhấn mạnh những khía cạnh cụ thể, như thế muốn nói với chúng ta rằng, đó cũng chính là Đức Giêsu, “người Nagiaret”, kẻ “bị đóng đinh”, Đức Giêsu của lịch sử.
Kẻ bị đóng đinh đã thức dậy.
Kẻ bị đóng đinh đã phục sinh
Người không còn ở đây nữa! Vậy Người ở đâu?
Chỗ đã đặt Người đây này, xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô như thế này: “Người sẽ đến Galilê trước các ông”.
Rõ ràng, Maccô không muốn chúng ta quan tâm đến “ngôi mộ” nữa, Thiên Chúa cũng không muốn con người để ý đến “mồ táng” đó. Cả Đức Giêsu cũng thế, trước khi chết, Người đã nói chính lời đó: “Sau khi sống lại, Thầy sẽ đến Galilê trước anh em” (Mc 14,28). Chàng “thanh niên mặc áo trắng ngồi bên hữu phải chăng là chính mình Đức Giêsu, một Giêsu mới, Đức Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha? Đức Giêsu mà người ta mới tiếp xúc đầu tiên, với con mắt trần gian, không còn nhận ra nữa; ta hãy nhớ lại trường hợp của Mácđala, tại khu vườn; bà cứ tưởng Người là người làm vườn” cũng như hai môn đệ làng Emmau, ‘con mắt họ đã bị đóng lại’
Hãy đi! Hãy ra đi! Đừng dừng lại tại ngôi mộ đó. Đừng ở lại Giêrusalem.
Hãy đi về phía trước, nói Đức Giêsu đang sống động nơi Người đã đến trước anh em, nơi Người đã hẹn gặp anh em tại Galilê! Trên miền đất của anh em, những người xứ Galilê, trong đời sống hiện thực thường ngày. Đối với Maccô, Galilê là tên của vùng đất đó, có một ý nghĩa tượng trưng rất lớn. Ong đã nhắc đến tên đó 12 lần trong Tin Mừng của ông. Chính tại đó mà cuộc đời Đức Giêsu đã đạt tới đỉnh cao. Cũng tại đó lần đầu tiên Tin Mừng của Thiên Chúa đã vang lên. Chính Đức Giêsu đã biểu lộ những dấu lạ đầu tiên quyền năng của Người tại đó. Và cũng là nơi qui tụ nhiều đám đông.
Giờ đây, thời của Galilê lại bắt đầu, thời quy tụ một dân tộc mới chung quanh Phêrô, thời của những “dấu chỉ” mới, thời của Tin Mừng: Giáo Hội khởi sự… và giáo hội chính là nơi hiện diện của Đấng “không còn ở đây nữa, nghĩa là không còn ở trong mồ mà người ta đã chôn táng Người”. Đó là một lệnh lên đường.
Nào, hãy lên đường. Đừng ở lại đây làm gì! Hãy đi nói với Phêrô. Hãy trở lại Galilê.
Ở đó các ông sẽ được thấy Người, như Người đã nói với các ông.
Ở đây không giải thích theo phạm vi triết học và lý luận. Các tông đồ cũng như chúng ta, được mời gọi tin theo một lời nói, và dấn thân trong một hành động hiện thực: Góp phần cho việc tập hợp những người tin Đức Giêsu chung quanh Phêrô, và thi hành những gì Đức Giêsu đã báo trước khi Người còn sống.
Đối với Maccô, tin vào việc sống lại, trước hết không phải là vấn đề gây nhức óc cho trí hiểu, nhưng là thái độ cùng với anh em mình dấn thân vào một cuộc sống mới, theo một Lời báo trước!
Vừa ra khỏi mộ, các bà liền cắm đầu chạy.
Các bà đã đến mộ cốt là làm được một việc, thế nhưng các bà lại phải đi mà không thể thi hành được điều đó. Các bà mang dầu thơm về. Các bà vội rời gót khỏi nơi đó.
Các bà run lẩy bẩy, hết hồn vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ quá.
Đây là những lời cuối cùng của đoạn Tin Mừng Lễ Phục Sinh.
“Run lẩy bẩy” (tromos) và “ngây ngất xuất thần” (extasis). Làm sao có thể diễn tả hay hơn sự đột nhập bất ngờ và gây đảo lộn của Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người? Xuyên suốt Tin Mừng của mình, Maccô đã nhấn mạnh đến “bí mật” che giấu căn tính đích thực của Đức Giêsu Nagiaret: mỗi lần có kẻ nào nói quá sớm Người là “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu đều buộc họ phải im lặng. Câu kết này của Maccô giữ trọn ý nghĩa. Chúng ta hãy trân trọng nó? Các người nữ “im lặng” và “chẳng nói gì với ai”: Nói thế nào được khi con người Đức Giêsu đã vượt thoát khỏi mọi nắm giữ và trở nên một mầu nhiệm không còn thuộc phạm vi nhân loại, luôn gây bối rối.
Tất cả những ai muốn kiếm tìm trong những trình thuật trên, một sự “hiển nhiên tuyệt đối” một sự “ổn định hoàn toàn”, thì sẽ gặp thất vọng. Chính Maccô muốn dẫn chúng ta vào sự im lặng của Đức tin và thái độ tôn thờ. Lạy Chúa Giêsu, Chúa cao cả hơn mọi tưởng tượng của chúng con.
76. Chú giải của William Barclay (Mc 16,1-8).
HÃY NÓI VỚI PHÊRÔ
Mọi người không có thì giờ lo liệu việc chăm sóc cuối cùng thi hài của Chúa Giêsu. Vì ngày Sabát đến nên các phụ nữ muốn ướp dầu thơm cho xác Chúa đã không thể làm theo ý muốn. Ngay khi hết ngày Sabát, từ sáng sớm, các bà bắt tay ngay vào công việc buồn thảm đó. Các bà chỉ lo lắng một điều là mộ không có cửa. Chữ cửa được nêu lên ở đây có nghĩa là một khe hở, ngay trước khe hở đó có một cái rãnh ngang, người ta đặt một tảng đá tròn, to bằng cái bánh xe bò tại đường rãnh đó và các phụ nữ này biết họ không đủ sức để lăn một khối đá to như thế ra khỏi mộ. Nhưng khi họ đến nơi, tảng đá đã bị lăn ra, và có một sứ giả thông báo cho họ những tin tức khó tin là Chúa Giêsu sống lại.
Có một điều chắc chắn là nếu Chúa Giêsu đã không từ kẻ chết sống lại thì chúng ta chẳng bao giờ được nghe nói về Ngài. Ý định của các phụ nữ này là đến để lo liệu lần chót cho thi hài người chết. Thái độ của các môn đệ Chúa là mọi sự đã kết thúc, hết sức bi thảm. Cho nên chứng cớ mạnh mẽ nhất cho sự sống lại của Chúa Giêsu là sự hiện hữu của Hội Thánh. Chẳng có điều gì có thể thay đổi những người nam, người nữ đang buồn rầu, tuyệt vọng trở thành những con người rạng rỡ niềm vui, và có sự can đảm bùng cháy trong lòng. Phục Sinh là sự kiện trung tâm cho toàn thể đức tin, chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu cho nên cũng có các hệ quả trực tiếp theo sau.
1/ Chúa Giêsu không phải chỉ là một nhân vật trong sách vở. Ngài là một sự hiện diện sống động. Nếu chúng ta chỉ nghiên cứu về Chúa Giêsu như nghiên cứu đời sống của bất kỳ một nhân vật vĩ đại trong lịch sử, điều đó vẫn chưa đủ. Có thể bắt đầu như vậy, nhưng đến kết cục, chúng ta phải gặp Ngài.
2/ Chúa Giêsu không phải là một kỷ niệm, Ngài là một hiện diện. Kỷ niệm thân thương nhất cũng phai tàn. Người Hy Lạp có một từ để mô tả thời gian, có nghĩa là thời gian xoá sạch mọi sự. Nếu Chúa Giêsu không phải là một hiện diện sống mãi với chúng ta, thì thời gian chắc đã xoá nhoà kỷ niệm về Ngài khỏi ký ức của nhân loại từ lâu rồi. Chúa Giêsu không phải là một nhân vật để chúng ta đem ra bàn cãi, thảo luận. Ngài là một con người mà chúng ta có thể gặp mặt.
3/ Đời sống Kitô hữu không phải là đời sống của một người biết về Chúa Giêsu, nhưng là đời sống của người biết rõ Chúa Giêsu. Chúng ta biết về nữ hoàng Elizabeth, về thủ tưởng Winston Churchill hay về tổng thống Eisenhower, nhưng có rất ít người được biết chính họ. Nhà học giả lỗi lạc nhất thế giới, người biết đủ mọi sự về Chúa Giêsu vẫn kém xa một Kitô hữu đơn sơ hơn hết nhưng biết Ngài.
4/ Có một phẩm chất bất tận về đức tin. Đức tin không hề đứng yên một chỗ. Vì Chúa Giêsu của chúng ta là Chúa hằng sống nên người ta luôn chờ đợi nhiều điều lạ lùng, nhiều chân lý mới mẻ được khám phá thêm mãi.
Nhưng điểm quý báu nhất trong đoạn sách này là mấy chữ không thấy chép trong các sách Phúc Âm khác. Vị sứ giả bảo: “Hãy về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng…”. Thông điệp này sẽ làm cho lòng Phêrô phấn khởi biết bao. Có lẽ lúc ấy, ông đang bị giày vò vì nhớ lại sự bất trung của mình, thình lình có một thông điệp đặc biệt được gửi đến cho ông. Trong tất cả các môn đệ, chắc ông là người tiếp nhận thông điệp ấy bằng thái độ đặc biệt nhất. Đặc điểm của Chúa Giêsu là không hề nghĩ đến sự sai quấy của Phêrô đối với Ngài mà chỉ nghĩ đến sự hối hận đang giày vò ông. Chúa Giêsu quan tâm nhiều đến việc an ủi một tội nhân đang ăn năn thống hối hơn là việc trừng phạt tội lỗi. Có người nói: “Điều cao quý nhất nơi Chúa Giêsu là cách Ngài tin cậy chúng ta ngay tại bãi chiến trường mà chúng ta đã bị đánh bại”.
Sưu tầm