Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
NL: ĐẾN TRƯỚC NHAN NGÀI
ĐC: NGÀY LẠI NGÀY
DL: LỜI DÂNG
HL: CA VANG TÌNH YÊU CHÚA
KL: TÁN TỤNG HỒNG ÂN
Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất
Tuần này lời Chúa cho chúng ta chiêm ngưỡng tính toàn năng và lòng thương xót vô biên của Đức Chúa, được thể hiện nơi Đức Chúa làm người. Những câu Kinh mở đầu của bài đọc một thật hay
“Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ
ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.”
Quả vậy, ở trong thế giới tự nhiên, con người quá tí tẹo so với vũ trụ bao la. Ngắm nhìn bầu trời mông mênh, thăm thẳm, quá đỗi cao vời, chúng ta nhận ra con người thật nhỏ bé biết bao. Và gẫm suy dòng thời gian diệu vợi ta thấy đời người thật ngắn ngủi dường nào. Khi đó lòng mới cảm được lời Thánh Vịnh
“Lạy CHÚA, con người có là chi, mà Chúa cần biết đến?
Phàm nhân đáng là gì, mà Chúa phải lưu tâm?” (Tv 144)
Vậy mà Đấng Công Chính, vị Thẩm Phán Tối Cao
“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người,
để họ còn ăn năn hối cải.
Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu,”
Lời kinh như sữa, mật của lòng thương xót Chúa rót vào tim, cho thấy rõ tình của Thánh Tâm Thiên Chúa dành cho các tội nhân, cho phận người. Nếu Chúa đem lòng ghét bỏ con cái loài người, hỏi có còn ai tồn tại nổi? Lời sách Khôn Ngoan diễn tả thật chí lý, đáng để chúng ta phải suy tư
“Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi ?
Nếu như Ngài không cho hiện hữu,
làm sao nó có thể được duy trì ?”
Đây là lời gương soi cho chính mình, cho những ai có khát vọng sống đức tin thật tốt. Hãy tự hỏi mình “Chúa có yêu thương ta không? Người yêu thương ta tự bao giờ, Người đã là gì cho đời ta? Sao ta tồn tại nổi nếu như Chúa ghét bỏ ta?” Một cơ hội cho ta nghiệm ra tình trạng của chính mình hôm nay và số phận đời đời sẽ đến.
Bài đọc hai đi sâu hơn vào kết cục của những người tin Chúa và dẫn tới ân tình cứu độ. Thánh Phao-lô Tông Đồ cầu nguyện cho người tín hữu với tâm tư “xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin.” Xin dừng lại một chút, chúng ta phân bày rõ hơn ý nghĩa của câu này, ngài nói “xứng đáng với ơn gọi”. Vậy, “ơn gọi” thánh Phao-lô vừa nói là ơn gọi gì? Vì Thánh Nhân viết gởi cho giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca, nên đây là ơn gọi cách chung: ơn được làm con Thiên Chúa. Trong ơn gọi này còn có cả ơn gọi cá biệt của mỗi người, cần có ơn thánh của Chúa để giúp ta hoàn tất nó. Vì với phận người yếu đuối, mong manh và ngắn ngủi chúng ta không thể hoàn thành ơn gọi của chính mình.
Hiệp lại ý tưởng của hai bài đọc một và hai, chúng ta thấy thân phận con người trong thế giới thụ tạo quả là nhỏ bé, ngắn ngủi và mong manh thế kia. Hơn thế nữa, lại còn là những tội nhân đáng Chúa chê bỏ ngàn đời. Giờ lại được Đức Ki-tô Giê-su ban ơn chuộc về làm con Thiên Chúa! Được mời gọi vào phụng sự Nước Thiên Chúa cho gặt hái vinh quang và danh dự vĩnh hằng, có ngỡ ngàng không các con?
Ý nghĩa này được nổi bật lên qua nội dung bài Phúc Âm. Thánh Lu-ca kể câu truyện về ông Da-kêu, một vị quan thu thuế ở thành phố lớn Giê-ri-khô. Cho thấy địa vị dân gian của ông khá cao, thêm giàu có, ắt hẳn đời sống ông thuộc giới thượng lưu, chẳng lo chi chuyện cơm áo gạo tiền. Nhưng tâm hồn ông khao khát điều gì mà phải cất công kiếm tìm? Phải chăng, ông cần hoa trái của đời sống đức tin? Hay vì Da-kêu tò mò điều chi nơi con người của Chúa Giê-su, Đấng lúc bây giờ cũng đang rất nổi tiếng vì các phép lạ Người đã làm cho dân chúng?
Với cả hai lý do thúc đẩy Da-kêu đi tìm Chúa. Bởi vì ông cũng là người Do Thái, Da-kêu từng âm thầm thổn thức lòng trước lời Thiên Chúa hứa với tổ tiên ông. Da-kêu tìm kiếm Chúa Giê-su để xác minh Người có phải là Đấng Mê-si-a không? Những diễn tiến cuộc đối thoại giữa Da-kêu với Chúa Giê-su mà thánh Lu-ca tường thuật, cho chúng ta có nhận định xác đáng: ông Da-kêu quả thật đã có những tâm tình trên. Đúng vậy, ông Da-kêu có tâm trạng như thế, nên Chúa Giê-su là Thiên Chúa hiểu được nỗi lòng của ông. Cho nên, mặc dù đời sống ông Da-kêu khá tội lỗi, tham lam của cải, bóc lột dân đến lỗi đức công bằng nặng nề. Cuộc sống ông đang phân tranh trong chính nội tâm mình, tự sâu thẳm cõi lòng ông Da-kêu vẫn khắc khoải được ở trong ân tình Chúa và chờ đợi Đấng Thiên Sai. Một bên lại bị cuốn vào thế gian, cho đến bộc phát thành ham hố của tiền bất chính. Khiến nó giày vò nội tâm ông, một nội tâm vừa hình thành suy nghĩ “Chúa Giê-su là Đấng có quyền tha tội ở dưới đất” (x. Mt 9,6; Ga 1,29), tất cả thúc đẩy ông tìm kiếm nhan thánh Người. Tâm trạng này của Da-kêu đã thấu đến lòng trời đang mở rộng bởi kỷ nguyên của lòng thương xót Chúa vừa đến với nhân gian.
Thật thú vị, tâm linh Da-kêu vỡ òa niềm vui sướng khi nhận ra Thiên Chúa đã đọc thấu lòng ông, biết những sâu kín nhất đang giằng xé trong ông. Đấng ông kiếm tìm ngỡ như vô cùng xa lạ, xa lạ hơn Quan Tòa với tội nhân. Giờ đây, trong thực thế tự nhiên, Chúa Giê-su chưa hề gặp ông bao giờ, chẳng biết gì về ông, nhưng Người lại gọi đúng tên ông. Và còn thể hiện muốn ở lại nhà ông nữa “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Như thể ông đã có ở trong Chúa Giê-su từ muôn thuở và Người hằng quan tâm đến tâm sự của ông. Những ý nghĩ này làm cõi lòng Da-kêu run bắn lên vì hạnh phúc.
Thấy Đấng Thiên Sai vẫn bình thản trước lời xì xào của thiên hạ “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!”, cõi lòng tội nhân của Da-kêu được khích lệ nhiều hơn. Ông sốt sắng, nhiệt thành tỏ lộ ra những gì đã ấp ủ trong lòng bấy lâu “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” Da-kêu một mình, Da-kêu tham lam vơ vét của dân, lún sâu vào tội. Da-kêu có Chúa Giê-su ở cùng, Da-kêu dứt khoát lòng sẵn sàng cho đi và quyết tâm đền tội.
Cả ba bài đọc, cho ta thấy phận người đã và đang xa rời Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa Tình Yêu có lòng thương xót không bến bờ, hằng dan tay ra trên thập tự để được mãi ôm con người trong giá tình vô biên. Giá tình có chan chứa máu đào trút cạn sự sống Con Người làm chứng tích, có nỗi đau tột cùng bảo lãnh trọn vẹn cho phận người hư vô và tội lỗi. Có lời yêu thương cuối cùng xá giải mọi bản án cho phàm nhân “Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23,33-34a) Lời của Chúa Giê-su nói với Da-kêu “Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” giúp ta có một kết thúc huy hoàng trong chân lý và ơn cứu độ.
Ơn cứu độ được đến với “nhà này”, đầu tiên là nhà linh hồn ta. Phải, Chúa Giê-su đã đến trong ta với cả giá máu Tình Thập Tự qua ngưỡng cửa đức tin. Và Đức Ki-tô dần “lớn lên” trong ta bằng lời Chúa, Thánh Thể và ân sủng của Người. Nhờ đức tin nhà linh hồn ta được gieo những hạt giống đầu tiên của tình trời và sự sống đời đời. Nhờ Lời Chúa và Thánh Thể nuôi dưỡng càng nhiều, càng tích cực, những hạt giống đầu tiên ấy nơi linh hồn chúng ta càng được trưởng thành và trổ sinh hoa trái thần khí dồi dào. Cũng đồng nghĩa qua Lời Chúa, Thánh Thể và ân sủng Chúa Giê-su dần chiếm hữu và biến đổi chúng ta – những tội nhân, nên cho giống Người nhất có thể.
“Nhà này” nghĩa thứ hai, là nhà gia đình ta hay cộng đoàn của ta. Nếu nơi những mái nhà này có Chúa Giê-su hiện diện, ắt hẳn sẽ có yêu thương và sự khao khát Nước Trời là tinh thần chung của cộng đoàn hay của gia đình. Và đời sống sẵn sàng cho đi “một nửa tài sản cho người nghèo” là sự xả thân tương trợ nhau và hy sinh giúp đỡ tha nhân. Cùng với sự phong phú của việc hãm mình, đền tội và cầu nguyện cho các tội nhân của tất cả các thành viên. Những hạt giống tình trời được gieo vào “nhà này” theo ý nghĩa thứ hai, là sự khát khao sống công chính, khát khao Nước Trời ở các thành viên và sự bình an dành cho nhau. Hai hạt giống kể trên được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày sẽ mau chóng lớn lên làm lan tỏa tình thương và chân lý. Ba nói mau chóng, là vì quy luật “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.” (Mt 18,20) Tức là được ân sủng rất dồi dào của Người nuôi dưỡng đời sống đức tin của tất cả các thành viên.
Ôi phận người yếu đuối và tội lỗi đã được “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”!
Chúc tụng Chúa. Amen.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Thông báo: Lãnh ơn toàn xá ngày 1-8 tháng 11.
LƯU Ý: Về việc viếng nhà thờ và viếng nghĩa địa
Từ trưa ngày Lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày Cầu cho các tín hữu đã qua đời, ai viếng nhà thờ, nhà nguyện, đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính, thì được hưởng một ơn đại xá, với những điều kiện theo thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng), nhưng phải nhường lại cho các linh hồn. Mỗi ngày được hưởng một lần mà thôi. Ai bị ngăn trở có thể viếng nhà thờ, nhà nguyện, lãnh ơn đại xá vào Chúa Nhật trước hay Chúa Nhật sau.” (Trích Lịch Công Giáo. Tháng 11).
Tìm và Cứu
“Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu, vì Người sắp đi qua đó”. (Lc 19,3-4).
Thật là hay! một người đứng đầu những người thu thuế giàu sụ, là đại gia quyền bính, lại nảy sinh một sáng kiến, hành động theo cách của trẻ con: leo vắt vẻo trên cây sung để “xem” ông Giêsu đi qua, mà không sợ sệt xấu hổ gì. Chắc ông từng nghe về một ông Giêsu có một không hai, có lần đã “dụ” ngay được anh Lêvi đồng nghiệp thu thuế của ông đổi nghề đi theo Ngài nữa. Háo hức tò mò ông muốn “leo lên”, lén xem một lần cho biết, cũng vì lòng khao khát thúc đẩy, một ước muốn tìm gặp. Không ngờ khi Đức Giêsu đi ngang qua, vì thấu biết mọi sự, Người bỗng nhìn lên và tuyên bố: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19, 5b). Sung sướng biết bao! Đức Giêsu đáp trả vượt xa mong ước của ông. Một lần cho tất cả, ông đã “gặp” Ngài và được biến đổi hoàn toàn, trở thành một Dakêu khác.
Ngày nay nếu tôi không có lòng khát khao ước muốn để tìm gặp gỡ Chúa, nằm lì không chịu tìm cách “leo lên” như ông, sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài. Nhưng nếu mỗi ngày tôi chịu tìm cách để tách riêng khỏi đám đông ồn ào, đi vào cõi riêng tư với Chúa, “leo lên” Nhà Tạm, đến với Bí tích hay trong thanh vắng của tâm hồn với lòng khao khát, sẽ gặp Đấng là Tình Yêu. Trong Ngài tôi sẽ được biến đổi cách lạ thường.
“Ông Dakêu đứng đó thưa với Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19, 8). Gặp được Chúa, ông được ơn sám hối làm đổi mới cuộc đời, lòng quảng đại của ông cũng dâng cao.
Nhờ ánh mắt nhân từ của Chúa, luôn “nhìn lên” chứ không nhìn xuống nét xấu của con người tội lỗi, Người luôn “tìm và cứu những gì đã mất”, ông Dakêu từ một trùm thuế khét tiếng trở thành mẫu gương quảng đại yêu thương người nghèo đáng nể (với nửa tài sản). Luật buộc đền trả tùy theo mức thiệt hại gây ra, ở đây ông sẵn lòng đền gấp bốn, thật đáng kính nể.
Ánh mắt nhân từ, bao dung của Chúa được sách Khôn ngoan trong bài đọc I khẳng định: “Nhưng Chúa thương xót hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải… Lạy Chúa tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài. Vì mọi loài đều là của Chúa”. (Kn 11,23.26).
Chúa ơi! Chúa tìm con hơn con tìm Chúa. Nhưng nhiều khi đời con lại ẩn nấp trốn tránh, có khi mặc cảm tội lỗi mà sợ hãi vị thẩm phán khắt khe. Có khi con muốn sống thoải mái với con người tự nhiên nên sợ “gặp” Chúa, hoặc an tâm vì mình vẫn ngon lành! Xin Chúa nhìn và gọi con xuống như Dakêu, để trong Người, đời con được đổi mới sang trang và sinh hoa trái tốt lành. Amen.
Én Nhỏ
Thực lòng hoán cải để trở về với Chúa
1- Ghi nhớ:
“Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất” (Lc 19, 10).
2- Suy niệm:
Trong kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam, có tích chuyện về con trâu, xin tóm tắt như sau: Ngọc Hoàng rất thương muôn vật, đặc biệt là loài người, nên muốn cho chúng sinh và muông thú có nhiều thức ăn dồi dào và phong phú, liền sai một vị tiên xuống trần gian để gieo hạt giống. Ngài đưa cho vị tiên hai cái túi, một đựng hạt giống ngũ cốc và túi còn lại thì đựng hạt giống cỏ. Trước khi đi Ngài nhắc nhở kỹ lưỡng rằng: phải gieo hạt giống ngũ cốc trước rồi sau đó mới gieo hạt cỏ.
Đang trên đường đi thi hành nhiệm vụ, vị tiên trông thấy có rất nhiều nàng tiên áo trắng đang nhảy múa ca hát thật là hấp dẫn, mê ly. Vị tiên cứ ngẩn ngơ đứng nhìn mãi, chỉ đến khi các tiên nữ trở về thiên đình rồi thì vị tiên này mới sực nhớ đến sứ vụ của mình, liền vội vã đi tiếp xuống trần gian. Nhưng vì tâm hồn còn xao xuyến, nên thay vì gieo hạt giống ngũ cốc trước như lời Ngọc Hoàng căn dặn, vị tiên này lại gieo hạt cỏ trước. Hâu quả là cỏ rác, gai góc mọc lên um tùm, khiến các cây ngũ cốc bị chèn ép không cạnh tranh phát triển được cho nên năng suất kém. Tiếng than van trách oán của chúng sinh vọng lên đến thiên đình, nên Ngọc Hoàng nổi giận đày vị tiên xuống trần gian giúp loài người cầy bừa làm ruộng và phải ăn cỏ cho hết thì mới được về trời.
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Luca tường thuật sự việc ông Dakêu tìm được ơn cứu độ. Trước khi gặp được Chúa Giêsu, ông Dakêu đã sống trong sự quên lãng mục đích của cuộc đời mình. Ông bi coi là hạng người tội lỗi, làm tay sai cho đế quốc Rôma, hà hiếp dân chúng, khiến cho người Do Thái xa lánh tẩy chay. Nhưng đến khi nghe biết về Chúa, thì ông khát khao tìm kiếm Người, chính vì lòng khao khát mãnh liệt đã thúc đẩy ông bỏ qua tất cả mọi rào cản để trèo lên cây cao và được tận mắt nhìn thấy Đấng Messia.
Về phần Chúa, Đấng cũng khát khao đi tìm và cứu chữa những gì hư mất, đã không để cho ông đơn phương tìm kiếm Ngài. Chúa chủ động đến với ông, gọi đích danh và còn đề nghị ở lại với ông. Hạnh phúc biết bao! Một người tội lỗi bị xã hội ruồng bỏ, người đời khinh khi, nay được đón tiếp Đấng Cứu Thế vào nhà. Chúa đến với ông, đã làm thay đổi hoàn toàn đời sống của ông. Từ đó mục đích đời sống của ông cũng thay đổi theo. Vì vậy nên ông thưa với Chúa: “Lạy Ngài! này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi sẽ cho người nghèo và nếu tôi có cưỡng đoạt của ai những gì tôi xin đền gấp bốn.”
3- Cầu nguyện :
Lạy Chúa! Xin hãy đến và ở lại luôn mãi trong tâm hồn chúng con, để chúng con nếm trải được vị ngọt ngào của tình Chúa yêu thương chúng con và từ cảm nhận đó chúng con thực thi đời sống bác ái yêu thương, luôn biết mang lai cho tha nhân niềm vui, hạnh phuc và bình an.Amen.
4- Sống Lời Chúa :
Cố gắng sống tâm tình của Thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” .
Đa Minh Trần Văn Chính
***
2. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu
5. Chúng ta thì giống như Giakêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Đọc câu chuyện ông Gia kêu có lẽ ai cũng phải nực cười xen lẫn cảm động. Cái nực cười thứ nhất là Gia kêu thấp bé, vóc người không giống ai. Cái nực cười thứ hai, ông Gia kêu làm trưởng ban thu thuế thời Chúa Giêsu. Gia kêu lúc nào xem ra cũng rổn rẻng với tiền bạc, với việc làm giầu vv…Con người bề ngoài khác thường về vóc dáng, nhưng thực tế lại là một con người đầy lòng nhân từ, biết sám hối, biết hối cải. Chúa Nhật 31 thường niên cho chúng ta một cái nhìn rất thực tế, đầy an ủi về lòng nhân từ bao la của Chúa:” Lạy Chúa, Chúa sẽ dạy con đường về cõi sống: Trước Thanh Nhan, ôi vui sướng tràn trề “( Tv 15, 11 ).
Gia kêu nếu xét theo một nghĩa nào đó thực là một người đáng ghét, đáng khinh vì ông làm việc cho đế quốc Roma, làm nghề thuế vụ, làm trưởng ban thuế, làm cái nghề tiếp tay với ngọai bang bóc lột dân chúng. Gia kêu giầu có, có quyền lực vì ông làm việc cho đế quốc Roma. Dân Do Thái không ưa ông, ghét ông, xếp ông vào hàng tội lỗi và đặt ông ngang hàng với bọn điếm đàng. Đối với dân Do Thái, ông không thể ăn năn, không thể hối cải. Ông đáng sa vào hỏa ngục lửa thiêu. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại chọn nhà ông Gia kêu để ghé thăm nhà ông. Gia kêu chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu đi ngang chứ làm sao dám mời Chúa Giêsu ghé thăm nhà ông được. Chúa Giêsu đã làm một việc không ai ngờ được. Chúa đã chọn nhà ông Gia kêu. Chúa Giêsu đã chứng tỏ Người được Thánh Thần hướng dẫn khi thấy ông Gia kêu giữa đám đông. Chúa Giêsu minh chứng Người đã tới Giê-ri-khô để cứu một người giầu có.Tuy nhiên, người Do Thái vẫn dị nghị, vẫn hiểu lầm Chúa và hiểu lầm cả ông Gia kêu. Họ cho rằng “ Chúa lại vào ở nhà người tội lỗi “. Nhưng thực ra Chúa Giêsu hiểu mọi người và hiểu ông Gia kêu. Chúa đến nhà của Gia kêu không phải vì miếng ăn, vì bữa tiệc, vì chén rượu, chén trà, nhưng vì ơn cứu rỗi của ông và của gia quyến ông. Dịp này, ông Gia kêu và cả gia đình ông đã công khai thú tội trước mặt Chúa Giêsu và trước mặt mọi người dự tiệc, và hứa “ xin bán đi nửa gia tài, phân chia cho kẻ nghèo khó, và đền trả một gấp bốn cho những ai ông gây thiệt hại”( Lc 19, 8 ). Chúa Giêsu đã nói về ông:” Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham” (Lc 19, 9 ).
Tự sức con người, con người không thể làm lành, nhưng Thiên Chúa có thể làm được tất cả. Chúng ta hãy đọc các đọan Tin Mừng như:” Con chiên lạc. Đồng bạc đánh mất. Người con hoang đàng. Người phụ nữ ngọai tình vv…” để thấy lòng nhân từ của Thiên Chúa như thế nào. Con người phản nghịch, con người tội lỗi nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Thiên Chúa yêu con người và không muốn để bất cứ ai bị hư mất. Ông Gia kêu dư biết thiên hạ ganh ghét ông và thèm được như ông. Gia kêu đâu có phải là người xấu bụng dù rằng ông đã nhúng tay vào việc thật xấu xa, nhưng trong cõi lòng sâu kín của ông vẫn còn chứa chất điều thiện, ông thầm tin tưởng và cám ơn Chúa Giêsu mà ông coi như một vị ngôn sứ lớn. Ông tha thiết muốn gặp gỡ Chúa Giêsu, do đó ông và cả gia đình ông đã được ơn cứu độ. Chúa đã giải thoát cho ông và gia đình ông khỏi tội lỗi, khỏi hư đi. Ân huệ cao vời Chúa ban cho ông khiến ông đã bộc lộ tất cả những gì là tốt lành, là nhân ái, còn chứa trong nỗi lòng sâu kín nhất của ông. Gia kêu đã trở nên mẫu gương cho những ai biết đón nhận ơn tha thứ bằng việc thật tâm hối cải, quay trở về với Chúa. Đúng thật, Chúa tới để tìm kiếm những gì đã hư mất.
Bí Tích Giải Tội là Bí Tích do Chúa Giêsu thiết lập và là một hồng ân cao vời Chúa ban cho nhân lọai. Đây là phươn thế giúp chúng ta làm hòa với Chúa, với Giáo Hội và với anh chị em,là phương thế Chúa ban lại sự an bình tâm hồn cho con người và thêm sức mạnh cho tương lai, trả lại tình trạng trong sáng đã bị tội lỗi làm lu mờ. Bí Tích Giải Tội nối những gì tội lỗi đã làm con người xa lìa Thiên Chúa. Do đó, chúng ta phải yêu mến Bí Tích Giải Tội và luôn siêng năng lãnh nhận Bí Tích Giao Hòa để được gần gũi Thiên Chúa, gần gũi Giáo Hội và gần gũi anh chị em.
Lạy Chúa xin cho chúng con có tấm lòng như Chúa, có đôi mắt của Chúa để chúng con luôn biết cảm thông với những yếu hèn của người khác. Amen.
2. Nghệ thuật cảm hóa lòng người của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Đứng trước tội nhân hay những người sa ngã, hư hỏng, dư luận xã hội thường lên án, khinh miệt, loại trừ… Đó là thái độ vốn có của những người Do-thái có tiếng là đạo đức như các thầy tư tế, các luật sĩ và biệt phái đối với những người tội lỗi như Giakêu.
Ngay cả Chúa Giêsu, dù Người chỉ tiếp đón những người tội lỗi thôi thì cũng đã bị tai tiếng rồi. Khi “Các người thu thuế và các người tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc 15, 1-2)
Chính thái độ khinh thị và loại trừ người tội lỗi như thế lại càng xô đẩy người sa ngã lún sâu hơn trong tội lỗi của mình. Cư xử như thế là dìm xuống chứ không phải là nâng lên. Còn về phần Chúa Giêsu, Người có cách cư xử rất đẹp đối với người tội lỗi và chính cách cư xử cao nhã nầy có một sức cảm hoá thần diệu. Cung cách đối xử của Chúa Giêsu là niềm nở tiếp đón và trân trọng họ, coi họ như bạn bè. Thế nên dư luận hồi ấy đã xem Ngài “là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” (Mt 11,19)
Chúa Giêsu thừa biết Giakêu là ai và thuộc hạng người nào, nhưng Chúa Giêsu không nhìn Giakêu bằng ánh mắt khinh miệt của người Do-thái, nhưng đối xử với ông bằng tấm lòng trân trọng và yêu thương.
Khi thấy Giakêu vắt vẻo trên cành cây chờ xem Chúa Giêsu đi qua, Chúa vui vẻ thân mật vẫy chào ông trước: “Này ông Giakêu…”
Chúa Giêsu gọi đích danh ông như đã từng quen biết từ lâu. Việc gọi tên thân mật nầy khiến ta nhớ lại lời Chúa Giêsu nói về quan hệ gắn bó giữa người chăn chiên tốt và đoàn chiên của mình: “Chiên nghe tiếng của anh và anh gọi tên từng con chiên” (Ga 10,3).
Rồi Chúa Giêsu tiếp: “Xuống mau đi!” Đây không hẳn là lời thúc giục mà chỉ là lời thân mật giữa bạn bè. Rồi Chúa Giêsu lại muốn thắt chặt mối tình bằng hữu qua việc cùng ăn uống đồng bàn với Giakêu, và hơn thế nữa, đề nghị ở lại tại nhà ông để rộng giờ hàn huyên tâm sự: “Hôm nay, tôi sẽ ở lại nhà ông.”
Sáng kiến tình yêu của Chúa Giêsu lúc đó chắc hẳn phải khiến cho Giakêu sửng sốt. Một bậc thầy khả kính và danh tiếng như Đức Giêsu mà lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi như Giakêu ư? Chuyện thực mà tưởng như mơ! Thế là Giakêu vô cùng sung sướng đón tiếp Đức Giêsu vào nhà mình.
Thái độ yêu thương, trân trọng và quý mến của Đức Giêsu đối với Giakêu đã làm cho ông đổi đời thật sự, một sự thay đổi tận căn ít ai ngờ tới.
Bấy giờ Ông Giakêu đứng lên thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.”
Dám đem nửa phần gia sản lớn lao của mình trao ban cho người nghèo khó, lại chấp nhận đền gấp bốn những thiệt hại đã gây ra… quả là một quyết định anh hùng! Thế là từ một người đáng khinh, Giakêu bỗng trở thành một người rất đáng khâm phục!
Kho tàng văn học thiền có ghi lại câu chuyện sau đây. Thiền sư Sengai có một anh đệ tử hư hỏng, đêm đêm thường leo tường trốn ra ngoài chơi đêm. Vị thiền sư biết được điều đó nên vào đêm nọ, sau khi phát hiện người đệ tử vượt tường bằng cách leo lên một chiếc ghế khá cao, vị thiền sư đi đến vị trí đặt ghế, nhắc chiếc ghế bỏ sang bên rồi đứng vào chỗ đó.
Trong đêm tối, người học trò leo tường trở vào, rồi theo thói quen đặt chân lên ghế để nhảy xuống, không dè lại đặt chân lên lưng thầy. Khi phát hiện thầy đứng ngay trước mặt, anh học trò hoảng sợ chờ đợi những lời khiển trách nặng nề. Thế nhưng cuối cùng vị thầy chỉ nói mấy lời yêu thương: “Áo con ướt đẫm sương đêm rồi! Mau vào thay áo ngay kẻo cảm lạnh!” Thế là từ đó, người học trò không bao giờ còn đi chơi đêm nữa.
Những lời trách móc, lên án, những thái độ khinh bỉ hay loại trừ chỉ tạo nên nguy cơ làm cho những con người tội lỗi lún sâu vào con đường lầm lạc.
Nhưng chính thái độ tôn trọng và tấm lòng yêu thương sẽ tạo nên sức cảm hoá diệu kỳ. Đó là nghệ thuật cảm hoá lòng người rất khôn khéo mà Chúa Giêsu đã sử dụng để làm nên phép lạ nơi con người Giakêu, biến cải một con người tưởng là ‘hết thuốc chữa’ trở thành một người mới rất đáng khâm phục.
Lạy Chúa Giêsu, trước người lầm lỗi,
Xin cho chúng con thay thế những lời kết án bằng những lời lẽ yêu thương;
Xin cho chúng con biết thay đổi cái nhìn khinh khi bằng cái nhìn tôn trọng;
Xin cho chúng con biết thay thế thái độ xa lánh bằng thái độ tiếp đón ân cần…
Nhờ đó, chúng con sẽ tạo cơ hội cho nhiều anh em lầm lỗi có cơ may phục thiện và đổi mới cuộc đời.
Người ta thường nói: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”, Để sửa chữa hay thay đổi một người nào đó là một điều rất khó. Ngược lại nếu không khéo chúng ta lại càng làm cho ra thêm tệ hơn. Trong thực tế, có những người nói hay, nói khéo, khuyên giỏi… nhưng kết qủa không mấy khả quan, mà còn làm cho cho họ càng khép kín, bảo thủ, trở nên oán hận và chai cứng tâm hồn.
Hôm nay, Đức Giêsu với đường lối sư phạm đại tài, Ngài đã từng bước hoán cải một người thu thuế bị xếp chung với hạng trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Vậy Đức Giêsu đã làm gì mà lại có sực mạnh biến đổi kỳ lạ như thế?
Thông thường người có tội hay lẫn trốn, tránh xa những người được cho là công chính. Ở đây Giakêu lại càng không dám trực tiếp gặp thầy Giêsu, ông cũng không hoà nhập được với dân, ông như bị cô đơn giữa một rừng người xa cách không ai quan tâm đến ông. Lúc mà mọi người không ai để ý đến, không ai quan tâm đến thì Đức Giêsu lại quan tâm. Điều đó quá lạ đối với suy nghĩ của ông, từ trước đến giờ ông không bao giờ dám nghĩ đến: Chúa lại tìm một người “đứng đầu những người thu thuế” như mình. Dù đang mang mặc cảm tội lỗi, dù đang bơ vơ lạnh lẽo, ông vẫn cảm thấy ấm lòng vì được Thiên Chúa quan tâm, trong cuộc sống những người tội lỗi vẫn thường hay tự ty xa cách, họ không thể hòa mình với mọi người, họ vẫn cảm thấy cô đơn vì bị người khác bỏ rơi. Những điều đó càng làm cho họ ngày càng lún sâu vào vũng lầy tội lỗi, không có ai đưa bàn tay để kéo họ lên. Vậy những lúc tuyệt vọng, những lúc chúng ta không còn chỗ nương tựa chúng ta hãy biết chạy đến cùng Chuá, cho dù tất cả bỏ rơi chúng ta thì Thiên Chúa vẫn cưu mang chúng ta, vì lúc nào Ngài cũng đang “nhìn” chúng ta, quan tâm chúng ta
Dân chúng cứ nghĩ Đức Giêsu sẽ quở trách Giakêu về những việc làm xấu xa của ông. Nhưng Đức Giêsu không những không quở trách mà còn muốn dùng cơm tối ở nhà ông. Việc làm đó không chỉ làm cho dân chúng kinh ngạc về cách hành xử của Đức Giêsu, mà cả Giakêu nữa cũng bị bất ngờ. Ông đã thay đổi tâm hồn từng bước một, bắt đầu từ lúc Đức Giêsu nhìn thấy ông, gọii ông rồi còn lưu lại nhà ông. Đáng lẽ ông là tội nhân đáng bị trừng phạt và lên án, thì Đức Giêsu lại đến với ông bằng sự tín nhiệm yêu thương, vì Người đến không phải để lến án nhưng là để cứu chuộc.
Thiên Chúa luôn nhìn người tội lỗi với một cắp mắt bao dung, Ngài không để tội nhân đi vào con đường bế tắc mà mở cho họ một hướng đi trong tương lai, Ngài tin ở sự hoán cải, nơi người tội nhân. Chính đường lối sư phạm này mà Thiên chúa đã làm cho Giakêu quay lại 180 độ. Từ một người tội lỗi trở thành tốt, nhưng để được thay đổi tâm hồn con người không phải “ngồi để chờ xung rụng”, mà phải có thiên chí, có lòng hoán cải ao ước thật sự… Vậy chúng ta hãy đến xin Chúa để người thay đổi cuộc đời, vì con người chỉ có thể đổi mới khi có ơn Chúa ban. Hơn nữa, Thiên Chúa lại luôn quan tâm đến tội nhân. Vì thế, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, sự trông đợi của Người… thì công việc mới hoàn thành cho dù chúng ta có tội lỗi xấu xa có đáng ghét đến dâu đi nữa thì thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta
Lạy Chúa, “không có một ông thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào lại không có tương lai”. Xin Chúa cho con đừng vì quá khứ mà trở nên xấu xa. Nhưng cho con giống Giakêu biết hướng đến tương lai, nhờ ơn Chúa tất cả chúng con trở thành con người mới.
Nếu như tuần trước Chúa Giêsu kể dụ ngôn người Biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện để cho chúng ta thấy lòng nhân từ hay thương xót của Thiên Chúa. Thì hôm nay, qua câu chuyện ông Giakêu muốn thể hiện cách cụ thể lòng thương xót đó bằng việc Ngài thương xót và an ủi cho Giakêu khi đến viếng và ở lại nhà ông, một người tội lỗi.
Thế giới và những những gì chứa đựng trong nó chỉ là những hạt cát nhỏ bé, mong manh so với sự vĩ đại lớn lao của Thiên chúa. Nhưng Thiên Chúa yêu thương tất cả các tạo vật ấy. Vì Chúa tạo dựng vũ trụ này chỉ vì tình yêu. Chúa không hề chê bất cứ tạo vật nhỏ bé nào. Vì nếu ngài chê ghét thì không một tạo vật nào có thể tồn tại. Vì thế, mọi vật hiện hữu quanh ta điều có giá trị trước mặt Thiên Chúa cho dù một vài thụ tạo không đi đúng đường lối Ngài thì ngài vẫn tỏ lòng khoan dung để nhắc nhở, sửa dạy hầu chúng biết được lỗi lầm mà bỏ đường gian ác. Đó là tư tưởng của bài đọc I
Bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta một ví dụ về lòng thương xót Chúa qua việc Chúa Giêsu tìm được một người thu thuế tội lỗi Giakêu để kêu gọi ông ta sám hối. Sự sám hối này được ông ấm ủ trong lòng bấy lâu qua sự khao khát muốn gặp Chúa Giêsu.
Chắc chắn Chúa Giêsu không xa lạ gì đối với dân thành Giêricô. Vì tại đây, Ngài đã chửa cho một người mù tên Bartimê. Và không biết tình cờ hay ngẫu nhiên mà chúa Giêsu người Samaria nhân hậu xuất phát từ Giêricô. Vì thế, là người giàu có trong thành, Giakêu cũng đã nghe đồn đây đó về Chúa Giêsu và ông muốn gặp Ngài.
Dẫu biết sự khao ấy nơi ông có nhiều khó khăn cản trở: giới hạn về thân xác, là một người lùn “đừng chơi với thằng lé đừng ghé nhà thằng lùn”; giới hạn về tâm hồn, là người không có uy tín mấy, bị khinh khi. Nhưng tất cả những cản trở, những khó khăn đó không ngăn được ước muốn gặp Chúa và ngăn cản đôi chân ông cất bước đi tìm. Bấy nhiêu đó cũng đủ thấy sự cố gắng nổ lực khát khao gặp Chúa xuất phát từ tấm lòng chân thành của ông.
Nhưng sự quảng đại và lòng thương xót của Chúa Giêsu cũng đâu chịu thua sự nỗ lực và cố gắng của Giakêu. Vì Chúa Giêsu đã biết trước Ngài sẽ phải làm gì cho ông hôm nay. Giữa đám đông chen lấn vây quanh Chúa Giêsu. Nhưng Ngài không mấy quan tâm. Vì ánh mắt của Ngài đã hướng lên ngọn cây sung cao chót vót, nơi Giakêu đang ngồi chờ đợi. Điều này chứng tỏ Chúa Giêsu đã quan tâm đến ông cách đặc biệt. Vì thế nếu chúng ta cảm phục trước tấm lòng khao khát Chúa Giêsu cách chân thật nơi Giakêu bao nhiêu thì chúng ta càng phải thán phục trước sự quảng đại và lòng khoan dung của Chúa gấp bội.
Vì Ngài đã không mấy quan tâm đến đám đông reo hò đón rước vây quanh mà lại đoái nhìn đến Giakêu, một người bị xã hội loại trừ khinh bỉ. “Này ông Giakêu hãy xuống mau đi vài hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Cách đối xử của Thiên Chúa hoàn toàn khác và vượt xa với suy nghĩ của con người. Việc Chúa Giêsu đến trọ nhà ông đã nói lên ơn cứu độ của Thiên Chúa không loại trừ một ai. Vì Chúa không nhìn con người với những lầm lỗi của họ. Nhưng Ngài chỉ để ý đến phẩm giá cao quý được đặt để nơi người đó. Và chính cái nhìn thông cảm thấu suốt tâm can của Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu cảm phục và hoán cải đời sống. Một sự hoán cải chân thật xuật phát từ con tim bị đánh động bởi lòng quảng đại của Chúa Giêsu.
Chính khi cảm nhận được tấm lòng bao la quảng đại và tình thương của Chúa Giêsu dành cho mà Giakêu đã nhận ra, ý thức được chính mình. Con tim của ông đã bị đánh động và bị chinh phục. Chính sự khao khát của ông đã được đáp đền. Giakêu đã thật sự mặt chạm mặt và lòng gặp lòng với Chúa Giêsu.
Sự hoán cải liền xảy ra ngay lập tức, có thể thấy được và chắc chắn là sự hoán cải này sẽ chi phối suốt cuộc đời Giakêu. Đây không chỉ hoàn toàn là sự hoán cải theo lý trí mà bao gồm cả con tim. Đây mới là sự hoán cải thật sự, đúng nghĩa và là sự hoán cải quan trọng. Nó vượt ra ngoài những suy nghĩ của lý trí và đi đến một hiệu quả sâu xa. Sự sợ hãi của con người không thể có được sự hoán cải này mà chỉ có con tim, chỉ có gặp gỡ và tình yêu.
Chính sự hoán cải này mới có thể thay đổi được lòng người, thay đổi được cái nhìn, biết yêu thương người khác và biết chia sẻ cho nhau. Kỳ thị, ghen ghét… chỉ có thể làm cho con tim đóng kín và trở nên chai đá. Sự thông cảm đón nhận và cách đối xử thân tình của Chúa Giêsu sẽ làm cho con tim nhân lọai trở nên mềm mại và rộng mở. Không có gì có thể làm thay đổi hay có thể hoán cải một con người nếu không phải là con tim.
Để tỏ lòng sám hối thật sự và để Chúa Giêsu không phải thất vọng, Giakêu đã chứng minh bằng một sự từ bỏ và hứa hẹn một cuộc đời công chính. Danh lợi và vật chất giờ đây đối với ông chỉ là phù vân. Vì bấy lâu nay có nó nhưng đâu có ngày nào ông cảm thấy hạnh phúc, bình an. Sống trong nhung lụa nhưng tâm hồn ông vẫn cứ khắc khoải, lo lắng như còn thiếu một điều gì đó. Và Chúa Giêsu đã lấp đầy mọi khoảng trống trong tâm hồn và thỏa mãn mọi khát vọng cuả ông.
Giờ đây ông cảm thấy thư thái, bình an trước cuộc. Đây quả là một sự hoán cải sâu xa xuất phát từ nội tâm của Giakêu. Tất cả chúng ta cũng đang cần sự hoán cải đó. Mỗi người chúng ta cũng có khả năng hoán cải như Giakêu nhưng khả năng đó còn đang bị đóng kín và chưa được khơi dậy. Chúng ta đang sống trong sự khao khát hoán cải mỗi ngày để biến đổi một con tim hẹp hòi thành con tim quảng đại, từ một con tim chai đá cho đến một con tim bằng thịt biết yêu thương.
5. Chúng ta thì giống như Giakêu
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Một số người khiếp hãi về cách cư xử của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay cho chúng ta thấy những người bàng quan đã không bằng lòng với chú ý đặc biệt mà Chúa Giêsu đã dành cho Giakêu, người bị đóng nhãn như một người tội lỗi. Thật ra họ đã bị sốc và họ phải xì xào bàn tán chống lại Chúa Giêsu.
Mặc dầu không được chuẩn nhận từ đám đông, Giakêu đã làm một quyết định đúng. Ông nhận thấy rằng Chúa Giêsu, Đấng có thể làm cho ông trở lại đường ngay chính bằng cuộc sống của mình. Ông hiểu rằng, Chúa Giêsu có đầy đủ tình yêu và lòng nhân từ. Giakêu cũng đã xác định được, ông ta sẽ không đi đến với bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì có thể ngăn cản ông gặp gỡ Chúa Giêsu, không phải sự bất bình của những kẻ phán xét ông không có giá trị gì, và hình hài nhỏ bé của ông cũng không thể ngăn cách ông thấy Chúa Giêsu từ trên đầu của đám đông.
Tôi tưởng tượng ra Giakêu giống như một đứa trẻ khi cha mẹ chúng đang đi ngang qua. Ông bị những người trưởng thành che khuất tầm nhìn. Ông đã nhảy lên nhảy xuống nhưng vẫn không thể thấy những gì đang xảy ra. Giakêu biết rằng không một người nào giúp ông nhưng ông có một ý tưởng để tự giúp mình. Ông đã chạy tới phía trước để trèo lên một cây vả và ở đó ông có thể thấy Chúa Giêsu, khi ở trên đám đông ông cố gắng nín thở để quan sát một cách cẩn thận, nhưng sự kinh ngạc của ông thì không phải ông chỉ thấy có Chúa Giêsu nhưng ông đã thật sự nghe Ngài nói. Chúa Giêsu đã gọi đích danh tên ông, Giakêu đã ngạc nhiên làm sao Chúa Giêsu biết ông là ai. Có phải Chúa Giêsu đã nghe về những tội lỗi khủng khiếp của ông không? Một người nào đó đã chỉ ông cho Chúa Giêsu phải không? Tiếp đó, ông nhận ra những gì Chúa Giêsu đang nói: “Giakêu, hãy xuống nhanh lên, Ta sẽ lưu lại nhà ngươi hôm nay”. Ông vội vàng trèo xuống khi biết rằng ông đang ở trên cây và ông đã hộ tống Chúa Giêsu đến nhà ông. Ông hứa sẽ thống hối, sẽ thay đổi để theo những lời giáo huấn của Chúa Giêsu, đó là một ngày hạnh phúc trong đời ông.
Những gì Chúa Giêsu đã làm cho Giakêu, nay Ngài cũng làm cho chúng ta. Ngài đã bước vào trong thế giới của chúng ta, thế giới mà sự thật là nhà của người tội lỗi. Chúng ta đã được chúc phúc bằng cách cư xử bất ngờ của Con Thiên Chúa. Cho dù những người khác có thấy đó là gương mù hay không, chúng ta phải làm một quyết định đúng là tìm kiếm Chúa Giêsu, nâng tầm nhìn của chúng ta lên trên những người loại bỏ Chúa Giêsu hoặc nhìn Giáo Hội một cách khinh miệt. Với đôi mắt của đức tin, chúng ta tháy Chúa Giêsu như là Đấng cứu độ của chúng ta, và với đôi tai đức tin chúng ta nghe Ngài nói với chúng ta. Vào ngày chúng ta chịu phép rửa Ngài đã gọi tên chúng ta, Ngài đã biết chúng ta là ai bởi vì Cha Ngài là Đấng Sáng Tạo chúng ta, đã chỉ định chúng ta cho Ngài. Chúng ta đã trở thành con cái của Thiên Chúa.
Trở lại vấn đề, Chúa Giêsu đã không trở thành người khách của chúng ta như Ngài đã là khách của Giakêu, nhưng chúng ta đã trở thành khách của Người. Phép rửa đã mở ra cho chúng ta cánh cửa vào nhà Người là Giáo Hội, nơi mà Chúa Giêsu, chủ của chúng ta đang mời gọi chúng ta tới bàn tiệc thánh, là Thân Mình và Máu Người trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta có một đặc ân kỳ diệu vào mỗi ngày Chúa Nhật và mọi ngày nếu chúng ta muốn.
Chúa Giêsu trông đợi chúng ta sẽ thay đổi bất cứ những gì phải xếp đặt lại để theo giáo huấn của Ngài, như Giakêu đã làm. Vào lúc kết Thánh Lễ, chúng ta đã nghe nói: “Hãy đi trong bình an, để yêu thương và phục vụ Thiên Chúa”. Đó là lời hứa của chúng ta trung thành với ý muốn của Thiên Chúa.
Chúng ta không bị sốc bởi cách cư xử của Chúa Giêsu, chúng ta phải sung sướng nghĩ rằng Ngài đã đến để tìm kiếm chúng ta và cứu thoát những gì đã hư mất. Giống như Giakêu chúng ta phải là những kẻ được chúc phúc bởi tình yêu Thiên Chúa và lòng nhân từ của Người.
Mục lục
1. Tìm kiếm Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Từ bỏ của cải không dễ (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
3. Cuộc hoán cải kỳ diệu (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
4. Chúa là cùng đích của cuộc đời (Sr. Anna Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)
5. Gặp người đổi đời (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Bạn đang tìm gì? (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Lòng nhân từ (Maria Đỗ Minh Thư, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)
8. Khao khát tìm gặp Chúa để được cứu độ (Maria TrầnThắm, Thanh Tuyển MTG.Thủ Đức)
9. Da-kêu được biến đổi (Lm. John Nguyễn)
10. Con người được đổi mới (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
11. Sám hối cụ thể như Zakêu (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
12. Thiên Chúa đi tìm (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
13. Sám hối (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
14. Lòng thương xót (Lm. Trần Thanh Sơn)
15. Ơn cứu độ (Lm. Vũ Minh Nghiễm)
16. Thiên Chúa từ bi và nhân hậu (Lm. Thanh Minh)
17. Gặp gỡ và biến đổi (Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn)
18. Tôi phải lưu lại nhà anh (Lm. Louis Đặng Quang Tiến)
19. Đổi mới cuộc đời (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
20. Giakêu mừng rước Đức Giêsu (Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
21. Niềm vui của Thiên Chúa (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
22. Có một cái nhìn như thế (Thiên Phúc)
23. Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ (An Phong)
24. Hôm nay nhà này được ơn cứu độ (Giuse Vinhsơn Ngọc Biển, SSP)
25. Vóc dáng (Trầm Thiên Thu)
26. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 31 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
27. Cuộc gặp gỡ giữa ông Giakêu và Đức Giêsu (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
TÌM KIẾM CHÚA
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Lúc con người bước vào đời cũng là lúc khởi đầu hành trình kiếm tìm Thượng Đế. Hành trình tìm kiếm này khác nhau nơi mỗi người: có người thì thuận lợi, có người thật khó khăn; có người thật lâu dài, lại có người rất đơn giản ngắn gọn. Mục đích của việc kiếm tìm Thượng Đế là để gặp gỡ Ngài, được Ngài chia sẻ tính thần thiêng và vinh quang của Ngài. Có nhiều cách trình bày Thượng Đế khác nhau, tùy truyền thống văn hóa hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng. Người Kitô hữu được mặc khải cho biết Đấng Cao Cả có một tên gọi: Thiên Chúa. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Nhờ nỗ lực tìm kiếm Chúa mà chúng ta có thể nên giống Ngài ngay khi còn sống ở thế gian này, là bảo đảm sẽ được nên giống Ngài hoàn toàn ở đời sau.
Ông Giakêu là một người tìm kiếm Chúa. Dưới ngòi bút của thánh Luca, Giakêu là một người khá giả và là một thủ lãnh của những người thu thuế. Tuy vậy, sự giàu có và sung túc của ông không làm cho ông được thỏa mãn. Vì vậy, khi nghe nói có vị ngôn sứ tên là Giêsu đi ngang qua, ông đã vượt qua mặc cảm tự ti về vóc dáng, sẵn sàng trèo lên cây vả để nhìn rõ vị ngôn sứ sắp đi ngang qua. Vóc dáng ông tuy lùn, nhưng ý chí của ông lại cao. Dù là một thủ lãnh thu thuế, ông không ngại những lời chê bai đàm tiếu của công chúng. Cử chỉ trèo lên cây cho thấy nỗ lực tìm kiếm Chúa của ông.
Nếu con người mọi thời đang nỗ lực tìm kiếm Chúa, thì Chúa cũng chủ động kiếm tìm con người. Chúng ta thấy điều này nhiều nơi trong Tin Mừng thánh Luca. Những dụ ngôn “người chủ chiên đi tìm chiên lạc”, “người đàn bà tìm đồng bạc bị mất” đều diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Đang khi ông Giakêu còn loay hoay ngồi trên cây, thì Chúa Giêsu chủ động đề nghị: “Ông hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”. Một vinh dự không ngờ! Giakêu chỉ nghĩ leo lên cây để nhìn Chúa đi ngang qua, nhưng Chúa lại đích thân đến nhà ông. Không phải chỉ có chúng ta ngạc nhiên, mà những người Do Thái đương thời cũng ngạc nhiên không kém. Không những ngạc nhiên, họ còn ganh tỵ với ông Giakêu và xầm xì với nhau. Đó là tâm lý thường thấy nơi con người. Khi thấy người ta hơn mình điều nọ điều kia thì tìm cách bới móc những khuyết điểm của họ để hạ thấp giá trị của họ xuống. Không chỉ ganh tỵ với ông Giakêu, những người đương thời còn tỏ ra bất bình với Chúa Giêsu, vì “nhà người tội lỗi mà ông ta cũng đến trọ”.
Trong khi những người Do Thái xầm xì với nhau, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố ông Giakêu là người được ơn Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt và chia cơm sẻ áo cho người nghèo. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Giakêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính. Ông Giakêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Tin Mừng Thánh Luca là “Tin Mừng của lòng thương xót”, vì vậy tác giả thường trình bày Chúa Giêsu như một vị Ngôn sứ rao giảng và diễn tả lòng bao dung. Hãy nhớ lại điều người cha ngỏ với con mình trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,31). Hoặc lời Chúa Giêsu trên thập giá: “Tôi bảo thật, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Đó là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Đoạn sách trích từ sách Khôn ngoan hôm nay (Bài đọc I) là một ví dụ. Thiên Chúa thương xót hết mọi người. Ngài nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi của họ để mong họ sám hối trở về và được cứu rỗi. Chúa luôn giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân, nếu họ thành tâm trở về với Ngài. Như thế, người tín hữu cần vững lòng trông cậy vào lòng từ bi Chúa. Niềm trông cậy phải được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, qua cách ăn nết ở của chúng ta – Thánh Phaolô khuyên các tín hữu như vậy (Bài đọc II). Người trông cậy Chúa sẽ không hoang mang lo sợ trước những lời đồn đại và những tư tưởng lầm lạc, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa.
Cuộc tìm kiếm Chúa mặc dù còn nhiều gian nan, nhưng chắc chắn những ai nỗ lực tìm Chúa sẽ được gặp Ngài. Chúa đang hiện diện trong cuộc đời và trong chính tâm hồn chúng ta. Việc gặp Chúa thực ra rất đơn giản: tin tưởng, yêu mến và cậy trông vào Ngài, tất yếu sẽ được gặp Ngài và được Ngài ban trọn niềm vui.
.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Một đại đức ở tỉnh Vĩnh Phúc, sư Thích Thanh Toàn, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận cho xả giới hoàn tục vì bị cáo buộc ‘gạ tình’, đã công khai với báo chí ông có khối tài sản khoảng 200 đến 300 tỷ đồng bao gồm tiền, vàng, xe, nhà đất, trang trại… Đại Đức Thích Thanh Toàn còn vui mừng bày tỏ ông sẽ lập gia đình và ăn chơi xả láng. . . Nhưng điều đó đã không thành, vì Giáo hội Phật giáo quy định kẻ đi tu thì không có quyền trên tài sản được công đức cho Chùa … ông phải ra về tay trắng trong ê chề.
Thành thực mà nói nhiều người đã không nhìn thấy người đi tu dám sống từ bỏ. Ngược lại, đôi khi lại thấy người đi lại luôn miệng cần tiền và tìm mọi cách vun quén của cải từ dân chúng. Người ta thấy người đi tu tích luỹ nhiều hơn ban phát. Người đi tu vẫn còn đầy tham sân si mà dường như chưa bỏ được bụi trần.
Ở đời chỉ những ai dám từ bỏ lòng tham và từ bỏ của cải thì mới thấy tâm hồn họ thanh thoát bình an. Chính tinh thần từ bỏ mới giúp họ sống không vì lợi ích bản thân và dám sống vì lợi ích mọi người.
Chúa Giê-su hôm nay khen ngợi Gia -kêu. Ông có quá khứ tham tiền. Ông có quá khứ sống ích kỷ và hưởng thụ bất chính trên đồng tiền không do mồ hôi của ông. Nhưng điều mừng là ông sám hối và từ bỏ. Qua Chúa Giê-su ông công khai sám hối và sẵn lòng đền bù cách tương xứng những thiệt hại do mình gây ra. Ông còn dám từ bỏ địa vị mình để từ nay ông sống thanh thoát khỏi danh lợi thú trần gian. Ông còn hứa sẽ sống một cuộc đời đầy ý nghĩa là cho đi tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo và bất hạnh.
Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ tích góp, chỉ biết vun quén, và vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Khi gặp Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.
Cuộc sống đôi khi cũng làm cho chúng ta có đôi chút tham lam. Có những khi trong tâm trí chúng ta trỗi dậy lòng ham muốn của cải người khác. Cũng có những khi chúng ta đã sử dụng của cải một cách bất chính. Cũng có những khi chúng ta đã biến của chung thành của riêng. . .
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi ai cũng có, điều quan trọng là có dám như Gia-kêu để làm lại từ đầu. Để sám hối, để đền bù thiệt hại và để từ bỏ những cái không thuộc về mình cho xã hội hay Giáo hội hay không?
Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Và xin cho chúng ta biết can đảm sửa lại lỗi lầm khi dám công khai nhìn nhận tội và dám đền bù thiệt hại mà mình đã gây nên. Amen
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong tác phẩm nổi tiếng Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables), văn hào Victor Hugo miêu tả câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi khinh dể vì bị mọi người xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; vào nhà trọ, thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; đi qua lũ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám mục Myriê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao, rồi chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và họ nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời.” Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ từ một tên tội phạm trở thành một người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục Myriê.
Câu chuyện trên đây có điều gì đó rất giống với câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca trình thuật lại biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Ở đó có một người tên là Dakêu. Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Khi Chúa Giêsu đi qua, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu. Thấy thế, Chúa Giêsu bảo ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Sau khi đón tiếp Chúa, ông tuyên bố rằng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (x. Lc 19,1-10).
Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Luca muốn minh chứng cho chúng ta thấy những yếu tố làm nên cuộc hoán cải kỳ diệu của Dakêu.
1- Lòng thương xót của Thiên Chúa
Yếu tố thứ nhất phải nói đến đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện qua những hành vi cứu độ và rất nhân bản của Chúa Giêsu đối với ông Dakêu
.
Bất chấp lý lịch ‘không mấy trong sáng’ của ông, Chúa Giêsu không nhìn ông với cái nhìn loại trừ và khinh bỉ như những người Do Thái; Người đã chủ động gặp ông, gọi tên ông và đến nhà ông dùng bữa. Luca muốn diễn tả sự hiện diện của Chúa Giêsu tại nhà ông chính là sự hiện diện của một Thiên Chúa cứu độ. Người là hiện thân của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ. Người đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất (Lc 19,10). Quả thế, Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa say mê con người, khát khao cứu độ con người; bởi đó, Người đã đi bước trước trong việc tìm kiếm, gặp gỡ và cứu độ con người. Chính lòng thương xót đó đã đụng chạm con tim của Dakêu và biến đổi ông. Đây là yếu tố quyết định làm nên cuộc hoán cải lạ lùng nơi Dakêu cũng như nơi biết bao tội nhân trong lịch sử của Giáo Hội.
Quả vậy, Thiên Chúa luôn mong muốn các tội nhân hoán cải. Người đi bước trước để giúp họ trở về. Cũng như vị giám mục trong câu chuyện trên đã hành xử theo lòng tốt, nhờ đó đã hoán cải tên cướp Văn Giang. Thiên Chúa không hành xử với tội nhân theo luật công bình, nhưng là theo lòng thương xót để tạo cơ hội giúp họ hoán cải. Đây là yếu tố của lòng thương xót, yếu tố của ân sủng.
2- Sự đáp trả của con người
Yếu tố thứ hai là sự thiện chí của Dakêu hay nói đúng hơn chính là sự cộng tác của ông. Dẫu là một người lùn, lại bị liệt vào hàng tội lỗi vì nghề thu thuế, bị loại trừ và khinh bỉ, nhưng Dakêu đã biết tìm mọi cách để vượt lên những giới hạn đó để được thấy Chúa. Những hành động của ông minh chứng ông là một người rất có thiện chí: “Trèo lên cây sung,” “tụt xuống để đón Chúa vào nhà,” “tiếp đãi Chúa” và nhất là “lấy tài sản bố thí và đền bù gấp bốn cho những ai thiệt hại.” Luca cho thấy những hành vi này diễn tả sự khát khao, sự đón nhận và cộng tác của ông với ơn Chúa. Sự thiện chí này là điều kiện cần thiết để cho ơn Chúa sinh hoa kết quả. Từ một “người tội lỗi,” bây giờ ông Dakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Ápbraham.”
Như thế, ân sủng kết hợp với sự cộng tác của con người tạo nên một cuộc đổi đời, một sự hoán cải kỳ diệu nơi Dakêu. Đó là hai yếu tố cần thiết cho mọi sự hoán cải. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu chuộc con, cần phải có con.”
3- Hoa trái của hoán cải
Hoa trái của hoán cải là trở về với Thiên Chúa và hướng tới một đời sống công bình, huynh đệ và bác ái đối với tha nhân như trường hợp Dakêu. Sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu tại nhà mình, ông quyết định lấy phân nửa tài sản của ông mà cho người nghèo và xin đền gấp bốn cho những người ông đã chiếm đoạt của cải của họ (x. Lc 19,8). Về điểm này, luật Môsê buộc phải đền trả những gì đã chiếm đoạt của người khác hơn một phần năm. Trong khi đó, luật Rôma buộc phải đền gấp bốn. Dakêu thực hiện theo luật này. Ngoài ra, ông còn sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo. Quả thế, sự biến đổi từ bên trong con người phải được thể hiện ra bên ngoài, như là hoa quả của việc hoán cải. Rõ ràng ông có một sự hoán cải tận căn, thay đổi não trạng, cách nghĩ khi không coi tiền bạc là trên hết, ông thay đổi con tim khi không còn bám víu và nô lệ tiền bạc và địa vị, ông thay đổi đời sống ích kỷ khi hướng tới tha nhân bằng đời sống công bình và bác ái.
Qua câu chuyện hoán cải của Dakêu, một đàng, chúng ta được mời gọi hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa; đàng khác, noi gương Dakêu, chúng ta hãy cố gắng hết mình, làm hết sức để cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải bản thân cũng như tha nhân. Như một tác giả tu đức nói rằng: để được cứu độ, chúng ta hãy để cho Chúa làm nơi chúng ta 100% do ân sủng Chúa và đồng thời chúng ta phải làm hết sức mình 100% do nỗ lực cá nhân mỗi người.
Nguyện xin Chúa Giêsu đến viếng thăm ngôi nhà mỗi người và mang ơn cứu độ cho chúng ta để mỗi người cũng trở thành những Dakêu mới cho cuộc sống hôm nay. Amen!
.
CHÚA LÀ CÙNG ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI
Sr. Anna Nguyễn Như Ý
Cuộc sống bộn bề với trăm công nghìn việc làm cho con người quên đi cùng đích của đời mình là gì. Con người ngày hôm nay chỉ thích tìm kiếm những gì nhằm thỏa mãn bản thân, nhưng cuối cùng mọi thứ đều không thể làm cho họ thỏa mãn ước mơ cuộc đời, cho dù họ kiếm được nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, công thành danh toại… Và thử hỏi trong số những người đi tìm sự khao khát ấy, có bao nhiêu người đã tìm được hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình.
Hình ảnh Gia-kêu trong đoạn Tin mừng của thánh Luca 19, 1 – 10 là một bằng chứng cụ thể cho cuộc sống của con người ngày hôm nay. Cuộc sống của ông có vẻ làm cho những ai khao khát sự thành công ở trần gian đều mơ ước. Nhưng đổi lại ông được gì? Sự khinh bỉ, sỉ nhục, ganh ghét của đồng bào mình. Điều này có làm cho ông thật sự hạnh phúc? Tâm hồn ông có thật sự bình an khi hằng ngày phải đối diện với chính lương tâm của ông? Chắc chắn một điều rằng, ngày nào đó ông cũng mong thoát khỏi sự khốn khổ bất hạnh này. Và ngày đó đã đến với chính cuộc đời ông, ngày mà Giêsu xuất hiện. Ở giữa đám đông, chẳng có ai thèm để ý đến ông thì ông lại là người được Giêsu để ý đến. Không ai nhìn thấy ông nhưng chính Chúa lại thấy ông. Ngày hạnh phúc đã đến với ông. Đối với ông chẳng còn niềm hạnh phúc nào có thể sánh ví được. Vì thế, ngày hôm ấy, ông đã sẵn sàng cho người nghèo phân nửa tài sản của ông, và sẽ đền gấp bốn nếu ông đã chiếm đoạt của ai cái gì (x.Lc 19, 8).
Điều gì đã làm thay đổi cuộc đời ông cách mạnh mẽ như vậy? Từ một con người đã bị dân chúng xầm xì là người tội lỗi (x.Lc 19, 7) thì nay ông đã được Chúa ở lại nhà (x.Lc 19, 5). Phải chăng đó là sự gặp gỡ mà ông hằng khao khát và tiềm kiếm bấy lâu nay. Chỉ có thể là sự gặp gỡ với Chúa thật sự, mới có thể làm thỏa mãn tâm hồn ông. Sư hiện diện của Chúa đã phá vỡ rào cản giữa ánh sáng của lòng bác ái và bóng tối của sự thù hận. Ông đã trả lại cho Chúa và tha nhân những gì không thuộc về ông. Đối với ông bây giờ Chúa đã là đủ rồi.
Hình ảnh Giakêu đâu đó cũng ẩn hiện nơi mỗi người chúng ta, những người đang sống trong ơn gọi Kitô hữu. Chúng ta nhiều khi tôi cũng loay hoay tìm kiếm những gì thuộc về thế gian mà quên mất cùng đích của đời mình là gì? Hằng ngày, chúng ta vẫn đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, rước Chúa đều đặn nhưng phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thật sự bình an. Và cho dù chúng ta đã làm nhiều việc mang danh Chúa, nhưng chúng ta vẫn không cảm thấy thỏa mãn là bởi vì chúng ta vẫn còn tìm kiếm điều gì đó cho bản thân mà quên mất rằng mọi sự thế gian này chóng qua như hoa sớm nở chiều tàn. Chúng ta quên mất rằng chỉ có Chúa mới là cùng đích và là niềm hi vọng của đời ta. Đã bao lần chúng ta đã không tìm kiếm Chúa nơi những công việc ta đang thi hành. Chúng ta đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Những việc ta làm có thể chỉ là thói quen, chưa phải là hành động của đức ái. Chúng ta hãy mở rộng lòng để cho Chúa đến và hướng dẫn ta như Chúa đã làm cho Giakêu khi xưa, nhưng với điều kiện là chúng ta phải luôn khao khát tìm kiếm Người với tất cả tấm lòng thành.
Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con như Chúa đã làm cho Giakêu được trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài. Chỉ khi nào chúng con cảm nghiệm được Chúa thật sự là nguồn hạnh phúc của đời chúng con thì chúng con chẳng còn tìm kiếm gì nữa ngoài Chúa. Xin hãy ở lại với chúng con và hướng dẫn chúng con trong mỗi giây giây phút sống, để những gì chúng con làm đều là để sống theo thánh ý Chúa, để cuộc đời chúng con sẽ ngày càng hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu vào thành Giêrikhô, ta choáng ngợp trước một “rừng người” đang chen lấn nhau để nghe Thầy giảng. Ai cũng muốn được đến thật gần Thầy Giêsu. Cùng đi theo Thầy đó nhưng có mấy ai diễm phúc được đón
Người vào nhà như ông Dakêu hôm nay.
Ông Dakêu là một người đứng đầu những người thu thuế và rất giàu có. Ông nghe danh tiếng Thầy và muốn được nhìn thấy Thầy. Lòng khao khát của ông rất chân thành. Chen lấn mãi mà vẫn không lại gần Thầy được, ông bèn chạy lên trước đám đông, trèo lên cây sung để nhìn Thầy và ở đó chờ cho đến khi Thầy đến. Ông đã nhìn ngắm vị Thầy mình ngưỡng mộ trong âm thầm như thế. Đám đông chẳng hề biết có một người giàu sang đang ngồi trên cây sung. Thế nhưng, Thầy Giêsu biết ai là người thành tâm tìm gặp mình và Người biết rõ tấm lòng của họ. Người đã dành cho ông Dakêu một món quà rất bất ngờ, vượt quá điều mà ông mong ước. Dừng lại dưới gốc cây sung, Thầy ngước nhìn ông và gọi: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông đã vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Người ta biết ông là tên thu thuế tội lỗi nên xì xào bàn tán: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc 19, 7). Lời ấy vừa nhắm thẳng để trách móc Thầy Giêsu nhưng cũng vừa để khinh dể ông Dakêu. Hơn ai hết, ông biết thân phận tội lỗi khốn cùng của mình. Ông không ngần ngại trước lời dèm pha chỉ trích của đám đông đang ganh tị với mình, bởi ông nhận thấy Thầy Giêsu đã thương xót đến mình. Tình thương của Thầy cho ông một niềm tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng lớn lao để có thể đổi đời.
Trước đám đông, ông thưa cùng Thầy: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Lòng sám hối phải được diễn tả rõ ràng qua hành động quyết liệt như thế. Chỉ khi cảm nhận mình được Chúa đón nhận, ta mới có thể hoán cải. Cũng như ông Dakêu, ta không ngờ rằng chính khi ta cố gắng để tìm gặp Chúa, chính Ngài đã tìm gặp ta trước. Ngài gọi chính tên ta và nói lên ý định đầy yêu thương của mình: “Hôm nay Ta phải lưu lại nhà con”. Nhiều người đã nhìn ta với cái nhìn khinh bỉ vì họ biết những yếu đuối của ta. Nhiều lần, ta đã cảm thấy bất lực khi phải vượt qua những rào cản từ phía “đám đông” và rào cản từ chính mặc cảm tội lỗi của mình. Nhiều lần, ta đã chỉ nghe tiếng Chúa nói qua trung gian, ta mong được gặp thấy Chúa. Món quà bất ngờ mà Chúa đã dành ông Dakêu hôm nay khiến ta cũng háo hức biết mấy. Để rồi, trong cuộc sống, dù nhiều lần vấp ngã, ta cũng sẽ can đảm tìm gặp Chúa, để nhìn về Thiên Chúa thiết tha nguyện xin, ơn thiêng của Chúa sẽ đỡ nâng ta. Chính khi tình yêu tìm gặp Đấng là Tình Yêu, tâm hồn ta sẽ được đổi mới.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ lòng con khao khát Chúa. Chính Chúa đã tìm gặp con trước vì Chúa yêu con. Xin cho con mỗi ngày biết hướng lòng về Chúa để kiên trì vượt qua chính mình mà gặp Chúa. Con tin, Chúa sẽ vui lòng sống trong con và biến đổi con. Amen.
.
Anna Cỏ May
Theo lẽ tự nhiên, người giàu có thường tìm cách để giàu có hơn. Người nghèo thì lo làm sao mình bớt nghèo đi. Người trẻ thì tìm kiếm những cuộc vui chơi mới lạ theo sở thích, người Già thì tìm sự an nhàn sau một đời lao nhọc. Còn tôi, tôi tìm gì, tôi có bao giờ đi tìm Chúa không?
Chúa Giêsu không bao giờ ngưng tìm kiếm con người. Còn con người ngày nay, mấy ai đi tìm gặp Chúa như ông Dakêu. Ông Dakêu là người đứng đầu những người thu thuế giàu có. Thời Chúa Giêsu, những người làm nghề thu thuế được khép vào hạng những người tội lỗi. Bởi đó, ông không thể tránh khỏi ánh mắt khinh bỉ của dân chúng. Dầu vậy, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, ông vội tìm cách để biết Chúa Giêsu là ai. Với lòng háo hức và lòng khao khát muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã quên đi thân phận giàu có, quên đi mặc cảm tội lỗi. Với thân hình nhỏ bé, ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu được vì dân chúng rất đông. Ông liền chạy tới phía trước, vượt qua đám dân chúng đang chen lấn và cố gắng leo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giêsu.
Lòng khao khát tìm cách để thấy Chúa Giêsu nơi ông đã chạm tới chính tấm lòng của Chúa Giêsu, vì chính Người cũng đang “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (x. Lc 19,10). Thật bất ngờ, điều ông nhận được còn vượt xa những gì ông mong đợi. Chúa Giêsu đã đứng dưới cây sung mà nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người, mặc cho dân chúng xầm xì. Chúa đã vào nhà ông, nói đúng hơn Người đã đi vào tâm hồn của ông và làm nó biến đổi. Sự biến đổi bên trong của ông biểu lộ ra lời nói và hành động bên ngoài. Ông nói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Đó không phải là lời hứa lúc ông cao hứng nhưng là lời thốt ra từ trái tim. Ông Dakêu đón Chúa vào nhà một ngày, nhưng ông đã đổi một cuộc đời đó là đời ông đã hoàn toàn đổi mới, hoàn toàn sống như Chúa Giêsu mong đợi. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa Giêsu vào lòng không biết bao nhiều lần, đời chúng ta đã nên giống Chúa Giêsu chút nào chưa? Người luôn luôn tìm kiếm và muốn ở trong lòng chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Khi rước Chúa Giêsu là chúng ta cũng rước Chúa Cha và Chúa Thánh Thần vào trong lòng mình. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Ngoài ra, Chúa Giêsu vẫn đến và ở lại với mỗi người qua những người thấp bé, tội lỗi và bị bỏ rơi. Ngài nói: “Ai đón tiếp em nhỏ này vì danh Thầy là đón tiếp chính Thầy” (Lc 9, 48). Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải chết nhưng được ăn năn và được sống. Nhìn lại chính mình, chúng ta có muốn rước Ngài vào trong tâm hồn của mình không? Chúng ta có tìm gặp Ngài dù chỉ một lần trong ngày không hay chúng ta chỉ thích lui tới những quán cà phê, thích tới những khu vui chơi giải trí? Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn đang chờ đợi chúng ta rước Ngài vào nhà mỗi ngày.
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn tìm kiếm và hằng muốn ở lại trong chúng con. Xin Chúa ban ơn cho chúng con vững tin và rước Chúa ngự vào nhà. Xin cho chúng con được đổi mới như lòng Chúa mong muốn. Amen.
.
Maria Đỗ Minh Thư
Nhân từ là một đức tính cần thiết cho mỗi người trong chúng ta. Bao dung, tha thứ cho người khác khiến ta có được sự bình yên đáng có, được đáp trả lại bằng tình thương của mọi người. Chúa Giê-su là người Cha đầy lòng từ bi nhân hậu. Người luôn tha thứ cho mọi tội khiên của chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn sám hối.
“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” ”. (Lc 19, 5)
Da-kêu là một người thu thuế giàu có trong vùng Giê-ri-khô, là người mà trong thành khinh chê, là người mà định kiến thời đó cho là tội lỗi, là người không đáng được Chúa viếng thăm và ghé vào nghỉ chân nơi nhà ông. Nhưng không Chúa lại chọn nhà của người tội lỗi đó, của Da-kêu, Người không quan tâm đến người khác nói gì, cũng chẳng cần biết họ nghĩ như thế nào? Liệu có lý do nào để giải thích hành động của Đức Giê-su? Nếu là một kẻ trong đám đông hôm ấy, liệu có chắc tôi và các bạn nghĩ và nói gì?
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta không biết tha thứ cho người khác cũng như cho chính bản thân mình. Có những khi người khác gây ra cho chúng ta một sự tổn thương dù nhỏ bé đến đâu trong lòng con không thật sự tha thứ cho họ trong khi môi miệng đã nói lời tha thứ. Và ngay cả khi chúng ta gây ra sự tổn thương cho người khác, dù cho họ đã tha thứ chúng ta và sự tha thứ làm cho lòng họ cảm thấy bình an nhưng chính bản thân ta cũng không tha thứ được cho chính mình vì những gì mình đã gây ra. Sự tha thứ cho người khác sẽ làm cho người tha thứ cảm thấy bình an và vui vẻ hơn trong cuộc sống và trong các mối quan hệ với tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ngự vào nhà của ông Da-kêu, nhà của một người tội lỗi vì lòng nhân từ và Người đã giúp ông trở về, về với con người thánh thiện. Lạy Chúa xin Chúa cũng ngự vào nhà con, ngự vào tâm hồn con cách thiêng liêng để con cũng được như ông Da-kêu, được biến đổi, được quay trở về vì con là người tội lỗi luôn cần đến tình thương và lòng vị tha của Người. Amen.
.
KHAO KHÁT TÌM GẶP CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ
Maria Trần Thắm
Lời Chúa: (Lc 19, 9-10)
Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.
Suy niệm:
Tâm hồn mỗi người chúng ta luôn khao khát tìm kiếm Chúa để được ơn cứu độ và có sự bình an trong một ngày sống. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Ngài, Ngài có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, sớm hay muộn gì Ngài sẽ gặp chúng ta như đã gặp Người phụ nữ Samari và Dakêu. Nhưng gặp gỡ này chỉ có thể thay đổi được, nếu chúng ta khao khát đợi chờ Ngài. Chính vì Dakêu khao khát Ngài đã trở nên Đấng cứu độ cho ông.
Chúa Giêsu đã đến loan báo Tin Mừng ngay tại nhà ông Dakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham” (Lc19,9). Giakêu, một nhân vật có đủ: sự giàu sang, chỗ đứng, quyền thế trước mặt người đời nhưng trước Nhan Thánh Chúa và dân tộc mình thì Dakêu vẫn cảm thấy mình là một tội nhân, thiếu tình thương và sự sống của Chúa. Nhân loại ngày nay có đầy đủ tất cả vật chất, của cải cần thiết cho cuộc sống con người. Chúng ta hay đi tìm chỗ ở cho mình thật cao sang, nhưng chỗ gần nhất thì không biết tìm đến là ngay chính trong tâm hồn của mình. Một chân lý nữa lại diễn ra: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc19,10). Cho thấy, Thiên Chúa luôn đi tìm và cứu những con người tội lỗi. Trong cuộc sống của thời đại này, con người bị cuốn vào guồng sống vội, sống nhanh, sống bon chen, vội vã. Và hệ lụy đôi khi là một lối sống buông thả, đánh mất ý nghĩa về giá trị đích thực của đời người. Có nhiều người không dám, và không đủ nghị lực, niềm tin để đứng dậy và trở về “với Cha”. Nhiều bạn trẻ vì thú vui bên ngoài, đánh mất ơn nghĩa mật thiết với Chúa, thờ ơ, không nhìn ra tội mình đã phạm làm Chúa phải buồn. Mặc dù, Chúa vẫn hằng giang tay chờ đón những con người tội lỗi biết ăn năn trở về. Điều đó nói lên rằng, những ai khiêm nhường nhận mình là tội nhân thì đều được Chúa ban ơn cứu độ. Hãy chấp nhận ra đi tìm kiếm Ngài, khám phá tình yêu vô bờ bến của Ngài theo gương Dakêu mau chóng trở về. Để trong đời sống mau mắn khiêm nhường hoán cải những lầm lỗi phạm đến Chúa và mọi người. .
Ước gì chúng ta nhìn tha nhân bằng bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên thần linh hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống một con người công chính, ngay thẳng ở trước mặt Chúa. Khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, Chúa cần đến nhà ông Gia kêu để nghỉ chân ban nhiều hồng phúc cho chúng con. Xin cho chúng con biết đền đáp những ơn lành Chúa hằng ban cho.Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, khám phá ra đốm lửa của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi, biết gặp gỡ Chúa mỗi ngày để chúng con trở về và thay đổi cuộc sống tội lỗi. Như Thánh Giáo Hoàng Gio an Phaolô II nói: “ Hỡi các bạn trẻ hãy để Thiên Chúa là ơn cứu độ và là nguồn hạnh phúc của các bạn”.
.
Lm. John Nguyễn.
Tại Giê-ri-khô, ông Da-kêu được xếp vào loại người giàu có, nhờ cái nghề thu thuế. Ở trong vùng này, ai cũng đã biết rõ con người tham lam này. Và Da-kêu cũng thừa biết thiên hạ chẳng ưa thích gì ông ta, bởi vì ông đã làm những điều bất chính, thu gom của cải người dân để trục lợi cho bản thân với cái nghề cho vay nặng lãi. Dưới mắt bàn dân thiên hạ, ông ta là kẻ đáng bị quyền rủa và bị trừng phạt bởi việc làm gian tham của ông. Nhưng điều làm cho đám đông phải kinh ngạc bởi cách xử sự của Chúa Giê-su dành cho Da-Kêu, đã làm cho nhiều người xầm xì, bàn luận về việc của Chúa Giê-su ở lại nhà Da-kêu. Từ nguyên nhân này dẫn đến cuộc tranh luận không chỉ cho những người đi theo Chúa lúc bấy giờ mà còn là cho mọi người chúng ta suy gẫm về cách hành xử của Chúa Giê-su trước con người tội lỗi qua đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay.
Chúng ta đi vào trang Tin Mừng thuật lại câu chuyện. Khi nghe tin Chúa Giê-su đi ngang qua, Da-kêu muốn biết Chúa Giê-su là ai? Vì ông đã được nghe danh tiếng của Chúa Giê-su lan truyền khắp nơi. Da-Kêu muốn được tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su. Ông đã chen vào đám đông. Nhưng vì quá lùn, ông phải trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giê-su. Thay vì, ông ta muốn gặp Chúa Giê-su, thì chính Chúa lại đi tìm ông ta trước. Chúa Giê-su ngước nhìn lên cây sung và bảo cho Da-kêu: ” Này anh Da-Kêu xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh.” Ông mừng rỡ tụt xuống và rước Ngài về nhà. Mọi người thấy vậy sửng sốt và xầm xì với nhau: ” Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Một câu nói mỉa mai, đánh tiếng và chê bai của đám đông khi Chúa ghé nhà Da-kêu.
Thật sự, những thắc mắc và nghi ngờ của đám đông là có lý do, bởi vì họ đã biết rõ Da-kêu là người xấu. Một người thánh thiện, tốt lành không có thể đi chung với con như tội lỗi như Da-kêu. Người đời thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Còn Chúa Giê-su thì làm ngược lại cách nghĩ của đám đông đang vây quanh Ngài. Con người vốn mang xã hội tính: kẻ thù thì phải trừng trị, loại trừ, kẻ gian ác thì phỉa diệt vong và phải phân biệt tốt xấu rõ ràng. Cho nên, những người Pha-ri-siêu thường tách biệt những người thu thuế và tội lỗi ra khỏi cộng đồng của họ. Cụ thể, câu chuyện người Pha-ri-siêu và người thu thế vào đền thờ cầu nguyện trong tuần qua. Người Pha-ri-siêu luôn tự đắc mình là người thánh thiện, công chính để rồi kết án người khác, giữ đạo theo kiểu hình thức bên ngoài, khoát trên mình chiếc áo thụng chũm chọe để được người ta khen ngợi và tán thưởng, chúng giống như mồ mả tô vôi, chỉ đẹp bên ngoài nhưng lòng dạ thì xấu xa.
Tội của Da-kêu, ai cũng biết, ông ta không dám rước Chúa vào nhà ông vì ông không xứng đáng. Nhưng Chúa Giê-su đã nhận ra con người của ông, Chúa cần được đến với ông, vì Da-kêu cần chữa lành những vết thương tội lỗi của ông, cần được tắm rửa tội lỗi trong dòng suối mát tình yêu Thiên Chúa. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương cho những con người tội lỗi. Và chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể làm biến đổi ông ta thành con người mới. Cha mẹ không thể ghét bỏ đứa con mình, cho dù nó có bất hiếu và ngược đãi với mình, cha mẹ vẫn yêu thương nó, tha thứ cho nó, kêu nó trở về nhà. Cha mẹ thế gian còn biết cho con mình những điều quý giá, thì tại sao chúng ta lại không nhận ra Thiên Chúa là tình yêu vô biên dành cho hết tất cả mọi người chúng ta. Khi ta nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa là lúc chúng ta sống trong tình yêu đó với tha nhân. Chúng ta sẽ nhìn cuộc đời tốt đẹp hơn và bớt đi tính ích kỷ hẹp hòi với tha nhân.
Tình yêu Thiên Chúa thì không giới hạn bởi rào cản, bởi thành kiến, cách nhìn và cách đánh giá của người khác qua dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tận nơi cõi lòng. Hành trình cuộc đời của thánh Matheu, ngài cũng là một người thu thuế và được Chúa gọi đi theo Ngài, để rồi từ bỏ nghề thu thuế để đi làm môn đệ của Chúa. Chúa luôn tìm kiếm con người và tạo điều kiện để có cơ hội trở về. Trái lại, những người Pha-ri-siêu thì loại trừ không chỉ là những người thu thế mà cả những người phong cùi ra khỏi cộng đồng. Họ tin vào Thiên Chúa, nhưng lại không sống yêu thương và tha thứ, đã nhiều lần bị Chúa Giê-su lên án: “đạo đức giả”.
Phải chăng lý do nhiều người xầm xì bảo Chúa Giê-su không được đến ăn uống với người tội lỗi cũng từ quan niệm và cách nhìn của con người loại trừ. Với lối sống và quan niệm vị kỷ như thế, thì việc Chúa Giê-su làm không thể tránh khỏi bởi dư luận bởi những người giữ luật quá khắc khe và tỉ mỷ, chính thế họ đã bóp chết lòng từ bi và khoan dung với tha nhân. Tôi thiết nghĩ câu chuyện ông Da-kêu hôm nay, Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng để làm thay đổi quan niệm, cách nhìn và thành kiến đối với những người làm nghề thu thuế mà hay đúng hơn là những người tội lỗi. Chính sự quan tâm đặc biệt của Chúa dành cho Da-kêu lại là cái cớ làm cho tính ganh tỵ của con người. Họ ganh tỵ vì không được Chúa viếng thăm nhà mình nên họ không bác ái đủ với ông ta. Nhưng với Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài luôn tìm kiếm những con chiên lạc, ốm đau bệnh tật để đưa chúng trở về đàn chiên. Ngài nói: “Bệnh nhân mới cần thầy thuốc”.
Hình ảnh Da-kêu có thể làm đại diện cho hàng triệu người trên thế giới hôm nay, họ cũng đang phải chịu bởi sức ép với cái nhìn thành kiến của con người của một xã hội đã cài đặt lên con người, để rồi chỉ biết kết án và thiếu lòng bác ái với những con người bị sa ngã. Họ cần có một ai đó đón nhận và cho họ có cơ hội để nhận ra giá trị tình yêu đích thực xuất phát từ tình yêu giàu lòng xót thương của Thiên Chúa. Họ cũng cần được chữa lành và cần tìm ra ánh sáng chân lý trong cuộc đời này, như Da-kêu đã được Chúa chữa lành và được cứu độ. Một vĩ nhân đã nói ” Muốn thay đổi một người, thì bạn hãy đến với người đó. Nếu bạn xa lánh và tránh né họ, thì bạn chẳng bao giờ biến đổi được ai”.
Thật vậy, khi Da-kêu gặp được Chúa Giê-su, ông đã từ bỏ lối sống củ, bỏ đi lòng tham của cải bất chính, biết cải thiện đời sống. Thay vào đó, ông đem nửa gia tài của mình để phân phát cho người nghèo, nếu ông làm thiệt hại và chiếm đoạt của cải ai, ông ta đền gấp bốn. Hành động của Da-kêu đáng khen ngợi và cho chúng suy ngẫm. Tôi đã làm thiệt hại ai không? Tôi có tham lam lấy tiền tiền bạc của cải người và làm điều bất chính không?
Tóm lại, Da-kêu được Chúa biết đổi bởi vì được Chúa yêu thương, tha thứ và đồng cảm được ước muốn được cải thiện đời sống, ông ta đã mạnh dạn đến với Chúa, và Chúa ở lại nhà Da-kêu, nhờ đó tâm hồn của ông ta được thay đổi. Vì Thiên Chúa luôn là Người Cha tốt lành, Ngài biết được nhu cầu của con cái Ngài. Chúa Giêsu dùng tình yêu để hoán cải Da-kêu.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con như Da-kêu. Khi con được biến đổi, thì đời sẽ thay đổi. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
“Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa mọi người”, đó là chủ đề của Lời Chúa hôm nay.
Thiên Chúa yêu thương mọi loài . Lý do : nếu Chúa không yêu thương thì Ngài đã không tạo dựng, nếu Ngài ghét bỏ thì Ngài đã không bảo tồn (bài đọc 1). Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa sống động và cụ thể cho tư tưởng trên đây. Quả thật, Thiên Chúa không thiên vị ai, không khinh bỉ ai, Ngài chỉ nhìn đến thiện chí của người ta và ban ơn cứu độ.
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta câu chuyện của ông Giakêu trở lại như thế nào. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với hạng người trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ làm việc cho người La mã, nên người ta cho họ là những kẻ phản bội và ruồng bỏ họ. Trái lại, Đức Giêsu lại có lối hành xử khác, Ngài kêu gọi ông, lại còn đến ăn uống và trọ trong nhà ông nữa. Việc này làm cho người Do thái rất tức giận. Ngài xử sự như thế để tỏ rõ sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động bởi lòng nhân hậu của Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy những sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi.
“Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A.Pope). Đối với những người tội lỗi, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải. Còn đối với từng người chúng ta, không ai dám nhận là mình hoàn toàn trong sạch, không bao giờ lầm lỗi. Hãy tin vào lòng nhân hậu và thương xót của Chúa, hãy tìm đến gặp Ngài và quyết chí thay đổi cuộc sống của mình để nên tốt hơn.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Kn 11,22-12,2.
Kết luận một trình thuật về cuộc Xuất hành, câu chuyện khá độc đáo ở điểm tác giả nhấn mạnh việc Thiên Chúa nương tay đối với người Ai cập (Kn 11,15-20). Vì sao Ngài nương tay ? Bởi vì Thiên Chúa thương yêu “tất cả những gì hiện hữu”; nếu không, Ngài đã không tạo thành. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương mọi người bất kỳ ai và mời gọi họ hoán cải.
Nhìn lại lịch sử, tác giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa : Ngài tỏ ra rất khoan hồng đối với những người tội lỗi. Đây là một giảng dạy ngược với cách sống khép kín của dân Do thái lưu lạc, họ không muốn tỏ cho lương dân thấy Thiên Chúa không ngừng yêu thương họ.
+ Bài đọc 2 : 2Tx 1,11-2,2.
Các Kitô hữu ở Thessalonica hoang mang bởi những lời tiên tri, những câu chuyện và những lá thư được gán cho thánh Phaolô nói đến ngày tận thế đã gần kề. Vì thế, họ đâm ra lười biếng không muốn làm việc nữa.
Để giải tỏa những lo lắng của họ, thánh Phaolô viết lá thư thứ hai này khuyên họ đừng tin vào những luận điệu mơ hồ ấy.
+ Bài Tin mừng : Lc 19,1-10.
Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn ngoan :”Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”.
Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng : Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau:”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!
Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa : lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn.
Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố :”Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với lời Ngài đã phán:”Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU.
Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyện bố :”Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”.
- Hoàn cảnh .
Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city” : thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình của những người hành hương lên Giêrusalem.
Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu.
“Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.
- Con người ông Giakêu.
Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu ? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành ?
Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.
Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế.
Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi khi đi ngang qua con người ấy.
Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu, đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng ? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng ? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng ? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay.
- Đức Giêsu gọi tên ông.
Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi :”Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi. Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.
Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.
Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài:”Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa : Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.
II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI.
- Tiếng gọi của Thiên Chúa.
Người ta nói :”Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô:”Đèn của thân thể là con mắt…”(Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai ? Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…
Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.
- Sự đáp trả của con người.
Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả những gian lận mà ông tự thú đã phạm.
Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi. Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải.
Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng :”Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11).
Tiên tri Đaniel viết theo :”Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo”(Dn 4,24).
Nơi khác lại khen :”Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa”(Cv 11,4).
Đức Giêsu hứa:”Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).
Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia :”Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa”(Tb 12,12-13).
- Khả năng đổi mới của con người.
Sách Tam tự kinh có viết :”Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương :”Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao ?
Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.
Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông : một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông :
Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)
Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.
Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột :
Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố).
Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì ? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.
Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn :
Thân em như quả ấu gai,
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.
Ai ơi, nếm thử mà xem,
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.
(Ca dao)
Truyện : Harold Hughes trở lại.
Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.
Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời. Ông viết trong cuốn tự truyện như sau :
“Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”.
Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn văn Thái).
- Thái độ với kẻ tội lỗi.
Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu :”Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.
Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm. Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !
Truyện : Thiền sư Sengai và đệ tử.
Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo :
– Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
- Công cuộc đổi mới của mỗi người.
Như ở trên chúng ta đã nói : “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta :”Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”.
“Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói : sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa. Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.
Truyện : Leonard da Vinci vẽ hình.
Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần.
Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ :”Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói:”Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.
Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay.
Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như : bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ…
.
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.
Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà người tội lỗi. Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết : “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa, phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.
Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa. Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch, nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.
Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.
.
Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Trên hành trình rao giảng Tin mừng, một hôm Đức Giêsu tới thành Giêricô, Ngài nhìn thấy Giakêu ở trên cây sung, và Giakêu bắt gặp ánh nhìn của Chúa, đời ông và gia đình được ơn biến đổi từ đây. Biến cố này làm nổi bậc lên dung mạo Thiên Chúa đầy lòng xót thương chủ động đi tìm con người. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng. Thật vậy, để tìm được con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tính mạng.
Cũng vậy, để đi tìm con người, được Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp. Phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người. Phải từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi khắp mọi miền đất nước. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.
Ngài đi tìm một Lêvi đang ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông về sau này trở thành tông đồ thánh sử. Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông sau này trở thành tông đồ dân ngoại.
Hôm nay, Chúa đến thành Giêricô, một thành phố lớn, tấp nập kẻ buôn người bán, lại có đám đông cùng đi theo. Trong thành phố này có người tên là Giakêu, ông khao khát được nhìn thấy Chúa, nhưng vì ông khiêm nhường chiều cao, nên vội vàng trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa. Thế nhưng, khi Chúa đi gần đến nơi thì nhìn thấy Giakêu trước, lại còn gọi rõ tên ông.
Chính lòng thương xót mà Đức Giêsu đi tìm Giakêu. Lòng thương xót của Đấng quyền năng đi tìm phàm nhân thấp bé. Lòng thương xót của Đấng Tạo hoá đi tìm thụ tạo thấp hèn. Và lòng thương xót của Đấng Cứu độ trần gian đi tìm tội nhân cùng khốn. Qua sự tìm kiếm này, Giakêu cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đã thay đổi đời ông.
Chúng ta ghi nhận rằng: Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người tội lỗi đến đâu đi nữa, thì tình thương của Ngài cao vời khôn ví phủ lấp muôn vàn tội lỗi. Tình thương Chúa luôn đi bước trước.
Thật vậy, Giakêu chưa nhìn thấy Chúa, thì Chúa đã nhìn thấy ông. Giakêu chưa lên tiếng, thì Chúa đã gọi đích danh ông: Giakêu hãy xuống mau. Giakêu chưa kịp mời, thì Chúa đã ngỏ lời đến thăm nhà ông “Hôm nay, Ta sẽ lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Giakêu chưa mở lời thú tội, thì Chúa đã nói lời tha thứ cho ông trước rồi “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19, 9).
Vì lòng thương xót mà Đức Giêsu nhìn tới Giakêu. Vì lòng thương xót mà Chúa đến thăm nhà Giakêu. Vì lòng thương xót nên Chúa tha thứ cho Giakêu. Chúa như người cha nhân hậu đầy lòng xót thương mong tìm đứa con trở về. Chúa như người mẹ hiền luôn bao dung tha thứ cho con mình, cho dù nó ngàn lần lầm lỗi.
Từ ánh nhìn quan tâm yêu thương của Chúa, đã làm trái tim ông Giakêu bừng lên ngọn lửa sám hối. Vì thế, ông đứng thẳng lên thưa cùng Chúa như một hành vi thú tội công khai: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần gia tài tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19, 8). Quả thật, ánh nhìn của Chúa có một năng lực cứu độ, có sức biến đổi lòng người.
Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh, là giá máu cứu chuộc của Chúa. Thật vậy, vì lòng thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian, để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn thế nữa kìa. Là sau khi tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành, thì Thiên Chúa còn vui mừng biết bao. Hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc (Lc 15,6);; hãy mở tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải (Lc 15,10).
Anh chị em thân mến,
Giakêu nhận biết mình tội lỗi, nên ông tìm đến Chúa, thế nhưng, Chúa đã tìm thấy ông trước. Nhờ cuộc gặp gỡ này, mà đời ông và gia đình ông được ơn cứu độ.
Ước gì, qua biến cố Đức Giêsu gặp gỡ ông Giakêu hôm nay, xin cho mỗi chúng ta ngày càng cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa thương xót. Nếu chúng ta khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân bất xứng mọi bề, thì hãy noi gương ông Giakêu, là siêng năng tìm đến với Chúa mỗi ngày nơi nhà thờ này, để gặp gỡ Chúa qua Lời của Ngài; siêng năng gặp gỡ Chúa trong bí tích Thánh Thể và làm mới tâm hồn trong bí tích Hòa Giải. Từ nơi thánh thiêng này, mong sao chúng ta sẽ gặp được tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Hi vọng tâm hồn chúng ta được ơn đổi mới, hầu trở nên xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Nhật Bản đã trực tiếp truyền hình cho khán giả trên cả nước được xem toàn bộ ban quản trị của một công ty dược phẩm cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi-rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh Si-đa. Sau khi ông chủ tịch công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy quì gối xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và năm người trong ban quản trị công ty đã quì gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn nhà trong 10 phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.
Sám hối về những sai lỗi là điều bình thường, không có gì là hèn hạ và nhục nhã. Đạo của chúng ta xem việc sám hối ăn năn là một trong những đòi hỏi tiên quyết của niềm tin. Vì thế, sám hối là một đề tài mà không một ngôn sứ nào, không một tông đồ nào, không một nhà giảng thuyết nào không đề cập tới, chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả khi bắt đầu giảng dạy, ngài kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối để đón Chúa đến”. Chúa Giêsu cũng vậy, bắt đầu cuộc đời công khai, lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.
Sám hối là chân thành nhìn nhận những lỗi lầm, những thiếu sót của mình và quyết tâm đổi mới đời sống. Do đó, sám hối không phải chỉ là hối tiếc những hành vi quá khứ, lại càng chẳng phải là thực thi cho đủ một nghi thức bên ngoài theo luật định, nhưng là thay lòng đổi dạ, đổi mới đời sống và cách sống của mình. Hiểu như vậy thì sám hối là việc bình thường nhưng cần thiết đối với tất cả mọi người.
Tin Mừng kể lại nhiều mẫu gương sám hối, một gương mẫu điển hình là ông Da-kêu. Ông là một người tội lỗi nhưng đầy thiện chí. Ông ước muốn được nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng dân chúng đông quá, ông lại lùn, nên ông trèo lên một cây sung ở bên đường mà không sợ mọi người chế diễu. Quả thực, ông đã có thiện chí, bấy nhiêu thôi đã đủ để Chúa thưởng cho tấm lòng chân thành của ông, không những cho ông thấy mà Chúa còn đến nhà ông. Trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn, sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo, không những thế, ông còn thực hiện sự công bình, làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của ông Da-kêu là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta cũng hãy thực hiện một cuộc gặp gỡ Chúa như thế. Thực vậy, ông Da-kêu là gương mẫu người sám hối như Chúa Giêsu mong muốn, nhìn vào ông chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sám hối. Vậy điều quan trọng chúng ta hãy nhớ: việc sám hối là một đặc ân của Thiên Chúa, chứ không phải là sáng kiến của chúng ta. Đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có nhiệm vụ đáp lại. Ông Da-kêu vì tò mò muốn xem Chúa, nên trèo lên cây mà nhìn, nhưng tâm hồn ông chỉ thay đổi hẳn khi Chúa nhìn ông, kêu tên ông và vào nhà ông. Những chi tiết đó nói lên cho chúng ta biết một cách hùng hồn vai trò của ơn Chúa, của tình thương Chúa trong việc sám hối: ơn Chúa đi trước, kêu gọi và mời đón. Tuy nhiên, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, đáp lại sự trông đợi của Chúa thì công việc mới hoàn thành.
Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao, Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện chúng ta phải đến với Chúa, phải gặp gỡ Chúa và thành thật nhìn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình.
.
Lm. Trần Thanh Sơn
Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện liên lỷ đừng nản lòng, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ.
Sỡ dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.
1- Lòng thương xót của Thiên Chúa:
Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường muốn sự dữ, và những kẻ làm điều ác, những người sống bất công phải trả giá ngay lập tức. Khi suy nghĩ như thế, mặc nhiên chúng ta đang tự đặt mình trong tư thế của những người công chính để lên án kẻ khác. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bài sách Khôn ngoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa luôn đối lập với sự dữ, nơi Ngài không hề có bóng dáng của bất cứ một sự dữ nào, thế nhưng Ngài lại hết lòng thương xót các tội nhân. Ngài luôn chờ đợi sự trở về của những người tội lỗi. Và chính lòng thương xót vô biên đó đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm thực tế cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ những người yếu mới tìm cách để loại bỏ những người mình không ưa thích, còn những người mạnh mẽ thực sự thì lại thường dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, và tạo mọi cơ hội để người khác có thể làm lại cuộc đời.
Tương tự như thế chính vì là Đấng dựng nên muôn loài, nên Thiên Chúa luôn yêu thương và không muốn bất cứ một tạo vật nào của Ngài phải hư đi, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, … Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được?”. Thậm chí, Ngài còn “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối”. Thiên Chúa chưa xét xử và kết án chúng ta, không phải vì Ngài không biết, hay đồng ý với cách sống của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn dành cho chúng ta một thời gian, một cơ hội để chúng ta “ăn năn sám hối”, trở lại với Ngài.Vâng, nếu Thiên Chúa cư xử với chúng ta như cách chúng ta cư xử với anh em, với những người chúng ta không thích, có lẽ tôi và quý vị không ai còn có mặt trên cõi đời này. Sỡ dĩ, chúng ta vẫn còn sống và đang tiếp tục nhận được biết bao hồng ân của Thiên Chúa, thì chẳng phải là do chúng ta đạo đức thánh thiện, nhưng bởi vì “Chúa là Đấng nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng”. Ngài luôn sẵn sàng đưa tay “nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên”.
Chính lòng thương xót đã thúc đẩy Đức Giêsu dừng bước để ngỏ lời và viếng thăm gia đình ông Giakêu, một thủ lãnh của những người thu thuế, nghĩa là một người tội lỗi đầy mình theo cái nhìn của người Do thái. Nhưng cho dù dưới mắt mọi người Giakêu có là người tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì dưới con mắt yêu thương của Đức Giêsu, Giakêu vẫn là “con cái Abraham”, nghĩa là xứng đáng nhận được ơn cứu độ. Do đó, Đức Giêsu đã đến và dùng bữa tại nhà ông, và ban ơn cứu độ cho gia đình ông, bởi lẽ sứ mạng của Đức Giêsu là “đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. Cảm nghiệm điều này, thánh Phaolô chia sẻ với giáo đoàn Thessalônica: “Thiên Chúa chúng ta đã đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi anh em”.Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót vẫn sẵn sàng ban ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, để nhận được ơn cứu độ, về phần mình, giống như Giakêu, mỗi người chúng ta cũng cần có những nỗ lực cá nhân để xứng đáng với ơn ban của Thiên Chúa.
2- Lời mời gọi đáp trả:
Trở lại với bài Tin mừng, lúc đó Đức Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, và có rất đông dân chúng cùng đi với Ngài. Lúc đó có một người thủ lãnh của những người thu thuế tên là Giakêu cũng muốn đến gặp mặt Đức Giêsu, nhưng không thể được, vì dân chúng quá đông còn vóc dạng của ông thấp bé. Nhưng cho dù có nhiều trở ngại, ông vẫn không bỏ cuộc. Ông đã đoán hướng đi của Chúa và chạy trước đến một cây sung và trèo lên để có thể nhìn thấy Chúa. Điều này chứng tỏ được lòng nhiệt thành và quyết tâm của ông. Mặc dù là một thủ lãnh của những người thu thuế, nhưng ông đã quên đi địa vị của mình để rồi, trèo lên cây như một đứa trẻ. Và khi được Chúa ngỏ lời sẽ đến và ở lại nhà ông, ông đã vui vẻ trèo xuống và đón tiếp Người cách hân hoan, mặc cho những lời xì xầm, đàm tiếu của đám đông dân chúng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Ông biết rõ mình là người tội lỗi, nhưng ông không giấu giếm điều đó. Ông thành tâm muốn giao hoà với Thiên Chúa.
Không chỉ giao hoà với Thiên Chúa. Ông còn muốn giao hoà với anh em. Và chính sự giao hoà lại với anh em này của Giakêu đã trở nên một dấu chỉ rõ ràng cho tâm tình sám hối chân thành của ông. Ông thưa với Chúa: “Tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Không chỉ đền trả theo lẽ công bằng, Giakêu xin đền gấp bốn. Thậm chí ông còn tự nguyện chia sẻ nửa phần gia tài của ông cho tha nhân. Giakêu đã vượt qua sự công bình thông thường để đi đến đức ái. Lòng nhân ái của Giakêu, chắc hẳn phát xuất từ cảm nghiệm của ông về lòng nhân ái của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Ông biết Thiên Chúa luôn yêu thương ông. Do đó, ông cũng có bổn phận yêu thương và chia sẻ cho anh chị em mình.
Mặc dù câu chuyện của Giakêu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng có lẽ mẫu gương của Giakêu vẫn là bài học thiết thực cho mỗi người chúng ta hôm nay. Tương tự như ông Giakêu, trong hành trình theo Chúa, mỗi người chúng ta vẫn đang gặp biết bao khó khăn, trở ngại. Nào là đường xá xa xôi, lầy lội, thời tiết bất thường đi lại khó khăn; nào là bận rộn với công việc làm ăn bởi vì hôm nay “người khôn của khó”; nào là Nhà thờ chật chội, nóng nực, lại còn bị muỗi đốt … Thế nhưng, theo gương của Giakêu, chúng ta hãy cố gắng “chạy lên trước” vượt qua những khó khăn bên ngoài, rồi can đảm “trèo lên cây”, để vượt thắng sự nhỏ bé ươn lười của chính bản thân, để đến với Chúa trong các Thánh Lễ mỗi ngày, nhất là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, và sốt sắng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ một cách chu đáo. Và nhờ có Chúa trong tâm hồn, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta sẽ là một lời chứng sống động để dẫn đưa anh chị em chúng ta đến với Chúa. Amen.
.
Lm. Vũ Minh Nghiễm
“Hôm nay nhà nầy được ơn cứu độ.”
Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.
Trên thực tế, Ngài đã cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)
Điều đáng tiếc là trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng, sống bên cạnh Chúa muôn đời.
Điều này thật sự thì rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng ước được vào thiên đàng.
Nhưng đây không phải là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con người ngay trên dương thế.
Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Đức Giêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Giêsu trên đường đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền nói:
“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”
Kết thúc là ông Giakêu hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.
Và Đức Kitô đã tỏ mình là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.
Đây lời Ngài phán trong cuộc tiếp xúc với ông Giakêu:
“Hôm nay đây, nhà này được ơn cứu độ.”
Lời Chúa vừa nói có nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Giakêu đang được ở trên thiên đàng?
Nhưng đó không phải là điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay ngày hôm đó tại nhà ông Giakêu. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.
Nhìn vào bối cảnh của đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Giakêu trở thành một người bị đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.
Người thu thuế trong Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc. Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.
Người thu thuế quả là người có tội. Mà ông Giakêu không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.
Sự khinh khi ghét bỏ của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông, cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.
Tôi sẽ không thể có được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.
Đức Giêsu chính là người khác đó của ông Giakêu. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”. Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Giakêu vậy.
Sự Đức Kitô chấp nhận ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.
Người chung quanh chỉ thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Giakêu cũng mặc nhận như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm ông trở nên một ngưới lương thiện.
Thái độ của Đức Kitô đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với những thách đố của một đời sống cao thượng.
Trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.
“Tôi xin bố thí nữa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin bù lại gấp bốn.”
Quả là một sự lạ lùng. Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”
Hôm nay đây ông Giakêu đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Giêsu cho ông như họ đã cầu bàu cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”
Phương pháp Đức Kitô dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình: Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.
Một người khác tên Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.
Một người khác nữa tên Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.
Đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.
Cũng như sự nghi ngờ, khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái của họ.
Đức Kitô đã tin tưởng vào ông Giakêu. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.
Rồi Ngài đi một bước xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”
Trau dồi các nhân đức nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.
Một buổi sáng bêm bờ hồ Galilê, Đức Giêsu hỏi Simon Phêrô:
– Con có yêu mến Thầy không?
Phêrô trả lời:
– Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.
Không đợi cho Phêrô nói gì thêm, Đức Giêsu tiếp liền:
– Hãy chăn dắt các con chiên Ta. (Yo 21:16)
Cứu độ là một danh từ vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi tôi:
“Hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”
.
Lm. Thanh Minh
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng “chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.
Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là ông Giakêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất chính dưới cái nhìn của dân Do thái.
Nhận biết thân phận lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.
Trước mặt Chúa Cứu Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn cứu độ… Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.
“Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).
Sách khôn ngoan nói bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..
Dĩ nhiên Thiên Chúa yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”
.
Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn
Chúng ta đang ở chặng cuối cùng của hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ để thực thi công cuộc cứu độ. Chặng cuối của hành trình và cũng là cửa ngõ đi vào thánh thánh Giêrusalem chính là thành phố Giêrikhô. Chính nơi đây, thánh sử Luca ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên trưởng quan thu thuế Giakêu. Câu chuyện thật cảm động và thật ý nghĩa. Lý do là vì nó không chỉ cho chúng ta biết cách thức, hành trình của một tội nhân trở lại đón nhận ơn cứu độ, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu thương và sứ mệnh của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi.
Tên gọi Giakêu có nghĩa là “người thanh liêm”- xem ra có vẻ mâu thuẫn với chính con người cũng như công việc hiện tại của ông, nhưng đó lại là sự thật. Vâng, thánh sử Luca đã không ngần ngại liệt kê lý lịch đầy bất hảo của ông- ít nữa trước mắt người Dothái: “Đứng đầu người thu thuế và là người giàu có”. Rõ ràng Giakêu là quan thu thuế, mà không chỉ là quan thu thuế bình thường, ông là đại quan, là “đầu sỏ” của những tên thu thuế, bóc lột dân đen để làm lợi cho đế quốc Rôma. Thế nên, sự giàu có của ông cũng là điều dễ hiểu. Đó là sự giàu có không do công sức của mình mà phần lớn xuất phát từ những trò ma mãnh trong ngành mà có. Vì lẽ đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Giakêu bị dân chúng Dothái khinh bỉ, bị tẩy chay và cho là kẻ ô uế. Thế nhưng dù có bị dân chúng tẩy chay, khinh bỉ, Giakêu vẫn cố tìm cách để nhìn thấy Chúa khi biết Người sẽ đi qua thành phố Giêrikhô thân yêu. Chúng ta có thể thấy nổ lực của Giakêu trong việc cố tìm cách để thấy Chúa không hẳn xuất phát từ sự tò mò, hiếu kỳ trước con người Giêsu, mà đó còn là khởi điểm cho một hành trình đức tin, tìm về cội nguồn chân lý. Đám đông cũng như vóc dáng nhỏ bé không cho phép ông nhìn thấy Chúa, ông không thất vọng, ông trèo lên cây sung và nóng lòng đợi chờ…
Những nổ lực của Giakêu cuối cùng đã có tác dụng nhờ Chúa Giêsu chính là người đã đi bước trước. “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chính Chúa Giêsu đã cố tìm Giakêu vì sứ mệnh của Người là đi tìm những con chiên lạc, quy tụ về một ràn chiên. Không chỉ thế, Chúa Giêsu tự làm khách đến nhà của Giakêu – điều mà trước đây chẳng mấy ai làm, ngoại trừ bị ông kêu đến để hoạch hoẹ về chuyện thuế má. Chúa đến nhà ông, đồng bàn cùng ông, bởi như ngôn sứ Êdêkien, Chúa Giêsu “không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18, 23), Người muốn Giakêu nhận ra những lầm lỗi của mình để trở về.
Chúng ta có thế thấy nổi vui mừng khôn tả của Giakêu khi được Chúa Giêsu viếng thăm. Ông không thể ngờ rằng trong khi mọi người trong thành phố Giêrikhô này đều căm ghét, lạnh lùng và khinh bỉ ông, thì cái ông Giêsu “bắc kỳ” (miền Galilê) lại vui vẻ thân tình với ông. Ông có ngờ đâu đang khi người dân của thành phố Giêrikhô liệt ông vào hạng người tội lỗi, bán linh hồn cho ma quỷ, thì lại được Chúa Giêsu công khai nhìn nhận ông là “con cháu tổ phụ Apraham”. Ông cũng có ngờ đâu xuất phát từ ý muốn có thể là bộc phát chỉ để nhìn thấy Chúa, đơn giản thế thôi, thì giờ đây khi được tiếp xúc với Người, được đồng bàn với Người, ông quyết định làm lại cuộc đời. Cuộc đổi đời của Giakêu không chỉ trong việc ông chia sẻ, bố thí cho người nghèo “phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”, mà còn được thể hiện trong ước muốn sống đời sống công bình ngay thẳng nữa. Ông thú nhận với Chúa: “Nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúng ta biết luật Dothái cũng như luật Rôma chỉ quy định khi có bằng chứng xác thực về tội ăn trộm chiên hoặc bò, thì phải đền 5 lần đối với bò và 4 lần đối với chiên (x. Xh 21, 37). Giakêu không chỉ buộc mình có vậy, ông còn đi xa hơn nữa trong tất cả mọi của cải chiếm đoạt.
Có thể nói không gì có thể sánh ví niềm vui mừng khôn tả của Giakêu khi cuộc đời ông được gặp gỡ Chúa và được Chúa biến đổi. Cuộc gặp gỡ và biến đổi đó không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn lan rộng, mang chiều kích xã hội. Ước gì mỗi người trong chúng ta cũng được Chúa Kytô biến đổi để trở nên những Giakêu thanh liêm hầu mưu ích cho muôn người.
.
Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến
Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: – Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); – Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); – Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).
Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.
Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: – Con người và ước muốn (cc. 2-3); – Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.
Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).
Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.
Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).
Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.
Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.
.
Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng
Chúng ta đổi công việc, đổi nhà, thay xe…, nhưng nói đến đổi mới cuộc đời thì ít ai muốn thực hiện. Có nhiều lý do, nhưng có lẽ lý do đáng kể nhất đó là người ta không muốn mạo hiểm và cố gắng. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một cuộc đổi đời đầy mạo hiểm và nỗ lực về phía ông Giakêu, nhưng quan trọng hơn chính là vai trò và ảnh hưởng của Chúa Giêsu trong cuộc thay đổi này.
Câu chuyện xảy ra tại Giê-ri-khô, một thành phố nằm phía đông Giê-ru-sa-lem và gần Biển Chết. Thành phố đông dân cư, buôn bán phồn thịnh. Cho nên ông Giakêu đứng đầu những người thu thuế ở đây thì nhất định phải là người giàu có rồi. Dân chúng khinh dể ông, còn gọi nhà ông ở là “nhà người tội lỗi”. Chúng ta không rõ lý do nào khiến ông “tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai”. Rất có thể vì ông đã nghe nói “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng” và Người còn “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lu-ca 15:1-2). Tuy nhiên lần này cộng thêm với việc ông tìm cách gặp Chúa, thì chính Chúa lại chủ ý đi tìm ông. Ông nấp ở trên cây sung, không ai nhìn thấy ông. Nhưng Chúa Giêsu không cần ai mách bảo, Người chủ động nhìn lên và kêu ông xuống. Trong cuộc đổi đời này, cả ông Giakêu lẫn Chúa Giêsu đều đích thân tìm đến với nhau. Chúa Giêsu đã mở đầu diễn tiến cho cuộc thay đổi khi Người đề nghị trước: “Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Dường như Chúa muốn ngầm bảo ông: Tôi đã tóm được ông rồi. Giả như ông có đuổi, tôi cũng không đi! Hôm nay tôi ở lại với ông, để bắt đầu cho việc ở lại vĩnh viễn suốt cuộc đời ông! Đúng vậy, chỉ có sự hiện diện của Chúa mới giúp cho cuộc đổi đời thành công. Khi người ta có mối tương quan với Chúa, tương quan ấy sẽ có sức mạnh biến đổi họ. Gần đèn thì rạng là thế. Đáp lại đề nghị của Chúa, ông Giakêu “vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”.
Trong cảnh kế tiếp của câu chuyện, thánh Luca mô tả một ông Giakêu mới. Chúa và ông Giakêu đứng đó trước mặt mọi người. Mặc cho bao con mắt soi mói, ông chỉ biết có Chúa Giêsu hiện diện mà thôi. Ông công khai “xưng tội” với Chúa và trước mặt mọi người. “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em”. Ông nhìn nhận mình đã ăn cướp của người nghèo nên giờ đây ông lấy phân nửa tài sản để trả lại cho người nghèo. Ông thú nhận đã chiếm đoạt nhiều thứ của người khác nên ông tự nguyện xin đền gấp bốn. Quả thực ông đã trở thành con người mới rồi, tất cả là nhờ gặp gỡ Chúa Giêsu! Về phần Chúa Giêsu, Người trang trọng nhìn nhận sự thay đổi của con người Giakêu. Chúa Giêsu trước hết nói về cuộc biến đổi của cái nhà: “nhà người tội lỗi” giờ trở thành “nhà tiếp nhận ơn cứu độ”. Rồi Chúa nói đến sự biến đổi con người. Từ một “người tội lỗi” và bị đồng bào loại trừ khỏi cộng đồng con cháu Áp-ra-ham, bây giờ ông Giakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Áp-ra-ham”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau khi nhìn nhận cuộc đổi đời của ông Giakêu, Chúa Giêsu đã khẳng định lại vai trò của Người: “Con Người đến để tìm và cứu chữa những gì đã mất”. Lời này của Chúa làm cho chúng ta vững tâm thay đổi cuộc sống. Chúng ta “đã mất” trong nhiều phương diện, nhất là mất đi căn tính làm con cái Chúa. Thường chúng ta không đổi đời một cách nhanh chóng và ấn tượng như trường hợp ông Giakêu, nhưng là cuộc biến đổi từ từ, liên tục và kéo dài cả một đời. Dù thế nào đi nữa, vai trò sự hiện diện của Chúa Giêsu và cố gắng của chúng ta vẫn là những yếu tố chính để việc biến đổi được tiếp tục. Hơn lúc nào hết, hình ảnh “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Philípphê 4,10) mà thánh Phaolô nêu lên luôn là hình ảnh sống động nhất diễn tả tiến trình thay đổi. Có lẽ chúng ta sử dụng hình ảnh này mỗi ngày trong cuộc xét mình buổi tối, nhìn lại một ngày sống để xem cuộc đổi đời của chúng ta tiến triển như thế nào.
Chúa Giêsu lúc nào cũng muốn đến để tìm và cứu chữa chúng ta. Cũng như ông Giakêu, chúng ta chỉ cần mở tâm hồn đón Chúa. Chúa muốn ở lại với chúng ta, nên chúng ta hãy để cho người tiếp tục ở lại và thực hiện cuộc tìm và cứu chữa này.
.
Lm Vũ Khắc Nghiêm
Văn hòa Victor Hugo viết tác phẩm nổi tiếng tựa đề là “Những kẻ khốn cùng” (Les Misérables) đã kể câu chuyện vền Văn Giang (Han Valjean), một tên sát nhân bị tù 19 năm. Khi được tha về, không ai dám đến gần. Chàng vào tiệm ăn, bị đuổi, vào nhà trọ, vừa thấy mặt anh, người ta đóng cửa lại, vào ổ chó, chó sủa inh ỏi, vào trọ nhà Đức Giám mục Myriet được tiếp đãi hết sức trọng hậu. Nhưng đến đêm, chàng nổi máu tham, ăn cắp cây đèn bạc rồi trốn đi. Chính quyền bắt được, giải tới Đức Giám mục. Ngài nói: “Chính tôi tặng anh và tặng thêm hai cây đèn nữa.” Rồi Ngài nói với anh: “Anh cầm lấy, anh hãy bỏ ác theo thiện. Tôi mua linh hồn anh và trao cho Chúa.” Từ đó, Van Giang suy nghĩa, hối cải và sau này trở thành một Thị trường rất đạo đức.
Đức Giêsu cũng đã xử rất thân tình với người thu thuế mang tiếng là ông tổ tham nhũng, ăn cướp của dân, tên là Giakêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Phân tích bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có ba lối xử sự. Lối thứ nhất sợ “gần mực thì đen.” Lối thứ hai “gần đèn thì sáng”. Lối thứ ba “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, còn làm cho bùn được vẻ thanh tao đẹp đẽ, hay đúng hơn đó là ánh sáng thế gian, là muối đất còn hơn là hoa sen.
Lối xử thứ nhất của những người xì xầm nói hành Đức Giêsu: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ.” Theo quan niệm dân Do Thái bấy giờ coi những người dân ngoại, những người công chức bám gót đế quốc Rôma, và nhất là hạng người thu thuế cho Đế quốc, bị coi là hạng người tội lỗi ghê tởm. Họ phải xa tránh, lỡ phải tiếp xúc với những người ấy, khi về nhà, họ phải thanh tẩy bằng cách tắm rửa để khỏi ô uế. Lối xử đó gây ra hậu quả tai hại là phân chia giai cấp, chia rẽ chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, tự cô lập mình. Hậu quả tai hại thứ hai là tạo ra hạng người kiêu căng, tự coi mình là trong sạch, hơn dân tộc khác. Họ không biết mình cũng đầy tội lỗi như mọi người. Họ phải đấm ngực ăn năn xin Thiên Chúa tha thứ. Họ không được phép kết án ai để khỏi bị Thiên Chúa kêu án. Có lần họ đã kết án người đàn bà phạm tội ngoại tình và xin Đức Giêsu kết án ném đá chị. Nhưng Người bảo họ: “Ai không có tội, hãy ném đá chị đi! Họ đã rút lui để khỏi bị Đức Giêsu kết án.
Lối xử thứ hai của ông Giakêu: “Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giầu có.” Chế độ thu thuế lúc bấy giờ là cho đấu thầu. Dĩ nhiên ai nhiều tiền lắm của mới trúng thầu. Ông Giakêu chắc trúng thầu mới là người đứng đầu những người thu thuế. Người chủ thầu mặc sức thu thuế để mau thu lại vốn và làm giầu. Sự giầu có của ông còn hơn cả những chủ thầu ở những thành khác vì thành Giêricô, cách Giêrusalem 23 cây số, là đô thị cổ nhất thế giới đã có từ hơn 10 ngàn năm, và nổi tiếng văn minh, thương mại sầm uất, cũng là một đô thị chiến lược được xây cất rất kiên cố ngay thời ông Giosuê dẫn dân Do thái về đất Hứa. Giầu có và sang trọng như thế, nhưng ông lại rất có lòng khao khát được thấy Đức Giêsu. Lòng khao khát mạnh đến nỗi thúc đẩy ông bỏ cả thể diện sang trọng giầu có, sẵn sàng trèo lên một cây sung như đứa trẻ nhỏ để nhìn cho được khi Đức Giêsu đi qua. Đức Giêsu lúc đó đối với ông chỉ là thường dân, khá lắm chỉ là một ngôn sứ nào đó đối với dân thôi, còn đối với chính quyền đời và đạo, Đức Giêsu không là gì, không có chức tước gì. Nhờ lòng khao khát mạnh mẽ đó, ông Giakêu đã được ơn soi sáng thấy một điều lạ lùng: Ông đã được thấy Đấng Cứu thế, và cả gia đình ông được cứu độ: “Hôm nay nhà này đươc ơn cứu độ.”
Đời ông đã đổi mới hẳn. Ông sẳn sàng bán nửa gia tài giúp cho người nghèo khó. Đức bác ái của ông dâng cao. Đức công bằng cũng không kém. “Nếu tôi làm thiệt hại ai, tôi xin đền gấp bốn.” Ông Giakêu chỉ rước Chúa vào nhà có một ngày, đời ông đã hoàn toàn đổi mới, đã hoàn toàn sống theo Đức Kitô. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa vào linh hồn không biết bao nhiêu lần, đời chúng ta đã đổi mới, đã nên giống Đức Kitô chút nào chưa?
Lối xử sự của Đức Giêsu là lối xử sự của Thiên Chúa. Người làm cho mặt trời mọc soi sáng cho mọi loài, cho kẻ lành cũng như kẻ dữ, làm mưa xuống cho mọi tạo vật cho kẻ công chính cũng như bất lương, là lối xử sự của Đấng Cứu độ hằng thương xót những người tội lỗi, hướng dẫn những người lầm đường lạc lối, cứu chữa những người yếu đuối, tìm kiếm những người hư mất, phục sinh những người đã chết. Thật ra, “toàn thể vũ trụ trước mắt Người chỉ là hạt sương sớm rơi trên đất, thế mà Người vẫn xót thương. Người xử sự thật khoan dung, vì chúng ta là của Người. Lạy Chúa tể tốt lành và hiếu sinh dường bao!” (Bài đọc 1). Thiên Chúa nhân hậu và quí trọng sự sống của chúng ta như vậy, cho nên thánh Phaolô cầu nguyện cho chúng ta vững tin: “Đừng hoảng sợ.” Chúa không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống.
Lạy Chúa! Xin cho con vững tâm tin tưởng mừng rước Chúa đến ngự vào nhà con, cho con được đổi mới và được ơn cứu độ như ông Giakêu. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật
Vẫn có một khát vọng
Đức Giêsu sắp đi ngang qua Giê-ri-khô, chặng cuối cùng trước khi băng qua sa mạc để lên Giê-ru-sa-lem. Cuộc đi qua này xác định thêm một lần nữa sứ vụ của Đức Giêsu ; đó là tìm kiếm những gì đã hư mất.
Ông Da-kêu là một người bị dân chúng coi thường, vì ông là người cộng tác với quân chiếm đóng Rô-ma. Ông là một nhân viên thuế vụ luôn tìm cách thu lợi cho quân chiếm đóng và nhờ vậy mình được giàu thêm. Trước mắt dân chúng, đó là một con người bị khinh bỉ, mặc dù tên gọi của ông có nghĩa là trong sạch, là công chính.
Tuy nhiên, con người này lại muốn nhìn thấy Đức Giêsu. Trong tâm hổn ông đang trào lên một khát vọng gặp được Đức Giêsu, một con người lừng danh vì các phép lạ, và cả vì lời giảng của Người. Nhưng ông lại là một người thấp bé. Ông chen chúc trong đám đông. Ông nghển cỗ, kiểng chân, nhưng vô ích! Ông chẳng nhìn thấy Đức Giêsu, ông thật là một con người nhỏ mọn, không giá trị. Ông không dám chịu đến gần Đức Giêsu. Ông không dám tỏ mình ra.
Vậy là ông bỏ qua mọi chuyện: viên chức cao cấp này tìm cách trèo lên một cây sung. Một hấp lực nào đó từ bên trong thôi thúc ông. Ông hy vọng từ trên cành cây ông có thể nhìn thấy Đức Giêsu mà không bị phát giác. Những người dân ở đó nhìn thấy cảnh này hẳn phải bật cười: quả là kỳ cục, một đứa trẻ cũng không làm như thế.
Quả thật, vì Đức Giêsu, ông Da-kêu chẳng kể gì đến địa vị của mình. Ông chấp nhận tầm vóc nhỏ bé đích thực của mình. Ông chỉ là một người bé nhỏ khốn khỗ, và ông chấp nhận tình trạng này. Ông khiêm tốn, và bỏ hết mọi sự che đậy, mọi vẻ bên ngoài giả tạo. Ông trở về với sự giản dị của mình. Những gì vẫn bao phủ ông từ trước tới nay, lúc này rơi xuống hết. Đối với người khác, có thể chẳng có gì thay đỗi, nhưng đối với ông tất cả đang bắt đầu!
Tất cả đã thay đỗi – như phần sau của câu chuyện cho thấy. Ông Da-kêu được tái tạo, khi ông khiêm tốn hạ mình. Ông đã leo lên cây (hình bóng của thập giá) và con người cũ đã chết trên đó. Một đời sống mới được khởi đầu, một con người mới được nảy sinh.
Người đến để đem niềm vui
Đức Giêsu đi ngang qua và thấy có gì khác lạ. Ngước mắt lên, Người nhìn thấy ông và ngỏ lời với ông, một con người bị dân Do-thái coi là kẻ bất lương. Người nhận ra nơi con người này có điều gì đó đặc biệt: hành động leo lên cây của ông là một tiếng kêu gửi đến Người.
Người đòi lòng hiếu khách của ông và tỏ ý muốn dùng bữa tại nhà ông. Ông cảm thấy quá hạnh phúc và “vội vàng tụt xuống”. Từ đây cuộc sống của ông hoàn toàn thay đỗi: từ một người bị cộng đoàn khinh chê ruổng bỏ, ông được Đức Giêsu đưa nhập vào cộng đoàn con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham.
Ông Da-kêu đã bị bất ngờ, nhưng phải nói là dân chúng Giê-ri-khô còn bị bất ngờ hơn: “Nhà người tội lôỵi mà ông ấy cũng vào trọ.” Thật là xúc phạm, không thể nào chấp nhận nỗi. Vậy mà Đức Giêsu còn tuyên bố rõ ràng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tỗ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Như thế, từ cái nhìn yêu thương và mời gọi yêu thương, Đức Giêsu không loại trừ ai cả, dù người đó thế nào chăng nữa. Lòng thương xót của Người đủ rộng để bao phủ mọi tội lôỵi của con người. Ông Da-kêu đã lọt vào trong tấm lưới là lòng từ ái của Thiên Chúa. Ông tìm lại được niềm tin nơi người đã cứu ông, và ông đã trở thành người được tha thứ. Còn niềm vui nào lớn lao hơn nữa! Niềm vui chính là câu trả lời của Thiên Chúa cho con người chấp nhận để mình được cứu thoát khỏi chính bản thân mình và khỏi tội lôỵi.
Ông Da-kêu vui và làm cả nhà rối loạn lên vì niềm vui. Ông thúc giục gia nhân chuẩn bị đón tiếp Đức Giêsu. Từ trước đến nay do bản tính keo kiệt, chưa bao giờ ông tỗ chức một cuộc tiếp đón tưng bừng như thế.
Nhưng chưa hết, do sức mạnh của ơn giải thoát, của niềm vui đang dào dạt trong lòng, ông đã sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo, và hứa đền gấp bốn cho những người đã bị ông cưỡng đoạt tài sản.
Ông Da-kêu đã bị tình yêu Đức Giêsu chinh phục, ông sẵn sàng bỏ mọi sự để sống đời sống mới do Đức Giêsu đem lại. Nhờ lòng thương xót của Người, tâm hổn ông đã hoán cải. Ông không nhận ra chính mình nữa, người khác cũng không nhận ra ông: đó là phép lạ lớn nhất. Có lẽ có người nghĩ rằng ông đã mất trí. Thực ra, sự quảng đại khó tin nỗi này là hệ quả đơn giản do lòng rộng rãi của Thiên Chúa, là dấu chỉ bên ngoài của sự hoán cải bên trong. Khi người ta thực sự được thứ tha, làm sao người ta lại không ước muốn trao tặng tất cả? Bởi vì lúc ấy người ta là một người khác: một con cháu của tỗ phụ Áp-ra-ham, một người được cứu thoát, một người tin vào tình yêu đầy bất ngờ do Thiên Chúa đem lại.
Thiên Chúa cần đến chúng ta
Qua khát vọng của ông Da-kêu, Đức Giêsu đã mở một con đường. Chính Người đã đưa ra sáng kiến, đã lôi ông từ trên cành cây xuống, đã làm vỡ tung những vỏ bọc bên ngoài con người ông. Người cần đến ông Da-kêu, như đã cần đến các ông Phê-rô, An-rê, và những người khác nữa như các cô Mác-ta, Ma-ri-a. Người cần đến họ để ở trong nhà họ, để sống với họ, biến họ thành những người bạn, những người anh em. Người cũng cần đến môỵi người chúng ta, Người muốn đến cư ngụ nơi chúng ta.
Thế nhưng, môỵi lần Đức Giêsu đến với một người nào thì Người trở thành người quấy rầy, người phá vỡ những tình trạng an toàn sẵn có. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra nơi ông Da-kêu, nhưng còn nơi nhiều người khác như chúng ta đọc thấy trong Tin Mừng. Chẳng hạn như Mác-ta, cô phải thay đỗi cách nhìn ; như ông Phê-rô buộc lòng phải thả lưới, như Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se phải lên đường về Bét-lem, rổi sau đó từ Bét-lem sang Ai-cập. Luôn là những con đường hướng đến nơi không biết trước, không an toàn, kèm theo một thái độ từ bỏ quyết liệt buộc con người phải ra khỏi mình để lao vào trong tấm lòng của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng đang ở trong chúng ta: Người muốn lôi chúng ta xuống khỏi cái cây của chúng ta. Người muốn phá vỡ sự phòng vệ cá nhân của ta, Người muốn đập tan những gì chúng ta coi là cần thiết để giữ thể diện. Người đang nhìn chúng ta và thôi thúc chúng ta môỵi ngày. Để đáp lại, chúng ta phải để cho lòng thương xót của Người xâm chiếm, đổng thời cũng để niềm vui của chính Thiên Chúa tràn ngập tâm hổn chúng ta.
Nhưng Đức Giêsu ngỏ lời với chúng ta bằng cách nào? Nên nhớ rằng Thiên Chúa đã làm người để nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người, ngôn ngữ bình thường của cuộc sống. Chúng ta có khát mong được nghe lời ấy không?
* * *
Con chẳng biết làm thế nào
để kính chào Chúa,
phải chăng là dùng luật lệ của con?
Lạy Chúa, xin chỉ dạy con đường nẻo của Chúa,
xin giải thoát con khỏi cảnh nô lệ
là sự điên rổ của con.
Xin hướng dẫn con, con vẫn còn đủ sức hạ mình,
trước khi chính con trở thành gánh nặng cho con.
theo J. Halevy
.
Thiên Phúc
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
– Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Giakêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lỗi, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: “Này Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: “Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đến gấp bốn”. Và Chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: “Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Thật vậy ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Giakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Abraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Giakêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa “tìm đến và cứu chữa” bao giờ cũng trổi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa, có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Giakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Abraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.
.
An Phong
Ranh giới giữa nhơ uế và thanh sạch
Trong đạo Do Thái, có một ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa tội lỗi và công chính… một ranh giới rất “thiêng liêng”, mà chỉ có một đời sống luân lý nghiêm khắc mới có thể giúp người ta vượt qua được. Như thế, yếu tố luân lý trở thành yếu tố quan trọng nhất. Họ quan niệm cuộc đời con người như một cuộc thi cử, ai đủ điểm trung bình thì vượt qua được ngưỡng cửa thi cử, đó là thi đậu; ai không đủ điểm thì không thể vượt qua và là thi rớt. Cách phân chia này làm cho người nào chưa vượt qua được mức trung bình thì sợ hãi; người nào vượt qua được mức trung bình thì yên tâm, an nghĩ và thỏa mãn với đời sống của mình.
Chúa Giêsu nhiều lần phá bỏ ranh giới “siêu hình” này, vượt qua ranh giới giữa thanh sạch và nhơ uế. Chúa Giêsu tiếp xúc với những người thu thuế, ăn cơm với họ, Ngài để cho người đàn bà tội lỗi lấy tóc lau chân. Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa chẳng từ nan để vượt qua những ranh giới úy kỵ giữa thanh sạch và nhơ uế, giữa thánh thiện và tội lỗi… để gặp gỡ những người Ngài yêu thương và kiếm tìm.
Không phải luân lý nhưng là ơn cứu độ
Ở đây cũng thế, Chúa Giêsu đã đi bước trước, Ngài vượt qua cái úy kỵ của người biệt phái: bị nhơ uế vì tiếp xúc với người tội lỗi, Ngài thân hành đề nghị trú ngụ ở nhà ông Giakêu, dù lúc đó ông chưa có “hành vi sám hối”.
“Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất”
Thái độ của Chúa Giêsu cho thấy một nguồn mạch mới của đời sống đạo: điều chính yếu của Tin Mừng Đức Giêsu chính là ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa chứ không phải nỗ lực luân lý của con người. Chính thái độ đi bước trước của Chúa Giêsu đã giúp cho ông Giakêu sám hối và tìm được một đời sống luân lý tốt đẹp, chứ không phải ngược lại.
Chính vì thế, Luca hay nêu lên cái ngày hôm nay của ơn cứu độ; và mỗi khi Kinh Thánh nói tới “hôm nay”, thì có nghĩa là một điều gì mới của Thiên Chúa được thực hiện trong cuộc sống con người.
“Hôm nay nhà này được cứu độ”
Ơn Cứu độ tặng-không
Trong thư Roma (5, 8), thánh Phaolô đã từng nói rằng: “Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”
Điều đó được thể hiện trong trình thuật Chúa Giêsu đến với Giakêu hôm nay. Điều “cần thiết” của Giakêu chỉ thái độ sẵn sàng để đón nhận hồng ân của Chúa. Một thái độ sẵn sàng, một lòng tin đơn thành, một sự chân nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là những điều thuộc về tự do của con người mà Thiên Chúa không muốn ép buộc. Với những ai sẵn sàng, Chúa Giêsu nhìn thấy con người đó trong dòng dõi những người tin; “bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”, và Ngài nhận thấy họ chính là đối tượng sứ vụ Ngài; bởi vì: “Con Người đến là để tìm và cứu vớt những gì hư hỏng”.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Không phải con đến với Chúa,
nhưng là Chúa đến với con trong bí tích Thánh Thể hôm nay.
Con đến nhà thờ hôm nay như bày tỏ một chút thiện chí của con;
những gì còn lại, là ơn cứu độ, là sự thay đổi đời sống,
xin Chúa rộng lòng ban cho con
như Chúa đã ban cho ông Giakêu khi xưa.
.
HÔM NAY NHÀ NÀY ĐƯỢC ƠN CỨU ĐỘ
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
Thiên Chúa luôn yêu thương, tha thứ và ban cho con người được ơn cứu độ. Đây chính là bản chất của Thiên Chúa. Bởi vì: “ Thiên Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó” (Kn 11, 23-24).
Bài Tin Mừng hôm nay làm toát lên đặc tính đó khi Đức Giêsu chủ động gọi Giakêu và vào nhà ông cũng như dùng bữa mặc cho người ta xầm xì bàn tán: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi” (Lc 19,7). Như vậy, chúng ta thấy Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ của con người, nhưng Ngài để ý đến giây phút hiện tại, sự thiện chí và ngay lành của họ để ban ơn cứu độ.
- Ý nghĩa Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy việc Đức Giêsu đi ngang qua thành Giêricô, đây là chặng cuối cùng trên đường lên Giêrusalem để thực thi sứ vụ cứu chuộc của Ngài bằng cái chết trên thập giá. Trên lộ trình ấy, có dân chúng theo sau Ngài khá đông. Tuy nhiên, trong đám người đó có Giakêu, ông là: “Thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có” (Lc 19, 2). Như vậy, ông là một vị quan chức cấp cao. Nhưng chớ trêu thay, ông lại lùn, mà đám người thì lại quá đông, nên ông ta phải trèo lên cây sung để mong được nhìn thấy Đức Giêsu đi ngang qua.
Nói đến Gia Kêu là người thu thuế, người Do Thái thường có những dị nghị về hạng người như ông và họ xếp ông chung với hạng đĩ điếm, trộm cắp, là những người làm tay sai cho đế quốc La Mã. Vì thế, họ là những người phản quốc, hại dân. Khi gặp họ, người Do Thái tránh xa như tránh dịch. Không ai được phép giao du với những con người như thế. Bởi vì đây là người tội lỗi tầy trời, đồ thối tha dơ bẩn. Khi đi ngang qua người ấy, người ta sẵn sàng nhổ nước miếng tỏ lòng khinh bỉ…
Tuy bị người ta khinh thị như thế, nhưng ông nhất quyết không chịu khuất phục trước đám đông, vượt lên trên dư luận, và nhất là vượt lên trên mặc cảm tự ty của mình để trèo lên cây sung với hy vọng được tận mắt nhìn thấy Đấng Kitô, Ngài là Cứu Chúa của mình và toàn dân. Đam mê ấy của ông chính là Giêsu, con người mà ông đang mong đợi. Sự kiên quyết của ông không chỉ đơn thuần là sự tò mò, mà đây còn là khởi điểm của hành trình đức tin nơi ông.
Đức Giêsu đã không để cho ông thất vọng khi gọi chính tên ông: “Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Theo lối hiểu của Kinh Thánh, gọi tên ai là biểu hiện của việc biết rõ về người ấy và có một mối tương quan thân tình với người được gọi. Hôm nay, Chúa gọi ông, vậy Chúa biết rất rõ lòng ông và muốn ông trở về với con người lương thiện, công chính của mình, bởi vì tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”, hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn trở thành người nhà của ông khi nói: “Hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Như vậy, nếu hiểu qua, Giakêu hôm nay đi tìm Chúa, nhưng thực ra Chúa đã đi tìm ông trước.
Hôm nay, Đức Giêsu nhìn Giakêu, nhưng cái nhìn của Đức Giêsu là một cái nhìn mang tính chinh phục, cảm hóa tâm hồn, cái nhìn nhân từ, thương xót, cái nhìn cứu độ. Chính cái nhìn này đã đi lọt vào trong tâm hồn của Giakêu và như một lời cật vấn lương tâm của ông. Cũng chính cái nhìn nhiệm mầu này đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Nếu ánh mắt của Đức Giêsu là ánh mắt nhân từ, yêu thương, thì ánh mắt của Giakêu là ánh mắt sám hối, tin tưởng. Tội của ông rất lớn, vì ông không phải là một người thu thuế thường, mà lại là một thủ lãnh những người thu thuế. Nhưng: “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản chất của Thiên Chúa” (A.Pope).
“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Câu nói này của Đức Giêsu đã làm cho ông vui mừng khôn xiết, đồng thời đã thay đổi toàn bộ cuộc đời và thái độ của ông.
Không vui và thay đổi sao được khi cả một xã hội khinh miệt và coi thường ông, thì một Đức Giêsu, một Cứu Chúa lại sẵn sàng vào nhà mình. Giờ đây, với ông, cuộc gặp gỡ này là một cuộc gặp gỡ của tình yêu. Tình yêu đi bước trước là Đức Giêsu, và ông thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho ông, nên tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đã biến đổi ông, tình yêu đã gợi lại cho ông lòng bác ái và lẽ công bằng. Chính tình yêu đã hướng dẫn và thôi thúc ông đến hành động là đức ái. Tại sao ông lại can đảm để cho lương tâm lên tiếng? Tại sao ông lại có được lòng quảng đại như vậy? Thưa chỉ một lẽ rất đơn giản là vì ông đã được tha thứ và được yêu nhiều. Lời tuyên bố của Đức Giêsu đã là một lời minh chứng về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho ông: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất” (Lc 19, 9).
Hôm nay, Giakêu đã có cơ hội chuộc tội của mình bằng việc bác ái, và ông đáng được hưởng ơn cứu độ: “Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11). Trong sách Tiên tri Đaniel có viết: “Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo” (Dn 4,24). Và sách công vụ Tông đồ cũng có câu: “Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa” (Cv 11,4). Gia kêu đáng cứu độ, vì lòng đơn sơ của ông xuất phát từ sự khiêm nhường, và khiêm nhường lại là linh hồn của đức đơn sơ.
- Sống Sứ Điệp Lời Chúa
Đã là con người, ai cũng có những thiếu xót, bất toàn. Điều quan trọng là chúng ta có dám tụt xuống khỏi cây sung để gặp được Chúa như Giakêu hay không?
Ông Giakêu hôm nay ông đã gặp được Chúa, nên cuộc đổi đời của ông thành công, còn nếu ông mà gặp người Biệt Phái thì có lẽ ông đã xấu lại càng xấu hơn.
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều là tội nhân trước mặt Chúa, chẳng có ai là người trong sạch hoàn toàn. Vấn đề đặt ra, đó là: thái độ của chúng ta có quyết tâm quay lại với Chúa hay không mà thôi.
Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta không được xét đoán, bởi vì không chừng, chính chúng ta đang có nguy cơ xa dần và đánh mất ơn cứu độ ngay trong khi nhân danh sự tốt lành, thánh thiện kiểu “mồ mả”.
Ngược lại, chúng ta cần có sự cảm thông, xóa bỏ mặc cảm để đến với người tội lỗi với lòng bao dung, tha thứ như Thiên Chúa. Đây cũng chính là liều thuốc bình an mà Đức Giêsu đã dùng cho những người mà Ngài gặp gỡ…
Mong thay, trong xã hội ngày nay, có nhiều người nhận ra và dám sống theo lương tâm; cần ý thức rằng: có một lúc nào đó, tiền bạc không đem lại cho ta niềm hạnh phúc thật. Chức quyền không đảm bảo được cuộc sống mai sau. Chỉ có Chúa mới là nguồn bình an, niềm vui và hạnh phúc thật, bởi vì, Ngài là đường, là sự thật và là sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn biến đổi như Giakêu khi xưa. Xin cũng ban cho chúng con biết yêu thương mọi người và sẵn sàng thực thi bác ái trong tinh thần Kitô giáo. Như thế, chúng con tin tưởng và hy vọng sẽ được ơn cứu độ của Chúa. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Kinh Thánh Cựu Ước cho biết: “Từ nguyên thủy đã sinh ra những kẻ khổng lồ tiếng tăm lừng lẫy, vóc dáng to cao, thạo nghề chinh chiến. Nhưng những người này, Thiên Chúa không chọn, cũng chẳng dạy cho con đường hiểu biết.” (Br 3:26-27) Thế nhưng Thiên Chúa lại chọn Israel.
Người ta luôn chú ý vóc dáng, nhất là phụ nữ, và người ta có câu: “Nhất dáng, nhì da.” Cái vóc dáng quan trọng vì là cái “đập vào mắt” người khác, ít khi người ta chú ý vẻ đẹp tâm hồn – và phải cần có thời gian mới có thể biết được. Thật chí lý khi tục ngữ nói: “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Chắc chắn rằng cái gì TỐT thì ĐẸP, nhưng cái gì ĐẸP thì chưa chắc TỐT. Ngày nay, có lẽ vì quá chú trọng “bề ngoài” (đẹp, giàu, xài sang, nhà cao, xe xịn,…) nên người ta vẫn thường nói đùa mà thật: “Cái đẹp đè bẹp cái nết”. Có lẽ đó là nỗi đau của thời đại vì quá coi trọng vật chất – mặc dù chưa đến mức duy vật.
Mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa, với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, đồng thời có ba thiên chức (vương giả, tư tế và tiên tri). Thế nhưng người ta vẫn “kỳ thị” nhau đủ kiểu, vẫn “bên trọng, bên khinh,” kỳ thị rõ ràng chứ không “thoang thoảng” đâu. Trí tuệ hạn hẹp của phàm nhân thật nhỏ bé, nông cạn, vì thế mà càng dễ ảo tưởng và tự tôn.
Từ xa xưa, Kinh Thánh đã xác định: “Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa giọt sương mai rơi trên mặt đất.” (Kn 11:22) Các chi tiết rõ ràng, rạch ròi. Cả vũ trụ còn chẳng là gì huống chi “hạt bụi phàm nhân” là mỗi chúng ta! Nhưng có vấn đề đáng lưu ý: “Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.” (Kn 11:23) Đó chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Thánh GH Gioan Phaolô II có “bài toán thần học” thế này: Sự đau Khổ + Lòng Thương Xót = Sứ Vụ. Lãnh nhận sứ vụ để phục vụ chứ không để thống trị hoặc hưởng tư lợi. Phục vụ là thương yêu, thương xót. Vì thế, đừng lạm dụng cụm từ “lòng thương xót” hoặc suy diễn theo ý riêng mình.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không thể không chạnh lòng thương xót. Sách Khôn Ngoan xác định: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra, vì giả như Chúa ghét loài nào thì đã chẳng dựng nên. Nếu như Ngài không muốn, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu như Ngài không cho hiện hữu, làm sao nó có thể được duy trì?” (Kn 11:24-25) Ba giả thuyết thật tuyệt vời. Chúng ta là tội nhân khốn nạn mà Ngài không ghê tởm, còn chết để cứu chuộc chúng ta. Vì thế, chúng ta không thể viện bất cứ lý do gì để mà tránh né yêu thương người khác.
Kinh Thánh là Lời Chúa, mọi điều trong đó đều được Thiên Chúa linh hứng. (2 Tm 3:16) Do đó, Lời Chúa luôn chính xác và rõ ràng: “Lạy Chúa Tể là Đấng yêu sự sống, Chúa xử khoan dung với mọi loài, vì mọi loài đều là của Chúa.” (Kn 11:26) Gió, lửa và nước rất hiền và rất mềm, nhưng khi chúng “nổi điên” thì không ai có thể chống lại, dù là các phương tiện khoa học tân tiến nhất. Thật ngu xuẩn khi người ta huênh hoang nói rằng chống lũ lụt, thay trời làm mưa, hoặc vắt đất ra nước. Nói hay, nổ to, xạo giỏi, nhưng nào có làm được gì. Đúng là điếc không sợ súng!
Thực sự phải công nhận rằng tín nhân chúng ta thật may mắn khi có thể nhận biết Thiên Chúa, được Ngài ở với và ở trong chúng ta, đồng thời lại kiên nhẫn và vô cùng xót thương, mặc dù chúng ta chẳng ra gì, luôn muốn nổi loạn: “Quả vậy, lạy Đức Chúa, sinh khí bất diệt của Ngài ở trong muôn loài muôn vật. Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa dạy từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.” (Kn 12:1-2) Chúa dễ thương hết sức, dễ thương tới mức chúng ta cảm thấy khó tin, đôi khi có vẻ như “không chịu nổi.” Nhưng tình trạng “không chịu nổi” có hai dạng: Một là không-thể-không-yêu-mến (dạng tốt), hai là phát tức vì ganh tỵ – kiểu như “nổi loạn” vậy (dạng xấu).
Từ xưa tới nay, không hề thấy một vị lập quốc nào hoặc vị lập đạo nào mà dám tuyên bố mình là Chúa, không chỉ Chúa mà Thiên Chúa, nhưng chỉ có Chúa Giêsu dám nói, dù bị tra khảo và bị giết chết cũng không thay đổi “lời khai” tại dinh Philatô và Caipha. Chỉ đơn giản thế thôi cũng đủ biết Chúa nào là Chúa thật. Còn những kẻ tuyên bố là “thiên tử” chỉ là những kẻ đại bịp bợm. Vì thế, chúng ta phải biết tạ ơn và mau mắn tôn vinh Thiên Chúa như Thánh Vịnh gia đã xưng tụng: “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.” (Tv 145:1-2) Chỉ có Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật, vì Ngài là sự thật, và cho chúng ta biết thế nào là chân lý, đồng thời còn cho chúng ta biết “bí quyết” để được sống đời đời. Vì ghen tức mà người ta hèn hạ, hèn hạ vì hèn nhát, càng hèn nhát càng thủ đoạn, tìm đủ cách để bách hại những ai tin theo Chúa Giêsu Kitô.
Nghiên cứu cho biết rằng cứ 7 Kitô hữu thì có 1 người bị bách hại vì đức tin của mình, có gần 300 triệu Kitô hữu sống tại các miền đất bị bách hại. Sự gia tăng bách hại mạnh mẽ tại 20 quốc gia: Arập Sauđi, Burkina Faso, Camerun, Trung Quốc, Bắc Hàn, Ai Cập, Eritrea, Philippines, Ấn Độ, Indonesia, Iran, Iraq, Myanmar, Niger, Nigeria, Pakistan, Cộng Hòa Trung Phi, Siria, Sri Lanka và Sudan. Thật đáng quan ngại về sự vi phạm nhân quyền mà các Kitô hữu phải chịu. Đó là cuộc tử đạo liên lỉ của Giáo Hội, xin Thiên Chúa che chở họ!
Đức Mẹ xác định: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.” (Lc 1:50) Như vậy, ngay từ thuở tạo thiên lập địa đã có Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, chứ không chỉ có từ khi Chúa Giêsu mặc khải lòng thương xót cho Thánh nữ Maria Faustina Kowalska (1905-1938). Đó chỉ là thời điểm cần phải “nhấn mạnh” vì người ta khinh suất hoặc lơ đãng, mặc dù trước đó Chúa Giêsu đã mặc khải Tình Yêu Thiên Chúa cho Thánh nữ Magarita Maria Alacoque (1647-1690) ở dạng khác: Thánh Tâm – với vòng gai và ngọn lửa. Như vậy, Thánh Tâm và Lòng Thương Xót không hề khác nhau – với Lòng Thương Xót là hai tia sáng, với Thánh Tâm là Lửa Tình Yêu. Chỉ MỘT tình yêu của Thiên Chúa, nhưng được diễn tả bằng các cách khác nhau mà thôi.
Thật vậy, Thiên Chúa là tình yêu, cũng là lòng thương xót, lòng trắc ẩn, sự chạnh lòng, đúng như Thánh Vịnh gia cho biết: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên.” (Tv 145:8-9) Thật là “may mắn” cho chúng ta, thế nên phải biết chân nhận và lên tiếng: “Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:12)
Thiên Chúa luôn thành tín trong mọi lời Ngài phán, đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm, đặc biệt là quan tâm những người thấp cổ bé miệng, vừa yếu đuối vừa yếu thế: “Ai quỵ ngã, Chúa đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Người cho đứng thẳng lên.” (Tv 145:14) Ngài là Thiên Chúa của mọi chân lý nên Ngài cương quyết bảo vệ công lý. Ai muốn làm đệ tử của Ngài thì cũng phải hành động như Ngài. Chắc chắn như vậy. Hành động bảo vệ Chân Lý và Công Lý là thực hiện thiên chức Tiên Tri (Ngôn Sứ) mà Thiên Chúa đã trao ban. Đó là trách nhiệm – trách nhiệm thì không thể không thi hành. Từ xưa, Thiên Chúa đã truyền lệnh: “HÃY giải thoát người bị áp bức khỏi tay phường áp bức, ĐỪNG hèn nhát khi con phải xét xử.” (Hc 4:9) Một câu mà hai mệnh lệnh – một xác định, một phủ định.
Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa, bởi vì “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thánh Phaolô vừa tâm sự vừa khuyên nhủ: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô.” (2 Tx 1:11-12) Sự cầu nguyện luôn cần thiết và có tính liên đới kỳ lạ.
Người ta càng sống lâu thì càng có thể nhận ra rằng cuộc sống rất nhiêu khê, cả tinh thần và đời thường, luôn có những thứ có thể khiến chúng ta dao động – đặc biệt là về sự kiện tận thế. Rất cần phải tự tin, tự tin cả đời thường và tâm linh, nếu không thì chúng ta sẽ bị chao đảo, ảnh hưởng cả thể lý và tinh thần. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.” (2 Tx 2:2) Đó là động thái “cứ là chính mình”, không bị chi phối bởi bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Không nghiêng ngả vì vật chất, không mặc cảm vì kém cỏi, không sợ hãi người có quyền, không khúm núm với người thích dùng mệnh lệnh, không bợ đỡ người có chức vị,… như thế mới thực sự là người sống đủ bản lĩnh, không khuất phục những thứ vớ vẩn.
Thánh sử Luca kể: Sau khi vào Giê-ri-khô, Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Dakêu (Zacchaeus, Ζακχαῖος hoặc Zakchaios – nghĩa là người Trong Sạch và Công Chính). Ông có quyền thế vì là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông có uy tín chứ chẳng bình thường, nhưng ông thấy nể trọng Đức Giêsu, thế nên ông mới tìm cách để xem cho biết Ngài là ai. Nhưng ông không thể thấy được Ngài, vì ông lùn tịt giữa đám đông dân chúng. Ông phải dùng mưu: chạy tới phía trước và leo lên một cây sung để nhìn cho tỏ tường dung nhan Ông Giêsu, vì Ngài sắp đi qua đó. Ông Dakêu “nhanh trí” ghê đi!
Ông là người có quyền, có của, nhưng kém ngoại hình, vóc dáng ông thuộc dạng “thiếu thước tấc”. Được cái nọ thì mất cái kia, đó là chuyện thường tình, và cũng là lẽ công bằng. Tuy nhiên, tại sao một người có thế giá như ông, có thể “chơi ngông” kiểu Công tử Bạc Liêu, vậy mà lại muốn được diện kiến để gặp gỡ Ông Giêsu? Gặp trực tiếp thì sẽ trò chuyện, đối thoại, hai năm rõ mười. Có lẽ đó mới là điều ông thực sự mong muốn. Ôi, như thế thì thật tuyệt vời!
Chắc chắn Chúa Giêsu biết có người muốn nhìn thấy mình nên khi tới chỗ ấy, Ngài nhìn lên cây và nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” (Lc 19:5) Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Ngài biết mọi sự. Chưa gặp bao giờ mà Ngài biết “ông thu thuế leo cây” tên là Dakêu, cũng có lần Ngài biết Philípphê từ lúc ông ở dưới cây vả trước khi gặp mặt. (Ga 1:48) Có lẽ ông Dakêu cũng chẳng dám mong được Ông Giêsu ưu ái đến như vậy, ông chỉ cần thấy bóng dáng Ngài thì ông cũng mãn nguyện lắm rồi. Vừa nghe Chúa Giêsu bảo xuống và sẽ ở lại nhà mình, ông Dakêu khoái chí lắm, vội vàng tụt xuống ngay, và mừng rỡ đón rước Ngài tới nhà mình.
Đám đông thấy vậy nên xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” (Lc 19:7) Miệng thế gian thì khỏi nói! Vừa xuống khỏi cây, chưa biết ất giáp thế nào, ông Dakêu không chần chừ, không so đo, không tính toán, mà vui mừng nói ngay: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” (Lc 19:8) Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Chắc hẳn lúc này Đức Giêsu vừa cười vừa gật gù vì thấy ông lùn này thế mà hay đáo để, chịu “đền tội” ngay ở thế gian này. Rồi Ngài nói rõ về ông cho mọi người cùng biết: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham.” (Lc 19:9) Đám đông thấy vậy chắc hẳn cũng cảm thấy “nóng gáy” lắm. Ông Dakêu là cán bộ thu thuế, dưới tay ông có nhiều tay sai, thế mà ông lại dám tìm gặp Đức Kitô, đúng là ông can đảm thật. Theo cách nhìn của người đời thì ông là người xấu, nhưng thật ra ông lại là người tốt – tốt thật.
Câu nói này của Chúa Giêsu rất đặc biệt, đáng lưu ý: “Con Người ĐẾN để TÌM và CỨU những gì đã mất.” (Lc 19:10) Ba động từ tạo thành Tam-Giác-Đều của Lòng Chúa Thương Xót. Chẳng cần bàn gì thêm, vì điều đó đã nói lên tất cả. Thật vậy, Thánh Phaolô xác định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội.” (Rm 5:20) Còn ĐGH Phanxicô nói: “Những người tội lỗi là những người ở gần Thánh Tâm Chúa Giêsu nhất.” Chúa Giêsu đền thế gian vì muốn cứu những gì đã mất, đó là các tội nhân. Mà các tội nhân là ai? Là tất cả chúng ta chứ “còn ai trồng khoai đất này” nữa?
Thật lạ lùng, kỳ diệu, và thú vị: Ông Dakêu thấp thể lý, kém chiều cao, mà người lùn thì thường mập, vóc dáng không “bắt mắt” người khác, nhưng ông có vóc dáng tinh thần cao ráo và linh hồn rất xinh đẹp. Người ông không đẹp, nhưng nết ông đẹp. Cái nết có thể “đánh chết” cái đẹp. Và chắc rằng Chúa cũng chỉ mong như thế mà thôi. Kinh Thánh nói: “Vẻ đẹp và duyên dáng làm người ta thích nhìn, nhưng cánh đồng xanh mướt còn đáng nhìn hơn.” (Hc 40:22) Thế nào là vẻ đẹp? Đó là khiếu thẩm mỹ mà không phải ai cũng có được. Người đẹp chưa chắc thực sự đẹp, bởi vì có thể với người này là đẹp nhưng với người khác thì không. Hầu như mọi lĩnh vực đều có khái niệm như vậy.
Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi loài và tác giả của muôn vẻ đẹp (Kn 13:3), xin giúp chúng con biết thực hiện đúng mệnh lệnh của Chúa Giêsu đã truyền dạy, biết xác định “tốt gỗ hơn tốt nước sơn” mà không coi trọng hình thức. Xin giúp chúng con biết nghiêm túc giữ trọn Luật Yêu Thương, can đảm bảo vệ Chân Lý và Công Lý bằng mọi giá. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 31 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm C nhấn mạnh tấm lòng yêu thương hay tha thứ của Thiên Chúa, Ngài không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống, vì như lời dạy của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Kn 11: 23-12: 2
Thiên Chúa đối xử rất khoan hồng đối với những người tội để họ ăn năn sám hối mà được sống.
2Tx 1: 11-2: 2
Thánh Phao-lô khuyên các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống xứng đáng với ơn gọi của mình và đừng để cho lời loan báo thất thiệt về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến làm cho tinh thần dao động và sợ hãi.
Lc 19: 1-10
Tin Mừng kể cho chúng ta câu chuyện đổi đời ngoạn mục của một viên quan thu thuế tên là ông Da-kêu, vì ông cảm kích trước tình yêu hay tha thứ của Đức Giê-su dành cho ông.
BÀI ĐỌC I (Kn 11: 23-12: 2)
Sách Khôn Ngoan thuộc truyền thống minh triết Cựu Ước. Trước tiên, tác giả cảnh giác các kiều bào Do thái của mình đang sống tại A-lê-xan-ri-a về mối hiểm họa của nền văn hóa Hy lạp và những nguy hiểm của cuộc bách hại. Để củng cố lòng can đảm và dẫn đưa những kẻ lầm đường lạc lối trở về, ông đối lập số phận vinh quang đang chờ đợi người công chính và sự trừng phạt không chút xót thương mà Thiên Chúa dành cho bọn ác nhân. Để bảo vệ những đồng bào của mình khỏi sức hấp dẫn của những văn minh dân ngoại, ông cho thấy rằng những người Do thái khờ dại tìm kiếm sự khôn ngoan ở nơi khác, trong khi Thiên Chúa ban cho dân Ngài sự khôn ngoan của Ngài, tức là Lề Luật, cách dồi dào. Cuối cùng, ông nhắc nhở họ đặc quyền của dân Chúa chọn là có sứ mạng truyền đạt cho toàn thế giới “ánh sáng không hề tắt của lề luật” (18: 4).
Nhưng ông cũng nhiều lần nói lên sự bận lòng của mình đối dân ngoại. Đây là một trong những nét độc đáo của sách này. Tác giả ra sức chứng minh rằng Thiên Chúa thương yêu hết mọi người không hề phân biệt, và Ngài đòi hỏi con cái của Ngài hãy tỏ mình là “bạn hữu của con người”. Nếu dân ngoại ngoan ngoãn vâng theo ánh sáng của lý trí, cuối cùng họ cũng sẽ nhận ra Đấng Hóa Công duy nhất của hoàn vũ. Họ sẽ đón nhận Đức Khôn Ngoan tinh tuyền và đích thật, bên cạnh Ngài, sự khôn ngoan của dân ngoại chỉ là trẻ con.
Trong đoạn trích hôm nay, khi nhìn lại lịch sử, tác giả khám phá ra đường lối hành xử của Thiên Chúa: Vì yêu thương hết mọi người mà Ngài đã dựng nên, Thiên Chúa không muốn ai phải chết, nhưng được sống. Vì thế, đối với những người tội lỗi, Thiên Chúa “nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi của loài người để họ còn ăn năn sám hối”, đối với “những ai sa ngã, Ngài sửa dạy từ từ… để họ bỏ điều ác mà tin vào Ngài”.
BÀI ĐỌC II (2Tx 1: 11-2: 2)
Thánh Phao-lô viết thư thứ hai gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có lẽ từ Cô-rin-tô. Cuộc bách hại mà thánh Phao-lô đề cập đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn tiếp diễn. Mối quan tâm của tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca về ngày Quang Lâm của Chúa cũng vậy. Tuy nhiên, trong thời gian này, hoàn cảnh còn nghiêm trọng hơn nhiều. Sự hỗn loạn xuất phát từ “bên trong” cộng đoàn tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Vài người loan báo ngày của Chúa sắp đến, và còn quả quyết những lời tuyên bố của mình được Thánh Thần linh hứng.
Trong đoạn trích thư này, thánh Phao-lô nói cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca biết rằng dù xa mặt nhưng không cách lòng, thánh nhân vẫn hằng cầu nguyện cho họ để họ sống xứng đáng với ơn gọi, hoàn thành mọi thiện chí và mọi công việc họ làm vì lòng tin, nhờ đó Đức Giê-su được tôn vinh ở nơi họ và họ được tôn vinh nơi Ngài (2Tx 1: 11-12). Thánh nhân còn căn dặn các tín hữu phải coi chừng đừng để cho mình bị lừa dối bởi những tin đồn thất thiệt về ngày Chúa Quang Lâm: “Nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa đã gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ” (2Tx 2: 1-2).
TIN MỪNG (Lc 9: 1-10)
Đối với Da-kêu, đây là một ngày đáng nhớ, một kỷ niệm không thể nào quên đi được, một cuộc gặp gở để đời, bởi vì chính cuộc gặp gở với Đức Giê-su vào ngày hôm đó mà ông hiểu thế nào là cái thênh thang rộng mở của tấm lòng Thiên Chúa và thế nào là sức bật tức khắc và triệt để của một cuộc đổi đời. Câu chuyện này được dàn dựng theo hình thức “đối xứng xen kẻ”:
A- Ông Da-kêu mong ước được gặp Chúa Giê-su (19: 1-4)
1-2. Tất cả bắt đầu từ cái tình cờ, Chúa Giê-su tình cờ đi qua thành Giê-ri-cô nơi ông đang sinh sống. Đối với Da-kêu, cái tình cờ này không thể nào bỏ qua, bởi vì đây là một dịp may hiếm có để “xem cho biết” Đấng mà người ta ca ngợi Người là một vị ngôn sứ.
3.“Ông tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn”: Việc “xem cho biết”một vị ngôn sứ đi ngang qua quê mình đối với dân chúng là một chuyện bình thường, nhưng đối với Da-kêu chẳng bình thường chút nào, bởi vì ông là một viên quan thu thuế được xem như một tội nhân công khai, một kẻ bị nguyền rủa, một kẻ bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn cứu độ. Vì thế, ông không thể hoà mình vào đám đông, cùng chung niềm vui với muôn người để đón mừng vị ngôn sứ. Hơn nữa, ông e ngại cái nhìn nghiêm khắc và sợ những lời kết án cứng rắn của vị ngôn sứ, vì ông biết ông là một tội nhân.
4. “Ông liền chạy tới trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó”: Tuy nhiên, tính tò mò muốn “xem cho biết”thúc bách ông và nẩy sinh một sáng kiến, một sáng kiến thật ngộ nghĩnh: ông chạy đến trước, leo lên một cây sung, ẩn mình trong cành lá chỉ để xem cho biết Đức Giê-su. Cây sung gần giống như một cây sồi, trồng bên đường, rất dễ trèo vì thân đầy khối u, các nhành tỏa ra tứ phía. Một Da-kêu thường ngày uy nghi đường bệ của viên quan thu thuế, nay lại trở thành một trẻ con, thơ ngây, hồn nhiên đong đưa trên cành cây sung để xem cho biết Đức Giê-su. Khi tìm kiếm Thiên Chúa, đừng để cho sự hổ ngươi cũng như sợ bị coi là lố bịch ngăn cản, phải biết tận dụng những nguồn sẵn có giúp chúng ta gặp được Chúa Giê-su.
B- Chúa Giê-su mong ước được lưu lại nhà ông Da-kêu (19: 5-7)
5.“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông”: Nhưng ông không ngờ sáng kiến ngộ nghĩnh của ông lại được Đức Giê-su để ý đến và Người cũng không thể bỏ qua đi được. Một sáng kiến ngộ nghĩnh của ông Da-kêu được đáp trả bằng sáng kiến ngộ nghĩnh không kém của Đức Giê-su, bởi vì nó không hợp với cái lô-gích theo nếp gấp suy nghĩ của ông. Người đến nơi cây sung, tận nơi sáng kiến ngộ nghĩnh của ông và nói với ông những lời thân thiết đến mức giản dị và tự nhiên như thử hai người bạn thân xa cách từ lâu nay gặp lại nhau: “Này Da-kêu ơi! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. Thật lạ lùng, Da-kêu chỉ muốn xem cho biết, ông đâu nghĩ gì xa xôi, ấy vậy Người đã dẫn đưa ông đi xa đến độ như “đã quen biết nhau từ thuở nào rồi”. Cái bất ngờ đến lạ lùng này của Chúa Giê-su vào ngày hôm đó đã khai mở cho ông Da-kêu một cái nhìn mới mẽ về Thiên Chúa không như ông nghĩ hay như người ta đã nói với ông trước đây.
Cách hành xử của Đức Giê-su cũng lạ thường đối với nếp gấp suy nghĩ của đám đông. Rồi, trước đây, truyền thống minh triết đã đặt vấn đề về giáo huấn truyền thống “thưởng phạt chí công của Thiên Chúa”. Nếu Thiên Chúa thưởng phạt chí công tại sao Ngài lại “ngoảnh mặt làm ngơ” trước thái độ huyên hoang tự đắc của bọn ác nhân và những đau khổ mà những người công chính phải chịu vì bất công? Câu trả lời của Thiên Chúa được gặp thấy trong Bài Đọc I: “Chúa nhắm mắt làm ngơ không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải” (Kn 11: 23), được hiện thực nơi câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Đức Giê-su đã ngoảnh mặt làm ngơ trước một Da kêu, viên quan thu thế, miệt mài làm giàu bằng những đồng tiền phi nhân phi nghĩa, nhưng Người không thể nào ngoảnh mặt làm ngơ trước một Da kêu biến mình thành trẻ thơ đong đưa trên cành với một ước mơ giản dị “xem cho biết Đức Giê-su là ai”. Trong cõi thâm sâu của một viên quan thu thuế, một kẻ hư hỏng không còn gì để nói, vẫn còn đó một mảnh trời xanh hồn nhiên trong sáng. Đối với Chúa Giê-su, một mảnh trời xanh nhỏ bé này hứa hẹn một ngày mới ngập tràn ánh nắng nếu biết nắm lấy cơ hội mà ân tình của Người mở ra.
6. “Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người”: Hóa ra trong khi con người chờ đợi Thiên Chúa đến với “cái rành mạch phân minh đâu ra đó của lý lẽ”, thì Thiên Chúa lại thích đến với “cái thênh thang rộng mở không ngờ của một tấm lòng”. Chính cái thênh thang rộng mở của tấm lòng đó mà ngày hôm ấy, Da-kêu hiểu hơn ai hết câu nói này: “Các bạn hãy nếm thử và nhìn xem cho biết Thiên Chúa chúng ta thiện hảo là dường nào”.
7. “Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau”: Nhưng cũng chính cái thênh thang rộng mở của của tấm lòng này lại gây công phẩn nơi công chúng: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”.
A’- Ông Da-kêu đáp trả (19: 8)
8. “Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng”: Cảm kích trước tấm lòng rộng mở của Chúa, ông Da-kêu đáp trả ngay tức khắc, bằng cách xin được đền gấp bốn cho những ai mà ông đã cưỡng đoạt tài sản của họ, như vậy trong việc đền bù ông còn nhất định làm nhiều hơn điều luật đòi buộc: Nếu chỉ trộm cắp thông thường và nguyên vật không thể hoàn trả thì phải tính giá gấp đôi mà đền (Xh 22: 4, 7). Nếu bị can tự thú và tự nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm (Lv 6: 5; Ds 5: 7). Chỉ khi nào trộm cắp là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới buộc phải đền gấp bốn (Xh 22: 1).
Ngoài ra, ông còn quảng đại dâng phân nửa tài sản của ông cho người nghèo. Thánh Am-rô-xi-ô giải thích: “Người giàu hãy học rằng điều xấu không cốt có nhiều của cải, nhưng không sử dụng chúng cho điều tốt; vì trong khi sự giàu có là một trở ngại đối với những người xấu, thì nó cũng là một phương tiện đức hạnh đối với những người tốt” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
B’- Chúa Giê-su đáp trả (19: 9-10)
9. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này”: Vì Đức Giê-su tự nguyện lưu lại nhà ông Da-kêu và vì ông Da-kêu bằng lòng đón tiếp Người, nên ơn Cứu Độ đến trên toàn thể gia đình của ông: “Sự hiện diện của Đức Giê-su làm cho những gì không thể được, đối với con người, trở thành có thể: một người giàu chui qua lỗ kim được, nhưng không phải là không đòi hỏi một số thay đổi tận gốc”(Pilgrim trong “Good News to The Poor”).
10. “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”: Đám đông đã kêu trách Chúa Giê-su vì Người giao du với một người mà họ cho là kẻ tội lỗi (19: 7). Chúa Giê-su biện minh cho cách hành xử của Người khi giải thích rằng lý do Người đến chính là để đi tìm những người tội lỗi. Người đang hiện thực vai trò người mục tử trèo non lặn suối tìm cho bằng được một con chiên lạc (x. Lc 15: 4-7) mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã loan báo rồi: “Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật; Ta sẽ làm cho mạnh”(Ed 34: 16). Vì Chúa Giê-su mong ước tìm và cứu những người tội lỗi, chúng ta cũng hy vọng mình có thể đạt được ơn cứu độ đời đời. Thánh Am-rô-xi-ô giải thích “Người chọn một thủ lãnh thu thuế, ai có thể thất vọng được chứ khi một con người như thế đạt được ân sủng?” (Expositio Evangelii sec. Lucam, in loc.).
Còn sáng kiến nào thân tình hơn Bàn Tiệc Thánh Thể nhỉ, ở đó Đức Giê-su đã dẫn đưa các môn đệ của Người cho đến tận cùng cái thênh thang rộng mở của tấm lòng Người, như thánh Gioan ghi nhận: “Trước lễ Vượt qua, Chúa Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà đến với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13: 1). Tại sao sống trong ân tình đến như thế, chúng ta lại không cảm thấy niềm hưng phấn đổi đời như ông Da-kêu nhỉ? Bởi vì chúng ta thích thấy mình nơi đám đông hơn nơi Da-kêu, một tội nhân, nên chúng ta thiếu cái sức bật ngay tức khắc và triệt để của một tấm lòng rộn rã muốn được đổi đời như ông Da-kêu. “Ngay tức khắc” vì không thể nào trì hoản được nữa, không thể khất lần thêm được nữa,“Thôi để dịp khác rồi sẽ hay” vì ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay như lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II: “Futur begins today, not tomorrow” (“Tương lai bắt đầu từ ngày hôm nay, chứ không ngày mai”), và “triệt để” vì dám chấp nhận những hậu quả khôn lường của cái giá đổi đời này: từ một Da-kêu mãi miết chắc chiu từng đồng bạc bất nhân bất nghĩa đến một Da-kêu dám chia tài sản của mình cho những người nghèo túng và đền gấp bốn cho những thiệt hại mà mình đã gây nên.
.
CUỘC GẶP GỠ GIỮA ÔNG GIAKÊU VÀ ĐỨC GIÊSU
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1–. Chúng ta đang ở cuối cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Đức Kitô sắp lên Giêrusalem để chịu chết, dù các tông đồ không hiểu ý nghĩa sự loan báo cuộc tử nạn (18,31-33). Vậy chính trong một viễn tượng bi thảm mà sắp diễn ra những biến cố sau đây: Chúa chữa lành người mù trên đường đến Giêrico, ông Giakêu ăn năn trở lại. Bầu khí này làm nổi bật những cử chỉ của Chúa Giêsu.
Chữa lành bệnh nhân, việc người ta ăn năn trở lại một cách đặc biệt, đối với Đức Kitô thì không phải đơn thuần là những hành vi thương xót có tính cách vật chất hay tinh thần. Chúng có ý nghĩa tiên tri do Chúa Giêsu, thủ lãnh các tiên tri làm chủ. Quả vậy, Ngài biết rằng ngôn ngữ con người có thể diễn tả các ý niệm nhân loại, nhưng bất lực khi biểu lộ một vài thực tại tinh thần cao siêu hơn. Khi tiếp tục truyền thống tiên tri của Israel trong thứ ngôn ngữ này, Ngài không thể không biết rằng các cử chỉ trong một vài hoàn cảnh có thể thay thế cho từ ngữ và có thể nói lên ý nghĩa của cái vô hình một cách hữu dụng hơn. Những cử chỉ tiên tri này của Đức Kitô làm thành một thứ giáo huấn cụ thể dễ hiểu đối với những người đơn hèn nhất, nhưng lại khiến những người khôn ngoan nhất phải thán phục. Chắc chắn đó là một sự chuẩn bị cho những cử chỉ mà Chúa Giêsu phải làm sau đó dưới hình thức nhiệm tích. Việc ông Giakêu ăn năn trở lại dạy ta cách rõ ràng về lòng thương xót của Thiên Chúa, về địa vị người tội lỗi trong chương trình cứu chuộc và về chiều kích mầu nhiệm mà bất cứ nhà nào mở cửa đón đấng Kitô đều đạt được.
2–. Lúc gần tới Giêrico, một người mù tuyên xưng Ngài là Con Vua Đavit. Và Chúa Giêsu đã chữa lành ông ta. Người được làm phép lạ quấn quít theo Ngài và tất cả đám đông bắt đầu ca tụng Thiên Chúa và Ngài đã làm những điều kỳ diệu dường ấy. Tiếng vang của việc chữa lành đầu tiên này lan rộng như cát bụi bay tới Giêricô. Một trong những người đầu tiên nghe được tiếng vang này là ông trưởng ty quan thuế.
Lc thường không nói lên các chi tiết liên quan đến những nhân vật mà ông đề cập đến. Tuy vậy, ông cũng cho ta biết tên của viên chức này là Giakêu. Cái tên này có nghĩa là “người trong sạch”. Về phía Lc, phải chăng đó là chuyện hài hước ? Bởi vì một người thu thuế mệnh danh là “người trong sạch” cho ta cảm tưởng tương tự như một người hà tiện có biệt hiệu là “người quảng đại”. Nếu Lc không muốn làm hề để chúng ta cười thì những người ở Giericô, chính họ chắc chắn biết cái tên này không thích hợp với con người chút nào: Giakêu, người tôi lỗi do bởi chức vị, dưới mắt họ được gọi tên là kẻ bị khai trừ. Giakêu là người thu thuế; ông giàu có nhờ đó, nhưng cũng vì đó mà gặp phải bất hạnh.
3–. Đức Kitô là người đưa ra sáng kiến giúp ăn năn trở lại. Đã đến lúc Chúa Giêsu xin hoặc nhận sự trợ giúp để tạo nên cơ hội cho Ngài ban ân sủng. Ngài xin người đàn bà xứ Samaria một chút nước để mạc khải cho Ngài biết Ngài có một thứ nước hằng sống làm hết khát và có thể biến cải bất cứ hữu thể nào thành nguồn nước tuôn trào trong cuộc sống vĩnh cửu. Ngài nhận dầu thơm của người đàn bà tội lỗi để minh nhiên hóa việc tha thứ Ngài ban cho bà trước mặt mọi người. Như vậy, Thiên Chúa làm người muốn biểu lộ một tình yêu chứ không phải là một sự thương hại. tình yêu sáng tạo và cứu độ trước hết chấp nhận đường lối đơn giản, thân tình của tình bạn là nhận ngay trước khi trao ban. Và chắc chắn đó là một trong những biểu lộ cao cả nhất của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những hữu thể mà Ngài muốn ban đầy ơn phúc.
Trong khi vị hoàng tử cải trang thành người ăn mày để bố thí mà không đánh mất danh dự, thì Chúa Giêsu đến với người thu thuế đang ở trên cây, như một người giảng rong để kiếm ăn: Ngài nói với ông: “Giakêu, trèo xuống mau”. Trong cái vội vàng của Chúa Giêsu có một thứ hài hước đầy dịu dàng, gần như là Chúa muốn nói với ông: Giakêu ta đói lắm rồi, vội vàng lên chứ! Thực vậy Ta muốn khẩn trương tới nhà ngươi để mầu nhiệm cứu độ mà Ta mang đến cho thế giới được hoàn tất nơi ngươi.
“Thấy vậy, mọi người xôn xao và nói: ông này đến trọ nhà một người tội lỗi” (c.7). Gương xấu lên tới tột điểm khi Chúa Giêsu không những chỉ quyết định dùng cơm tại nhà người thu thuế, mà còn muốn ở lại đó một thời gian. Nguyên việc dùng cơm với những người tội lỗi công khai đã là nặng rồi; hơn nữa việc tạm trú trong nhà người tội lỗi công khai chắc chắn làm người ta chỉ trích ầm ĩ. Lời xôn xao này, không phải chỉ do một vài người biệt phái ưa chỉ trích, nhưng chắc chắn là của toàn thể đám đông.
4–. “Nhưng Giakêu nhất quyết nói với Chúa: vâng, lạy Chúa, con sẽ lấy nửa gia tài của con để cho người nghèo…” (c.8a). Thật vậy, Giakêu đang đón Đức Kitô nơi cửa nhà ông. Dường như, ông cố ý tuyên bố công khai với hai chủ đích. Một đàng muốn nói lên sự thành tâm ăn năn trở lại của ông, Đàng khác, một cách nào đó, ông có ý khẳng định trước mặt mọi người rằng Chúa Giêsu đã làm đúng khi chọn trọ tại nhà một người không có tà tâm như người ta tưởng. Khi công khai thống hối để nói lên tấm lòng đơn sơ quảng đại của ông, Giakêu đã cho cử tọa thấy và biết cái nhìn phi thường của vị tiên tri ghé qua Giêricô hôm ấy. Cái nhìn của Ngài thành công ở chỗ đụng tới tim đen và từ đó làm lóe lên ánh sáng của Thiên Chúa.
Câu nói của người thu thuế trùng hợp cách kỳ lạ lời cầu nguyện của người biệt phái đầy kiêu căng – xem dụ ngôn thuật lại ở trên – “Tôi dâng một phần mười của cải của tôi” (Lc 18,12). Tuy nhiên giữa người tự kiêu vì đã chu tất của lễ mình dâng và người tội lỗi công khai dưới tác động của ân sủng, bằng lòng cho đi nửa gia tài, thật là khác biệt giữa một lòng sùng đạo cách ngu ngốc với một người như thánh Phanxicô khó nghèo hoặc thánh Gioan Thiên Chúa, là những vị đã bị đảo lộn bởi những tác động đầu tiên của Thiên Chúa. Khi hy sinh như thế, không có gì là nặng nề đối với người biết mình đã được tha thứ.
Thế nhưng, Giakêu để ý ngay đến việc bác ái và công bằng. Ông biết rõ là khi hành nghề, ông đã có thể lạm thu thuế má và bây giờ ông hối hận và muốn sửa lỗi. Ông áp dụng cho ông luật ghi trong sách xuất hành Ai cập (Xac 21,1) được Đavit nhắc lại (2S 12,6) được dự trù trong những trường hợp tương tự. Giakêu cũng phát biểu rằng chỉ có lòng bác ái mới xóa sạch các vết nhơ do việc làm tiền quá đáng của ông, rằng chỉ có sự công bằng mới xóa sạch bất công. Dù sao ông cũng không keo kiệt.
5–. Bấy giờ, Chúa Giêsu quay về phía Giakêu, nhưng lại nói với tất cả cử tọa; hình thức văn phạm của Lời Ngài (Ngài nói về ông Giakêu ở ngôi thứ ba) chứng minh điều này. Qua đó, Ngài hòa giải Giakêu với cộng đoàn Israel, trả lại cho ông các đặc quyền thừa tự lời hứa. Ngoài ra, Ngài còn công khai bác bỏ luận điệu của những luật sĩ tham quyền, theo đó, một số người tội lỗi công khai không thể có hy vọng được cứu rỗi. Cuối cùng, những lời này một lần nữa nhắc lại sứ mạng của Con Người “đến tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất” (x.Lc 15,6.9.24.32).
Khi quảng đại đón nhận ơn cứu độ, Giakêu khẩn trương thi hành lời khuyên quí báu nơi phúc âm Lc: phải mau mắn biến cải những sự giàu có thế gian thành những giá trị thiêng liêng theo định luật nhiệm mầu về sự giao hoán do Đức Kitô đề ra: “Của cải, các ngươi hãy bán đi mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không hề hư hỏng, kho tàng không hề hư hao trên trời, nơi trộm cắp không lai vãng và mối mọt không nhấm nát. Bởi vì, kho tàng các ngươi ở đâu thì lòng các ngươi ở đó” (Lc 12,33-34). Thật vậy, phải có ân sủng do sự hiện diện của Chúa Giêsu mới có thể khuất phục cách mau lẹ một nhà tài chánh thay đổi hệ thống kinh tế của mình.
6–. Câu chuyện Giakêu có một sắc thái đặc biệt khi được đặt trên hậu cảnh Cựu ước, gợi lại sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa trong một vài nơi đặc biệt. Thiên Chúa, đấng xưa kia chỉ vào nơi cung thánh của đền thờ với vẻ lộng lẫy cao cả của vinh quang Ngài, bây giờ đang ở trong nhà người tội lỗi với vẻ đơn sơ của Ngôi Lời Nhập Thể. Chắc chắn, đền thờ Salomon xây đã trở nên nơi gặp gỡ của dân tộc tội lỗi với Thiên Chúa của họ (1V 8,20-40), thế nhưng, thực tế người ta đến đó triều bái hoàng tử để xin Ngài thương xót. Ngày hôm nay Thiên Chúa di tản chiến thuật, chính Ngài đến cư ngụ nhà người tội lỗi.
Có một cái gì đó đã thay đổi trong quan niệm về cung thánh và người Kitô hữu bây giờ không còn thấy Đền thờ của họ như kiểu mẫu thời xưa. Đối với người đàn bà Samaria, Chúa Giêsu mạc khải ngày tàn của các cung thánh muốn trở thành trung tâm của thế giới: Thiên Chúa phải được tôn thờ “trong tinh thần và chân lý” (Gio 4,24). Chúa Giêsu cũng nói cho chúng ta biết thân xác của Ngài là đền thờ mới (Gio 2,19-21). Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Giakêu, Ngài chính là đền thờ đích thực, là cung thánh duy nhất, từ đó tuôn ra nước hằng sống cho đời sống vĩnh cửu đến thánh hóa nhà người tội lỗi.
Nhà của người bất xứng, nhờ có Đức Kitô hiện diện, trở thành một nguyện đường, nơi đó cử hành phụng vụ về lòng xót thương và nghi lễ hiệp thông. Giakêu trần tình nơi cửa nhà ông. Không ai cấm ông ngồi bên Chúa Giêsu trong bữa ăn được dọn ra sau khi Ngài vào nhà. Như vậy trong một vài giờ, tại một căn nhà ở Giêrico có cử hành mầu nhiệm thánh, khiến nhà ở của con người trở thành nơi cư trú của Đền thờ chân thật duy nhất là nhân tính của Chúa Giêsu.
KẾT LUẬN
Câu chuyện Giakêu ăn năn trở lại gồm tóm tất cả những từ ngữ cũng như những ý tưởng đặc trưng của Lc: hôm nay, ơn cứu độ; cứu vớt những ai lạc mất; (người) nhỏ bé, (người) tội lỗi, (người) thu thuế; ý định cứu độ của Thiên Chúa là cần thiết; sự vội vàng đón tiếp vào nhà, sự vui mừng. Chính ân sủng dồi dào của Thiên Chúa và thiện ý đầy tràn của con người được tỏ lộ tại Giêricô, thành phố mà từ đó Chúa Giêsu lên Giêrusalem, thành chờ đợi lịch sữ cứu độ hoàn tất, là nơi phát xuất ơn cứu độ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1–. Chúa Giêsu để ý thấy Giakêu đang ở trên cây sung và Ngài là người có sáng kiến mang lại ơn cứu độ cho ông. Về phía Giakêu, ông ước ao gặp Chúa Giêsu và làm mọi cách để cho Ngài thấy cũng như được thấy Ngài. Sự gặp gỡ kỳ quặc giữa kiểu cách con người và sáng kiến của Chúa xem ra rõ ràng trong cảnh này tại Giêrico. Dù với hai chủ đích khác nhau, hai tiếng gọi đã gặp nhau, tiếng gọi của con người muốn đi ra khỏi chính mình và vận dụng mọi cách để đạt được điều đó và tiếng gọi của Chúa muốn tìm kiếm những ai lạc mất.
2–. Giakêu không thiếu gì, ông giàu có, ông đã thỏa mãn được những khát vọng của mình; tuy nhiên, ông vẫn còn kiếm tìm một vật gì khác, một con người nào khác vì cảm thấy tâm hồn băn khoăn; có thể ông không biết Chúa Giêsu là ai, thế nhưng bị một thứ gì đó thúc đẩy ông muốn nhìn xem vị tiên tri này: chỉ ngay sau đó ông mới nhận biết Ngài. Dường như ông Giakêu và Chúa Giêsu, cả hai đều xúc động do cùng một hấp lực hỗ tương.
3–. Trong câu sau cùng của trang phúc âm này, Chúa Giêsu xem ra không nói với ông Giakêu, đúng hơn Ngài nói với các nhân chứng, với đám đông. Ngài bắt đầu câu “người này cũng là con cái Abraham”. Qua đó, hình như Ngài muốn nói với chúng ta biết rằng mọi người đều là con Thiên Chúa và nếu chúng ta từ chối hoặc khai trừ ai chính là vì chúng ta ngu dốt, hoặc thiển cận. Rồi Ngài nói tiếp: “Bởi vì Con Người đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì lạc mất”. Ở đây cũng vậy, Ngài muốn dạy chúng ta đừng giới hạn ánh sáng phúc âm, chỉ dành riêng cho những người xem ra xứng đáng đối với chúng ta.
4–. Sự gặp gỡ giữa Giakêu tội lỗi và Chúa Giêsu tượng trưng cho chính tâm trạng của chúng ta. Trong mỗi người chúng ta đều có con người tội lỗi và Chúa. Con Thiên Chúa đến sống trong mỗi người tội lỗi; trong mỗi tín hữu, Giakêu vẫn tiếp tục hiện hữu cho đến khi “Chúa dùng quyền năng của Ngài mà kiện toàn những ý định ngay lành”, như thánh Phaolô viết trong thư gởi tín hữu Thessalonica mà chúng ta vừa nghe đọc. Điều này khiến chúng ta vừa bạo dạn để có thể chu toàn những đòi hỏi riêng biệt do đức tin của chúng ta, bất chấp dư luân của “đám đông chung quanh”, cũng như lưu ý chúng ta phải luôn thận trọng khi có ý kiến về những người khác.
5–. Người rước lễ cũng đón nhận Chúa Giêsu vào nhà mình. Để việc hiệp thông Thánh Thể trở thành hiện tại của ơn cứu độ, người rước lễ phải sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì Chúa biết.
6–. Trong thánh lễ này, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, cho mọi người, vì tất cả chúng ta đều là những kẻ “bị lạc mất” mà Chúa đang tìm kiếm để cứu vớt.