Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
Năm 2017
NL: HÁT LÊN BÀI CA
ĐC: CHÚA MUỐN CON LÀM GÌ
HALL: Ngôi Lời đã làm Người và ở giữa chúng ta. Những ai đón nhận Người, Người sẽ ban cho quyền làm con Thiên Chúa.
DL: NGUYỆN DÂNG
HL: KHÚC CẢM TẠ
KL: CON MUỐN CẤT CAO
Năm 2020
Bài đọc 1: Is 49,3.5-6
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
Đức Chúa đã phán cùng tôi :
“Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.
Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.”
Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng.
Người là Đấng nhào nặn ra tôi
từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người tôi trung,
đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người.
Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng,
và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.
Người phán : “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về,
thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.”
Bài đọc 2: 1 Cr 1,1-3
Khởi đầu thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 1,29-34)
Khi ấy, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói : “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng : Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
Tôi đã không biết Người, nhưng tôi đến làm phép rửa trong nước để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en.” Ông Gio-an còn làm chứng : “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi : “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Chiên Thiên Chúa
Cả ba bài đọc tuần này đều có một chủ đề chung là nói đến những sắc màu ơn gọi, và cho biết có những bậc cao thấp khác nhau đến ngỡ ngàng. Đồng thời cũng cho ta biết thêm về sự phong phú của ân sủng tình trời qua các sứ mạng Chúa trao khác nhau trong Nước Thiên Chúa. Tất cả các ơn gọi đều hướng về vị Tôi Trung của Người, đều đan kết nhau để xây dựng chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Đầu tiên, Lời Chúa theo nghĩa đen, cho ta thấy ơn gọi chung qua một dân tộc “Người đã phán cùng tôi: “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.
Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.”
“Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta”, nếu là nghĩa đen, chỉ có thể hiểu theo nghĩa hẹp: dù sa ngã bất trung rất nhiều lần Ít-ra-en vẫn là dân tộc duy nhất trên trái đất tôn thờ độc thần. Trên nền móng nầy Đức Ki-tô – Vị Tôi Trung của Thiên Chúa đã được sinh ra trong một dòng dõi bởi dân Ít-ra-en.
Còn trên thực tế, dân Ít-ra-en đã nhiều lần bất trung với Chúa khiến Người phải nổi giận “Chính bọn chúng đã nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung với ĐỨC CHÚA trong vụ Pơ-o, nên tai hoạ đã giáng xuống cộng đồng của ĐỨC CHÚA.” (Ds 31,16) ; “Toàn thể cộng đồng của ĐỨC CHÚA đã nói thế này: Hôm nay anh em đã đắc tội với ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và phản bội Người, khi xây cho mình một bàn thờ. Hôm nay anh em đã nổi lên chống lại Người. Sao lại có chuyện bất trung như vậy?” (Gs 22,16) ; “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà ĐỨC CHÚA đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế.” (II Sbn 36,14) ; “Vì thế, hỡi con người, hãy nói với nhà Ít-ra-en, hãy nói với chúng: ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán như sau: Còn điều này nữa, cha ông các ngươi xúc phạm đến Ta khi phạm tội bất trung với Ta. Ta đã dẫn chúng vào đất mà Ta đã giơ tay thề là sẽ ban cho chúng. Thế mà hễ thấy đồi nào cao, cây nào rậm là chúng liền dâng lễ tế, dâng lễ tiến tại đó để chọc giận Ta, dâng hương thơm tại đó để làm vui lòng các ngẫu tượng và tưới rượu tế xuống nơi ấy.” (Ed 20,27-28)
Trong Thánh Kinh ghi lại có quá nhiều tội lỗi bất trung của dân Ít-ra-en, ở đây trích mấy dẫn chứng cho thấy thực tế dân Ít-ra-en không thể xếp vào hàng “tôi trung” của Thiên Chúa.
Tuy vậy, với lòng thương xót vô hạn, dân Ít-ra-en vẫn được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Chúa, để biểu lộ vinh quang tối thượng của Người nơi dân tộc mang nặng phận người ấy. Đơn cử như trong cuộc xuất hành, Chúa đã làm vẻ vang danh Người bằng nhiều phép lạ trong đất nước Ai Cập. Theo dòng lịch sử, Ít-ra-en có rất đông dân số nên có nhiều ơn gọi khác nhau: ngôn sứ, tư tế, thủ lãnh, vua… Trong những ơn gọi này lại còn có dòng dõi thần khí được chọn trong dòng dõi huyết nhục tự nhiên đã mang nhiều ân sủng. Tất cả những ơn gọi này nơi dân Ít-ra-en, được Thiên Chúa âm thầm xây dựng làm nền tảng cho ơn gọi và sứ mạng của Đức Ki-tô – Đấng Thiên Sai.
Tóm lại, câu Kinh trên được hiểu về nghĩa bóng, nơi dân Ít-ra-en sẽ sinh ra vị Tôi Trung của Thiên Chúa. Đấng được chọn trước thời gian
“Giờ đây ĐỨC CHÚA lại lên tiếng.
Người là Đấng nhào nặn ra tôi
từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người tôi trung,
đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người.”
Rất rõ ràng, theo tự nhiên vị tôi trung ấy đã được Thiên Chúa tạo dựng nên một con người như tất cả mọi người. Được thai nghén trong lòng mẹ, được sinh ra mang bản tính con người, để trở thành người lãnh đạo nhà Gia-cóp, chăn dắt Ít-ra-en. Nói đúng hơn, Đấng ấy chinh phục cả lịch sử con người bằng ơn cứu độ.
Đấng ấy được hưởng tình riêng, sự quan tâm cá biệt của Đức Chúa, và Người- Tôi- Trung cũng trọn một lòng tôn vinh, phụng sự Đức Chúa.
“Thế nên tôi được ĐỨC CHÚA trân trọng,
và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.”
Đến đây Lời Chúa mạc khải mở rộng hơn về vai trò và sứ mạng của vị Tôi Trung, cho thấy tờ mờ thần tính ở nơi Người. Đấng thực thi sứ mạng mang tầm vóc vĩ đại và phổ quát bởi chương trình của Thiên Chúa. Đồng thời Thần Khí cũng cho chúng ta biết chi tiết hơn về ơn gọi và sứ mạng của Đấng sẽ “đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.”
“Người phán: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.”
Nơi bài đọc hai, chúng ta cũng thấy lập lại chủ đề ơn gọi, đầu tiên là ơn gọi của thánh Phao-lô “bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô”. Rồi đến những người được “hiến thánh” cho Thiên Chúa “trong Đức Ki-tô”, tức là được hiến thánh qua bí tích Rửa Tội, thể hiện lòng tin nhận Thiên Chúa và ơn cứu độ của Người. Và họ “được kêu gọi làm dân thánh” tức là làm nên nhiệm thể Chúa Ki-tô, đặt nền móng cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa lan rộng khắp mặt đất. Bởi thế, dân thánh thời Cựu Ước chỉ là khởi đầu cho cả cộng đồng dân Chúa trên khắp mặt địa cầu “cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta”.
Và mục tiêu hướng thần của những ơn gọi chung nầy, được thánh Phao-lô xác định cụ thể “Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta.” Nghĩa là tất cả các ơn gọi trong thời Tân Ước đều hướng về cứu cánh của nhân loại là Chúa Giê-su – Đấng Cứu Độ.
Đến bài Phúc Âm, ơn gọi và sứ mạng được nâng bậc cao quý: được tiền định bởi thánh ý Chúa hữu định tuyệt đối. Lại quy về vị thánh vinh phúc được sai đến nhân gian để dọn đường cho Đức Chúa. Và đây mới là ý muốn tự ngàn đời của Thiên Chúa Tối Cao, tất cả các ơn gọi và sứ mạng đều quy về Con Một của Người. Ý muốn tuyệt hảo của Đấng Tạo Hóa, cùng là Đấng Yêu Thương được minh nhiên bày tỏ ra qua vị ngôn sứ thật cao trọng: thánh Gio-an Tẩy Giả. Thi hành sứ mạng Chúa trao, thánh nhân mạnh mẽ công bố dọc bờ sông Gio-đan “Hôm sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian.” Lời chứng cao vời thần khí ấy còn được tiếp tục làm hồ hởi muôn triệu tâm hồn mải in dấu vết sủng ân và sự công chính. Nuôi lớn thêm lên niềm hy vọng vốn đã khắc khoải tự ngàn đời trải qua không biết bao nhiêu thế hệ “Ông Gio-an còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Lời Chúa cho biết, trước mắt con người lần đầu tiên Thần Khí hạ xuống cách hữu hình, qua hình ảnh chim bồ câu đến với con người trên Chúa Giê-su Ki-tô – Đấng Thần Nhân. Còn Đấng Thiêng liêng vô hình, tức là Đức Chúa toàn năng, đầy thần thông, uy vũ và dũng lực vô biên của dân Ít-ra-en, sau hơn một ngàn hai trăm năm thần hiện trên núi Si-nai. Giờ đây, Người mới thần hiện một lần nữa để mạc khải về Con duy nhất của Người đã xuất hiện trong thời gian “Khi Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3,16-17) Ngày xưa đó, chỉ một mình ngôn sứ Mô-sê diện kiến Đấng Vô Hình, bây giờ một mình ngôn sứ Gio-an Tẩy Giả thấy Ngôi Ba Thiên Chúa tối cao. Nhưng khác hơn, rộng mở hơn ơn mạc khải, nhờ sứ mạng trung gian của Chúa Cứu Thế mà mọi người đều nghe tiếng Chúa Cha phán bảo. Không như ngày nào, con người khiếp sợ khi phải nghe lời Thiên Chúa phán “Họ nói với ông Mô-sê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” (Xh 20,19) Ngay thời khắc đầu tiên công khai vai trò Đấng Thiên Sai, Chúa Giê-su đã kéo nhân loại xích về phía Thiên Chúa và kéo Thiên Chúa về phía con người. Điều nhiệm mầu này được thực hiện ngay trong danh xưng “Chiên Thiên Chúa” mà thánh Gio-an Tiền Hô đã công bố.
“Đây là Chiên Thiên Chúa” một danh xưng đầy bí nhiệm, danh xưng bao trọn cả mầu nhiệm thương khó của Đức Ki-tô, nối kết lịch sử đức tin của dân Ít-ra-en và thời khắc hiện tại sau hơn một ngàn năm. Và nối kết với toàn thể nhân loại từ thuở khởi nguyên cho đến đời đời. Đồng thời cũng ngầm tỏ lộ chương trình tình ái của Chúa Cha trao tặng Con duy nhất của Người cho nhân loại. Chỉ với con chiên sát tế lấy máu bôi lên cửa ngày xuất Ai Cập “Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là ĐỨC CHÚA. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập.” (Xh 12,5-7.12-13), con người đã được cứu sống sự sống thể lý trước thần tru diệt của Thiên Chúa. Bây giờ với giá máu của Chiên Thiên Chúa, những ai tin đến chịu tắm hồn trong giá máu của Người liên lỉ, sẽ được cứu sống phần linh hồn miên viễn.
Các bài đọc đưa chúng ta về với ơn gọi và sứ mạng của Chúa Giê-su để tin và nhận ra ơn gọi và sứ mạng của mỗi người tin vào Người. Trong những năm tháng qua, chúng ta đã sống ơn gọi và sứ mạng của một người con Thiên Chúa như thế nào. Có xứng đáng để Chúa Cha nói “Cha hài lòng về con” với mình không?
Tình Yêu Hoa Cỏ
Căn tính người Ki-tô hữu là truyền giáo
1. Ghi nhớ:
“Đây Chiên Thiên Chúa,đây Đấng xóa tội trần gian.” (Ga.1.29)
2. Suy niệm:
Tại một giáo xứ nọ được Đức Cha địa phận chỉ định là điểm hành hương kính Thánh Cả Giu-se cho toàn giáo phận. Vì thế cho nên Cha xứ đã vận động mọi người giáo dân, và cả những tín hữu xa gần chung tay góp sức để xây dựng một ngôi thánh đường khang trang,xứng hợp là nơi hành hương để tôn kính Thánh Cả Giu-se.
Sau một thời gian, ngôi nhà thờ mới cũng được hoàn thành, một tượng đài Thánh Cả Giu-se rất hoành tráng, uy nghi đứng sừng sững, được đặt ở giữa sân. Nhưng Cha xứ còn muốn cho con chiên trong giáo xứ cũng như khách hành hương đến nơi thánh đường này có “một ấn tượng đẹp” và Ngài kêu gọi mọi người đóng góp ý kiến xem nên để ở cuối nhà thờ hình ảnh nào (bức phù điêu) cho vừa đẹp lại vừa có ý nghĩa.
Khi mở hòm thư góp ý, Cha thấy có những ý kiến như sau:
– vẽ bức tranh nhiều người với nét mặt đang hân hoan tiến vào thánh đường,với dòng chữ: CỬA THIÊN ĐÀNG;
– hình ảnh Chúa Giê-su đang vác con chiên trên vai,với dòng chữ: CHÚA CHIÊN LÀNH;
– bức chân dung Thầy chí thánh đang quì gối rửa chân cho các tông đồ, với hàng chữ: PHỤC VỤ trong KHIÊM TỐN;
– bức tranh người Samaria đang săn sóc người bị nạn, với dòng chữ: SỐNG BIẾT XÓT THƯƠNG;
– và sau cùng là ý kiến;bức phù điêu Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Gio-đan, với dòng chữ: ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA.
Trong buổi sinh hoạt trước thánh lễ ngày Chúa nhật hôm đó. Cha xứ cám ơn những ý kiến mà mọi thành phần trong giáo xứ đã đóng góp và khen: tất cả đều hay, đẹp có ý nghĩa song chỉ chọn được một. Cha nói: “Cả cuộc đời của chúng ta, ông bà, anh chị em và tôi, chúng ta sống để làm gì? Nếu như không phải để giới thiệu Chúa đến cho mọi người. Giới thiệu Chúa đến cho mọi người đó là mục đích của chúng ta!”. Và khi được hỏi lấy hình ảnh nào thì tất cả mọi người đều giơ tay nhất trí chọn bức vẽ: ĐÂY CHIÊN THIÊN CHÚA.
Bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Gioan tường thuật lại sự việc thánh Gioan tiền hô giới thiệu Chúa Giê-su là Đấng cứu thế cho dân chúng biết, bằng tiếng tăm uy tín và lòng khiêm hạ của mình.Thật vậy theo Kinh Thánh kể lại thì trước khi làm nhiệm vụ dọn đường cho Chúa, ông đã có một đời sống ẩn dật tiết độ và khắc khổ trong hoang địa: “ăn châu chấu uống mật ong rừng và mặc aó bằng gia thú”.
Căn tính của người Ki-tô hữu là phải truyền giáo, phải giới thiệu Chúa đến cho mọi người. Đó là bổn phận là trách nhiệm và là nghĩa vụ. Nhưng để giới thiệu Chúa đến cho mọi người đạt kết quả thì trước hết chúng ta phải trở nên giống Chúa, có một tâm hồn trong sạch có một tấm lòng quảng đại thẳng ngay, người xưa nói. “Tu thân, tề gia, trị quốc bình thiên hạ”.
Chúng ta chỉ thực sự đen Chúa đến cho anh em một cách hữu hiệu khi chính chúng ta biết tu thân tích đức có một đời sống đạo đức, chăm chỉ cầu nguyện, siêng năng làm việc tông đồ bác ái. Chính cuộc sống như vậy sẽ là tấm gương để mọi người nhìn vào mà nhận thấy Chúa hiện diện trong đời sống của chúng ta. Và đó là cách thức tốt nhất để giới thiệu Chúa đến cho mọi người
3. Cầu nguyện
Lạy Chúa là Đấng đầy lòng xót thương,chúng con cảm tạ Chúa vì đã được diễm phúc sinh ra làm con Chúa. Xin vì công nghiệp vô cùng của Chúa Con đã xuống thế để cứu chuộc loài người chúng con. Xin cho ngày càng nhiều người biết trở về tin nhận và tôn thờ Chúa là Cha nhân từ. Amen.
4. Sống lời Chúa
Mỗi ngày cố gắng hy sinh làm một việc tốt với ý chỉ. Cầu cho những người chưa biết Chúa được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng mà tin nhận mà trở về cùng Hội Thánh để được nên con của Chúa.
Đaminh Trần Văn Chính
***
1. Tôi đã thấy
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Biết một người là đi vào một mầu nhiệm.
Chúng ta quen nhiều người, nhưng biết thì ít hơn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, hai lần Gioan khẳng định: “Tôi đã không biết Người” (cc 31-33). Cho đến khi làm phép rửa cho Đức Giêsu, Gioan thú nhận mình vẫn chưa biết Ngài là Mêsia. Dù Đức Giêsu là bà con họ hàng của ông (x.Lc 1,36), dù hẳn ông đã có một số thông tin về Ngài.
Và dù ông biết Ngài cao trọng hơn mình (x.Mt 3,14), nhưng cái biết ấy, ông vẫn chưa coi là biết thật sự.
Được Thiên Chúa mách bảo, ông kiên nhẫn đợi chờ.
Làm phép rửa trong nước là cách giúp ông khám phá Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần.
Ai được Thần Khí ngự xuống và ở lại, Người ấy là Mêsia.
Gioan đã thấy Thần Khí ở lại trên Đức Giêsu lúc Ngài được ông ban phép rửa.
Bây giờ có thể nói ông đã biết Đức Giêsu. Ông đã biết sau khi ông đã thấy.
Từ cái biết nhờ thấy, do ơn Thiên Chúa ban, Gioan đã trở nên người làm chứng trung tín.
Ông vui lòng giới thiệu Đức Giêsu cho môn đệ mình. Ông mừng khi thấy dân chúng tuốn đến với Ngài (Ga 3,26). Ông vui khi trở nên lu mờ đi để Ngài được nổi bật (Ga 3,30).
Làm chứng cho Đức Giêsu khiến ông trở nên tay trắng. Gioan đã thấy, đã biết, đã làm chứng cho Đức Giêsu.
Nếu biết là đi vào một mầu nhiệm, thì mầu nhiệm ấy cứ vẫy gọi người ta tiến sâu hơn. Càng tiến sâu, cái biết càng được thanh lọc.
Hành trình của Gioan cũng là của tôi: thấy, biết, làm chứng.
Biết một người là chuyện khó.
Biết Đức Giêsu Kitô còn khó hơn nhiều.
Tôi chẳng thể nào múc cạn được con người độc đáo này, nơi giao nhau giữa trời và đất, giữa Tạo Hóa và thụ tạo.
Để biết Đức Giêsu, tôi cần thấy Ngài tỏ mình. Không hẳn tôi sẽ thấy một thị kiến huy hoàng long trọng. Không hẳn Ngài sẽ xuất hiện trong sức mạnh quyền năng. Ngài vẫn tỏ mình xuyên qua những chuyện đời thường, qua những con người đơn sơ tôi vẫn gặp.
Tôi cần tập thấy Ngài ẩn sau lớp vỏ xù xì của thực tế. Cần thường xuyên làm mới lại cái biết về Đức Kitô, để có tương quan thâm trầm hơn, thân mật hơn với Ngài.
Nếu biết là thấy, là có kinh nghiệm riêng tư, là hiệp thông, gặp gỡ, chia sẻ chính cuộc đời Ngài, là để mình sống trong Ngài và Ngài sống trong mình, thì biết là nỗ lực của cả một đời Kitô hữu.
Gioan đã làm chứng cho dân về Đấng họ đang đợi.
Con người hôm nay đang đợi ai?
Đức Giêsu do chúng ta trình bày và sống có đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của họ không?
Tôi cần thấy và biết Ngài hơn, để làm chứng tốt hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, thế nào là biết một người? Có bao nhiêu mức độ khác nhau trong việc biết một người? Bạn biết Đức Giêsu ở mức độ nào?
Gioan giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian.” Còn bạn sẽ giới thiệu Đức Giêsu như thế nào cho con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa thật lớn lao, để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la, để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu, để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho con thật mạnh mẽ, để không nỗi thất vọng nào còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp, để ngay cả một ước muốn nhỏ cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ, để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động, để không phải là con, mà là chính Ngài đang sống. [Mục Lục]
2. Ý nghĩa của tình liên đới
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài Phúc Âm nói đến ‘ngày hôm sau’, tức là ngày sau khi Gioan Tẩy Giả trả lời cho người Do Thái đến hỏi về sứ mệnh của ngài, và tuyên bố rằng ngài không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài nói: “Ở giữa các ông có một người mà các ông không biết. Đấng ấy đến sau tôi” (1,26). Danh từ ‘Con Chiên Thiên Chúa’ rất thông thường trong ngôn ngữ thánh sử Gioan, nhất là trong sách Khải Huyền của tác giả. Nó chỉ Đấng Cứu Thế, Đức Giêsu Kitô hiến tế mình để giải phóng và hồi sinh nhân loại. Cách gọi này rất nhiều ý nghĩa đối với môn đệ Gioan là những người biết rõ nghi thức ăn tiệc chiên Vượt Qua và việc sát tế hằng ngày một con chiên trong Đền thờ, làm của lễ đền tội cho dân chúng. Con Chiên gánh tội trần gian là con chiên tự hiến làm lễ giải phóng dân chúng, theo như các bài ca của ngôn sứ Isaia về Người Tôi Tớ Giavê. Điều này không có nghĩa là các môn đệ hiểu rõ ngay. Nhưng Gioan Tẩy Giả dùng cách nói trên chuẩn bị cho họ hiểu rõ sau này.
Trong đời ta, có khi ta nghe một lời nói, hay trải qua một biến cố mà ngay lúc đó ta chưa thấy rõ tất cả ý nghĩa; chỉ về sau Chúa mới cho ta khám phá ra tất cả tầm mức của nó. Ở đây ta lưu ý tới hai điểm:
1) Tội trần gian.
Trần gian có nghĩa là nhân loại. Tác giả Phúc Âm dùng tiếng ‘tội’ ở số ít (không phải ‘các’ tội lỗi). Như thế ông làm nổi rõ sự liên đới của mọi người trong tai họa sự ác. Nhưng tình liên đới đó trở nên yếu tố thuận lợi cho sự cứu rỗi. Tất cả mọi người đều đồng hưởng ơn cứu độ do Đức Kitô mang lại. Ơn cứu độ rộng mở đón nhận bất cứ ai. Điều tiên quyết đòi hỏi nơi họ là không từ chối lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, ít ra không từ chối một cách tội lỗi. Không được tẩy xóa khỏi tội lỗi, thì nhân loại sẽ bị kết án. Nhờ Đức Kitô, nhân loại được cứu thoát.
Một khi đã ý thức về tình liên đới của ta trong tai họa tội lỗi, chúng ta hãy cố gắng lật ngược ý nghĩa của tình liên đới ấy bằng cách đi sâu vào con đường hiệp nhất với Đức Giêsu Kitô Cứu Chúa.
2) Phần tôi, tôi đã không biết Người.
Thế ra trong thời gian lâu dài, Gioan đã làm việc, giảng thuyết với ý thức đơn giản là để tuân theo một sứ mệnh mà không biết rõ Đấng mà ngài loan báo. Phải chăng đó là một trong những nét của một ơn gọi chân chính? Người có sứ mệnh chuẩn bị cho Đức Kitô đến trong một linh hồn, một môi trường, trong thế gian phải chấp nhận trường hợp có thể xảy ra là chính mình lại không thấy hiển nhiên rằng Đức Kitô đang ngự đến đó. Phải kiên nhẫn làm việc trong đức tin. Hãy để cho Chúa tự do chọn lựa thời giờ mà một dấu hiệu xảy tới, nếu có, báo tin Đức Thánh Linh ngự xuống. [Mục Lục]
3. Đền đáp ân tình
Huyền thoại Ấn Độ kể rằng: Thuở trái đất này còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa rất thương người, ai xin gì cũng cho, không bao giờ từ chối người nào.
Ngày kia, một lão ông lom khom chống gậy tới than thở với thỏ Pôlixa:
– Suốt mùa nước lũ vừa qua, lão không có gì để ăn, đói lả người, chắc lão sẽ chết nay mai thôi. Trước khi chết, lão chỉ xin một miếng thịt thỏ mà lão rất thèm thuồng bấy lâu. Vậy thỏ Pôlixa có cho lão được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông lão hom hem yếu đuối, tội nghiệp, liền nói:
– Được rồi, ông chờ cháu một lát.
Thế là Pôlixa vội đi kiếm củi, xếp thành đống, mồi lửa và nói:
– Ông chờ thịt cháu chín, rồi ông lấy àm ăn nhé!
Nói xong, thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên, lửa tắt, ông lão biến mất. Thì ra đó là một vị thần được sai tới để thử lòng thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng Đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên mặt trăng.
Huyền thoại nào cũng mang một sứ điệp cho con người. Nếu thỏ Pôlixa là hình ảnh của những ai biết hy sinh thân mình cho kẻ khác, thì “Con Chiên” trong Tin Mừng hôm nay chính là hiện thân của Đấng đã hiến thân vì nhân loại. Đó là Đức Giêsu Kitô mà Gioan đã giới thiệu với các môn đệ của ông: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1, 29).
Chỉ có Con Chiên thanh sạch, hiền lành, bị sát tế không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi.
Chỉ có Đấng vô tội mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Chỉ có Phép rửa trong Thánh Thần, chính là Máu Đức Giêsu mới có thể tẩy xóa tội lỗi và ban ơn thánh hóa.
Qua lời chứng của Goan Tẩy giả, Giáo hội mời gọi chúng ta yêu mến và đền đáp công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu. Đồng thời, cũng kêu gọi chúng ta hãy đi làm nhân chứng cho Người.
Tình yêu đáp lại tình yêu, ân tình đền đáp ân tình, đó là qui luật cơ bản nhất của con người. Niềm tin của người tín hữu Kitô thiết yếu là sự đáp trả ân tình của Chúa.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là thiết tha yêu mến Người, mà còn là quyết tâm sống hiến thân như Người đã sống.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là nhìn nhận những ân huệ Người ban, mà còn luôn biết mở rộng lòng ra để sống quảng đại với anh em.
Đáp trả ân tình của Chúa không chỉ là biết yêu thương con người, mà còn là yêu thương không mong đền đáp, là cho đi không tính toán thiệt hơn.
Những người quảng đại đáp trả ân tình của Chúa cũng là những chứng nhân. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người nói năng và hành động qua chúng ta. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người dùng cuộc sống chúng ta để tha thứ và yêu thương. Làm chứng cho Đức Giêsu là để cho Người mượn con người của chúng ta để tiếp tục hiến thân cho nhân loại. [Mục Lục]
4. Ngài thật là Con Thiên Chúa
Có một người là Giêsu người Nagiarét đi về phía chúng ta. Và Gioan Tẩy Giả lôi kéo sự tò mò của chúng ta. – Người này đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi.
Làm sao không nghĩ đến đoạn mở đầu? “Ban đầu đã có Ngôi Lời”. Thật là mầu nhiệm! Một người nói về một người khác: Ngài đến sau tôi nhưng đã có trước tôi. Gioan Tẩy Giả thú nhận dứt khoát: “Tôi không biết Ngài”. Và mặc dầu Chúa Giêsu là em họ ông.
Chúng ta cũng thế, cho đến cuối đời chúng ta sẽ phải nói: tôi không biết Ngài. Đây là một điều gì đó của mầu nhiệm Nhập Thể, tức Ngôi Lời làm người, sẽ luôn luôn thoát khỏi chúng ta. Nhưng Tin Mừng được trao ban cho chúng ta để chúng ta nhận biết Chúa Giêsu Kitô để nhờ đó chúng ta được sống cuộc sống vĩnh cửu, nghĩa là cuộc sống thật sự, chính là nhận biết Thiên Chúa trong khi nhận biết Chúa Giêsu Kitô (Ga 17,3). Gioan Tẩy Giả giúp chúng ta tiếp xúc lần đầu tiên bằng mệnh từ khá làm cho chúng ta bối rối: “Đây là Chiên của Thiên Chúa”. Đây không phải là ngôn ngữ của chúng ta và chúng ta có nguy cơ lặp lại điều này một cách máy móc: thế thì chúng ta nói gì về Chúa Giêsu? Vô tội, hiền lành chăng? Phải, nhưng máu và vinh quang nữa. Vô tội, Ngài đã gánh lấy tội lỗi của muôn người và giải thoát chúng ta khỏi sức nặng đè bẹp các cuộc đời. “Chiên Thiên Chúa Đấng xóa tội trần gian”.
Thật là một xác thực kỳ lạ! Một trong những sự xác thực làm chúng ta bừng lên niềm vui nhận biết Chúa Giêsu và tin vào Ngài. Nhờ chiên này mà người ta có thể tránh được tội lỗi. Tội lỗi sẽ luôn luôn tồn tại, đó là bóng tối của tự do của chúng ta. Nhưng Chúa Giêsu có thể luôn luôn nâng đỡ chúng ta, sự cứu độ hiện diện ở trong cái luôn luôn này. Tội lỗi là một mối nguy, một sự cố trên đường đi, chứ không bao giờ là sự chết chóc, không bao giờ là ngục tù, chúng ta không thể phạm tội mà không được tha thứ bao lâu chúng ta tin tưởng rằng Chúa Giêsu, Chiên vô tội và quyền năng, xóa bỏ tội lỗi.
Quyền năng sao? Đây là tiếng nhiệm mầu biết bao nói lên đều đó: “Ngài có trước tôi”. Ngài có trước Gioan Tẩy Giả, Ngài có trước mọi người. Ngài là Đấng đang có, đã có và đang đến. Đây là nhũng tiếng dùng để giới hạn Đấng vô cùng: “Tôi đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Ngài và tôi làm chứng: Đây là Con Thiên Chúa”.
Một ngày kia, đã có một người tiến về phía những người khác và con người đó là Thiên Chúa.
Đứng trước một điều khẳng định này đi qua mà không đốt cháy trái tim và cuộc đời của họ. Họ tiếp tục sống bên ngoài Chúa Giêsu. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng họ đã không gặp được Chúa Giêsu.
Có những người đã thực sự găp Ngài và họ mong ước sống trong tình yêu mãnh liệt với Ngài. Họ đọc nhiều, họ tìm kiếm sự gặp gỡ Chúa trong việc suy niệm Tin Mừng và trong bài giảng, họ nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”. Nhưng họ vẫn mù loà và bất động trước sự dấn thân của anh em, ít ý thức về nhiệm vụ của con người, không can đảm lắm trong những bất trắc. Khi họ tuyên bố Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì họ chỉ làm trò cười mà thôi: ‘Nhìn vào cuộc sống của ngươi, người ta thấy Chúa Giêsu của ngươi là Thiên Chúa ở đâu?’.
Cũng có những người vĩ đại. Họ nói tương tự như trên: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”, nhưng họ sống với Chúa Kitô một cuộc đời đầy việc kỳ diệu. Họ rất thân tình, vững mạnh và khiêm hạ khi gánh nặng quá sức họ. Cuộc sống của họ là một kinh nghiệm về Chúa Giêsu. Đối với họ, Ngài mới thật là Con Thiên Chúa. [Mục Lục]
5. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
- Tại sao Gioan lại giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, “Đấng xoá tội trần gian”? Ý nghĩa sâu xa của những từ ngữ đó thế nào?
- Vai trò của Gioan Tẩy Giả đối với Đức Giêsu như thế nào? Tư cách của ông có xứng với vai trò hay sứ mạng của ông không? Tư cách ấy là gì?
- Qua tư cách và hành động của Gioan, bạn có thể rút ra kết luận gì cho cuộc đời ngôn sứ của bạn? (nên nhớ mỗi Kitô hữu phải là một ngôn sứ!)
Suy niệm
- Lời giới thiệu đầu tiên của Gioan về Đức Giêsu
Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau khi Gioan rửa tội cho Đức Giêsu, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian!”. Muốn hiểu hết ý nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết tập tục sau đây của người Do Thái:
Theo truyền thống Do Thái trong sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy sinh như thế: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7)
Lời giới thiệu của Gioan còn ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. Theo lời thiên thần nói khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a, ta biết khi Đức Ma-ri-a thụ thai thì bà Ê-li-sa-bét, đã có thai Gioan được 6 tháng (x. Lc 1,36b). Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gioan đã ra đời trước Đức Giêsu nửa năm. Nhưng Gioan lại giới thiệu Đức Giêsu là Đấng “có trước” mình. Như vậy từ ngữ “có trước” ở đây không thể hiểu theo nghĩa thể chất, mà phải theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ông ám chỉ nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu.
- Gioan, người dọn đường cho Đức Giêsu
Để chuẩn bị xa cho việc Đức Giêsu đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Để chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gioan Tẩy Giả.
Gioan là bà con với Đức Giêsu, vì mẹ của ông Gioan là chị họ của Đức Giêsu (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gioan và Đức Giêsu đã quen biết nhau, nhưng Gioan không biết hoặc biết không chắc chắn Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giêsu đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: “Chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”“. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, Gioan bắt đầu làm chứng về Ngài.
- Những ngôn sứ của Thiên Chúa
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm trọng.
Tương tự như Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc biệt Mt 14,4). Điều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền chỉ dạy hay sửa sai mình.
Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gioan. Đó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Đó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị “ném đá” và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
- Ngôn sứ phải sống vì Thiên Chúa và tha nhân, không vì mình
Trong cách giới thiệu của Gioan về Đức Giêsu, ta thấy ông luôn luôn làm cho Đức Giêsu nổi bật lên, đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Chẳng hạn: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi”, “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người” (Ga 3,28), “Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27). “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi” (Mt 3,11), “Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gioan rút lui vào bóng tối, để Đức Giêsu đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Đây cũng là một dấu chứng của ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính “cái tôi” của mình, và thể hiện được tinh thần quên mình, tự hủy như Đức Giêsu (Pl 2,6-8). “Không làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,3-4). Một người coi cái tôi của mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: “có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người”.
Rất nhiều người làm ngôn sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách rộng rãi… nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng thương người, v.v… Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã được Đức Giêsu vạch mặt: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen” (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích “phình to bản ngã” này, Đức Giêsu gọi là “men Pha-ri-siêu”: “Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả” (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Kitô hữu, là ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại “men” rất khó tránh này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã đến để thiết lập Giáo Hội, tức một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần gian. Giáo Hội không chỉ có sứ mạng “tư tế” (thờ phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng “vương đế” (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại cảnh, lịch sử), và sứ mạng “ngôn sứ” (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương) nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn sứ mạng “ngôn sứ” ấy trước mặt các dân tộc chưa? Xin cho chính bản thân con, cũng như mọi Kitô hữu khác ý thức được sứ mạng “ngôn sứ” tức “làm chứng” của mình trong môi trường mình sống, trong xã hội và Giáo Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị coi thường, bị chà đạp. Xin cho con đức can đảm phải có của một ngôn sứ như Gioan Tẩy Giả, để con thực hiện tốt sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen. [Mục Lục]
6. Chứng nhân Đức Kitô
Như chúng ta đã biết: ngay từ thời niên thiếu, Gioan tiền hô đã vào hoang địa, sống một cuộc sống khắc khổ, ăn châu chấu với mật ong rừng. Ông xuất hiện bên bờ sông Giócđan. Ông tiếp nhận mọi người, không phân biệt, không loại trừ, không sợ hãi. Ông trao ban phép rửa sám hối. Đây không phải là một bí tích, nhưng chỉ là một nghi thức chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế.
Với tất cả sự khiêm tốn, ông đã trả lời cho những kẻ đến hỏi ông là ai: – Tôi chỉ là một tiếng kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi được hỏi về vai trò và chỗ đứng của mình, ông đã xác quyết: – Phần tôi, tôi rửa trong nước, nhưng giữa các ông có một Đấng mà các ông không biết…Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Được chọn giữa muôn người để là sứ giả, làm tiền hô, kêu gọi mọi người dọn đường, tức là chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế, ông đã không huênh hoang tự đắc, trái lại luôn khiêm tốn ý thức vai trò và địa vị nhỏ bé của mình. Ông không bao giờ muốn giữ người khác lại cho riêng mình. Trái lại, ông đã thẳng thắn tuyên bố:
– Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Và rồi khi thấy Chúa Giêsu tiến đến với mình, ông đã long trọng giới thiệu Ngài với đám đông dân chúng:
– Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.
Khi long trọng giới thiệu như thế, ông làm cho chúng ta liên tưởng tới lời tiên báo của Isaia về một Đấng Cứu Thế đau khổ, Ngài giống như một con chiên bị dẫn tới lò sát sinh, hay như một con chiên không mở miệng kêu la khi bị xen lông.
Ba chữ “tội trần gian” có ý muốn nói tới tội chung của nhân loại, cũng như tội riêng của mỗi người chúng. Từ đó, vị tiền hô đã chỉ cho chúng ta thấy rõ khía cạnh đau khổ của Chúa Giêsu, và đó cũng là khía cạnh cao cả nhất của Ngài trong cuộc sống nơi dương thế.
Đúng vậy, Chúa Giêsu đến trong thế gian, không phải để chiếu tỏa vinh quang của Ngài, cũng không phải để nắm giữ một vai trò đầy quyền uy hầu chuộc lại tội lỗi chúng ta. Trái lại, Ngài đã cứu độ chúng ta, đã gỉa thoát chúng ta khỏi án phạt của tội lỗi bằng việc đổ máu, bằng hy lễ của thập giá.
Lời giới thiệu của Gioan tiền hô phải chăng đã gồm tóm toàn bộ sứ mạng của Chúa Giêsu nơi trần gian. Vì thế, Giáo hội cũng đã muốn lặp lại lời giới thiệu trang trọng này trên môi miện các linh mục, trước khi chúng ta lên rước lễ.
Bấy giờ, vị linh mục cầm lấy Mình Thánh, giơ lên trước cộng đoàn và nói:
– Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc chiên Thiên Chúa.
Trở lại với Gioan tiền hô, chúng ta thấy chính lúc cử hành nghi thức sám hối, ông đã được mạc khải và đã nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi.
Noi gương Gioan tiền hô, chúng ta cũng hãy dành cho Chúa Giêsu chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc sống của chúng ta.
Rồi sau đó, bằng lời rao giảng và nhất là bằng chứng tá của một cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương, chúng ta hãy giới thiệu khuôn mặt đích thực của Đức Kitô cho những người chung quanh, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở nên những tiền hô, dọn đường Chúa đến, cũng như sẽ trở nên những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời. [Mục Lục]
7. Chiên Thiên Chúa
Ngọn núi Mount Rushmore, tọa lạc trên những rặng đồi Black Hills của tiểu bang South Dakota, nổi tiếng vì có những bức điêu khắc khổng lồ khuôn mặt của bốn vị tổng thống Hoa Kỳ: George Washington, Thomas Jeffrson, Abraham Lincoln và Theodore Roosevelt. Mỗi bức tượng đầu người có chiều cao khoảng 18 mét, và toàn thể cấu trúc cao tới 1945 mét, trên mặt đất. Phải mất 14 năm để thực hiện công trình này. Khi được hỏi ông đã thực hiện công trình này như thế nào, điêu khắc gia Gutzon Borglum trả lời với một ánh mắt sáng ngời: “Ôi, những bức hình đó đã ở đấy 40 triệu năm nay rồi. Tất cả những điều tôi phải làm là cho nổ mìn 400.000 tấn đá để mọi người nhìn thấy chúng mà thôi”.
Chúng ta, là những người con cái của Thiên Chúa cũng đã hiện diện trong tâm trí Ngài từ ngàn đời. Từ đời đời, Ngài đã tạo nên chúng ta và cứu chuộc chúng ta qua Đức Giêsu Kitô.
William Barlay, nhà chú giải Thánh Kinh rất được ưa thích hiện nay, có lần đã nói rằng có hai ngày quan trọng nhất trong đời người: “Ngày chúng ta được sinh ra và ngày chúng ta khám phá ra tại sao chúng ta đã được sinh ra”.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Gioan Tẩy Giả nói về ngày ông đã biết tại sao mình được sinh ra. Đó là khi: “Tôi đã nhìn thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người… Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Lý do Gioan được sinh ra là để loan báo và sửa soạn cho dân chúng đón nhận “Chiên con của Thiên Chúa xóa tội lỗi trần gian”.
“Như thế Gioan tỏ cho thấy Chúa Giêsu vừa là người Đầy Tớ Đau Khổ, im lặng, để người ta dẫn tới lò sát sinh gánh tội lỗi của nhiều người, vừa là chiên con của lễ Vượt Qua, biểu tượng của sự cứu chuộc của Israel… Tất cả cuộc đời của Chúa Kitô nói lên sứ mạng của Ngài:“Phục vụ và thí mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Con chiên là một con vật hiền lành được nuôi ở nông trại để xén lông làm áo len. Thịt nó rất thơm ngon. Con trừu khi còn nhỏ gọi là con chiên (lamb), lớn lên gọi là trừu hay cừu (sheep).
Con chiên, ngoài đặc tính cụ thể là cho len và thịt, nó còn tượng trưng cho sự hiền lành, thanh khiết và vô tội. Có lẽ vì những đặc tính này, qua một hình thức có tính cách biểu tượng, người ta đã đặt tội lỗi lên con chiên để hiến dâng cho Thiên Chúa như một lễ vật. Vào ngày lễ Vượt Qua, người Do Thái đã chọn một con chiên đực mang đi giết, ăn thịt chiên quay để tưởng nhớ cuộc giải phóng khỏi tình trạng nô lệ bên Ai Cập xưa kia.
Tại Werden nước Đức, có một con chiên bằng đá được đặt ngay trên nóc nhà thờ. Câu chuyện kể lại rằng, xưa kia có một ông thợ đang sửa lại mái nhà thờ. Thình lình sợi dây đai an toàn bị đứt, ông bị rơi ngã xuống đất. Khu vực phía dưới xung quanh nhà thờ chất đầy gạch đá. Nhưng may mắn cho ông, có một con chiên đi ăn cỏ, lạc vào khu vực nhà thờ. Ông đã rơi xuống ngay trên mình con chiên. Con chiên bị chết ngay tại chỗ, nhưng ông thợ đã sống sót. Sau đó người thợ này đã tạc một con chiên bằng đá, đặt trên mái nhà thờ để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng sống của mình.
Giống như con chiên không những hiền lành, lại còn cung cấp món ăn ngon, Chúa Giêsu đã mang lấy tội lỗi của nhân loại, Ngài còn trở nên lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta qua bàn tiệc Thánh Thể.
Trích lại lời của Công đồng Vatican, sách Giáo lý Công giáo số 1323 nói rằng: “Trong bữa tiệc sau hết, đêm bị nộp, Đấng Cứu Chuộc chúng ta đã thiết lập Hy Tế Tạ Ơn bằng Mình Máu Người, để nhờ đó Hy Tế Khổ Giá kéo dài qua các thời đại cho tới khi Người lại đến, và cũng để ủy thác cho Hiền Thê yêu quý của Người là Giáo Hội việc tưởng nhớ cái chết và sự sống lại của Người: đây là bí tích tình yêu, dấu chỉ hiệp nhất, mối dây bác ái, bữa tiệc Vượt qua “trong đó khi lãnh nhận Chúa Kitô, tinh thần ta được tràn đầy ân sủng, và bảo chứng cho ta, một vinh quang tương lai”.
Sách Khải Huyền của thánh Gioan còn diễn tả sự cử hành phụng vụ ở trên trời với một vị ngự trên ngai. Đó là Đức Chúa Trời. Rồi người ta thấy Chiên Con bị sát tế đứng đó: Đó là Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá và đã phục sinh. Ngài vừa là Đấng tế lễ, và bị hiến tế, là Đấng ban và được ban phát.
Mang hình ảnh của con chiên hiến tế, Chúa Giêsu Đấng được chỉ định phải đến để xóa tội trần gian và mang lại sự sống cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể. Vậy thái độ đáp trả của chúng ta là gì?
Con Chiên Thiên Chúa mang tội lỗi của chúng ta đi, với điều kiện chúng ta phải sẵn sàng từ bỏ tội lỗi của mình ra để cho Ngài mang đi. Chiếc xe hốt rác sẽ không giúp ích gì được cho dân chúng nếu họ không chịu đem rác ra để ở nơi đã chỉ định. Đôi khi lấy tội lỗi ra khỏi chúng ta cũng giống như lấy đồ chơi ra khỏi trẻ con. Trẻ em thường không muốn vứt bỏ đồ chơi đi, nếu chưa chán. Nếu chúng ta đã quen vui vẻ thoải mái với tội lỗi đến nỗi nghĩ rằng mình không thể sống mà không có nó, cũng như trẻ con không thể sống mà không có đồ chơi, thì Đức Giêsu cũng không thể nào lấy tội lỗi đi cho chúng ta được! Chính chúng ta phải từ bỏ trước.
Các nhà đạo đức thường ví tình trạng tội lỗi như một vũng bùn sình lầy đen đũi, thối tha và dơ bẩn. Nhưng những con trâu lại thích đằm mình vào đó trong những buổi trưa hè nóng nực. Bởi nó mang lại sự mát mẻ và thoải mái. Sống trong tình trạng tội lỗi cũng như thế, chúng ta không muốn đứng lên từ bỏ vũng bùn tội lỗi mà cất bước ra đi, chỉ vì sợ mất khoái cảm thoải mái, cho dù biết rằng nó xấu xa tội lỗi. Bước khởi sự cho việc từ bỏ đàng tội lỗi là lòng ăn năn sám hối với sự hoán cải và đổi mới đời sống. [Mục Lục]
8. Gánh tội tha nhân- Lm. Phạm Quốc Hưng
“Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khứ trừ tội của thế gian”.
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trử tội của thế gian” (Ga 1:29). Với câu nói này, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Chúa Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa và Ngài là Đấng khử trừ tội của thế gian.
Khi gọi Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu.
Khi nói Chúa Giêsu là “Đấng khử trừ tội của thế gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chính vì là Con Chiên vô tội của Thiên Chúa Chúa Giêsu mới có thể khử trừ tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Chúa Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự khử trừ tội của con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Người tội lỗi của tất cả nhân loại, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết trong nhân loại. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại.
Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu xa hơn về sự đau khổ kinh hoàng mà Chúa Giêsu phải chịu để chuộc tội cho chúng ta. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: “Vì chị đã phải gánh tội của một người”.
Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô giái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Là những người Kitô hữu, chúng ta chẳng những được mời gọi để hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu thế nhưng còn được kêu mời để trở nên những “Chúa Cứu thế khác”. Đức Cha Fulton Sheen nói rằng chúng ta được cứu chuộc bằng cách trở nên những con người cứu chuộc. Điều này như một sự lập lại lời Chúa Giêsu khi Người dạy chúng ta đọc kinh Lạy Cha “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Thế giới hôm nay phải đau khổ trăm chiều vì con người càng sa đoạ, càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi. Làm thế nào để khử trừ hay ít ra là làm giảm bớt tội lỗi trên thế giới hôm nay?
Chắc chắn không có cách nào tốt hơn, hoàn hảo hơn đường lối Chúa Giêsu đã thực hiện để trở nên “Đấng khử trừ tội của thế gian.”
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa” qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài là “Đấng khữ trừ tội lỗi của thế gian” bằng cách vui nhận những khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác.
Bao lâu chúng ta chưa biết xa lánh tội lỗi, chưa biết nhìn nhận trách nhiệm về tội lỗi của chính mình, chưa biết noi gương Chúa Giêsu quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, chưa dấn thân lãnh lấy trách nhiệm đền tội thay cho tha nhân, bấy lâu chúng ta chưa phải là những người tín hữu đích thực của Chúa Kitô.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.” Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh thể cho chúng ta bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…” Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trọn vẹn với tha nhân. [Mục Lục]
***
Mục lục 2020
1. Chứng nhân của ánh sáng (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chiên Thiên Chúa. (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
3. Dạ, con đây (Lm. Vũ Đình Tường)
4. Chiên xóa tội trần gian (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
5. Biết Chúa hơn để yêu mến hơn (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Lời giới thiệu (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. .Chiên Thiên Chúa (Lm. Trần Việt Hùng)
8. Con chiên ngoan đạo (Lm. Jos.Tạ Duy Tuyền)
9. Chúa Giê-su là ai? (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
10. Lời giới thiệu ngắn gọn (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 2 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
12. Đây Chiên Thiên Chúa. (Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)
13. Con Chiên của Thiên Chúa (Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh)
14. Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại (Lm. Duy Khang)
15. Đây Chiên Thiên Chúa…(Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
16. Nhân chứng về Đức Kitô (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
17. Gánh tội tha nhân (Lm. Phạm Quốc Hưng)
18. Giới thiệu Chúa (Lm. Minh Vận, CRM)
19. Đây Con Chiên Thiên Chúa(Lm. Thu Băng, CRM)
20. Giới thiệu (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
21. Không thể làm thinh (Trầm Thiên Thu)
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta vừa mừng lễ Giáng Sinh. Một trong những thông điệp chính mà Phụng vụ mùa Giáng Sinh muốn gửi đến chúng ta, đó là: Chúa Giêsu là Ánh Sáng thế gian. Sự kiện Chúa Giáng sinh được so sánh như một ánh sáng bừng lên trong đêm tối, để soi sáng những ai đang đi trong lầm lạc và tội lỗi, giúp họ nhận ra Chân Lý và nhờ đó họ được cứu rỗi. Phụng vụ lễ Hiển Linh cũng nhấn mạnh đến chủ đề ánh sáng, đồng thời tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng cứu độ muôn dân.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai của Mùa Thường niên, một lần nữa, Lời Chúa lại nói với chúng ta về chủ đề này.
Bài trích sách ngôn sứ Isaia được gọi là “Bài ca về người Tôi Trung của Thiên Chúa”. Nhãn quan Kitô giáo nhận ra đây là những điều ngôn sứ diễn tả Đấng Thiên Sai, tức là Đức Giêsu. Qua Người Tôi Trung này, Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài. Thiên Chúa đã đặt Người làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng trái đất. Sau này, Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là Ánh Sáng thế gian, ai theo Tôi không còn đi trong tối tăm”. Trong lời mở đầu của Tin Mừng thứ bốn, tác giả cũng khẳng định Ngôi Lời là Ánh Sáng đã đến chiếu soi nhân loại (x. Ga 1,5). Trong khi thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của Người là đem ánh sáng thiên linh đến cho nhân loại. Giáo huấn của Người đã soi sáng cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa, đồng thời mở con mắt đức tin và đức ái để nhận ra mọi người đều là anh chị em với nhau trong cùng một gia đình có Thiên Chúa là Cha. Người đi đến đâu là xua trừ tội lỗi, đẩy lui quyền lực của bóng tối, tức là ma quỷ, để giải phóng con người. Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Thánh Gioan cũng hàm chứa giáo huấn: Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Người đến để mở mắt người mù, cho họ thấy Chân Lý. Không chỉ là con mắt thể lý, mà là con mắt trí tuệ để đón nhận và tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa Cha sai đến trần gian (x. Ga 9).
“Các con là ánh sáng thế gian”. Đó là lời mời gọi của Đức Giêsu. Tin vào Người là bước theo ánh sáng, đồng thời trở nên ánh sáng trong đời sống và trong cách ứng xử hằng ngày. Thánh Gioan tông đồ khẳng định với chúng ta: “Nếu chúng ta đi trong ánh sáng, cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giêsu, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1 Ga1,7). Người tin Chúa vừa được mời gọi trở nên ánh sáng giữa đời, đồng thời phải làm chứng nhân cho Ánh Sáng. Hình ảnh ông Gioan Tẩy giả một lần nữa lại xuất hiện, được Phụng vụ giới thiệu như chứng nhân của Ánh Sáng. Lời chứng của ông không phải là lời chứng của loài người, mà được Chúa soi sáng. Ông khẳng định: Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, là Đấng xoá tội trần gian. Lời chứng của ông là những cảm nhận thực tế, được soi sáng bởi ơn trên. Ông là người đã bước theo Ánh Sáng và làm chứng nhân của Ánh Sáng cho dù phải hy sinh mạng sống của mình.
Sứ mạng của Giáo Hội và của các Kitô hữu là tiếp tục công cuộc loan báo Tin Mừng của Đức Giêsu. Như vị Ngôn sứ thành Nagiarét năm xưa, Giáo Hội đem Chân Lý đến cho mọi dân tộc, mọi nền văn hoá và mọi quốc gia. “Ánh Sáng Muôn Dân”, đó là tựa đề của hiến chế tín lý quan trọng của Công đồng Vaticanô thứ hai, là kim chỉ nam cho Giáo Hội trong thời hiện đại này. Khi khẳng định: Giáo Hội là Ánh Sáng, cộng đoàn Kitô hữu trên toàn thế giới ý thức mỗi người phải thể hiện ánh sáng qua chính đời sống của mình, để rồi ánh sáng thánh thiện ấy có sức lan toả và chiếu soi mọi môi trường cuộc sống. Nói cách khác, đâu có người tín hữu Kitô, ở đó có ánh sáng của sự thánh thiện, bao dung, hài hoà, nhân ái và yêu thương.
Bài đọc II vừa là lời nhắn nhủ, vừa là lời cầu chúc mà thánh Phaolô dành cho các tín hữu ở Cô-rinh-tô. Thánh nhân nhắc các tín hữu đừng quên mình được kêu gọi làm thành một Dân thánh, trong sự hiệp thông với tất cả những ai tin vào Chúa Giêsu ở bất cứ nơi nào.
Đức Giêsu Kitô là Ánh Sáng soi chiếu trần gian, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhận Ánh Sáng ấy, để rồi mỗi chúng ta trở nên chứng nhân của Ánh Sáng trong cuộc đời.
“Nếu bạn luôn hướng về phía ánh sáng Mặt Trời thì cái bóng của bạn sẽ bị đổ lại ở đằng sau. Mọi điều phiền muộn và đen tối cũng đều nên được chúng ta bỏ lại sau lưng, việc của ta là phải luôn hướng về phía trước với sự lạc quan, niềm tin vào một tương lai rực rỡ” (Sưu tầm).
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Chiên con đầu lòng mang một biểu tượng của mùa Xuân mới, sau Đông tàn. Con chiên con đầu lòng được sát tế để cầu ơn phúc cho dân và cũng là chính họ được phần cứu rỗi. Khi Thánh Gioan tẩy giả giới thiệu: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1, 29) mang đầy đủ trọn vẹn ý nghĩa chúc phúc và cứu rỗi như truyền thống lễ hiến sinh.
Mùa Xuân mới.
Chiên con đầu lòng trong truyền thống người du mục mang ý nghĩa đặc biệt của mùa sinh sản mới. Sự mạnh mẽ vươn lên sau những ngày tháng chờ đợi của suốt thời gian thơ ấu đế trưởng thành. Chiên con đầu lòng đánh dấu một thế hệ tiếp nối được bắt đầu khởi sắc, sánh ví như mùa Xuân.
Chiên con trắng tinh, chưa vướng bụi trần, màu trắng tinh khôi của ngày mới. Sự hân hoan chào đón như một bước đạt đến giác ngộ tuyệt diệu của cõi trời vinh quang. Ánh sáng trắng tựa như mặt trời chiếu sáng, xua tan những bóng tối. Phúc âm thánh Gioan trình thuật Chúa Giêsu là Ánh Sáng là Chiên Con làm tròn đầy ý nghĩa nền văn hóa và các truyền thống về chiên con đầu lòng.
Chiên sát tế
Thư Do Thái trình thuật về lễ đền tội chỉ nhắc đến ông Moisê lấy máu bê và dê sát tế hòa với nước rảy trên dân để nhắc lại Giao Ước Chúa đã ký kết với dân (Dt 9, 20 -21). Theo chú giải của cha Nguyễn Thế Thuấn, Chiên Thiên Chúa mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là con chiên vượt qua. Chiên vượt qua chỉ về cuộc xuất hành mới, mọi người sẽ vượt qua cuộc xuất hành lớn lao sau cùng, vượt qua cái chết để đi đến sự sống.
Chiên vượt qua chỉ về Chúa Giêsu là Chiên đích thực trở nên của ăn dưỡng nuôi là lương thực đi đường cho chặng đường rất xa trong sa mạc. Nơi sa mạc ấy, con người đối diện với sự dữ mọi bề. Từ thiên nhiên, từ những con thú hoang, rắn sa mạc… Lương thực giúp con người mạnh sức đi đường và mạnh sức trong cuộc chiến với thú dữ. Ngày nay, lương thực đi đường Chúa ban chính là bí tích Thánh Thể, khi linh mục đưa Thánh thể lên và tuyên xưng: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được dự tiệc Chiên Thiên Chúa”.
Chiên sát tế chính là Chúa Giêsu, từ lời loan báo xưa kia của Isaia về người tôi trung của Chúa: “Bị tra tấn, ngài đã chịu đựng, và không mở miệng, như cừu bị dẫn đến lò sát sinh, như chiên mẹ ngậm câm, không hề mở miệng.” (Is 53, 7). Tâm điểm không dừng lại ở cuộc khổ nạn mà tiếp đến là sự Phục Sinh của Chúa. Đấng khải hoàn đã chiến thắng sự dữ cuối cùng là sự chết.
Chúa Giêsu là Chiên Con chịu sát tế, chính Người cũng là bàn thờ là chủ tế trên bàn thờ hiến dâng. Khi tham dự Bí Tích Thánh Thể, con người cũng được mời gọi đến cùng Chúa để được xót thương và tha thứ tội lỗi, được nuôi dưỡng bằng Thánh thể trên hành trình trần thế và sau cùng cũng được tham dự vào cuộc khải hoàn vinh quang của Chúa.
Lạy Chúa! Chúng con thờ lạy Chúa!
.
Lm Vũđình Tường
Nhìn thấy Đức Kitô đang tiến về hướng mình, Gioan Tẩy Giả nói với các môn đệ ông. Xem kìa, Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian…. c.29. Ngày nay chúng ta hiểu í nghĩa câu ‘Chiên Thiên Chúa’ là nói về Đức Kitô. Đấng tự nguyện vác thập giá, chịu đóng đanh, chết và sống lại vinh quang để cứu độ nhân loại. Đức Kitô trong thời gian rao giảng, nhiều lần công khai nói về phép thanh tẩy Ngài sẽ lãnh nhận. Ngày nay chúng ta biết là Đức Kitô ngụ í nói đến cuộc tử nạn và Phục Sinh vinh hiển của Ngài. Lúc đó các tông đồ không hiểu Thầy mình nói gì, phải đợi mãi đến sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết, ra khỏi mộ, lúc đó các ông mới vỡ lẽ điều Đức Kitô nói về phép rửa Ngài lãnh nhận là cuộc khổ nạn, thập giá, chết và sống lại. Khi bà mẹ Zebedee xin Đức Kitô cho hai con bà, một ngồi bên phải và một ngồi bên trái Ngài trong nước trời. Đức Kitô hỏi các ông có thể lãnh nhận ‘Chén Đắng’ Ngài lãnh nhận không và các ông chấp thuận. Mat 20:20-23. Có lẽ cả ba mẹ con đều không thể mường tượng ra chén đắng bao gồm những vị đắng nào. Đức Kitô ngụ í nói đến những đau khổ xảy đến trong đời các môn đệ trung tín.
Danh thánh ‘Đây Chiên Thiên Chúa’ trở thành câu tuyên xưng đức tin, chúc tụng Thiên Chúa trong thánh lễ. Linh mục chủ tế dâng cao Bánh Thánh và Rượu Thánh tung hô ‘Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa’. Cộng đoàn đáp chúng con không xứng đáng Chúa ngự vào nhà con nhưng chúng con dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa chọn ngự đến tâm hồn con. Khi chúng ta tham dự bàn tiệc thánh, chúng ta nhớ lại món quà cứu độ từ trời cao ban tặng nhân loại. Món quà hiến tế, món quà thể hiện tình yêu không bến bờ, không điều kiện, Thiên Chúa trao ban cho nhân loại. Khi tham dự thánh thể, chúng ta hợp lời cùng thánh Gioan Tẩy Giả chúc tụng, tung hô Thiên Chúa. Chúng ta xin ơn giúp chúng ta sống thực hiện điều hứa khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy là yêu mến Chúa hết lòng, và thương tha nhân như chính mình. Bí tích thánh tẩy là món quà Chúa trao ban và qua đó chúng ta từ người xa lạ trở thành phần tử của cộng đoàn dân Chúa, trở thành anh chị em trong đại gia đình Chúa nơi trần gian, và hy vọng ngày sau gặp nhau trên Thiên Quốc. Bí tích thánh tẩy giải thoát con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, tháo gỡ ràng buộc xiềng xích ma quỉ kiềm chế, mang lại ơn tự do làm con cái Chúa và làm chủ cuộc sống mình. Điều này được thực hiện, không phải do sức mạnh của chính ta, mà chính là qua sức mạnh Thánh Thần Chúa ban. Thánh Thần Chúa ban sức mạnh, giúp chúng ta chiến thắng tội lỗi. Mỗi lần chúng ta làm dấu chính là chúng ta nhắc lại công thức rửa tội ta lãnh nhận lần đầu trong đời khi lãnh nhận bí tích thanh tẩy. Thánh Thần biến đổi chúng ta trở thành con cái Chúa, anh chị em trong đại gia đình Chúa. Làm dấu được hiểu là ngụ í tái xác nhận bí tích thanh tẩy, canh tân bí tích đó và giúp chúng ta tích cực hơn trong việc yêu Thiên Chúa, mến tha nhân. Tích cực tham gia cộng tác vào công việc nơi xứ đạo là một trong những cách làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô nơi trần gian. Đời sống Thánh Thể không phải chỉ giới hạn nơi thánh đường mà còn cần phải lan toả ra nơi làm việc, phố chợ. Đời sống Thánh Thể cần phải khởi đầu từ gia đình, giúp thế hệ mai sau tiếp tục tin, tôn thờ Chúa. Biến gia đình bé nhỏ thành giáo đường tại gia, Thánh Thần Chúa sẽ ngự nơi tâm hồn và gia đình ta, giúp ta trở nên giống Đức Kitô hơn. Theo í nghĩa đó, Thiên Chúa không còn phải xa thẳm nơi trời cao mà chính là cùng đồng hành với ta trong cuộc sống.
.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật II thường niên năm A, chúng ta nghe thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu khi nói rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Khi nghe những lời giới thiệu này, những người Do Thái nghĩ gì? Và cả chúng ta nữa, những lời này có nghĩa là gì?
1- Chiên đối với người Do Thái
Chúng ta biết chiên là một loài động vật, tự bản chất, rất hiền lành, hơi nhút nhát nhưng lại dễ gần. Nó khác với con hổ và con chó vì con hổ thường dữ tợn, hay gây hấn, làm người ta sợ; còn con chó thường hay sủa, hay cắn. Con chiên thì hiền lành và yên tĩnh. Chiên chính là con cừu con. Ở Châu Đại Dương , người ta nuôi cừu rất nhiều để lấy lông và làm thịt. Lông cừu được dùng để sản xuất nhiều sản phẩm quý như áo quần. Còn thịt cừu là một món thịt rất béo và ngon. Chăn nuôi chiên và cừu mang lại những lợi nhuận kinh tế đáng kể.
Theo Kinh Thánh, con chiên là biểu tượng của sự vô tội, hay nói cách khác, con chiên tượng trưng cho của lễ và sự hy sinh. Vì thế, người Do Thái dùng chiên làm lễ tế để cử hành lễ Vượt Qua của họ. Trước khi lên đường, trong bữa ăn tối lễ Vượt Qua, Môsê đã truyền cho người Do Thái phải giết chiên để ăn lễ Vượt Qua. Chiên phải là chiên đực, dưới một tuổi, không tì vết, thịt thì ăn, còn máu thì bôi trên cửa nhà mình. Chiên là của lễ dâng lên Chúa. Hằng năm, người Do Thái cử hành lễ Vượt Qua để nhớ lại biến cố Thiên Chúa giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập trở về đất hứa (x. Xh 12,3-14).
2- Chiên xóa tội trần gian
Tân Ước áp dụng hình ảnh con chiên cho Chúa Kitô. Nên khi Đức Giêsu đi qua, thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu với dân chúng rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29).
Khi thánh Gioan Tẩy Giả dùng hình ảnh con chiên để giới thiệu về Chúa Giêsu, người Do Thái hiểu ngay ý nghĩa của nó vì họ rất quen thuộc với hình ảnh và ý nghĩa của con chiên. Họ hiểu rằng: Chiên là hình ảnh ám chỉ Đấng Mêsia mà các tiên tri trong Cựu Ước đã dùng, đặc biệt tiên tri Isaia. Trong bài ca về người Tôi Tớ đau khổ, tiên tri đã ví người tôi tớ đó như “con chiên hiền lành bị đem đi giết” (x. Is 53,7). Chiên được dùng để làm của lễ dâng lên Thiên Chúa và gánh lấy những lỗi lầm của con người.
Bởi thế, khi nghe nói về chiên, các Tông Đồ và các Giáo Phụ của Giáo Hội giải thích: Con chiên là biểu tượng của sự trong sạch, đơn sơ, hiền lành, ôn hòa, vô tội v.v… Những đặc tính này được áp dụng cho Chúa Giêsu, Người là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha sai xuống trần gian, như Con Chiên trong sạch, hiền lành và vô tội. Người chính là Chiên Thiên Chúa đến để xóa bỏ tội trần gian và mang lại ơn cứu độ cho chúng ta nhờ cái chết và phục sinh của Người. Bởi thế, thánh Phêrô quả quyết rằng: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Kitô” (1 Pr 1,18-19). Và thánh Gioan trong sách Khải Huyền ba lần dùng từ “con chiên” để nói về Chúa Kitô và mô tả bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa với loài người như là tiệc cưới Con Chiên. Đó là ngày vui vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại được thành toàn (x. Kh 19,8-9).
3- Chúa Giêsu xóa tội qua các bí tích
Qua các bí tích, Chúa Giêsu tiếp tục tha thứ và xóa bỏ tội lỗi của chúng ta khi chúng ta đón nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Rửa Tội và bí tích Hòa Giải. Bí tích Rửa Tội xóa bỏ tội nguyên tổ và các tội riêng chúng ta phạm. Phép Rửa là “cửa dẫn vào các bí tích.” Chúa Giêsu xóa bỏ tội lỗi của chúng ta trong bí tích Hòa Giải khi chúng ta đến xưng thú tội lỗi với các linh mục.
Đó là lý do tại sao Giáo Hội lấy lại những lời tuyên xưng của Gioan làm lời cầu nguyện trong thánh lễ. Trong Kinh Vinh Danh, khi thưa với Chúa Con, chúng ta cầu xin rằng: “Lạy Con Một Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Lạy Chúa là Thiên Chúa, là Chiên Thiên Chúa, là Con Ðức Chúa Cha, Chúa xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con, Chúa xóa tội trần gian, xin nhậm lời chúng con cầu khẩn.” Đặc biệt, trước khi rước lễ, linh mục công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa.”
Như thế, Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi là một thế lực thống trị chúng ta. Tự sức mình, chúng ta không thể tự giải thoát khỏi tội lỗi. Chỉ nhờ Chúa Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, mới có thể giúp chúng ta chiến thắng tội lỗi, trở thành con cái của Nước Trời, và sống sự công chính của Người trên trần gian.
Bởi vậy, chúng ta hãy siêng năng lãnh nhận bí tích Hòa Giải, tham dự thánh lễ và năng rước Chúa Giêsu Thánh Thể, để nhờ Người, chúng ta có sức mạnh chống trả các chước cám dỗ và sống thánh thiện trước nhan Thiên Chúa. Amen!
.
Bông hồng nhỏ
Cuộc sống luôn có những tương quan. Ta có thể quen nhiều người, giao tiếp với họ vì công việc hay vui chơi, nhưng những người mà ta biết và hiểu họ thì không nhiều. Tuy là họ hàng với Đức Giêsu, ông Gioan cũng đã phải trải qua những kinh nghiệm rất riêng tư với Ngài và nhờ Thiên Chúa mặc khải, ông mới biết được Ngài ai. Còn ta thì sao?
Quả thật, Thầy Giêsu đã chủ động tìm đến để xin ông Gioan làm phép rửa. Nhờ sự gặp gỡ này, ông nhận ra Người là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ông bày tỏ: “Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ítraen, tôi đến làm phép rửa trong nước (Ga 1,31). Chính Thầy Giêsu đã khiêm tốn đến xin ông Gioan làm phép rửa cho mình để “giữ trọn đức công chính”, để qua đó, Thiên Chúa giới thiệu Đấng Ngài đã tuyển chọn cho dân. Ông Gioan đã sẵn sàng để làm trung gian cho Thiên Chúa, để qua việc ông làm, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân. Ta có sẵn sàng trở nên cánh tay hữu hình của Chúa không?
Thầy Giêsu đã khiêm nhường để vâng phục thánh ý Thiên Chúa và dạy ta biết tìm đến với những ngôn sứ của Chúa, để tìm biết Thiên Chúa, hiểu biết Chúa hơn để yêu mến Chúa hơn. Khi sống giữa những anh chị em mình, ta có nhận thấy chân dung của Chúa nơi họ không? Làm sao ta có thể nhận ra Chúa nơi những người ta gặp gỡ và yêu họ như yêu mến Chúa? Chỉ khi ta tìm biết Thiên Chúa là ai, ta mới có thể yêu mến Chúa hết lòng. Cũng vậy, khi ta muốn hiểu người anh chị em mình, ta phải đến và gặp gỡ họ đã và sau đó ta tương quan với họ bằng chính con người thật của ta, một con tim chân thành và yêu mến. Ông Gioan đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người, ông đã thấy và chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (x.Ga 1,32-34). Chỉ khi đọc lại kinh nghiệm ở với Chúa, lắng nghe lời mời gọi và sự hướng dẫn của Chúa, ta mới có thể làm chứng cách mạnh mẽ về sự hiểu biết và tình yêu của Chúa nơi tâm hồn và trái tim ta. Thái độ bày tỏ qua hành vi và hành vi bộc lộ thái độ và tâm tình của ta, nếu ta yêu mến Chúa thật lòng, ta sẽ dùng cả cuộc đời của mình để bày tỏ và làm chứng về Đấng đã yêu ta và hiến mạng vì ta.
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã không ngừng đi bước trước để bày tỏ tình yêu của Ngài cho con. Xin giúp con mỗi ngày biết ra khỏi con người con để tìm đến với Chúa, đến với anh chị em bằng một con tim chân thành và yêu mến. Con tin Chúa sẽ tỏ mình cho con và hướng dẫn con đáp trả lại tình yêu của Chúa bằng một cuộc sống chứng tá cụ thể và một mối tình trầm lắng bên Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Con người thời này thường thích đi “shopping”. Và để thu hút nhiều khách hàng, các nhà sản xuất, các nhà buôn bán kinh doanh giới thiệu các sản phẩm về nguồn gốc, xuất xứ và chất liệu làm sao cho hợp với thị hiếu của khách hàng. Trong các cuộc gặp gỡ làm ăn, chúng ta cũng thường chào hỏi nhau và giới thiệu về nghề nghiệp, tuổi tác, chức vụ. Những người Kitô hữu cũng luôn có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho mọi người, trở thành người loan báo Tin Mừng cho mọi người. Vậy, chúng ta giới thiệu Chúa như thế nào?
Ông Gioan đang làm phép rửa tại sông Giođan, trông thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,39). Ông đã tận dụng thời điểm thích hợp, lúc mọi người đang kéo nhau tới và cũng vừa lúc Chúa Giêsu tiến đến để giới thiệu Chúa. Ông giới thiệu Chúa bằng những gì ông đã lãnh nhận từ Chúa Cha và những điều ông đã trông thấy. Ông bày tỏ sự thật rằng “Tôi đã không biết người” (Ga 1,33). Tuy nhiên, chính Đấng đã chọn ông và trao ban sứ mạng cho ông đã hướng dẫn ông, giúp ông nhận ra Đấng Người sai đến. Khi đã được mặc khải, ông khẳng định rằng: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1,34). Ông có một thái độ khiêm tốn, luôn tìm kiếm và vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Ông là người được Thiên Chúa tuyển chọn để làm chứng cho ánh sáng, ông tự nguyện trở nên nhỏ đi để Chúa Giêsu lớn lên trong tâm hồn ông và tâm hồn người khác. Ông đã ẩn mình đi để mọi người nhìn thấy và theo Chúa Giêsu. Ông nói: “Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi” (Ga 1,30). Khi mọi người nhìn thấy và theo Chúa Giêsu, ông Gioan đã dần dần rút lui. Mọi người đã nghe lời giới thiệu của ông, vì ông là người được Thiên Chúa sai đến và là người được Thiên Chúa chúc phúc. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta được trở nên con Thiên Chúa và được Thiên Chúa trao sứ mạng loan báo Tin Mừng, chúng ta đã làm gì để giới thiệu Thiên Chúa?
Chúng ta sẽ giới thiệu Chúa bằng cách nào đang khi chúng ta còn mang trong mình lỗi lầm? Làm sao chúng có thể giới thiệu Chúa cho người khác khi sống trong một xã hội quá ồn ào? Quả thật, để giới thiệu Chúa cho mọi người, điều đó không hề dễ. Tuy nhiên, Chúa không đòi hỏi những gì vượt quá tầm tay của chúng ta. Chúa muốn chúng ta giới thiệu Chúa bằng những nén bạc, bằng khả năng và bằng chính cuộc sống của mình. Nếu chúng ta đang sống trong cảnh nghèo thì hãy sống mối phúc nghèo khó và sống bác ái. Nếu là một người tội lỗi thì hãy quay về với Chúa, biến đổi đời sống bằng những việc làm bác ái. Khi chúng ta đón nhận anh chị em của mình và giới thiệu Chúa bằng cách khước từ những gì làm ta xa rời mái ấm gia đình của mình, chu toàn các nhiệm vụ của mình. Khi có lòng khao khát muốn giới thiệu Chúa cho mọi người, chính lúc đó, Chúa sẽ ban cho chúng ta có cách để thực hiện.
Lạy Chúa Giêsu! Xin giúp con mỗi ngày nên gắn chặt với Chúa, để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, can đảm giới thiệu Chúa, biết nhường chỗ cho Chúa, để Người lớn lên trong tâm hồn những người con gặp gỡ. Amen.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho dân chúng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.” Có nhiều người thắc mắc hỏi rằng tại sao Gioan giới thiệu Chúa là Chiên Thiên Chúa, sao không giới thiệu đây là Con Thiên Chúa, đây là Đấng Cứu Thế. Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả mang một ý nghĩa thần học và sự kiện của lịch sử cứu độ.
Thánh Gioan là con của một thầy tư tế, quá quen thuộc với công việc sát tế chiên dâng cúng trong đền thờ mỗi ngày. Trong lịch sử dân Do-Thái xưa, vào ngày Lễ Đền Tội, người ta bắt một con chiên không tì vết và đem đến cho vị tư tế. Vị tư tế đọc danh sách các thứ tội của dân chúng. Kêu gọi mọi người hãy sám hối. Sau đó, tư tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết các thứ tội trên đầu nó, rồi đánh đuổi nó vào sa mạc. Con chiên ấy được gọi là con chiên gánh tội.
Trong sách Xuất Hành ghi rằng tại đền thờ, các tư tế mỗi ngày sát tế hai con chiên làm của lễ toàn thiêu dâng Thiên Chúa để đền tội. Tiên tri Isaia trong bài ca về người tôi tớ đã nhắc đến con chiên hy sinh. Con chiên hiền lành bị đem đi xén lông và bị giết làm của lễ để gánh tội cho mọi người.
Khi dân Do-Thái đã định cư và có đền thờ, hằng năm vào dịp Lễ Vượt Qua, để tưởng nhớ Thiên Chúa cứu dân khỏi nô lệ người Ai-cập. Họ đã giết chiên tế lễ và dự tiệc ăn thịt chiên cùng rau đắng để tưởng nhớ những khổ đau mà dân chúng phải lao lực và làm nô lệ cho người Ai-cập.
Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh chết thay cho đoàn chiên. Ngài chết để gánh tội gian trần. Ngài hy sinh dâng mình làm của lễ đền tội và hiến dâng thịt máu mình làm của ăn dưỡng nuôi hồn xác chúng ta.
Trong thánh lễ, chúng ta lập lại ba lần, lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con. Lập lại lần thứ tư lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa. Chúa Kitô đã hiến thân trên khổ giá để cứu độ chúng ta. Thánh Gioan là người đầu tiên làm chứng và ngài đã hy sinh cho sự thật này. Các tông đồ đã chứng kiến cảnh Chúa Chiên bị khổ hình, bị chết treo nhục nhã và đã sống lại vinh quang. Các ngài cũng đã xả thân làm nhân chứng cho Chúa đến giọt máu cuối cùng.
Mỗi người chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta là nhân chứng. Chúng ta có bổn phận giới thiệu Chúa cho những ai còn ngồi trong bóng tối u mê sự chết. Xin Chúa cho chúng ta là những con chiên bổn đạo tốt lành và hăng hái trong việc sống và truyền đạo.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Mỗi một dân tộc đều dùng những linh vật tượng trưng cho dân tộc mình. Người Việt đó là “con Rồng cháu tiên”, người Pháp là hình ảnh “Con Gà”, người Úc là con Kangaroo, người Singapor là sư tử, Người Do Thái là con chiên .. .
Đạo Công giáo xuất phát từ Do Thái giáo nên cũng được gọi là con chiên của Chúa. Đây chỉ là hình ảnh tượng trưng nhưng có một số DLV thiếu hiểu biết hay đưa ra luận điệu đầy ác ý khi nói những ai theo đạo Công giáo đều bị hạ thấp thành con chiên . . .
Thực ra người Công giáo rất tự hào vì mình là con chiên của Chúa. Khi được hỏi người Công giáo bạn ở xứ nào thì sẽ được nghe rằng: mình là con chiên xứ A . ..hay mình là con chiên của cha B . . . Con chiên trong Kinh Thánh được dùng làm biểu tượng cho những người hiền lành, đạo đức. Trong dụ ngôn về ngày phán xét, Chúa đã tách chiên ra khỏi dê. Chiên ở bên phải, dê ở bên trái.
Chúa Giêsu đã chịu hiến tế vào dịp Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Bữa tiệc ly chính là tiệc Lễ Vượt Qua mà Chúa Giêsu ăn với các môn đệ. Hình ảnh con chiến chịu sát tế trong ngày lễ vượt qua là hình ảnh tiên báo về Đức Ky-tô là Chiên Thiên Chúa bị sát tế để cứu nhân loại.
Chúa Giêsu là Con Chiên hiền lành, không hé môi khi bị đem đi xén lông. Người khiêm nhường gánh lấy tội lỗi nhân loại. Thế nên, những ai là môn đệ của Chúa cũng được ví như con chiên hiền lành, vì người môn đệ luôn được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su phải trở nên hiền lành và khiêm nhường, đồng thời biết sẵn lòng hy sinh bản thân vì hạnh phúc tha nhân.
Vì vậy, danh từ “Con chiên” không chỉ dùng cho các tín hữu Công giáo mà còn cho mọi thành phần của Giáo Hội. Ngay Đức Ky-tô cũng là Con Chiên chịu sát tế. Đức Giáo Hoàng , các Đức Giám mục, và các linh mục đang cố gắng hoàn thiện mình theo như khuôn mẫu Thầy Chí Thánh Giê-su qua sự hiền lành và khiêm nhường thì đều là hình ảnh con chiên và là “con chiên ngoan đạo” như lời bài hát “Giọt lệ ăn năn” đã diễn tả:
“Con van xin yêu Ngài làm con chiên ngoan đạo,
Con van xin yêu Ngài dù năm tháng phôi pha,
Con van xin yêu Ngài dù đời bao giông tố,
Thương tin yêu nguyện cầu, nguyện dâng Cha đời con.”
Ước mơ được trở thành“con chiên ngoan đạo.” Một con chiên biết yêu thương, một con chiên biết vâng lời, một con chiên biết dâng hiến đời mình để phục vụ là ước mơ trở nên giống như Đức Ky-tô là Chiên Thiên Chúa Đấng gánh tội trần gian.
Lời Chúa hôm nay, thánh Gioan đã xác định Chúa Giê-su là Chiên Thiên Chúa. Vì cuộc đời Chúa Giê-su luôn hiền lành và khiêm nhường như những con chiên vùng Palestina. Cuộc đời Chúa Giê-su còn chịu sát tế trong đêm Vượt qua để cứu chuộc nhân loại như con chiên được người Do Thái ăn trong đêm vượt qua.
Cuộc đời Chúa Giêsu là cuộc đời đẹp vì ngài đã dám mang lấy tội nhân gian. Ngài đi vào kiếp người để chia sẻ những đắng cay ngọt bùi cũng chỉ vì yêu thương nên muốn nên một với chúng ta.
Đó cũng là cách sống mà Chúa đang mời gọi chúng ta hãy sống cho thế giới hôm nay. Một thế giới có quá nhiều kẻ ham danh, ham lợi mà lại quá ít kẻ dám gánh lấy trách nhiệm. Một thế giới có quá nhiều kẻ kiêu hãnh, thích ăn trên ngồi chốc thiên hạ nhưng lại quá ít người khiêm tốn để phục vụ tận tụy và hy sinh. Một thế giới có quá nhiều kẻ tham lam ích kỷ, chỉ lo vun quén cho bản thân mà lại quá ít người rộng lượng đế cứu nhân độ thế.
Ước gì là người kytô hữu chúng ta dám sống như một Giêsu, dám hy sinh cả mạng sống mình vì hạnh phúc của anh em. Ước gì lời mời gọi của Thầy Giêsu “hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” luôn là kim chỉ nam cho đời kytô hữu sẵn lòng hiến dâng để phục vụ tha nhân. Amen
.
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Is 49:3, 5-6; 1 Cr 1:1-3; Ga 1:29-34)
Chúng ta đã bước vào mùa Thường niên của năm phụng vụ từ tuần trước với lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa. Mùa Thường niên là thời gian chúng ta suy niệm về mầu nhiệm Chúa Ki-tô, thể hiện qua sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời và các phép lạ Người làm. Trước khi chiêm ngưỡng mầu nhiệm ấy mỗi ngày trong mùa Thường niên (34 tuần lễ), chúng ta phải biết Chúa Giê-su là ai. Mặc dù Chúa Cha đã giới thiệu Con Yêu Dấu của Người với chúng ta, nhưng đó cũng là lời mời gọi chúng ta hãy biết Chúa Giê-su rõ hơn, để yêu mến Người nồng nàn hơn và phụng sự Người tích cực hơn. Với ba bài đọc, chúng ta có ba bức chân dung về Chúa Giê-su.
1– Chúa Giê-su là người Tôi Trung được Thiên Chúa đặt làm ánh sáng muôn dân, để đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất (bài đọc 1). Có một điều thật thích thú là hình ảnh người Tôi Trung của Thiên Chúa được lập đi lập lại nhiều lần, không chỉ trong mấy Chúa Nhật mùa Chay trước cuộc Thương khó của Chúa Giê-su, mà ngay trong mùa Vọng, hình ảnh ấy cũng được ám chỉ về Người nữa. Vậy nhắc lại như thế, Phụng vụ Lời Chúa muốn nhấn mạnh đến điều gì nơi Chúa Giê-su? Đức tính nổi bật của người Tôi Trung là nhân từ và trung thành. Đúng vậy, Chúa Giê-su vốn dĩ đồng hàng với Thiên Chúa, nhưng đã vâng lời xuống thế làm người phàm để thực hiện kế hoạch cứu độ như Thiên Chúa muốn. Người đã biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa khi thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Người đã hằng trung thành với sứ mệnh, không làm theo ý riêng, nhưng luôn theo ý Chúa Cha, “vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá”. Chính sự khiêm nhường, vâng lời và trung thành của Chúa Giê-su đã trở thành “ơn cứu độ của Thiên Chúa đến tận cùng cõi đất”. Sự khiêm nhường và vâng lời của Chúa Giê-su đã chuộc lại sự kiêu căng và bất tuân của A-dong và E-va. Sự trung thành làm theo ý Chúa Cha của Chúa Giê-su đã chuộc lại việc A-đam không nghiêm túc tuân giữ điều Thiên Chúa đã giao ước với ông. Đó là cách Chúa Giê-su đem ơn cứu độ đến mọi người mọi nơi và mọi thời, vì Người không chỉ cứu độ dân riêng là Do-thái, mà còn cứu độ “muôn dân đến tận cùng cõi đất” nữa.
2– Bức chân dung thứ hai của Chúa Giê-su được thánh Phao-lô trình bày dưới hình thức suy tư thần học: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa (bài đọc 2). Vậy đâu là điểm cốt lõi bức chân dung này muốn nói lên? Phao-lô trả lời: trong Đức Ki-tô là Chúa, hết mọi người được kêu gọi làm dân thánh. Nói khác đi, Chúa Ki-tô là điều kiện để Thiên Chúa đón nhận tất cả những ai kêu cầu danh Chúa Ki-tô thì sẽ được làm con cái Người. Mà “kêu cầu danh Chúa” là gì, nếu không phải là đón nhận Tin Mừng Người rao giảng và sống những giá trị Tin Mừng của Người? Cho nên Chúa Ki-tô là chính ơn cứu độ, hoặc theo cách hiểu của thánh Phao-lô, Người là “ân sủng và bình an” Thiên Chúa ban cho ta: Ân sủng là được Người cứu độ và bình an là được hòa giải với Người.
3– Tuy nhiên bức chân dung sống động nhất về Chúa Giê-su là bức chân dung được thánh Gio-an Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Trong lịch sử dân Chúa, chiên là con vật dân Do-thái đem giết xế chiều trước ngày Vượt qua và theo lệnh Thiên Chúa họ phải lấy máu bôi trên cửa nhà, để đêm ấy thấy máu chiên Người sẽ vượt qua và không sát hại các con đầu lòng người Do-thái. Máu ấy không những cứu mạng dân Do-thái, mà còn giúp họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai-cập. Giờ đây, giới thiệu Chúa Giê-su là “Chiên Thiên Chúa”, thánh Gio-an ám chỉ đến cuộc Vượt qua vĩ đại Chúa Giê-su thực hiện để giải thoát toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi. Sứ mệnh của Chiên Thiên Chúa là “xóa bỏ tội trần gian” trước hết bằng cách kêu gọi người ta sám hối và tin vào Tin Mừng khi Người thi hành sứ vụ. Cuối cùng là Người bằng lòng chịu chết trên thập giá để đền bù tội lỗi nhân loại và giải hòa nhân loại với Thiên Chúa. Có nhiều người vẫn chưa tin lời giới thiệu của ông Gio-an và muốn coi ông mới là người giúp họ xóa bỏ tội lỗi mình. Nhưng ông Gio-an đã khiêm nhường nhìn nhận địa vị của Chúa Giê-su. Hơn thế nữa, ông còn làm chứng: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”. Thực ra Thánh Thần làm chứng cho con người và sứ mệnh của Chúa Giê-su, còn Gio-an chỉ có thể làm chứng rằng chính mắt ông “đã thấy” Chúa Thánh Thần ngự trên Chúa Giê-su, để ông có thể xác tín “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta đã biết được Chúa Giê-su là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Tuy nhiên chúng ta không nên dừng lại ở cái biết nông cạn qua những thông tin trí óc, mà phải đi vào cái biết của trái tim. Nói khác đi, chúng ta cần phải “kêu cầu danh Chúa”, nghĩa là phải tin vào Người, đón nhận lời giảng Tin Mừng của Người và phát huy một mối tương quan mật thiết với Người. Sống trong mối tương quan ấy, chúng ta sẽ để cho mọi sự thuộc về Chúa Giê-su ảnh hưởng trên đời sống chúng ta. Chúng ta sẽ suy nghĩ theo lối suy nghĩ của Người, sẽ hành động theo cách Người hành động. Đặc biệt chúng ta sẽ trả lời câu hỏi của Chúa: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ước gì chúng ta cùng thánh Phê-rô thưa với Chúa rằng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16)!
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất.
Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu:
– Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 4,17).
– Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14,9).
– Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian… Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi… Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần” (x. Ga 1,29–34).
Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđê đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Khi Đức Giêsu đang đến, Gioan Tẩy Giả đã chỉ vào Đức Giêsu và nói : “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Giới thiệu như thế, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Đức Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa, đồng thời Ngài cũng là Đấng xóa tội trần gian.
Khi gọi Đức Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận Đức Giêsu là Đấng vô tội và thánh thiện. Khi nói Đức Giêsu là “Đấng xóa tội trần gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia đã từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Đức Giêsu. Chính vì là con chiên vô tội của Thiên Chúa nên Đức Giêsu mới có thể xóa tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Đức Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự xóa tội cho con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ cho hân loại.Chỉ có Con Chiên thanh sạch và hiền lành, Con Chiên bị sát tế mà không một lời thở than, mới đền thay được tội lỗi. Chỉ có Đấng vô tội, mới có thể chết thay cho các tội nhân.
Đức Giêsu xóa tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Ngài tội lỗi của tất cả nhân lọai, từ tội của nguyên tổ Ađam cho đến tội của người sau hết của nhân lọai. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Ngài đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại. Từ nay nhân loại đã được giao hòa với Thiên Chúa, được sống trong ân tình của Ngài và cửa thiên đàng đã được mở lại cho tất cả mọi người.
Mặc dù chúng ta là người tội lỗi, nhưng đã được rửa bằng Máu của Con Chiên Thiên Chúa, và được tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con“. Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh Thể cho cộng đoàn bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa : “Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá tội trần gian…”. Chúng ta cầu xin cùng Ðức Kitô, Chiên Thiên Chúa, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhất là “tội trần gian”.
Người tín hữu thường được gọi là “con chiên của Chúa”. Danh hiệu đó ngầm chứa một lời cầu chúc: Mong cho người tín hữu được xếp vào loại “chiên” trong ngày phán xét. Ðược đứng bên hữu Vua Thẩm Phán. Ðược vào hưởng vinh quang trong nước Chúa. Nhưng danh hiệu đó phải chăng cũng gợi lên một ước mong. Ước mong người tín hữu sống theo gương của Chiên Thiên Chúa. Uớc mong những chiên con nối gót theo chiên mẹ đầu đàn đi vào con đường hiền lành khiêm nhường. Ước mong đoàn chiên tự hiến đời mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Và ước mong đoàn chiên gánh lấy số phận của người khác, để yêu thương, đoàn kết, liên đới, chia sẻ với anh em tất cả mọi niềm vui nỗi buồn của họ.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa, chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 2 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay đều xoay quanh một chủ đề: Người Tôi Trung của Thiên Chúa có sứ mạng cứu độ muôn người.
Is 49: 3, 5-6
Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo rằng Người Tôi Trung mà Thiên Chúa ủy thác sứ mạng không chỉ dẫn đưa dân Ngài trở về với Ngài, nhưng còn là ánh sáng cho muôn dân.
1Cr 1: 1-3
Thánh Phao-lô tự giới thiệu mình với các tín hữu Cô-rin-tô rằng Thiên Chúa đã gọi thánh nhân làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô.
Ga 1: 29-34
Sau cùng, Gioan Tẩy Giả là người tôi tớ tự xóa mình trước Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị và làm chứng cho Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 49: 3, 5-6)
Trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), có bốn bài thơ về “Người Tôi Trung”. Chân dung “Người Tôi Trung” được phác họa trong bốn bài thơ xem ra liên quan đến lúc thì toàn thể dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật biệt phân lãnh nhận một sứ mạng đặc thù. Vào Chúa Nhật II Thường Niên này, chúng ta sẽ đọc bài thơ thứ hai trong bốn bài thơ này. Khía cạnh tập thể và khía cạnh cá nhân đan quyện vào nhau rất rõ nét ở nơi bài thơ thứ hai này.
Trước hết, điểm nhấn được đặt trên khía cạnh tập thể, vì trong bài thơ này cốt là ơn gọi của dân Ít-ra-en: là vinh quang của Đức Chúa, quy tụ cho Thiên Chúa một dân tín trung, và là ánh sáng muôn dân.
- Vinh quang của Đức Chúa
Như ở bài ca thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử của bài thơ thứ hai là cảnh giam cầm ở Ba-by-lon. Dân Ít-ra-en mà vị ngôn sứ ngỏ lời, qua giọng nói của Người Tôi Trung mầu nhiệm, là cộng đoàn của những người lưu đày, cộng đoàn trong cơn thử thách, bị thương tổn và ê chề nhục nhã. Nhưng Thiên Chúa sẽ can thiệp (tất cả mạch văn của chương này đều theo chiều hướng này); Ngài sẽ giải thoát dân Ngài. Các quốc gia ngoại giáo nghĩ rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en không còn nhớ đến dân Ngài, nhưng rồi họ sẽ thấy rằng bằng quyền năng, Thiên Chúa này sẽ tiêu diệt những kẻ áp bức. Dân Ít-ra-en sẽ là vinh quang của Ngài.
- “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng”
Sau một thời gian dài Thiên Chúa thinh lặng, nay Thiên Chúa lại lên tiếng; Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài, dân mà Ngài để ý đến ngay từ khi còn trong trứng nước:
“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ
lúc tôi chào đời, Người đã nhắc tên tôi” (49: 1)
Diễn ngữ “từ khi tôi còn trong lòng mẹ” trở thành kinh điển để nhấn mạnh tính tiền định của ơn gọi. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ đầu tiên đã sử dụng diễn ngữ này (Gr 1: 5) và thánh Phao-lô lấy lại diễn ngữ này mà áp dụng vào ơn gọi của mình: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1: 15-16). Chính ở đây vấn đề được đặt ra: phải chăng Người Tôi Trung biểu thị cộng đoàn của những người lưu đày hay một nhân vật được tác riêng ra để trở thành vị lãnh đạo hay người hướng dẫn của dân?
- Sứ mạng kép của Người Tôi Trung
Dù Người Tôi Trung này là cộng đoàn của những người lưu đày – quả thật, trong lịch sử cứu độ, cộng đoàn này đóng vai trò của “một nhóm nhỏ còn sót lại” – hay đây là một nhân vật biệt phân đi nữa, thì sứ mạng hàng đầu của Người Tôi Trung này là:
“Đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người” (49: 5)
Chắc chắn phải hiểu “đem về” theo nghĩa kép, vừa địa lý vừa luân lý: đem những người lưu đày về quê cha đất tổ của họ và đem một dân bất trung và bị trừng phạt về với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn làm cho dân này thành hạt nhân vững chắc, qua đó Ngài sẽ tái lập dân tộc thánh.
- “Quy tụ dân Ít-ra-en”
Một trong những bận lòng lớn lao của những người lưu đày, đó là quy tụ tất cả các chi tộc bị tản mác khắp nơi. Vai trò của Người Tôi Trung sẽ là tái lập sự hiệp nhất. Đây là sứ mạng tràn đầy niềm tin tưởng, công việc đầy phấn khởi. Người Tôi Trung thẩm định vinh dự được dành cho mình: “Thế nên tôi được Thiên Chúa trân trọng”. Nhưng công việc này thật khó khăn, phải nương tựa vào ơn trên: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.
- Ánh sáng muôn dân
Đức Chúa cho rằng công việc tái lập dân Ngài này là chưa đủ:
“Người phán: ‘Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (49: 6).
Bài thơ này nối kết và làm sáng tỏ bài thơ thứ nhất qua diễn ngữ: “ánh sáng muôn dân”. Rõ ràng sứ mạng của dân Ít-ra-en – hay ở đây có thể sứ mạng của “nhóm nhỏ còn sót lại”, tức là những người lưu đày được cứu thoát – chính là làm cho ánh sáng cứu độ được bừng sáng, đó không gì khác hơn chính là công việc của Đức Chúa.
Thánh Phao-lô đã cảm thấy một cách sống động những điểm tương đồng của ơn gọi Người Tôi Trung, được tuyển chọn cách đặc biệt để là “ánh sáng muôn dân”, với ơn gọi của chính mình. Thánh nhân áp dụng vào chính mình những lời của vị ngôn sứ, với cung giọng thống thiết, trong hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a khi mạnh dạn nói với những người Do thái cứng lòng tin rằng, từ nay, thánh nhân quay về phía dân ngoại, vì họ mở rộng lòng mình đón tiếp lời Chúa hơn (Cv 13: 46-47).
- Khía cạnh Mê-si-a
Trong viễn cảnh xa, ẩn hiện dung mạo Người Tôi Trung thập toàn, tức Chúa Ki-tô, ở nơi Ngài Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Chính Ngài sẽ quy tụ dân Do thái và lương dân thành một dân duy nhất, Ngài sẽ là “ánh sáng thế gian” và nguồn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đó cũng là những ngôn từ của bài ca “An Bình Ra Đi” của cụ già Si-mê-on:
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
và vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2: 29-32).
BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 1-3)
Thánh Phao-lô đã thiết lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Đây là thành phố thương mại, có một vị thế địa lý đặc biệt với hai hải cảng. Thành phố này đang trên đà phát triển, với những tương phản xã hội: những nhà tài chính và thương mại giàu có bên cạnh những phu khuân vác và nô lệ. Thủ phủ xa hoa tráng lệ với đền thờ tôn kính nữ thần Aphrodite được hàng ngàn nữ tư tế phụng thờ, tức là những cô điếm thánh. Sau cùng, với tư cách là cái nôi văn hóa, thành phố Cô-rin-tô được mệnh danh là nơi có nhiều trường phái triết học trăm hoa đua nở.
- Một cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi
Thánh Phao-lô đã trải qua mười tám tháng ở Cô-rin-tô và đã để lại ở đây một Giáo Đoàn sống động. Nhưng ngay sau khi thánh nhân ra đi, Giáo Đoàn đã gặp phải biết bao những khó khăn nghiêm trọng khiến thánh nhân phải bận lòng: buông thả luân lý, bất đồng nội bộ, ngờ vực đạo lý, lạm dụng phụng vụ. Thánh nhân viết thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô để can thiệp, nhưng thư này bị thất lạc không được lưu truyền đến chúng ta.
Cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, thánh nhân sai cộng tác viên của mình viếng thăm cộng đoàn này. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem theo một loạt câu hỏi mà thánh Phao-lô trả lời trong thư được gọi là “thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô” này, nhưng thực ra đây là thư thứ hai. Quả thật, thánh Phao-lô đã viết bốn bức thư gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong số đó, bức thư thứ nhất và bức thư thứ ba bị thất lạc. Bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất, thực ra là thư thứ hai; và bức thư mà chúng ta gọi thư thứ hai, thực ra là thư thứ tư.
Thánh nhân viết thư thứ nhất này từ Ê-phê-xô vào mùa xuân năm 55. Những chia rẽ xé nát cộng đoàn non trẻ này và sẽ là đối tượng phần thứ nhất của bức thư này. Đây là những lời khuyên bảo phải nên “một lòng một ý” với nhau mà chúng ta khởi sự đọc vào Chúa Nhật hôm nay và tiếp tục đọc vào những Chúa Nhật kế tiếp.
- Khủng hoảng nghiêm trọng
Chúng ta không thể đọc thư này mà không xúc động, và đồng thời thán phục những lập luận thần học của thánh Phao-lô hay phương pháp huấn giáo của thánh nhân. Đối với thánh nhân, cuộc khủng hoảng xảy ra ở Giáo Đoàn Cô-rin-tô là một sự thử thách nghiêm trọng, vì thánh nhân không chỉ thấy công trình của mình bị đe dọa, nhưng ngài còn phải chịu những lời lăng mạ liên quan đến cá nhân mình. Thánh nhân quyết định viết một bức thư nghiêm khắc “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em” (2Cr 2: 4).
Tấn thảm kịch này giúp cho chúng ta nhận ra biết bao khó khăn trong việc cấy Ki-tô giáo vào môi trường ngoại giáo, môi trường này vốn đã được đào luyện bởi một nền văn hóa hoàn toàn khác với Do thái giáo và Giáo Hội vào lúc đó chỉ vừa mới hình thành nên chưa có đủ những quy định chặc chẽ.
- Lời mào đầu
Đoạn trích thư hôm nay là lời mào đầu, phù hợp với tập quán thư tín của thời ấy, bao gồm: tên và phẩm chất của người gửi, cũng như tên và phẩm chất của người nhận.
Ngay từ đầu thư, thánh Phao-lô giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô tự ý kể ra rằng thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình trực tiếp từ Thiên Chúa: thánh nhân là Tông Đồ với cùng tước hiệu như nhóm Mười Hai. Tiếp liền sau đó, thánh Phao-lô nêu tên “ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi”: “người anh em” là danh xưng mà những người Ki-tô hữu xưng hô với nhau.
Người nhận là những Ki-tô hữu, họ hình thành nên “Hội Thánh của Thiên Chúa” ở Cô-rin-tô (đây là diễn ngữ ưa chuộng của thánh Phao-lô). Họ cũng đã được kêu gọi làm “dân thánh”, nhưng ngay tức khắc, thánh nhân mời gọi họ hãy khiêm tốn khi đặt mình trên cùng một bình diện với anh chị em của họ trong đức tin: thánh nhân cho họ thấy rằng phẩm chất đích thật của các Ki-tô hữu là hiệp nhất với nhau, vì thế mọi sự chia rẽ đều biểu lộ tình trạng kém phẩm chất của Ki-tô giáo.
Trong lời nguyện chúc sau cùng: “Xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an”, thánh Phao-lô hiệp nhất lời chào Hy lạp “ân sủng” và lời chào Do thái “bình an”, ngầm ủy thác cho họ những nguồn phong phú mới trong Đức Giê-su Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 1: 29-34)
Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật II Thường Niên Năm A này được trích dẫn từ Tin Mừng Gioan chứ không Tin Mừng Mát-thêu như theo lẽ thường của Phụng Vụ năm A. Một cách nào đó, đoạn Tin Mừng này tiếp nối với đoạn Tin Mừng của ngày lễ Chúa Giê-su chịu phép rửa. Tuy nhiên, đây không là đọc lại câu chuyện Chúa Giê-su chịu phép rửa, nhưng là lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật, tất cả phần mở đầu của Tin Mừng Gioan được xoay chung quanh vai trò quan trọng của Gioan Tẩy Giả với tư cách nhân chứng.
Tựa Ngôn bị gián đoạn hai lần để đưa nhân vật Gioan Tẩy Giả vào nhằm nhấn mạnh vai trò chứng nhân của thánh nhân: lần thứ nhất, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su là ánh sáng (1: 6-8); và lần thứ hai, Gioan Tẩy Giả làm chứng Đức Giê-su cao trọng hơn ông (1: 15). Đoạn Tin Mừng hôm nay lập lại cùng những ngôn từ với lời chứng của Gioan Tẩy Giả về sự cao trọng của Chúa Giê-su. Đây là điểm nhấn của Tin Mừng Gioan.
Tình tiết xảy ra vào những ngày Chúa Giê-su, sau khi trở về từ hoang địa, sắp bắt tay vào sứ mạng công khai của Ngài. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra sự cao trọng của Đấng mà ông đã làm phép rửa; vì thế, thánh nhân lên tiếng làm chứng cho Ngài:
-Thánh nhân đồng hóa Đức Giê-su với Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian,
-Thánh nhân khẳng định cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su và tính ưu việt của Ngài,
-Thánh nhân chứng thực điều mà thánh nhân đã thấy và đã nghe: Đức Giê-su, được Chúa Thánh Thần tấn phong, đích thật là Con Thiên Chúa.
- Chiên Thiên Chúa
Lời chứng thứ nhất của Gioan Tẩy Giả về Đức Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Đây là tước hiệu mầu nhiệm, nhưng được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, chắc chắn đây là tước hiệu Mê-si-a. Đối với những người Ki-tô hữu mà Tin Mừng Gioan ngỏ lời, tước hiệu này gợi lên việc Chúa Ki-tô bị sát tế, Ngài sẽ nhận án tử thập giá vào giờ mà các con chiên lễ Vượt Qua bị sát tế. Một quan điểm như thế không thể nào là quan điểm của vị Tiền Hô được.
Quả thật, Cựu Ước đã mô tả Người Tôi Trung “bị ngược đãi, cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Đối với Gioan Tẩy Giả, xem ra còn hơn thế nữa, chiên là hình ảnh của sự vô tội và tinh tuyền. Đấng mà vị Tiền Hô đã không muốn làm phép rửa vì ông nhận ra Ngài là một con người vô tội, chính Đức Giê-su này hiện có mặt ở đó và đang tiến về phía mình: Ngài như con chiên không tì vết mà Lề Luật truyền lệnh dâng hiến thành hy lễ.
Mặt khác, văn chương khải huyền, vẫn còn nở rộ vào thời Chúa Giê-su, hình dung Đấng Mê-si-a đến dưới hình dạng của một con chiên yếu ớt, nhưng Thiên Chúa ban cho Ngài sức mạnh và quyền năng, và làm cho Ngài thành một con chiên khải hoàn. Chính xác, tác giả Tin Mừng Gioan sẽ lấy lại trong sách Khải Huyền của mình hình ảnh Con Chiên khải hoàn mà thánh nhân sẽ đồng hóa với hình ảnh Con Chiên bị sát tế.
Đây là kiểu nói độc nhất trong toàn bộ Tân Ước và được lập lại mỗi lần cử hành Thánh Thể: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến tham dự bàn tiệc Thiên Chúa”. Tin Mừng Gioan nói về tội lỗi ở số ít. Khi đặt tội lỗi ở số ít, thánh sử hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh tội lỗi của người Do thái và tội lỗi của lương dân, vì diễn ngữ “trần gian” chỉ tất cả nhân loại.
- Cuộc sống tiền hữu và tính ưu việt của Chúa Giê-su
Lời chứng thứ hai của thánh Gioan Tẩy Giả: “Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”, đã được đưa vào trong Tựa Ngôn rồi, được lập lại ở đây vừa khẳng định cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su vừa tính ưu việt của Ngài.
Quả thật, trong khi các Tin Mừng Nhất Lãm đưa gia phả của Chúa Ki-tô lên đến tổ phụ Áp-ra-ham (Tin Mừng Mát-thêu) hoặc lên đến nguyên tổ A-đam (Tin Mừng Lu-ca), thì Tin Mừng Gioan lại đưa gia phả của Đức Giê-su lên cho đến lúc khởi đầu tuyệt đối:
“Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (1: 1).
Như vậy, ở nơi lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả, cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su được nêu bật rất rõ nét bởi một sự đối lập rất mạnh giữa “có người đến sau tôi” ở phần đầu và “có trước tôi” ở phần sau cùng: về phương diện con người, Đức Giê-su chào đời sau Gioan Tẩy Giả, nhưng về phương diện Thiên Chúa, Ngài có trước Gioan Tẩy Giả.
- Con Thiên Chúa
Lời chứng thứ ba của Gioan Tẩy Giả nhắm đến tước vị làm Con Thiên Chúa của Đức Giê-su được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa. Trong khi ba Tin Mừng Nhất Lãm gán lời khẳng định này cho tiếng phán từ trời, thì Tin Mừng Gioan đặt tiếng phán này trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả. Chính thánh nhân là người công bố: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Con Thiên Chúa”.
Đồng thời thánh Gioan Tẩy Giả xác định sứ mạng tiền hô của mình: sứ mạng của thánh nhân chính là bày tỏ Đức Giê-su cho dân Ít-ra-en. Tự bản thân mình, thánh nhân đã không biết chân tính của Đức Giê-su: “Tôi đã không biết Người” (động từ “biết” có một nghĩa rất sâu xa trong Tin Mừng Gioan); nhưng nhờ cuộc Thần Hiển vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa mà thánh nhân xác nhận tính siêu việt của Đấng mà thánh nhân loan báo. Hơn nữa, Thánh Thần đã báo trước cho thánh nhân rồi.
Mặt khác, Tin Mừng Gioan là Tin Mừng duy nhất nhấn mạnh Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần tấn phong khi nói rằng Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su. Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Chúa Giê-su, chiếm đoạt lấy Ngài. Quả thật, Chúa Giê-su, sinh hạ bởi quyền năng của Thánh Thần, được Thánh Thần hằng ở cùng ngay từ khi thụ thai.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su ở đây loan báo ngày lễ Ngũ Tuần: các Tông Đồ cũng được Chúa Thánh Thần tấn phong trước khi các ngài bắt tay vào việc loan báo Tin Mừng. Cũng vậy, người Ki-tô hữu vào lúc chịu phép Rửa lãnh nhận sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong họ.
- Khía cạnh lịch sử
Cuối cùng, chúng ta không thể loại trừ rằng Tin Mừng Gioan đã có một hậu ý biện giáo, hay đúng hơn truyền giáo, khi nhấn rất mạnh tính trổi vượt của Chúa Giê-su trên Gioan Tẩy Giả. Quả thật, một thời gian dài sau khi vị Tiền Hô qua đời, vẫn còn có những cộng đoàn xem thánh nhân là Đấng Mê-si-a và họ tiếp tục thực hành phép rửa sám hối. Sách Công Vụ nói cho chúng ta biết có một nhóm như thế ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7). Vì thế, Tin Mừng Gioan muốn xóa tan mọi ngộ nhận như vậy bằng cách khẳng định rằng Gioan Tẩy Giả không phải là Đấng Mê-si-a.
.
Lm Giuse Nguyễn Minh Chánh
Khi Gioan Tẩy Giả thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “ Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1.29). Qua lời giới thiệu trên, Thánh Gioan Tẩy Giả muốn giúp chúng ta khám phá hình ảnh con chiên trong Cựu ước. Và từ hình ảnh đó, mỗi người chúng ta sẽ dễ nhận ra Đức Giêsu chính là Chiên Thiên Chúa như lời Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định. Nhờ đó chúng ta sẽ được khơi lên niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô, Nguồn hạnh phúc của chúng ta.
1/ Chiên Vượt Qua:
Khi Thiên Chúa quyết định giải thoát dân Israel ra khỏi Ai Cập, Ngài truyền cho mỗi gia đình trong dân Do thái phải sát tế một con chiên đực. Con Chiên sát tế phải toàn ven, không quá một tuổi. Hơn nữa phải lấy máu chiên bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Trong đêm ấy, Đức Chúa sẽ rảo khắp đất Ai Cập, sẽ sát hại các con đầu lòng Ai Cập. Còn vết máu chiên được bôi lên khung cửa nhà của dân Do thái, đó là dấu hiệu dân Chúa đang ở đó, Đức Chúa sẽ vượt qua và con cái dân Do Thái sẽ không bi tiêu diệt (x Xh 12,1-4). Như vậy nhờ máu chiên trong tiệc vượt qua, dân Do Thái đã không bị tiệu diệt, nhưng nhờ đó mà họ đã được giải thoát khỏi đất nô lệ Ai Cập, được trở nên dân tộc được Chúa thánh hiến, được Chúa nhận làm dân sở hữu, được phụng thờ Thiên Chúa.
Từ hình ảnh con chiên vượt qua trong Cựu ước, sau này các vị chứng nhân trong Tân ước đã nhận thấy nơi Đức Giêsu Kitô chính là Con Chiên Vượt Qua đích thực.
2/ Đức Giêsu Là Chiên Vượt Qua:
Không phải vô tình hay do cảm hứng mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã khẳng định với mọi người Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Chắc hẳn những lời từ miệng Gioan Tẩy Giả thốt ra, đó là kết quả của chuỗi ngày ngài đã cảm nghiệm về sứ mạng mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong trần gian. Theo Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu sẽ hoàn tất sứ mạng của Ngài bằng việc phải đổ máu, phải chịu sát tế như chiên con. Và kết quả công trình cứu độ của Đức Giêsu là nhờ Máu Ngài mà nhân loại được cứu độ.
Về điểm này, chính Thánh Phêrô đã khẳng định cho chúng ta ơn cứu độ mà nhân loại được đón nhận là nhờ Máu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, Ngài chính là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã nói: “ Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” (1 Pr 1,19). Hơn nữa bằng tất cả lòng xác tín ơn cứu độ được thực hiên nhờ Máu Đức Giêsu đổ ra, Tác giả thư Do thái đã tuyên xưng cho chúng ta biết: “ Đức Kitô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa Hằng Sống” (Dt 9,14). Như vậy, qua những dòng cảm nhận của các chứng nhân về Đức Giêsu là Chiên Vượt Qua của Thiên Chúa. Tất cả như muốn mở ra cho chúng ta niềm hy vọng vào Đức Giêsu Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ sẽ tuôn chảy đến mọi tâm hồn. Và những ai tin tưởng cũng như đón nhận Máu sự sống của Ngài, chắc chắn sẽ được tẩy xoá mọi vết nhơ, được giao hoà với Thiên Chúa, được đón nhận sự sống muôn đời. Vì trong khi lập Bí Tích Thánh Thể, Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta về hiệu lực của việc Ngài tự đổ máu cho nhân loại, khi Chúa nói: “ Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là Máu Thầy, Máu giao ước đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28). Và nơi khác Chúa lại khẳng định dứt khoát bằng những lời rõ ràng này như sau: “ Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết”(Ga 6,54). Đây cũng là lời hứa cứu độ mà Đức Giêsu đã khơi nên niềm hy vọng cho chúng ta.
3/ Niềm Hy Vọng Nơi Đức Giêsu Là Chiên Thiên Chúa:
Từ hình ảnh Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, giờ phút này đã khơi lên trong tâm hồn chúng ta niềm hy vọng vững chắc nơi Ngài. Nếu như dân Do thái bên đất Ai Cập khi xưa đã được cứu sống nhờ máu con chiên, thì Đức Kitô nhờ Máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã đem lại sự sống toàn vẹn cho chúng ta. Kể từ giây phút tuyệt vời ấy, sự sống con người phải được bắt nguồn từ Đức Kitô. Con người sống là nhờ Đức Kitô, bởi Đức Kitô. Hay nói cách khác, Đức Kitô Chiên Thiên Chúa chính là sự sống của con người.
Khi nhìn ơn cứu độ khởi sự từ Đức Kitô, chúng ta rất an lòng và vững tâm. Vì thế chúng ta hãy tìm đến Đức Kitô là Chiên Thiên Chúa đển đón nhận Máu cứu độ của Ngài. Chắc chắn khi khao khát được hiệp thông trọn ven với Máu Đức Kitô là Nguồn suối mang lai sự đổi mới cho sự sống nhân loại, chúng ta bắt đầu một nguồn sống mới với niềm hy vọng tốt đẹp cho tương lai. Đời sống mới này sẽ do chính Chúa ban tặng cho chúng ta, nghĩa là: Từ con người trước đây là nạn nhân của những bất công, chúng ta sẽ tìm gặp công lý và sự thật. Từ con người bị nô lệ cho tội lỗi, chúng ta sẽ được giao hoà với Thiên Chúa và được tự do hoàn toàn trong Chúa. Từ con người mất tình nghĩa với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được trở nên người thân tình với Thiên Chúa. Đặc biệt từ một con người thiếu vắng sự sống của Thiên Chúa, chúng ta sẽ được đón nhận tràn đầy sự sống từ Thiên Chúa, sự sống bất diệt và hạnh phúc muôn thuở.
Với những cảm nghiệm cùng với niềm hy vọng vững chắc vào Đức Giêsu Kitô Chiên Thiên Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ rất vững tâm và an lòng. Thế nhưng chúng ta cũng phải biết khiêm tốn xin Me Maria luôn nâng đỡ và hướng dẫn chúng ta mỗi ngày, luôn biết gắn bó với Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian. Amen.
.
Lm. Luy Gonzaga Nguyễn Quang Vinh
Trong thường nhật cuộc sống có khi chúng ta nhìn mà không thấy, biết mà không hiểu. Chúa Nhật thứ 2 mùa Thường Niên nêu cho chúng ta chứng cứ nầy, đây là kinh nghiệm của ông Gioan Tẩy Giả khi nói về Đức Giêsu, là người họ hàng của ông. Chắc hẳn cả hai đã có thời kỳ niên thiếu bên nhau, biết nhau trong sinh hoạt, thế mà ông Gioan đã hai lần phát biểu trong bài Tin mừng, làm chúng ta sửng sốt: “Tôi đã không biết Người” (Bài Tin Mừng Ga 1, 29-34). Nhất thiết phải có biến cố nào đó khiến ông Gioan Tẩy Giả thay đổi cái nhìn và sự phỏng đoán của ông về đấng Mêsia. Lời khẳng định: “Tôi đã không biết Người” khác hẳn với nội dung trước đây ông nói về đấng Mêsia, như Người cầm nia để sàng trấu lép bỏ vào lửa, như rìu đã đặt ở gốc sẵn sàng đốn ngã cây không sinh trái … Ông loan báo Đấng Mêsia như một quan toà nghiêm khắc, không khoan nhượng, quét sạch sân lúa là dân tộc mình!
Một thời gian sau, ông Gioan tỏ ra cẩn trọng hơn, nhất là khi ông ở trong tù, ông nghe ngóng những lời đồn thổi về đấng Mêsia cư xử nhân từ mà ông đã mường tượng là nghiêm khắc từ ban đầu. Để cân bằng chênh lệch giữa quan niệm và thực tế về đấng Mêsia, ông đã sai môn đệ tới phỏng vấn Đức Giêsu: “Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng khác?” Đức Giêsu đã dùng lời sấm của tiên tri Isaia để trả lời cuộc phỏng vấn: “Hãy về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ điếc nghe được, người què đi được, bệnh nhân được chữa lành và người chết sống lại”. Những việc làm nầy chứng tỏ Người là đấng Mêsia phải đến, như Sách Thánh đã tiên báo, bởi vì việc làm định nghĩa con người.
Biến cố nơi sông Giođan, khi Đức Giêsu hoà mình vào dòng người sám hối xin chịu thanh tẩy, phản ứng của Gioan là nhận thấy mình bất xứng để ban phép rửa thống hối cho Đức Giêsu, ngay cả việc cởi quai dép cho Người, ông cũng không xứng đáng. Chính Đức Giêsu dấn tới, ông Gioan mới xối nước trên Người. Xảy ra khi Đức Giêsu lên khỏi nước, ông Gioan xác nhận: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ‘Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.’” (câu 32-33). Cách sống của Đức Giêsu và sự việc xảy ra ở Giođan làm cho Gioan thay đổi định nghĩa về đấng Mêsia.
Từ đó, ông Gioan đã thay đổi quan niệm về đấng Mêsia, ông thoáng thấy Đức Giêsu là con chiên bị đem đi giết, là Người Tôi Tớ của Giavê, là đấng Mêsia mang thân phận con Chiên của Thiên Chúa gánh lấy tội trần gian để xoá bỏ tội lỗi. Những cảm nhận nầy nhắc nhớ con chiên vượt qua bị sát tế trong đêm Xuất Ai cập, máu chiên đổ ra, ghi trên cửa nhà đã cứu người con đầu lòng của mỗi gia đình Do thái. Ông Gioan Tẩy Giả đã không biết đến Đấng Mêsia nhân từ đó! “Tôi đã không biết Người”. Ông nhầm lẫn về sứ mệnh của Đấng Mêsia, ông cứ tưởng sẽ có một đấng Mêsia đầy quyền lực, để trừng phạt theo kiểu quan tòa nghiêm khắc bất bao dung không biết khoan nhượng, luôn có bộ mặt hình sự cáo tội hơn là bào chữa cho bị can.
Cho đến ngày hôm nay, người ta cũng còn nhầm lẫn về Thiên Chúa, người ta muốn biến Thiên Chúa thành thế lực chính trị, kéo lôi Người về phe mình để trị tội kẻ khác. Thiên Chúa không liên minh quân sự với phe nhóm nào cả, Người liên đới với con người cần được cứu độ khỏi vòng nô lệ tội lỗi. Thật ra trong cuộc sống, có lần Người đồng bàn với hạng tội lỗi cần được yêu thương và tha thứ, Người mang lấy tội lỗi nhân loại. Trong nhãn quan đó chúng ta hiểu được lời giới thiệu của Gioan: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (câu 29).
Gương mặt hiền hậu và nhân từ nầy phản ánh phần nào trong các diễn văn, trong các bài huấn đức, trong cử chỉ cúi xuống ôm hôn người khuyết tật, những hành động đầy cảm thông và yêu thương của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đương nhiệm đối với người bất hạnh như muốn xóa đi một quan niệm Giáo Hội quyền bính, triều đại xa cách dân đen, như muốn xích lại gần với giới nghèo theo truyền thống tốt đẹp của Giáo Hội từ ban đầu, như muốn mặc lấy tâm tình của Đức Giêsu trong cách cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hiến thân làm Con Chiên cứu chuộc trần gian. Nhờ đó chúng con đã được rửa sạch tội lỗi và được làm hoà với Thiên Chúa. Chúng con xin cảm tạ Chúa và cố gắng bắt chước sống thân phận của Con Chiên Thiên Chúa biết cảm thông và liên đới với tha nhân. Amen.
.
ĐỨC GIÊSU LÀ ĐẤNG CỨU ĐỘ NHÂN LOẠI
Lm. Duy Khang
Thánh Gioan tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng của thời Cựu Ước, và ông rất vinh dự được làm người dọn đường cho Đấng Cứu Thế sắp đến. Hôm nay, khi thấy Đức Giêsu đến với ông, ông đã mạnh mẽ công bố với mọi người Do Thái rằng: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”.
Ông Gioan tẩy giả làm chứng về Đức Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, được Chúa Cha tuyển chọn, thánh hiến bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại, trong tư cách là Đấng Messia.
Ông Gioan tẩy giả đã sử dụng đến hai biểu tượng tuyệt đẹp, đó là con chiên: “Đây là Chiên Thiên Chúa”. Con chiên là một con vật quen thuộc đối với dân Do Thái ngày xưa, được nhắc nhiều lần trong Kinh Thánh. Hình ảnh con chiên rất có ý nghĩa, nhằm mô tả Đức Giêsu là con chiên chiến thắng, con chiên như người tôi trung, và con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua.
Đức Giêsu là con chiên chiến thắng. Theo sách Khải Huyền thánh Gioan tông đồ, con chiên đã chiến thắng quyền lực sự dữ trên trái đất (x. Kh 17,14). Thánh Gioan còn khẳng định: “Bây giờ anh em biết Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi” (1Ga 3,5); và “Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện là để phá hủy công việc của ma quỷ đã làm” (1Ga 3,8). Như vậy, quả không sai khi ông Gioan tẩy giả mô tả Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa là Đấng phá bỏ tội lỗi của thế gian.
Đức Giêsu là con chiên như người tôi trung, như sách ngôn sứ Isaia mô tả trong chương 42 và 53. Người Tôi Trung đã gánh hoặc chuộc những tội lỗi của nhiều người (x.Is 53,4-12). Cũng vậy, bằng cái chết của Người, Chúa Giêsu đã xóa tội hoặc đã gánh tội cho thế gian. Nhờ những vết thương của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn và sự chết của Người, đã chữa lành tội lỗi của chúng ta (1Pr 2,25; Is 53,5).
Đức Giêsu là con chiên như con chiên trong Lễ Vượt Qua. Đức Giêsu bị kết án tử vào ngày lễ Vượt Qua (Ga 19,14). Người là con chiên mà dân Do Thái bôi lên cửa, làm dấu để được cứu thoát, nói đến trong sách Xuất Hành (12,46), con chiên đã hy sinh (Kh 5,9), con Chiên đổ máu mình trên thập giá tẩy rửa tội lỗi nhân loại và giải thoát khỏi sự chết.
Tóm lại, con chiên được ông Gioan tẩy giả mô tả, như một lời giới thiệu về Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại. Mặc dầu Người vô tội, nhưng lại chấp nhận gánh lấy tội lỗi của nhân loại vào thân thể của Người, đến độ, Người đã dùng chính cái chết của mình để giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết. Hôm nay, Gioan tẩy giả đã làm chứng và lời chứng của ông đã thành hiện thực trong công trình cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô.
Hôm nay, trong mỗi Thánh lễ, chủ tế đều nhắc lại lời của thánh Gioan tẩy giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”, và mời gọi người Kitô hữu đón nhận Mình Máu Thánh Chúa. Chúng ta có Chúa Kitô ngự trong lòng, và sự sống của Người ở trong chúng ta.
Chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã dành cho chúng ta đến độ chết vì chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng về tình yêu cứu độ của Người cho nhân loại. Chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Giáo Hội bằng cách giúp đỡ cho người ta được thoát khỏi sự dữ và tội lỗi đang lan tràn trong gia đình, trong xã hội. Chúng ta hãy giúp cho những người xung quanh chúng ta sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Giêsu là Đấng giải thoát và cứu chuộc của mọi người.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Trong những ngày này, ngang qua Lời Chúa trong các bài Tin Mừng, Giáo Hội tiếp tục trình bày cho chúng ta chân dung của thánh Gioan Tẩy Giả, như là chứng nhân của Đức Kitô, Đấng là Sự Sống và Ánh Sáng.
Xin Chúa cũng khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao trở thành chứng nhân của Đức Kitô, bằng cách đón nhận sự sống mỗi ngày của chúng ta từ Ngôi Lời, và sống sự sống của chúng ta như là ánh sáng, thay vì như là bóng tối. Bởi vì Ngôi Lời là Sự Sống và ở nơi Người Sự Sống là Ánh Sáng.
* * *
Trả lời cho câu hỏi về căn tính “ông là ai?”, thánh Gioan tuyên bố thẳng thắn, mình không phải là Đấng Kitô. Nhưng điều phải làm cho chúng ta ngạc nhiên, đó là ông cũng không tự cho mình là Elia hay là một ngôn sứ:
Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng? ” Ông đáp: “Không”.
Trong khi đó, Đức Giêsu sẽ nói về ông như là vị ngôn sứ lớn nhất và như chính ngôn sứ Elia trở lại: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả… Và nếu anh em chịu tin lời tôi, thì ông Gioan chính là Êlia, người phải đến (Mt 11, 11-15 và 17, 10-13). Nhưng về phần thánh Gioan, ngài chỉ tự nhận mình như là tiếng hô hoàn toàn hướng về Đức Chúa: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói”. Xin cho chúng ta có lòng ước ao có được tâm tình khiêm tốn này của thánh Gioan:
Như thánh Gioan đã trở thành điều mà lời ngôn sứ Isaia đã loan báo. Cũng vậy, chúng ta được mời gọi để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi cuộc đời của mình. Xin cho Lời Chúa mà chúng ta đọc, lời nguyện Thánh Vịnh mà chúng ta hát dâng lên Chúa hàng ngày cũng được ứng nghiệm, được thực hiện nơi cuộc đời và trong mỗi ngày sống của chúng ta.
Như thánh Gioan, chúng ta được mời gọi sống sự sống của mình, sống thời gian Chúa ban, sống đời mình và ơn gọi của mình như một lời mời gọi, không phải mời gọi qui về mình, nhưng là qui về Đức Kitô.
Như thánh Gioan, chúng ta cũng tự mình không thể biết Đức Kitô, nhưng đó là ơn huệ của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thực vậy, thánh nhân nhấn mạnh:
Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước”,“Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”.
Như thế, sự hiểu biết Đức Kitô của thánh Gioan hoàn toàn là ơn huệ: của chính Thiên Chúa Chúa Cha, vì Người đã thúc đẩy thánh Gioan đi tìm kiếm Đức Kitô; của Chúa Thánh Thần, vì dấu chỉ để nhận biết Đức Kitô, là sự hiện diện của Thần Khí; và cuối cùng là của chính Đức Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa đến tỏ mình ra cho thánh Gioan:
Hôm sau, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
Cũng vậy, lời chứng của chúng ta về Đức Kitô, cũng hoàn toàn đến từ kinh nghiệm được đích thân gặp gỡ Đức Kitô và giới thiệu Người cho mọi người, như thánh Gioan sẽ giới thiệu Đức Kitô cho hai môn đệ của mình: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian”.
* * *
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian”. Lời tuyên xưng này chất chứa cả một mầu nhiệm cứu độ và vì thế, trở thành bất hủ, vì được tuyên xưng tới bốn lần trong mỗi Thánh Lễ: sau khi chúng bình an, cộng đoàn phụng vụ đọc hay hát: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian…” (3 lần); tiếp đến, linh mục chủ tế dâng cao Mình Thánh trên chén (hoặc dĩa) thánh, long trọng công bố: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian…”.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội, nhưng lại mang vào mình mọi tội lỗi của từng người và loài người chúng ta, như Người Tôi Tớ Đau Khổ, để ban cho chúng ta sự vô tội của Ngài.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên vô tội bị sát tế, để bày tỏ sự tín thác tuyệt đối vào đức công chính và sự sống mạnh hơn sự chết nơi Thiên Chúa, và để trở thành đường đi và sự sống cho chúng ta.
Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa, Con Chiên hiền lành, diễn tả khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa: Thiên Chúa là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi.
Như thánh Gioan, xin cho chúng ta cũng khao khát gặp gỡ, hiểu biết và yêu mến Đức Kitô, để có thể nói cho mọi người, ngang qua chính đời sống hằng ngày của chúng ta: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Khi thấy ông Gioan làm phép rửa và kêu gọi ăn năn sám hối, người Do thái từ Giêrusalem đã cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi: “Vậy ông có phải là Êlia hay là một vị ngôn sứ nào chăng?” Ông cũng từ chối. Và họ hỏi tiếp: “Thế ông là ai?” Ông trả lời: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi.” Họ lại hỏi: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay một vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết.Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người”.
Hôm sau, thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian…Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: ” Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.(xem Ga. 1: 19-34)
Trước khi bước vào cuộc sống công khai, Đức Giêsu không muốn tự mình giới thiệu về mình, nhưng Ngài muốn nhờ một người khác làm thay công việc ấy.Người ấy chính là ông Gioan.Ông có đủ uy tín, thánh thiện để làm việc ấy. Việc Đức Giêsu chịu phép rửa của ông Gioan trước khi đi vào cuộc sống công khai là để qua ông, Thiên Chúa mặc khải cho con người biết Thiên Chúa là Đấng nào và Đấng Mêsia là ai. Ông là người được tiên báo cho biết dấu hiệu nào để nhận ra Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, và ông đã giới thiệu với dân chúng Đấng ấy là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian. Đấng ấy đến sau ông, nhưng có trước ông và cao trọng hơn ông; phần ông, ông tự nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa.Dù ông được nhiều người biết đến và ca tụng, nhưng ông một mực từ chối tất cả những danh hiệu nào người ta gán cho ông.Ông chỉ có một mục đích là làm chứng và giới thiệu Đấng Thiên Chúa tuyển chọn, kêu gọi người ta ăn năn sám hối, dọn đường cho Đấng ấy đến.
Trong cuộc sống công khai, Đức Giêsu đã tự giới thiệu mình với dân chúng.Và sau khi chịu chết, phục sinh và lên trời, Ngài lại muốn chúng ta, những người Kitô hữu, những môn đệ của Ngài tiếp tục công việc làm chứng và giới thiệu Ngài với muôn dân để tất cả cũng được đón nhận ơn cứu độ.Nhưng chúng ta đã làm chứng và giới thiệu Ngài với người khác như thế nào qua hai câu chuyện sau đây?
Có một câu chuyện kể rằng:
Một Rabbi già nằm trên giường bệnh. Bên giường ông, các môn đệ đang xầm xì với nhau.
Một người trong họ nói:
– Từ thời Salomon đến giờ, chưa có ai khôn ngoan như thầy.
Một người khác nói:
– Và cả đức tin của thầy nữa, nó mạnh mẽ không kém đức tin của tổ phụ chúng ta là Abraham.
Người thứ ba nói:
– Sự kiên nhẫn của thầy cũng không thua gì của ông Gióp.
Người thứ tư tiếp lời:
– Chỉ có ông Môisê mới có thể so sánh với thầy về mức độ hoán cải sâu xa với Chúa như vậy.
Vị Rabbi có vẻ trằn trọc. Khi những môn đệ đi rồi, vợ ông hỏi:
Anh có nghe họ ca tụng anh không?
Rabbi trả lời:
– Có chứ!
Người vợ thắc mắc:
– Vậy sao trông anh có vẻ khó chịu thế?
Người chồng trả lời:
– Vì chẳng ai đề cập đến tính khiêm nhường của anh cả!
Lại một cậu chuyện khác:
Một người nọ sống đạo đức đến nỗi các thiên thần phải nhảy mừng khi trông thấy anh.Nhưng anh thì lại chẳng bao giờ nghĩ mình là người thánh thiện.Anh sống vô tư, làm những công việc thường ngày, tỏa hương đạo đức cách tự nhiên.Anh không bao giờ nghĩ đến quá khứ của người khác.Anh nhìn người khác bằng chính thực tại của họ.Anh nhìn vào tận vẻ đẹp thâm sâu của người khác như hồn nhiên, đơn sơ, chất phát không biết gì về điều họ đang làm.Vì thế, anh yêu thương tha thứ cho tất cả những ai anh gặp, và anh chẳng cảm thấy gì là phi thường trong những chuyện ấy. Đó là cách anh nhìn con người.
Ngày nọ, một thiên thần đến nói với anh:
– Tôi được Thiên Chúa sai đến với anh. Anh hãy xin bất cứ điều gì anh muốn, anh sẽ được toại nguyện.Anh có muốn xin được ơn chữa bệnh không?
Anh trả lời:
– Không. Việc ấy để Thiên Chúa làm.
Thiên thần lại hỏi:
– Thế anh có muốn được ơn đưa các tội nhân trở về đường ngay chính không?
Anh trả lời:
– Không. Đánh động con tim của người ta không phải là việc của tôi. Đó là việc của các thiên thần.
– Có phải anh muốn trở thành một tấm gương nhân đức để mọi người bắt chước anh không?
– Không. Làm như thế, tôi sẽ trở thành tiêu điểm chú ý của người khác.
-Vậy anh muốn gì? Thiên thần hỏi.
– Tôi muốn ân sủng của Thiên Chúa. Có ân sủng là tôi có tất cả.
Thiên Thần bảo anh:
– Không được. Anh phải xin một phép lạ nào đó cơ! Nếu anh không xin, anh sẽ bị ép phải nhận đấy.
– Vậy thì tôi xin điều này: Xin cho tất cả những điều tốt lành được thực hiện qua tôi sao cho tôi không hề biết về những điều ấy.
Thế là Thiên Chúa quyết định rằng chiếc bóng thánh thiện của con người này sẽ có năng lực chữa bệnh bất cứ khi nào nó đổ về phía sau lưng anh. Từ đó, bất cứ nơi nào bóng anh đổ xuống, miễn là lưng anh quay về phía đó, thì những bệnh nhân được chữa lành, đất trở nên màu mỡ, các dòng suối làm nảy sinh sự sống, và vẻ sinh động trở về với những nét mặt vốn rầu rĩ do những gánh nặng cuộc đời.
Nhưng con người thánh thiện ấy không hề biết gì về điều này, bởi vì người ta quá tập trung chú ý đến chiếc bóng của anh đến nỗi họ không chú ý gì đến anh.
Thế là ước mơ của anh đã trở thành hiện thực: những điều tốt lành được làm qua anh, còn chính anh thì được lãng quên.
Mang danh Kitô hữu, chúng ta được đồng hóa với Đức Kitô trong cùng một thân thể, cùng đồng hành với Ngài trong suốt cuộc sống. Chúng ta được kêu gọi trở thành ánh sáng và muối ướp thế gian, được kêu gọi trở thành môn đệ của Ngài, được giao nhiệm vụ đi rao giảng tin vui cứu độ cho hết mọi người trong yêu thương và phục vụ.Thế nhưng trong thực tế, đôi khi chúng ta lại quên nhiệm vụ làm chứng và giới thiệu Đấng đang đồng hành với chúng ta. Chúng ta tự mãn mang danh Kitô hữu so với người khác, tìm vinh danh mình hơn là làm chứng và giới thiệu Đấng đang đồng hành với chúng ta.Sống kép kín và tự mãn với ơn cứu độ đã được đón nhận là sống thiếu yêu thương và phục vụ.Chúng ta làm cho mình lớn lên bằng tự phụ tự mãn với chính mình hơn là làm cho Đức Kitô vượt lên trên chúng ta.Chúng ta giới thiệu cái tôi của mình, cái nhãn Kitô hữu của mình thay vì giới thiệu, làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Bài học khiêm nhu của thánh Gioan: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” cũng là tinh thần, thái độ chúng ta phải có khi giới thiệu và làm chứng về Đức Kitô vậy!
.
Lm. Phạm Quốc Hưng
“Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trừ tội của thế gian”.
Trong Tin mừng hôm nay, Gioan Tiền Hô đã công khai giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người: “Này là Chiên của Thiên Chúa, Đấng khử trử tội của thế gian” (Ga 1:29). Với câu nói này, Gioan đã cùng một lúc chỉ ra hai thực tại lớn lao về Chúa Giêsu: Ngài là Chiên của Thiên Chúa và Ngài là Đấng khử trừ tội của thế gian.
Khi gọi Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa”, Gioan xác nhận sự vô tội và tinh tuyền thánh thiện của Chúa Giêsu.
Khi nói Chúa Giêsu là “Đấng khử trừ tội của thế gian”, Gioan chỉ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế, Đấng Messia, là “tôi tớ đau khổ của Giavê” như tiên tri Isaia từng nói đến trong Cựu ước.
Hai thực tại này gắn liền với nhau nơi con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Chính vì là Con Chiên vô tội của Thiên Chúa Chúa Giêsu mới có thể khử trừ tội của thế gian. Như con chiên được dùng làm của lễ đền tội trong Cựu ước phải chịu sát tế, Chúa Giêsu cũng phải chịu đau khổ và chịu chết để trở nên của lễ hy sinh đền tội cho nhân loại. Con chiên hiến tế của Cựu ước chỉ là hình bóng và dấu hiệu của Chúa Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”, Đấng duy nhất thực sự khử trừ tội của con người, Đấng duy nhất đem lại ơn cứu độ, nghĩa là sự tha thứ tội lỗi.
Chúa Giêsu khử trừ tội của thế gian bằng cách gánh vào mình Người tội lỗi của tất cả nhân loại, từ tội của nguyên tổ Adong cho đến tội của người sau hết trong nhân loại. Với cuộc khổ nạn và cái chết đau thương tủi nhục trên thập giá, Người đã đền thay tội lỗi của tất cả nhân loại.
Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa đã chỉ cho ta thấy ác quả kinh hoàng của tội lỗi vì nó dẫn đến sự đau khổ tột cùng và cái chết đau thương của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, và tình yêu vô biên của Thiên Chúa khi chính Người đã chấp nhận chịu đau khổ để giải thoát ta khỏi ách nô lệ của tội lỗi và khỏi chết đời đời.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu xa hơn về sự đau khổ kinh hoàng mà Chúa Giêsu phải chịu để chuộc tội cho chúng ta. Từ đó, chúng ta cảm nhận cách thấm thía hơn tình yêu vô biên của Người dành cho ta.
Một cô gái đang có người yêu bị một kẻ lạ mặt hãm hiếp và đã có thai. Cô khổ tâm vô cùng vì bị người yêu khước từ và gia đình ngờ vực. Cô đã đến gặp Đức Cha Fulton Sheen than thở với ngài và hỏi ngài: “Tại sao con phải ra nông nỗi này?” Sau khi lắng nghe với tất cả sự cảm thông, Đức Cha ôn tồn trả lời cô gái: “Vì chị đã phải gánh tội của một người”.
Rồi Đức Cha Sheen kết luận: Nếu chỉ vì phải gánh tội của một người mà cô giái kia phải đau khổ buồn sầu như thế, thì khi phải gánh chịu tội của cả nhân loại Chúa Giêsu đã phải chịu đau khổ buồn sầu biết chừng nào!
Là những người Kitô hữu, chúng ta chẳng những được mời gọi để hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu thế nhưng còn được kêu mời để trở nên những “Chúa Cứu thế khác”. Đức Cha Fulton Sheen nói rằng chúng ta được cứu chuộc bằng cách trở nên những con người cứu chuộc. Điều này như một sự lập lại lời Chúa Giêsu khi Người dạy chúng ta đọc kinh Lạy Cha “Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Thế giới hôm nay phải đau khổ trăm chiều vì con người càng sa đoạ, càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi. Làm thế nào để khử trừ hay ít ra là làm giảm bớt tội lỗi trên thế giới hôm nay?
Chắc chắn không có cách nào tốt hơn, hoàn hảo hơn đường lối Chúa Giêsu đã thực hiện để trở nên “Đấng khử trừ tội của thế gian.”
Để đi theo đường lối của Chúa Giêsu, trước hết chúng ta phải noi gương Chúa Giêsu là “Chiên của Thiên Chúa” qua việc cố gắng sống thánh thiện và xa lánh mọi tội lỗi. Kế đến, chúng ta phải nổ lực trở nên giống Ngài là “Đấng khữ trừ tội lỗi của thế gian” bằng cách vui nhận những khó khăn, đau khổ, thử thách trong cuộc sống để kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu và cầu nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi cho tha nhân, nhất là những người đang làm ta đau khổ cách này hay cách khác.
Bao lâu chúng ta chưa biết xa lánh tội lỗi, chưa biết nhìn nhận trách nhiệm về tội lỗi của chính mình, chưa biết noi gương Chúa Giêsu quảng đại tha thứ cho những người xúc phạm đến mình, chưa dấn thân lãnh lấy trách nhiệm đền tội thay cho tha nhân, bấy lâu chúng ta chưa phải là những người tín hữu đích thực của Chúa Kitô.
Trong mỗi Thánh lễ, trước khi hiệp lễ, chúng ta cầu xin với Chúa Giêsu bằng lời nguyện “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con.” Liền sau lời nguyện đó, linh mục chủ tế cũng giới thiệu Chúa Giêsu Thánh thể cho chúng ta bằng những lời như Gioan đã giới thiệu Chúa Giêsu với dân chúng năm xưa: “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…” Lúc ấy, chúng ta hãy sốt sắng hiệp cùng Mẹ Maria nài xin Chúa Giêsu Thánh Thể mà ta sẽ rước vào lòng cho ta biết kết hợp mật thiết với Người, để nhờ Người và trong Người ta sẽ sống như những con chiên đích thực của Chúa, những con người biết sống yêu thương tha thứ và hiệp nhất trọn vẹn với tha nhân.
.
Lm. Minh Vận
Giới thiệu là một nghệ thuật đã được các nhà thương mại tận dụng tối đa, qua các phương tiện truyền thông như báo chương, truyền thanh, truyền hình, các bảng quảng cáo khắp đó đây. Nghệ thuật giới thiệu trình bày đó đã trở thành một phân khoa dạy trong các trường đại học, giúp cho các nhà chuyên môn biết cách giới thiệu trình bày thế nào cho hấp dẫn, để dễ lôi kéo thu hút được sự chú ý và hâm mộ của khách mộ điệu và giới tiêu thụ.
Do đó, phải giới thiệu thế nào cho đúng với tư cách xã hội, tùy theo cách thế, hoặc thông thường hoặc trang trọng, sao cho hợp tình hợp cảnh, đúng nơi đúng lúc, đúng với địa vị chức vụ của mỗi người, lại phải hợp với phong tục tập quán của mỗi miền, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, và nếu cần còn phải theo đúng nghi lễ xã giao quốc tế… Hội đủ các điều kiện đó, việc giới thiệu mới đạt được thành quả tốt đẹp.
SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIOAN TIỀN HÔ
Thánh Gioan là một tiên tri đã được Thiên Chúa tuyển chọn và thánh hóa ngay từ khi còn trong lòng mẹ, được ủy thác một sứ mạng cao cả và quan trong vô cùng là làm vị Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai đến trần gian, cứu độ nhân loại, bằng việc rao giảng phép rửa sám hối, kêu gọi mọi người bỏ đàng tội lỗi bất chính, giúp nhân loại đón nhận Chúa Cứu Thế, hầu xứng đáng lãnh nhận Ơn Cứu Độ của Người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Thánh Sử Gioan tường thuật: Khi ông Gioan thấy Chúa Giêsu đang tiến lại với mình, liền giới thiệu với mọi người: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian” (Jn 1:29).
Để thực thi sứ mạng cao cả này, Thánh Linh đã mạc khải cho Gioan nhận biết Đấng mà thánh nhân được chọn làm sứ giả giới thiệu Ngài, như lời thánh nhân đã tuyên xưng: “Một Đấng đến sau tôi, nhưng đã có trước tôi, vì Người cao trọng hơn tôi. Và tôi vốn không biết Người”. Thánh nhân còn xác quyết: “Tôi đã thấy Thánh Thần Chúa như chiên bồ câu từ trời đáp xuống và ngự trên Người. Về phần tôi, tôi vốn chưa biết Người, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần Chúa ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy, đã nhận biết và tôi xin làm chứng: Chính Người là Con Thiên Chúa” (Jn 1:29-34).
Thánh Gioan đã chu toàn sứ mạng làm Tiền Hô giới thiệu Chúa Kitô cho nhân loại, với tất cả sự hiểu biết, niềm xác tín vững mạnh và thâm sâu, mà ngài đã công khai tuyên xưng như một chân lý bất hủ. Hơn nữa, ngài còn sống niềm tin, tận tình phụng sự, và hết tình yêu mến Đấng mà ngài có sứ mạng giới thiệu. Thánh nhân đã tự thú nhận mình: “Không đáng quỳ xuống cởi giây giầy cho Người” và cố gắng tìm mọi cách tự xóa nhòa mình đi, để Chúa được tôn vinh như lời ngài quả quyết: “Người cần phải trổi lên, còn tôi cần phải hạ xuống”. Sau cùng, Thánh nhân còn lấy làm sung sướng được hy hiến chính mạng sống mình, để làm chứng cho Đấng ngài giới thiệu và rao giảng.
SỨ MẠNG CỦA TẤT CẢ CON CÁI CHÚA
Là con cái Chúa, như Thánh Gioan tất cả chúng ta đều được Chúa tuyển chọn, tùy theo ơn gọi, chức phận và địa vị của mỗi người, Chúa cũng ủy thác cho chúng ta sứ mạng làm chứng nhân, làm sứ giả giới thiệu Chúa Cứu Thế cho nhân loại, cho những người chúng ta có nhiệm vụ, cho hết mọi người chúng ta có liên hệ và giao tiếp trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa trong sách tiên tri Isaia cần được áp dụng cho mỗi người chúng ta, cũng như cho toàn thể Giáo Hội, Dân Riêng của Chúa: “Đây Ta đặt con như ánh sáng các dân tộc, để con đem Ơn Cứu Độ của Ta tràn lan khắp địa cầu” (Is 49:6).
Để được giới thiệu trong phương diện trần thế đạt được hiệu quả tốt, còn cần phải được áp dụng đúng nghệ thuật, đúng khoa học, hợp tình hợp cảnh, hợp thời hợp lúc; thì để thi hành sứ mạng cao cả giới thiệu Chúa Kitô cho tha nhân, còn cần phải hội đủ các điều kiện, các tư cách và đức tính khẩn thiết hơn muôn phần.
Do đó, vị sứ giả giới thiệu Chúa Kitô cho người khác, đòi buộc phải hiểu biết thâm sâu về Chúa, phải đồng hóa nên một với Chúa, phải sống bằng sự sống của Chúa; và hơn nữa, phải chiếm hữu được Chúa. Có như thế, tha nhân mới dễ dàng chấp nhận được chân lý chúng ta rao giảng; cảm nhận được sức sống thần linh và sự hiện diện đích thực và sống động của Chúa nơi chính bản thân của vị sứ giả, khiến người ta khát mong chiếm hữu Chúa là hạnh phúc, là cùng đích của họ.
Chính Chúa đã phán với chúng ta: “Các con là ánh sáng trần gian”, và Chúa truyền dạy: “Ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mọi người, để mọi người nhận biết Cha các con trên trời”, Đấng các con có nhiệm vụ giới thiệu Người, làm chứng nhân cho Người.
Kết Luận
Mẹ Maria là Vị Tôn Sư, là Nhà Giáo Dục huấn luyện đào tạo nên các vị Tông Đồ, thừa sai, sứ giả giới thiệu Đấng Thiên Sai là Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ.
Tại hang Belem xưa, Mẹ đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các mục tử là những tâm hồn đơn sơ chất phác; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa Hài Nhi cho các nhà đạo sĩ thông thái từ Đông Phương đến triều bái Chúa; Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho cụ già tiên tri Simêon và bà tiên tri Anna trong Đền Thờ, và Mẹ cũng đã giới thiệu Chúa cho toàn thể nhân loại.
Hiền Mẫu Maria là Mẹ các Tông Đồ, Mẹ là mẫu gương phản chiếu chân dung đích thực của Chúa Giêsu Con Mẹ; Mẹ đã chiếm hữu được Chúa cách sung mãn tràn đầy, để chính Mẹ trở nên nguồn thác thông ban Chúa cho các tâm hồn.
Xin Mẹ dạy cho chúng con học biết khoa học cao cả này, để chúng được xứng đáng cùng với Mẹ giới thiệu Chúa, rao giảng Chúa, trao ban Chúa cho nhân loại và cho mỗi tâm hồn.
.
Lm. Thu Băng
Đấng xóa tội trần gian (Ga.1:29-34)
Đã hơn một tháng nay Giáo Hội cũng như thế giới đón mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Hôm nay (những ngày đã qua) thánh Gioan lại có dịp tuyên xưng “Đức Giêsu ngôi Lời Nhập Thể la Đấng xoá tội trần gian”. Gioan nghĩ gì khi tuyên bố lời đó? Khi tuyên xưng Chúa Kitô đã xóa tội trần gian?
Nhìn lại lịch sử các dân tộc, vào thời tiền sử đều nhận có những vị thần hộ thủ quốc gia. Để nguôi cơn giận của thần, vua phải hiến tế cho thần những lễ vật thật cao giá như: Cổ Hy Lạp đã dùng người trinh nữ để tế thần. Việt Nam đã dùng súc vật như bò để tế ở đàn Nam Giao. Các tổ phụ lại dùng con chiên một năm như tổ phụ Abraham….
Dùng của lễ là trút hết lòng thành vào đó để dâng, để mọi bất chính, mọi tắc loạn vào con vật để đốt cho con vật chết.
Trên nóc nhà thờ Verden nước Đức còn thấy một tảng đá khắc hình con chiên do chuyện: anh thợ đá đang làm việc trên mái, bị đứt sợi dây an toàn, anh té nhào xuống đất. May thay anh rớt trúng một con chiên, con chiên bị chết, còn anh không hề bị thương. Để nhớ ơn con chiên đã cứu mạng, anh khắc hình con chiên và gắn lên nóc nhà thờ.
Con chiên Thiên Chúa cũng đã chết để cứu độ chúng ta và làm cho chúng ta được sống trong ân sủng của Chúa. “Ngài đã thí mạng để cứu chuộc chúng ta”.
Sách Khải Huyền đã có tới 27 lần nhắc đến con chiên Thiên Chúa. Ngài gọi là chiên đã chết cho mọi người, mọi thời, mọi nơi.
Hình ảnh con chiên Thiên Chúa còn thấy nơi hang Toại Đạo, nơi thánh địa, đại thánh đường Rôma….
Bài sách thánh thứ hai có nói đến đặc ân Thiên Chúa vô cùng thương loài người là Ngài lấy máu chính mình và cái chết trên thập giá để đền tội và cho chúng ta khỏi chết.
Nhiều người đã quên ơn Thiên Chúa, cố tình quên ơn Chúa, chạy theo sự vật ở đời, cố tình gạt bỏ lương tâm mình, để sống theo lạc thú.
Lời Thánh Kinh: ”Người mẹ có bao giờ quên con mình được. Nếu họ có quên nữa thì ta cũng không quên được”.
Anh chị em chính là con chiên, xin đừng lãng quên Chúa, đừng khước từ Chúa, nhưng hãy luôn thưa: “Lạy Chúa, này con xin đến đẻ thực thi ý Chúa”.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Trong đời sống tương quan với xã hội, mỗi khi gặp người mới lạ, người ta thường giới thiệu nhau, để biết người đó là ai.
Đọc Tin Mừng, chúng ta thấy kể lại một số trường hợp giới thiệu. Chẳng hạn như: Khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, và khi vừa bước lên khỏi nước thì có tiếng từ trời vọng xuống: “Đây là con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”. Đó là lời giới thiệu của Thiên Chúa Cha.
Thánh Anrê tông đồ, sau khi gặp gỡ Đức Giêsu, thì lại giới thiệu cho anh em mình rằng:”Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia…” rồi ông đưa Phêrô đến gặp Đức Giêsu.
Tin Mừng hôm nay kể lại Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho các môn đệ của mình: “Đây là chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”.
Thật vậy, Đức Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến để gánh lấy tội lỗi nhân loại. Chính vì gánh lấy tội lỗi nhân loại mà Ngài hòa mình vào dòng người tội lỗi nơi bờ sông Giođan, để xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa. Vì gánh lấy tội trần gian mà Ngài đồng bàn với những người tội lỗi. Vì gánh lấy tội trần nên Đức Giêsu hiến thân mình chịu chết để tái sinh chúng ta trong ơn làm con Chúa.
Nhưng thưa anh chị em, muốn giới thiệu ai thì phải biết rõ thân thế sự nghiệp người đó. Càng biết rõ người đó bao nhiêu thì việc giới thiệu càng chính xác bấy nhiêu.
Như vậy, để giới thiệu chính xác về Đức Giêsu, Gioan tẩy giả đã phải dành rất nhiều thời gian sống trong hoang địa thanh vắng. Chính nơi đây Gioan đã lớn lên trong đời sống gắn bó mật thiết với Chúa, nhờ đó đã giúp ông biết rõ về Đức Giêsu, để rồi khi đến thời đến buổi, ông ra đi rao giảng và giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng, cách riêng những môn sinh của mình, để rồi những người này sau này họ đi theo Chúa và trở thành những tông đồ của Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, khi lãnh nhận Bí tích rửa tội được gắn liền với việc sai đi. Cho nên Chúa sai chúng ta đi là để giới thiệu Chúa cho người khác bằng đời sống cầu nguyện, bằng đời sống bác ái yêu thương phục vụ, đó là bổn phận của mọi người Kitô hữu chúng ta.
Thế nhưng, để giới thiệu Chúa cho hiệu có hiệu quả, thì việc đầu tiên chúng ta phải nói với Chúa trước khi nói về Chúa cho người khác. Có nghĩa là chúng ta phải có kinh nghiệm sống gắn bó với Chúa như Gioan Tẩy, hay như các môn đệ đầu tiên, thì mới có khả năng giới thiệu Chúa cho người khác được.
Thế thì, khi giới thiệu là chúng ta giới thiệu về Chúa những gì?
Thưa có nhiều cách thế, nhưng có thể chúng ta giới thiệu về một Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Một Thiên Chúa Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót yêu thương con cái mình. Và tất cả mọi người đều là anh em với nhau con cùng một Cha trên trời. Thế nhưng mà trong thực tế, mỗi người chúng ta phải đấm ngực và nhìn nhận rằng: nhiều khi chúng ta chưa sống đúng với vai trò giới thiệu của mình.
Bởi vì, tất cả chúng ta là con cùng một Cha trên trời, ấy thế mà lòng vẫn còn đố kỵ chia rẽ, vẫn còn sống không chân thành với nhau, có khi ngay trong mái ấm gia đình, trong làng xóm ngõ, họ hàng ruột thịt của mình. Đời sống đạo của chúng ta nhiều khi chẳng tốt lành hơn những người ngoại giáo. Thì lúc đó thay vì giới thiệu Chúa, thì lại làm méo mó, làm lem luốc gương mặt của Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương và đạo yêu thương của mình.
Anh chị em thân mến,
Lời giới thiệu của Gioan tẩy giả năm xưa, nay vẫn còn nhắc lại trong phụng vụ trước khi chúng ta rước lễ “Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian…”. Qua đó mẹ Giáo hội muốn nhắc nhở chúng ta hãy ý thức rằng: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài. Và Đức Giêsu cũng vì yêu thương mà xuống thế làm người để rồi gánh lấy tội lỗi chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta ý thức trong đời sống người Kitô hữu, là có nhiệm vụ giới thiệu Chúa cho người khác như Gioan tẩy giả, sống gắn bó với Chúa và sống yêu thương nhau. Vì như lời Chúa nói: “Sự sáng của các con cũng phải chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc làm của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Mọi nơi và mọi lúc, ở đâu cũng có những điều CẤM làm, có những điều NÊN làm, có những điều PHẢI làm. Các mức độ hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn, nói một điều gì đó – có thể nên hoặc không nên nói, cấm nói hoặc phải nói. Theo truyền thống hội đường Do Thái, luật gồm 613 điều – 365 điều cấm làm và 248 điều phải làm. Điều CẤM LÀM nhiều hơn điều PHẢI LÀM. Nếu chia đều một năm, mỗi ngày có một điều cấm. Kinh khủng thật!
Trong cuộc sống, người ta có câu tục ngữ: “Im lặng là vàng.” Kinh Thánh xác định: “Người năng nói năng lỗi, ai dè giữ lời nói mới là người khôn.” (Cn 10:19) Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng nên im lặng, có những lúc không thể không nói, không thể im lặng, nghĩa là không chỉ NÊN nói mà còn PHẢI nói – thậm chí là cần nói nhiều. Và lúc đó, “lời nói còn quý hơn quà tặng.” (Hc 18:16)
Lời nói thực sự quan trọng, tại sao vậy? Kinh Thánh cho biết: “Nhờ lời nói mà người ta biết được ai khôn ngoan, do phát biểu mà biết được trình độ học vấn.” (Hc 4:24) Và còn hơn thế nữa: “Vinh hay nhục đều ở lời nói cả, và cái lưỡi chính là mối họa cho con người.” (Hc 5:13) Vì lý do đặc biệt là “ai cũng lầm lỗi trong lời nói của mình.” (Hc 19:16) Thật đáng quan ngại!
Lời liên quan Lưỡi (2 L), và Lưỡi liên quan Lời. Nếu không có lưỡi, người ta không thể nói, có lưỡi mà chỉ ngắn một chút thôi cũng không thể phát âm rõ, nghĩa là nói không chuẩn lời. Và lời nói liên quan các hệ lụy khác nữa.
Lời nói liên quan việc làm chứng. Chứng nhân là người kiên trì và trung tín làm chứng về một điều gì đó để bảo vệ Chân Lý và Công Lý, đặc biệt là làm chứng về Đức Kitô, Đấng-nhập-thể-và-nhập-thế. Chúa Giêsu ra lệnh: “KHÔNG ĐƯỢC LÀM CHỨNG GIAN.” (Mt 19:18) Chính Ngài đã xác định với chúng ta: “Việc Thiên Chúa muốn quý vị làm là tin vào Đấng mà Người đã sai đến.” (Ga 6:29) Tin nhận Chúa Giêsu là tin nhận và tôn vinh Chúa Cha.
Lời nói liên quan hành động, việc làm. Làm chứng là công việc cần thiết, nhưng hành động đó dễ khiến người ta đề cao cái tôi của mình, thế nên cần lưu ý: Cứ cố gắng làm theo khả năng Chúa ban, (1 Cr 3:5) đừng quá chú trọng kết quả, vì kết quả thế nào là tùy vào Chúa. Thánh Phaolô chia sẻ kinh nghiệm: “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên.” (1 Cr 3:6) Và ông xác định: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:10) Đó là bổn phận và trách nhiệm của mọi người.
Ngôn sứ Isaia cho biết Thiên Chúa tiếp tục nói về Đức Kitô qua “Bài Ca Thứ Nhì” của Người Tôi Trung: “Hỡi Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta. Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh quang.” (Is 49:3) Là Kitô hữu, mỗi chúng ta cũng phải luôn cố gắng trở thành người tôi trung của Thiên Chúa, noi gương Đức Kitô. Ngôn sứ Isaia nói thêm: “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng. Người là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi.” (Is 49:5)
Để nhấn mạnh và nhắc nhở, Thiên Chúa tiếp tục lên tiếng: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất.” (Is 49:6)
Ai cũng phải trở thành nhân chứng – nhân chứng của Tin Mừng, của Tình Yêu Thương, của Lòng Chúa Thương Xót, của Chân Lý, của Công Lý, của Ơn Cứu Độ, của Ngôi-Hai-Làm-Người. Thật vậy, Chúa Giêsu đã trao nhiệm vụ cho mọi người: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Mỗi người mỗi hoàn cảnh, mỗi người mỗi cách, mức độ khác nhau, nhưng ai cũng phải thực hiện tích cực theo khả năng riêng, không thể đùn đẩy theo kiểu “không mợ thì chợ cũng đông.” Chúa Giêsu đã nói thêm cho rõ ràng: “Tin Mừng này về Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc được biết.” (Mt 24:14)
Về mọi thứ, cách riêng đối với việc làm, chắc chắn rằng nếu không có ơn Chúa thì chúng ta chẳng làm được gì. (x. Ga 15:5) Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên. Vì thế, luôn phải tin tưởng và trông cậy nơi Chúa, như Thánh Vịnh gia đã tâm sự: “Tôi đã hết lòng trông đợi Chúa, Người nghiêng mình xuống và nghe tiếng tôi kêu. Chúa cho miệng tôi hát bài ca mới, bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta. Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ và tin tưởng vào Chúa.” (Tv 40:2 & 4) Đó là cách sống tín thác và khôn ngoan.
Thiên Chúa tạo nên mọi sự, nghĩa là Ngài có tất cả, Ngài không cần gì nữa. Thánh Vịnh gia xác định: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi.” (Tv 40:7) Những gì chúng ta làm, gọi là làm cho Chúa nhưng thực ra cũng chẳng thêm gì cho Ngài, mà lại chỉ thêm ích lợi cho chính chúng ta. Mặc dù Ngài không đòi hỏi, nhưng Thánh Vịnh gia vẫn thân thưa: “Này con xin đến! Trong sách có lời chép về con rằng: Con thích làm theo Thánh Ý, và ấp ủ Luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con.” (Tv 40:8-9) Tự nguyện (tình nguyện) luôn đáng giá hơn miễn cưỡng. Thiên Chúa cũng quý trọng động thái đó. Tinh thần tự nguyện liên quan sự tự do, chọn lựa và quyết định.
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, không ai giấu được bất cứ điều gì đối với Ngài. Nếu chúng ta yêu sự thật thì cũng dám chân thật và thẳng thắn với chính mình. Nếu như vậy, chúng ta sẽ không xấu hổ mà thân thưa với Chúa: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh.” (Tv 40:10) Không ngậm miệng làm thinh trước bất kỳ ai để bảo vệ chân lý và công lý, không luồn cúi kẻ khác, như vậy mới can đảm và xứng đáng, nếu không thì chỉ là yêu mình, là hèn nhát, bợ đỡ, tâng bốc kẻ “vai vế” hơn mình. Hèn nhát liên quan nhục nhã. Chắc chắn như vậy.
Đã là Kitô hữu thì ai cũng là chứng nhân, phải làm chứng về Đức Kitô – Đấng là con đường, là sự thật và sự sống. (Ga 14:6) Thánh Phaolô nhận thức và xác nhận: “Tôi là Phaolô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Kitô Giêsu, và ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Đức Giêsu Kitô, là Chúa của họ và của chúng ta.” (1 Cr 1:1-2) Chúng ta là những người kêu cầu danh thánh Giêsu Kitô, nghĩa là chúng ta cũng thuộc về dân thánh của Ngài.
Trở nên chứng nhân là một ơn gọi. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã có ơn gọi đó, nhưng Thiên Chúa không ép buộc ai, mà hoàn toàn cho tự do hành động theo ý riêng. Muốn làm chứng thì không chỉ cần tự nguyện mà còn phải có lòng can đảm. Nghe chừng đơn giản và dễ dàng, nhưng lại phức tạp và khó khăn. Có lẽ vì vậy mà Thánh Phaolô chân thành cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.” (1 Cr 1:3) Có Ân Sủng và Bình An thì chúng ta hoàn toàn an tâm, có thể đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa – mọi nơi và mọi lúc.
Ngay ngày hôm sau khi ông Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu, có một số người đã đến chất vấn ông, và ông trả lời thẳng thắn: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” (Ga 1:26-27) Kinh Thánh cho biết rõ ràng rằng sự kiện đó xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi chính ông Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu.
Ông Gioan rất thẳng thắn nhưng luôn khiêm nhường. Ông sống giản dị tới mức như “dân bụi đời”, thế nhưng ông rất nghiêm túc. Bề ngoài của ông xem chừng rất “thô”, nhưng tâm hồn ông lại rất mạnh mẽ, cứng rắn, không sợ bất cứ một thế lực nào trên thế gian này. Nói như chơi mà làm thật, chứ không lẻo mép, bép xép, ba hoa, lắm chuyện. Thế mới thực sự có thể gọi là “chịu chơi” đấy. Chắc gì mấy ai dám hành động như ông? Bọn “giá áo túi cơm” chỉ ưa tâng bốc và hèn nhát, hằng ngày chúng ta vẫn thấy họ ở mọi ngõ ngách cuộc đời này. Rất cần nỗ lực tránh “phong cách” của bọn giả hình di truyền “máu” Pha-ri-sêu, vì ở gần loại người đó thì chỉ nguy hiểm mà thôi. Yếu sức thì không nên hóng gió!
Khi thấy Đức Giêsu tiến về phía mình, ông Gioan liền nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.” (Ga 1:29-30) Một lời chứng giản dị nhưng tuyệt vời lắm. Đó là sự thật, ông Gioan không thể không giới thiệu cho người khác biết.
Thật thâm thúy với câu tục ngữ Việt Nam: “Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.” Nghĩa là đừng khoe khoang, đừng khoác lác, đừng háo danh, đừng mạo nhận, và đừng tưởng mình là bách khoa tự điển. Ông Gioan thật tuyệt vời vì ông đã không ngần ngại thú thật: “Tôi đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa trong nước.” (Ga 1:31) Và rồi ông còn chứng minh: “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai thì người đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (Ga 1:32-33) Chính ông thấy rõ ràng, nhãn tiền chứ không nghe đồn hoặc nghe người khác kể lại. Không thể sai được!
Ông Gioan là một con người đầy bản lĩnh, một chứng nhân bất khuất, đồng thời cũng chân thật, thẳng thắn và dứt khoát, ông xác nhận: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.” (Ga 1:34) Sự thật minh nhiên, ai tin thì diễm phúc, ai không tin thì vô phúc. Đó là lẽ tất nhiên.
Đức tin là một hồng ân, và cũng là dạng thông minh tâm linh cần thiết để có thể được hưởng phúc trường sinh. Đức tin thực sự rất quan trọng, đến nỗi Thánh LM Gioan Eudes đã so sánh: “Không khí chúng ta thở, cơm bánh chúng ta ăn, trái tim đập trong lồng ngực chúng ta cũng không cần thiết để giúp chúng ta có thể sống đúng là một con người cho bằng lời cầu nguyện giúp cho chúng ta có thể sống đúng là một tín hữu.”
Lạy Thiên Chúa, chúng con chỉ là hư vô, nhưng lại diễm phúc được Ngài tạo nên giống hình ảnh Ngài, và dù chỉ là cát bụi bất xứng mà vẫn được gọi Ngài là Cha, xin sức mạnh và trí tuệ để chúng con chứng tỏ cho thế gian biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, và Người Con Giêsu là Chiên Thiên Chúa. Xin thêm tin yêu để chúng con sẵn sàng bảo vệ chân lý, công lý, và kiến tạo hòa bình đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.