Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
NL: LÊN ĐỀN THÁNH
ĐC: THÁNH VỊNH 112
Chúa đặt người ngồi chung, với hàng quyền quý vinh sang.
DL: LỜI THIÊNG
HL: NẾU TRÁI TIM CON
KL: BƯỚC ĐI TIN MỪNG
Không thể làm tôi hai chủ
Rất lâu rồi Thần Khí mới ngỏ lời tình nơi trang sách qua âm hưởng “sự công thẳng” và “ngăm đe” dành cho những kẻ tham lam, ác độc với tha nhân. Ta thấy được “lời tình” vì Chúa đang bảo vệ ai đó, những người tầm thường nhất trong xã hội phải không?
“Các ngươi thầm nghĩ:
Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa;
bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?
Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm;
Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ.
Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần,
đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ;
cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán.”
Lời Chúa vạch trần âm mưu của kẻ xấu, rắp tâm tính toán bày ra trò gian dối, lừa gạt, để có được lợi lộc, của cải trần gian. Lời bài đọc cũng cho ta biết Chúa thấu suốt mọi điều ẩn kín của lòng người. Người biết rõ: ít nhiều trong mỗi người chúng ta đã từng có, từng nặng mang phận người với tinh thần thế tục. Nếu chúng ta không lỗi lầm ở mặt này, chúng ta cũng lầm lỗi ở mặt khác, phận người luôn đeo bám con người cho tới chết (x. 1Ga 1,10). Chúa còn nói “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.” toát ra lẽ công thẳng của Thiên Chúa chí tôn.
Bởi thế, qua ý nghĩa bài đọc hai, thánh Phao-lô khuyên Ti-mô-thê cũng là khuyên tất cả mọi người tín hữu tích cực hướng về đời sống đạo. Ngài nói “sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”, và phải sống thật đạo đức trong niềm xác tín “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người.”
Trong bài đọc hai còn có một chi tiết rất quan trọng mà khá nhiều người tin Chúa thường luôn vấp phải “hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” Chúng ta không biết rằng khi đọc kinh, cầu nguyện hay dâng Thánh lễ trước Chúa, mà còn để cho tâm hồn mình nặng mang đố kỵ, ghen ghét, giận hờn, tham lam… sẽ làm cho tương quan giữa ta và Chúa càng lúc càng mất tính chân lý và sự công chính đức tin. Nói cách khác đi, một mối tương quan ở phía con người giả hình và vụ lợi, còn phía Chúa chán ngán và tởm lợn muốn mửa ra. Ân sủng Chúa cũng vì đó bị ngáng trở không tuôn đổ xuống được tâm hồn ta. Khi đó, ta đã ngã rồi, vì nhận sủng ân cách nhỏ giọt không thể làm cho ta đứng vững trong ơn nghĩa Chúa. Chính vì vậy, Chúa Giê-su từng dạy “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5,23-24)
Giữa một linh hồn còn nặng mang thất tình, lục dục, và một linh hồn biết buông bỏ chính mình để sống hiền lành và khiêm hạ, lời kinh hay cầu nguyện của họ có sự khác biệt rất lớn trước nhan Chúa. Nó gần giống như một linh hồn còn đang ở trong tội trọng và một linh hồn ở trong ơn nghĩa Chúa, họ đọc kinh cầu nguyện hay dâng Lễ như nhau, song ơn ích nhận lãnh lại vô cùng khác biệt. Đừng để như một ai đó đã nói “Bao năm tôi làm con Chúa nhưng không hề tuân giữ lời Chúa, đến bây giờ tôi mới biết giá trị của việc sống tuân giữ lời Chúa.” Hay lời một tu sĩ khác “Ăn ở trong nhà Chúa đã nhiều, đã lâu, nhưng tôi chưa hề tu, bây giờ mới thật sự tu.” Một sự trở về tuy không muộn, nhưng thật đáng tiếc cho một thời gian hoang phí nén bạc Chúa trao! Đánh mất vô số ân sủng và nghĩa tình với Chúa, còn vô ý rơi vào tội phạm đến Chúa Thánh Thần. Một thời gian tự gieo mình vào nỗi kinh hoàng vì đau đớn khủng khiếp trong luyện ngục.
Hai tinh thần của hai bài đọc đều dẫn ta vào ý nghĩa bài Phúc Âm. Thánh Thần sắp xếp những bước tiệm tiến của chân lý: đầu tiên, nhận thức mình mang thân phận tội nhân,- đến lòng khát khao tiến bước trên đời sống đức tin, đạo hạnh,- sau cùng mới đến từ bỏ khôn ngoan tự nhiên để sống đức khôn ngoan thần khí. Nghĩa là trong những chọn lựa, chúng ta phải chọn lựa điều tốt nhất: có ích cho phần rỗi, hướng về sự sống đời đời. Chúa Giê-su diễn giảng dụ ngôn người quản gia khôn khéo, không phải để chúng ta học theo sự khôn khéo thế gian này. Chẳng qua Chúa Giê-su cho thấy cách khôn khéo của người đời khi xử sự với nhau, để con cái sự sáng học cái khôn ngoan ấy mà áp dụng cho phần rỗi linh hồn. Bởi đó, Chúa Ki-tô đã kết thúc dụ ngôn bằng lời dạy “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu.”
Bạn bè, tình thân của nhân gian lại có thể “đón rước” ta vào vĩnh cửu ư? Lời này của Chúa Giê-su chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, cần tìm ra sự thâm thúy, bởi vì việc tạo ra cho có bạn bè ở nhân gian không thể đón rước ta vào thiên đàng. Nói cách khác đi, những giềng mối thân tình thụ tạo ấy, dù hợp pháp hơn Chúa cũng từng đòi hỏi phải xem nhẹ, phải từ bỏ “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.” (Mt 10,37) Thế nên, chỉ còn một yếu tố duy nhất đáng được trân trọng trong quan hệ “bạn bè”, là tình cảm phải được xây dựng bởi tình bác ái chân thật. Chỉ có sống tình bác ái chân thật với tha nhân, việc bác ái mới đủ chân lý đức tin để “đón rước” chúng ta vào vĩnh cửu. Ý nghĩa này đối lại với lời Chúa “ngăm đe” những kẻ xấu ở bài đọc một.
Suy gẫm lời của Chúa Giê-su sâu hơn, chúng ta thấy rõ ý hướng Người muốn dẫn chúng ta vào sự sống đời đời bằng những phương tiện trần thế, nghĩa là không riêng gì về tiền của. Chữ “Tiền Của” được viết hoa, tức được thần tượng hóa, xem tiền của như một thứ ngẫu tượng trong nhiều loại ngẫu tượng của nhân gian. Mà trong cuộc sống, có thể chúng ta hữu ý hay vô tình phụng sự chúng như là chúa của mình. Đam mê hay quá đỗi ham thích một thứ gì đó sẽ biến ta trở thành nô lệ, tôi đòi cho những ngẫu tượng đó.
Chúa Giê-su kết luận “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” Lời Chúa dạy cho ta một sự khẳng định: chỉ được phép chọn lựa một là phụng thờ Chúa, hay chọn phụng sự thế gian mà thôi. Nếu không sẽ rơi vào câu Chúa nói “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3,15-16)
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay làm sáng tỏ hành trình đức tin, cho biết những việc cần phải bỏ, những điều cần phải làm, giúp chúng ta sáng suốt thanh lọc đức tin và cách sống của mình. Đồng thời biết chọn lựa những điều đẹp ý Chúa và có lợi cho phần rỗi linh hồn trong lúc phụng sự Người. Nhờ đó, cuộc sống mới thanh cao, thánh thiện mang lại vinh quang và hạnh phúc vĩnh hằng.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Khôn Khéo
Thường tình ở đời ai cũng biết lo cho mình. Người lo tích trữ tiền bạc, làm sao có bát ăn bát để phòng lúc nắng mưa, lo cho tương lai con cái. Người lo giữ gìn sức khỏe sắc đẹp, cần nghỉ ngơi dưỡng sức. Người ta mua bảo hiểm y tế để chữa bệnh, bảo hiểm thân thể phòng chuyện rủi ro, người có khả năng hơn còn lo mua bảo hiểm nhân thọ nữa…
Người quản gia trong Tin Mừng hôm nay, sau khi bị tố cáo hạch tội, ông biết mình sắp lâm vào tình trạng bế tắc vì bị thất nghiệp. Trong khốn khó lại ló cái khôn, “Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” Và ông bắt đầu xoay sở, tính chuyện làm lại biên lai, bớt tiền lời, mua lấy anh em bạn bè để có người đón rước mình sau này. Ông được chủ khen là biết hành động khôn khéo.
“Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng …”. Người quản gia được khen vì tính khôn khéo trong việc xử trí, chứ không khen tính bất lương của hành động. Người đời quá khôn khéo tính toán, lo lắng cho mình. Nhưng nào mấy ai chịu đầu tư thời giờ sức lực, khả năng cho đời sống siêu nhiên, cho đời tâm linh của mình? Ngày ngày cứ bới đất lật cỏ, miệt mài làm ăn kể cả Chúa nhật, chấp nhận mọi gian lao để kiếm thật nhiều tiền, lo cho con cháu, bây giờ và cả tương lai. Người ta còn dành rất nhiều thời giờ vào chuyện thế trần: tiệc tùng, du lịch, vui chơi, giải trí…
Các Kitô hữu, những “con cái ánh sáng” nên rút ra bài học, kinh nghiệm từ “con cái đời này”, để lo cho đời sống siêu nhiên, sẽ được trở nên “sáng” nhờ nghe và sống Lời Chúa. “Lời Ngài là sức sống của con, Lời Ngài là ánh sáng đời con”. Mặc dù tôi đang sống trong những nhu cầu thể xác và vẫn dùng mọi phương tiện thế trần, nhưng vẫn cố gắng hy sinh để vượt lên với đời tâm linh. “Người đời hăng hái thế nào trong việc đời : ước mơ danh vọng, cố gắng làm giầu, mải mê tìm lạc thú. Nam, nữ, giầu, nghèo, già, trung niên, thanh niên, cả trẻ con: tất cả đều như nhau. Nếu bạn và tôi hăng hái như họ trong việc linh hồn, chúng ta sẽ có đức tin tươi mát và năng động : lúc ấy không cản trở nào không thể thắng vượt trong việc tông đồ.” (Escriva, The Way, 317)
Đức Giêsu lại dạy rằng: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Xem ra cách dùng tiền của này ngược với lối sống thực thụ, để thăng tiến chính bản thân và những người thuộc về mình. Tiền của quan trọng, cần thiết là thế, mà Người bảo hãy dùng để đổi lấy bạn bè anh em, để sinh ích thiêng liêng, thành ra nhiều người bị giằng co giữa nhu cầu tiền của cho cuộc sống này, với đời sống đạo, với Chúa và theo Chúa. Dùng tiền của để “tạo lấy bạn bè” là một cách đúng đắn, thánh Phaolô đã khen tín hữu thành Philipphê biết xử dụng tiền của để chia sẻ tình thương với ngài và sinh ích cho việc truyền giáo: “ngay khi tôi còn ở Texalônica, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng… Tôi rất đầy đủ, kể từ khi nhận được những gì anh em gửi đến tôi qua tay anh Êpaprôđitô. Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận.”
Đức Giêsu cảnh cáo thái độ làm tôi hai chủ, coi Thiên Chúa ngang hàng với những nhu cầu vật chất: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”. Không thể vừa yêu mến Chúa hết lòng mà lại vừa tôn thờ tiền bạc như một quyền lực, gắn bó, liền khúc ruột với nó. Phải chăng những người có nhiều tiền của vật chất là người không mến Chúa? Người chọn sống với Chúa, theo Chúa là phải từ bỏ hết của cải, nhu cầu vật chất, thành trắng tay, sống khổ sở dặt dẹo qua ngày? Một người vừa chăm chỉ làm việc kiếm tiền nuôi con ăn học, không tiêu xài hoang phí, nhưng biết dùng tiền để sinh ích cho mình và cho người khác là người biết dùng tiền của đúng đắn. Nếu người ấy vẫn sống đức tin sống động, gắn bó với Chúa từng ngày giờ, cả trong mọi công việc của mình, thì vẫn là người “làm tôi Thiên Chúa” đấy thôi. Người ta càng sống với Chúa càng chăm chỉ làm việc ra tiền và biết sử dụng vào những mục đích đẹp ý Chúa.
Chúa ơi! chỉ có Chúa là cùng đích của đời chúng con! Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng con vẫn tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông với anh em cần đến tấm lòng và bàn tay rộng mở chúng con. Chỉ khi nào con nhận ra mọi sự là hư vô, là tương đối, là tạm bợ… Và lòng con vẫn trống rỗng, thiêu thiếu cái gì đó, thì lúc đó con mới tha thiết kiếm tìm chuyện vĩnh cửu, Tình Yêu chân thật và Hạnh Phúc sung mãn trong Chúa, là hạnh phúc tuyệt đỉnh của tâm hồn. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm cho con người sung mãn mà thôi. Và như thế, con sẽ trở nên khôn khéo, hơn hẳn những… “con cái đời này”.
Én Nhỏ
Dùng của cải để được vào Nước Trời
1. Ghi nhớ:
“Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc,họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu.” (Lc 16,9)
2 .Suy niệm:
Trong tác phẩm “Những kẻ khốn cùng”của Đại văn hào Victor Hugo kể rằng: Sau khi ra khỏi nhà tù, phạm nhân Jean Valjean không thể kiếm được cho mình một chỗ nghỉ qua đêm, vì ai cũng sợ kẻ tù tội. Mãi rồi hắn đến Tòa Giám Mục và được Đức cha Myriel tiếp đón, cho ăn uống và ngủ nghỉ qua đêm.Trong đêm hắn thức dậy, lấy cắp những đồ dùng bằng bạc quí rồi tẩu thoát ra bên ngoài.
Cảnh sát bắt được dẫn hắn trở lại Tòa Giám mục để đôi chứng. Nhưng sau khi nghe cảnh sát hỏi những đồ vật bằng bạc đây có phải tên này đã lấy trộm của Ngài không?, thì Đức cha trả lời: “Này anh bạn, tôi cho anh cả đôi chân đèn nữa mà sao anh lại không lấy mang đi môt thể. Nó bán cũng được hai trăm phơrang đấy.”
Không có bằng chứng cảnh sát bỏ đi. Đức cha nói với anh ta “Từ nay anh không còn thuộc về sự xấu nữa”. Mà thật vậy, biến cố đó đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Jean Vạljean. Sau này ông trở thành thị trưởng sống một cuộc đời có ý nghĩa.
Qua câu truyện trên, chúng ta thấy vị Giám mục đã tận dụng của cải, không những lập công phúc cho chính mình mà Ngài còn hoán cải được một tội nhân nữa.
Con người ta sống trên đời rất khôn khéo toan tính trong việc tìm kiếm hạnh phúc mau qua ở trần gian. Nhưng sự khôn ngoan đích thực là đi kiếm tìm hạnh phúc Nước Trời thì ít có ai quan tâm tìm kiếm. Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta hãy biết dùng sự khôn ngoan của mình để sử dụng tiền của mà chiếm lấy hạnh phúc vĩnh cửu.
Tiền của sẽ rất tốt đẹp khi chúng ta làm ra nó bằng mồ hôi, bằng công sức lương thiện và tiền của đó lại trở nên rất có giá trị khi chúng ta sử dụng vào mục đích là mưu cầu mang lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người.
3. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết chăm chỉ cần mẫn làm việc để tạo ra những của cải trong sạch và xin cho chúng con biết khôn ngoan sử dụng nó vào những việc chính đáng, để mai sau đáng được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Amen.
4. Sống lời Chúa:
Bớt ăn sài, tiết kiệm để hàng tháng có khoản tiền làm việc từ thiện, bác ái…
ĐA MINH TRẦN VĂN CHÍNH
Mục lục
1. Khó nghèo đích thực (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Sống ơn ban (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Tiền là ma là quỷ (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Ngày kết sổ đời (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
5. Trung thành theo Chúa (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Khôn khéo và nhanh lẹ (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Sức mạnh của đồng tiền (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
8. Tính sổ (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
9. Thái độ của con người trước tiền của (Lm. Giuse Lê Danh Tường)
10. Khôn khéo để sống (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
11. Chuyển đổi của cải phù du thành kho tàng vĩnh cửu (Lm. InhaxioTrần Ngà)
12. Con cái sự sáng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
13. Công bằng xã hội (Lm. Trần Bình Trọng)
14. Phản bội (Lm. Bùi Quang Tuấn)
15. Không ai có thể làm tôi hai chủ (Lm. Cao Tấn Tĩnh)
16. Không thể làm tôi hai chủ (Lm. Nguyễn Tiến Huân)
17. Có tiền, hãy đem sử dụng (Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
18. Tiền bạc (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
19. Tiền bạc đối với người Kitô hữu (P. Trần Đình Phan Tiến)
20. Gía trị đồng tiền (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
21. Quản lý khôn khéo (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
22. Tích trữ của cải thiêng liêng (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
23. Dùng tiền mua bạn (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
24. Chúa Nhật 25 Thường niên. Năm C (Lm. Antôn)
25. Người quản lý bất lương (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
26. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 25 TN_C (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
27. Mưu mẹo (Trầm Thiên Thu)
28. Của cải hay thần tài (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
****
KHÓ NGHÈO ĐÍCH THỰC
TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Những lời lên án gay gắt của ngôn sứ Amốt rất hợp với xã hội hôm nay, bởi trong bối cảnh “nền kinh tế thị trường”, người ta có khuynh hướng biến mọi sự thành hàng hóa trao đổi. Hậu quả là ngày càng có nhiều những nhà đầu tư chỉ lo kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận; những cha mẹ chỉ lo làm giàu mà quên trách nhiệm với gia đình; những tín hữu vì lợi lộc vật chất không ngần ngại vi phạm luật Chúa; những người bạn bè hay họ hàng thân thuộc vì tiền mà coi nhau như kẻ thù. Vì lợi lộc vật chất, người ta không trừ một thủ đoạn nào. Ngôn sứ A-mốt nêu ra những thủ đoạn gian lận như làm cho chiếc đấu nhỏ lại, quả cân nặng thêm, pha trộn thóc tốt với thóc mục để bán cho người nghèo… Những thủ đoạn ấy vẫn đang tồn tại trong xã hội hôm nay, thậm chí còn nghiêm trọng hơn.
Lợi lộc vật chất khiến cho lương tâm ra tối tăm. Đó cũng là lý do khiến con người coi thường đạo lý và tiếng nói của lương tâm. Người tín hữu được mời gọi biết dùng của cải cho hợp lý. Lời Chúa giúp cho chúng ta “nghèo mà không hèn”, “giàu mà không sang”.
Một hiện tượng xã hội khá phổ biến hiện nay là sự lãng phí. Người giàu lãng phí, mà người nghèo cũng lãng phí. Người ta lãng phí thời gian, lãng phí vật chất và lãng phí cả sức khỏe và mạng sống. Tại các quốc gia phát triển, mỗi ngày đều có một khối lượng lớn thực phẩm bị đem đi hủy vì hết hạn sử dụng, trong khi ở các nước nghèo, biết bao người lớn và trẻ em không đủ chất dinh dưỡng để có một cuộc sống bình thường. Đức Thánh Cha Phanxicô, vị Giáo Hoàng của người nghèo, đã khẳng định: “Lương thực để lãng phí là lương thực ăn cắp của người nghèo” (Huấn từ nhân Ngày Quốc tế về môi trường, 5-6-2013). Có thể chúng ta lập luận: “Của cải tôi làm ra, hoặc tôi mất tiền để mua sắm, tôi có quyền lãng phí!”. Nói như thế, là chúng ta quên rằng, người sở hữu đích thực mọi của cải là Thiên Chúa, chúng ta chỉ là người được Chúa trao cho quản lý. Người quản lý trong lãnh vực nào cũng phải trung thành và tận tâm lo cho việc sử dụng của cải đúng mục đích, tiết kiệm, có ý nghĩa và sinh ích lợi cho mọi người.
Chúa Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Người hãy sống khó nghèo. Khái niệm “khó nghèo” thường hay bị hiểu sai. Vị Đáng kính, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giải thích với chúng ta: “Khó nghèo không phải là không có của: đó là khốn khổ, thiếu thốn. Khó nghèo trước tiên là tập trung của cho đúng. Một cốc cà phê, một cốc bia! Nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh” (Đường Hy Vọng 412). Như thế, khó nghèo là sự trân trọng với tất cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng và cố gắng để đừng lãng phí chúng. Đức Hồng Y kết luận: “Không có của mà tham lam vẫn chưa phải là thanh bần; có của mà không dính bén vẫn có thể ‘có lòng khó khăn’ thực sự” (ĐHV 411).
Khó nghèo đích thực còn là khả năng và thiện chí dùng của cải của mình để xây tình liên đới và nối tình đệ huynh, góp phần xây dựng một xã hội an bình. Nhân vật người quản lý trong Tin Mừng hôm nay được chính Chúa Giêsu gán cho một tính từ là “bất lương”. Như thế, anh không thể làm mẫu mực cho chúng ta trong việc quản trị tài sản được. Chúng ta không thể hiểu đúng giáo huấn của Chúa, khi chỉ trích dẫn một câu hay một đoạn Tin Mừng, nhưng cần liên kết với toàn thể để tìm ra ý nghĩa sứ điệp mà câu chuyện muốn diễn tả. Chắc chắn Chúa không không muốn chúng ta mưu mẹo gian lận như người quản lý bất lương này. Điều Chúa dạy ta là hãy dùng những của cải mình có mà giúp đỡ anh em, bởi lẽ sự giàu nghèo chỉ nhất thời, tình huynh đệ mới tồn tại mãi mãi. Giúp người khác khi mình thịnh vượng chính là của để dành phòng khi mình sa cơ lỡ vận thì có người giúp đỡ lại mình. Khi nhắm mắt xuôi tay, để lại của cải chẳng giá trị bằng để lại tình thân nghĩa. Bởi lẽ của cải chỉ một ít người được hưởng, còn tình thân nghĩa thì lưu danh rộng khắp và lâu dài.
Thiên Chúa là Đấng Cứu độ chúng ta. Ngài cũng là Chủ tể của lịch sử và là Đấng sáng tạo muôn loài. Những quyền hành nơi trần gian từ bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải phục quyền Ngài, vì Ngài là Đấng tối cao. Vì vậy, từ bậc vua chúa đến những người bình dân, ai nấy đều phải sống thánh thiện ngay thẳng. Như thế, họ sẽ đẹp lòng Chúa và được Ngài ban ơn (Bài đọc II).
“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ”. Thiên Chúa là đấng độc tôn, có nghĩa là ta chỉ được thờ một mình Ngài. Không được phép đặt Thiên Chúa ngang hàng với của cải vật chất hay bất cứ thần linh nào. Sự trung tín trong việc phụng thờ Chúa là nét riêng của Do Thái giáo và cũng là của Kitô giáo chúng ta. Sự khó nghèo đích thực còn là tâm tình cậy trông và phó thác nơi Chúa, luôn luôn cảm thấy cần có sự che chở của Ngài. Nếu một giây phút ta bị Thiên Chúa lãng quên, thì ta sẽ không còn hiện hữu trên cõi đời. Nhờ sự hiện diện của Chúa, ta thấy cuộc đời có ý nghĩa và ta được đong đầy niềm vui.
.
Lm. Jos. DĐH.
Chuẩn mực của xã hội là làm gì để đạo tạo những con người vừa tài vừa đức, làm cách nào mà xây dựng một đất nước văn minh hiện đại, người người, nhà nhà, được sống trong yêu thương, bình đẳng, giầu mạnh cả tinh thần lẫn vật chất ? Thách thức lớn của bậc lãnh đạo không phải chỉ là tiền, quyền, mà còn là tính hợp lý khi sắp đặt, phân chia, đúng vị trí công tác kẻ được giao, người được nhận. Nhờ có bằng cấp, nhiều người được cơ cấu vào sứ vụ quan trọng ; nhờ kiến thức, kinh nghiệm được tích luỹ, cũng không ít người tự tin trong chức quyền đang nắm giữ, sát với câu thành ngữ: có thực mới vực được đạo. Đất mầu mỡ, trời mưa thuận, tình người được giao hoà trổ sinh ơn phúc.
Cọp chết để da, người chết để tiếng, muôn dân thiên hạ tồn tại nhờ bởi tình yêu thương, con cháu thành danh, thành tài, không thể thiếu vắng phúc lộc tổ tiên. Giáo huấn “khôn ngoan và trung tín” của Chúa Giêsu, luôn xác thực cho mọi đối tượng, khi mà người người ý thức việc sử dụng ơn ban để sống, để phát huy tình đồng loại cách hữu hiệu nhất. Khó khăn ở đời này ai cũng có, mơ ước được hạnh phúc thì ai chẳng đầy dư, quá khứ có thể chỉ là giấc mơ, tương lai lẽ nào là ảo tưởng, vậy thì hiện tại phải quan trọng, phải là cơ hội quyết định cho những ai đang muốn sống một cuộc sống có ý nghĩa. Đói nghèo cần được ấm no, ưu tư cần được giải thoát, tật bệnh sẽ mau được chữa lành, và bình an hạnh phúc thật sẽ không còn nằm trên lý thuyết nữa. Tất cả tuỳ thuộc vào niềm tín thác rất thiêng liêng và ý chí quyết tâm của ta.
Xác định mục tiêu ở đời là phải khôn ngoan, biết sử dụng lợi thế của mình, và nhanh chóng hành động có lý, có tình, nhất định là ưu tiên số một, không thể chậm trễ. Câu chuyện dụ ngôn về người quản lý bất trung năm xưa mà Chúa Giêsu kể, sẽ vẫn mãi là bài học căn bản, nhằm giúp ta chớ ảo tưởng “mình” là ông chủ. Sông có khúc, người có lúc, sống phải có tình, cư xử phải có nghĩa, vì “tôi” chỉ là quản lý ; “ông chủ” nhất định phải biết tôi đang trung tín ở mức độ nào. Tính nhạy bén của người quản lý khôn ngoan là biết xoay sở, kết quả làm việc tốt hay xấu bao giờ chẳng phơi bày khi đến giờ “chủ nhân” ấn nút gọi tính sổ. Bắn súng không nên phải đền đạn, hình phạt hay phần thưởng, vẫn mãi là ưu tư của người quản lý: mất chức, mất quyền, là lo lắng tự nhiên, nhưng điều khiếp sợ hơn là sợ bị cô đơn, là sợ không được đón tiếp ở tận cùng đầu cầu bên kia cuộc sống.
Nhiều người, nhiều thế hệ chúng ta đã đọc được câu tục ngữ: đời này ai dại ai khôn, sống mặc áo rách, chết chôn áo lành. Nhìn xa một chút, ta có thế thấy không ít những người đang đánh lừa cảm giác “sống vô tư”: làm hết sức, ăn nhậu nhiệt tình, và cư xử với anh em bạn hữu như chỉ có ngày hôm nay, mai tận thế ! Trong khi đó, cũng không thiếu những “đại gia hão”, lầm tưởng mình đại đức từ bi: lúc sống thì chẳng cho ăn, đến khi đã chết làm văn tế ruồi ! Chúa Giêsu thật chí lý khi đưa ra những lý lẽ làm thước đó cho hành động sống ân tình, ân nghĩa, của mỗi người: “Tôi nghe nói anh sao đó ? Hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay, anh không thể làm quản lý nữa”. Sống trên đời với ý tưởng khôn ngoan: mưu cầu hạnh phúc thì đúng, song “hiếu thảo” sai chỗ, rộng rãi hào phóng, thiếu phù hợp, cũng chỉ làm trò hề cho thiên hạ chê cười mà thôi. Đức Giêsu không khen, không chê, người giầu kẻ nghèo, nhưng Ngài có ý nhắc nhớ: người quản lý phải biết thế nào là trung tín, khôn ngoan, và biết sẽ có ngày ông chủ gọi mình tính sổ.
Hoàn cảnh, điều kiện, chắc chắn mỗi người mỗi khác, còn nhu cầu được an bình vinh phúc, ai ai cũng thao thức giống nhau. Tiềm ẩn trong ước muốn sâu xa, nếu mỗi người có tìm hiểu, khám phá, hẳn sẽ thấy ơn ban rất phong phú, hay còn gọi là hồng ân khá nhiệm mầu. Người tài giỏi, người giầu có, người chức quyền, tất cả đều hướng tới sự sống, đôi khi trực tiếp, gián tiếp, Đấng mà người ta gọi là Ông Trời, là Thiên Chúa, đang kêu gọi chúng ta bổ túc, giúp nhau sống đẹp, sống tốt, và giúp nhau cùng tiến tới hạnh phúc đời đời. Với niềm tin kitô giáo, tình yêu và hạnh phúc thật, chỉ xảy ra khi ta biết sử dụng nén bạc Chúa trao cách xứng hợp, gọi là trung tín, khôn ngoan, nếu không chỉ là hạnh phúc giả, là tên giầu có khờ dại. “Ai trung tín trong việc nhỏ, người ấy sẽ trung tín trong việc lớn”. Sử dụng tài trí thông minh, sống ơn ban thật nghiêm túc, chính là câu trả lời: “hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Amen.
.
Lm. Jos Tạ duy Tuyền
Người ta nói:“Đồng tiền là Tiên là Phật”. Nhưng có thật, nhờ có tiền mà họ thành BỒ TÁT cứu đời hay không? Thực tế, vì tiền mà người ta xấu đi rất nhiều !Đồng tiền đã làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian tham. Từ con người nết na thuỳ mị, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Xem ra đồng tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm “hư bột, hư hồ”. Xem ra không thể gọi đồng tiền là Tiên là Phật được, mà phải gọi là Ma, là Qủy. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành. Tiên-Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma qủy mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm cho con người tha hoá đạo đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp cao qúy của biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.
Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi. Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”. (Am 8:4-7).
Lời cảnh tỉnh của tiên tri Amos xem ra vẫn là lời nhắc nhở cho con ngừơi hôm nay. Bởi vì vẫn còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm tôi cho ma qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Vẫn còn đó những kẻ buônthần bán thánh nhân danh nhân nghĩa để biển thủ tư lợi riêng. Đồng tiền đã và đang làm cho xã hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì “tiền là trên hết”.
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thuơng và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn nơi. Như vậy, người quản lý làbiết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ anh em của mình, chứ không phải để vun quén cho bản thân.
Trong chuyện cổ Trung Hoa có câu chuyện kể rằng: Mạnh Thường Quân là người rất giàu có, tiền bạc dư thừa nên cho người ta vay mượn rất nhiều. Một hôm, ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ. Lúc sắp đi, Phùng Huyên hỏi:
– Tiền nợ thu được, ngài định mua gì không?
Mạnh Thường Quân đáp:
– Ngươi xem trong nhà ta còn thiếu gì thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Huyên gọi dân lại và bảo:
– Công nợ của các ngươi bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.
Nói xong, ông thu các văn tự lại và đốt đi hết.
Lúc về, Phùng Nguyên thưa với Mạnh Thường Quân:
– Nhà của tướng công châu báu đầy kho, gia súc đầy chuồng, tôi tớ đầy nhà, không còn thiếu thứ gì, ngoại trừ “ân nghĩa”. Vì thế, tôi trộm phép tướng công mà mua về.
Mạnh Thường Quân nghe nói thế, tuy không hài lòng lắm, nhưng cũng không quan tâm nhiều, vì tiền bạc châu báu trong nhà đều dư thừa cả.
Ít năm sau, Mạnh Thường Quân bị bãi nhiệm phải trở về sống ở đất Tiết. Dân đất Tiết nhớ lại ơn xưa nghĩa cũ, họ ra đón đầy dường. Thấy vậy, ông liền ngoảnh lại bảo Phùng Huyên:
– Trước kia tiên sinh vì ta mà mua “ân nghĩa”. “Ân nghĩa” đó giờ ta đã thấy.
Hômnay Chúa Giê-su cũng đang nói với chúng ta:“Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền bạc bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu” (Lc 16, 9).
Xin cho chúng ta biết sử dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để mua lấy bạn hữu nước trời ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Amen
.
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Có lẽ ngày kết sổ đời là ngày sợ hãi đối với con người. Ngày ấy cũng giống như ngày Jom Kepper (Ngày xá tội) của người Do Thái hăng năm vẫn thực hành để sám hối. Có lẽ ngày kết sổ, người quản lý bất lương này cũng liên quan cách giải quyết theo tính toán người đời mà không theo ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày Jom Kepper (Ngày Lễ Xá Tội):
Ngày lễ xá tội được ghi trong sách Lêvi, được ghi lại trong (Levi 15, 29 – 30): “”Tháng bảy, mồng mười tháng ấy, các ngươi sẽ hãm mình và không làm việc nào cả, người bản hương cũng như khách ngụ cư giữa các ngươi. Vì trong ngày ấy người ta sẽ làm phép xá tội trên các ngươi, để tẩy uế các ngươi: các ngươi sẽ được sạch trước nhan Yavê về mọi tội lỗi các ngươi đã phạm.”
Ngày lễ này năm nay được tổ chức vào ngày 8 – 9, tháng 10 năm 2019. Trong hai ngày đó họ không ăn uống, tắt hết mọi phương tiện truyền thông, vì là ngày hưu lễ. Họ suy gẫm sách Thánh, cầu nguyện, sám hối về tất cả những gi đã không hoàn thành trong việc khấn hứa và cả những sai lỗi. Cầu xin thành tâm để được tha thứ vì ngày lễ xá tội.
Biết mình cần điều gì trong thực tại này và để điều ấy tồn tại trong tương lai là điều cần thiết. Biết để điều chỉnh và biết để không rơi vào những sai lầm trong đầu tư vĩnh cửu.
Ngày kết sổ.
Người quản lý bất lương được khen theo tính cách người đời là biết tìm cách hạ cánh an toàn. Ghi lại số nợ của người chủ, không mất gì cho mình mà lại được nơi ẩn náu sau khi mất việc. Ngày xá tội như thế đã tự đánh mất chính mình trong ơn tha thứ. Sám hối trước ngày ra đi mời gọi trả lại sự công bằng đã bị đánh mất. Đáng lẽ là thời gian còn lại cần thiết để xin xá tội với lòng sám hối, người quản lý bất lương lại dùng cách để xâm lấn tài sản của chủ, tạo điều kiện cho người mắc nợ thoả lòng tham và anh ta được lại quả nhờ thương vụ đó.
Sắp xếp cho ngày cuối cùng cho cuộc đời mình như thế nào cho đúng nghĩa?
Đầu tư cho cuộc sống đời này như người quản lý khôn ngoan nhưng bất lương này. Là cách đầu tư dại khờ vì chẳng mang theo gì được khi ngày kết sổ đời đã tới.
Đầu tư cho chính mình thôi là một điều ngu ngốc. Tài chính, tiền của được ban cho là làm lợi cho anh chị em mình, như người Samaria nhân hậu, dùng tiền của, sức lực, thời gian để trợ giúp cho người bị nạn (Lc 10, 25 – 37).
Sách châm ngôn cho hay: “Như mặt đáp mặt trong nước, cũng vậy lòng con người đối với con người.” (Cn 27, 19). Các nhà chú giải cho rằng sở dĩ mặt soi mặt không soi bằng gương nhưng phải quỳ gối gần mặt nước mới thấy mặt mình. Hành vi quỳ gối diễn tả lòng khiêm hạ, cúi đầu nhận ra lỗi lầm hoặc như kinh hoà bình dạy: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Con người sống với con n gười là quan trọng, sau đó là với thiên nhiên thụ tạo. Sắp xếp tính sổ đời mình là cách xét lại những tương quan đó để có một gia tài không hư mất.
Ngày kết sổ thực hiện đi thực hiện lại trong đời sống là sự cần thiết cho một hành trình ra đi và không con trở về, Ngày chỉ còn hành trang vĩnh cửu tồn tại cùng mang theo.
Xin Chúa giúp con trung tín trong việc tiền của để trung tín trong việc phụng sự Chúa nơi anh chị em.
.
Bông hồng nhỏ
Trung thành là một đức tính tốt đẹp cho mỗi người. Người ta ca ngợi những anh hùng hiếu trung với nước, ca ngợi những tình bạn trung thành,… Người làm vua thích trọng dụng những trung thần nhiều tài nhiều đức, những nhà phú hộ cũng trọng dụng những người quản gia trung tín. Hôm nay, Thầy Giêsu đã khuyên dạy người môn đệ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13b). Lời mời gọi đó nhắc nhở mỗi người môn đệ hãy luôn trung tín với Thiên Chúa, vì Người là Đấng thành tín yêu thương.
Người quản gia trong câu chuyện mà Thầy Giêsu kể ra hôm nay là một người quản gia bất lương. Anh đã bất lương trong việc phung phí tài sản của chủ và trước khi chủ cất chức quản gia của mình, anh còn bất lương hơn trước. Anh suy tính và hành động hết sức khôn khéo là tự ý giảm nợ cho các con nợ của chủ để được họ đón rước sau khi bị cất chức (x.Lc 16, 1-7). Anh trở thành vị “ân nhân” của các con nợ nhờ hành động của mình. Bởi thế, anh được khen là người khôn khéo. Thầy Giêsu nhìn nhận: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Nếu người đời biết dùng tiền của để có được những đảm bảo cho đời này thì tại sao người môn đệ lại không biết dùng của cải bất chính để mua lấy hạnh phúc đời sau? Điều đó không có nghĩa là ta có thể lấy những gì không thuộc quyền sở hữu của ta, những gì của người này để trao cho người khác như người quản gia bất lương đã làm. Những của cải ta có được ở đời này sẽ là phương tiện tốt để ta có thể chia sẻ cho những người anh chị em. Chính khi chia sẻ với tình hiệp thông như thế và kêu gọi người khác làm là ta đã khôn khéo để mua lấy cho mình hạnh phúc vĩnh cửu. Khi biết sử dụng những của chóng qua và trung tín với những của cải của người khác là ta sẽ được Thiên Chúa ban cho của cải dành riêng cho ta. Đó là được trở nên chứng nhân tình yêu của Thiên Chúa, trở nên người Tông đồ đích thực của Chúa cho mọi người (x. Tm 2, 1-8).
Để trung tín với Thiên Chúa, tự sức ta, ta sẽ chẳng thể thực hiện được, nhưng nhờ ơn Chúa giúp và khi biết phó thác đời mình cho Thiên Chúa, ta có thể trở nên người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Như lời Thầy Giêsu đã khẳng định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ” (Lc 16, 13), ta cũng không thể “vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13). Cuộc sống cho ta những kinh nghiệm về sự trung thành và sự bất trung của ta với Thiên Chúa. Những lần xưng tội, ta đã dốc lòng chừa bỏ tội lỗi nhưng sau cùng ta lại vấp ngã. Chính khi tự dựa vào sức mình và mải mê tìm kiếm danh vọng, tìm kiếm của cải đời này, ta lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung tín, Ngài vẫn trung tín trong tình yêu dành cho ta. Ngài luôn luôn cho ta những cơ hội để trở về. Dần dần, Ngài vén mở cho ta một con đường đầy hy vọng. Đó là luôn trở về với chọn lựa căn bản của đời mình: Chọn Chúa trên hết mọi sự. Nhờ trở về với chọn lựa này mà ta luôn luôn có khả năng tiếp tục trung thành với Thiên Chúa. Mỗi ngày, nhờ bước theo sát dấu chân của Chúa Giêsu, ta được Ngài ban cho ơn trung thành với Thiên Chúa, để phụng sự Ngài suốt cả đời ta, “và dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, để cho tất cả để được ơn cứu độ, vì chính Thiên Chúa muốn cho ai nấy đều được cứu độ” (x. Tm 2, 1-6).
Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã dạy dỗ con, vì Chúa đã rất yêu thương con, Chúa đã muốn cho con được cứu độ. Xin ban cho con và cho những người môn đệ của Chúa ơn trung thành theo Chúa và luôn chọn “Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng con”. Con xin dâng cuộc đời con cho Chúa và tha thiết xin Chúa biến đổi con mỗi ngày để trở nên giống Chúa hơn. Amen.
.
Anna Cỏ may
“Quả thế, con cái ở đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8b).
Chúa Giêsu nói với các môn đệ về một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà mình. Ông đã mời anh đến và yêu cầu tính sổ. Sau khi nghe vậy, anh đã nhanh lẹ suy nghĩ, tính toán và đưa ra hành động là giảm bớt số nợ cho những người nợ ông chủ, hầu đến lúc anh bị đuổi sẽ có người đón anh về. Hành động của anh đã được ông chủ khen là khôn khéo, nhanh trí và nhanh lẹ để xử lý (x. Lc 16,1-8). Chúa Giêsu ước ao phải chi con cái ánh sáng là những Kitô hữu cũng nhanh lẹ và khôn khéo trong việc đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hề hư nát. Ngài không ngừng giảng dạy và trao ban cho tất cả mọi người về cách khôn khéo và đường nhanh lẹ để đạt được điều đó. Ngài nói đến việc sử dụng tiền của thế nào để phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ rước mình về (x.Lc 16,9). Tiền của là phương tiện nuôi dưỡng cho mình và mọi người ở đời này, nhưng cũng là phương tiện cho mình và mọi người đạt đến ở đời sau khi mỗi người cùng biết chia sẻ cho nhau. Đức Cha Lambert, Đấng sáng lập dòng Mến Thánh Giá đã đem tài sản mình có góp vào công cuộc truyền giáo trong việc hỗ trợ, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện. Ngoài ra, ngài chia sẻ tài sản cho người nghèo khổ để đem niềm vui cho mọi người ngay cả những người ít thiện cảm với ngài. Ngày nay, cũng không ít người đem tiền của mình có để giúp trẻ em nghèo, người khuyết tật… Sự chia sẻ đó không tự nhiên họ thực hiện được. Đâu đó, họ cảm nhận và nhìn thấy được hạnh phúc đích thực đang ở đây.
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi hãy khôn khéo và nhanh lẹ đi tìm nơi ở vĩnh cửu và tài sản không hư nát trong Thiên Chúa và qua tha nhân. Nhờ đó, chúng ta trở nên những con cái ánh sáng khôn khéo và nhanh lẹ. Mỗi người chúng ta không thuộc về thế gian vì chúng ta đã được cứu chuộc nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.
“Lạy Chúa, xin giúp con xét lại đường lối con đi và giúp con quay gót trở về cùng thánh ý Chúa. Xin giúp con nhanh lẹ chứ không trì hoãn tuân theo mệnh lệnh Ngài” là chia sẻ những gì mình có cho mọi người. Để con được sống hạnh phúc và trở nên con cái ánh sáng như lòng Chúa ước mong. Amen.
.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Có lẽ, trong cuộc sống, tiền là từ mà mỗi ngày chúng ta nói nhiều nhất. Ngày nào chúng ta cũng nói đến tiền. Vì thế, có người định nghĩa: “Con người là con vật miệng luôn kêu tiền tiền.”
Sự kiện này cho thấy tiền bạc đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của chúng ta. Vì thế, người ta nói rằng: “Có tiền mua tiên cũng được.” Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về thói đời: “Còn tiền còn bạc còn đệ tử. Hết cơm hết gạo hết ông tôi.”
Quả thế, tiền bạc có một sức mạnh kinh khủng và là một trong những phương tiện giúp chúng ta sống xứng đáng với nhân phẩm, sống có ý nghĩa và hạnh phúc. Tuy nhiên, tiền bạc cũng có thể là thứ cám dỗ lớn nhất khiến nhiều người làm mọi cách, bằng mọi giá để sao có nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý.
Để hướng dẫn chúng ta có một thái độ đúng đắn đối với tiền của, Chúa Giêsu hôm nay kể dụ ngôn về viên quản lý bất trung. Đây là một dụ ngôn hay nhưng lại khó giải thích. Có lẽ cái hay là cái khó, mà cái khó mới ló cái khôn. Các nhà chú giải Kinh Thánh cho rằng dụ ngôn này là một “crux interpretum” – thập giá để giải thích. Chúng ta cố gắng giải thích dụ ngôn về viên quản lý để hiểu sứ điệp Lời Chúa hôm nay.
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn mua gì không?” Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua.” Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: “Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả.” Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: “Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.” Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước.”
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian khổ. Câu chuyện này giúp ta hiểu dụ ngôn trong Tin Mừng.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu văn hóa của Do Thái về việc quản lý. Người quản lý thời đó không được trả lương, nhưng được chủ giao quyền để quản lý tài sản. Nếu ông không quản lý cách ngay thẳng hoặc thua lỗ, thì chủ có thể sa thải ông.
Chúa Giêsu nói đến trường hợp này, người quản lý có vấn đề nên chủ tính sẽ truất phế ông. Ông bắt đầu gọi con nợ đến viết lại biên lai, để sau này người ta rước ông về.
Chúa Giêsu không khuyên chúng ta học sự lưu manh và lừa lọc của ông ta, nhưng học nơi ông là biết khôn ngoan tận dụng mọi hoàn cảnh, biết dùng tiền của để xây dựng các mối tương quan bạn bè và nhất là để tìm kiếm hạnh phúc đời đời.
Qua đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta bài học phải biết sử dụng của cải. Việc sử dụng của cải có ba mức độ:
1- Biết sinh lợi
Mức độ thứ nhất là biết sinh lợi những gì Chúa ban. Của cải Chúa ban là một hồng ân. Nếu Chúa ban cho chúng ta có của cải thì chúng ta phải biết sinh lời nó. Dụ ngôn về những nén bạc Chúa giao cũng ám chỉ điều đó. Phải làm sinh lời của cải để có thể làm giàu cho gia đình, xã hội. Dùng tiền bạc để tạo nên việc làm, phát triển nghề nghiệp, mang lại lợi tức cho đời. Chúng ta hãy làm giàu cách công chính trước mặt Thiên Chúa.
2- Biết xây dựng
Mức độ thứ hai là biết dùng tiền của để xây dựng cuộc sống hạnh phúc hơn, nhân bản hơn. Bởi lẽ, người ta nói: có tiền là chuyện kinh tế, nhưng tiêu tiền là chuyện của văn hóa. Nghĩa là biết dùng tiền của để sống cho có tình có nghĩa.
Có người tiền nhiều nhưng chỉ bỏ trong ngân hàng, trong khi cha mẹ già bệnh tật đau yếu mà không bao giờ giúp đỡ.
Có người túi tiền đầy, nhưng tấm lòng thì hẹp và đóng lại trước những nỗi đau của người khác.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải biết dùng tiền của để đầu tư cho con cái, đào tạo thế hệ trẻ và phát triển các tài năng.
3- Để vào Nước Trời
Mức độ thứ ba cao hơn là dùng tiền của mua Nước Trời.
Triết gia Gariel Marcel phân biệt hai phạm trù: có và là. Chữ “có” bao gồm của cải, sức khỏe và tài năng. Tất cả những điều này là phương tiện để giúp chúng ta sống chữ “là,” nên người hơn, nên thánh thiện hơn. Nghĩa là dùng tiền của để sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Không tôn thờ tiền bạc, vì nó là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu. Tiền bạc chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích. Nếu chúng ta coi tiền bạc là trên hết, khi đó bậc thang giá trị bị đảo lộn, các giá trị đạo đức, luân lý và nhân phẩm trở thành thứ yếu. Chúng ta có thể đánh đổi tất cả để có tiền. Khi đó, tiền bạc trở thành thảm họa cho chúng ta.
Chúa Giêsu cảnh báo: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16,13). Khi có tiền của, chúng ta biết chia sẻ với người nghèo khổ, giúp đỡ những ai gặp khó khăn túng thiếu. Sống bác ái và chia sẻ những gì mình có với người khác là con đường dẫn chúng ta vào Nước Trời. Như Chúa dạy, khi Ta đói các người cho ăn, khi Ta khát các ngươi cho uống… Hãy vào mà hưởng niềm vui với chủ ngươi (Mt 25,25-30).
Cho nên, hãy dùng của cải để sống cho có tình nghĩa, nhân ái và tìm kiếm hạnh phúc thiên đàng mai sau. Amen!
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Một người phú hộ giầu sang,
Có người quản lý, xa đàng thất thu.
Tiêu xài phung phí thiếu bù,
Đến khi tính sổ, dự trù trong kho.
Sợ rằng sa thải, nên lo,
Kêu hai con nợ, sửa cho hợp đồng.
Chi bằng rút bớt của công,
Ghi vào văn tự, sổ hồng phân đôi.
Hai bên có lợi đền bồi,
Chủ khen đầy tớ, tham mồi khôn ranh.
Bất lương hành động thật nhanh,
Dối gian tính toán, tìm danh sau này.
Nhỡ cơ đón tiếp có ngày,
Người đời khôn khéo, cơ may trong đời.
Các con học cách ở đời,
Dùng tiền gian dối, sinh lời đời sau.
Cuộc đời lữ thứ qua mau,
Giữ lòng trung tín, giúp nhau sống đời,
Gắng công chiếm lấy Nước Trời,
Làm tôi Thiên Chúa, ngàn đời hiển vinh.
Cậu truyện trong bài phúc âm không xa lạ với cách suy nghĩ và hành xử của chúng ta. Chúng ta với trí khôn biết tính toán và sự lanh lợi đã lợi dụng nhiều cơ hội để làm lợi cho riêng mình. Chúng ta nghe dụ ngôn về người quản lý bất lương nhưng hành động khôn khéo sau khi viết lại văn tự cho vay. Anh quản lý này đã khéo léo sửa lại văn tự có lợi cho anh trong cuộc sống đời tạm trong tương lai, nhưng lại thiệt thòi nhiều cho ông chủ.
Truyện kể: Có hai cậu bé chơi ở bãi đậu xe, nhặt được chiếc ví của người đàn bà đánh rơi. Trong ví có tên, địa chỉ và tờ giấy 10 đô la. Một trong hai cậu bé nói: Chúng ta không thể giữ ví tiền lại. Nhưng trước khi trả lại cho bà ta, chúng ta hãy đổi giấy 10 đô ra tiền lẻ, tờ một đô. Chúng ta biết ý đồ của hai cậu. Hai cậu bé khéo xoay sở để tính lợi, kiếm tiền thù lao.
Anh quản lý bất lương đã phung phí của cải vào những trương mục không tốt. Tiền bạc làm mờ mắt con người. Anh đã không ngay thật trong việc quản lý nên bị chủ cách chức. Chúa Giêsu đã nhiều lần phê phán người giầu có chỉ biết dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ. Họ chỉ tìm những vui thích hiện tại mà, không quan tâm đến định mệnh đời sau. Thu tích của cải đời này mà không làm giầu trước mặt Chúa là khờ dại.
Thật ra, Chúa không lên án người giầu có hay tẩy chay họ, Chúa vẫn được họ ân cần tiếp đón và dùng bữa với họ. Chúa chỉ nặng lời kết án những người ích kỷ chỉ bám víu vào tiền bạc và cách sử dụng đồng tiền của họ. Tiền tự nó không xấu, xấu hay tốt tùy ở sự nhận thức và thái độ của người xử dụng nó. Tiền sẽ là phương tiện tốt, có thể dùng để làm điều thiện và giúp đỡ kẻ khốn cùng. Chúa nói rằng: Các con hãy dùng tiền của gian dối mà mua nước trời. Tiền gian dối không phải là tiền ăn trộm, ăn cướp cũng không phải là tiền mua bán đồ quốc cấm. Tiền gian dối là tiền của thế gian. Chúng ta biết rằng cứu cánh không biện minh cho phương tiện. Chúng ta không thể dùng tiền phi nghĩa mà giúp người nghèo.
Ông quản lý dùng tiền để mua nhân nghĩa, nhưng chỉ là nhân nghĩa đời tạm này. Chúng ta có thể dùng tiền mua Nước Trời. Lấy cái tạm thời biến thành vĩnh cửu. Đó chính là sự ý thức, lòng khao khát và chia xẻ yêu thương trong việc xử dụng đồng tiền. Cuộc đời trần thế là chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu. Hãy dùng tiền giấy đổi tiền thật và dùng tiền thật mua Nước Trời . Công qủa chúng ta làm ra do việc bác ái yêu thương, chúng ta sẽ được an hưởng, được hạnh phúc và an vui muôn đời trong nước Chúa.
.
THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI TRƯỚC TIỀN CỦA
Lm. Giuse Lê Danh Tường
Dường như cả xã hội hôm nay đang đảo điên lao vào vòng xoáy tìm kiếm tiền của. Ta phải có thái độ nào đối với tiền của mà ta đang có đây? Lời Chúa trong Chúa nhật XXV Thường niên C cho ta câu trả lời về thái độ của con người đối với của cải.
Người quản lý thời Chúa Giêsu bên Do thái có quyền thay mặt ông chủ để quyết định tiền lương cho công nhân. Nếu người quản lý làm thiệt hại tài sản của ông chủ thì luật pháp cũng không buộc ông phải đền trả mà chỉ có thể bị ông chủ sa thải thôi. Sau khi nhận được giấy sa thải, viên quản lý phải tính sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện cho chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ.
Trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể (Lc 16, 10-13) có sự biến đổi nơi thái độ của người quản lý đối với tiền của. Người quản lý trong dụ ngôn bị ông chủ sa thải vì ông đã phung phí tiền bạc của ông chủ. Ông đã tích cóp tiền của cho riêng mình, biển thủ của chủ. Ông thật đáng tội. Thế nhưng đứng trước sự sa thải của chủ, giờ đây ông đã thay đổi thái độ. Ông không tìm cách thu vén cho mình nữa nhưng ông đã tìm cách trao tiền cho người khác. Ông đã biết lấy đồng tiền để mua lấy bạn hữu. Ông không lợi dụng tình người để tích trữ tiền của nữa. Nhưng ông đã lợi dụng tiền của để tích trữ tình người. Và nhờ thái độ biến đổi ấy mà ông được ông chủ khen là khôn khéo.
Kết luận dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra bài học: “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”.
Sự an nghỉ đời đời, vinh quang trong Nước Trời, hạnh phúc trường cửu sau cái chết mới là cùng đích của cuộc đời con người. Tiền của chỉ là phương tiện giúp con người trên đường tiến tới Nước Trời. Tiền của được trao vào tay con người và con người có nghĩa vụ quản lý nó mà thôi. Khéo dùng tiền của thì vững bước trên đường đời, vụng dùng tiền của thì đường đời tăm tối.
Con người quản lý tiền của. Con người không phải là ông chủ của tiền của nên bất cứ lúc nào con người cũng có thể bị tước hết tiền của. Dù có giàu sang quyền quý đến đâu đi nữa thì đứng trước cái chết, không ai còn có thể sở hữu được tài sản nữa. Bởi con người không có toàn quyền sở hữu tài sản mãi mãi, nhưng nó chỉ là người quản lý tài sản trong vài chục năm là cùng.
Chỉ là người quản lý, nên có thể người này được trao cho ít, người kia được trao cho nhiều. Người được trao cho nhiều thì có nghĩa vụ làm lợi nhiều. Và ông chủ là Thiên Chúa có thể đòi ta phải giải trình cả lời lẫn vốn bất cứ lúc nào. Nếu ta chỉ biết thu tích của cải và để vào một chỗ thì lấy đâu ra lãi. Và ông chủ không những sẽ không trao cho ta thêm vốn nữa mà còn lấy đi luôn cả những gì ta đang có.
Thế nhưng tôi phải làm lãi cái gì? Là người quản lý khôn khéo sẽ biết lấy tiền của để lo phần rỗi linh hồn mình. Chúa không dạy ta đi biển thủ của công để chia cho người khác. Làm thế là bất công với cả xã hội. Nhưng Chúa muốn ta có thái độ chính xác đối với của cải trần gian và biết đâu là giá trị thực sự của nó: Tiền của không là cùng đích, nhưng nó chỉ là công cụ, là phương tiện giúp ta đạt tới cùng đích là Nước Trời.
Thái độ như thế đối với tiền bạc không giống với thái độ thường tình của loài người. Tiên tri Amos xưa đã lên án những người vì lợi ích cho túi tiền của mình mà họ sẵn sàng tìm cách tiêu diệt người khác. Để có được lợi nhuận, họ sẵn sàng chà đạp lên đồng loại bất chấp mọi thủ đoạn. Thái độ ấy đem lại cho họ nhiều tiền, nhiều của. Đồng tiền trở thành ông chủ của họ. Lẽ dĩ nhiên, họ sẽ gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của họ. Vì họ không thể vừa làm tôi tiền bạc, vừa làm tôi Thiên Chúa; Vì họ không thể tiếp tục thực hiện cách thức kiếm tiền của mình nếu họ chấp nhận có Thiên Chúa hiện diện bên họ.
Đứng trước một xã hội đầy rẫy sự tham ô, hối lộ, một xã hội đang chạy theo nền kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận tiền của làm tiêu chuẩn để đo lường mọi giá trị, con cầu xin Chúa hằng soi đường chỉ lối để con biết lựa chọn con đường đưa tới vinh quang Nước Trời, biết lựa chọn thái độ phù hợp với tiền của. Nguyện xin Thần Khí Chúa giúp con biết quản lý tốt những gì Chúa trao phó cho con, biết dùng tiền bạc để mua lấy bạn hữu, mua lấy tình người, mua lấy cho mình sự thanh sạch, sự bình an và thanh thản trong tâm hồn để sẵn sàng chờ ngày Chúa đến.
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Sống ở trần gian là một đấu tranh không ngừng để sinh tồn. Có những việc làm cho con người giằng co không biết chọn lựa.Thường con người xây đắp cái gì có thể thấy được, dễ đụng chạm, dễ sờ mó. Có những sự việc khó lường trước khó thấy được. Những chuyện phù hoa, diễm lệ, những cái hào nhoáng bên ngoài dễ làm cho con người choáng ngập. Hầu hết khi sống trong một thế giới văn minh, người ta ít nghĩ tới những điều xa xôi, sự sống đời sau vv…Có những người cho sự sống vĩnh cửu là ảo tưởng, là không có thật. Họ xây dựng, vun đắp cái gì mau qua…Tuy nhiên, xét cho cùng người khôn là người biết xây đắp cuộc đời này với sự khôn ngoan, với ánh sáng dọi soi của Thiên Chúa vì cuộc đời này chuẩn bị và dẫn đưa con người đến sự sống mai sau…
Vâng, sau khi đã kể ra dụ ngôn về người quản lý khôn khéo. Đích thực,Chúa Giêsu phàn nàn, chê trách vì chúng ta là con cái của sự sáng lại không khôn khéo bằng con cái thế gian bởi vì họ chỉ biết có thế gian này !Người quản lý khôn khéo vì ông dám đối diện với thực tế của cuộc đời. Ông biết mình sau khi bị sa thải sẽ không làm vườn, cuốc đất, buôn bán, kinh doanh. Ăn mày, ăn xin thì ông tủi nhục vì ông đã từng là quản lý oai phong, có quyền, có thế của ông chủ. Nên ông đã khôn khéo kiếm cách để khi bị sa thải, sẽ có người còn nghĩ tới ông, mang ơn ông vv…Chúa Giêsu dạy chúng ta phải khôn ngoan, lanh lợi như ông quán lý chứ đừng lươn lẹo, đừng xảo trá. Khôn khéo để xây dựng một tương lai tốt hơn, một cuộc đời đẹp hơn, đặc biệt tìm cho mình một cuộc sống vĩnh cửu.
Có những người cho rằng đời sau xa vời quá…Có ai đã thấy đời sau, có ai đã sống cuộc sồng vĩnh cửu. Cuộc sống mai sau, đời sống đời đời quả không có gì hấp dẫn, có gì thu hút, người ta chỉ hăm hở lao vào việc làm giàu, tìm kiếm hưởng thụ, chạy theo những gì chóng qua ở đời này. Sự giằng co của con người, của chúng ta nằm ở chỗ, chúng ta có biết khôn khéo để quyết định những gì cho cuộc sống hôm nay và ngày mai hay không ?
Chúng ta để Chúa làm chủ và hướng dẫn cuộc sống của mình.Tiền bạc, của cải, vật chất là phương tiện để giúp con người, giúp chúng ta sống cuộc sống hôm nay cho tốt đẹp. Chúa không cấm chúng ta giầu có, không bần cùng hóa cuộc sống của chúng ta. Chúa muốn chúng ta biết dùng của cải, vật chất cho phù hợp với cuộc sống của chúng ta vì quê hương của chúng ta ở trên trời. Đời sống trần gian này chỉ là tạm bợ, chỉ là mau qua. Do đó, chúng ta đừng quá ham mê của cải ở đời như ông phú hộ giầu có mà quên đi sự sống vĩnh cửu đang chờ đón chúng ta. Quả vậy, Chúa đã nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ “. Chúa muốn chúng ta, muốn con người dứt khoát chọn Chúa. Tuy Chúa ban cho chúng ta quyền tự do chọn lựa ơn cứu độ hay từ chối ơn cứu độ. Từ chối Chúa hay nhận Chúa, đó là sự tự do của con người,của mỗi người chúng ta.
Qua đoạn Tin Mừng Lc 16,1-13, Chúa Giêsu dạy chúng ta, dạy con người, dạy nhân loại :
1.Chúng ta phải biết khôn ngoan, khôn khéo lanh lợi lo lắng tương lai cho đời sau.Chúa muốn chúng ta khôn khéo dùng tiền của làm việc nghĩa, chia sẻ hầu co được Nước Trời. Sự khôn khéo không phải là lắt léo, lươn lẹo nhưng khôn ngoan theo ý Chúa : dùng khả năng để làm giầu cho Chúa như người trao năm nén làm lợi năm nén khác, người ba nén làm lợi thêm ba nén khác.
2.Chúng ta không được làm tôi hai chủ hoặc ai liều mất mạng sống mình vì Chúa thì sẽ cứu được nó vv…
Lời của Chúa thực đáng cho chúng ta suy nghĩ và thực hành cách sống.Chúng ta có để cho Chúa làm chủ đời ta hay chúng ta thích thờ Ma Môn , Tiền của. Để Chúa hướng dẫn, làm chủ chúng ta sẽ có đời sống vĩnh cửu, sự sống đời đời…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trung thành với việc nhỏ để chúng con được trao việc lớn. Xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con chỉ một lòng yêu mến Chúa và thương yêu đồng loại. Xin cho chúng con biết khôn khéo để khôn ngoan dùng tiền của chóng qua ở đời này mà mua Nước Thiên Chúa.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Người quản lý bất lương đã làm gì ?
2.Khôn khéo theo ý Chúa là gì ?
3.Tại sao Chúa không thích sự lắt léo, lươn lẹo ?
4.Vật chất có cần không ?
5.Chúa dạy chúng ta dùng của cải thế nào cho phù hợp ?
.
CHUYỂN ĐỔI CỦA CẢI PHÙ DU THÀNH KHO TÀNG VĨNH CỬU
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Tất cả những gì ta có là do Chúa tạm ứng cho ta
Thân xác của ta không do ta mà có, mà là do Chúa ban. Mai đây Chúa sẽ lấy đi, ta không thể giằng lại được. Đến ngày Chúa gọi ta về thế giới bên kia, ta không thể nói: “Con không đi! Con không đi! Con phải ở lại đời này, con đang quyến luyến đời này, không đi đâu hết!”
Sức khỏe của ta không do ta mà có, nhưng là do Chúa ban. Về phần ta, lúc nào ta cũng muốn mình được khỏe mạnh, cường tráng, muốn sống lâu trăm tuổi chưa vừa; ngoài ra, ai cũng rất sợ đau ốm, sợ ung thư, sợ đột quỵ… Nhưng không ai có thể duy trì sức khỏe trong tình trạng tốt mãi được. Nay mai, ta phải già đi, phải suy yếu đi, phải mắc hết bệnh này tới bệnh khác, phải nằm liệt giường, phải rên la đau đớn… chẳng còn chút hơi sức nào!
Ngôi nhà của ta, xe cộ, vàng bạc châu báu và rất nhiều đồ dùng của ta… hôm nay, chúng còn thuộc về ta, nhưng mai đây, tất cả những thứ đó đều không còn là của ta nữa mà phải sang tay cho người khác.
“Của vào nhà khó như gió vào nhà trống”
Đúng vậy, sức khỏe, của cải, vàng bạc, châu báu … đến với ta cũng như luồng gió lùa vào gian nhà trống, chúng chợt đến rồi chúng lại bay đi. Không ai có thể nhốt được gió cho riêng mình. Cũng thế, không ai ôm ghì lấy sức khỏe, tài sản, vàng bạc châu báu cho mình mãi được. Chúng chợt đến rồi chúng chợt đi. Ai khư khư giữ lấy chúng là chưa khôn ngoan sáng suốt.
Tốt nhất là biết cấp tốc chuyển đổi chúng thành tài sản vĩnh cửu cho mình.
Công nghệ năng lượng gió
Hiện nay, trên đất nước ta có nhiều tua-bin (turbine) gió được lắp đặt nhiều nơi. Những cánh quạt của tua-bin vươn ra đón lấy những làn gió thoảng qua rồi biến chúng thành nguồn năng lượng hữu ích cho muôn người, trước khi để gió thổi vèo qua nơi khác. Biến gió thành điện là một công nghệ tuyệt vời.
Vậy thì chúng ta cũng nên ứng dụng “công nghệ” này vào cuộc sống của mình, bằng cách đón lấy của cải chóng qua đời này, như những cánh quạt của tua-bin đón gió, rồi biến chúng thành kho tàng thiêng liêng cho cuộc sống mai sau.
Người quản lý trong Tin mừng hôm nay đã nắm được “công nghệ” này. Khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, anh nghĩ ra một diệu kế:
Anh khôn khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị sa thải, những con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su dạy ta: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” hay nói khác đi, hãy dùng của cải ta có hôm nay mà mua lấy một chỗ ở trên thiên đàng.
Đó là một chọn lựa khôn ngoan, vì cho dù hôm nay, ta cố sức bám trụ vào mặt đất nầy, bám víu thật chắc vào những tài sản của mình, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn… thì mai đây, chúng ta cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn lốc dữ…
Tất cả những gì ta mua sắm được hôm nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì ta đang sở hữu sẽ thuộc về người khác… Rốt cuộc, ta chẳng còn gì !
Vì thế, người khôn ngoan là người biết chuyển đổi của cải chóng qua thành gia tài vĩnh cửu trên trời, y như tua-bin của các giàn điện gió chuyển đổi những làn gió thoảng qua thành năng lượng hữu ích cho muôn người.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho Lời khôn ngoan của Chúa đánh thức chúng con khỏi quyến luyến của cải đời này, nhưng biết khôn ngoan đánh đổi những tài sản phù du để thu về những lợi ích vĩnh cửu.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Mọi nơi, mọi thời, con người luôn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhiều người vẫn thường nghĩ rằng: hạnh phúc chỉ có nơi tiền bạc, của cải, danh vọng, quyền thế. Đã có một thời Mussolini, Nhật Hoàng, Hitler tưởng rằng thế giới sẽ nằm gọn trong trục tay ba của họ, nhưng họ đã gục ngã thảm bại và lịch sử vẫn xoay theo chiều của nó. Đã có lúc Napoléon Đại đế tưởng rằng sẽ thâu tóm toàn thể Âu châu trong bàn tay bách chiến bách thắng của ông, nhưng rồi ông đã chết cô đơn trên đảo Corse, và Âu châu vẫn xoay theo chiều của nó. Như viên đá ném xuống dòng sông, làm lay động mặt nước trong chốc lát, và rồi dòng sông vẫn im lìm xuôi chảy…Mọi sự đều qua đi… Sách Giảng viên đã viết : “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,2). Quả là: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy. Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười” (Cao Bá Quát).
Chúa Giêsu đã từng phê phán những người giàu chỉ biết cậy dựa vào tiền của và tìm hưởng thụ là kẻ ngu xuẩn vì chỉ nhìn cái hiện tại chóng qua mà không quan tâm đến định mệnh cuối cùng và không biết tìm hạnh phúc vững bền (Lc 12,13-21). Thu tích của cải đời này mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa thì quả là ngu xuẩn vì “không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm” (Lc 12,15); vả lại sự vướng bận vào của cải cản trở việc tìm kiếm Nước Chúa là cõi phúc thật (x.Lc 18,18-30). Vậy đâu là sự khôn ngoan đích thực? Làm sao có được sự giàu có trước mặt Thiên Chúa?
Tin mừng Chúa nhật hôm nay,Chúa Giêsu sau khi kể dụ ngôn người quản lý bất lương đã kết luận: “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. Chúa dạy các môn đệ phải sống trung tín. Một người không trung thực về tiền bạc thì không thể là một người ngay thẳng và đáng tín nhiệm. Chúa căn dặn: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng nó lại là một ông chủ xấu. Chúa dạy chúng ta phải biết khôn ngoan trong việc sử dụng tiền bạc.Nếu “con cái đời này” biết cách làm lợi cho tương lai, thì tại sao “con cái sự sáng” lại không biết sử dụng của cải Chúa ban trong hiện tại để lo cho phần rỗi đời đời của mình sau này ?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu cho mình, thì tại sao chúng ta lại không biết chia sẻ của cải chóng qua đời này cho tha nhân để mua lấy bạn hữu, để sau này chính họ sẽ đón rước chúng ta vào Nước Trời đời sau ?
- Khôn Khéo Con Cái Đời Này
Khôn khéo trong những việc làm của người quản lý bất lương:
– Khôn khi ăn cắp tài sản của chủ mà không bị phát hiện, đến khi có người tố cáo, chủ mới đuổi việc.
– Khôn vì anh ta biết giới hạn của mình: cuốc đất không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
– Khôn vì biết xoay xở, tận dụng chút quyền quản lý cuối cùng để có một chút bảo đảm cho tương lai. Gọi các con nợ của chủ đến làm văn tự lại: 100 thùng dầu ô-liu, viết lại 50 thôi; 1.000 thùng lúa viết lại 800 thôi… hai bên cùng có lợi mà.
– Khôn khi biết lo xa: liệu sao để khi mất chức thì có người tiếp đón, khi về hưu non thì đã có của dư của để, có nhà cao cửa rộng, có vườn tược…
Hình ảnh của người quản lý khôn khéo bất lương này đầy dẫy trong xã hội hôm nay khi mà tham nhũng đã trở nên “quốc nạn”. Ông Fujimori đã làm tổng thống nước Péru đến nhiệm kỳ thứ 2, vì tham nhũng nên đã trốn chạy về Nhật. Ông Estrađa tổng thống Philippines, phải từ chức vì tham nhũng. Ông Wahid, tổng thống Indonesia sang Mỹ tỵ nạn vì tham nhũng. Việt Nam cũng đang điêu đứng vì quốc nạn tham nhũng… Người ta “hy sinh đời bố để củng cố đời con”, có chút địa vị quyền lực thì lo thu ven cho cá nhân, tham ô, móc ngoặc. Sợ bị bại lộ, sợ bị tố cáo, sợ bị cách chức, sợ bị “về hưu non”, nên khôn khéo mua lấy bằng cấp, mua đất xây biệt thự, lập trang trại… Người ta tìm mọi cách để có tiền của, có địa vị, có quyền lực, bất chấp tiếng nói lương tâm.
Nhìn vào thực trạng xã hội hôm nay sẽ thấy người đời thường chạy theo tiền bạc, của cải, địa vị, chức quyền. Trong cuộc chạy đua đó, con người đã để cho tiền của làm chủ đời sống của họ, hướng dẫn và quy định cả cách sống và tâm tình của họ. Khi đó, Thiên Chúa, lương tâm, nhân cách bị gạt ra khỏi tâm hồn họ. Tiền của, danh vọng là thần tượng và họ làm bất cứ việc gì dù trái với lương tâm, với luân thường đạo lý, với công bình bác ái, miễn là càng ngày họ càng giàu có càng thăng chức. Lòng tham không bao giờ thỏa mãn. Tham vọng của con người không bao giờ cùng.
Các ngôn sứ thời Cựu ước vẫn thường chỉ trích những thói tham lam, lọc lừa và nặng lời kết án những người giàu bất công, áp bức, khinh dễ kẻ nghèo. Vào thế kỷ VIII tcn, Israel sống thời kỳ thịnh vượng dưới triều Giêrôbôam II. Do sự phồn thịnh ấy mà người ta sinh hư đốn: bon chen, tham lam, tranh giành tiền bạc của cải bằng đủ mọi hình thức bất công: giàu hiếp đáp nghèo, dùng tiền mua lương tâm, địa vị; người giàu chỉ biết ích kỷ hưởng thụ mặc cho dân nghèo đói rách cơ cực… Ngôn sứ Amos kịch liệt lên án. Ông quả xứng danh là nhà ngôn sứ của sự công bằng. Bản cáo trạng của ngôn sứ đối với những người quyền thế, giàu sang bất công vẫn luôn vang vọng và có hiệu lực cho mọi thế hệ.
- Khôn Ngoan Con Cái Chúa
-Khôn ngoan của con cái sự sáng là luôn hướng về Thiên Chúa và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc của cải không là điểm tựa. Vật chất không là cứu cánh mà chỉ là phương tiện. Con cái sự sáng vừa say mê cuộc đời này vừa say mê vĩnh cửu. Giữa cái mau qua họ tìm gặp vĩnh cửu, họ làm việc vui chơi như mọi người, nhưng họ luôn để Thiên Chúa đi vào toàn bộ cuộc đời họ.
– Con cái ánh sáng khôn ngoan sống chân thật và tín trung. Chân thật trong lời nói, trong tư tưởng, trong hành động; thực tâm thật tình trong cư xử; thật hiếu hạnh trong gia đình; thật tín nghĩa ngoài xã hội; thực trung thành trong niềm tin. Trung tín sống đức tin, trung tín trong lời hứa, có tinh thần trách nhiệm cao, trung tín trong việc nhỏ cho đến việc lớn. Trung tín với lời hứa Bí Tích đã lãnh nhận. Người chân thật là người trung tín với Thiên Chúa và anh em mình. Bởi vì Thiên Chúa là sự thật, và “chỉ có sự thật mới giải thoát anh em”.
– Khôn ngoan của con cái Chúa là khôn ngoan Thập Giá: “Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hylạp kiếm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô chịu đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù Dothái hay Hylạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” ( 1 Cr 1, 22-25 ). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Không ai có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà thương chủ nọ”. Không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc. Chúng ta tự hỏi chủ nào đang thống lĩnh đời tôi ? Ước gì tôi luôn tự do, chọn lựa làm tôi cho Chúa mà thôi.
- Cửa Sổ Hoặc Tấm Gương
Một người Dothái giàu có nhưng rất keo kiệt đến gặp một vị giáo trưởng để xin một lời hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Vị giáo trưởng đưa anh ta đến bên cửa sổ và hỏi: “Ông hãy nhìn qua cửa sổ và cho tôi biết ông thấy gì.” Không một chút do dự, người giàu có trả lời: “Tôi thấy nhiều người đi qua đi lại.” Sau đó vị giáo trưởng bảo người giàu có quay mặt vào trong nhà và nhìn vào một tấm gương treo trên tường. Rồi ông cũng đặt câu hỏi tương tự: “Nào, bây giờ thì ông thấy gì trong tấm gương ?” Người giàu có liền trả lời: “Dĩ nhiên tôi chỉ thấy tôi.” Bấy giờ vị giáo trưởng mới rút ra một bài học. Ông nói: “Này nhé, tấm gương soi mặt được làm bằng kính. Kính được phủ ở phía sau bằng một lớp bạc mỏng. Bao lâu lớp bạc mỏng còn dính chặt đằng sau tấm kính thì nhìn vào đó ông sẽ không còn thấy người nào khác nữa mà chỉ thấy có mình ông thôi. Trái lại khi nhìn qua tấm kính trong suốt ở cửa sổ ông đã thấy được những người khác, thấy được cảnh vật…” Nếu tấm kính linh hồn bị lòng tham lam, ích kỷ như lớp bạc mỏng phủ đi thì ta sẽ chỉ thấy có bản thân mình. Chỉ mình ta mới đáng kính đáng trọng, chỉ mình ta là trung tâm để mọi người phục vụ. Tâm hồn con người khi trong suốt không bị che chắn bởi tham, sân, si, sẽ nhìn thấy mọi người là anh em, nhìn thấy những điều hay, những điều tốt, những gì đáng quý, đáng mến nơi tha nhân. Tâm hồn trong sáng đó nhờ biết mỗi ngày soi vào Chúa Kitô, sống theo lời dạy của Ngài.
Sự khôn ngoan đích thực đúng như lời Thánh Phaolô trong thư gởi Timôthê: “Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ” (1Tm 6,18).
Của cải vật chất chỉ là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Biết sử dụng tiền của tạm bợ cách tốt đẹp, chúng ta sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
.
Lm Trần Bình Trọng
Đọc báo chí hay coi vô tuyến truyền hình, ta thấy những phản ứng khác nhau của những người vừa bị mất việc. Có những người buồn chán, không ăn không ngủ. Có những người bực tức, tìm cách trả thù cai xếp hoặc chủ sở bằng những hành vi bạo động sát nhân, rồi tự sát. Người quản lý trong Phúc âm hôm nay khi biết mình sẽ bị sa thải vì phung phí của chủ, đã nghĩ ra mánh lới để mua chuộc con nợ của chủ mình. Anh ta gọi từng con nợ đến cho giảm số nợ. Đạo Kitô giáo đề cao đức công bình. Công bình là trả cho người khác cái mà họ đáng được. Đức công bình phát xuất từ tinh thần trách nhiệm của loài người với Thiên Chúa, là Đấng ban phát cho loài người những quyền lơi khác nhau.
Đạo Kitô giáo cũng chủ trương bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản và quyền đòi được bồi thường khi người khác làm thiệt hại đến tài sản của mình. Những quyền lợi đó đã được ăn rễ sâu trong hai giới răn của Thiên Chúa: điều răn thứ bảy dạy ta chớ lấy của người, và điều răn Thứ mười đi xa hơn nữa dặn ta chớ tham lam của người.Người quản lý trong Phúc âm hôm nay đã lỗi phạm Điều răn Thứ bảy. Anh ta đã phung phí của chủ. Khi biết mình bị sa thải, anh ta còn dùng của chủ để mua chuộc con nợ, i.e., dùng của chủ để làm lợi cho mình. Anh ta đã lỗi đức công bình xã hội là làm điều bất công.
Thoạt nghe ta lấy làm vấp phạm khi Chúa Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Chúa phải kết án việc làm gian lận của viên quản lý đó hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt trắng trợn của anh ta như tiên tri Amốt đã tố cáo những tệ đoan trong xã hội thời bấy giờ. Amốt mô tả việc người giàu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8:5-6). Tuy nhiên đi sâu vào vấn đề ta thấy Chúa không khích lệ việc người quản lý phung phá tài sản của chủ. Thực ra Chúa chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Chúa khen người quản lý có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào chân tường. Rồi từ đó Chúa kết luận: Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng (Lc 16:8). Và rồi Chúa thách thức ta: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16:9).
Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa. Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là ta phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản lý bất lương sửa soạn cho tương lai của mình trong nước trần gian.Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong Phúc âm hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng..
Nếu người quản lý bất lương đã dùng cái sáng kiến để đương đầu với trở ngại hầu có thể đi tới một giải quyềt ổn thoả, thì Chúa cũng muốn cho ta dùng sáng kiến để đối phó vời những trở ngại thiêng liêng.Đạo giáo trong đời sống hàng ngày cũng thách đố ta như bất cứ công việc nào khác.. Chúa đã cho ta một thách đố để ta đối phó bằng cách làm quyết định nhanh chóng và quả quyết cho đời sống thiêng liêng cũng như khi làm quyết định cho những sự vật trần thế.
Lời Chúa trong Phúc âm hôm nay vẫn còn thích hợp cho thời đại ta đang sống: Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc 16: 10).
.
Lm Bùi Quang Tuấn
Vào một đêm Chúa nhật không trăng sao của mùa đông năm 2001, Bob Hanssen rời khỏi căn nhà ấm áp của mình, tiến ra công viên Foxstone thuộc tiểu bang Virginia, đi đến hộp thư chết mang tên Ellis nằm dưới chân một cây cầu gỗ không người qua lại. Tại đây, Bob nhét vội chiếc túi nhựa với nhiều giấy tờ xuống một chiếc hố nhỏ vừa mới đào. Sau đó y lấp đất và lá lên. Đoạn ra về.
Vừa rời khỏi hàng cây ngoài cùng của công viên, thình lình tám, chín bóng đen xuất hiện, với súng lục lăm lăm trên tay. Họ ập đến chụp lấy Bob, đè xuống và còng tay lại. Đang khi đó mấy bóng đen khác tiến vào màn đêm, trở lại chỗ cây cầu gỗ, đào lên sấp giấy trong bịch nylông mà Bob vừa chôn xuống trước đó mấy phút.
Cũng trong thời gian ấy, tại một địa điểm khác không xa, một vài bóng đen cũng đang lén lút theo dõi một hộp thư bí mật mang tên Lewis. Họ quan sát xem có ai đến lấy số tiền mà Bob chưa kịp tiếp nhận không. Nhưng đợi hoài chẳng thấy, nên họ đã lặng lẽ thu hồi gói tiền trong đó chứa 50 ngàn đô la tiền mặt. Đây là số tiền mà người Nga trả cho Bob, một nhân viên lâu năm của Cơ quan Điều tra Liên bang FBI, để anh này bán cho họ những tài liệu tối mật của Hoa kỳ.
Các nhân viên phản gián FBI đã theo dõi và bắt quả tang hành động phản bội của Bob Hanssen. Họ điều tra và khám phá thêm rằng Bob đã làm gián điệp nhị trùng suốt 15 năm qua, gây nên những thiệt hại không thể đo lường cho uy tín của cơ quan FBI, trong đó có việc chỉ điểm ba điệp viên của Nga làm việc cho Hoa kỳ, khiến cho hai trong ba người này đã bị xử tử. Hiện nay Bob đang chờ ra toà về tội phản quốc và có nguy cơ lãnh án tử hình.
Không ít đồng nghiệp thân quen với Bob đã sửng sốt khi được tin anh ta bị bắt. Nhiều câu hỏi được đặt ra: Tại sao Bob lại phản bội đất nước, gia đình, con cái và bạn bè như vậy? Phải chăng anh ta bất mãn với cơ quan tình báo và muốn trả đũa việc các nhân viên CIA bị buộc phải dùng đến food stamps vào năm 1985? Hay bởi vì có một khúc mắc tâm lý nào đó trong đầu của Bob Hanssen?
Hàng chục câu hỏi được nêu lên, nhưng câu trả lời dễ hiểu nhất chính là: Bob Hanssen cần tiền. Tính ra từ khi khởi sự mua bán tin mật cho đến ngày bị bắt, Bob đã nhận được 600 ngàn đô, 3 viên kim cương, và 800 ngàn đô khác trong một nhà băng tại Nga.
“Đồng tiền có sức mạnh vạn năng,” nhiều người đã nói như thế. Lắm lúc chính đồng tiền đã làm đảo điên cán cân công lý, dập tắt tiếng nói của lương tâm, và hủy diệt bao quan hệ thân thương giữa con người với nhau. Chỉ vì một lợi nhuận riêng tư mà không ít kẻ đã bất chấp danh dự và nhân phẩm của chính mình, miễn sao có tiền.
Từ thuở xa xưa, lòng tham đã chi phối đời sống con người. Khi ẩn trong đồng tiền là những giá trị vật chất có khả năng trao đổi mua bán, và khi giá trị mọi sự, ngay cả giá trị con người, được qui định dựa trên tiền tài vật chất, thì đồng tiền bắt đầu chiếm địa vị độc tôn trong lòng người ta. Nó trở thành chủ nhân ông, khống chế hết mọi ý hướng đạo đức, công bình, và nhân phẩm.
Đứng trước tình cảnh bao kẻ đàn áp, bon chen, vì đồng tiền, thậm chí còn coi thường phẩm giá và bóc lột đồng loại đến tận xương tuỷ, Tiên Tri Amos, vị ngôn sứ sống vào thế kỷ thứ VIII trước Công nguyên, đã lên tiếng cảnh tỉnh: “Hãy nghe đây, hỡi những kẻ đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: ‘Bao giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu…’ Và Chúa đã thề rằng: ‘Ta sẽ lãng quên tất cả việc chúng làm cho đến cùng” (Am 8:4-7).
Bị Thiên Chúa lãng quên là một hình phạt khủng khiếp. Bản cáo trạng được đọc lên từ thời xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn có đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước đoạt, và làm giàu. Vẫn có đó những kẻ chẳng màng chi lễ lạy, cứ “thành tâm” làm nô lệ cho công việc và đồng tiền. Vẫn có đó những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn có đó những kẻ “lấy đôi dép” để đổi một thai nhi, phá đi một mạng người. Tuy không phải là những tên gián điệp phản bội quốc gia, nhưng họ là những kẻ bội phản con người và rao bán chính mình.
“Các ngươi không thể vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền tài.”
Chân thành lắng nghe tiếng nói của lương tâm, người ta sẽ không thể thu lợi bằng con đường bất chính. Giữa Thiên Chúa và tiền của, con người phải chọn một. Nếu đặt Thượng Đế làm cùng đích, tiền bạc phải là phương tiện. Và chỉ có chọn lựa như thế mới mang lại giá trị và hạnh phúc đích thật cho con người.
Bài Phúc âm “Người Quản Lý Bất Lương” đã nên như một lời cảnh tỉnh dành cho con người trong thế giới tôn thờ vật chất. Phải chăng Đức Giêsu muốn nói: sẽ đến một ngày, người ta phải rời khỏi căn nhà trần gian, chẳng ai còn được làm chức quản lý nữa. Họ sẽ phải tính sổ về việc tìm kiếm và sử dụng tiền bạc khi còn tại thế. Người biết dùng của cải để mua bạn hữu, công phúc, sẽ được tiếp đón hân hoan. Kẻ tôn thờ tiền bạc, phản bội lương tâm, tàn phá nhân phẩm sẽ lãnh lấy bản án thịnh nộ gay gắt.
Lời Thánh Kinh vẫn luôn nhắc nhở:
Ấy, con người khác chi hơi thở
Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu
Công vất vả ngược xuôi làn gió thoảng
Ký cóp mà chẳng hay ai sẽ tiêu dùng.
(Tv 38)
.
KHÔNG AI CÓ THỂ LÀM TÔI HAI CHỦ
Lm. Cao Tấn Tĩnh
Bài Phúc Âm theo Thánh Luca cho Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, giống như bài Phúc Âm tuần trước, cũng có hai phần, phần buộc đọc và phần không buộc đọc. Nếu phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần trước dài hơn và ở đoạn cuối, thì phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần này cũng dài hơn và ở đoạn đầu, đó là đoạn diễn tả về người quản gia bị thanh tra về những thiệt hại gây ra cho gia chủ nên hắn đã mánh khóe lén lút tìm cách để có thể sống còn sau khi bị cách chức đuổi đi. Còn phần buộc đọc trong bài Phúc Âm hôm nay, có thể tóm gọn trong lời Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ của Người là “không ai có thể làm tôi hai chủ”. Bởi vì, theo Người cho biết ngay sau đó là, “hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà khinh chủ nọ”. Ngoài ra, kết thúc bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu còn cho biết rõ hai chủ này là gì, qua lời Người khuyên các môn đệ như sau: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc”. Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu không nói đến vai trò làm chủ hay chủ chốt của “bản thân mình” là yếu tố chính yếu và trước hết con người phải từ bỏ họ mới có thể theo Người, làm môn đệ của Người, như tinh thần của lời Chúa phán trong bài Phúc Âm theo Thánh Luca của Chúa Nhật Thường Niên XXIII Năm C cách đây hai tuần. Bởi vì, có bỏ bản thân mình hay làm chủ bản thân mình, chúng ta mới có thể làm chủ được tất cả mọi sự phụ thuộc khác, chẳng hạn như danh vọng chức quyền hay của cải tiền bạc. Ngoài ra, tại sao Chúa Giêsu cũng không đề cập đến Satan vốn đóng vai vương chủ thế gian “từ ban đầu” (Jn 8:44), tức từ sau khi đã làm cho hai nguyên tổ sa ngã phạm tội, như chính hắn đã tự nhận chủ quyền của mình trên thế gian khi cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang địa về lòng tham của cải, ở Phúc Âm Thánh Luca đoạn 4, câu 6 và 7. Vậy, tại sao ở đây Chúa Giêsu lại tôn phong tiền bạc lên vai trò làm chủ, vốn là những gì ngoại thân của con người chủ thể, và là những gì Satan dùng làm mồi nhử lòng tham vô đáy của con người?
Đúng thế, tự bản chất, mọi sự ngoại thân của con người chỉ là phụ thuộc chứ không phải chủ chốt nơi con người hay vượt trên con người, loài tạo vật duy nhất trên thế gian này đã được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài và tương tự như Ngài để ban cho quyền làm chủ trái đất, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 1 câu 27 và 28. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chính những cái phụ thuộc nhiều lúc lại trở thành chính yếu, trở thành chủ chốt trong cuộc đời con người và đối với con người, đến nỗi, thay vì con người ăn để sống thì lại sống để ăn, như hiện trạng xã hội văn minh tân tiến gần như tột bậc ngày nay hiển nhiên cho thấy, liên quan đến cá nhân chủ nghĩa và duy lợi chủ nghĩa. Không phải hay sao, vàng bạc chỉ là vật tùy thân, tuy nhiên, chúng đã trở thành một con bò vàng đúc, thành cứu chúa một thời của dân Do Thái trong sa mạc dưới chân Núi Sinai, như Sách Xuất Hành thuật lại trong bài đọc một tuần trước! Cũng không phải hay sao, đang nắm trong tay “tất cả mọi sự của cha là của con”, tức đang làm chủ gia tài với cha của mình, người con thứ, như trong phần không buộc đọc của bài Phúc Âm tuần trước thuật lại, “sau khi phung phá tiền bạc vào cuộc sống buông tuồng… hắn đã phải đi làm công cho một người trong vùng, người đã sai hắn đi chăn heo. Hắn mong sao được no bụng bằng các thứ cám heo ăn mà cũng chẳng ai cho”. “Người trong vùng” đây là ai, nếu không phải đam mê nhục dục nơi con người, “chăn heo” đây là gì, nếu không phải sống theo xác thịt, và “cám heo ăn” đây là chi, nếu không phải là của cải tiện nghi vật chất, là những gì làm thỏa mãn xác thịt, cũng là những gì xác thịt vốn thích hưởng thụ. Đúng thế, một khi con người phung phá hết gia tài ân sủng được ban cho mình, như chính họ xin Thiên Chúa là Cha chia cho qua Bí Tích Rửa Tội, nghĩa là sau khi con người đã từ bỏ Thiên Chúa là chủ tể tối cao duy nhất của mình, họ sẽ đi đến chỗ làm tôi cho tiền bạc, cho vật chất tầm thường như “các thứ cám heo”, đến nỗi, chúng trở thành những gì quí nhất, không thể thiếu trong đời họ, dù họ không bao giờ no thỏa chúng chăng nữa.
Lời Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ. Hắn sẽ ghét chủ này mà thương chủ kia, hay để ý đến chủ này mà khinh chủ nọ”, về phương diện sống đạo quả thực là như thế đó. Tuy nhiên, nguyên tắc sống đức tin còn cho thấy rằng, con người chỉ có thể làm tôi Thiên Chúa, một khi họ thực sự nhận biết ý định của Ngài, cũng như nhận biết chính bản thân của Ngài mà thôi, tức một khi họ nhận biết những mạc khải được Thánh Phaolô xác tín và loan truyền trong Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu ở bài đọc thứ hai hôm nay, đó là: “Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Và chân lý ở chỗ: ‘Chỉ có một Thiên Chúa. Chỉ có một Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, đó là con người Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến mạng sống làm giá chuộc tất cả mọi người”. Bằng không, nếu không nhận biết Thiên Chúa, không tôn phụng một mình Ngài là chủ tể duy nhất và trên hết của mình cũng như của tất cả mọi người, con người sẽ đi đến tình trạng coi của hơn người, đến tình trạng chỉ “sống nguyên bởi bánh”, tình trạng sống để mà ăn hơn là ăn để mà sống, một tình trạng của “những kẻ đàn áp người nghèo khó và muốn tiêu diệt hết những kẻ bần cùng trong đất nước”, như được tiên tri Amos diễn tả trong bài đọc thứ nhất hôm nay như sau: “Bao giờ qua tuần trăng mới để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả. Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi bán lúa mục nát”. Về việc làm tôi tiền của đưa đến tình trạng lấn át lẫn nhau này càng được sáng tỏ hơn trong dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô ở bài Phúc Âm tuần tới.
Đối tượng chính của những lời Chúa Giêsu khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay là thành phần các môn đệ của Người, chứ không phải là nhóm Pharisiêu, hay chung dân chúng, hoặc các trưởng tế và kỳ lão, như nơi một số đoạn Phúc Âm khác. Vậy lời Chúa huấn dụ các vị ở câu kết bài Phúc Âm hôm nay: “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc” cho chúng ta thấy lý do chính yếu của việc Kitô hữu nói chung, và các vị có quyền chức trong Giáo Hội nói riêng, chểng mảng hay bỏ bê trách vụ quản gia đức tin của mình, thậm chí còn tác hại đến việc mở mang Nước Chúa, là vì họ chưa thật lòng hay hết lòng “tìm nước Chúa trước và sự công chính của Ngài” (Mt 6:33), trái lại, “còn lo lắng bối rối nhiều sự” phụ thuộc như Matta trong Phúc Âm Chúa Nhật XVI Mùa Thường Niên Năm C trước đây, chưa kể đến có những lúc họ còn ham mê danh vọng chức quyền, giầu sang phú quí, cạnh tranh hoạt động v.v. Trong những trường hợp đang sống bê bối với trách nhiệm thiêng liêng của mình như thế, trường hợp người quản gia đức tin đang tác hại nhà Chúa như vậy, họ phải trả lẽ ra sao với vị Thiên Chúa gia chủ của họ, với Đấng đã kêu gọi và ký thác việc trông coi nhà Chúa cho họ, nếu không phải họ cần phải khôn lanh như tên quản gia được Chúa Giêsu khen trong dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm ở trong ngoặc đơn không buộc đọc. Đúng thế, nếu tên quản gia trong dụ ngôn này lén lút bớt xén nợ nần cho các con nợ của gia chủ để nhờ đó khi sa cơ lỡ bước anh ta sẽ được hậu đãi và có nơi nương tựa thế nào, thì thành phần quản gia thiêng liêng coi sóc nhà Chúa cũng vậy, nếu biết thông cảm với lỗi lầm của kẻ khác, tức thông cảm với những yếu đuối vấp phạm các kẻ ấy mắc nợ với Chúa, họ cũng sẽ được cảm thông lỗi lầm của họ như thế, sẽ không bị ruồng bỏ: “Ai có lòng xót thương ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được thương xót vậy” (Mt 5:7) là thế.
Vấn đề thực hành sống đạo: Lời Chúa Giêsu khuyên dạy các tông đồ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C hôm nay là “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền bạc”, vì “không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ”, một sự thật không thể chối cãi được ngôn ngữ bình dân Việt Nam khuyên là “đừng bắt cá hai tay”. Thế mà, nếu có một tông đồ Giuđa vừa theo Chúa vừa giữ túi tiền đến nỗi bán chủ lấy tiền thế nào, thì lích sử Giáo Hội cũng không thiếu những vị nên thánh trong cảnh giầu sang phú quí như vậy. Phải chăng các vị thánh này đã biết “trả cho Cêsa những gì của Cêsa và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” (Mt 22:21).
.
Lm. Nguyễn Tiến Huân
“Trung thần bất sự nhị quân” (Người tôi trung không thờ hai vua). Đó là câu người Việt Nam chúng ta thường nói. Trong bài Phúc Âm hôn nay Chúa dạy: “Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được” (Lc 16:12-13).
Đó là nguyên tắc phải noi theo triệt để. Nguyên tắc này lại rất khó thực hiện cách hoàn toàn và nhiều khi, nếu không hiểu đúng, còn làm chúng ta hoang mang trong đời sống vật chất phức tạp này. Vì, một đàng Chúa truyền chúng ta phải chu toàn nghĩa vụ lo lắng cho gia đình được ấm no (Giới răn 4), phải lo làm việc không được lười biếng như thánh Phaolô nói: “Ai không làm việc thì đừng có ăn” (2 Thes 3:10) và thực tế “có thực mới vực được Đạo”. Nhưng đàng khác Chúa cũng dạy: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên dàng” (Mt 19:24). Nước Trời chỉ dành cho những ai có tinh thần nghèo khó: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ” (Mt 5:3). Và rõ ràng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay: “Không ai có thể làm tôi hai chủ… các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Lc 16:13).
Vậy phải làm sao đây? Phải khôn ngoan như viên quản lý trong bài Phúc Âm. Chúa không khen việc gian lận của anh ta, nhưng ngài khen việc anh ta biết khôn ngoan khéo léo quyết định trong lúc “bí”. Đó cũng là thái độ của chúng ta phải có khi đứng trước biến cố cứu rỗi, đứng trước sự “dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu để được tiếp đón vào chốn an nghỉ đời đời” (c. 9).
Tiền của là con dao hai lưỡi, biết dùng thì tốt không biết dùng thì sinh hoạ. Tiền của là tên đầy tứ tốt nhưng là ông chủ rất xấu. Vậy cái nguy hiểm không phải là tiền của. Tiền của Chúa dựng nên tự nó không xấu. Cái nguy hiểm, cái xấu là nơi lòng dạ chúng ta, người xử dụng nó. Chúng ta có quyền và phải dùng tiền của mà sinh sống mà mua sắm nước thiên đàng bằng việc bác ái xã hội. Tiền của phải là phương tiện, là tên đầy tớ để chúng ta sai khiến và làm việc theo ý ta, không được để tiền của trở thành cùng đích, thành ông chủ sai khiến ta, bắt ta làm nô lệ nó. Chúa dạy “không được làm tôi tiền của” chứ không dạy “không được có tiền của”. Chúa dạy hãy bắt chước viên quản lý nọ biết dùng tiền của mà vào thiên đàng: hãy chú ý tới tinh thần và cách thức dùng tiền của.
Lạy Chúa, tuần này con quyết thực tập bài học Chúa dạy: dùng tiền của để vào thiên đàng bằng việc bác ái công đức xã hội.
.
Lm. G. Nguyễn Cao Luật
Phải lựa chọn ngay
Dụ ngôn được thuật lại trong bài Tin Mừng hôm nay thường gây nhiều vấp phạm khi trình bày thái độ của người quản gia tinh khôn như là được phép. Tuy vậy, cần phải đặt dụ ngôn vào toàn thể văn mạch của Tin Mừng và trong toàn bộ của phần phụng vụ Lời Chúa.
Tin Mừng không cho biết người quản gia bất lương ở chỗ nào, chỉ biết rằng anh ta phung phí tài sản của chủ. Anh bị gọi đến và nhận được thông báo phải nghỉ việc. Trước tương lai đen tối, anh ta phải tính toán. Không thể nào ngổi yên mà chịu chết đói. Nhưng làm gì bây giờ? Không có sức để làm nghề nông, còn đi ăn xin thì xấu hỗ. Và anh đã tìm được một kế: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ của chủ. Những người này phải giúp lại anh ta, ít là tạm thời, cho đến khi anh ta kiếm được địa vị tương tự. Sự khéo léo tính toán này có tính cách quan trọng.
Như vậy, khởi đầu người quản gia đã tạo cho mình một thế giới nhỏ hẹp, và anh ta nghĩ rằng tương lai mình được bảo đảm. Chỗ cậy dựa của anh ta, đó là tiền bạc anh đã đánh cắp của ông chủ. Nhưng mảnh đất nhỏ hẹp, nơi anh đang thu mình, lại nỗ tung, và anh lại phải đối diện với những nguy cơ của cuộc sống, phải đỗ mổ hôi để kiếm miếng ăn.
Bấy giờ anh ta lại phải tìm cách lập lại vòng an toàn cho mình. Cái vòng này cũng vẫn dựa trên tiền bạc. Nhưng phải có sự trợ giúp của người khác, cần có sự đỗi chác: tôi trừ số nợ anh mắc với chủ, và ngày mai, anh nhớ đón tiếp tôi.
Thật là khôn khéo. Chính Đức Giêsu đã ghi nhận ở cuối dụ ngôn. Khi con người muốn tìm sự an toàn cho mình, họ đem hết mọi nỗ lực, mọi khả năng để làm điều đó.
Thế là mối tương quan giữa người quản gia và ông chủ, lẽ ra phải dựa trên sự tin tưởng, công bằng và tự do, lại được đặt trên sự hư hoại, trên mưu mẹo. Tất cả mọi phía đều bị hạ thấp.
Thực vậy, sự an toàn đó chỉ có tính cách giả tạo, tạm bợ, vì nó dựa trên sự đỗi chác, trên sự ngờ vực.
Mặc dù khen ngợi sự khôn khéo của người quản gia, nhưng Đức Giêsu không hề có ý khuyên các môn đệ phải noi theo gương người quản gia. Có chăng, ở đây, Đức Giêsu chỉ muốn đề cập đến thái độ khôn ngoan và mau lẹ trước mầu nhiệm Nước Trời. Trước những vấn đề của trần gian, trước sự an toàn giả tạo, tạm bợ, người ta khôn khéo và mau lẹ, còn trước mầu nhiệm Nước Trời, trước vận mệnh vĩnh cửu của mình, người ta lại hững hờ và chậm chạp. Hẳn là Đức Giêsu cảm thấy đau lòng vì lời giảng dạy của Người, các phép lạ Người làm không giúp các môn đệ ý thức hơn, nhanh nhẹn và nhiệt thành hơn trong việc đi theo Người. Dụ ngôn được kể ra như để cho thấy nét đặc trưng trong sứ điệp của Đức Giêsu. Đọc dụ ngôn nay, người ta liên tưởng đến dụ ngôn cây vả (Lc 16,3-9), và dụ ngôn hai người kiện cáo nhau (12,58-59).
Như vậy, trước đám thính giả hay tò mò, nhưng lại chẳng quyết định gì cả, Đức Giêsu tìm cách cho họ ý thức được tầm quan trọng của tình trạng: họ phải mau mắn lựa chọn khi nghe sứ điệp của Đức Giêsu. Phải quyết định ngay, không thể chần chờ, vì đã quá trễ; hạnh phúc tương lai tuỳ thuộc vào đấy.
Cung cách quản lý mới
Từ đó, Đức Giêsu mời gọi thay đỗi cung cách quản lý. Tiền bạc vẫn cần phải có, nhưng phải khéo léo sử dụng: tiền bạc được sử dụng dựa trên tình bạn, trên sự tin tưởng, sự chân thật.
Theo quan niệm Tin Mừng, tiền bạc có thể là một nguy cơ lớn lao cho con người. “Hạnh phúc thay ai có tâm hổn nghèo khó.” Tuy vậy, tiền bạc bị khinh chê không phải vì tiền bạc, nhưng là vì cách sử dụng. Khi người ta lo giữ cho mình, tiền bạc trở thành tai hoạ, còn khi đem bố thí cho người nghèo, tiền bạc trở thành một bảo đảm cho hạnh phúc vĩnh cửu. Chính cách quản lý như thế này cũng chứng tỏ lòng trung tín của một người được giao nhiệm vụ trông coi tài sản của chủ. Có nhiều cách để quản lý tài sản, ở đây là phân phát cho người nghèo, không được coi những của cải mình đang nắm giữ là của riêng mình, để rổi chỉ lo cho những nhu cầu của mình, trái lại, phải luôn nhớ rằng, Thiên Chúa đã trao những của cải đó để mưu ích cho người nghèo. Như vậy, sau khi kêu gọi người tín hữu phải biết khôn khéo, Tin Mừng mời gọi họ hãy sống xứng đáng với lòng tin tưởng Thiên Chúa dành cho họ qua việc trao cho họ sử dụng những của cải trần gian.
Cuối cùng, người ta sẽ phải lựa chọn giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Phụng thờ Thiên Chúa có nghĩa là dấn thân cách trọn vẹn, quyết liệt, không hề nghĩ tưởng đến một điều gì khác. Còn khi coi tiền bạc là tất cả, người ta sẽ biến nó thành một vị thần, và phục lạy nó.
Tới đây, người ta nhận thấy rõ giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Người tín hữu hiểu rằng mình đón nhận của cải là để chia sẻ với người khác đang phải túng thiếu. Nếu họ mải mê với nó, và xử sự như là mình có quyền tuyệt đối, họ đã biến nó thành ngẫu tượng, và như vậy là đụng chạm đến quyền tối thượng của Thiên Chúa. Kẻ thù nguy hiểm nhất của tự do con người là tiền bạc; nó muốn lôi chúng ta ra khỏi Thiên Chúa để đi theo nó.
Như thế, có hai thế giới: một thế giới của tiền bạc, của sự an toàn giả tạo, của sự tính toán hơn thiệt; một thế giới của sự tin tưởng, của tình bạn, của sự ban tặng. Giữa hai thế giới, không thể có sự thoả hiệp. Giữa Thiên Chúa và tiền bạc: người ta phải chọn lựa một trong hai, và khi đã chọn lựa, phải sống theo chọn lựa ấy.
* * *
Câu chuyện về người quản gia bất lương nhắc nhở hai giáo huấn: mỗi người phải ý thức về những đòi hỏi của giai đoạn hiện tại, và phải đáp trả ngay tức khắc và không thoái lui trước lời mời gọi của ân sủng. Nếu để lui lại thì sẽ chậm trễ.
Vậy, mỗi chúng ta phải biết sử dụng tiền của: thái độ của người Ki-tô hữu phải thật dứt khoát, không chút lập lờ, đó là sử dụng tiền của cho những ai đang cần đến. Nếu lo tích trữ cho mình, chúng ta sẽ trở thành người sùng bái ngẫu tượng.
Thực là một điều khó khăn, tiền bạc vẫn cần, vẫn phải có, nhưng lại phải vượt qua, phải khước từ như là không có, không phải của mình.
* * *
Bạn có nhiều của cải? Rất tốt!
Cha bạn có tài sản lớn lao
và bạn được thừa kế: rất hợp pháp!
Nhà bạn đầy những thành quả
do công lao vất vả của bạn:
chẳng có gì đáng chê trách!
Nhưng này bạn,
đó không phải là giàu có,
vì nó không làm cho bạn được bình an.
Nếu bạn yêu quý những của cải ấy,
bạn sẽ bị tiêu diệt cùng với nó.
Hãy đem tiêu dùng, và bạn sẽ không bị diệt vong.
Hãy đem cho, và bạn sẽ nêu giàu có;
hãy đem gieo, và bạn sẽ gặt lại được.
…
phỏng theo thánh Âu-tinh
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Tiền bạc là một vấn đề lớn trong đời sống con người và xã hội. Phụng vụ Lời Chúa, đặc biệt là bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu nói chuyện về tiền bạc cho chúng ta nghe.
- Tiền bạc là người đầy tớ tốt
Đức Giêsu kể chuyện một ông quản lý bất trung, dùng tiền bạc của chủ để mua bạn bè. Biết mình sắp bị đuổi việc, anh sửa lại sổ sách làm lợi cho con nợ. Người nợ 100 thùng dầu, anh sửa lại là 50. Kẻ nợ 1.000 giạ lúa, anh sửa lại là 800. Kết quả là sau khi mất chức quản lý, anh vẫn còn được các con nợ đón tiếp: nay ở nhà con nợ này, mai ở nhà con nợ kia.
Là người ai cũng phải chết, có giàu sang phú quí đi nữa cũng chỉ vỏn vẹn ba tấc đất là mồ. Vậy chúng ta phải tính toán trước sau, phải khôn khéo trong việc dùng tiền của như ông quản lý bất lương đã làm là “dùng tiền của đời này mà làm việc thiện, mua lấy bạn bè, mua lấy sự sống đời đời”.
Việc thiện hôm nay ta làm là vốn liếng dành cho mai sau. Tiền làm việc thiện là người bạn trung thành theo ta về đời sau. Việc thiện không chỉ là đem cơm áo đến cho người nghèo, nhưng là tham gia mọi sinh hoạt có mục đích phát triển con người toàn diện: nâng cao dân trí, làm đẹp dân sinh, phát huy dân đức.
- Tiền bạc là thước đo lòng người
Làm sao nhận biết được người công chính và kẻ bất lương? Cứ xem cách người ta xử dụng tiền bạc: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai dám tín nhiệm mà trao phó của cải chân thật cho anh em.”
Mathêu là nhân viên thu thuế, một nghề hái ra tiền, nhưng đã bỏ nghề để đi theo Đức Giêsu làm tông đồ, sống lang thang nay đây mai đó. Từ đó ta nhận thấy tấm lòng của Mathêu. Một người đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Ông yêu Chúa thật lòng, mến Chúa trên hết mọi sự.
Trái lại, Giuđa Iscariôt, một kẻ vô danh, được Đức Giêsu chọn gọi làm tông đồ và tin tưởng giao cho chức quản lý, nắm giữ túi tiền của tông đồ đoàn. Nhưng anh ta đã lợi dụng chức vụ để ăn cắp tiền của tập thể và tính toán trong việc từ thiện. Anh ta tìm đủ mọi cách để kinh doanh Tin mừng và rao bán Thày của mình nhằm kiếm chác lợi nhuận. Tin mừng kể rằng: “Bấy giờ một trong nhóm Mười Hai là Giuđa Iscariôt đi gặp các Thượng tế mà nói: Tôi nộp ông ấy cho quí vị, quí vị cho tôi bao nhiêu? Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc.” (Mt 26,15). Từ đó ta nhận thấy lòng dạ của Giuđa. Anh ta là một con người giả dối, ham tiền và bỉ ổi. Tiền bạc đối với anh ta là trên hết. Anh ta đã được Đức Giêsu đánh giá “thà đừng sinh ra còn hơn”.
- Tiền bạc là một vị thần xấu
Khi người ta tôn thờ tiền của vật chất, coi tiền bạc là tiên là phật, là cùng đích của cuộc đời, thì lại là lúc người ta bị Tiền Của làm cho thoái hoá biến chất. Tông đồ Giuđa là một chứng cứ hiển nhiên. Chính vì thế mà hôm nay, Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.
Không chỉ có Đức Giêsu mới cảnh báo chúng ta về sự nguy hiểm của tiền bạc mà từ xa xưa Tiên tri Amos cũng đã nhân danh Thiên Chúa vạch trần tội ác của những kẻ tham tiền: “Bao giờ ngày mồng một qua đi cho ta còn bán lúa, bao giờ mới hết ngày sabat, để ta bày thóc ra. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm. Ta sẽ làm lệnh cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ, cả lúa nát gạo mục ta cũng đem ra bán.” Quả thật, tất cả mọi tội ác trên đời này đều do tiền mà ra:
Con bất hiếu với cha mẹ, trò phản thày, dân phản quốc…, nếu truy cho đến cùng, thì bị cáo đầu tiên chính là tiền.
Một chế độ thối nát rồi sụp đổ, một tôn giáo suy thoái hay một tổ chức từ thiện bị tai tiếng, thì nguyên căn bản nhân chính là tiền.
Những cảnh buôn bán sức lao động, buôn bán phụ nữ và trẻ em vẫn xảy ra thường này như cơm bữa. Nguyên nhân chính cũng là tiền.
Những tổ chức mafia: buôn bán hêrôin và vũ khí…, đều là những tội ác tày trời, gây nguy hiểm chết người. Luật pháp quốc tế và quốc gia sẽ bỏ tù và trừng trị đích đáng những kẻ này. Thế mà lắm kẻ vẫn lao đầu vào như con những con thiêu thân. Tại sao? Tại vì hám lợi, tham tiền.
Lạy Chúa, hôm nay Chúa nói cho chúng con nghe về tiền bạc. Xin cho chúng con biết dùng tiền của cho nên, để mưu cầu hạnh phúc cho chúng con và tha nhân ở đời này và đời sau. Amen.
.
TIỀN BẠC ĐỐI VỚI NGƯỜI KITÔ HỮU
Trần Đình Phan Tiến
Tiền bạc dẫn đưa con người đến hạnh phúc, nhưng là hạnh phúc giả tạo.
Thật vậy, nếu nói rằng tiền bạc không cần thiết là điều không đúng. Xét cho cùng tiền bạc chính là một sự chứng nhận để lưu hành bởi một tờ giấy có ghi số và chữ. Nhưng muốn có tiền, người ta phải ra sức làm việc để kiếm tiền. Nên chi, việc sử dụng đồng tiền do công sức mình kiếm được là một điều chính đáng. Nhưng tiền bạc không phải là sự tận cùng, trên tiền bạc, đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Vì nếu tiền bạc thật sự là hạnh phúc vĩnh cửu, thì không còn là tiền bạc nữa, không còn là hạnh phúc nữa, mà là sự chết, sự trầm luân muôn đời. Vì lúc đó con người sẽ sát phạt nhau để giành lấy tiền bạc, và bất phân thắng bại, con người sẽ không có sự sống, mà là sự chết, sự diệt vong con người. Như vậy, là sự đối nghịch với sự sống, là đối nghịch với Thiên Chúa. Với ý nghĩa đó, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn “Người quản gia bất trung” để rao giàng Tin Mừng Nước Trời.
Từ dụ ngôn “Người quản gia bất trung”, (Lc 16,1-8), Chúa Giêsu cho chúng ta một nhận thức tỉnh táo về Nước Trời. Nước Trời là một trạng thái siêu nhiên, nhưng vĩnh cửu mà không ai đạt tới được. Nước Trời quan trọng và rất đỗi thiết thực, đến độ cuộc sống hiện tại không thể không nhắm tới. “Người quản gia bất trung” còn biết dùng sự bất lương của mình mà mua lấy một cuộc sống sau khi về hưu, bị đuổi việc, huống chi là người tín hữu không biết lợi dụng thời cơ ở đời nầy mà mua lấy Nước Trời. Nghĩa đen là dùng đồng tiền, nhưng nghĩa bóng đó là, biết dùng công sức và thời gian để xây dựng Nước Trời.
Nếu hiểu theo nghĩa đen, chắc chắn nhiều người làm việc Tông đồ không phải vì Tông đồ mà là vì tiền bạc. Ví dụ, một linh mục khi còn làm việc được thì lo thâu tóm “chút ít” để khi về già, hưu rồi có cái để chi dùng. Nếu hiểu như vậy, thì không đúng. Nhưng chúng ta biết dùng của cải cho đúng cách với mục đích vì Nước Trời thì chúng ta thật diễm phúc, vì chúng ta biết sử dụng cái chóng qua để mua lấy sự vĩnh cửu. Qua dụ ngôn: Người quản gia bất trung, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần Nước Trời nơi công việc trần thế. Điều đó có nghĩa là khi chúng ta sống nơi thân xác hữu hình, chúng ta cũng phải biết dùng thời gian thuận tiện để làm lợi cho đời sống tâm linh của chúng ta. Khi chúng ta được “gọi về”, chúng ta hãnh diện mang theo hành lý là Tin Mừng Nước Trời.
Chúa không đề cao sự bất trung của trần gian, nhưng qua cách khôn khéo của trần gian, Chúa Giêsu dạy chúng ta một thực tại Nước Trời. Nước Trời là điều không phải dễ hiểu, nên chi, từ dẫn chứng tự nhiên, Chúa Giêsu đã dẫn đưa con người đến sự siêu nhiên Nước Trời.
Để hiểu rõ hơn nội dung Đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nhớ lại câu tục ngữ như sau: “Lấy của che thân, chứ đừng lấy thân che của”.
Phần II của đoạn Tin Mừng hôm nay: Trung tín trong việc sử dụng tiền của.
Dụ ngôn trên cho thấy, sự bất lương của người quản gia, nhưng là bài học để mua lấy Nước Trời. Chuyển tiếp qua phần II là sự trung tín trong việc sử dụng tiền của. Tiền của trần gian cho dù là gì đi nữa cũng được gọi là “bất chính”, bởi vì, nếu công chính thì không bao giờ có dư tiền của, tiền của “bất chính” ở đây không phải là trộm cướp, nhưng không phải là chính đáng. Ví dụ: Hưởng thừa kế, trúng mánh, cho vay, thắng bạc, kinh doanh có lời lớn, mua một bán mười, v.v… Đó là những tiền của bất chính, tiền của bất chính là cuộc sống tạm bợ nơi thân xác, nhưng con người biết trung tín sử dụng thì nó trở nên tốt. Người ta nói: Tiền bạc là đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu. Ông chủ xấu, khi chúng ta tôn thờ đồng tiền, đồng tiền là hữu vật tự nhiên, chứ không phải thiên nhiên. Nhưng Chúa Giêsu muốn chúng ta dùng đồng tiền trần gian để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Cuộc sống tốt đẹp là biết đến nhu cầu cảu tha nhân. Rõ ràng, người cho vay và sống bởi tiền cho vay là sống bởi đồng tiền bất chính, vì sống trên nhu cầu khó khăn của người khác .Tiền của là phương tiện, chứ không phải là mục đích. Nên Chi, nếu chúng ta không trung tín trong việc sử dụng tiền của trần thế, thì chúng ta cũng không thể được giao công việc Nước Trời. Chúng ta chính là trong vai “ người đầy tớ bất trung” trên, vì Thiên Chúa ban cho chúng ta những của cải để chúng ta sinh ích lợi cho tha nhân, chứ không phải chỉ cho chúng ta mà thôi. Chúng ta được phép làm chủ của cải, chứ không được phép tôn thờ của cải. Đó là điều cần thiết, vì nếu chúng ta tôn thờ của cải, thì chúng ta sẽ không tôn thờ Thiên Chúa. Mặc nhiên, Chúa Giêsu đưa ra một sự chọn lựa dứt khoát là:Thiên Chúa và tiền của. Thiên Chúa và tiền của là hai vấn đề luôn đối lập và hiển nhiên không đồng hành song song. Đây là điều thách thức và cũng là đòi hỏi của Tin Mừng Nước Trời. Đây chính là cửa hẹp của người công giáo.
Chúa Giêsu không định kiến với người giàu về của cải, nhưng người có của cải thì khó có Thiên Chúa, vì Thiên Chúa không đứng dưới của cải, mà là Thiên Chúa đứng trên của cải. Của cải là thứ không mang được vào Thiên Quốc, vì của cải là phương tiện cho thân xác. Nhưng nếu con người biết sử dụng phương tiện của thân xác để mưu ích cho linh hồn,thì đó là điều khôn ngoan.
Vì vậy, Chúa Giêsu đã nói: “Kẻ giàu có khó vào Nước Trời biết bao!” “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Thiên Quốc” (Mt 19, 23-24).
Ước gì Lời Chúa hôm nay, sẽ thức tỉnh phàm nhân để họ nhận ra ánh sáng của Tin Mừng trong mọi biến cố cuộc đời, hầu soi sáng cho họ nhận ra chân lý của Lời Chúa. Amen.
.
Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
ĐỒNG TIỀN ĐẾN
Đề tài về “tiền của” là đề tài dễ “bàn luận” nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người. Người ta gọi những người thân yêu là “bà con ruột thịt”, đồng thời người ta cũng thường nói “đồng tiền đi liền khúc ruột”, xem thế, ta thấy đồng tiền có quan hệ “máu mủ” với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người nào sở hữu nhiều thứ đồ quý, thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có sức mạnh. “Miệng người sang có gang có thép”.
Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu định nghĩa “tóm gọn sức mạnh đồng tiền” nghe vui vui, tỉ như: “Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý, tiền là… hết ý!”.
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!
Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- “Một nhà phú hộ kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: ‘Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa!’” (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền. Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm tin thiêng liêng nữa.
Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!
Những cách làm ra tiền bất chính thì rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua gian bán lận… nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết – nhưng muốn biết cũng không khó – nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ…
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện “Lấy của ban ngày” như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được”. Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại”.
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
“Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục đích. Mục đích phổ thông nhất là “hưởng thụ”. Trong Tin Mừng, chúng ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu “hồn ta hỡi … vui chơi cho đã”. (Lc.12,16-21; 16,19-31).
Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ “ăn chơi” càng “cao cấp”, càng “sang trọng”, và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt hại ai, không đá động tới ai.
Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy! Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã chế tạo ra những “người máy” tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người ta không thể phân biệt được ai là “người máy” ai là người thật! Hay nói một cách khác, ai là người “giả”, ai là người “thật”! Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là “nhân tài” thật, ai là “nhân tài” giả. Có nơi, người ta rao bán “bằng cấp” trên Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. “Tiền đẻ ra Tiền”. Làm ăn với tư thế “kẻ mạnh” thì bao giờ cũng có lợi, thậm chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì rằng “thương trường cũng như chiến trường”, có “chết” và có “sống”. Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây. “Mạnh được yếu thua”. “Cá lớn nuốt cá bé”. Ngôn ngữ ngoại giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì nơi đó thường có những cuộc “tập trận”, phô trương vũ khí, sức mạnh quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình thương đối với đồng loại.
“Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng là một ông chủ xấu”. Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại. Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con người sẽ hạnh phúc hơn.
Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa, và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương. “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực và nâng đỡ người nghèo…
Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành.
Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì mình có. Không phải cách “lương lẹo” của tên quản lý bất lương. Anh ta tỏ ra “nhân từ” bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng “vòng tay nhân ái” để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của mình trên TV!
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người biết cách“cho đi”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Vì “không ai cho cái mình không có”. Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa. (Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén… Mt. 25,14-29).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng mình?
Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu người, thì người nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể cho là hạng người biết nói vậy.
Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả, thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.
– Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
– Kẻ sang trọng mà biết làm cho người sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
– Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển sách được nhiều người yêu thích mang tên “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền để mua những gì “không hư nát”. Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9).
Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: “Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc.12, 20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi lấy được gì ư?
Có một kim chỉ nam để chúng ta định hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời.
“Cho tôi xin một vé đi Thiên Quốc”.
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói về việc sử dụng tài sản Chúa ban như người quản lý tốt, để đạt được ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Amos là người chăn chiên được Chúa chọn làm tiên tri. Chúa sai ông đi rao giảng trong một xã hội lúc bấy giờ bon chen tranh giành tiền bạc, đàn áp những người nghèo khổ, họ dùng tiền mua nô lệ, coi tiền của là trên hết. Và lối sống sa hoa những kẻ giàu có bên cạnh những người túng nghèo.
Trong bối cảnh đó, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa lên án mạnh mẽ cách đối xử bất công và tiên báo sự trừng phạt của Thiên Chúa: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc làm của chúng”.
Trong bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy cầu nguyện cho mọi người được an cư lạc nghiệp, sống đẹp lòng Chúa, để được hưởng nhờ ơn cứu độ.
Còn bài Tin Mừng, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người quản lý bất trung, để dạy chúng ta biết dùng của cải Chúa ban mà đạt được Nước trời mai sau.
Chúng ta thấy người quản lý trong dụ ngôn ứng xử rất khôn ranh. Trước khi biết mình sẽ mất chức, anh đã gọi các con nợ của chủ đến và bớt cho một số nợ. Anh lợi dụng tài sản của chủ để mua lấy ơn nghĩa cho mình. Hành vi đó, chủ khen anh ta hành động khôn khéo, biết lo cho tương lai.
Tất nhiên, Chúa không bảo chúng ta noi gương cách ứng xử khôn ranh này, nhưng Chúa dạy chúng ta là con cái của sự sáng, hãy biết lợi dụng của cải chóng qua đời này để mua lấy Nước trời. Nghĩa là biết chia sẻ, giúp đỡ người nghèo, phục vụ trong tinh thần quảng đại và yêu thương.
Bởi vì, cốt lõi của đạo Công giáo chúng ta là chia sẻ và ban phát. Như Mẹ thánh Têrêsa Calcuta đã nói: “Đặc tính của đạo Công giáo là ban phát và cho đi”. Vì thế, khi gặp một người nghèo khổ đưa tay xin chúng ta giúp đỡ, chúng ta đừng bao giờ từ chối hay dửng dưng. Không ai trong chúng ta nghèo đến độ không có gì để cho. Chẳng hạn như: chúng ta cho nhau một nụ cười, một lời thăm hỏi, một nghĩa cử yêu thương, một sự quan tâm giúp đỡ… Nếu Chúa cho chúng ta làm ăn khấm khá, biết rộng lòng chia cơm xẻ áo cho người nghèo, là chúng ta biết tích trữ của cải thiêng liêng, nơi mối mọt không hề phá hủy, trộm cướp không thể nào chiếm lấy được”.
Anh chị em thân mến,
Khi đưa ra dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta cần phải khôn ngoan và trung thành trong khi sử dụng những ân huệ Chúa ban.
Thời giờ, sức khoẻ, tài năng, tiền bạc… tự ta không thể làm ra được, nhưng tất cả đều là ân ban của Chúa. Chúng ta chỉ là người quản lý thôi. Thế thì, chúng ta quản lý những ân huệ đó như thế nào?
Nếu anh chị em quan niệm thời giờ quý như vàng bạc, thì chúng ta có biết dùng thời giờ để siêng năng đến nhà thờ làm những việc đạo đức. Hay có thể chúng ta dành chút thời giờ đi thăm viếng những người bất hạnh, đang chết dần trong cô đơn thiếu vắng tình thương không?
Nếu anh chị em quan niệm sức khoẻ là vàng, thì chúng ta có biết giữ gìn sức khoẻ để cộng tác với ơn Chúa mà làm những việc lành phúc đức không? Hay là có một số người cứ ăn chơi nhảy nhót, xì ke ma tuý, sáng xỉn chiều say… làm cho thân tàn ma dại.
Về tài năng Chúa ban tựa như những nén bạc. Người thì Chúa cho 5 nén, kẻ khác 2 nén, người kia 1 nén. Chúng ta có tích cực làm phát triển những nén bạc đó để lo xây dựng Nước Chúa và lo phần rỗi của mình không?.
Về tiền bạc cũng vậy. Chúa ban cho thời giờ, sức khoẻ và trí thông minh để làm ra tiền bạc mà sinh sống, vậy chúng ta sử dụng đồng tiền đó như thế nào?
Ai càng sống rộng rãi biết cho đi, biết nghĩ đến người khác hơn bản thân mình, thì người đó sẽ càng giàu công phúc ở đời sau.
Ngược lại, có một số người làm mất đi hạnh phúc gia đình, mất đi tình nghĩa anh em, chỉ vì một chút tài sản cha mẹ để lại mà không nhường nhịn nhau.
Lời Chúa hôm nay nhắn nhủ chúng ta: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn bè”, nghĩa là hãy dùng tiền của mà mua lấy Nước trời. Cụ thể như việc cầu hồn xin lễ, giúp đỡ những người nghèo khổ, đóng góp vào những việc chung.
Được như thế, ngày chúng ta nhắm mắt lìa đời, ước mong sẽ được nghe những lời mời gọi của Chúa: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong những việc nhỏ. Hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.
.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Người ta thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được”. Nhiều người cho rằng với đồng tiền thì làm gì cũng đực, muốn gì cũng có vì đồng tiền là vạn năng ! Nhưng có những cái mà với đồng tiền người ta không thể sắm được, ví dụ Nước Trời, phần rỗi linh hồn. Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn “Người quản gia bất lương” để khuyến khích chúng ta phải biết cách dùng của cải, nhất là phải khôn ngoan trong việc lo cho tương lai của mình, tức là phần rỗi đời đời của mình trên Nước Trời.
Dụ ngôn hôm nay có thể gây hiểu lầm cho nhiều người. Mới đọc qua, ta thấy Đức Giêsu như khen nguời quản lý bất lương đã khôn khéo dùng mánh lới để kiếm được bạn hữu sau khi bị ông chủ thải hồi. Xem ra Đức Giêsu cho phép chúng ta theo gương người quản gia này đểâ dùng mọi mánh lới khôn khéo mà tìm lợi cho mình. Nhưng đọc kỹ, ta thấy Đức Giêsu không khen việc làm bất lương của anh ta mà chỉ khen cái khôn khéo của anh ta trong việc biết lo cho tương lai của mình. Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu khuyến khích chúng ta phải biết lo cho cho phần rỗi của mình giống như người quản gia bất lương biết lo cho tương lai vật chất của anh ta.
Tất cả chúng ta đều là quản gia của Chúa vì tất cả những gì chúng ta có là do Chúa ban, như thánh Phaolô nói:”Có gì mà bạn đã không nhận nơi Chúa”. Với tư cách quản gia, chúng ta phải trung thành quản lý tài sản mà Chúa đã trao phó, phải biết làm lợi ra, phải biết chia sẻ và biết dùng tài sản này mà mua được phần rỗi của mình trên Nước Trời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Am 8,4-7.
Tiếng kêu của tiên tri Amos cách Đức Giêsu 800 năm mà hôm nay vẫn còn hợp thời. Ông được đời sau đánh giá là lương tâm của thời đại ông, một thời đại đầy dẫy bất công xã hội và người nghèo bị bóc lột đến tận xương tủy. Ông lên án những tội của người giầu :
– Ngay những ngày lễ cũng bị sử dụng cho việc buôn bán để kiếm lời.
– Họ gian lận bằng cách thu hẹp đấu lại và làm nặng thêm quả cân.
– Khai thác và bóc lột những người nghèo khó.
Nhà tiên tri đã cảnh cáo:”Chẳng bao giờ Ta sẽ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8.7).
+ Bài đọc 2 : 1Tm 2,1-8.
Thánh Phaolô chỉ dẫn choTimôthêô tổ chức lời kinh cho mọi người trong cộng đoàn phụng vụ. Phải có tinh thần liên đới trong khi cầu nguyện, nghĩa là Kitô hữu đại diện cho nhân lọai, liên kết với nhân lọai trước mặt Thiên Chúa.
Khi cầu nguyện người Kitô hữu mở rộng lòng ra ôm lấy thế giới để tạ ơn, để cầu xin với mọi người và cho mọi người. Tại sao lại có nhiệm vụ ấy ? Bởi vì Thiên Chúa của người Kitô hữu là Thiên Chúa của tất cả mọi người và Ngài muốn tất cả được ơn cứu rỗi. Riêng vị sứ giả Tin mừng càng phải làm chứng về điều này cách hăng say hơn.
+ Bài Tin mừng : Lc 16,1-13.
Truyện người quản gia bất trung ta gặp thấy hằng ngày trong cuộc sống . Đối với dân Do thái, quản gia không phải chỉ là một trong những người làm mướn ăn lương của chủ, mà là một nhân vật rất có thế lực. Quản gia là người thay mặt chủ để lo những chuyện tài sản trong nhà. Do đó có quyền thu xếp tài sản của chủ cách nào tùy ý, miễn sao có lợi cho chủ thôi. Quản gia không có lương, nên thường tìm thu nhập thêm bằng cách kê thêm số của cho vay. Thí dụ cho vay 100 kê thành 120.
Đức Giêsu không khen cái hành vi bất chính của anh ta , nhưng khen cái sự khôn khéo biết lo cho tương lai. Bài học rút ra cho người Kitô hữu là khi phải lo phần rỗi linh hồn thì phải làm mọi chuyện để được cứu rỗi. Bằng cách nào ? Bằng cách chia sẻ với người nghèo. Không có cách nào giữ của chắc chắn hơn.
Trong khi xử dụng tiền của phải rất khôn ngoan, phải biến nó thành tôi tớ trung thành, đừng để nó trở thành ông chủ khắc nghiệt vì “Các con không thể làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,13).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
I. DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN GIA BẤT LƯƠNG.
Để dạy ta phải biết lo xa cho đời sống tương lai của linh hồn mình, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn nói về một người quản gia biết lo xa cho đời sống vật chất của mình.
- Người quản gia ở Palestine.
Tại Palestine có nhiều địa chủ vắng mặt ở lãnh địa của mình nên tất cả công việc của ông được trao vào tay người quản gia của ông. Theo luật Do thái, người quản gia không phải là một nhân viên được trả công, nhưng toàn quyền thay mặt chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản gia.
Trong trường hợp người quản gia bất trung phung phí của chủ, luật pháp cũng không có biện pháp nào bắt buộc ông phải hoàn lại của đã mất, chỉ có cách là sa thải. Sau khi nhận được giấy sa thải, người quản gia phải tính sổ liệt kê tài sản, việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện của chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ. Ở đây, người quản gia bị ông chủ là nhà phú hộ khiển trách, vì đã phung phí của chủ và đó là hành vi bất lương và gian dối của người quản gia, khiến ông chủ sa thải.
- Kế họach của người quản gia.
Ở trong tình tình trạng này, người quản gia phải suy nghĩ về số phận tương lai của mình sau khi bị sa thải. Làm việc bằng chân tay thì không quen vì xưa nay chuyên ăn trên ngồi trốc rồi. Phải liệu cách nào để sau khi mất chức quản gia, thì sẽ có người đón tiếp mình về nhà họ.
Thế là không chút chần chừ, ông cho gọi “từng con nợ”của chủ lại, và trước mặt mình, anh ta cho phép họ sửa lại số nợ. Đúng là dịp may hiếm có, bởi vì thủ đoạn này cho phép giảm món nợ từ 100 thùng dầu xuống chỉ còn 50 (bớt khỏang 2000 lít), và từ 100 giạ lúa xuống chỉ còn 80 (bớt khoảng 6000 ký).
Từ nay mọi người đều đồng lõa với nhau giữ kín bí mật : đám con nợ dĩ nhiên sẵn lòng giữ thinh lặng để được hưởng một vụ làm ăn quá lời; còn người quản gia thì an tâm “sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ”.
Dụ ngôn người quản gia bất lương là một trong những đoạn Tin mừng từng bị hiểu sai nhiều nhất : bao nhiêu người đã xem đây như bằng chứng Đức Giêsu cho phép làm điều bất lương. Thọat nghe ta lấy làm vấp phạm khi Đức Giêsu lên tiếng khen người quản lý bất lương đã hành động cách tinh quái. Lẽ ra thì Ngài phải kết án việc làm gian lận của người quản lý hay ít ra cũng chỉ trích cái hành động cướp gạt của anh ta như tiên tri Amos đã tố cáo những tệ đoan xã hội thời bấy giờ. Amos mô tả việc người giầu có nóng lòng chờ đợi cho qua ngày lễ nghỉ để họ có thể lường gạt và bóc lột người nghèo (Am 8,5-6).
Tuy nhiên, đi sâu vào vấn đề ta thấy Đức Giêsu không khích lệ việc người quản gia phung phí tài sản của chủ. Thực ra, Ngài chỉ khen cái mánh lới của anh ta mà thôi. Ngài khen người quản gia có khả năng hành động kịp thời và quyết liệt khi bị giồn vào thế chân tường. Rồi từ đó Ngài kết luận : “Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn hơn con cái ánh sáng” (Lc 16,8). Và rồi Đức Giêsu thách thức ta : Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền bạc, họ sẽ đón rước các con vào nơi ở vĩnh cửu (Lc 16,9). Nghĩa là con cái ánh sáng cần phải xử sự cách khôn khéo để làm sao tiền bạc không trở nên một thế lực thống trị và biến chúng ta thành nô lệ; trái lại, cần phải biến nó thành phương tiện phục vụ con người thông qua làm phúc bố thí chứ không phải bo bo giữ cho riêng mình. Người Kitô hữu nhớ rằng, tiền bạc không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện. Chúng ta xử sự thế nào để tiền của không cản trở bước đường đi đến đời sống vĩnh cửu khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay.
II. NÓI VỀ TIỀN CỦA.
- Tiền của là những gì ?
Tiền của đây nói chung là gia tài hay tài sản, là tất cả những gì mình có. Gia tài vật chất là của cải, là thân xác, là địa lợi chung quanh. Gia tài tinh thần là tài năng, tâm trí, đức hạnh, linh hồn. Gia tài vô cùng quí giá là nguồn sống vô biên tuôn trào từ các bí tích, từ lời hằng sống , từ trái tim và thần khí của Đức Giêsu… Tất cả những cái đó ta phải “quản lý”. Chúa sẽ yêu cầu chúng ta phải phúc trình về chúng. Ta không có quyền “phung phí” những ơn mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta. Ai là người quản lý trung tín và khôn ngoan thì biết khôn khéo dùng những gia tài ấy để kinh doanh, phát triển, đầu tư vào những công trình chân chính mà mua lấy bạn bè, sắm lấy những kho tàng, sắm lấy những viên ngọc qúi trong Nước Thiên Chúa. Đó là cách xử sự khôn khéo của con cái sự sáng.
- Sức mạnh của tiền bạc.
Người đời thường nói :”Có tiền mua tiên cũng được, không tiền mua lược không xong”.
Tiên là bà tiên, cô tiên, một hạng người đẹp cả người lẫn nết, không bao giờ chết, lúc biến lúc hiện do trí tượng tượng người ta hình dung ra. Tiên là một hạng người không có thực, vậy có tiền cũng không có thể mua.
Câu này cực tả cái giá trị của đồng tiền, đại ý nói rằng có tiền thì việc khó đến đâu , cũng làm được, của hiếm đến đâu cũng mua được. Không tiền thì cái tầm thường nhất cũng không mua được. Có câu tục ngữ tiếp theo câu trên :”Không tiền mua lược không xong”.
Người có tiền thì có thế, được nhiều người kiêng nể, có thể sai khiến được nhiều người, khiến họ phải hầu hạ, đưa rước và tạo thêm được nhiều kẻ nịnh hót :
Có tiền chán vạn người hầu,
Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
(Ca dao)
Đồng tiền cũng có sức mạnh phi thường, nó có thể đổi trắng thay đen lòng người, nó có thể biến những con người lương thiện thành con người bất lương, mà nhiều người không thể cưỡng lại được :
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm, khéo tô lòng người.
(Ca dao)
Cổ nhân cũng đã có kinh nghiệm nên đã từng nói :”Hoàng kim hắc thế tâm”.
Hành động của Giuđa đã nói lên kinh nghiệm đó. Giuđa là một trong 12 tông đồ thân tín của Đức Giêsu, được Ngài yêu thương tận tình, nhưng vì tham tiền, anh ta đã bán rẻ lương tâm, không còn nghĩ gì đến tình nghĩa thầy trò,sẵn sàng bán Ngài cho người Do thái với giá 30 đồng bạc. Quá rẻ ! Anh ta đã bị đồng tiền chi phối, không thể chống lại được.
- Nguy hiểm của tiền bạc.
Có phải “Tiền là Tiên là Phật, là sức bật của lò so, là thước đo lòng người “ chăng ?
Qua tin tức báo chí và kinh nghiệm thực tế, có lẽ ta phải nhìn nhận sức mạnh của tiền tài quả là đáng sợ. Nó có thể làm mờ lương tri, biến chất lòng người, sụp đổ ý chí, lụi bại thanh danh, tiêu tan trách nhiệm… Thế nên có tiền tài và sử dụng làm sao cho tốt đẹp không phải là chuyện dễ.
Biết bao câu tục ngữ :”Tiền bạc là tên đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền tài vừa nguy hiểm vừa đáng sợ mà ai cũng thích có nhiều, chỉ vì cái sức mạnh của nó, như câu tục ngữ của nước Nga :”Với một túi tiền treo nơi cổ, không ai có thể bị chết treo”.
Nhà thơ Tú Xương còn mỉa mai :
Ví thử trong tay tiền bạc có,
Nói dối như cuội chán người nghe.
Có thể nói tiền bạc là con dao hai lưỡi. Theo đó, càng nhiều tiền thì con dao hai lưỡi càng khó sử dụng.
Truyện : Lời khuyên của vị giáo trưởng.
Một lần kia, có một người giầu có nhưng keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giầu một cách thân thiện và đưa vào phòng khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói :”Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy cái gì” ?
“Tôi thấy người ta đi qua, đi lại,” ông nhà giầu đáp.
Rồi giáo trưởng đưa ông ra khỏi cửa sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói:”Ông hãy nhìn vào tấm gương này và nói ông thấy gi”.
“Tôi thấy chính tôi”, ông nhà giầu đáp.
“Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có trát lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông” (McCarthy).
- Tiền của và hạnh phúc.
Tiền của là phương tiện chứ không phải là mục đích, nhưng có nhiều người coi đó là mục đích, là chúa tể. Càng có nhiều tiền của càng muốn có nhiều hơn. Họ theo đạo thờ thần Mammon. Tiếng Mammon chỉ chung những gì nghịch với Thiên Chúa, mà tiền của đứng hàng đầu.
Nhiều tiền bạc chưa chắc đã sung sướng, chưa chắc đã hạnh phúc. Có những trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dư thừa tiền bạc, phủ phê vật chất thì sao ? Hoặc những gia đình giầu có nhưng sống ngột ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào ? Bởi vì tiền là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
Thi sĩ Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận :
Trong tay đã có đồng tiền
Dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì.
Nhà thơ Nguyễn bỉnh Khiêm cũng chua xót nói rằng :
Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử,
Hết cơm, hết gạo, hết ông tôi.
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
Henrik Ibsen nói:”Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của sự vật nhưng không thể mua cái lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe, sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín, những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc”.
Đúng là :
An cơm với thịt bò thì lo ngay ngáy,
An cơm với cáy thì ngáy o o.
III. NGƯỜI QUẢN GIA TRUNG TÍN.
- Người giầu có là quản gia của Thiên Chúa.
Có lẽ một phần do ảnh hưởng của cuộc sống khó khăn, phần khác do quá tham lam mù quáng mà chúng ta đã có một suy nghĩ lệch lạc về của cải, đó là chúng ta cứ tưởng mình luôn làm chủ của cải. Nhưng nếu biết suy xét cẩn thận, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa, vì chính Ngài mới là Chủ vật chất và Đấng sở hữu đích thực; còn chúng ta , nói một cách trung thực, chỉ là những người quản lý, coi sóc tạm thời. Cho nên, nếu chúng ta cứ tưởng lầm mình là chủ, tất nhiên chúng ta sẽ không tránh khỏi sự lạm dụng quyền hành hoặc bo bo giữ lấy của cải như lẽ sống đời mình để rồi dùng nó theo ý ngông cuồng của mình, sẽ dẫn tới sai trái.
Và một ngộ nhận nữa là chúng ta cứ nghĩ của cải mãi mãi thuộc về mình. Đây là một ngộ nhận tai hại vì không những chúng ta giả điếc làm ngơ trước bao cảnh tay trắng hoàn tay trắng xẩy ra hằng ngày do nhiều nguyên nhân như cháy nhà, bị trộm cướp, bị tai họa, bị tù tội, nhất là bị chết, mà còn cố tình đâm đầu vào làm giầu, tham lam vơ vét của cải như là cùng đích của đời mình. Do đó, kẻ khôn ngoan không phải là kẻ giữ của mà là kẻ biết dùng của cho thật hữu ích vì chúng ta chỉ được phép giữ và sử dụng của cải trong thời hạn nào đó mà thôi.
- Người quản gia biết chia sẻ.
Nếu người giầu có là quản gia của Thiên Chúa thì không có quyền giữ bo bo cho mình hoặc sử dụng một cách hoang phí. Họ phải biết chia sẻ nữa. Theo ông Robert Karris:”Tiền bạc (mammon) đều thuộc về thế hệ xấu xa này. Môn đệ phải chuyển mammon thành kho tàng trên trời bằng cách chia sẻ của cải với những người khác, đặc biệt những người túng thiếu. Như thế, tiền của có thể mở lối vào Nước Trời, và lúc ấy tiền của là tên đầy tớ tốt cho ta. Phải biết trung tín khi dùng của cải đời này để có thể được trao phó của đời sau, nghĩa là biết xử dụng của cải như phương tiện chứ không phải như mục đích và xử dụng theo ý Chúa”.
Các rabbi Do thái có câu :”Kẻ giầu giúp kẻ nghèo ở đời này, nhưng kẻ nghèo giúp kẻ giầu trong đời sau”. Khi chú giải truyện người giầu ngu dại xây kho vựa lớn hơn để tích trữ của cải, thánh Ambrôsiô có nói :”Bụng của người nghèo, nhà của bà góa, miệng của trẻ nhỏ là những kho vựa còn mãi đời đời”.
Người Do thái tin rằng của bố thí cho kẻ nghèo được ghi vào trương mục đời sau của kẻ cho. Sự giầu có thật của con người không tùy những gì mình nắm giữ, nhưng ở những gì mình cho đi. “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm”(Cn 19,17).
Truyện: Mạnh Thường Quân.
Mạnh Thường Quân nhà giầu, cho vay mượn nhiều. Một hôm ông sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Khi đi, Phùng Nguyên hỏi :
– Ngài có định mua gì về không?
– Xem thứ gì nhà ta chưa có thì mua.
Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng:”Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”, rồi chẳng tính gì gốc lãi, đem đống văn tự ra đốt sạch.
Khi trở về, Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân rằng :
– Nhà ngài không thiếu thứ gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm phép mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý ngài.
Về sau, Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đây nhớ ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên :
– Đó hẳn là cái ân nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước .
- Người quản gia phải trung tín.
Trong bài Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã khẳng định :”Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ. Vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”(Lc 16,16).
Ngày xưa, chủ chiếm hữu nô lệ cách tuyệt đối. Ngày nay thì đầy tớ hay lao công có thể làm công việc cách dễ dàng và có thể làm việc cho hai chủ. Anh ta có thể đảm nhận một công tác trong giờ bình thường và một công tác khác trong giờ rảnh rỗi. Tỷ như có người làm thơ ký ban ngày và làm nhạc sĩ ban đêm. Nhiều người làm thêm để kiếm tiền hay làm theo sở thích trong những giờ tự do. Thế nhưng một nô lệâ không có giờ tự do, mọi giây phút trong ngày, tất cả sức lực của anh ta thuộc về chủ. Anh ta không có thời giờ riêng nào. Cũng vậy, phục vụ Thiên Chúa không thể nào là một công việc làm bán thời gian hay công việc của giờ rảnh rỗi. Ai đã chọn sự phục vụ Chúa thì tất cả thời giờ, sức lực của người ấy đều thuộc về Chúa trọn vẹn. Thiên Chúa là chủ tuyệt đối trên mọi người chủ, chúng ta hoặc thuộc trọn về Chúa hay không thuộc về Ngài chút nào.
Sách có chữ rằng :”Trung thần bất sự nhị quân” : Tôi trung không thể làm tôi hai chúa. Đức Giêsu cũng đồng ý như vậy khi đem ra dụ ngôn người quản gia bất lương và kết luận:”Không ai có thể làm tôi hai chủ”.
Người ta thường nói :”Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại là ông chủ rất xấu”, nghĩa là khi chúng ta dùng tiền của như một phương tiện mưu sống, thì lúc ấy tiền bạc rất tốt cho chúng ta. Trái lại, khi chúng ta tôn thờ tiền bạc như một ông Chúa, thì lúc ấy tiền bạc là một điều tai hại; do đó, chúng ta phải dùng tiền bạc như một tên đầy tớ, còn việc tôn thờ thì chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi.
- Người quản gia phải biết dừng lại.
Thái độ của người quản gia khôn ngoan là phải biết dừng lại và bằng lòng với những cái mình đang có và cố gắng làm cho tốt hơn, nếu không thì lòng tham vô đáy sẽ đòi hỏi mãi, có thể làm cho chúng ta trở nên mù quáng mà trở thành một quản gia bất lương. Nhà hiền triết Seneca ngày xưa nói rất đúng :”Nếu bạn không coi những gì bạn đang có thì dù bạn có cả thế giới bạn vẫn cảm thấy thiếu”.
Tư tưởng này đông tây gặp nhau :
Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn ?
Biết đủ ấy là đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ,
Biết nhàn ấy là nhàn, đợi nhàn bao giờ mới nhàn.
(Cổ ngạn)
- Người quản gia biết lo cho tương lai.
Đức Giêsu so sánh :”Con cái đời này đối xử với đồng lọai thì khôn hơn con cái ánh sáng”(Lc 16,8). Rồi từ đó Ngài kết luận :”Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang xây dựng Nước Chúa. Lời thách đố của Chúa có nghĩa là ta phải biến đổi tiền của vật chất thành phương tiện để mở mang, xây dựng Nước Chúa.
Bài học Chúa muốn dạy ta hôm nay là phải khôn khéo và mạo hiểm, phải dùng óc sáng kiến và tài sáng nghiệp để tạo cho ta một tương lai trong Nước Chúa, như người quản gia bất lương sửa sọan cho tương lai của mình trong nước trần gian. Tại sao ta sẵn sàng mạo hiểm trong những lãnh vực khác của cuộc sống và cảm phục người khác làm như vậy ? Nhưng còn việc liên hệ với Chúa ta lại thường đắn đo và dè dặt. Trong bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn so sánh cái cách thế người ta dùng trong những trường hợp có liên can đến những sự vật trần thế với những cách thế mà người ta dùng để đương đầu với những sự vật thiêng liêng.
Truyện : Đồng tiền trên trời.
Một người kia suốt đời chỉ lo thu gom tiền bạc, cho nên rất giầu. Khi chết, ông còn mang túi vàng theo mình đi sang cuộc sống bên kia. Đi một hồi, ông thấy đói. Bỗng ông thấy một quán ăn bên đường, liền ghé vào. Vì hà tiện, ông hỏi người chủ quán :
– Tô cơm nhỏ này giá bao nhiêu ?
– Chỉ một đồng thôi.
– Còn tô lớn kia ?
– Cũng chỉ một đồng thôi.
Thấy rẻ, ông gọi luôn hai tô lớn. Nhưng người chủ quán bảo :
– Ở đây chỉ xài lọai tiền-cho-đi thôi. Ông có không ?
Người hà tiện chỉ vào túi tiền của mình. Nhưng chủ quán nói :
– Đó chỉ là thứ tiền-lấy-vào. Ở đây không xài được.
– Thế tiền-cho-đi là tiền gì ?
– Khi còn sống, mỗi lần ông cho ai bao nhiêu đồng thì ông được bán lại bấy nhiêu đồng lọai tiền-cho-đi.
Ông nhà giầu lục lọi khắp nơi trong mình nhưng chẳng có đồng nào thuộc lọai tiền-cho-đi cả. Thế là ông phải nhịn đói.
Bao nhiêu đồng tiền cho đi là bấy nhiều đồng tiền để dành cho đời sau vậy.
.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Người ta kể rằng: thời Chiến quốc, Phùng Huyên phục vụ cho Mạnh Thường Quân, là tướng quân của nước Tề. Một lần kia, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng Huyên đi sang đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi ra đi, Phùng Huyên hỏi: “Thu xong nợ rồi có cần mua vật gì không?”. Mạnh Thường Quân bảo: “Xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về”. Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất cả những con nợ của chủ đến và nói: “Mạnh Thường Quân ra lệnh xóa bỏ tất cả các món nợ”, và để cho mọi người tin lời ông nói, Phùng Huyên đem đốt hết giấy nợ. Toàn dân đất Tiết rất vui mừng, tung hô vạn tuế.
Khi Phùng Huyên trở về, Mạnh Thường Quân ngạc nhiên thắc mắc: sao Phùng Huyên đi đòi nợ mà mau chóng thế, nên hỏi thu nợ xong chưa? Phùng Huyên trả lời: “Thu xong cả rồi”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Còn vật mua về đâu?”. Phùng Huyên nói: “Trước khi đi, tướng quân bảo tôi mua vật gì trong nhà còn thiếu, tôi trộm nghĩ trong nhà tướng quân chất chứa đầy những đồ quý giá, ngoài chuồng nuôi đầy bò ngựa, vậy vật tướng quân còn thiếu là điều nghĩa, nên tôi mua điều nghĩa đem về”. Mạnh Thường Quân hỏi: “Mua điều nghĩa là thế nào?”. Phùng Huyên đáp: “Tôi tha cho tất cả các con nợ và nhân đó thiêu hủy các giấy nợ, và được dân chúng vui mừng tung hô vạn tuế, tôi vì tướng quân nên mua được điều nghĩa về”. Một năm sau, vua nước Tề không dùng Mạnh Thường Quân làm tướng quân nữa, nên ông phải thu về đất Tiết ở. Bấy giờ rất đông người già trẻ lớn bé ra đường đón chào, hoan nghênh nhiệt liệt. Khi ấy Mạnh Thường Quân nói với Phùng Huyên: “Tiên sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, bây giờ tôi mới trông thấy”.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu cũng dạy: “Hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu”. Trước khi dạy điều trên, chúng ta thấy Chúa kể một dụ ngôn, qua dụ ngôn này Chúa dạy chúng ta hãy biết cách dùng tiền của để mua lấy điều nghĩa. Dụ ngôn được gọi là dụ ngôn người quản gia bất lương.
Anh được ông chủ tín nhiệm trao cho nhiệm vụ quản lý công việc kinh doanh làm ăn và trông coi tài sản của ông. Nhưng anh đã quản lý tồi tệ, làm ăn lem nhem, nên bị ông chủ đuổi, cho nghỉ việc luôn. Từ lúc được tin ông chủ thải hồi, anh đã khôn khéo tính toán cho tương lai đời mình, anh tìm cách qua mặt ông chủ một lần nữa và bịt mắt mọi người, kể cả các con nợ.
Anh cho gọi các con nợ của chủ đến mà trước đây chính anh đã thay mặt chủ cho họ vay mượn, người nào anh cũng giảm số nợ cho họ: Một con nợ về dầu ô-liu, anh giảm cho 50%, một người nợ lúa mì, anh giảm cho 20%… Từ con nợ của ông chủ, anh làm cho họ thành con nợ của anh, bằng cách giảm đi như thế. Đó là cách mua chuộc bạn bè, mua chuộc tình cảm bằng sự gian dối, đó là cách làm ơn cho người để sau này họ sẽ giúp đỡ anh, anh biến họ nên những kẻ đồng lõa, và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo anh. Cư xử như vậy, đối với chủ là bất lương và Chúa khen viên quản gia bất lương ấy, đã biết xử trí mưu lược lo xa cho mình để khi mất việc sẽ có người thương giúp mình.
Tại sao Chúa Giêsu lại khen cách làm bất lương của anh ta? Như thế có phải là Chúa đề cao sự xấu, là sự bất lương của viên quản gia không? Thưa, không bao giờ, Chúa không khen việc làm của người quản gia kia, vì việc làm của anh là bất lương, nhưng Ngài nhìn nhận rằng anh khôn khéo, tháo vát, mau lẹ xoay trở, Chúa bảo đó là sự khôn khéo theo kiểu thế gian. Nói cách khác, Chúa không dạy: hãy học thói gian tham biển lận của anh ta, Chúa cũng không dạy “mục đích biện minh cho phương tiện”, nghĩa là mục đích tốt thì phải có phương tiện tốt, và phương tiện tốt sẽ đạt mục đích tốt, chứ mục đích tốt không biện minh cho phương tiện xấu được. Thí dụ: không thể ăn cắp để làm bác ái, không thể gian tham để làm việc từ thiện. Cho nên, không thể dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt được: cây xấu sinh quả xấu, chứ cây xấu không thể sinh trái tốt được. Người quản gia đã dùng phương tiện xấu để đạt mục đích tốt cho tương lai đời mình.
Từ việc làm và cách xử trí của người quản gia này Chúa Giêsu liên tưởng đến phương diện nước trời, và Ngài tỏ ra đau lòng khi thấy người ta không mau lẹ và khôn khéo như vậy, Chúa đem ơn cứu độ đến qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài, nhưng sao người ta hững hờ và chậm chạp đến như thế. Người ta không lanh lẹ mau trí xoay trở đối với nước trời như người quản gia bất lương kia lanh lẹ mau trí xoay trở đối với việc ở đời này, bởi vì con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng.
Tóm lại, chủ đích của Chúa Giêsu khi nói dụ ngôn này là Ngài muốn dạy: phải biết khôn khéo, phải biết cố gắng, phải biết lo xa như người quản gia ấy, nhưng không bao giờ được bắt chước cách làm gian tham, biển lận và bất lương của anh ta. Xin Chúa cho chúng ta một nghị lực và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng tiền, đừng bao giờ vì tiền bạc mà bôi đen lòng mình: “Hoàng kim hắc thế tâm”. Và xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng tiền bạc của cải trần gian cho hợp tình hợp lý, nhất là cho tình yêu thương, bác ái, chia sẻ. Đó là một cách đầu tư cho cuộc sống mai sau, đó là một cách cư xử khôn khéo để có nhiều bạn hữu chân thành đón rước chúng ta vào hạnh phúc nước trời.
.
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN. NĂM C
Lm. Antôn
Trong các bài Kinh thánh tuần này, Chúa dạy chúng ta phải luôn tin yêu mến Chúa, khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Chúa ban đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu đời sau. Lời Chúa dạy bắt đầu ngay từ bài đọc 1 trích sách tiên tri A-mốt. Vào khoảng 1 ngàn 7 trăm 5 mươi năm trước Chúa Cứu Thế giáng sinh, nước Do thái, đặc biệt là miền Bắc, có nền kinh tế rất thịnh vượng, vì vậy dân chúng có một cuộc sống giàu có và hưởng thụ, nhưng không có tinh thần đạo đức, công bằng, bác ái và quảng đại. Họ sống ích kỷ và nhất là không còn chú ý đến đời sống tôn giáo và trung thành với Chúa. Họ tỏ ra rất thờ ơ trước những giới luật Chúa dạy về các ngày nghỉ lễ để cầu nguyện và thờ phượng Chúa. Trong bối cảnh này, ngôn sứ A-mốt được Chúa chọn và sai đi giảng dạy và khuyến cáo dân chúng về đời sống tinh thần, cũng như cho họ biết những hậu quả sẽ đến nếu họ không cảnh tỉnh và ăn năn quay trở lại. Ngôn sứ A-mốt cảnh báo rằng ngày Sa-bát và những ngày lễ là những ngày nghỉ, dành cho việc cầu nguyện và thờ phượng. Dân buôn bán và thương mại thù ghét lời khuyến cáo của ông, và nổi lên chống đối vì họ nghĩ sẽ bị thiệt thòi về tài chánh. Thậm chí họ còn có một thái độ bực bội và khó chịu vì họ cho rằng ngôn sứ làm mất thời giờ và cản trở công việc kiếm tiền của họ. Họ bỏ không đến đền thờ để thờ phượng, và chỉ chú trọng đến một việc có tiền và phải làm sao cho có thật nhiều tiền bất cứ dưới hình thức nào. Dân chúng đã coi tiền bạc hơn Chúa và bỏ Chúa mà thờ tiền. Vì vậy, ngôn sứ A-mốt cho họ biết nếu họ không từ bỏ cuộc sống này, thì sẽ lãnh nhận những hậu quả do việc họ làm như lời Chúa đã nói: “Ta sẽ không bao giờ lãng quên tất cả các việc chúng làm cho đến cùng.”
Trong bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca, Giê-su kể cho chúng ta nghe dụ ngôn người quản lý bất lương. Chúng ta sẽ thấy bài học chính và quan trọng không phải câu chuyện người quản lý bất lương, nhưng là lời khuyên dạy của Chúa về thái độ và cách sử dụng của chúng ta đối với tiền bạc. Chúa khuyên chúng ta khôn khéo sử dụng những ơn lành hồn xác Người ban cho chúng ta đời này, biết lo xa đầu tư cho cuộc sống đời sau, nhất là phải hướng cuộc sống về Nước Trời. Thật vậy, tác giả Lu-ca không quan tâm đến chi tiết của câu chuyện người quản lý này bất lương ở chỗ nào, chỉ biết anh ta bị tiếng phung phí tiền của chủ. Và ông chủ đã gọi anh ta đến để báo cho anh ta một tin xấu bị đuổi. Bàng hoàng, thình lình và bất ngờ như sét đánh! Bị tống ra khỏi nhà anh nghĩ sẽ đi đâu? Sinh sống thế nào? Vì thế anh vội vàng gọi các con nợ của chủ đến, làm ơn cho họ để sau này họ sẽ giúp đỡ anh. Chúng ta thấy cư xử như vậy đối với chủ là bất lương nhưng đó lại là sự khôn ngoan tính toán thế gian. Chúa khen sự khôn ngoan tính toán mau lẹ đó vì Người thấy con cái đời này khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa cảm thấy buồn lòng về những người tin vào Chúa, họ không tính toán khôn khéo mau lẹ như vậy về Nước Trời.
Vì yêu thương, Chúa Giê-su đã vâng lời và khiêm nhường sinh xuống trần để loan báo về hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Qua lời giảng dạy và những phép lạ lớn lao, Chúa đã biểu lộ tình yêu, lòng nhân từ và thương xót, nhưng câu hỏi là: “Tại sao con người hững hờ, lạnh nhạt và thậm chí nhẫn tâm từ chối Chúa như vậy?” Thánh Gioan Tẩy giả, vị tiên tri tiền hô cho Chúa, đã cảnh báo: “Rìu đã được mang đến đặt dưới chân cây, Thiên Chúa sắp phán xét thái độ của loài người” thế mà con người vẫn hờ hững. Họ đã không chuẩn bị sẵn sàng và mau lẹ đối với Nước Trời như người quản lý ở bất lương đã nhanh trí sắp sếp công việc cho cuộc sống ở đời này.
Nếu “con cái đời này” biết phải làm gì và cách nào đối với tiền bạc để lo liệu cho ngày mai, thì tại sao chúng ta, “con cái sự sáng”, lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện tại ở đời này để lo cho hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời của mình ở đời sau? Nếu căn cứ vào cách sử dụng tiền bạc để biết được có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại không thể hiện lòng trung tín với Chúa để bảo đảm cho chúng ta hạnh phúc chân thật đời sau? Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều chúng ta đã quảng đại chia sẻ. Chỉ khi nào chúng ta biết quảng đại trong việc bác ái và tốt lành, hy sinh và phục vụ, chúng ta mới thực là những quản gia trung tín và khôn ngoan làm theo ý chủ. Chỉ khi nào chúng ta biết coi tiền bạc là phương tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự “làm tôi Thiên Chúa.”
Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải khôn ngoan tính toán và chuẩn bị cho tương lai, không phải chỉ cho những năm tháng sống tại trần gian này, mà quan trọng hơn, còn cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời. Tiền bạc đời này có thể làm cho chúng ta quên đi, thờ ơ và lạnh nhạt với đời sống tinh thần, và nhiều khi có thái độ khó chịu trước lời Chúa dạy về tiền bạc và thái độ của chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng ta tấm lòng chân thành lắng nghe lời Chúa dạy, và khôn ngoan sử dụng những ơn lành Chúa ban cho chúng ta đời này, là phương cách đưa chúng ta đến gần, sống mật thiết với Chúa, và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước trời đời sau.
.
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
1- Dụ ngôn này trong quá khứ đã gây nhiều phiền toái lớn cho các nhà chú giải (crux interpretum). Ngày nay cũng vậy, người ta không đồng ý với nhau cách chú giải này. Vì thế các dòng sau đây không có cao vọng giải đáp tất cả các vấn đề có liên quan đến đoạn phúc âm này nhưng chỉ muốn nêu lên những điểm chính yếu của cách chú giải được người ta chấp thuận nhiều nhất (đó là cách chú giải của BJ) và trình bày vắn gọn một lối chú giải mới mà tôi cảm thấy thỏa mãn hơn.
2- Để hiểu rõ dụ ngôn và những áp dụng của nó, điều cốt yếu phải làm sáng tỏ là tính chất luân lý trong cách hành động của viên quản lý liên quan đến các giấy nợ; những điều khác chỉ là phụ thuộc. Ý tưởng chủ yếu là viên quản lý, trong quá khứ đã hành động cách gian xảo đối với chủ mình bằng cách ăn bớt một phần hoa lợi của ông chủ. Bây giờ lại tỏ ra bất lương nữa khi ký những văn tự nợ giả tạo gây thiệt hại thêm cho tài sản của chủ (đó là cách chú giải của A.Julicher, A.Bruce, F.Tillman, L.Marchal,…)
Nếu đó là ý nghĩa của dụ ngôn, thì làm sao ông chủ lại có thể tán dương viên quản lý, và Chúa Giêsu có thể rút ra từ hành động này một kết luận chấp nhận được, nếu không phải là một kết luận đối nghịch lại với hành động này, chẳng hạn như ở Lc 22,25-26 Chúa Giêsu nói: “Vua Chúa các dân thì cai trị họ… Phần các ngươi thì không thể…”. Nhưng thay vì đó, viên quản lý lại được khen ngợi về sự khôn khéo của ông. Dĩ nhiên bằng cách phân tích luận lý, ta có thể tách rời sự lo xa và khôn khéo khỏi các khía cạnh khác nơi hành vi của tên quản lý. Nhưng những lối phân tích tế nhị như thế có nguy cơ vượt ra ngoài tầm mức hiểu biết của những người ít được huấn luyện theo kiểu phân tích đó, và đám đông quần chúng Kitô hữu dù sao vẫn cảm thấy khó chịu khi Chúa Giêsu thiết lập một sự song đối giữa viên quản lý và các môn đệ. Lẽ nào Chúa Giêsu là Đấng rất thành thạo trong việc dạy dỗ con người, lại có thể đề xướng một dụ ngôn mơ hồ, đụng đến một vấn đề mà tất cả mọi người đều chê là phản luân lý như vậy?
Ngoài khó khăn này ra, hành động gán cho viên quản lý tự nó cũng có thể chấp nhận. Giả thiết là ông ta đã bỏ túi một phần hoa lợi thuộc quyền sở hữu của chủ hoặc đã lừa gạt chủ cách này hay cách khác, thì việc ông giảm bớt nợ nần cho các con nợ, nếu thật sự là của chủ mình, thì chỉ làm cho địa vị của ông đã bấp bênh, bây giờ lại thêm trầm trọng hơn. Thật vậy, ông không thể nào giữ kín hành vi này, vì phải tính sổ với chủ, mà theo dụ ngôn thì ông chủ biết ngay sự việc liền. Khó mà hiểu ngay được hành động của tên quản lý đáng khen là khôn khéo ở chỗ nào; không thực tế chút nào và cũng không mấy hợp lý khi nghĩ rằng Chúa Giêsu là tác giả của dụ ngôn này có thể tưởng tượng ra một hành động ít thực tế như thế.
Nhưng đừng quên chính Chúa Giêsu không đưa ra một lời phê phán luân lý về cách hành động của người quản lý. Ngài chỉ nghĩ là khôn khéo thôi. Ngay câu 8 (“và chủ khen người quản lý bất lương”) cũng không nhất thiết ngụ ý người quản lý đã thiếu thành thực trong hành động vừa nói; tĩnh từ “bất lương” đúng ra chỉ đánh giá quá khứ của viên quản lý thôi; ông đã bất lương trước khi làm hành vi mà ông mô tả, hành vi sau không nhất thiết là bất lương như trước. Chúng ta thấy một trường hợp tương tự trong dụ ngôn vị thẩm phán bạo ngược bị bà góa quấy rầy (Lc 18,2-8): Chúa Giêsu cũng vẫn gọi ông này là “bạo ngược” (vì quá khứ của ông) ngay trong lúc ông xử đúng cho bà góa.
3- Từ đầu thế kỷ này, một vài tác giả (M. Evers, bà M.Gibson, W, D. Miller, E.Campden-Cook, W.F.Howard, P.Gaachter) đã cố minh chứng dụ ngôn này phản ảnh một phương cách chiếm đoạt rất quen thuộc với người đông phương với thính giả của Chúa Giêsu cũng như các Kitô hữu đầu tiên. Lý luận theo tư kiến hơn là theo dữ kiện lịch sử, họ nghĩ rằng phải giải thích việc giảm nợ như là một sự từ khước của viên quản lý không nhận lợi suất mà đáng lý ra ông có quyền được hưởng. Đây là một hình thức “hối lộ” bán công khai vẫn còn thịnh hành ở Á châu (và chắc chắn khắp nơi): người trung gian có quyền giữ lại cho mình một phần hoa lợi thu được trong một dịch vụ buôn bán với tư cách là người được ăn huê hồng. Trong trường hợp viên quản lý đây, ông chỉ từ khước không hưởng quyền ăn huê hồng, làm như thế để lấy lòng cho con nợ của chủ mà không gây thiệt hại gì cho chủ.
Cách giải thích dụ ngôn tài tình như thế vừa được sửa chữa lại và khai triển thêm, nhưng lần này dựa trên nền tảng khoa học, do giáo sư J.D.M. Derrett, giáo sư luật Đông phương ở đại học Luân Đôn (Law in the New Testament, Londre, 1970, tr.48-77). Từ đó, cha Fitzmyer và các nhà chú giải khác đã dựa vào lối chú giải mới này. Tôi xin trình bày tóm tắt sau đây.
4- Trong xứ Palestine của dụ ngôn, theo luật Do thái liên quan đến vai trò người quản lý, thì địa vị này phải được kính trọng. Người quản lý không phải là một nhân viên được trả công, hay là người dẫn mối, nhưng toàn quyền thay mặt cho chủ và chủ phải tôn trọng những dịch vụ buôn bán của người quản lý. Trong trường hợp người quản lý lừa bịp chủ, luật pháp cũng không có một biện pháp nào bắt ông phải hoàn lại của mất; hình phạt có chăng cũng chỉ vài lời trách mắng mất uy tín và bị sa thải. Sau khi nhân được giấy sa thải, viên quản lý phải tính sổ liệt kê tài sản; việc này cần một thời gian chuẩn bị. Trong thời gian này ông vẫn là người đại diện cho chủ, được luật pháp cho phép hành động nhân danh chủ.
Cũng cần phải ghi nhận tính cách tối quan trọng của người Do thái về việc cho vay lấy lời. Luật cho vay lấy lời cấm thu lời trên những đồ cho người Do thái vay bất cứ thuộc loại nào (Xac 22,25; Lv 25,36; Đnl 23,20-21); nhưng người ta đã tìm mưu kế để qua mặt mặt lề luật. họ cho rằng lề luật có mục đích bảo vệ những kẻ túng quẫn khỏi bóc lột, vì thế nếu có thể minh chứng rằng người vay đã chiếm hữu một ít sản phẩm mà họ muốn vay thêm, và sự vay mượn đó không phải là tối cần thiết, thì việc cho vay ăn lời có thể chấp nhận được. Và nhờ cách giải thích lề luât như thế, người ta tổ chức khéo léo các dịch vụ thương mại rộng lớn mà không lỗi phạm lề luật. Hình như người Do thái đạo đức (muốn ký giao kèo không mang tiếng cho vay ăn lời theo nghĩa thánh kinh) có thể an tâm cho vay dầu và lúa mì, vì con nợ chắc chắn “có đủ dầu để thắp đèn” và “đủ lúa mì để nướng bánh” (những kiểu nói trích trong Mischna) nên không xem như là người túng quẫn. Đó là lý do tại sao dầu và lúa mì được dùng trong dụ ngôn. Tuy nhiên hoa lợi được đánh trên các sản phẩm đó thay đổi rất nhiều: trên lúa mì thì hoa lợi là 25 phần trăm, trên dầu oliva (có rất nhiều loại và có thể pha chế với các thứ dầu xấu) huê lợi có thể lên tới 100 phần trăm. Vì tính chất của giao kèo (hợp pháp theo mặt chữ của lề luật, nhưng thường ngược lại với tinh thần, vì con nợ thường là người túng quẫn) nên giao kèo thường được ký mà không cần nhân chứng. Viên quản lý trong dụ ngôn trả lại cho các con nợ những giấy nợ (có ghi cả vốn lẫn lời, số tiền lời hợp pháp theo mặt chữ lề luật, nhưng trái với tinh thần lề luật) và bảo họ viết lại giấy nợ mới chỉ ghi phần vốn phải trả mà thôi (vốn này sẽ hoàn lại cho chủ, còn viên quản lý từ chối không nhận tiền lời, mà ông có thể đòi hỏi cách hợp pháp theo mặt chữ lề luật).
Để hiểu nghĩa dụ ngôn, hãy lưu ý việc viên quản lý muốn được quần chúng (c.4) tán dương. Để được vậy, ông thi hành điều mà lề luật Thiên Chúa đòi hỏi: là không lấy lời (điều mà từ trước đến giờ ông thường làm, bằng cách tráo trở luật Thiên Chúa). Làm như thế ông không đợi chủ oán, vì khi cho vay, tiền lời là để cho cá nhân ông, và sự “hoán cải” của ông cũng không làm chủ thiệt hại gì. Thật ra ông linh cảm chủ sẽ tán thành hành động ông làm, và ông cũng sẽ được người ta kính trọng hơn nhờ thái độ đạo đức đó. Sự thực thi thẩm định tình hình (c.8), chủ đã khen người quản lý bất lương vì đã biết xử trí khéo léo.
Bây giờ dụ ngôn sẽ có nghĩa thế này: kể biết rõ bổn phận luân lý phải giữ mà không giữ, vì ham lợi lộc trần thế, phải buộc xét lại địa vị của mình và nại đến thiện ý của những kẻ trước đây y chả thèm quan tâm đến. Câu 8b là bài học luân lý của dụ ngôn: con cái đời này biết khi nào phải làm điều nên làm, tại sao phải làm và làm cách nào; khi sự việc có lợi cho chúng, con cái sự sáng, tuy được sống theo một nền luân lý cao hơn, vẫn không biết chứng tỏ có sáng kiến và óc quyết định khi làm việc của Thiên Chúa.
Câu 9 là phần áp dụng dụ ngôn: chúng ta được trực tiếp mời gọi dùng “tiền bạc bất lương” mà phục vụ Thiên Chúa (tiền kiếm được cách hợp pháp – theo luật loài người – nhưng thối nát trước mặt Thiên Chúa, như tiền thu được bằng lối xảo quyệt trình bày trên đây) số tiền đó cũng có thể mở đường vào nơi cư ngụ vĩnh cửu.
5- Điểm khó khăn chính yếu mà ta có thể đưa ra để chống lại cách giải thích mới này là nó dựa vào lề luật Do thái về việc cho vay ăn lời, trong khi Lc viết cho người Hy lạp. Vấn nạn khá quan trọng. Nhưng ta có thể giữ lại điểm cốt yếu trong cách giải thích này mà bỏ qua một bên việc nại đến các tập tục hầu như phổ quát của việc buôn bán có huê hồng mà người trung gian có quyền giữ lấy trong một dịch vụ thương mãi. Về điểm này, vì không biết đến luật lệ Do thái về việc cho vay ăn lời, các độc giả của Lc cũng có thể hiểu được đầy đủ ý nghĩa của dụ ngôn. Vì thế ta có thể xem cách giải thích này ít ra là có giá trị như các cách giải thích khác và có lẽ còn hơn nữa, vì hình như giúp ta hiểu rõ ý nghĩa dụ ngôn hơn.
KẾT LUẬN
Viên quản lý xảo quyệt là “con cái đời này” đã biết dùng tiền bạc để bảo đảm tương lai cho mình: bằng cách phân phát. Khi không còn tính đến mối lợi trần gian nữa, mà nghĩ đến những mối lợi đời đời thì “con cái sự sáng”, những kẻ đã đón nhận và trong hướng dẫn do ánh sáng của Thiên Chúa cũng phải tỏ ra khéo léo và hăng hái nắm lấy cơ hội để chuẩn bị tương lai như “con cái đời này” trong các mối tương quan với người đương thời để thăng tiến các việc trần thế.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1- Chính Đức Kitô cho chúng ta chìa khóa dụ ngôn này. Ngài rút ra một bài học về cách sử dụng các của cải vật chất: dùng của cải để kết bạn hữu trên trời.
Nếu Ngài có thể rút ra kết luận này, chính vì Ngài cho chúng ta thấy có sự tương đồng (analogie) giữa hoàn cảnh của chúng ta và hoàn cảnh của viên quản lý. Đức Kitô muốn nói: các ngươi giống như những người đang xử dụng của cải mà sớm muộn cũng bị lấy đi. Những của đó không thuộc về các ngươi nhưng các ngươi có quyền quản lý. Trong hoàn cảnh đó, con cái đời này phải làm gì? Họ vội vã tìm kiếm bạn hữu với những của cải họ đang sử dụng đó. Người đời tinh khôn hơn các ngươi. Họ thấy được hoàn cảnh bấp bênh của mình. Và họ vội vã kết nghĩa với bạn hữu phòng khi túng quẫn. Cho nên, chúng ta cũng phải làm như vậy. Bằng cách nào?
a/ Chúng ta giống như những người quản lý tài sản không thuộc về chúng ta. Những của cải vật chất mà chúng ta đang có đều thuộc về Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa là chủ các vật đó, là người sở hữu đích thật. Chúng ta chỉ là người quản lý.
b/ Điều quan trọng hơn là những của cải ấy sẽ được cất khỏi chúng ta cách gấp rút. Chúng ta biết mình chỉ được sử dụng trong một thời gian rất vắn. Một ngày kia, Chúa là người chủ đích thật sẽ cất khỏi chúng ta quyền quản lý và lấy lại tài sản của Ngài. Thật chúng ta ở trong hoàn cảnh giống như người quản lý trong dụ ngôn.
c/ Bấy giờ phải làm gì, nếu chúng ta là người tinh khôn: kết nghĩa với bạn hữu bằng những của cải đó.
Ba đặc điểm này chỉ dạy thái độ chúng ta phải có đối với của cải vật chất:
a- Chúng không thuộc về chúng ta.
b- Chúng sẽ bị lấy đi khỏi chúng ta.
c- Chúng chỉ nên được dùng để kết bạn.
Vì thế chúng ta phải:
a* Tránh bo bo giữ lấy các của cải mà phải sống như những người quản lý.
b* Thấy trước ngày bị hoàn toàn trắng tay.
c* Chỉ dùng của cải ấy để kết nạp bạn hữu.
Hậu quả thứ ba quan trọng nhất. Sự từ bỏ của cải sẽ không đi đến đâu, nếu không biết dùng để yêu thương và phục vụ anh em. Làm như vậy là chúng ta kết nạp bạn hữu. Nhưng còn quan trọng hơn nữa là những việc phúc đức để trở nên những người bạn hữu bào chữa cho chúng ta trước mặt Chúa, theo như các người đương thời của Chúa Giêsu đã thấy được. Và nhờ các bạn hữu là các việc phúc đức đó, chúng ta có thể an tâm một ngày kia sẽ được đón rước vào trong nhà Chúa.
2- Các của cải trần thế là phương tiện để chúng ta yêu thương nhau. Khi nào được dùng để làm vui lòng kẻ khác, những của cải ấy được biến đổi trở nên những giá trị vĩnh cửu.
Chỉ có một giá trị vĩnh cửu là: tình yêu. Chỉ có đức ái là sẽ không qua đi. Biến của cải đời này trở thành tình yêu, tình bạn, niềm vui là nhiệm vụ của chúng ta. Của cải được tạo ra để ban phát chứ không phải để chiếm hữu.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 25 TN_C
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm C mời gọi mỗi người chúng ta hãy biết tận dụng của cải ở đời này mà lo toan đến của cải tinh thần, vì của cải tinh thần mới là của cải chân thật, không hề hư hoại, và mới có thể đưa chúng ta vào Nước Trời.
Am 8: 4-7
Ngôn sứ A-mốt phê phán thói tham lam của những phú thương Sa-ma-ri: thay vì cử hành những ngày đại lễ để kính Đức Chúa, thì họ lại lợi dụng các ngày đại lễ để mà gian lận đầu cơ trục lợi từ những người cùng khốn và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
1Tm 2: 1-8
Lời cầu nguyện được định vị vào số những của cải mà người Ki-tô hữu sở hữu. Thánh Phao-lô xin ông Ti-mô-thê quan tâm đến tính phổ quát của lời cầu nguyện trong những buổi họp phụng vụ của Giáo Đoàn Ê-phê-xô, vì Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian duy nhất hoàn vũ của ơn cứu độ.
Lc 16: 1-13
Qua dụ ngôn người quản gia bất lương, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài hãy tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
BÀI ĐỌC I (Am 8: 4-7)
A-mốt là vị ngôn sứ bút ký đầu tiên. Ông công bố sứ điệp báo oán ở vương quốc miền Bắc (miền Ga-li-lê, thủ đô là Sa-ma-ri) vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Tuy nhiên, ông xuất thân ở vùng Tơ-cô-a, gần Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam, sống bằng nghề chăn cừu (1: 1) và chăm sóc cây sung (7: 14).
- Ơn gọi
A-mốt được Chúa gọi làm ngôn sứ của Ngài. Đây không lần đầu tiên cũng không là lần cuối cùng Thiên Chúa chọn một người chăn chiên để truyền đạt sứ điệp của Ngài. Chúng ta không biết Chúa gọi ông A-mốt trong hoàn cảnh nào, nhưng vị ngôn sứ nói về ơn gọi làm ngôn sứ của ông như không thể nào cưỡng kháng lại được: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã phán, ai chẳng nói tiên tri?” (3: 8).
Vốn là một người giản dị, quen với cuộc sống thanh đạm, gần gũi với thiên nhiên, A-mốt được Chúa sai đến vương quốc miền Bắc, vào lúc đó rất phồn vinh, để nhắc cho dân chúng nhớ những huấn lệnh của Thiên Chúa: thực thi công chính, sống khiêm hạ, bảo vệ những người bị áp bức và những kẻ nghèo hèn trong xứ.
- Bối cảnh vương quốc miền Bắc
Vào thời đó, dưới triều đại vua Gia-róp-am II, vương quốc miền Bắc trở nên thịnh vượng và thanh bình. Thời kỳ cực thịnh này kéo dài suốt bốn mươi năm, có thể được sánh ví với thời kỳ hoàng kim dưới triều đại vua Sa-lô-môn.
Tuy nhiên, chỉ lớp có quyền có thế mới hưởng được sự thịnh vượng này. Những quan lại, điền chủ và tầng lớp thương gia cấu kết với nhau ra sức áp bức bóc lột những kẻ nghèo hèn và thấp cổ bé miệng trong xứ. Giai cấp này huênh hoang tự đắc rằng chính nhờ tài trí của họ mà đất nước được vui hưởng cảnh thanh bình thịnh trị và nhờ vào tiền đóng góp của họ mà việc phụng tự ở những đền thánh trong vương quốc, như Bết Ên hay Ghin-gan, có được vẻ huy hoàng rực rỡ. Họ cho rằng Thiên Chúa phải hài lòng với họ, vì mọi việc diễn tiến tốt đẹp.
Vì thế, thực hành tôn giáo đã trở thành những buổi phụng tự phô trương và những lễ hội linh đình, nhưng chỉ là trống rỗng, bởi vì chúng không tác động đến lương tâm của quần chúng. Tôn giáo không có bất cứ ảnh hưởng nào trên đời sống luân lý, chỉ như một loại ngụy trang cho phép những kẻ quyền thế làm bất cứ điều gì họ muốn và như một thứ thuốc phiện để ru ngủ quần chúng quên đi nhưng cảnh cùng khổ và bất công mà họ phải chịu. Hậu quả rõ nét là sự bất công xã hội tràn lan, tương phản với những phẩm chất của dân Thiên Chúa.
- Nhân cách ngôn sứ của A-mốt
Đây là hoàn cảnh vương quốc miền Bắc mà ông A-mốt được sai đến để loan báo sứ điệp của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh bi thương như thế, vị ngôn sứ không thể không công kích dữ dội giai cấp cầm quyền thối nát và những kẻ giàu có hám lợi (5: 7, 10-12; 6: 1-14). Trong đoạn trích hôm nay, vị ngôn sứ tố cáo những phú thương lợi dụng các ngày đại lễ để gian lận đầu cơ trục lợi từ những kẻ bị áp bức và những người nghèo hèn trong xứ (8 : 4-6). Vị ngôn sứ nhân danh Thiên Chúa mà tuyên án: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (8 : 7).
Trong hoàn cảnh xã hội suy thoái về mặt luân lý như vậy, không thể nào khác hơn là phải công kích bằng những lời lẽ thẳng thắn, bộc trực, không vì bất kỳ ân ban lợi lộc nào có thể làm thay đổi cung giọng của vị ngôn sứ được và cũng không bất kỳ chống đối hay hăm dọa nào có thể làm cho vị ngôn sứ phải nao lòng mà chùn bước được. Không bao lâu sau đó những thành phần bị công kích phản ứng.
Hoàn cảnh được gói gọn vào một buổi chiều giữa ngôn sứ A-mốt và tư tế đền thờ Bết Ên là ông A-mát-gia. Trước đó, tư tế A-mát-gia đã mật báo với vua rằng ông A-mốt âm mưu chống lại vua ngay trên lãnh thổ của vua bằng cách tố cáo sự bất công và hăm dọa án phạt của Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, tư tế A-mát-gia bảo ngôn sứ A-mốt đừng đến đây quấy rầy họ và hãy trở về đất Giu-đa làm nghề ngôn sứ mà kiếm ăn. Sự căng thẳng giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ và sự bác bỏ của vị tư tế tham dự trước đến tám trăm năm việc các vị lãnh đạo tôn giáo chống đối sứ vụ của Đức Giê-su. Trong trường hợp Đức Giê-su cũng vậy, giai cấp lãnh đạo tôn giáo phải vận động đến chính quyền dân sự để khai trừ “tên phản động” dám phê bình chỉ trích tình trạng hiện hành.
Nhân cách của ngôn sứ A-mốt có thể được tóm gọn trong những lời nhận xét sau đây: “Không một ngôn sứ nào gần gũi với thế giới ngày nay bằng A-mốt. Ông đã can đảm tố cáo những bất công trong xã hội nước Ít-ra-en ở thế kỷ thứ tám. Ông đã trở nên lương tâm của đất nước và cất tiếng nói thay cho những người thấp cổ bé miệng. Bài học quan trọng mà A-mốt vẫn còn muốn nhắc nhở các Ki-tô hữu hôm nay đó là: công bằng xã hội là chuyện của tôn giáo. Lòng đạo đức thật sự được đo lường bằng lối sống ở phố chợ hơn là ở nhà thờ” (Nhóm phiên dịch CGKPV, Dẫn Nhập Các Ngôn Sứ, tr. 702).
BÀI ĐỌC II (1Tm 2: 1-8)
Ti-mô-thê vừa là một môn đệ vừa là cộng sự viên trung tín của thánh Phao-lô. Thánh nhân đã gặp người môn đệ này ở Lýt-ra, miền Tiểu Á, trong cuộc hành trình truyền giáo thứ hai của thánh nhân. Sách Công Vụ nói với chúng ta ông được cộng đồng chứng nhận là một người Ki-tô hữu đạo hạnh (Cv 16: 2). Thánh Phao-lô muốn ông đồng hành với thánh nhân trong những cuộc hành trình truyền giáo.
Cha ông là người Hy-lạp, mẹ và bà ngoại của ông là người Do-thái. Ngay từ thuở nhỏ ông đã được mẹ và bà ngoại nuôi nấng dạy dỗ Kinh Thánh, vì thế ông hiểu biết thấu đáo Kinh Thánh, như lời nhận định của thánh Phao-lô trong thư thứ hai gửi Ti-mô-thê: “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2Tm 1: 5). Thánh Phao-lô và ông Ti-mô-thê đã cộng tác với nhau mật thiết đến độ trong số những thư của thánh nhân có đến sáu bức thư đều có ông Ti-mô-thê đồng kính gửi.
Thánh Phao-lô đã ký thác cho ông Ti-mô-thê Giáo Đoàn Ê-phê-xô. Thánh Phao-lô rất yêu quý Giáo Đoàn này mà ngài đã thành lập và đổ nhiều công sức. Qua vị đứng đầu Giáo Đoàn, thánh nhân thăm hỏi hết thảy mọi thành viên trong Giáo Đoàn.
Thật khó để xác định niên biểu thư này, vì những năm tháng sau cùng cuộc đời của thánh Phao-lô chỉ được phỏng đoán. Tuy nhiên, thư thứ hai gửi cho Ti-mô-thê được viết chẳng bao lâu trước cuộc tử đạo của thánh nhân (năm 67), thư thứ nhất chắc chắn được viết sau thư thứ hai độ hai hay ba năm.
- Ơn cứu độ phổ quát
Thánh Phao-lô khuyên nên cầu nguyện không ngừng. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh tính hoàn vũ mà lời cầu nguyện phải mặc lấy trong các buổi họp cộng đoàn. Phải cầu nguyện cho hết mọi người, vì Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. Chính vì mục đích này mà lời cầu nguyện phải là cầu xin, khẩn nguyện và nài van. Thánh Phao-lô còn thêm “tạ ơn cho tất cả mọi người”, thái độ này hoàn toàn phù hợp với truyền thống Kinh Thánh, theo đó người tín hữu tin chắc rằng, lời cầu nguyện của mình được nhận lời. Nhưng thánh nhân định vị mình cách đặc biệt vào trong tinh thần Giáo Hội hướng lời cầu nguyện cộng đoàn theo chiều kích tạ ơn và gọi phụng vụ cốt yếu của mình là tạ ơn.
- Cầu nguyện cho tất cả những người cầm quyền
Thánh nhân đã bày tỏ – và giải thích – bổn phận của người công dân trong thư gửi cho các tín hữu Rô-ma: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Thật thế, làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ…” (Rm 13: 1-7).
Đừng quên rằng thánh Phao-lô xưa kia là một kinh sư; lập trường của ngài được sáng tỏ nếu chúng ta nhớ lại một sự kiện lịch sử quan trọng. Kể từ thời hoàng đế Au-gút-tô, người Do thái được hưởng đặc ân là không bị buộc phải thờ lạy hoàng đế như một thần linh, nhưng được phép cầu nguyện với Thiên Chúa của mình cho hoàng đế, mà không bị buộc phải kêu cầu thần Jupiter hay vị thần linh dân ngoại nào. Bao lâu đế quốc Rô-ma vẫn còn, dân Do thái được đặc quyền này. Vì thế, thánh Phao-lô không thể nghi ngờ rằng người Ki-tô hữu, xuất thân từ Do-thái giáo, bị chối từ được hưởng đặc ân này. Tuy nhiên, câu cuối cùng để cho thấy một mối lo lắng nào đó về tương lai: “để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh”.
- Chỉ có một Thiên Chúa và chỉ có một Đấng Trung Gian là Đức Ki-tô
Lời nguyện phổ quát mà thánh Phao-lô căn dặn đặt nền tảng trên sự duy nhất của Thiên Chúa và Đấng Trung Gian duy nhất là Đức Ki-tô. Lời tuyên tín mà thánh nhân công bố có thể là lời trích dẫn của một bản văn phổ biến trong Giáo Hội tiên khởi. Khởi đầu là lời khẳng định: “Vì Thiên Chúa thì chỉ có một”, tương tự với lời khẳng định khởi đầu lời kinh nguyện hằng ngày của người Do thái (shema). Tiếp đó, thánh nhân nhấn mạnh phẩm chất duy nhất của Đức Ki-tô: “Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người cũng chỉ có một: đó là Đức Giê-su Ki-tô”. Nhờ mầu nhiệm Nhập Thể, Đức Giê-su vừa là con người vừa là Thiên Chúa; vì thế, với tư cách là con người, chỉ duy một mình Ngài mới có thể “tự hiến làm giá chuộc mọi người”.
Diễn ngữ thánh Phao-lô dùng cũng là diễn ngữ mà Chúa Giê-su đã dùng theo Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28; Mc 10: 45).
Việc thánh Phao-lô nhấn mạnh phẩm chất của Đức Giê-su, Đấng Trung Gian duy nhất và phổ quát chắc chắn là lời đáp trả cho những niềm tin Do-thái giáo vẫn còn sống động giữa vài người Ki-tô hữu xuất thân từ Do-thái giáo, theo niềm tin này, các thiên thần được gán cho một vai trò cầu bầu. Thánh Phao-lô dựa những lời khuyên bảo của mình trên ơn gọi làm Tông Đồ dân ngoại của ngài.
Câu cuối cùng trở lại với động cơ cầu nguyện (kỷ thuật văn chương đóng khung). Thánh nhân đòi hỏi rằng cử chỉ giơ tay lên khi cầu nguyện phải tương xứng với tư thế sẵn sàng bên trong: “tâm hồn thánh thiện và đức ái huynh đệ”.
TIN MỪNG (Lc 16: 1-13)
Trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su giáo huấn những phẩm chất cần phải có để làm môn đệ Ngài, nhằm một mục đích duy nhất là được gia nhập Nước Trời: siêu thoát những của cải trần thế, từ bỏ bản thân, mang lấy thập giá của mình, sẵn lòng chịu trách nhiệm nghiêm trọng và xem ơn cứu độ như là của cải tối thượng, kho tàng không hề hư hoại. Chương 16 nêu lên vấn đề về thái độ đối với tiền bạc. Chương này bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và hoàn tất với dụ ngôn “ông phú hộ và anh La-da-rô nghèo khó”. Hai dụ ngôn này phụ thuộc lẫn nhau và soi sáng cho nhau.
Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: phần thứ nhất là dụ ngôn “người quản gia bất lương”, phần riêng của thánh Lu-ca; phần thứ hai, có chung với thánh Mát-thêu, là giáo huấn của Chúa Giê-su về việc quản lý của cải tinh thần, phần này hoàn tất với một suy tư về của cải.
- Vấn đề
Dụ ngôn “người quản gia bất lương” nêu lên nhiều vấn đề cho các nhà chú giải, nhất là vấn đề biết ai là người phú hộ. Danh xưng “kurios” được dùng ở đây có thể được hiểu là “Chúa”, như thế chỉ Đức Giê-su (thánh Lu-ca sử dụng tước hiệu này nhiều lần, trái với thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu), nhưng cũng có thể được hiểu là “ông chủ”, như thế chỉ gia chủ giàu có, ông đã thuê viên quản gia này. Theo tập quán Do thái thời đó, viên quản gia là người được toàn quyền thay chủ trông coi gia sản của chủ. Các nhà chú giải chia thành hai do “từ hai nghĩa” này.
Nhưng ngay liền sau đó, câu tiếp theo lại nêu lên vấn đề, ai đã có thể nói: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” nếu không là Đức Giê-su? Hơn nữa, khởi đi từ những lời: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”, không có gì phải phân vân nữa. Đây rõ ràng là biểu thức Chúa Giê-su sử dụng trong bài giảng trên núi.
Mặt khác, chúng ta nhớ rằng trong các sách Tin Mừng, đây không là trường hợp duy nhất Chúa Giê-su quy chiếu đến hạnh kiểm không gì tốt đẹp của nhân vật để từ đó Ngài rút ra bài học, ví dụ như viên quan tòa bất chính, “ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Viên quan tòa này, sau một thời gian dài từ chối biện hộ cho một bà góa, nhưng cuối cùng đành phải bênh vực bà góa này vì bà cứ năm phen bảy lượt van xin mãi đến inh tai nhức óc (Lc 18: 1-8). Nếu như Đức Giê-su không nhấn mạnh tính bất chính của viên quan tòa này, liệu nhân tố kích thích của dụ ngôn có thể được sinh động hay không. Cũng trường hợp như vậy đối với viên quản gia bất lương. Có một bài học mâu thuẩn phải rút ra từ sự khôn khéo của y.
- Bận lòng đến tương lai trần thế
Viên quản gia đã biển thủ của cải của chủ mình. Chuyện đến tai ông chủ, ông liền gọi anh đến và nói với anh: “Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Anh hãy thanh toán sổ sách công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa?”. Vì thế, anh bị lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, nếu không tìm được một lối thoát. Anh tự nhủ: “Mình biết phải làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi”; lúc đó anh vận dụng thủ đoạn xảo trá mà dụ ngôn mô tả. Anh biết tận dụng thời gian đương nhiệm còn lại của mình, nhờ của cải không phải của anh để mà sau này những con nợ của chủ biết ơn anh và hậu tạ anh.
Anh được chủ khen ngợi không phải tính bất lương của anh, nhưng sự khôn khéo, biết lo toan, tính toán làm sao cho tương lai của mình được đảm bảo sau này. Chính ở nơi những nỗ lực này mà Chúa Giê-su muốn thính giả của Ngài để tâm lưu ý đến. Ngài chuyển dụ ngôn từ tương lai trần thế sang tương lai vĩnh cửu. Nếu con cái ánh sáng để hết tâm trí vào ơn cứu độ của mình cũng sinh động như người quản gia bất lương này thì tốt biết mấy. Họ sẽ sử dụng tối đa cuộc sống tràn thế của mình để đảm bảo cho mình được tiếp đón trong Nước Trời: không phải tên biển thủ của dụ ngôn đã bày tỏ sự khinh miệt của anh đối với tiền của khi sử dụng nó như phương tiện để đạt cho bằng được mục đích của anh là đảm bảo cho mình một tương lai sao?
- Quan tâm đến tương lai vĩnh cửu
Chúa Giê-su phát biểu như một ông chủ sở hữu của cải tinh thần mà môn đệ của Ngài sẽ là những quản gia: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…”. Họ phải biết tỏ ra khôn khéo trong việc phân phát của cải tinh thần mà Ngài giao phó cho họ cai quản. Của cải tinh thần này mới là của cải chân thật duy nhất, không hề hư hoại. Họ phải chứng tỏ cho thấy mình xứng đáng với sự tín nhiệm của chủ: “Ai trung tín trong những việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong những việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em”.
Cuối cùng, Chúa Giê-su cảnh giác coi chừng đừng làm tôi hai chủ: “Thiên Chúa hay Thần Tài”.
.
Trầm Thiên Thu
Nói về mưu mẹo (mưu mô, mưu chước) chắc hẳn không ai “qua mặt” ma quỷ – vua lừa bịp, vua dối trá, vua mánh lới, vua xảo quyệt, vua quảng cáo, vua xạo, vua lưu manh,… Thật vậy, nó đã tỉ tê khiến bà Eva bùi tai nên siêu lòng, và rồi ông Adam cũng nghe vợ mà chịu chung số phận. Tiêu tùng! Ngày nay, không ít người cũng đã “chết dở” vì chiêu bài quảng cáo – bí quyết nói láo ăn tiền, nhưng được người ta khoái và công nhận. Thế mới chết!
Mưu phải có mẹo. Mẹo càng tinh xảo thì mưu càng thâm độc, khiến người ta càng dễ mắc lừa. Vì thế, rất cần sự khôn ngoan để trước tiên là “tự vệ” (bảo vệ mình), rồi mới có thể bảo vệ người khác. Khôn ngoan là điều rất cần thiết trong cuộc sống – cả đời thường và tâm linh. Bởi vì “tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa.” (Cn 1:1a)
Thật ngạc nhiên với nhận định của Robert A. Heinlein (1907-1988, văn sĩ về khoa học viễn tưởng, người Mỹ) nói: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo luôn luôn chẳng khác gì cái ác”. Còn kịch tác gia Menander (324-291 trước công nguyên, người Hy-lạp) nhận xét: “Tóc bạc không sinh ra khôn ngoan”. Ôi, vậy ư? Thông thường, tuổi già thì khôn ngoan, nhưng điều đó chưa chắc là mẫu số chung, tuy nhiên có điều chắc chắn: Càng nhiều tuổi càng nhiều tội. Thế thì lại càng sự khôn ngoan hơn nữa.
Nhưng có những trường hợp “đầu bạc” thực sự khôn ngoan, vì đó không chỉ là “vinh dự của hàng bô lão” (Cn 20:29) mà còn là “triều thiên vinh hiển được tặng ban cho người sống công chính” (Cn 16:31).
Khôn ngoan cũng liên quan nhiều thứ. Biết mình là sáng, biết người là khôn. Khổng Minh Gia Cát Lượng (Zhuge Liang, 181-234) nói: “Vấn chi dĩ thị phi nhi quan kỳ chí” – Muốn xem xét chí hướng của một người thì phải hỏi họ về điều phải trái, đúng sai. Mạnh mẽ hơn, Albert Einstein (1879-1955) xác định: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu bạn.” Thế mới là khôn ngoan – nghĩa là cũng cần có lòng can đảm.
KHÔN TỘI
Cũng có năm bảy đường khôn ngoan – khôn tội hóa khốn. Dễ lầm nên phải phân biệt rạch ròi: Khôn lỏi, khôn đểu, khéo léo, mánh khóe hay tinh quái? Lạnh lẹ hay ranh mãnh? Linh động hay mưu chước? Việt ngữ độc đáo lắm: Chữ KHÔN rất gần chữ KHÔNG, cả cách viết và cách phát âm – chỉ khác nhau mẫu tự G. Đúng là “sai một ly đi một dặm”, vì KHÔN ngoan cũng dễ biến thành KHÔNG ngoan như thường. Thật vậy, sách Khôn Ngoan nói: “Những lý luận quanh co khiến con người lìa xa Thiên Chúa.” (Kn 1:3) Lươn lẹo thì người đời cũng chẳng ai ưa chứ nói chi Thiên Chúa. Nhưng xã hội Việt Nam ngày nay có vẻ người ta thích lươn lẹo, ăn không nói có, lọc lừa người khác để mình được sống vinh thân phì da.
Kẻ ác là kẻ hèn. Càng hèn thì càng nhát, càng nhát thì càng ác, càng ác thì càng độc, càng độc thì càng ngốc, càng ngốc thì càng dại, càng dại thì càng khờ, càng khờ thì càng ngu, càng ngu thì càng ác. Đúng theo quy trình khép kín của cái vòng lẩn quẩn. Thật khủng khiếp, đáng sợ!
Thời nào cũng có người khôn, kẻ khốn. Ngôn sứ A-mốt xuất thân là một mục đồng ở miền Nam Belem, thuộc chi tộc Giu-đa. Ông được Thiên Chúa sai đi tuyên sấm cho vương quốc Israel, và ông đã can đảm hành động. Ông kêu gọi: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ. Các ngươi thầm nghĩ: ‘Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra?’. Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ” (Am 8:4-5). Người ta thường nói: “Vải thưa che mắt thánh”, hoặc: “Chiếc kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Với người đời còn chưa lừa được thì nói chi đối phó với Thiên Chúa, vì Ngài toàn năng và thấu suốt mọi bí ẩn.
Đôi khi Ngài im lặng chứ không phải Ngài không biết. Đừng ngu xuẩn mà suy nghĩ theo kiểu vô thần. Thánh Vịnh gia nói: “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con” (Tv 139:1-5). Thiên Chúa như vậy thì chúng ta còn có thể dùng mánh khóe nào mà trốn thoát Ngài chứ?
Trong cuộc sống đời thường, người ta ngông cuồng khi tìm đủ mưu mẹo để “đè bẹp” hoặc “chà đạp” người khác – nhất là đối với người dưới quyền hoặc người yếu thế hơn mình. Và còn hơn thế nữa, người ta tìm mọi thủ đoạn để lừa đảo người khác, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cuộc sống hằng ngày vẫn xảy ra những chuyện như thế ở khắp nơi – thậm chí ngay trong các gia đình, giáo xứ, cộng đoàn,… Người nghèo còn bị người ta đàn áp và bóc lột đến cả chiếc áo rách họ đang mặc, thế mà người ta vẫn ra vẻ nhân đạo mà “ngọt ngào” nói đến nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Giả hình rõ nét! Đó là cách “lấy vải thưa che mắt thánh” mà thôi. Tức nước thì vỡ bờ, đó là điều tất yếu. Con chó bị dồn vào góc tường thì nó cũng phải cắn lại. Con vật mà còn như vậy huống chi con người.
Thật đúng như Thánh Vịnh gia đã xác định: “Ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề; miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh; lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm.” (Tv 55:21-22) Lưỡi còn hơn gươm sắc bén, mà nó có thể như lửa thiêu rụi mọi thứ. Sống hay chết đều do cái lưỡi, (Cn 18:21) và nó chính là mối họa cho con người. (Hc 5:13) Ngay cả bốn thứ Thiện – Ác và Sinh – Tử cũng bị cái lưỡi chi phối. (Hc 37:18)
Lời khuyến cáo của tiền nhân rất chí lý: “Cẩn tắc vô ưu.” Chính Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề lời này: “Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng.” (Am 8:6-7) Thiên Chúa đã thề hứa thì không chút sai lệch. Ngài luôn thương xót trọn tình, sẵn sàng tha thứ, nhưng cũng rất công minh và chính trực, nếu không thì người nghèo và người thấp cổ bé miệng thiệt thòi quá. Vấn đề độc đáo là thế.
Là Đấng từ bi và nhân hậu, Thiên Chúa đặc biệt quan tâm những người nghèo khổ, cô thân, góa bụa, tù đày, tội nhân,… Ngài sẵn sàng bỏ tất cả mọi thứ để đi tìm cho bằng được những con chiên lạc. Bằng chứng là Chúa Giêsu đã nhập thể và nhập thế, sinh nghèo, sống nghèo, và chết nghèo. Ngài làm thật chứ không nói suông. Còn chúng ta có được chút nào, hay là chỉ khéo dạy người khác làm, còn mình thì “cứ vô tư”? Nếu thế thì… Ôi thôi!
KHÔN PHÚC
Thiên Chúa thấu suốt mọi sự, thế nên chẳng ai có thể giấu giếm hoặc tự biện hộ. (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20) Ngài là Thiên Chúa độc nhất, quyền phép vô song, các thần linh khác cũng chỉ là thụ tạo của Ngài mà thôi: “Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển, trước thánh nhan Chúa Trời nhà Gia-cóp, Người biến đá tảng thành hồ ao, và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.” (Tv 113:7-8)
Không có Ngài, chúng ta chỉ là hư vô. Ngài không chỉ tạo dựng chúng ta mà còn là sự sống của chúng ta, vì chính “thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63) Thánh Phaolô chân thành nhắn nhủ: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” (1 Tm 2:1-4) Rất mạch lạc, yêu thương, hiệp thông và hiệp nhất.
Để minh định mạnh mẽ hơn, thánh nhân cho biết thêm: “Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý. Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc.” (1 Tm 2:5-8) Cũng rất rạch ròi, không hề có gì văn hoa bóng bẩy, thế nên bất cứ tầng lớp nào cũng có thể hiểu. Chịu hiểu là khôn – khôn phúc. Không hiểu là vì không muốn hiểu, gọi là cố chấp – khôn tội.
Bóng tối cả thế gian này cũng không dập tắt được một đốm lửa nhỏ, nhưng bóng tối nguy hiểm vì khó có thể phân biệt chính xác. Không sợ kẻ xấu nhưng nó rình rập làm hại thì khó tránh, dễ bị nó hại – vì nó ở trong bóng tối nên khó nhận biết. Ma quỷ là “chuyên gia đen” như vậy.
Và rồi vào một ngày nọ, Thầy Giêsu nói với các đệ tử về chuyện người quản gia bất lương, lươn lẹo và mưu mô. Người ta tố cáo với ông chủ về việc hắn đã phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến và quyết định sa thải. Người quản gia lưu manh liền tìm mánh khóe cho cuộc sống tương lai. Bụng bảo dạ: “Ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!” (Lc 16:3-4) Thế rồi hắn mưu mô tính toán, liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, người nợ 100 thùng dầu ô-liu thì được giảm còn 50 thùng; người nợ một ngàn giạ lúa thì được giảm còn 80 giạ. Rất mánh khóe, khôn lỏi và ranh mãnh. Cũng chỉ vì kế sinh nhai, vì miếng ăn mà tự giẫm đạp nhân cách và nhân phẩm của mình. Nhục nhã quá! Không chỉ vì miếng cơm, manh áo, hắn còn vì tự ái mà dám làm bất cứ điều gì, kể cả điều độc ác nhất. Nỗi nhục nhã nhân đôi!
Miếng ăn liên quan sự sống, dù chỉ là sự sống phần xác, thế nhưng kẻ hèn thì chỉ biết đến thế thôi, không thoát khỏi cái bóng của mình. Sự ăn uống là “đệ nhất khoái” trong “tứ khoái” của nhân phàm. Miếng ăn có thể rất lớn và rất quý, nhất là khi đói. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Bản năng sinh tồn của con người rất mạnh, người ta sẵn sàng hạ sát lẫn nhau vì miếng ăn. Thằng Bờm không cần bất kỳ thứ gì khác, dù những thứ rất mắc tiền và rất giá trị, lúc đó nó chỉ cần “nắm xôi” mà thôi. Thế như chuyện Thằng Bờm không đơn giản như thế, mà có điều thâm thúy hơn: Nó biết chắc có nhận những thứ kia thì gã quan tham kia cũng chẳng cho, thế nên cứ lấy nắm xôi cho chắc ăn. Kẻ đểu mưu mô thâm độc lắm!
Cuộc sống đơn giản mà nhiêu khê, không khéo mắc bẫy kẻ ác. Ca dao Việt Nam mỉa mai: “Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.” Cũng chỉ vì miếng ăn mà người ta có thể dùng mọi thủ đoạn thâm độc, có khi giết chết một người chỉ vì một số tiền nhỏ – mà người bị hại không là người xa, kẻ lạ, có thể là thân nhân, thậm chí là cha mẹ. Thật đáng sợ thế thái nhân tình! Đồng tiền “nhỏ” thôi (mảnh giấy rộng vài chục cm) nhưng “giá trị” to lắm (theo cách hiểu của lòng tham).
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu lắc đầu nên Ngài nói thẳng: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.” (Lc 16:8) Thật hay khi người Việt gọi là “tiền tệ” hoặc “tiền bạc”. Nó chẳng là gì, chỉ là tờ giấy với những con số được người ta quy ước khác nhau, thế nhưng nó có mãnh lực kỳ lạ, thậm chí là ma lực khiến người ta khó cưỡng lại, sẵn sàng xử tệ và xử bạc với nhau. Người ta dễ sa đọa vì tiền trong chốc lát mà không biết.
Bản chất đồng tiền không xấu, mà nó hóa xấu vì người dùng nó. Chúa Giêsu dạy bài học quan trọng về cách sử dụng đồng tiền qua lời căn dặn – và cũng là lời khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?” (Lc 16:9-12)
Và Ngài xác định: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.” (Lc 16:13) Tiền không phải là Tiên, nhưng biết sử dụng khéo léo thì nó giúp thăng Tiến và rất Tiện (thuận tiện), không khéo thì nó hóa bần Tiện, và nó sẽ Tiễn biệt chính mình.
Tiền bạc không là gì, nhưng nó có thể xác định một con người thực chất là tốt hay xấu, Khổng Minh Gia Cát Lượng nói: “Lâm chi dĩ lợi nhi quan kỳ liêm” – Dùng lợi lộc, tiền bạc, công danh để xem sự liêm chính của một người. Người liêm chính thì không đánh mất mình vì lợi lộc, tiền bạc, công danh. Một tay giơ cao hô hào “liêm chính, chí công, vô tư” nhưng tay kia thò ra sau “kiếm chác” bằng mọi mánh khóe. Vô cùng hèn hạ!
Giữa Thiên Chúa và tiền bạc, chắc chắn ai cũng phải tự quyết định chọn một trong hai, vì Ngài cho phép chúng ta sự tự do. Vì thế, hãy cẩn trọng kẻo hối hận không kịp, và phải luôn cảnh giác kẻo “thần khẩu hại xác phàm” (nói bậy hại thân). Chính Chúa Giêsu cũng đã dạy: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.” Với cách dịch ngày xưa cũng có cái hay: “Xin Cha cho chúng con rày hằng ngày dùng đủ.” Có lẽ “cách xin” này hay hơn, bởi vì giàu quá hay nghèo quá cũng có thể xa Chúa, chỉ cần ĐỦ là được.
Sống cho đúng Đạo Trung Dung khó lắm. Thật tuyệt vời với lời cầu xin của tác giả sách Châm Ngôn: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói: ‘Đức Chúa là ai vậy?’ hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con.” (Cn 30:8-9)
Lạy Thiên Chúa toàn năng và chí thánh, xin ban đức khôn ngoan để chúng con biết luôn luôn chọn Chúa và tuân theo Thánh Ý Ngài trong mọi hoàn cảnh; xin Ngài đặc biệt thương xót những người thiếu thốn – trong đời thường và tâm linh, xin ban ơn thông minh để họ chân nhận chỉ có Ngài là cùng đích và cứu cánh; xin giúp mọi người hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc sống mà Ngài muốn; xin ban bình an cho Giáo Hội và thế giới, cách riêng với Việt Nam và những quốc gia chịu nhiều đau khổ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng”(Am 8,7). Vì sao Thiên Chúa lấy danh mình mà thề những lời đanh thép như thế? Ngôn sứ Amos đã cho chúng ta biết cái lý do. Đó là vì sự gian ác bất công của một số người giàu có trong xã hội nước Israel thời bấy giờ. Tính chất gian ác của sự bất công mà họ gây ra thật đáng lên án vì nạn nhân chính là những người nghèo khổ, cô thân, kém phận. Số phận của các nạn nhân này được ví không hơn gì đôi dép. “Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy đứa cùng khổ” (Am 8,6).
Đọc Thánh Kinh, đặc biệt những lời từ miệng của Con Thiên Chúa làm người, chúng ta nhận ra chân lý này: hình như Thiên Chúa dễ khoan dung về những lầm lỗi mà con người xúc phạm đến Người, nhưng Người có vẻ rất bất bình trước những điều gian ác mà con người gây ra cho nhau, nhất là cho những người nghèo hèn, thấp cổ bé phận. Nhân chuyện ông Phêrô hỏi rằng khi có người anh em xúc phạm đến mình thì phải tha thứ cho họ mấy lần thì Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về “một người mắc nợ mà không có lòng thương xót (x.Mt 18,23-35).
Anh “không có lòng thương xót này” mắc nợ đức vua những mười ngàn yến vàng thế mà chỉ với hành vi sấp mình bái lạy và xin khất nợ một kỳ hạn thì đã được đức vua tha bỗng tất cả số nợ khổng lồ. Mức nặng nhẹ của một lỗi hay tội có thể tăng hay giảm tùy vào đối tượng mà hành vi lỗi tội ấy xúc phạm. Theo góc nhìn này thì quả thật mọi hành vi lỗi tội của con người xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng là Chúa Tể càn khôn, thì đều “to lớn và nặng nề” khó bề đền trả được như món nợ “mười ngàn yến vàng” minh họa. Thế mà ông vua trong câu chuyện dụ ngôn xem ra hào phóng cách khác thường. Tuy nhiên khi nghe biết chuyện cái anh “trúng số độc đắc” này lại thiếu lòng thương xót với người bạn vốn mắc nợ anh ta vỏn vẹn chỉ trăm đồng, thì đức vua đã đổi ngược thái độ cách dứt khoát với anh ta và sai gia nhân bắt tống giam anh này vào ngục cho đến khi trả hết món nợ kếch xù kia.
Tình yêu thật có nhiều điều như nghịch lý. Nhiều đấng bậc mẹ cha dễ dàng bỏ qua nhưng lầm lỗi mà con cái xúc phạm đến bản thân mình nhưng dường như không thể chịu nỗi cái cảnh chúng hành khổ, đày đọa những đứa anh em, chị em kém may mắn. Sau khi xác định giới luật tình yêu là mến Chúa hết lòng hết sức hết linh hồn và yêu thương tha nhân như chính mình, thì Chúa Giêsu đã không lấy việc cầu nguyện hay dâng lễ vật vào Đền Thờ để minh họa, nhưng đã đưa ra hình ảnh người Samaritanô nhân hậu, người đã có lòng thương xót một nạn nhân đi từ Giêrusalem về Giêricô bị bọn cướp trấn lột và đánh nguy kịch, bằng cách chăm sóc giúp đỡ nạn nhân cách tận tình mà không chút tính toán thiệt hơn (x.Lc 10,25-37).
Khi nghe câu chuyện dụ ngôn về người quản gia bất lương, chắc chắn ít ai ngây thơ đến độ nghĩ rằng Chúa Giêsu dạy chúng ta bắt chước sự ranh ma của anh quản gia ăn gian tiền bạc của ông chủ. Chắc chắn sau khi biết được kế ma mãnh của anh này thì dù có chép miệng khen, nhưng rồi thế nào ông chủ cũng sẽ trừng trị anh ta đích đáng. Nội dung chính của câu chuyện dụ ngôn nằm ở câu kết luận: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9).
Chúng ta cần phải xác định rõ hạn từ “tiền của bất chính”. Chắc chắn Chúa Giêsu không bao giờ dạy chúng ta sử dụng những thứ tiền của kiếm được cách bất chính, bất lương hay phi pháp. Thế thì phải hiểu như thế nào đây. Không ngại ngần để khẳng định rằng “Tiền Của bất chính” ở đây phải được hiểu là một mãnh lực xấu. Hầu hết các bản dịch Kinh Thánh đều ghi là “the Mammon of unrighteousness” hay nghĩa tương đương. Nhưng cũng có một vài bản dịch dùng hạn từ “Worldly Wealth” hay “Base Wealth”. Hạn từ “Mammon” nhắc nhớ chúng ta sự thật này: Khi của tiền được tôn phong lên hàng thần thánh thì chắc chắn trở thành một thế lực bất chính. Chúa Kitô đã cảnh báo: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”(Lc 16,13). “Vai mang bị bạc kè kè, nói quấy nói quá chúng nghe rầm rầm”. Khi đã đặt niềm tin vào sức mạnh của tiền bạc thì người ta dễ bị cám dỗ không chỉ lao mình vào những hành vi bất nhân, thất đức mà còn bị cám dỗ tự phong thần phong thánh cho bản thân mình.
Thánh Phaolô khẳng định rằng mọi sự thuộc về chúng ta. Chúng ta thuộc về Đức Kitô và Đức Kitô thuộc về Thiên Chúa. Không gì hơn là hãy trả của cải vật chất về đúng vị trí của nó. Nó là của cải chứ không phải là thần tài. Biết dùng của cải, tiền bạc để làm phát triển tình tương thân tương ái là một trong những phương thế sử dụng của tiền cách hữu ích cho hạnh phúc của chúng ta hôm nay và ngày sau. Nhiều tín hữu phân trần với các vị mục tử rằng: Với chúng con, vấn đề không phải là ở chỗ sử dụng mà là ở khâu tìm kiếm tiền bạc. Đây là một vấn nạn mang tính hiện sinh. Khi của tiền đi vào bằng con đường bất chính thì sự thường nó sẽ đi ra bằng con đường bất nghĩa, bất lương. Chính vì thế sẽ không thừa nếu chúng ta tự đặt câu hỏi: Tôi tìm kiếm của tiền vì mục đích gì? (để làm gì?) và tôi đang kiếm tìm của tiền theo cách thế nào? có chính đáng, hợp pháp, công minh không? Cũng xin đừng quên xem xét cách thế sử dụng tiền bạc của chúng ta. Dù thuộc quyền sở hữu của mình nhưng nếu chúng ta sử dụng của cải cách hoang phí thì cũng lỗi đức công bình và dĩ nhiên đáng bị kết án cách nghiêm minh.