Ngày 16 tháng 12 Chân phước Xê-bát-ti-a-nô Ma-gi Linh mục (1414-1496)

Ngày 16 tháng 12
Chân phước Xê-bát-ti-a-nô Ma-gi
Linh mục (1414-1496)

Tiểu sử
Chân phước Xê-bát-ti-a-nô Ma-gi là một tu sĩ Ða Minh vĩ đại ở thế kỷ XV. Cậu sinh tại Bơ-rét-xi-a năm 1414. Ngay từ thời thơ ấu, cậu đã là một thiếu niên gương mẫu và đạo đức. Khi lên 15 tuổi, cậu được trao tu phục Dòng Ða Minh tại một tu viện nằm trong giáo hạt nơi cậu sinh trưởng.

Suốt cuộc đời, thầy Xê-bát-ti-a-nô là một tu sĩ nhiệm nhặt, thầm lặng và khổ chế. Hơn nữa, thầy có một trí thông minh sắc xảo nên đã nhanh chóng đạt được các học vị về thần học. Tu viện Bơ-rét-xi-a vẫn còn lưu giữ những bản viết tay của người. Những tài liệu này đã khẳng định tầm hiểu biết uyên thâm của người về lãnh vực thần học

Sau thảm họa Dịch đen, mọi người đều rơi vào tình trạng thật bi thảm. Cơn dịch hoành khắp châu Âu đã gây thiệt hại đến với mức không thể tưởng tượng được, làm cho hàng giáo sĩ và các tu viện lâm vào tình cảnh hết sức tang thương. Các cuộc cải tổ lần lượt diễn ra khắp nơi. Trong Dòng chúng ra, hình thức “hiệp hội” đã quy tụ các tu viện mong muốn được cải tổ dưới sự điều hành của một tu viện trưởng. Ở Lom-bác-đi-a cũng hình thành những hiệp hội như vậy, và tu sĩ Xê-bát-ti-a-nô Ma-gi bắt đầu xuất hiện trong các hiệp hội cải tổ này. Cha lần lượt làm tu viện trưởng ở Bơ-rét-xi-a, Lô-đi, Cơ-rê-mô-nê, Pơ-lê-xan-xê, Be-ga-mô, và người còn điều hành toàn bộ hiệp hội cải cách trong suốt hai nhiệm kỳ.

Cha thường xuyên triệu tập tu viện hội để khích lệ anh em cần phải trở về với đời sống đạo đức. Khi bệnh dịnh hoành hành ở Bơ-rét-xi-a, một mình cha tiên phong phục vụ các bệnh nhân và chăm sóc họ với tinh thần hy sinh xả kỷ. Chính cha là người đã khởi công xây dựng tu viện “Ðức Ma-ri-a đầy Ân sủng” tọa lạc ở vùng ngoại ô của thành phố Mi-lăng. Cha luôn tỏ lòng kiên nhẫn và cư xử dịu dàng đối với những tội nhân để tránh những khả năng có thể gây tổn thương cho đời tư của họ. Anh em đều ghi nhận rằng, cha thường chọn các tu viện nghèo nhất làm nơi tá túc và thường lưu lại một thời gian lâu hơn tại các tu viện này. Khi cha đến tu viện Mi-lăng để thi hành việc cải tổ, tại đây chỉ có 7 tu sĩ, thế nhưng, lúc cha rời khỏi tu viện, số tu sĩ đã tăng lên đến 60 người.

Ở độ tuổi 80, cha được tái nhiệm chức vụ lãnh đạo Hiệp hội ở Lom-bác-đi-a. Cha tiếp tục thực hiện một chuyến viếng thăm các tu viện một lần nữa. Anh em đều ghi nhận rằng, chưa bao giờ lòng nhiệt thành của cha mạnh mẽ như thế. Vì đã cao niên nên không thể tiếp tục đi bộ được nữa, cha đành phải cưỡi ngựa trong các cuôc hành trình. Chuyến kinh lý áp cuối của cha được thực hiện tại Mi-lăng, dù anh em cố gắng nài giữ người lưu lại, nhưng người vẫn thực hiện chuyến kinh lý cuối cùng tại tu viện thánh Ma-ri-a Cát-ten-lô tại Giơ-noa gần một bến cảng. Khi đến nơi, người nói : “Chính nơi đây mới là nơi tôi nghỉ ngơi vĩnh viễn !” Vừa về đến phòng riêng, người xin được lãnh nhận các bí tích sau hết. Người an nghỉ trong Chúa ngay sau đó, thọ 82 tuổi.

Khi hay tin người vừa mới qua đời, các tín hữu khắp nơi đổ về vây quanh thi hài người tỏ lòng kính nhớ và thương tiếc. Sau đó, người được mai táng trong một ngôi mộ dưới chân bàn thờ. Ðông đảo khách hành hương ngày ngày lũ lượt đến kính viếng người. Năm 1755, nhân một cuộc cải táng tập thể, anh em nhận thấy thi thể người hoàn toàn còn nguyên vẹn. Ðây là một trong những bằng chứng lạ thường để lập án phong thánh cho người. Năm 1760, Ðức Cơ-lê-men-tê XIII đã tôn phong cha Xê-bát-ti-a-nô Ma-gi lên hàng chân phước.

Lời nguyện : Lạy Thiên Chúa là Ðấng tín thành, Chúa đã ban cho chân phước Xê-bát-ti-a-nô trở nên mẫu gương sống Tin Mừng trọn hảo. Nhờ gương sáng của người, xin cho chúng con luôn hướng tới đức ái trọn hảo, tiến triển về đời sống thiêng liêng nhờ biết khổ chế, ngõ hầu chúng con được thông phần vinh quang và sự sống vĩnh cửu của Ngài. Chúng con cầu xin