THÁNH TÔMA ĐINH VIẾT DỤ
Linh mục dòng Đaminh – (1783 – 1839)
Kính ngày 26 tháng 11
Trong 38 Tử đạo thuộc gia đình Đaminh Việt Nam.
Trích “Uống Nước Nhớ Nguồn”,
Linh mục Px. Đào Trung Hiệu OP, Chân Lý 1988.
Tranh sơn dầu : họa sĩ Phêrô Lê Hiếu OP.
Hành trang chuỗi mân côi
Giả thiết có ai đặt câu hỏi như sau : “Anh sắp bị giam tù lâu ngày, anh muốn mang theo cái gì ?”. Mỗi người chúng ta sẽ có câu trả lời riêng, nhưng xoay quanh hai nhu cầu là tiền bạc và đồ dùng thường nhật. Câu trả lời bằng hành động của thánh Tôma Dụ lại rất khác. Tài sản duy nhất, vũ khí duy nhất, cũng là hành lý duy nhất của ngài là một chuỗi tràng hạt Mân Côi. Suốt đời cha đã đọc, đã sống và truyền bá kinh Mân Côi cho mọi người, giờ đây cha tiếp tục phó thác bản thân cho sự bảo trợ của Mẹ Maria.
Một lời hiến dâng.
Tôma Đinh Viết Dụ sinh khoảng năm 1783, tại làng Phú Nhai, tỉnh Nam Định. Được Chúa kêu gọi, từ bé, cậu đã quyết tâm sống đời tu trì. Sau khi thụ phong linh mục, cha Dụ xin nhập dòng Đaminh và khấn ngày 21.12.1814. Cha là một tông đồ nhiệt thành dấn thân vì lợi ích các linh hồn. Đồng thời cha cũng là một tu sĩ gương mẫu về đời sống chiêm niệm, ngày đêm chìm đắm trong suy gẫm cầu nguyện, đến nỗi các bạn trong dòng đã gọi ngài là “Thánh Brunô Việt Nam”.
Cha Tôma Dụ đã hoạt động tông đồ nhiều nơi, trước khi tới họ Liễu Đề, Bùi Chu, thay thế cha Phêrô Tuần bị bắt năm 1838. Ngày 20.3.1839, dưới thời vua Minh Mạng cấm đạo, tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 quân lính bao vây, lục soát làng Liễu Đề, vì có người chỉ điểm báo tin “Danh Trùm Vọng” tức cha Hemoisilla Liêm đang ở đó, nhưng lính không bắt được cha Vọng. Phần cha Dụ, khi vừa hoàn tất thánh lễ tại nhà bà Anrê Thu, được tin quan quân đã vây kín làng, biết không kịp đến nơi trú ẩn cách đó hơi xa, cha cải trang thành người làm vườn qua nhà bên cạnh lúi húi ngồi nhổ cỏ. Quân lính đi ngang qua không biết, nhưng người tố cáo nhận ra được và nói : “Đạo trưởng đấy”. Thế là cha bị bắt và dẫn đến quan đang ở đình làng. Cha bình tĩnh nói : “Tôi là Đạo trưởng, có nhiệm vụ coi sóc giáo hữu ở đây”.
Tiếp đó, quan hỏi về thừa sai Vọng và các linh mục khác ở đâu, cha nhất quyết không trả lời chi cả. Quan tức giận cho lục soát khắp người xem có tiền bạc giấy tờ gì không. Nhưng ông hoàn toàn thất vọng, vì chỉ có một chuỗi tràng hạt Mân Côi, quân lính tịch thu và đánh cha 21 roi. Cha vui vẻ chịu đòn, không một lời than van oán trách. Bà Anrê Thu, vì không kịp cất giấu đồ lễ, nên cũng bị bắt trói và giữ tại đình làng 24 tiếng đồng hồ mới được về.
Xin vâng ý Cha
Cha Tôma Dụ bị đóng gông vào cổ, tay chân mang xiềng xích như một tội phạm, và bị giải lên tỉnh Nam Định. Các quan ở đây tiếp tục tra vấn nhiều lần, khuyên dụ cha đạp lên Thánh Giá. Nhưng mặc cho những lời dụ dỗ hay dọa nạt, cha Dụ vẫn cương quyết không xúc phạm đến Thập Giá, và không cung khai điều gì hại đến các tín hữu. Cha bị đánh đạp tàn nhẫn nhiều lần, lần thứ nhất 90 roi, lần hai 30 roi, lần khác 20 roi và phải đón nhận nhiều lời mắng nhiếc chế nhạo của dân chúng tò mò đến xem.
Sau những cuộc tra tấn, cha Dụ bị tống giam vào ngục, ban ngày mang gông xiềng, ban đêm bị cùm chân, thêm vào đó là chịu đói khát, chịu nóng nực hôi hám khổ cực khôn tả. Vị tông đồ của Chúa chẳng những tỏ ra nhẫn nhục, mà còn vui vẻ coi đó là những cơ hội tốt để suy niệm và bước theo chân Đức Kitô tử nạn. Chứng nhân Giuse Hiền thuật lại chuyện mẹ của ông ta, giả làm hành khất vào tận ngục thăm cha. Khi thấy cha tiều tụy vì những cuộc tra tấn, bà khóc lên nức nở, cha nói với bà :
“Sức lực tôi tuy giảm, nhưng tôi còn có thể chịu đựng được nữa. Chúa chúng ta đã chịu bao cực khổ để cứu độ nhân loại, tôi cũng sẵn lòng chịu những sự khổ này để nên giống Chúa Kitô phần nào”.
Để danh Chúa cả sáng
Lần thứ hai bà vào thăm, cha Dụ cho biết những cực hình phải chịu sau này, cha cảm thấy không đau đớn như trước, hình như Chúa đã giảm bớt sự đau khổ cho cha. Khi bà chào từ biệt, cha nói : “Tôi không biết ngày nào sẽ được hiến dâng mạng sống vì Chúa, có thể anh chị em không còn gặp tôi nữa. Bà hãy cầu nguyện nhiều, xin Chúa ban cho tôi ơn nhẫn nại chịu đựng tất cả những điều người ta gây cho tôi, để danh Chúa được cả sáng”.
Sau sáu tháng giam cầm và tra tra tấn, quan tuyên bố bản án với những lời lẽ như sau :
“Đạo trưởng Tôma Đinh Viết Dụ bị kết án trảm quyết vì tội truyền bá Gia Tô tả đạo. Các quan đã hết sức khuyên dụ, dọa nạt và tra tấn để bắt y quá khóa theo luật nước, nhưng y không chịu. Y đã trở nên chai đá không gột rửa được những dị đoan đã quá ăn sâu… Do đó, mọi người thấy rõ y là kẻ điên khùng cố chấp bất trị, đáng khinh dể. Vậy phải nghiêm trị, còn phàn nàn gì nữa”.
Thực tế, cha Dụ nghe bản án có phàn nàn chi đâu. Ngày 07.11, vua Minh Mạng ký án. Ngày 12.11, án về tới Nam Định. Khi ấy có cha Đaminh Nguyễn Văn Xuyên cũng thuộc dòng thánh Đaminh đã bị bắt ngày 18.8 được đưa tới trại giam chung và cùng bị án tử với cha Dụ. Hai anh em gặp nhau trong tù tay bắt mặt mừng, hàn thuyên tâm sự. Hai cha giải tội cho nhau, an ủi và khuyến khích nhau kiên trì tới cùng.
Mừng ngân khánh trên thiên quốc
Ngày 26.11.1839, hai vị tông đồ Chúa bị điệu đến nơi xử án. Hai vị ung dung bưởc đi giữa một đoàn quân oai vệ, có các quan cưỡi voi chỉ huy với cờ quạt chiêng trống, và theo sau là đông đảo dân chúng. Vai mang gông, tay mang xiềng, hai vị chứng nhân vừa đi vừa cầu nguyện, dáng điệu hân hoan khiến mọi người phải sửng sốt bỡ ngỡ. Quan hỏi lần chót xem nếu chịu xuất giáo sẽ được tha. Hai cha trả lời ngắn gọn: “Không” rồi tiếp tục cầu nguyện cho tới khi đến pháp trường Bảy Mẫu.
Bà Maria Ơn có mặt tại buổi hành quyết thuật lại rằng : “Tôi thấy hai cha quỳ xuống, chắp tay lại, mắt hướng lên trời, lính cưa gẫy gông, chặt đứt xích sắt, trói tay vào cột rồi chém cổ hai cha”. Sau khi thi hành án trảm, lý hình tung đầu hai cha lên cao ba lần và nói : “Đầu đạo trưởng đã bị chém đây”.
Cha Tôma Đinh Viết Dụ hưởng thọ 56 tuổi, đã lãnh phúc tử đạo đúng vào năm kỷ niệm ngân khánh linh mục của cha. Một mùa ngân khánh được ghi vào lịch sử Giáo Hội. Thi thể hai cha được an táng ngay tại pháp trường. Đến tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng về Lục Thủy.
Đức Lêo XIII suy tôn linh mục dòng Đaminh, cha Tôma Đinh Viết Dụ lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-6-1988, đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Từ đó hài cốt vị tử đạo được đặt trong hòm gỗ sơn son thiếp vàng trưng bày tại đền thờ Phú Nhai. Muôn đời sẽ mãi mãi ghi nhớ hình ảnh người chứng nhân đức tin, một người con yêu của Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi.