Ngày 06.12: Thánh Giuse Nguyễn Duy KHANG, TOP

THÁNH GIUSE NGUYỄN DUY KHANG.

Thày giảng, dòng ba Đaminh – (1832 – 1861)
Kính ngày 06 tháng 12

Trong 38 Tử đạo thuộc gia đình Đaminh Việt Nam.
Trích “Uống Nước Nhớ Nguồn”,
Linh mục Px. Đào Trung Hiệu OP, Chân Lý 1988.
Tranh sơn dầu : họa sĩ Phêrô Lê Hiếu OP.

Một môn sinh trung thành.

Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang được các tín hữu Việt Nam tôn kính trong số bốn thánh tử đạo Hải Dương. Tuy thánh nhân tử đạo sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh dự với linh mục Almato Bình, hai Giám mục Valentinô Vinh và Hermosilla Liêm, vì đã cùng đồng lao khổ với ba vị huynh trưởng đó trong dòng Đaminh.

Là người trợ tá của đức cha Hermosilla Liêm, thày Giuse Khang đã theo sát người cha chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính vây bắt Đức cha, thì với nhiệt tâm của thánh Phêrô tông đồ xưa trong vườn Cây Dầu, thày định dùng võ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thày đã nghe lời của vị mà mình muốn bảo vệ. Thày chấp nhận bị bắt để làm chứng cho điều cao thượng hơn. Làm chứng cho tình thương, cho lòng nhân ái và thứ tha của Tin Mừng.

Một chủng sinh đạo đức

Giuse Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao Mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các con vào đời sống đạo ngày từ nhỏ. Nhưng cha cậu đã sớm qua đời, cậu được mẹ săn sóc tận tình. Bà lo liệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốn hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Matthêu Năng dòng Đaminh.

Sau mười năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đaminh, và được anh em tín nhiệm bầu làm “trưởng tràng”, điều hành mọi công việc chung trong nhà như lao động, nấu ăn, liên lạc với các bề trên. Mặc dù bận rộn, thay Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp xúc với thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng luôn luôn hòa nhã với hết thảy mọi người.

Khi đó, đức cha Hermosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận tình : từ việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các thư luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày còn đào hang trú ẩn cho hai người nữa.

Mẫu gương can đảm.

Giáo hội Việt Nam lúc ấy đang trong giai đoạn bách hại khốc liệt dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo công giáo trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân tháp ngày 5.8.1861. Theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu công giáo, dù già trẻ lớn nhỏ, nam hay nữ, đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. Các tín hữu bị khắc trên má chữ Gia Tô Tả Đạo và tên làng, gia đình bị phân tán, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.

Trong bối cảnh đó, ngày 18.9, đức cha Hermosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. Linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: “Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt”. Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: “Tôi nhất định theo Đức cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì”.

Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu giai đoạn sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng phó thác và tâm tình sẵn sàng hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.

Ba tuần lễ đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong một hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành “Tòa Giám mục lưu động” của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp đức cha Valentinô Vinh và linh mục Almatô Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn vị thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa vì cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho giáo hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.

Một hôm gia đình Trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai, vì tức giận với cha mẹ, nên tố cáo ông bà tội chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai thì bắt.

Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai thày, ngài nói: “Đừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa”. Thày Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn đức cha khả kính và chợt hiểu ra ý ngài, thày chỉ nói được một lời : “Thưa vâng”, rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.

Vị tử đạo Hải Dương

Một tháng rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày tổ chức cho cả phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.

Đặc biệt ở trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. một lá thư thày viết : “Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin anh em cầu nguyện cho tôi”.

Trong lá thư khác thày viết : “Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ, phải đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn”.

Ngày 6.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của thày ngày 1 tháng 11 trước đó. sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể ngay ở ngoài ruộng.

Năm 1867, theo lệnh của đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đã dời hài cốt em của mình về nhà nguyện Kẻ Mốt. Ngày 20.5.1906, đức Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân phước. Ngày 19-6-1988, đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.