Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
NL: HÃY TRỞ VỀ
ĐC: NẾU CÁC NGƯƠI
DL: MỘT NIỀM PHÓ THÁC
HL: CHÍNH VÌ YÊU
KL: LẠY THÁNH GIUSE
Lời Chúa: Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 4,5-42)
5 Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy : “Chị cho tôi xin chút nước uống !” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói : “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói : “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức Giê-su trả lời : “Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”
15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy : “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp : “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo : “Chị nói : ‘Tôi không có chồng’ là phải, 18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người : “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ … 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này ; còn các ông lại bảo : Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết ; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23 Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi : “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta : 29 “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?” 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng : “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32 Người nói với các ông : “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau : “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?” 34 Đức Giê-su nói với các ông : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35 Nào anh em chẳng nói : Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em : Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái ! 36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục ngữ “kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng ! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả ; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”
39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo người phụ nữ : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”
Nước trường sinh (12.03.2023)
Tiến sâu vào tinh thần mùa chay, bài đọc một hôm nay cho chúng ta một chủ đề mang sắc màu tự nhiên, nhưng lại ẩn chứa những ý nghĩa vượt thời gian. Không những thế, từ phạm trù tự nhiên, mở ra một tiến trình ân sủng cao vời cho vươn tới siêu nhiên, cho đạt đến tận cùng sự vinh hiển, phúc phận mà Thiên Chúa chuẩn bị cho con cái loài người từ muôn thuở.
Khát nước. Một điều không ai không có, không thời đại nào không xảy ra, không thời gian nào không là hiện thực.
Chỉ có điều, việc con người khát nước được ghi lại nơi Thánh Kinh hôm nay có chủ đích của Thần Khí, một chủ đích đầy tình thương xót trải muôn muôn thế hệ. Trình thuật sách Xuất Hành cho biết cơn khát cộng đồng dân Ít-ra-en ở trong sa mạc, một bối cảnh tuyệt vọng với não trạng con người. Họ khát nước quá độ, đến phải kêu trách Mô-sê. Điều này mang ý nghĩa: cũng giống như nhân loại qua ngàn muôn thế hệ khát yêu thương chân thật, khát bình an vĩnh cửu, khát hạnh phúc vĩnh tồn, khát sự sống đời đời đến rên rỉ cầu khẩn hay than trách trời cao. Trùng trùng những con tim và tâm hồn trong đau khổ tột cùng, ngỡ như vô tận, đã hướng nhìn lên Chúa. Thể hiện những cơn khát ngỡ như đạt tới vô biên, làm sao không động đến lòng trắc ẩn của Đấng Tối Cao! Từ tâm trạng con người mang hậu quả của tội nguyên tổ, mang cơn khát cháy muốn trở lại địa đàng xưa, muốn nối kết nghĩa ân ngàn đời với Thiên Chúa, muốn được hạnh phúc với Người và trong Người ở chốn thiên thu vinh phúc. Muốn hát ca trong thiên cung vĩnh cửu để ngợi khen và cảm tạ tri ân tình thương xót Chúa dành cho con người…
Cùng nằm trong “cơn khát” ngàn đời của nhân loại, nhờ tin, thánh Phao-lô Tông Đồ chợt nhận ra “Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” Đúng vậy, để có thể tiếp cận nguồn suối vô biên có thể giải cơn khát triền miên của nhân loại. Con người phải kê môi mình vào cạnh sườn của Đức Ki-tô- Người Tử Tội Thập Hình, mà quan Phi-la-tô cùng với những người lãnh đạo tôn giáo của dân Ít-ra-en ngày đó kết án để uống. Đó chính là nguồn nước trường sinh do Chúa Giê-su trực tiếp giới thiệu với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp “Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” “Nước tôi cho” không phải được nhận lấy nơi ly, cốc hay chum, vại được đặt vào bàn tay con người. “Nước tôi cho” ở nơi mạch nguồn sự sống thần linh, nơi Trái Tim Con Thiên Chúa nhập thể đã chảy ra đến giọt cuối cùng của tình yêu vô biên. Nước thiêng cao quý nầy được tượng hình qua mầu nhiệm Thánh Thể và lời Phúc Âm, hai nguồn lương thực trường sinh bởi trời.
Trong ý nghĩa này, người phụ nữ Sa-ma-ri là hình ảnh của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Những con người đã sống trong tình cảnh giống như người phụ nữ có nhiều chồng nhưng bất hợp pháp, tội lỗi và bất trung “Người bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo: “Chị nói: “Tôi không có chồng” là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.” (Ga 4,16-18) Tức là gian díu thiết tha với thụ tạo, sống trong đam mê tựa như người phụ nữ sống với nhiều người đàn ông song không phải là chồng mình. Nói cách khác đi và rộng hơn, con người đang sống trong đam mê dẫn đến mất đi nghĩa tình và sự công chính với Thiên Chúa. Trong bối cảnh chung và riêng này của nhân loại, một bối cảnh đem lại nhiều cay đắng, đau khổ và khắc khoải không yên cho đến chết. Chết rồi, con người vẫn còn trăn trở phận mình trước thềm vĩnh cửu. Làm cho luôn khát mãi một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc, mong được thỏa lòng những khát vọng sâu xa, cùng được sống vui vẻ hạnh phúc đời đời. Trong chương trình tuyệt hảo đầy yêu thương, và cực cùng thương xót các tội nhân của Chúa Cha. Chúa Giê-su đã được sai đến, Người mang đến nhân gian mạch suối nguồn trường sinh và hạnh phúc ấy. Đồng thời, Đấng Cứu Độ tha thiết muốn cho con người có thể tiếp cận, uống được mạch suối nguồn sự sống nầy. Nên chính Người đã giới thiệu cho người phụ nữ Sa-ma-ri, tức là qua Phúc Âm, giới thiệu cho toàn nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên, muốn uống được suối nguồn sự sống chúng ta phải tin vào giá máu tình cứu chuộc của Chúa Chiên, như vị thánh Tông Đồ dân ngoại đã dạy “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.”
Tình Yêu Hoa Cỏ
MỘT LẦN GẶP GỠ
Hôm nay thánh Gioan kể rành rọt cuộc gặp gỡ giữa chị Sammari với Đức Giêsu bên bờ giếng thật là hay và “ấn tượng” để đời: Giờ cao điểm giữa trưa nắng cháy, Đức Giêsu mệt, đói bụng, khát nước… Đang tay không, giếng thì sâu, bỗng có một phụ nữ đẩu đâu gánh vò gầu ra. Đức Giêsu khẽ “ngỏ lời”: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7b). Chao ôi chị ấy… “bật” lại: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Đàn bà con gái gì mà… gớm ghiếc! “Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp với người Samari” (kẻ thù truyền kiếp). Quên cả cơn khát thể xác Đức Giêsu bảo: “Nếu chị nhận ra ân huệ Chúa ban, và ai là người nói với chị… thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. (Ga 4,10). Chị cãi lại: “ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi…” (Ga 4,11-12a). Nhưng Đức Giêsu bảo: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 13-14). Bắt đầu thấy “lợi” chị đổi ý: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga 4,15). Hay quá! sau một hồi “lắng nghe” Chúa giải thích, chị biến đổi khác trước một trời một vực: người xa lạ thành “fan” hâm mộ, danh giới hận thù giữa người Samari và Do Thái bị phá bung, người sẵn nước thành kẻ ăn xin, người xấu thành đẹp, là người tội lỗi (năm đời chồng bất hợp pháp) bỗng chị trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng. “Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: ‘Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.” (Ga 4, 28-30). Kết quả là một mùa vàng bội thu: “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4, 39-42).
Chúa ơi! từ cái cơn khát giữa trưa (mười hai giờ) thật đáng nhớ bên bờ giếng hôm ấy, cho đến cơn khát Chúa kêu trên đỉnh cao Thập Tự: “Tôi khát!” (Ga 19,28). Và cho đến hôm nay Chúa vẫn “khát”, Chúa khao khát các linh hồn, Chúa khát con! Chúa chỉ no thỏa khi Thánh ý Chúa Cha được thực hiện: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”. (Ga 4, 34). Lâu nay con ngu ngơ tưởng mình khập khễnh đi tìm Chúa, nào ngờ chính Chúa tìm con. Xin cho con biết chớp lấy cơ hội ngàn vàng để gặp, để nghe, để thân thưa với Chúa, để trong Chúa con được no thỏa nước hằng sống. Cùng Chúa con lạị “thi hành ý muốn của Cha” trong anh em, những người Chúa cho con gặp trong đời. Amen.
Én Nhỏ
GẶP GỠ ĐỨC KI-TÔ
1. Ghi nhớ:
“Vì nước tôi cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga,4.14)
2. Suy niệm:
Bà không thích nghe ông hát, nên cằn nhằn với ông hoài:
– Ông già rồi còn hơi sức đâu mà ca với hát. Để cho tụi nhỏ nó hò hát thì hợp hơn.
Chuyện là năm ngoái, vào dịp lễ mừng kính Thánh Cả Giu-se,vừa là bổn mạng của giáo xứ, cũng là quan thầy của Cha nữa nên ngoài chương trình mục vụ cha xứ đề ra là làm tuần tam nhật cầu nguyện, tĩnh tâm ba ngày để học hỏi đào sâu về những nhân đức của thánh nhân.
Chính ngày thì kiệu rước cung nghinh Thánh Cả trước thánh lễ mừng và sau đó, là dự tiệc liên hoan. Trong bữa tiệc này có mục văn nghệ.Cha xứ giao cho mỗi đoàn thể phải có ít nhất mộ tiết mục. Nếu hay sẽ được phần thưởng.
Ông với tư cách đại diện cho Huynh đoàn Đaminh trong giáo xứ đăng ký hát một bài, bởi vậy mà mấy ngày nay ông phải tập đi dợt lại, luyện giọng sao cho hay và phải thuộc lòng ca từ của bài hát mà ông đăng ký thể hiện.
Mặc dù thấy bà chẳng ủng hộ, chỉ bàn ra, song ông vẫn cứ kệ, mê mải kiên trì tập dợt.
Sau buổi tối liên hoan hôm đó.Ông về nhà và trao cho bà một gói đồ rồi phấn khởi nói:
– Đây là phần thưởng Cha tặng tôi vì hát hay, nay tôi biếu lại cho bà.Đấy nhé, nếu tôi mà nghe lời bà thì làm sao có quà mang về để cho bà, phải không?
Đêm đó bà thao thức chẳng ngủ được.Bà miên man suy nghĩ, bà nhận thấy rằng:thời gian gần đây mình thường hay gắt gỏng, không còn đắc nhân tâm ông mấy nữa… Nhìn ông ngủ say bà hiểu rằng tối nay ông rất vui.Bà cũng nhận ra rằng:thời gian gần đây ông thay đổi nhiều;nhẫn nhục, hiền hòa và yêu thương bà hơn. Do vậy bà cảm thấy mình thật hạnh phúc và hãnh diện vì ông.
Cũng lúc đó văng vẳng bên tai bà ca từ của bài hát mà ông mới trình bày thành công trong buổi văn nghệ tối hôm nay: “Gặp gỡ Đức Ki-tô biến đổi cuộc đời mình.Gặp gỡ Đức Ki-tô đón nhận ơn tái sinh.Gặp gỡ Đức Ki-tô chân thành mình gặp mình.Gặp gỡ Đức Ki-tô nảy sinh tình đệ huynh…” (Nhạc và lời Lm.Tiến Lộc).
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh sử Gioan tường thuật lại sự việc Chúa Giê-su đến gặp gỡ một phụ nữ Samaria, trong cuộc đối thoại đó chúng ta nhận thấy Đức Giê-su đã tường bước hướng tâm hồn người đối thoại đến những điều cao cả hơn, tốt đẹp hơn.Mà cụ thể là việc phải tôn thờ Thiên Chúa không phải ở chỗ này hay nơi kia,mà là trong chính tinh thần và chân lý.Sau cùng thì người phụ nữ và đám đông chứng kiến đã nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống; và họ đã tin theo Ngài.
Thành ngữ của người Pháp có câu: “Bạn hãy nói cho tôi biết bạn thường giao thiệp với ai, rồi sau đó tôi sẽ nói về bản thân bạn.” Chúng ta có thường gặp gỡ, “giao thiệp” với Chúa Giê-su không?.Chúng ta có năng đến với Ngài qua việc cầu nguyện, đọc Kinh thánh, tham dự thánh lễ và nhất là có kết hợp mật thiết với Ngài bằng việc lãnh nhận Bí tích Thánh Thể không?
Chỉ khi chúng ta thường xuyên gặp gỡ Chúa thì chúng ta mới có được ơn nâng đỡ, sự phù trợ, ủi an và chắc chắn Chúa sẽ hướng dẫn chúng ta tìm đến đích điểm của cuộc sống là Chân lý và Sự Thật. Sau cùng chính Ngài sẽ ban chúng ta “nguồn nước vọt lên sự sống đời đời.”.
3. Cầu nguyên:
Lạy Chúa. Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời cho nhân loại, Xin cho chúng con luôn biết tìm đến với thứ lương thực mang lại sự sống đời đời;đó ham mê đọc Lời Chúa và mang ra thực hành trong suốt cả cuộc đời của chúng con.Có như vậy thì cuộc đời của chúng con sẽ được nên nghĩa thiết với Chúa; và đó là niềm vui, là hạnh phúc mà chúng con sẽ đón nhận được ngay trong cuộc sống trên trần gian này của chúng con. Amen.
4. Sống lời Chúa:
Thể hiện lòng yêu mến Chúa bằng việc. Mỗi ngày cố gắng dành thời gian để đọc một đoạn Kinh Thánh rồi mang ra thực hành.
***
MỤC LỤC
3. Chỉ có Chúa mới lấp đầy được
4. Cơn khát đam mê – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
5. Giòng nước hằng sống – Cố Lm. Hồng Phúc
8. Trong Thánh Thần và Chân Lý
1. Thiên Chúa ở đâu?
Phải thờ phượng Thiên Chúa ở Sichem hay ở Giêrusalem?
Chúa Giêsu đã đưa ra một lời giải đáp. Ngài khẳng định rằng Thiên Chúa không bao giờ bị khoanh vùng, Ngài cũng không bao giờ là Chúa riêng của một người hay một dân tộc nào, bởi vì Ngài là Cha chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không một người nào, không một dân tộc nào và không một tôn giáo nào được độc quyền chiếm giữ Ngài cho riêng mình, hay nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hiện diện trên đất nước của mình hay trong đền thờ của mình.
Không. Chúa Giêsu đã khẳng định với người thiếu phụ Samaria: Đã đến giờ ác ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.
Thiên Chúa là thần khí, mà thần khí thì vô hình nên ở đâu cũng có. Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi: Trời là ngai toà của Ngài còn đất là bệ chân của Ngài. Ngài không cần nhà để ở và hơn nữa, không một nơi nào dù nguy nga tráng lệ đến đâu chăng nữa xứng đáng với Ngài. Trái lại Ngài có thể hiện diện ở bất kỳ nơi nào, nhất là qua mầu nhiệm nhập thể, Ngài có thể hiện diện trong chuồng bò tại Bêlem, tạm trú bên Ai Cập, vất vả tại xưởng thợ Nadarét, để rồi sau đó rảo bước khắp nơi trên mọi nẻo đường Palestine, đến với mọi người Do Thái, Hy Lạp, cũng như Rôma. Kẻ có đạo cũng như người ngoại đạo, người đạo đức cũng như kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa là thần khí nên Ngài tự do tuyệt đối, không ai có thể giam hãm Ngài được. Thánh Phaolô khi đến Athen, đã gián tiếp nói cho dân Hy Lạp biết rằng họ cũng thờ phượng một Thiên Chúa như thánh nhân, tuy họ không biết Thiên Chúa ấy là Đấng nào và thánh nhân còn nhìn nhận rằng họ cũng thuộc dòng giống của Thiên Chúa, bởi vì chính nhờ nơi Thiên Chúa mà tất cả chúng ta được sống và hiện diện.
Một khi đã xác tín Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, chúng ta không được nhân danh Ngài mà gây chia rẽ và hận thù, trái lại phải nhân danh Ngài mà yêu thương đoàn kết với nhau. Thực vậy đối với Chúa Giêsu thì cách thế diễn tả lòng kính mến Thiên Chúa một cách sâu xa và trọn vẹn nhất, đó là yêu thương anh em của mình. Cách thế phụng thờ Thiên Chúa đúng theo ý Ngài muốn, đó chính là phục vụ anh em. Bởi vì yêu mến Chúa thì phải tuân giữ điều răn của Ngài, mà điều răn Ngài truyền dạy đó là chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Bởi vậy, không phải khi chúng ta xây dựng những ngôi thánh đường hay những gian cung thánh nguy nga tráng lệ là chúng ta có thể làm cho mọi người nhận ra chúng ta là những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực, nhất là khi chúng ta dùng những đồng tiền bất chính để xây dựng nhà thờ. Trái lại chỉ có tình yêu thương anh em bằng tinh thần phục vụ, nhất là đối với những người khổ đau và nghèo túng, mới là cách thế chứng minh rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, và nhất là ở những nơi nào con người biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau. [Mục Lục]
2. Bên bờ giếng Giacob
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:
Ý tưởng thứ nhất đó là nước
Mỗi khi đi làm thuỷ lợi giữa đồng không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới thấy quý những giọt nước hiếm hoi.
Dân Do Thái trong Cựu Ước cũng đã trải qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về miền đất Hứa, họ đã hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào. Đồng thời qua dòng nước vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa đã chứng tỏ Ngài là Đấng đem lại sự sống cho họ.
Với Chúa Giêsu thì khác, từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ nữ Samaria một thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do Thái và người Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do Thái thì người Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa tránh, thế mà qua đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận như một dòng nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn. Ngài đã xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên sửng sốt và từ sự sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi cuối cùng nàng đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu bằng cách xin nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là người được lãnh nhận nước ban sự sống.
Ý tưởng thứ hai đó là nơi thờ phượng Chúa.
Người Samaria có đền thờ của mình tại núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ của họ tại Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới chính là nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay người Do Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng vẫn không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa, người Do Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng. Còn người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết vào nơi thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích hợp cho công việc tế tự.
Người phụ nữ Samari hẳn muốn nhờ Chúa Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài là người của Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha. Chính sự thờ phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ cha con với Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình, hay chúng ta đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên ngoài? [Mục Lục]
3. Chỉ có Chúa mới lấp đầy được trái tim khao khát của con người.
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-Thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Bài đọc I, sách Xuất Hành 17, 3-7)
Thế nhưng ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì trên thế gian có thể làm cho họ được no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt.
Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng hôm nay (Ga 4,4-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải chia tay để tìm hạnh phúc với người thứ sáu; mà cũng chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi múc nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp.
Chính vì thế mà Chúa Giêsu khẳng định với người phụ nữ Samari: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại”. Ngài muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.
Triết gia người Đức, ông Schopennauer khám phá: “những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”… lại càng ngày càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4,13-14)
* * *
Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong tay Ngài”.
Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4,13-14)
* * *
Lạy Chúa Giêsu, chúng con sung sướng được đón nhận Chúa là Mạch Suối thiêng liêng làm tươi mát đời chúng con. Chúng con như những lùm cây trồng bên suối nước. Chúng con được xanh tốt là nhờ giáo huấn của Chúa đem lại sức sống thiêng liêng cho chúng con. Chúng con thật sự hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Chúng con cảm thấy bình an và hoan lạc vì Chúa đã lấp đầy trái tim khao khát của chúng con.
Nhưng chúng con biết rằng còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa. Xin thương đến với họ như xưa Chúa đã đến với người phụ nữ Samari.
Xin cho chúng con, như người phụ nữ Samari xưa, sau khi nhận được Mạch Suối Chúa ban, thì cũng giới thiệu cho cả thành ra gặp Chúa, để họ cũng được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời. Amen.[Mục Lục]
4. Cơn khát đam mê – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:
– Ở trần gian con làm nghề gì?
– Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.
– Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
– Anh ta đáp: Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.
– Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.
Có thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những ảo ảnh trần gian.
Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng thấy thiếu thốn.
Thánh Gioan đã nói “vì chị đã có 5 đời chồng”. Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Như vậy, chị đã quan hệ bất chính một lúc với sáu người đàn ông nhưng không ai thực sự là chồng của chị. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng. Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa Giê su. Lần gặp này đã thay đổi vận mạng cuộc đời của chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”.
Chúa Giê su đã dẫn dắt chị đi từ ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh. Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong lạc thú với nhiều người đàn ông một lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong lòng chị.
Cuộc đời của thiếu phụ này là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Đấng Ky tô, chị ta mới nhận ra. “Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát nữa”. Nước Chúa ban là nước trường sinh. Nước này không có cặn bã của tham lam bất chính, của dục vọng đen tối, của đam mê lầm lạc. Nguồn nước ân thánh tinh khiết có khả năng chữa lành các thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh những tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi. Người ta nói trong thất bại thường có sự may mắn. Chị là người may mắn đầu tiên được lãnh nhận nguồn nước ân thánh đó. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin cho dân làng biết có thứ nước hằng sống, nước trường sinh mà mọi người đang khao khát, đó là Đấng Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ đang mong đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói với chị: “Chính tôi là Đấng đang nói với chị đây”.
Hôm nay Chúa viếng thăm người thiếu phụ Samaria và bà đã được tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời. Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh lễ, qua Lời Chúa và các bí tích, nhưng liệu chúng ta đã tìm được nguồn suối ân sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay hoay ngụp lặn trong những ảo ảnh trần gian?
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tim được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?
Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: “ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”, chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa? [Mục Lục]
5. Giòng nước hằng sống – Cố Lm. Hồng Phúc
Dưới ngòi bút linh động của Gioan, bài Phúc Âm hôm nay mô tả cuộc gặp gỡ của Chúa bên bờ giếng Giacóp với thiếu phụ Samaria. “Khi ấy, Ngài tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria… ở đó có giếng của Giacóp, Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghĩ trên miệng giếng” giữa trưa hè. Chắc là Chúa ngồi sát mặt đất, lưng tựa vào bờ thành giếng. Ngài ngồi đó mệt mỏi, sau một khoảng đường dài qua xứ Samaria.
Ngài ngồi đó để chờ đợi. Ngài biết muốn gặp gỡ đàn ông thì ra phố chợ, muốn gặp gỡ đàn bà thì ra bờ giếng. Ngài ngồi đó để đón chờ chúng ta, vừa mệt vừa đói. Trời đã về trưa, nắng, nóng. Ngài ngồi đó để chờ một người đàn bà mà cuộc đời có nhiều sóng gió, đang ỏn ẻn đầu đội vò, tay xách gầu đi ra.
Cuộc gặp gỡ tương tợ như những lần gặp gỡ do Thánh Kinh kể lại giữa Giacóp và Rachel (Stk 29), giữa Moisê và các con gái của Rơuel-Yêthrô (Xh 2. 15-22) bên một suối nước. Chúa nói: “Xin bà cho tôi uống nước”. Ngài khát. Nhưng khát gì?
Lời nói của Chúa hàm chỉ hai ý nghĩa. Ngài khát sau những giờ cuốc bộ dưới nắng hè, nhưng Ngài khát khao cứu các linh hồn đang cần một thứ nước thiêng liêng cao trọng hơn.
Cuộc đối thoại giữa Chúa và người đàn bà kênh kiệu bắt đầu. Từ bối cảnh một giếng nước sâu đến thảm trạng một tâm hồn ngụp lặn trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã khơi lên một giếng nước hằng sống “mà ai uống thì không bao giờ còn khát nữa”.
Mỗi ngày, thiếu phụ Samaria phải ra giếng kín nước. Nhưng càng uống lại càng khát cũng như càng đi sâu vào biển tình càng thấy thiếu thốn. Đời của bà là một chuỗi thất bại. Chúa đưa bà đến chỗ phải thú nhận. Tuy nhiên bà vẫn còn tin cậy và tìm kiếm, vẫn mong chờ Đấng Messia đến, “Ngài sẽ loan báo hết mọi sự”.
Và giòng nước đã vọt lên: “Hỡi bà, Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với bà đây”. Thiếu phụ đã cầu được ước thấy, được rửa sạch. Giòng nước Ngài ban “trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.
Thiếu phụ Samaria không còn nghĩ đến giếng, đến vòi, vội chạy về thành báo tin cho mọi người biết để họ cùng nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế.
Gioan qua từng giai đoạn đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ngài là một người tha hương mỏi mệt, một người Do thái bị khinh chê, một nhà tiên tri đọc được trong tâm hồn, là Đấng Messia đến để dạy cách thờ phượng trong tinh thần và chân lý, là Đấng Cứu chuộc của nhân loại. Đó là tóm lược bài Phúc Âm của Chúa ngày hôm nay.
Suy niệm bài Phúc Âm này, một số chị em ở Bỉ đã lập ra Tu hội “Eau Vive” (Nước Hằng Sống). Ngoài việc cầu nguyện trước Thánh Thể, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách hàng. Các cô chiêu đãi là những cô thuộc nhiều quốc tịch mà câu châm ngôn là phục vụ Chúa Giêsu trong các thực khách. Mỗi buổi tối lúc 9 giờ, chị em có giờ cầu nguyện, chia sẻ Phúc Âm. Thực khách được mời tham dự, ai không tham gia thì cứ tự nhiên. Thế rồi các chị em cùng một số ít thực khách sắp ghế vòng quanh lại, bắt đầu cầu nguyện. Quán ăn đã trở nên Nhà Cầu Nguyện, vì có Chúa hiện diện như ngày xưa… bên bờ giếng Giacóp. [Mục Lục]
6. Đổi thay
Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:
Một sự thay đổi:
Cũng giống như các cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai, kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ”.
Một sự hiểu biết:
Cuộc đối thoại đã thay đổi từ sự ngộ nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước luân lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là một biểu tượng có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần đối với nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước biểu tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
Một lòng khao khát:
Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát của con người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu không những là hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Nhưng trong thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.
Một chứng nhân:
Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng, trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp thấy Chúa.
Sứ mạng của người Kitô hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân, như là một chứng nhân; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi không còn cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công khai cho mọi người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ nói về điều xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.
Vai trò của người đàn bà Samaria là đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân.
Dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô, nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người Kitô hữu như thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế”. [Mục Lục]
7. Gặp gỡ
Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samaria và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.
Người phụ nữ này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Nhưng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samaria không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.
Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samaria là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tấm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tấm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tấm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.
Người phụ nữ Samaria gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.[Mục Lục]
8. Trong Thánh Thần và Chân Lý
Trong một câu chuyện ngụ ngôn “Những Sinh Vật của Thói Quen”, kể rằng có hai vợ chồng bác nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy trước khi mùa đông đến.
Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.
Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng ta.
Vào thời Chúa Giêsu thì người Samaritanô là những người xưa ly khai và tách mình khỏi dân tộc Do thái. Không như người Do thái thờ Thiên Chúa tại đền thờ trên núi Sion ở Giêrusalem, người Samaritanô đã thờ Chúa Trời tại đền thờ trên núi Garizim. Bởi đó phụ nữ kia đã nói với Chúa Giêsu: “Tôi thấy Ngài là một tiên tri, vậy xin Ngài hãy nói với tôi tại sao cha ông chúng tôi thờ Chúa Trời trên núi này trong khi những người Do thái các ông lại nói phải thờ tại Giêrusalem?” Chúa Giêsu trả lời: “Hãy tin Ta, vì khi giờ đến thì người ta không còn thờ phượng Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng khi giờ đến, mà thật sự nó đã đến rồi, thì những người thật sự thờ Thiên Chúa sẽ tin thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý; đó chính là điều Chúa Cha muốn” (Ga 4, 20.21.23).
“Thờ Chúa Cha trong tinh thần và sự thật”, qua những lời đó Chúa Giêsu đã hướng quan niệm về việc thờ phượng Thiên Chúa từ nơi chốn sang tính cách. Tức là việc tôn thờ Thiên Chúa hệ tại không phải là “ở đâu” nhưng là “thế nào”. Người ta sẽ không còn cho rằng Thiên Chúa chỉ ẩn mình trong những bức tường của đền thờ thế gian, hay Ngài chỉ quanh quẩn đâu đấy như trên đỉnh núi chẳng hạn. Thật sự, người ta sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, và Nhà của Chúa được tìm thấy trong tâm hồn con người. Người ta không dựa vào thói quen nhưng mặc lấy tinh thần của Chúa.
Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta phải tẩy sạch một số thói quen. Ngài nói, “Anh em hãy vất bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian: gian dâm ô uế, đam mê sai trái, dục vọng xấu xa, tham lam ăn uống, giận dữ, nóng nảy, thù hận, chửi thề và ngôn từ lăng loàn… anh em hãy dứt khoát với mọi thói quen ấy” (Col 3:5-7). Kể cũng lạ, vì có rất nhiều trong chúng ta đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, bàn về đạo lý nhưng vẫn cứ để cho những tính xấu ấy làm chủ đời mình.
Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rằng chúng ta cần phải thay đổi những tập quán xấu bằng những tập quán tốt. Ngài nói, “Hãy mặc lấy, hỡi những người được Chúa tuyển chọn, lòng quan tâm trắc ẩn, tốt lành, khiêm nhường, quảng đại, nhẫn nại, chia sẻ nỗi buồn, tha thứ mọi lỗi lầm anh em xúc phạm tới ngươi, và trên hết hãy mặc lấy tình yêu” (Col 3:12-14).
Xin cho chúng con thật sự thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, trong cả cuộc sống chúng con. [Mục Lục]
***
Mục lục
1. Khát vọng chân lý (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Chung thủy nhờ Covid 19 (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Nước Chết, Nước Hằng Sống (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Khát nước (Jorathe Nắng Tím)
5. Tâm tư kẻ khát nước (Maria Nguyễn, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
6. Nước trong tâm hồn (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Khát khao bên trong (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Giếng nước đầu làng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
9. Chúa Giêsu là mạch nước ban sự sống (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
10. Khát vọng (Lm. Thái Nguyên)
11. Khát vọng. (Trầm Thiên Thu)
12. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 3 Mùa Chay_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
13. Cơn khát. (An Phong)
14. Nguồn nước diệu kỳ (Thiên Phúc)
15. Nước Hằng Sống. (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
16. Bạn đang khát điều gì? (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
17. Khao khát một tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn)
18. Ân tình Ngài chứa chan (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
19. Đấng xin nước là nguồn nước Hằng Sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
20. Chúa mới thật là Đấng trao ban (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
21. -Nước Hằng Sống (Lm. Vũ Đình Tường)
***
KHÁT VỌNG CHÂN LÝ
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, như nước cần cho sự sống hằng ngày. Trong cuộc tìm kiếm này, có những khi người ta lầm lạc, chỉ nhìn thấy Chân lý qua những bóng hình mờ nhạt, thậm chí là ảo ảnh hão huyền.
Cuộc tìm kiếm Chân lý của nhân loại đã được phác họa trong thời xuất hành. Dân Do Thái trong hành trình sa mạc đói khát khổ sở suốt 40 năm. Hành trình này vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ, vừa dẫn đưa họ về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên. Việc thiếu nước dẫn tới sự kiện dân nổi loạn chống lại ông Môisê. Nhờ quyền năng của Chúa, ông Môisê đã lấy cây gập đập vào tảng đá và nước từ đó chảy ra (Bài đọc I). Bài đọc Cựu ước trong thánh lễ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: kiếm tìm Chân lý là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn và vâng theo lệnh của Thiên Chúa.
Câu chuyện không chỉ nhắm tới nước cho dân khỏi khát, mà còn là giáo huấn về ân sủng sẽ được ban sau này qua Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh là Đá. Chúa Giêsu đã đến trần gian để chỉ cho nhân loại con đường đạt tới Chân lý. Người đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
Bài Tin Mừng là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria. Có rất nhiều chi tiết phong phú trong đoạn văn này. Đây là một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một con người; giữa một người Do Thái và một người Samaria; giữa một vị Ngôn sứ và một người đang khao khát tìm Chân lý.
Người phụ nữ Samaria là đại diện cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Chị đã có năm đời chồng, và người đang chung sống hiện tại không phải là chồng chị. Chi tiết này muốn diễn tả, con người đi tìm kiếm Chúa, nhưng có những lúc lầm tưởng về Ngài. Họ tìm kiếm Ngài nơi lạc thú và nơi những ảo ảnh thế gian. Vì thế mà họ không cảm thấy no đầy, giống như một người phụ nữ đã năm đời chồng mà không thấy hạnh phúc. Chị vẫn tiếp tục đi tìm kiếm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, người phụ nữ dần dần hiểu ra Ngài là vị Ngôn sứ, là Đấng có thể đem cho bản thân chị sự bình an, niềm vui và ơn cứu độ. Có nhà chú giải Kinh Thánh nghiên cứu văn hóa và tín ngưỡng của xứ Samaria và cho biết người xứ này thờ 5 vị thần. Có thể tác giả Gioan muốn nói tới việc thờ các ngẫu thần không đem cho con người sự giải thoát và không lấp đầy những khát vọng siêu nhiên của họ. Đức Giêsu đến trần gian để giải phóng con người khỏi những ngẫu thần, hướng tâm hồn họ về Thiên Chúa là Đấng mọi người phải yêu mến và tôn thờ. Sự tôn thờ đích thực không còn phụ thuộc vào không gian, nơi chốn, tức là phải đến chỗ này chỗ nọ (cụ thể là ở Giêrusalem hay đồi Garizim), nhưng bất cứ ai, bất cứ nơi nào, khi họ thực hiện việc tôn thờ “trong tinh thần và Chân lý”, thì đó là việc tôn thờ đẹp lòng Chúa và lời cầu nguyện của họ sẽ được Ngài chấp nhận.
Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, dần dần từng bước. Chúa Giêsu đã chủ động phá tan mọi rào cản: đó là sự giao tiếp giữa người Do Thái và dân ngoại; Người nam và người nữ; Không gian là bờ giếng lãng mạn và thời gian là buổi trưa vắng vẻ. Điều này cho thấy, nếu muốn loan báo Chân lý, cần phải vượt qua mọi thành kiến, khiêm tốn chủ động đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không một lời phê phán cuộc sống cá nhân của chị, cũng như cách thức thờ phượng trên núi Garizim của người Samaria.
Chúa Giêsu đã khởi đi từ nước thế gian tới nước hằng sống. Nước này là ân huệ Chúa ban nơi Đức Giêsu và là giáo huấn của Người. Giáo huấn đem lại cho con người niềm vui siêu nhiên và sự bình an trong tâm hồn. Nhờ nước hằng sống, con người không còn đi tìm kiếm một thần linh nào khác. Họ được gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, không phải ở đây hay ở kia, nhưng trong tinh thần và chân lý. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nhờ Đức Kitô Chúa chúng ta, con người trở nên công chính và được bình an với Thiên Chúa” (Bài đọc II)
Cũng như dân Do Thái trong hành trình sa mạc cần có nước để tồn tại, trong cuộc lữ hành thiêng liêng, chúng ta cũng cần có nước nước hằng sống để lớn lên mỗi ngày. Mùa Chay giúp ta sống tinh thần sa mạc, phác họa 40 năm dân riêng trên đường về Đất hứa, 40 ngày Chúa Giêsu cầu nguyện trong hoang địa. Mùa Chay giúp ta định hướng cuộc đời, để tìm kiếm Chân lý, đón nhận dòng nước ân sủng Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu. Một cách cụ thể, chúng ta đón nhận nước hằng sống qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được đổi mới và được nuôi dưỡng bằng sức sống siêu nhiên.
Người phụ nữ Samaria sau khi gặp gỡ Chúa đã bỏ lại vò nước bên bờ giếng. Trước đó, mục đích của chị là đến giếng kín nước. Chị chạy vào thành, giới thiệu Chúa với những người trong thành. Chi tiết này gợi ý cho chúng ta, một khi sống tinh thần của Mùa Chay, chúng ta cũng có bổn phận đưa nhiều người khác đến với Chúa, giúp họ gặp gỡ Ngài và cùng với họ đón nhận nước trường sinh. Việc gặp gỡ Chúa phải dẫn chúng ta giao hòa với anh chị em xung quanh, mang cho họ niềm vui và an bình. Câu chuyện kết thúc với những hình ảnh tốt đẹp: những người dân trong thành Samaria (họ là những người dân ngoại!) đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Không còn nghi kỵ do mối thù truyền kiếp, không còn thành kiến mặc cảm về dòng dõi sắc tộc. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Câu chuyện mở ra một chân trời mới. Đó là viễn cảnh tương lai, hình ảnh của Nước Trời nơi trần gian.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tình yêu nam nữ luôn được xã hội từ cổ đến kim quan tâm và có những quy định rõ ràng. Xã hội luôn đưa ra những quy định về giới hạn trong quan hệ nam nữ. Điều này được hoặc điều kia không được. Mức độ này cho phép và mức độ kia thì cấm đoán.
Vào thời xa xưa để giữ cho tình yêu nam nữ luôn chung thuỷ người ta đưa ra quy định “nam nữ thọ thọ bất tương thân”. Và như vậy , trong quan hệ nam nữ luôn có khoảng cách an toàn để giữ cho gia đình hạnh phúc và xã hội bình an. Dẫu vậy, ở thời nào cũng có những cuộc tình vụng trộm gây nên những xáo trộn cho xã hội và các gia đình.
Và hôm nay, trong thế giới văn minh người ta tưởng sẽ tự do luyến ái, nhưng dường như Thiên Chúa vẫn không để con người sống truỵ lạc và đa thê. Ngài vẫn đòi phải chung thuỷ, nếu không thì sẽ mang bệnh vào thân như: giang mai, Sida . . .
Đặc biệt hôm nay với dịch Corona đã khiến con người không dám gần người xa lạ, họ buộc phải lo cho bản thân bằng việc chung thuỷ với nhau. Có thể nói, ở xã hội hôm nay đã có biết bao chiến dịch truy bắt những người phạm tội mua bán mại dâm. Biết bao nhiêu những cảnh cáo đe doạ nhưng nhiều người vẫn quan hệ bất chính, vẫn tìm thú vui tội lỗi. Thế nhưng, cơn đại dịch Corona đã giúp cho người sống trong sạch hơn. Họ tự cách ly để bảo toàn tính mạng. Họ phải về với gia đình là nơi bình an nhất. Những tụ điểm mua bán mại dâm đã lắng lại nhờ đại dịch corona.
Là người ky-tô hữu chúng ta được Thiên Chúa mời gọi: “Hãy nên thánh, vì ta là thánh” (1Pet 1-15). Sự thánh thiện đòi hỏi người tin hữu phải loại bỏ những điều bất chính như gian dâm, ngoại tình, đồng tính luyến ái, tà dục và loạn dâm . .. . Đây cũng là điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa.(Rô-ma 1:26, 27; 2:22;) . Thế nhưng, trước đại dịch ta thấy hình như con người chỉ lao vào cuộc sinh tử để tranh giành quyền lực, tiền tài, danh vọng, và thoả mãn những đam mê trụy lạc, cho đến khi đối diện với cơn đại dịch, họ đã thấy tất cả chỉ là phù vân . . . Tiền tình quyền đều chẳng còn giá trị khi cuộc sống đang mong manh trong đại dịch corona. Giờ đây, nhân loại mới hiểu được rằng hạnh phúc là biết sống trong sạch và thanh thoát khỏi mọi tham lam phù phiếm.
Người phụ nữ bên bờ giếng Giacop năm xưa cũng từng lao vào thú vui trần thế như vậy! Bà đã lao vào vòng xoáy của đam mê nhục dục. Bà tìm thỏa mãn xác thịt với 5 người đàn ông không phải chồng mình. Nhưng xem ra thú vui xác thịt không làm cho bà thỏa mãn. Cơn khát của đam mê không bao giờ cho bà hạnh phúc. Bà ngụp lặn trong đam mê xác thịt nhưng tâm hồn bà bị dày vò bởi một cơn khát vượt lên trên tính xác thịt ấy. Cơn khát của hạnh phúc vô biên. Cơn khát của chân thiện mỹ.
Chúa Giê-su đã cho bà thấy thực trạng đời bà là một bất hạnh. Điều con người cần là hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc không có trong những đam mê trụy lạc. Hạnh phúc chỉ có khi ta làm chủ được những ham muốn xác thịt. Hạnh phúc thực sự là khi ta được tự do sống mà không phải làm nô lệ cho tính xác thịt lôi kéo đi nghịch lại với luân thường đạo lý.
Hôm nay trước đại dịch Corona con người mới thấy cuộc đời thật mỏng giòn và con người thật nhỏ bé. Con người phải biết sống trong sạch và cao thượng để luôn bình an trước mọi sự dữ. Đây cũng là dịp Thiên Chúa muốn nhắc nhở con người hãy sám hối ăn năn và sống theo luân thường đạo lý mà Thiên Chúa đã đặt định nơi lương tâm mỗi người. Sống nghịch với ý Trời con người chỉ đi đến cho diệt vọng, và một điều mà con người cần phải hiểu là cơn khát về danh lợi thú chẳng bao giờ mang lại thỏa mãn cho con người. Chỉ trong Thiên Chúa mới làm ta thỏa mãn những khát khao. Chỉ nơi Thiên Chúa mới lấp đầy chỗ trống trong tâm hồn chúng ta. Xin cho chúng ta biết khao khát tìm kiếm Nước Trường Sinh để chúng ta không còn khát mà luôn hạnh phúc an vui trong phận mình. Amen
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Nguồn nước sạch ngày càng hiếm trên hoàn vũ. Không ở đâu xa, tại Việt nam, những con sông đang chết dần vì nước thải, nước nhiễm hóa chất và nước ngập mặn… Nguồn nước chết không mang lại sức khỏe, sự sống cho nhiều loài, nhiều ruộng vườn và cho con người. Nước Hằng Sống rất quan trọng để tìm nguồn nước ấy cho sự sống đời này và đời sau.
Ý nghĩa của nước.
Nước đóng một vai trò thiết yếu liên quan tới tất cả sự sống. Nước tự tái tạo qua quá trình bốc hơi, thành mây, làm mưa xuống. Quá trình này được diễn tả: “Sông đổ mãi vào biển nhưng biển chẳng hề đầy; hơi nước bay về nguồn, nước trở lại với dòng sông, sông lại đổ vào biển” (Gv 1, 7). Có thể hiểu: “Hồng ân Chúa như mưa, như mưa, rơi xuống đời con miên man.” Nhưng nếu là hồng ân con người cần có trách nhiệm để cho nước phát sinh hoa quả, nảy nở hồng ân đến cho tha nhân: “Vì cũng như mưa với tuyết từ trời sa xuống, tất không lùi lại về trời, nếu đã không thấm nhuận đất đai, nếu không làm cho đất sinh sản, nảy chồi, và cho người gieo có giống, cùng bánh cho người ta ăn.” (Is 55, 10).
Nước đôi khi cũng chỉ ý nghĩa dòng đời mỗi người trên trần gian. Ngược xuôi theo những dòng nước trôi. Đôi khi, chẳng vận động, buông thả theo dòng nước với việc: “bèo giạt mây trôi”, không định hướng, quyết định cho đời mình được gì cả. Cuộc đời nhàm chán, buồn tênh, chẳng biết đi về đâu hay cứ luẩn quẩn với khúc sông vẩn đục đời mình. Ân sủng Chúa ban cần có sự cộng tác của con người, Thánh Augustine chia sẻ: Chúa tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu độ con, Chúa cần con cộng tác”.
Nước cũng là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống thần linh. Đấng làm cho sạch, nghĩa là thánh hóa những gì bợn nhơ. Chúa Thánh Thần cũng là sức mạnh và mềm mại, uyển chuyển, năng động như đặc tính của nước. Có thể phá vỡ mưu chước thù nghịch là ma quỷ, có thể là băng bó chữa lành như phương dược, có thể là Đấng an ủi, khích lệ người đau khổ, kẻ ưu phiền. Chúa Thánh Thần còn là Đấng làm nên mới trong tác động thanh tẩy và tái sinh trong ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Nước trời.
Trong danh xưng người Việt đồng hóa nước với tên gọi quốc gia, như nước Việt Nam hay quốc gia Việt Nam. Tên gọi nước là một danh xưng ở đó ngầm hiểu là đất nước, có một lãnh thổ, những người dân trên lãnh thổ đất ấy. Cũng trên đất không thể thiếu nước để mọi dân được sống nhờ nước mang lại hoa màu và nguồn thanh tẩy. Khi gọi nước thay cho quốc gia, người ta ngầm hiểu một ý nghĩa sâu xa, nước là cội nguồn của sự sống, sự tồn vong của một quốc gia. Chính vì vậy mất nước là mất tất cả.
Nước ở trần gian có một vị thế đặc biệt huống chi Chúa muốn nói về Nước Trời. Ngày xưa ở người Do Thái, người ta tránh gọi đến danh xưng Thiên Chúa, cho nên họ nói trại đi là Nước Trời. Chúa Giêsu cũng nói về Nước Trời nhưng cũng nói về Nước thiên Chúa như nhau.
Nước Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop, là hàm ý Nước Thiên Chúa. Nước ấy bao hàm tất cả mọi quốc gia, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ trên toàn cầu. Nước ấy không chỉ ở Nước Chúa trên trời mà còn Nước Chúa tại trần thế như nhiều dụ ngôn Chúa Giêsu nói. Nước Thiên Chúa hiển trị trên trần gian, hệ tại ở việc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và trong sự thật. Nghĩa là trong tâm hồn được sinh lại làm con Thiên Chúa, được thanh tẩy nhờ Chúa Thánh Thần, và như Thánh Phaolô diễn giải: ““Anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta kêu lên: “Abba, Cha ơi!” (Rm 8,15). Sống trong nước Thiên Chúa là sống trong tự do đích thật, không còn làm nô lệ cho tội lỗi.
Chúa Thánh Thần là Đấng cầu nguyện cho chúng ta ”Cũng vậy Thần khí đỡ đần tình cảnh yếu hèn của ta. vì cầu xin thế nào cho phải, ta nào có biết. Song chính Thần khí chuyển cầu cho ta, bằng những tiếng rên khôn tả. Nhưng nếu Ðấng dò thấu lòng dạ biết hứng của Thần khí, (Người biết) Thần khí chuyển cầu cho các thánh rập theo ý Thiên Chúa. (Rm 8, 26 – 27)
Nước Thiên Chúa vừa là nguồn nước ban sự sống, ban ơn thanh tẩy, thánh hóa, tái sinh; còn là nơi Thiên Chúa sống với con người ở trần gian và đưa con người tín thác vào Chúa vào Nước của Thiên Chúa.
Như người phụ nữ Samaria xin Chúa: Xin cho chúng con nước này, để không còn khát nữa” (Ga 4, 15)
Jorathe Nắng Tím
Khát đáng sợ hơn đói, vì đói vài ngày vẫn là chuyện nhỏ, nhưng khát ba ngày giữa mùa hè nóng bức sẽ là chuyện lớn, phát sinh thành lớn chuyện.
Khi khát, người ta tìm nước ở ao hồ, sông rạch. Thôn quê Việt Nam không lạ lẫm gì với giếng nước ở giữa làng, ở đó bà con hằng ngày lũ lượt đến kín nước về uống, tắm giặt.
Ngày ấy, trên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu phải băng qua Samari là vùng đất thù nghịch đối với người Do Thái, đến một thành có tên là Xykha, “ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc ấy khoảng mười hai giờ trưa” (Ga 4,6).
Thánh sử Gioan đã rất chi tiết khi ghi rõ : Đức Giêsu đến bờ giếng vào “mười hai giờ trưa”, cái giờ nắng gắt chói chan, mà ai đã có lần đi viếng Đất Thánh đều phải sợ.
Lúc bấy giờ, “có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy : Chị cho tôi xin chút nước uống !” (Ga 4,7). Và chị ấy đã cho Đức Giêsu nước uống, bằng chứng là chị đã ngạc nhiên hỏi Đức Giêsu : “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao ?” (Ga 4,9).
Nhưng chỉ sau một cuộc đối thoại ngắn, ở đó, Đức Giêsu nói với chị về nước hằng sống, mà Ngài sẽ ban cho, khi qủa quyết : “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,13-14), thì người cho trở thành người xin, khi chị nói với Đức Giêsu : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát, và khỏi phải đến đây lấy nước nữa” (Ga 4,15).
Đến lúc này thì bên bờ giếng Giacóp hôm ấy, dưới cái nắng trưa làm khát cổ, cháy da, có hai người khát nước xin nhau nước uống :
- Đức Giêsu khát niềm tin của người phụ nữ Samari :
Gặp gỡ và ngỏ lời xin nước uống, Đức Giêsu đã đi vào đối thoại thân tình với người phụ nữ lận đận, vất vả trong đường tình duyên, gia đình, vì chị “đã năm đời chồng, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4,18), để rồi khơi dậy trong chị ánh sáng sự thật, sự thật của đời chị, bởi niềm tin Thiên Chúa phải khởi đi từ sự thật của chính mình. Nói cách khác, người ta không thể tin Thiên Chúa, không thể đi vào tình yêu của Thiên Chúa, nếu không thật với chính mình, không dám nhìn nhận sự thật về mình, không can đảm đối diện với những gì “mình là, mình có”, bởi sự thật của “cái tôi” là nền tảng của niềm tin ở Thiên Chúa, nên sẽ không có niềm tin đích thực ở Thiên Chúa, bao lâu còn giấu diếm, che đậy sự thật của “cái tôi” ; sẽ không thể tin Chúa, nếu không dám tin mình, khi chấp nhận toàn bộ sự thật của mình, dù sư thật ấy có đen đúa, xơ xác, tiều tụy đến đâu.
Người phụ nữ đã thật với chính mình, để có thể nhận ra mình cần nước hằng sống, cần thứ nước của Đức Giêsu, mà “ai uống, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14). Nhờ nhận ra sự thật của mình, mà chị đã nhận ra : Đức Giêsu “thật là một ngôn sứ” (Ga 4,19), là “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” (x. Ga 4,25-26), và vấn nạn từ lâu làm trăn trở tâm hồn chị về Thiên Chúa đã được Đức Giêsu tháo gỡ : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,21.23).
Đức Giêsu khát niềm tin, và Ngài đã nhận được nước uống của niềm tin nơi người phụ nữ Samari bên bờ giếng, khi “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng : ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4,39).
- Người phụ nữ Samari khát tình yêu đích thực:
Câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp thật thân tình, dễ thương, và đầy tin tưởng giữa hai người. Nhờ bầu khí thân thiện, ân tình và tương kính này, mà người phụ nữ với nhiều mặc cảm vì tình duyên và đời vợ chồng trắc trở mới có thể trút bỏ tâm sự thầm kín, và thao thức, khắc khoải với Đức Giêsu, người đàn ông Do Thái đã dám xin nước chị là người phụ nữ Samari bị coi là thù nghịch.
Khi chia sẻ, tâm sự với Đức Giêsu về nỗi trống vắng của tâm hồn, không chỉ là trống vắng tình yêu, hạnh phúc, mà còn là trống vắng của niềm tin, trống vắng lý tưởng sống, trống vắng lẽ sống, người phụ nữ Samari đã gặp được Đấng làm cho chị khỏi khát nữa, khi ban cho chị nước hằng sống là Ân Huệ của Thiên Chúa, khi nói với chị : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chi : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Và chị ấy đã xin và đã nhận được Tình Yêu, Hạnh Phúc, và Bình An của Đấng Cứu Thế, khi chị tin vào lời Đức Giêsu nói với chị : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26), và khi chị “để vò nước lại, vào thành và nói với người ta : Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” (Ga 4,29).
Vâng, người phụ nữ Samari đã khát tình yêu, và chị đã gặp được Tình Yêu đích thực, đời đời là chính Thiên Chúa ở Đức Giêsu Kitô, Đấng đã làm bước chân thứ nhất đến với chị, và mở lời đầu tiên “xin chị nước uống”, vì yêu chị và không muốn chị phải khát nữa, bởi chỉ Tình Yêu Thiên Chúa mới làm “đã khát” cơn khát tình yêu trong chị ; chỉ Tình Yêu Đức Giêsu mới cho chị Nước Hằng Sống để trái tim chị từ nay không bao giờ phải khát nữa.
Qủa thực, như dân Do Thái xưa trong cơn khát giữa sa mạc nắng cháy đã nghi ngờ tình thương của Đức Chúa Giavê và bị qửơ trách : “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 94,8-9), chúng ta trong cơn khát ơn sủng, cũng có thể rơi vào những cám đỗ đủ loại dẫn đến nguy cơ đánh mất sự sống đời đời.
Và Mùa Chay chính là cơ hội làm sống lại tinh thần và sức sống của Bí Tích Rửa Tội, ở đó chúng ta nhận được nguồn sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ một điều kiện Thiên Chúa đòi để được nhận Nước Hằng Sống, để không còn phải khát và “chết vì khát”, đó là sống thật với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là chià khóa mở cửa tâm hồn, cởi trói trái tim để “Thiên Chúa đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).
Maria Nguyễn
Trưa đã muộn, mọi người đã về nhà để tránh cái nóng đang sôi sục như muốn thiêu đốt cả vùng trời Samari. Sao năm nay nắng thế! Không biết bên mấy vùng trời kia thời tiết có gay gắt như thế này không? Vừa lẩm bẩm, chị vừa kéo vội tấm khăn che mặt và cầm chiếc bình đi lấy nước. Chị ra giếng lúc người ta đã về hết, chị đi lúc mọi người đã nghỉ ngơi. Không phải chị không muốn đi sớm nhưng chị sợ phải gặp nhiều người, sợ đám đông, sợ những cái nhìn lạnh lùng… Vì chị vẫn cần nước để sống nên chị vẫn phải đối diện với những nỗi sợ khi đi lấy nước. Chị tự nhủ thầm rằng: “Thôi thì đi lúc vắng vẻ nhất!” Mỗi ngày, người ta đều thấy chị đi lấy nước vào buổi trưa. Nhìn biểu hiện bên ngoài của chị thì chắc chả mấy ai bận tâm, nhưng đằng sau sự bình thường đó là cả một nỗi lòng dài không ai thấu.
Giữa những gian nan, cô đơn, khổ cực, tủi nhục chị luôn chỉ có một mình. Chị không hề thanh minh về cuộc sống của mình. Dường như, chị đã quá đau đớn, quá long đong với những thăng trầm của cuộc đời nên chị cứ để vậy, không muốn vươn lên nhưng cũng không có nghĩa là không còn muốn sống. Chị vẫn đi lấy nước mỗi ngày vào trưa nắng. Chị cần có nó để duy trì sự sống, dù cuộc sống của chị cũng gay gắt như ánh nắng mặt trời mỗi trưa chị đi lấy nước vậy. Nó làm cho chị ngày càng khép lại sau những tổn thương. Chị tưởng mình đã có tất cả. Nhưng thật ra, chị chẳng có gì. Những gì chị có chỉ là tạm bợ, nó làm cho chị tan nát và hối hận. Chị không biết cuộc đời mình rồi sẽ ra sao, sẽ như thế nào. Sống ngày nào hay ngày đó! Chị vẫn đi lấy nước mỗi trưa, vẫn đầy những mặc cảm và xấu hổ, cùng tâm trạng luôn thấy mình thấp kém. Đã có lúc, chị muốn đến trò chuyện với những người xung quanh, với mấy chị, mấy cô và cả đám nhỏ nữa… nhưng tự chị thấy có những ngăn cách khi muốn đến với mọi người. Những ngăn cách đến từ đâu? Phải chăng là từ chị, từ cuộc đời chẳng mấy tươi sáng của chị, hay là từ những thành kiến do những chuẩn mực rập khuôn đã khiến mọi người xa lánh chị. Đau khổ quá! Sống giữa cộng đồng mà chỉ có một mình, chị đi từ cái khát thể lý đến cơn khát tương quan.
Hôm nay, nắng thật gắt. Chị đi cho nhanh kẻo về trễ quá trời sẽ thiêu chị trong cái nắng như đổ lửa này. Bất chợt, chị không muốn tới giếng vì thấy có bóng người. Ai như một người đàn ông, và ông ta lại là người Do Thái thì phải. Thôi kệ! Nếu người quen có gặp cũng chẳng ai muốn nói với chị nửa lời thì huống gì người lạ. Việc ai người ấy lo. Chị đến bên giếng múc được vò nước, đang ngồi nghỉ để lấy sức đi về thì người lạ bắt chuyện với chị. Chị ngạc nhiên quá sức. Đây là lần đầu tiên chị được hỏi chuyện. Kể từ khi người ta biết về cuộc sống của chị, chưa hề có ai chủ động đến với chị trước. Chị sống giữa cộng đồng nhưng lại bị người ta coi thường, bị cô lập trong chính những đau khổ mà chỉ mình chị mới cảm thấu. Được hỏi chuyện, chị như nhận ra rằng mình vẫn đang sống và chị cần có những tương quan trong cuộc sống. Điều đó từ lâu chị đã chẳng có được.
Chị đi từ bất ngờ đến sửng sốt, vì một người Do Thái đang nói chuyện với chị. Ông bỏ qua cái định kiến hàng bao nhiêu thế kỷ qua về người Do Thái và người Samari, để nhìn chị như một con người theo đúng những gì mà chị cần được nhìn. Dù là người Do Thái hay người Samari, ai cũng tự cho bên mình là đúng, là tốt hơn. Chính định kiến ấy đã chia rẽ những con người đang cùng tìm kiếm và tôn thờ Thượng Đế. Nhưng giờ đây, cái nhìn chị đang nhận được là cái nhìn không một chút đánh giá, bình phẩm, chê bai, không dựa trên những quy chuẩn mà con người ta đặt ra cho nhau. Người lạ mặt xin nước để uống. Người lạ và cách ứng xử cũng khác lạ. Thật quá lạ lùng! Chị không sao hiểu được những gì đang xảy ra nơi bờ giếng này. Chị thấy mình đang được đón nhận. Thì ra, khi được trao ban một chút gì đó, dù chỉ là một ly nước thì cũng khiến cho con người ta cảm thấy mình thật có giá trị. Vẫn còn có người đón nhận chị và nhìn chị như chị là chứ không như những gì chị làm. Người này đã không e ngại khi đến với chị. Ông ta cho chị cái mà chị thực sự cần. Chị cần tình thương hơn là sự xa lánh, cần thông cảm hơn là oán trách và loại trừ, để có thể vươn lên khỏi những trói buộc và nghịch cảnh của cuộc sống. Cả một cộng đồng không có ai dành cho chị điều tưởng chừng như đơn giản đó. Hôm nay, chị đã nhận được điều đó, điều làm cho chị thấy cuộc sống của chị không chỉ là cần đi lấy nước ở giếng mỗi ngày để rồi lại khát, nhưng còn là cần mở lòng đón lấy một điều làm cho tâm hồn chị không còn khát nữa. Từ một người cho nước, chị trở nên người được no thỏa cơn khát bằng chính tình thương mến mà chị nhận được nơi Đấng mà chị nhìn nhận rằng: “Ông thật là một ngôn sứ”. Đấng mà chị đã gặp, đã thấy, chính Người đã gột rửa tâm hồn và làm bừng lên trong chị điều mà trước đây chị chưa bao giờ dám nghĩ tới. Chị bỏ vò nước lại cùng với thứ nước làm đã không xoa dịu được cơn khát của chị mà còn làm cho chị thêm bao đau khổ, đắng cay. Giờ đây, chị đã có thứ nước làm cho chị không bao giờ khát nữa, thứ nước làm cho chị sống thực sự, thứ nước đó là chính Đấng Kitô.
Lạy Chúa! Xin cho con cũng được gặp Chúa và để con cũng cảm nhận được cái nhìn đầy mến thương của Chúa dành cho con. Cái nhìn đã cho con nhận thấy con thực sự được Chúa yêu thương và từ đó con cũng dành cho tất cả những anh chị em tình mến thương của Chúa. Một tình mến giúp con nhìn tha nhân như những gì họ là chứ không như họ làm và gạt bỏ đi mọi thành kiến cố hữu đang ngăn cách chúng con. Mạch nước mà Chúa ban cho con chính là mạch nước tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho con thực sự sống và sống dồi dào.
Bông hổng nhỏ
Ai trong chúng ta cũng đã từng trải qua cơn khát. Giữa trưa hè nóng nực, đi đường mỏi mệt, chúng ta thèm một ly nước mát cho thỏa lòng, cho quên đi mỏi mệt. Có một cơn khát của tâm hồn còn mãnh liệt hơn cơn khát của thể lý. Tâm hồn chúng ta đang khao khát điều gì?
Thầy Giêsu vừa đi đường mỏi mệt, lúc ấy vào khoảng mười hai giờ trưa, Người ngồi ngay xuống bờ giếng Giacóp để nghỉ chân. Các môn đệ đã vào thành tìm mua thức ăn, chỉ còn một mình Thầy ngồi lại bên bờ giếng. Họng khát khô nhưng Người chẳng có gầu để múc lấy một giọt nước. Người chờ đợi một ai đó có thể cho Người chút nước hay Người cố tình chờ sẵn ở đây, vì biết rằng, có một tâm hồn đang khao khát Nước Hằng Sống?
Thấp thoáng một người phụ nữ đang tiến lại, tay chị cầm vò và cả gầu để múc nước. Chị là một phụ nữ Samari. Khuôn mặt chị sắc sảo nhưng lại phảng phất một chút gì đó lo âu. Tại sao chị lại chọn lấy nước vào lúc giữa trưa, lúc mà mọi người đã về nhà để nghỉ ngơi, để tránh cái nắng nóng đến rát mặt? Thầy Giêsu ngỏ lời với chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4, 7). Thầy ngỏ lời xin chị chút nước vì chính Thầy đang khát khô cả họng. Thầy chẳng ngần ngại xin chị nước, chẳng ngần ngại mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari. Thầy chẳng khinh miệt chị nhưng trò chuyện với chị như một người bình thường.
Thầy Giêsu nói với chị về nước hằng sống mà chính Người sẽ ban cho. Nước ấy sẽ làm cho muôn người không bao giờ khát nữa và nước ấy cũng sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời (x. Ga 4, 10-14). Lời giới thiệu của Thầy Giêsu đã thuyết phục chị, chị thưa rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15). Thầy nói với chị về cuộc đời của chị bằng nỗi cảm thông sâu sắc. Thầy dẫn chị đến những khám phá mới về việc thờ phượng Thiên Chúa và cả khám phá về chính con người của chị, về nỗi khát khao ẩn giấu trong tâm hồn. Thầy Giêsu đã phá tan rào cản của tôn giáo, của sự khinh miệt bao đời giữa người Do Thái và người Samari. Khi đã bày tỏ những băn khoăn của mình về việc thờ phượng Thiên Chúa, chị cũng đã từng bước bày tỏ cho Thầy Giêsu về chính tâm hồn mình. Chính khi gặp gỡ Thầy Giêsu, người ta cũng sẽ tìm thấy một lối đường để bước đến cùng Thiên Chúa, tìm thấy một niềm hy vọng để sống dồi dào hơn, và người ta cũng sẽ tìm gặp chính mình.
Hằng ngày, Thầy Giêsu cũng ngỏ lời với từng người chúng ta. Người ngỏ lời xin chúng ta cho Người chút nước. Thầy đã xin ta chút nước, để chính khi ta cho Người chút nước, ta cũng bày tỏ với Người nỗi khát khao cháy bỏng trong tâm hồn ta. Khi trao ban “một chút nước” là những gì ta có cho những người anh chị em, ta đã trao cho chính Người chút nước quý báu của tâm hồn mình.
Ai là những người thờ phượng đích thật mà Chúa Cha đang tìm kiếm? Đó là những ai biết tìm kiếm thánh ý Người trong cầu nguyện và cả trong chính cuộc sống thường ngày của họ, trong những lúc cuộc đời đầy thử thách. Một đời sống gắn bó mật thiết với Chúa chắc hẳn sẽ mang lại nơi tâm hồn ta một mạch nước dồi dào của tình yêu và lòng tha thứ, để chính trong nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn ta, mạch nước ấy vọt lên và mang đến cho những anh chị em ta gặp gỡ một thứ nước mát lành của tâm hồn tràn đầy tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống. Xin Chúa ban tràn đầy Thánh Thần tình yêu trên chúng con, để mỗi ngày, chúng con biết thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật; để chính khi được Lời Chúa biến đổi, cuộc đời chúng con cũng chứa đựng mạch nước tình yêu là chính Chúa, để trao ban tình yêu ấy đến với những ai chúng con gặp gỡ. Ước gì Lời Chúa trở thành lương thực mỗi ngày cho cuộc đời chúng con. Xin Chúa dạy chúng con biết để vò nước là những gì chúng con có và đang tìm kiếm lại dưới chân Chúa, để hân hoan ra đi loan Tin Mừng cho anh chị em. Niềm vui là khi những người con gặp gỡ, chính họ cũng nhận được một món quà vô giá hơn từ Chúa: “Không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian (Ga 4, 42). Amen.
Anna Cỏ may
Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có nhiều điều khao khát, có thể khao khát có một chai nước mát, khao khát tìm được một công việc hay khao khát có bữa ăn ngon… Cái khát đó không bao giờ dừng lại. Khi tìm được một công việc, chúng ta lại mong muốn được lên chức hay tăng lương. Cứ như thế, chúng ta luôn ở trong tình trạng khát. Đó là cái khát bên ngoài. Còn trong sâu thẳm tâm hồn, chúng ta có đang khao khát điều gì chăng?
Người phụ nữ Samari lấy nước bên giếng Giacóp, sau khi trò chuyện và nghe Chúa Giêsu nói về thứ nước uống không bao giờ khát nữa. Chị đã xin Chúa Giêsu rằng: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước. Chúa Giêsu bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu bảo: “Chị nói: ‘Tôi không có chồng’ là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị nói đúng.” (Ga 4,15-18) Chúa Giêsu không vô tình nói đến cuộc sống riêng tư của người phụ nữ, nhưng Ngài muốn thức tỉnh và khơi gợi niềm khao khát thật sự bên trong của chị. Chị đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải là nước uống vật chất, không phải là tình thương nhục dục, khao khát của chị là ơn cứu độ, khao khát được gặp Đấng Thiên sai. Chị đã nói ra sự khao khát thật bên trong tâm hồn, chị nói: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Chúa Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,25-26). Nghe lời ấy xong, chị đã để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga 4,29). Con đường đức tin của chị đã bắt đầu. Chị đón nhận lời Chúa Giêsu và trở thành chứng nhân cho Ngài, chị chạy về làng kêu mời mọi người đến gặp Chúa Giêsu. Chị thật sự đã uống nước không bao giờ khát nữa và trở thành một người có mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời cho chính mình và cho người khác, đó là mạch nước đức tin (x. Ga 4,14).
Qua người phụ nữ Samari, chúng ta có thể nhìn lại chính mình: tâm hồn tôi đang khao khát điều gì? Tôi đã gặp Chúa như thế nào? Tôi có tin vào Chúa Giêsu, tin Ngài là Đấng đem lại sự sống cho mọi người khi cơn dịch vẫn còn đó? Vâng, Chúa Giêsu, Đấng có thể dùng những tật xấu hay những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh và mời gọi chúng ta trở về với Chúa Cha. Đấng ban nguồn mạch nước là chính Ngài, để chúng ta được sống và sống dồi dào, không bao giờ khát nữa.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con nhìn thấy tình trạng của tâm hồn mình, cảm nhận cơn khát bên trong tâm hồn. Nhờ đó, chúng con biết chạy đến và kêu xin với Ngài, để được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong truyền thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều cuộc tình duyên. Vậy “cái giếng Xykha” gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào? Trong Cựu Ước, Israel thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa. Israel-hôn thê thường thất trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu truyện người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến gặp và muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, Tin Mừng IV còn giới thiệu Đức Giêsu như chàng rễ và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống trung thành. (Lm. FX. Vũ Phan Long).
Sách Sáng thế kể chuyện Abraham chọn vợ cho trai Isaac. Abraham sai người lão bộc lên đường đến xứ Aram Naharaim, đến thành của Nakhor. Lão bộc cho lạc đà phục xuống bên ngoài thành, bên giếng nước đầu làng, vào lúc xế chiều, lúc phụ nữ ra kín nước. Rêbecca đi ra, cô gái nhan sắc tuyệt đẹp. Cô múc nước đầy vò. Lão bộc chạy lại đón cô và nói: Làm ơn cho tôi uống ngụm nước nơi vò của cô. Cô đáp: Xin ông uống. Rồi cô lanh chai hạ vò xuống và cho ông uống. Cho lão uống xong, cô nói: tôi sẽ kín nước cho lạc đà của ông nữa cho đến khi nào chúng uống xong. Rồi cô lanh chai đổ vò nước vào máng và còn chạy tới giếng để múc nước và cô đã cho cả mấy con lạc đà uống…Sau đó, lão bộc đưa Rebecca về. Isaac tổ chức tiệc cưới với Rêbecca. Dòng dõi Israel lớn mạnh từ đó. (x.St 24,10-21).
Tin mừng hôm nay kể về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với một người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop. Nơi đây như “Giếng nước đầu làng Samari”, người phụ nữ tin vào Ngài và dân làng Samari tin vào Đức Giêsu Đấng Cứu Độ.
Sau một hành trình dài, Đức Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacop, thuộc miền Samari. Có một phụ nữ Samari đến múc nước. Đức Giêsu chủ động khởi đầu câu chuyện bằng việc xin nước uống: Chị cho tôi xin chút nước. Người phụ nữ Samari lúc đầu chỉ hiểu người đàn ông xa lạ này xin nước múc lên từ giếng sâu. Nhưng Đức Giêsu đã khiến cho chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi nói với chị: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi xin chút nước, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống. Đức Giêsu bắt đầu bằng việc uống nước để nói về một nguồn nước đặc biệt hơn đó là Nước Hằng Sống. Nguồn nước do chính Ngài đem đến cho trần gian, có sức thanh tẩy tâm hồn con người và đem đến cho con người sự sống đời đời. Nguồn nước này sẽ được ban tặng nhưng không, cho những ai được Thiên Chúa ban ơn để tin vào Đức Giêsu.
Qua cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacop, chúng ta nhận ra cả một khoa sư phạm Đức Giêsu đã vận dụng để đưa người phụ nữ đến đức tin. Trước tiên, Ngài khơi lên sự tò mò để chị tìm hiểu, qua việc nhắc đến một công việc tầm thường làm mỗi ngày, là đến giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó, Ngài gợi đến một thực tại khác là Nước Hằng Sống: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Đến đây chính chị xin Đức Giêsu uống nước: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn”. Sau khi chị được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống” liền chạy về làng và kêu gọi mọi người: “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông ấy là Ðấng Kitô?”. Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Được Đức Giêsu chấp nhận ở lại với họ, dân làng Samari đã nhìn nhận Ngài như là “Đấng Cứu độ trần gian”, như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu thương và được sai phái đến để cứu độ trần gian. Nay họ tin là nhờ chính tương quan trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người phụ nữ nữa. Lời chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và bây giờ đức tin đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.
Bên giếng nước Giacóp, “giếng nước đầu làng” cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cuộc đời con người và cả dân làng Samari.
1- Giếng nước, những lợi ích tự nhiên
Giếng nước đầu làng là một hình ảnh quá quen thuộc, đến nỗi nó trở nên gần gũi, thân thiết như của riêng mình, trải qua thế hệ này đến thế hệ khác mà không ai cần biết nó có tự bao giờ. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng, nó được hình thành từ lúc những người đầu tiên dừng bước trên mảnh đất mà sau này gọi là “làng” hay “thôn”. Vì nước là một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống của con người cũng như của mọi tạo vật khác.Vì vậy, giếng nước chẳng những là nơi cung cấp nước cho người dân trong làng, mà còn là nơi gặp gỡ để trò chuyện, để trao đổi tâm tình mỗi khi người ta ra đó để kín nước mang về nhà. Nó cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành đi đường xa mỏi mệt vì bên cạnh giếng là cây đa cổ thụ có bóng che mát cho khách. Khát nước, khách có thể xuống giếng vốc nước bằng hai bàn tay chụm lại, hoặc lấy nón lá múc nước mà uống thỏa thuê, an lành. Giếng nước là một không gian đáp ứng hai nhu cầu của con người : vừa là nơi gặp gỡ thân tình, vừa là nơi cung cấp nước uống cho nhu cầu thể chất và cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành qua đường, đồng thời còn là nơi nhắc nhở người ta nhớ đến cội nguồn sâu thẳm và thiêng liêng.
2- Giáo xứ, những lợi ích siêu nhiên
Nhu cầu thứ hai của con người là đời sống thiêng liêng. Giáo xứ là giếng nước đầu làng. Ví von này thật gần gũi và giàu ý nghĩa. Dân trong thôn làng luôn đến giếng múc nước. Cũng thế, giáo dân luôn liên đới với cộng đoàn giáo xứ, nơi đây là “giếng nước” mầu nhiệm chan chứa ân sủng từ nguồn mạch sự sống Thiên Chúa.
Nhà thờ giáo xứ là “Nhà thờ phượng”, “Nhà cầu nguyện”, nơi người tín hữu đến đó hằng ngày để lãnh nhận thánh ân, rồi vào đời chia sẻ và sống chứng nhân.
Cái giếng nước đầu làng, ngoài những lợi ích nhân bản và tự nhiên, nó còn nhắc nhở người ta “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn ở đây vừa hiểu là nơi phát sinh mạch nước, tuôn chảy về giếng, vừa hướng về những bậc tiền nhân trong làng đã khơi dòng nước này cho các thế hệ hậu sinh. Còn giáo xứ, các Linh mục cai quản ở đây, làm sao để người tín hữu sống mầu nhiệm đức tin, giúp họ thăng tiến về nhân cách của những người tin, và nhất là mỗi ngày người ta thấy mình đã tiến triển trong tình huynh đệ, tiến triển trên đường kết hiệp với mầu nhiệm thánh giá và phục sinh (x. Giếng nước đầu làng, Khải Triều).
- Bốn hình ảnh Giáo xứ
Thánh Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ. Mọi người được đón tiếp chân thành, được sống trong bầu khí bác ái, được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở. Ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin. Mọi người được bồi dưỡng đức tin, được kêu gọi sống đức tin, được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giao lý, các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng mà người tín hưũ hiểu biết về những biến cố cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức. Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự, có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo. Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất, hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.
Giáo xứ vững mạnh thì luôn hướng đến việc huấn luyện đào tạo những con người phục vụ.
Ở nhà thờ, các tín hữu được nghe được học được thấm nhuần chân lý đức tin đặt nền trên Thánh kinh. Chân lý có tính cứu độ, thánh hoá, sáng tạo, giúp con người có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm nhạy bén trước sự lành sự xấu, có khát vọng đi sâu đi xa vào các giá trị xây dựng và phát triển con người xã hội. Từ đó họ sẽ trở thành người phục vụ cho chân lý.
Ở nhà thờ, các tín hữu đón nhận sự sống thiêng liêng. Sự sống này rất dồi dào phong phú làm cho họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Với sự sống này, người tín hữu không chỉ sống cho mình mà còn sống cho người khác, dám sinh sinh cho người khác. Từ đó, họ trở thành người phục vụ sự sống.
Ở nhà thờ, các tín hữu được chia sẻ tình yêu thương của mọi người trong Hội Thánh. Chia sẻ là cho đi và đón nhận. Tình chia sẻ này được xây dựng trên sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ đó, họ trở thành người phục vụ cho tình hiệp thông.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các Tông đồ đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ ấy là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới và làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.
Bên bờ giếng Giacop, người phụ nữ Samaria gặp Đức Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị và dân làng Samaria đã tin Ngài như là “Đấng Cứu độ trần gian”.
Giáo xứ “giếng nước đầu làng”, nơi người tín hữu hàng ngày đến gặp Đức Kitô Đấng Cứu Độ, nhờ đó họ trở thành con người mới, với trái tim mới, sống yêu thương và hy sinh phục vụ.
Xin cho mỗi tín hữu được gặp Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời của mình. Amen.
CHÚA GIÊSU LÀ MẠCH NƯỚC BAN SỰ SỐNG
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Năm nay Miền Tây của chúng ta đang thiếu nước ngọt trầm trọng. Nhiều năm qua Miền Tây hầu như không còn lũ về, điều này ảnh hưởng không chỉ môi trường, mà còn trực tiếp ảnh hưởng đến mùa màng, đời sống của người dân. Năm nay tình trạng thê thảm hơn, do nắng hạn kéo dài, lượng mưa ít, do Trung Quốc và một số quốc gia ở thượng nguồn xây nhiều thuỷ điện trữ nước, khiến cho toàn đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam thiếu nước ngọt trầm trọng. Trong những ngày qua, nước mặn từ biển đã xâm nhập sâu vào đất liền, các dòng sông bị nước mặn tràn ngược vào, khiến cho cây cối, lúa mạ đều chết vì không chịu nổi nước mặn. Các nhà khoa học dự báo chỉ trong thời gian ngắn nữa thôi, đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập mặn hoàn toàn, các vườn cây ăn trái và lúa sẽ chết. Nếu điều này xảy ra, sẽ là một thảm hoạ cho cả nước vì Miền Tây là nơi cung cấp phần lớn gạo và trái cây trên toàn quốc. Qua sự kiện này, chúng ta thấy nguồn nước và sự sống gắn liền với nhau: Nơi nào không có nguồn nước, nơi đó trở thành sa mạc, thành vùng đất chết; nơi nào có nguồn nước, nơi đó có sự sống.
Các bài đọc Chúa Nhật III mùa chay cho chúng ta thấy, Thiên Chúa chính là nguồn, là mạch nước đem lại sự sống cho linh hồn và thân xác con người và vũ trụ. Bài đọc một kể lại câu chuyện thời Xuất Hành, qua Môsê, Thiên Chúa đã cho mạch nước từ tảng đá vọt ra cứu sống dân Do Thái. Câu chuyện này là hình ảnh báo trước việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại nguồn nước đem lại sự sống đời đời sau này qua Đức Giêsu. Câu chuyện cho thấy, mặc dù dân Do Thái đã chứng kiến bao phép lạ lẫy lừng Thiên Chúa đã thực hiện tại Ai Cập để buộc vua Pharaô phải thả cho dân Do Thái ra đi, nhưng họ vẫn không tin vào quyền năng của Thiên Chúa. Kế đến là Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài để đưa dân vượt qua Biển Đỏ khô chân và người Do Thái đã chứng kiến việc Thiên Chúa để cho Biển Đỏ vùi lấp quân binh của người Ai Cập đang đuổi theo họ. Khi thiếu thức ăn trong sa mạc, Thiên Chúa đã cho mana từ trời rơi xuống nuôi họ suốt bốn mươi năm. Họ đói, Chúa nuôi bằng bánh bởi trời; họ thèm thịt, Chúa cho họ ăn thịt đến chán. Chứng kiến các phép lạ phi thường như thế, nhưng dường như người Do Thái vẫn hồ nghi vào sự tín trung và quyền năng của Thiên Chúa.
Câu chuyện tại Mêriba hôm nay, một lần nữa lại cho thấy sự cứng đầu của dân Do Thái trước quyền năng của Thiên Chúa. Đi trong sa mạc, dân Do Thái khát nước, họ quay lại kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê: “Có phải ông đưa chúng tôi và đàn vật vào trong hoang địa để chúng tôi chết khát ở nơi này hay không?”. Nhiều lần dân chúng phản loạn như thế và cũng đã có lần Thiên Chúa muốn bỏ mặc họ, thậm chí muốn tiệu diệt họ để làm nên một dân khác, nhưng Thiên Chúa đã không làm như vậy. Trong nỗi khổ tâm, ông Môsê thưa cùng Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ, chỉ chút nữa là chúng ném đá con rồi! Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê lấy cây gậy đập lên tảng đá.” Ông đã làm như thế trước mặt các kỳ mục và toàn dân Israel. Thiên Chúa đã cho nước từ tảng đá ấy chảy ra cứu sống dân Israel và đàn vật của họ. Nguồn nước từ tảng đá trong sa mạc trở thành nguồn sống cho dân Israel.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho thấy Ngài chính là mạch nước thoả mãn mọi khát khao trong tâm hồn và là mạch nước đem lại sự sống đời đời cho những ai tin và đón nhận Người. Câu chuyện Chúa Giêsu gặp người phụ nữ tại bờ giếng Giacop được thánh Gioan cảm nhận như là việc Chúa khơi gợi và huấn luyện đức tin cho người phụ nữ cùng ban ơn biến đổi cho chị. Câu chuyện kể lại: Lúc Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân tại bờ giếng, thì có một người phụ nữ Samaria đến múc nước. Đức Giêsu đã ngỏ lời với chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống.” Việc này làm cho người phụ nữ ngạc nhiên vì thông thường người Do Thái và người Samarian không bao giờ trò chuyện với nhau. Người Do Thái cho rằng tiếp xúc với người Samaria như vậy là ô uế, nhưng ở đây Chúa Giêsu lại mở lời trước và còn xin chị nước uống.
Chúa đã gây cho chị bất ngờ khác khi Chúa nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Chúa ban và ai là người nói với chị: ‘cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống.” Chắc chắn người phụ nữ này chưa biết Chúa Giêsu là ai và cũng chưa thể hiểu ‘nước hằng sống’ là gì, chị chỉ nghĩ đến nước dưới giếng mà thôi. Chị tự hào vì ông Giacop đã để lại cho con cháu một cái giếng có thể giải khát, cứu sống biết bao thế hệ và đàn vật của họ. Chúa Giêsu đã mở ra cho chị một cái nhìn siêu nhiên hơn khi nói với chị: “Ai uống nước này sẽ còn khát. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.”
Mặc dù chưa hiểu hết, nhưng người phụ nữ này đã thể hiện sự khiêm tốn của mình và mở lời: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy chị đang bị dày vò bởi cơn khát khác, đó là cơn khát của dục vọng. Ngài nói với chị: “hãy về gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Chị đáp: “Tôi không có chồng.” Chúa Giêsu chỉ cho chị thấy cuộc sống chung của chị với năm đời chồng là một cản trở khiến chị không thể đón nhận được nước hằng sống và nó còn làm cho chị khát mãi.
Sau khi nói với chị về nước hằng sống và giúp người phụ nữ này nhìn lại thực trạng cuộc sống của mình, người phụ nữ này đã đi đến một niềm tin, chị thưa rằng: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, cha ông chúng tôi đã thờ phượng trên núi này.” Nhận thấy chị đã mở lòng để đón nhận đức tin, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chị về chính Ngài và về việc thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực: “Thiên Chúa là thần khí; và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật. Người phụ nữ thưa: Tôi biết Đấng Mêsia gọi là Đức Kitô sẽ đến…Chúa Giêsu đáp: Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Người phụ nữ đã được biến đổi, chị chạy về báo tin cho dân làng: “Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Dân chúng kéo đến gặp Chúa Giêsu và đã tin Ngài. Người phụ nữ Samaria đã đón nhận được nguồn nước sự sống của Chúa Giêsu, Ngài đã giải thoát chị khỏi cơn khát của dục vọng và những ham muốn thế trần và làm cho tâm hồn chị được tái sinh. Chúa Giêsu cũng làm cho nguồn nước mà chị đã đón nhận lại tiếp tục tuôn tràn sức sống đến nhiều người khác nữa.
Thưa quý OBACE, qua câu chuyện trong bài Tin Mừng cho thấy, nước hằng sống mà Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại, là mạch nước cải tử hoàn sinh, đem lại sức sống cho những ai khao khát và mở lòng ra đón nhận. Mạch nước này, qua những người đón nhận, còn có sức lan toả đến những tâm hồn thành tâm thiện chí khao khát tìm kiếm Chúa. Mạch nước ban sự sống của Chúa Giêsu chính là mạch nước đã chảy ra từ cạnh sườn của Chúa bị đâm thâu trên thánh giá. Máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Chúa có sức thanh tẩy chúng ta sạch tội lỗi, biến chúng ta nên con người mới và ban cho chúng ta sự sống trường sinh, hạnh phúc đời đời.
Qua dòng nước của Bí Tích Rửa tội, chính Chúa Giêsu đã thanh tẩy chúng ta, làm cho chúng ta nên tạo vật mới và nhận chúng ta vào gia đình của Người. Chúa Giêsu còn tiếp tục nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn và của uống có sức mạnh gia tăng sinh lực và bảo đảm hạnh phúc đời đời cho chúng ta, đó chính là mạch nước trường sinh: “Ai ăn bánh ta ban sẽ không còn đói, ai uống chén ta ban sẽ không còn khát bao giờ.”
Các thứ nước giải khát, tăng lực ngày nay chỉ có thể thoả mãn cơn khát của cơ thể trong chốc lát, nhưng nó không thể thoả mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn đó là khát tự do, khát tình yêu, hạnh phúc và sự sống đời đời. Những cái khát sâu thẳm này chỉ có thể được thoả mãn bởi dòng nước ban sự sống của Chúa Giêsu mà thôi. Vì thế, những ngày này chúng ta được thôi thúc cách đặc biệt để đến với Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống, tình yêu và hạnh phúc, để được ngụp lặn và được uống tận nguồn của lòng thương xót và tha thứ của Chúa.
Một khi được nuôi dưỡng và thoả mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn, giống như người phụ nữ Samaria, chúng ta sẽ trở thành những người tiếp tục làm cho sức sống và nguồn nước ấy lan toả đến các thành viên khác trong gia đình và trong cộng đoàn. Nguồn nước sự sống của Chúa Giêsu sẽ biến đổi gia đình và xã hội mỗi ngày nên hạnh phúc, yêu thương và là bảo đảm cho hạnh phúc nước trời.
Xin Chúa cho chúng ta tin tưởng và khiêm tốn, siêng năng đến lãnh nhận nguồn nước ban sự sống là chính Chúa Giêsu và để Ngài tưới mát, biến đổi và ban sức sống cho tâm hồn và thể xác chúng ta. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Khi đi trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung, đoàn dân Chúa xưa trong hoang địa mới cảm thấy cái khát hành hạ người ta đến độ nào, và nhu cầu được uống nước mới bức xúc làm sao. Chính khi bị cơn khát dày vò mà họ vùng lên nổi loạn, đổ lỗi cho Môsê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy, và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Xh 17, 3-7).
Ngoài những cơn khát tự nhiên, con người còn có một khao khát siêu nhiên, là một khát vọng vô biên, mà không có gì làm cho no thoả. Dù có được tất cả thế gian này, thì cũng chỉ là bụi bay trong phút chốc.
Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng, nhưng rồi phải lần lượt chia tay, để ở tiếp với người thứ sáu. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát.
Ông tổ triết hiện sinh là Arthur Schopenhauer (1788-1860) cho rằng: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”, càng về sau lại càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
Chúa Giêsu đã chỉ cho phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4, 13-14). Chúa Giêsu chính là Mạch Nước trường sinh.
Thánh Augustinô sau những năm mê man tìm kiếm lạc thú trần gian, rồi cũng đến những ngày chê chán, vì chẳng thấy gì có thể lấp đầy trái tim mình. Cuối cùng, nhờ ơn Chúa qua lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện, Augustinô mới khám phá ra Thiên Chúa là suối nguồn hạnh phúc của đời mình. Ngài đã thốt lên với lòng đầy hy vọng: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên hồn con luôn thao thức băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.”
Nhân loại hôm nay vẫn còn đây cơn khát vô tận, cho dù loài người có văn minh tiến bộ đến đâu thì cũng thế. Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới, ta thấy biết bao điên đảo trong kiếp người, cũng vì chưa nhận ra chân giá trị của đời mình nơi Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Tuổi trẻ chúng con đầy những khát khao,
nhưng mấy khi hiểu được điều mình khao khát,
có ý nghĩa gì và sẽ đưa cuộc sống đến đâu,
hay lại vùi lấp mình trong bùn sâu danh vọng,
vì không nghe được tiếng Chúa tự cõi lòng,
đang khơi nguồn cho khát vọng vô biên.
Con háo hức muốn chiếm ngay điều trước mắt,
muốn làm bằng mọi giá để nắm bắt thành công,
nên có những khát vọng đã biến thành tham vọng,
khi con chỉ tìm sở hữu và thỏa mãn nhất thời.
Ít khi con dành giờ đối diện với chính mình,
để thấy những gì đang diễn biến trong tâm,
và khi mất đi những giây phút lặng trầm,
con biến mình thành cuộc đua không đích điểm.
Con chỉ nhắm tới những gì mình tìm kiếm,
nên con tim như hoang vắng im lìm,
khiến tâm hồn khô cạn, lối sống khô khan,
trí não khô cứng, tình yêu khô cằn.
Nội tâm con không thiếu những uẩn khúc,
những nhập nhằng, cả những ô nhơ hoen ố,
Con xấu hổ và tìm cách che lấp bản thân,
nhưng rồi ánh sáng của Chúa đã phơi trần.
Xin Chúa đến làm mới lại đời con,
cho con biết được điều con phải trở bước,
hiểu được điều con phải trở về,
nghe được điều con phải trở nên,
thấy được điều con phải trở thành.
Xin cho con vượt lên những khát khao tầm thường,
đừng để mình bị lụy vướng vào tình trường thế tục,
mà lo đạt tới Chúa, nguồn mạch của tình thương,
là Đấng làm cho con được no thỏa miên trường. Amen.
(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 40)
Trầm Thiên Thu
Chúa Xin Thế Gian Nước Giải Khát
Ngài Tặng Nhân Loại Nguồn Trường Sinh
Đói và khát thường đi đôi với nhau, và là nhu cầu cấp thiết của con người. Đói liên quan đồ ăn, khát liên quan đồ uống. Đó là vấn đề cơ bản của thể lý. Nhịn đói được lâu hơn nhịn khát. Thiếu nước là nỗi khổ không chỉ của con người mà cả sinh vật, cụ thể là tình trạng hạn hạn đang xảy ra ở miền Tây Việt Nam trong mùa hè năm Con Chuột Chù 2020 này.
Về thể lý, muốn hết khát thì phải có nước để giải khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp mang tính nhân đạo. Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi. Về tinh thần, muốn hết khát thì phải có loại nước đặc biệt: tình yêu thương.
Cho (trao, tặng, biếu) người khác những thứ đơn sơ, nhỏ mọn, có thể chỉ là “chuyện nhỏ,” nhưng với tình yêu lớn, đó lại là sự chia sẻ thực sự quan trọng và cần thiết. Chẳng đáng gì với một ly nước lạnh mà vẫn giá trị, nhất là vào những ngày hè nắng nóng bức, cái nắng oi ả mà tiền nhân ví von là “nắng tháng Ba, chó già le lưỡi.” (tục ngữ Việt Nam) Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy, và Ngài hứa: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10:42) Mẹ Thánh teresa Calcutta nhận định rằng chúng ta không làm được những việc to lớn nhưng có thể làm được những việc nhỏ với tình yêu lớn. Thế thôi, nhưng thực sự tuyệt vời lắm!
Cái khát về thể lý đã là cấp bách rồi, cái khát về tinh thần (ước mong, khát vọng,…) cũng cấp bách lắm, đặc biệt là cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (thường là nhân tai), nghĩa là thiếu nước vì không có mưa, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh còn nguy hiểm hơn, vì rõ ràng đó là “nhân họa.” Chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi cơn đại hạn cho mảnh đất tâm hồn. Thực sự chúng ta phải khao khát Ngài, vì Ngài là nguồn mạch Nước Hằng Sống.
Thời Cựu Ước xưa, trên hành trình qua sa mạc tiến về Đất Hứa, dân khát nước nên đã kêu trách thủ lĩnh Môsê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4) Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa thiêu. Vì chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Môsê cũng “ngán” lắm mà không biết làm sao, thế nên ông phải kêu cứu Thiên Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4) Rõ ràng là dân bức xúc lắm rồi, có thể bạo động và làm bất cứ hành động nào, và thủ lĩnh Môsê thấy sợ lắm rồi!
Thật chứ chẳng chơi. Vùng đó sẵn đá, muốn gì lấy đá chọi ngay. Phải trái thế nào tính sau, chết chắc. Thấy ông Môsê kêu xin, Đức Chúa cho biết: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Israel; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống.” (Xh 17:5-6) Ôi, thế thì còn gì bằng! Ông Môsê nghe và làm theo ngay. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Maxa và Mơriva, nghĩa là Thử Thách và Gây Sự, vì con cái Israel đã gây sự và thử thách Chúa. Họ nghi ngờ nên đặt vấn đề: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7) Kể cũng to gan, lớn mật. Liều thật!
Ngày nay có thể chúng ta cho rằng dân Israel “uống thuốc liều” quá chỉ định, “coi trời bằng vung” nên mới dám gây sự và thử thách Chúa, kiểu “bán trời không cần văn tự.” Tuy nhiên, chắc gì chúng ta đã hơn họ, có khi còn liều mạng hơn họ. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như kiểu nối các bóng điện, gọi là “họa vô đơn chí,” chắc hẳn cũng đã có những lúc đức tin của chúng ta bị rung rinh. Mặc dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng bộc lộ sự hoài nghi: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo tưởng?” Cũng đã thấy có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!” Trời là ai? Thế thì chúng ta chẳng liều hơn dân Israel sao? Nghĩa là chúng ta tự thấy mình “ngon” lắm!
Việc ăn năn sám hối không chỉ là động thái được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, dịp tĩnh tâm hay cấm phòng, mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời. Ai cũng có tội nên luôn cần sám hối, ngày nào cần sám hối thì ngày đó là Mùa Chay. Đó là cách sống sẵn sàng dầu đèn như mười cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể. (x. Mt 25:1-13) Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê,” do đó mà có nghiêm luật: “Xưng tội mỗi năm ít là một lần.” Xưng tội liên quan rước lễ trong Mùa Phục Sinh.
Cứ chân thật ngắm thiên nhiên, nhìn vạn vật thì sẽ nhận ra Thiên Chúa. Điều đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái rất nhỏ nhưng lại là điều quan trọng, là đại hồng ân. Vì thế, đừng làm ngơ lời mời gọi của Thánh Vịnh gia: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.” (Tv 95:1-2) Hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ, Giáo Hội vẫn sử dụng Thánh Vịnh này để chúc tụng Thiên Chúa.
Nước đầy thì tràn ly, lòng đầy thì miệng nói ra. Ngoại tại chứng tỏ nội tại. Thánh Vịnh gia cho biết: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.” (Tv 95:6-7a) Đặc biệt là mỗi dịp Mùa Chay, chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơriva, như ngày ở Maxa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm.” (Tv 95:7b-9) Cái gì cứng thì khó hóa mềm, lòng cứng cũng chẳng dễ mềm chút nào – vì không biết sợ. Kinh Thánh nói: “Phúc cho người luôn luôn biết sợ, còn kẻ cứng lòng sẽ gặp phải tai ương.” (Cn 28:14)
Hai địa danh Mơ-ri-va và Ma-xa nhắc nhở chúng ta “ĐỪNG gây sự và CHỚ thử thách Thiên Chúa.” Không dám làm vậy là biết sợ, có thể bắt đầu tin có Thiên Chúa hiện hữu, và chính niềm tin đó là khởi đầu của chuỗi hệ lụy tốt lành: Tín thác – Thương yêu – Tha thứ – Thánh ân – Trắng án – Trường sinh. Một chuỗi các mẫu tự T thật kỳ diệu, liên kết thành con đường nên thánh để được làm công dân Nước Trời. Thế thì thật tuyệt!
Có nhiều mối phúc khác ngoài Bát Phúc (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), một trong các mối phúc có liên quan đức tin: “Phúc thay những người không thấy mà tin.” (Ga 20:29) Đức tin thật kỳ diệu, vì đức tin có thể làm cho người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa.” (Rm 5:1-2) Đức tin là đèn sáng soi đường chúng ta đi về hướng có Thiên Chúa.
Những người tin vào Thiên Chúa không phải là ngu dốt mà là khôn ngoan. Càng có tri thức thì người ta càng dễ nhận ra Ngài. Các bác học lừng danh đều có niềm tin vào Thiên Chúa, cụ thể là: Roger Bacon (khoảng 1214-1294, người áp dụng phương pháp thực nghiệm và các phương pháp khoa học tân tiến, viết về luật thiên nhiên, cơ khí, địa lý và quang học), Johannes Kepler (1571-1630, nhà vũ trụ học, tính toán sự di chuyển của các thiên hà), René Descartes (1596-1650, bác học về hình học và những con số bất biến, người hướng dẫn cuộc Cách Mạng Khoa Học của Tây phương), Blaise Pascal (1623-1662, thần đồng toán học, vật lý, và lý thuyết), Isaac Newton (1643-1727, nhà khoa học và toán học vĩ đại nhất của mọi thời đại), Louis Pasteur (1822-1895), Albert Einstein (1879-1955), Max Planck (1858-1947, đoạt giải Nobel về vật lý và là cha đẻ của Thuyết Quantum Mechanics), Georges Lemaître (1894-1966, linh mục Công Giáo, người khởi xướng thuyết Big Bang), và còn rất nhiều nhà bác học khác đều là các Kitô hữu tốt lành. Họ đã KHÁT và đã được uống Nước Giêsu.
Lời giải thích của Thánh Phaolô rất chi tiết: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” (Rm 5:8) Sự thật minh nhiên, đến nỗi chính viên đại đội trưởng đã run sợ sau khi Chúa Giêsu trút hơi thở, và phải thốt lên: “Quả thật ông này này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47)
Chúng ta thấy điều gì trong các thư của Thánh Phaolô cũng được diễn tả rất chi tiết, dễ hiểu. Vâng, tình yêu và lòng thương xót của Chúa quá vĩ đại, cao thượng, bao la. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13) Nhưng đâu dễ mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai đó. Vậy mà Thánh Maximilian Kolbe (1894-1941, linh mục Dòng Phanxicô) đã làm được, ngài dám tự nguyện “thế mạng” cho một tù nhân khác tại trại tập trung Auschwitz trong thời gian Đức chiếm đóng Ba Lan hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Đó là dạng khát vọng rất khác người nhưng lại giống Chúa Giêsu.
Như một đoạn phim thú vị, trình thuật Ga 4:5-42 đề cập tính nhân bản và nỗi khát vọng chính đáng: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Samari, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Ngài đi đường mỏi mệt trong khi các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng nóng như lửa, nên Ngài ngồi ngay bên giếng nước.
Sự ngẫu nhiên là ngay lúc đó có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Trưa nắng mà đi lấy nước thì cũng lạ thật. Và rồi Đức Giêsu đã xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Thời đó, người Do Thái và người Samari phải “cách ly” với nhau, không được giao tiếp. Đức Giêsu ôn tồn: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống.” Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại – loại giả định có thật. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Philatô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT.” (Ga 18:38) Chỉ có sự thật mới giải thoát và làm cho người ta được tự do thực sự. (x. Ga 8:32)
Phụ nữ này còn thắc mắc rằng giếng sâu mà Chúa Giêsu không có gầu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị còn chứng minh rằng tổ phụ Giacóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Chúa Giêsu vẫn nở nụ cười hiền và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Có lẽ lúc đó chị vừa gãi đầu vừa nghĩ bụng: “Mèn ơi, lạ dữ nghen!” Không lạ sao được, thế mới đáng nói. Cơn khát của phụ nữ này không còn đơn thuần là khát nước, mà bắt đầu là cơn khát tâm linh.
Cứ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chị thực sự cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì có gì đó rất khác thường, và chị nói ngay: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” Chúa Giêsu không bảo cho hay không cho, mà bảo chị ấy gọi chồng ra. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Chúa Giêsu cười và xác nhận chị nói đúng. Ngài nói thẳng luôn là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc, y chang như “đi guốc trong bụng” vậy. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ.” Hay tuyệt!
Và rồi không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo rằng không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Thế thì thật tốt!
Như thấy chị có vẻ “khó hiểu” về việc thờ phượng vừa được đề cập, Chúa Giêsu nghiêm túc xác định: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Chị Hai này hay thiệt, xem chừng cũng giỏi Kinh thánh nữa, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “phản ứng” chi cả, rồi chị nói: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Quá đúng. Thật giỏi. Và Chúa Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Ôi chao, chị này diễm phúc quá, được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Chẳng còn hạnh phúc nào hơn nữa!
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và phụ nữ Samari tới đó thì các môn đệ trở về, họ rất ngạc nhiên vì thấy Thầy nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ ghê ta! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi Thầy. Còn người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ cả vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ” rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Mọi người được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ lắm, và cũng vui lắm. Chắc hẳn ai cũng rất phấn khởi vì thỏa niềm khát vọng lâu nay – đặc biệt là chị Hai ngoại giáo. Niềm vui không thể giấu, phải chia sẻ thôi!
Không còn sớm nữa, quá trưa rồi, bụng ai cũng đánh lô-tô, thế nên các môn đệ thưa: “Xin mời Thầy dùng bữa.” Nhưng Ngài nói với các ông điều cao xa hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.” Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” Họ tưởng Thầy ăn rồi, không cần gì nữa. Các ông đâu có hiểu rằng Thầy nói về “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi. (x. Mt 10:24-25) Tất nhiên Thầy rất thông cảm cho các đệ tử. Mưa lâu thấm sâu, dần dần rồi sẽ hiểu. Phải biết uống sữa rồi mới có thể ăn cháo, ăn cháo rồi mới có thể ăn cơm – và các món khác.
Theo lời kể của Thánh Gioan, hôm đó có nhiều người Samari trong thành đã tin vào Chúa Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới biết mọi sự, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ, kể cả tương lai của con người. bởi vì “Thiên Chúa thấu suốt mọi sự.” (1 Sb 28:9b; Gđt 8:14; Et 4:17d; Et 5:1a; 2 Mcb 6:30; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Gr 10:12; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 10:12; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 2:10; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20)
Lòng tin tạo sự hiếu khách, dân Samari xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Chúa Giêsu tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai nọ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” Không thành vấn đề, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Ngày nay, mỗi chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, bằng cách này hay cách khác – bất kể cộng đoàn hoặc chức vụ nào, như Thiên Chúa đã tuyển chọn chị Hai ngoại giáo xưa. Bổn phận và trách nhiệm của chúng ta là chia sẻ Thiên Chúa và đức tin cho những người khác.
Khát vọng là ước muốn mạnh mẽ, tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá năm xưa vẫn vang lên: “Tôi khát!” (Ga 19:28) Đó là nỗi “khát tình yêu thương.” Ngài khát khao thương xót mọi người mà bị phụ tình: “Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Mt 23:37; Lc 13:34) Ngài còn có khát vọng khác thường là “khát vọng đau khổ,” Ngài bằng lòng uống “chén đắng,” không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua, (Ga 19:29) đúng như từ xưa Thánh Vịnh gia đã than thở: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua.” (Tv 69:22) Đau khổ chồng chất!
Hôm nay, trong Cõi Lặng Thánh, ước gì mỗi chúng ta đều biết thực sự khát vọng sống công chính, biết tin mến Đức Kitô giống như chị Hai và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống.” (Tv 42:3) Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào “Người-Lạ” là điều hợp lý và đúng ý Chúa. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta, bởi vì “nếu Ngài chấp tội, chẳng ai có thể được cứu độ” (x. Tv 130:3) Nhưng Lòng Thương Xót của Ngài bao phủ tất cả.
Điều cần thiết đối với tội nhân chúng ta là yêu mến. Thánh Gioan Thiên Chúa nói: “Nước dập tắt lửa thế nào, tình yêu cũng rửa sạch tội lỗi như vậy.” Vâng, thật là tuyệt vời, bởi vì tình yêu có thể khỏa lấp mọi khoảng cách. Xin tạ ơn Thiên Chúa muôn đời!
Lạy Thánh Phụ nhân từ, xin Ngài thương xót và chấp nhận trở nên gia nghiệp đời đời của chúng con, xin giúp chúng con khôn ngoan phân định, biết đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu nơi những con người bé mọn dọc đường đời chúng con gặp hằng ngày. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp chúng con luôn biết khát mong ơn Ngài cứu độ. (Tv 119:174) Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Trong chu trình Mùa Chay, Giáo Hội dành Chúa Nhật III và Chúa Nhật IV Mùa Chay cho bí tích Thánh Tẩy, vì thế các Bài Đọc được chọn lựa nhằm chuẩn bị cho tân tòng đón nhận Thánh Tẩy vào đêm vọng Phục Sinh. Như vậy, vào Chúa Nhật III Mùa Chay này, chủ đề nổi bật là “nước hằng sống”, nguồn mạch cứu độ.
Xh 17: 3-7
Suốt cuộc hành trình trong hoang địa, dân Do thái phải chịu cảnh đói khát. Thiên Chúa đã ban cho họ nước mát trong tuôn trào từ tảng đá. Qua đó, Thiên Chúa tỏ cho dân Ngài biết rằng Ngài vừa là Đá Tảng vừa là Nguồn Mạch luôn luôn tuôn trào sự sống và ơn cứu độ.
Rm 5: 1-2; 5-8
Thánh Phao-lô nói cho tín hữu Rô-ma biết rằng chính nhờ Đức Tin mà họ trở nên công chính và vui hưởng niềm hy vọng lớn lao, đó là một ngày kia sẽ được dự phần vào vinh quang của chính Thiên Chúa. Đức cậy này có một nền tảng vững chắc bởi vì nó cắm rễ sâu vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Ga 4: 5-42
Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri ở bên bờ giếng Gia-cóp. Đức Giê-su tự đồng hóa mình với nguồn nước hằng sống đem lại sự sống đời đời.
BÀI ĐỌC I (Xh 17: 3-7)
Nhan đề của sách Xuất Hành tự nó nói lên nội dung của sách: “cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập”. Chương 17 này tường thuật một loạt những thử thách mà dân Do thái đã trải qua trong suốt cuộc hành trình gian khổ băng qua hoang địa: cái đói, cái khát, chiến tranh, từ đó họ kêu trách, gây gổ và nổi loạn.
Đoạn văn được trích dẫn hôm nay tường thuật dân Do thái trải qua cuộc thử thách về cái khát, và từ đó nẩy sinh sự nghi nan ngờ vực về sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đối lại, Thiên Chúa đáp trả nhu cầu của dân. Vì thế biến cố này bao gồm hai bài học.
- Qua việc ban nước hằng sống, Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng cứu độ
“Ông Mô-sê đập cây gậy vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy tràn ra cho dân uống”. Đây không là một phép lạ từ hư không (ex nihilo). Chính Đức Giê-su cũng sẽ không thực hiện bất kỳ phép lạ từ hư không nào. Ngài luôn luôn sử dụng chất liệu tự nhiên: từ nước ở Ca-na, Ngài biến thành rượu; từ năm chiếc bánh và hai con cá Ngài nuôi một đám đông dân chúng. Cũng vậy trong trường hợp của ông Mô-sê, từ đá tảng Thiên Chúa cho nước mát trong chảy tràn ra cho dân chúng uống.
Cây gậy mà ông Mô-sê sử dụng là cây gậy mà Thiên Chúa đã ban cho ông để chiến thắng các cây gậy của các nhà phù thủy của Pha-ra-ô (Xh 7: 11-12). Việc cây gậy thần hay chiếc đũa thần làm nên những điềm thiêng dấu lạ chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những chuyện tích nhân gian, nhưng điều quan trọng chính là Thiên Chúa, qua người đại diện của Ngài, cho thấy quyền năng của Ngài hơn các quyền năng của các vị thần linh Ai-cập, qua các vị pháp sư này. Thật ý nghĩa biết bao ở Ds 20: 7-8, câu chuyện này được đọc lại, thay vì cây gậy của ông Mô-sê, chính là “lời của ông” khiến nước phun ra từ tảng đá: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước…”.
Ân ban nước trong sa mạc Rơ-phi-đim được ghi trong sách Xuất Hành này là một hành động cứu độ. Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Vì thế, trong Kinh Thánh, “nước” không chỉ là một yếu tố tự nhiên đảm bảo sự sinh tồn, nhưng còn hổ trợ cho một chủ đề huyền nhiệm và biểu tượng: hình ảnh về sự sống tâm linh:
“Hai tay cầu Chúa giơ lên,
hồn con khát Chúa như miền đất khô” (Tv 143: 6)
hay:
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trong mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42: 2).
Tảng đá phun trào nước mát trong cho dân chúng uống ở Rơ-phi-lim mặc lấy cũng một ý nghĩa này. Truyền thống này vang dội trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: Cha ông chúng ta “cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cr 10: 4).
- Kiên vững trong thử thách
Ông Mô-sê đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của dân chúng. Họ sợ hãi trước một cái chết thảm khốc: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”. Đoạn, sự nghi nan ngờ vực trở thành lời nói phạm thượng: “Có Chúa ở giữa chúng tôi hay không?”.
Trước cuộc nổi loạn của dân chúng, ông Mô-sê sợ hãi kêu lên cùng Chúa: “Tôi phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ còn chút nữa là họ lấy đá ném chết tôi!”. Ông Mô-sê chấp nhận đánh cược niềm tin của mình; Thiên Chúa phục hồi uy tín cho ông trước mắt mọi người khi cho ông thực hiện ân ban của Ngài trước sự chứng kiến của một số kỳ mục mà ông dẫn theo đến tảng đá.
Chính nhờ niềm tin mà ông Mô-sê đã vượt qua cơn nguy khốn này. Ông tin rằng không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Hơn nữa, ông đặt trọn niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng, bất chấp những cằn nhằn gây gổ của dân Ngài, đã không từ chối ra tay cứu giúp họ. Đức tin không thể tương hợp với sự tuyệt vọng.
Việc dân Do thái thách thức và cằn nhằn gây gổ ở Ma-xa và Mê-ri-ba được sách Đệ Nhị Luật nêu lên: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6: 16). Khi chịu thử thách trong hoang địa, Đức Giê-su đáp lại cơn cám dỗ thứ hai của Xa-tan cũng bằng chính những lời này: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4: 7).
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 1-2, 5-8)
Thần học về ơn công chính hóa là phần cốt yếu của thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Trong phần đạo lý (1: 16-11: 36), thánh Phao-lô nói cho chúng ta biết rằng chúng ta được trở nên công chính nhờ tin vào Đức Ki-tô. Phần đạo lý này được khai triển thành hai phần: phần thứ nhất (1: 18-4: 25) trong đó thánh Phao-lô chứng minh rằng ơn công chính hóa đạt được nhờ đức tin và phần thứ hai (5: 1-11: 36) trong đó thánh nhân sẽ bàn đến những hoa trái mà ơn công chính hóa sản sinh ở nơi những ai được trở nên công chính.
Đoạn trích hôm nay là phần đầu chương 5, chương đóng chức năng như bản lề của phần đạo lý này. Trong các chương trước, thánh Phao-lô đã trình bày cho chúng ta biết rằng chúng ta được cứu độ và trở nên công chính nhờ đức tin chứ không nhờ công này việc nọ. Bây giờ thánh nhân tiếp tục giải thích những hoa trái của đời sống mới. Hoa quả đầu tiên là “sống hòa hợp với Thiên Chúa” và “niềm hy vọng vào vinh quang tương lai”.
- Sống hòa hợp với Thiên Chúa (5: 1-2)
Được trở nên công chính, con người lại có thể sống trong mối thân tình với Thiên Chúa. Tội lỗi kéo theo sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, trong khi ơn công chính hóa chấm dứt tình trạng thù địch này. Con người sống trong tình trạng giao hòa với Đấng Tạo Hóa của mình. Những mối liên hệ giữa thụ tạo và Tạo Hóa được bình thường hóa. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian của cuộc sống hoà hợp này. Để nhắc lại vai trò trung gian của Đức Giê-su, thánh Phao-lô cậy nhờ đến hình ảnh tế tự. Như một người tiến vào cung thánh nhờ chu toàn vài điều kiện, cũng vậy, hiện nay Đức Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, mở lối cho chúng ta vào để chúng ta được vui hưởng ân sủng của Thiên Chúa.
Vì thế, ân sủng không gì khác hơn là hành động của Thiên Chúa, nhờ đó con người được thụ hưởng ân này đến ân khác. Con người chỉ có thể tự hào và hoan hỉ vì những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Cuộc sống hòa hợp với Thiên Chúa mà con người được thụ hưởng hôm nay bảo đảm cho họ rằng ngày mai họ sẽ dự phần vào vinh quang Thiên Chúa, vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Ân ban bình an là tham dự trước vinh quang thiên quốc, ân ban này là bảo chứng cho cuộc sống thần linh mà một ngày kia họ sẽ thụ hưởng viên mãn.
- Niềm hy vọng vào vinh quang tương lai (5: 5-8)
Thánh Phao-lô nêu lên hai lý do để khẳng định rằng niềm hy vọng vào vinh quang tương lai là có cơ sở vững chắc:
A -Ân ban Thánh Thần (5: 3-5)
Được công chính hóa, chúng ta không chỉ vui mừng vì đang được sống hòa hợp với Thiên Chúa và hy vọng về phần thưởng ngày mai, cho dù hiện nay phải gặp thấy niềm hoan hỉ trong những gian truân thử thách, vì “ai quen gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy” (5: 4). Điều quan trọng nhất chính là Thiên Chúa đang hoạt động để dẫn đưa chúng ta đến cứu cánh tối hậu mà Ngài dành sẵn cho chúng ta. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.
B -Hiến dâng Con Một của Người (5: 6-8)
Thánh Phao-lô nêu ra một bằng chứng khác để khẳng định rằng niềm cậy trông của chúng ta là có cơ sở vững chắc, đó là Đức Giê-su đã chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này còn lớn lao hơn, bởi vì thật khó gặp thấy một ai sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho một người lương thiện, ấy vậy, Đức Giê-su đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là hạng phản nghịch cùng Thiên Chúa. Như vậy, không chỉ Chúa Con, nhưng cũng Chúa Cha đã bày tỏ tình yêu của mình trong cái chết của Đức Ki-tô.
TIN MỪNG (Ga 4: 5-42)
Phần mở đầu (4: 5-6) cho chúng ta biết cuộc hành trình của Đức Giê-su từ miền Giu-đê trở lại Ga-li-lê băng qua Sa-ma-ri, thời gian: “khoảng mười hai giờ trưa”, giờ nóng nhất trong ngày, và nơi diễn ra những cuộc đối thoại của Ngài với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri (4: 7-26), với các môn đệ Ngài (4: 27-38) và sau cùng với dân Sa-ma-ri (4: 39-42) là bên “giếng của ông Gia-cóp”.
- Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri (4: 7-26)
Trong khi các môn đệ vào thành để mua thức ăn để Thầy lại một mình vừa đói vừa khát bên bờ giếng Gia-cóp, thì có một người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đến múc nước. Vì thế, Ngài ngỏ lời xin chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (4: 7), nhưng gặp phải phản ứng không mấy thuận lợi từ phía người phụ nữ qua câu trả lời của chị: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” (4: 9). Cuộc đối thoại khởi đi từ đó. Phải nhấn mạnh rằng cuộc đối thoại phát xuất từ sáng kiến của Đức Giê-su. Chính Ngài là người đầu tiên ngỏ lời bắt chuyện với người phụ nữ để dẫn chị vào trong mầu nhiệm của Ngài.
Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: nước hằng sống (4: 10-14) và thờ phượng đích thật (4: 20-26). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về đời tư của người phụ nữ (4: 15-19) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.
A- Nước hằng sống (4: 10-14)
Trong câu trả lời của mình, người phụ nữ nêu lên hai lý do để từ chối nói chuyện với Đức Giê-su: trước hết, mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc này như lời giải thích của người kể chuyện: “Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri” (4: 9); thứ nữa, phong tục tập quán vào thời ấy không cho phép người phụ nữ được nói chuyện với một người đàn ông, nhất ở nơi hoang vắng.
Nhưng Đức Giê-su muốn phá đổ bức tường ngăn cách giữa hai dân tộc này cũng như giữa nam và nữ, để mở ra cuộc đối thoại với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (4: 10). Đức Giê-su lợi dụng biểu tượng phong phú về “nước hằng sống” để chị có thể khám phá chân tính của Đấng không chỉ là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng còn là Thiên Chúa đích thân, Đấng đến từ trên cao (Ga 3: 3), từ trời (Ga 3: 31), nhờ đó chị có thể đón nhận lời của Ngài, lời ban sự sống.
Với câu trả lời này, vai trò của Đức Giê-su và của người phụ nữ đảo ngược: giếng ban nước mát trong vẫn ở đó, nhưng nhường chỗ cho sự hiện diện của Đức Giê-su, Đấng ban “nước hằng sống”. Cặp đối lập: “Ông, người Do thái” và “tôi, người phụ nữ Sa-ma-ri” vẫn còn đó, nhưng bị vượt qua bởi “Đấng hiện thân ân huệ Thiên Chúa”. Câu trả lời của Đức Giê-su ở thể điều kiện, nghĩa là lời đề nghị, hay lời mời gọi. Nếu chị chấp nhận điều kiện, lời hứa sẽ trở thành hiện thực.
Tuy nhiên, người phụ nữ chưa nắm bắt thực tại thần linh của biểu tượng, vì thế chị vẫn cứ bám vào thực tại vật chất của giếng Gia-cóp: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính người đã uống giếng nước này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11-12). Đây là phương pháp “ngộ nhận” của Tin Mừng Gioan được dùng hai lần: trong cuộc đối thoại với người phụ nữ về “nước hằng sống” và trong cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thật”. Điều này giúp cho Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn điều Ngài muốn người đối thoại đạt đến.
Vì thế, Chúa Giê-su xác định rõ ra sự khác biệt giữa nước mà giếng Gia-cóp ban cho và nước mà Ngài ban cho: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 13-14). Trong câu 13 nói về nước mà giếng Gia-cóp ban cho, kiểu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát” đã được sách Huấn Ca sử dụng: “Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 21) để diễn tả người nào đã nếm lời Khôn Ngoan, sẽ ao ước được nếm mãi không thôi. Trong câu 14a nói về nước mà Ngài ban cho, kiểu nói: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” đã được ngôn sứ I-sai-a sử dụng: “Họ sẽ không còn đói và khát nữa” (Is 49: 10-13) để loan báo thời thiên sai và hoàn vũ. Như vậy Đức Giê-su khẳng định rằng nước mà Ngài ban cho không thuộc trật tự vật chất, nhưng thuộc trật tự biểu tượng: Ngài tỏ mình ra như “ân huệ” tuyệt mức mà Thiên Chúa ban cho con người (Ga 3: 16-17). Khi gặp gỡ Ngài, người ta không đơn giản gặp bậc tôn sư dạy những lời khôn ngoan xuất phát từ Mặc Khải, nhưng chính nguồn Mặc Khải. Đức Giê-su là hiện thân Mặc Khải (Ga1: 14). Đó là lý do tại sao Ngài mời người đối thoại hãy tiếp nhận và sở hữu lời Ngài để lời Ngài trở nên nguồn sống đời đời trong lòng của mình: “Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 14b).
B -Đời tư của người phụ nữ (4: 15-18)
Chủ đề “nước hằng sống” xem ra đến hồi kết thúc với lời đáp trả của chị: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15). Như vậy, với lời đáp trả này, chị chấp nhận một sự hoán chuyển vai trò giữa “người xin” và “người cho” như lời đề nghị của Chúa Giê-su ngay từ đầu câu chuyện (3: 10). Nhưng rõ ràng người phụ nữ này chưa đạt đến niềm tin vào Ngài như Chúa Giê-su muốn, vì thế Ngài muốn câu chuyện được tiếp tục để dẫn chị đi xa hơn nữa.
Để thoát khỏi thế bế tắc, Đức Giê-su chứng tỏ cho chị thấy là Ngài biết mọi điều ẩn kín về chị như Ngài đã làm đối với ông Na-tha-na-en. Cho dù đã không đạt được lời tuyên xưng tròn đầy như Na-tha-na-en (1: 49), chị nhận ra rằng người biết đời tư của chị phải là một ngôn sứ. Khởi đi từ đó, chị bắt đầu cởi mở tấm lòng mình cho Ngài. Như vậy phân đoạn này đóng vai trò chuyển tiếp giữa chủ đề “nước hằng sống” đi trước và chủ đề “thờ phượng đích thật” theo sau.
C -Thờ phượng đích thật (4: 19-26)
Từ đó, người phụ nữ Sa-ma-ri nêu lên với Ngài một vấn đề then chốt, một vấn đề ám ảnh tâm thức tôn giáo của chị: chân lý thuộc về phía nào, về phía tín đồ phụng thờ Thiên Chúa ở đền thờ Ga-ri-zim hay về phía tín đồ phụng thờ Ngài ở đền thờ Giê-ru-sa-lem? Câu trả lời của Chúa Giê-su không là người này hay kẻ kia, “nhưng đến giờ – và chính là lúc này – những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha theo thần khí và sự thật” (4: 23).
Cụm từ “thần khí và sự thật” theo “kiểu thế đôi” đặc trưng của Tin Mừng Gioan theo đó chữ thứ hai bổ túc cho chữ thứ nhất, vì thế phải được hiểu là “Thần Khí sự thật”, tức là Đấng mà Đức Giê-su sẽ nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly (Ga 14: 17; 15: 26; 16: 13) và là Đấng mà Ngài sẽ hứa ban cho họ sau khi Ngài sống lại (Ga 7 : 37-39 ; 20: 22). Như vậy, thờ phượng đích thật là thờ phượng được nuôi dưỡng bằng Mặc Khải của Đức Giê-su dưới tác động của Thần Khí sự thật, Đấng “sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (14 : 26) và “sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16 : 13). Tác động của Thần khí sự thật cốt là làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện trong chúng ta và giúp chúng ta hiểu biết đích thật về Ngài. Vì thế, thờ phượng đích thật không còn quy chiếu đến một đền thờ do người phàm xây dựng, nhưng đến Mặc Khải của Chúa Giê-su dưới tác động của Chúa Thánh Thần, qua đó Chúa Cha bày tỏ tận mức tình yêu của Ngài cho nhân loại. Đó sẽ là thờ phượng đích thật, nét đặc trưng của thời đại mới.
Trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa, câu trả lời của người phụ nữ: “tôi biết” ở 4 : 25 là lời đáp trả tương ứng với lời đề nghị của Đức Giê-su ngay đầu câu chuyện: “nếu chị biết” ở 4 : 10. Như vậy cuộc đối thoại khởi đi từ lời mời gọi khám phá chân tính của “Đấng đang nói với chị” (4: 10) và hoàn tất ở nơi việc Ngài tự mặc khải mình ra: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (4: 26).
- Cuộc nói chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ (4: 31-38)
Có một cuộc hoán chuyển vai trò của những người đối thoại với Chúa Giê-su. Trước đó, các môn đệ đi vào thành phố mua thức ăn để nhường không gian và thời gian cho người phụ nữ Sa-ma-ri từ thành phố đến múc nước bước vào cuộc đối thoại với Chúa Giê-su. Bây giờ, người phụ nữ Sa-ma-ri trở về thành phố để nhường không gian và thời gian cho các môn đệ từ thành phố trở về bước vào cuộc đối thoại với Thầy.
Ở giữa lòng lịch sử niềm tin của dân Sa-ma-ri xảy ra một cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài (4: 31-38). Cuộc đối thoại này là dịp để Đức Giê-su giải thích không chỉ cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri và việc dân Sa-ma-ri đến với Ngài, nhưng cũng sứ mạng của Ngài và sứ mạng của các môn đệ Ngài. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ được dàn dựng như bức tranh bộ đôi: ở tiền cảnh, dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài vì lời loan báo của người phụ nữ, trong khi ở hậu cảnh, Đức Giê-su vẫn ngồi bên bờ giếng và nói chuyện với các môn đệ về ý nghĩa của những gì đã và đang xảy ra.
Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su với các môn đệ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: “lương thực” (4: 31-34) và “sứ vụ” (4: 37-38). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về “mùa gặt” (4: 35-36) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.
A -Lương thực (4: 31-34)
Chủ đề “lương thực” là một bước tiến giúp hiểu mầu nhiệm của Đức Giê-su so với chủ đề “nước hằng sống” trước đó. Người phụ nữ Sa-ma-ri đã ngộ nhận ý nghĩa “nước hằng sống” mà Đức Giê-su nói với chị như thế nào, thì các môn đệ ngộ nhận ý nghĩa “lương thực” mà Chúa nói với họ cũng như thế khi họ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” (4: 33).
Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã đáp trả Tên Thử Thách muốn khai thác cái đói vật chất của Ngài trong hoang địa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Mt 4: 4), theo đó lương thực nuôi sống Đức Giê-su không chỉ cơm bánh vật chất nhưng còn là Lời Thiên Chúa. Theo Tin Mừng Gioan, lời đáp trả của Ngài còn triệt để hơn: lương thực duy nhất nuôi sống Ngài là “thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34).
Khi đối chiếu lời đáp trả của Đức Giê-su ở đây: “Thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34) với lời nguyện hiến tế của Ngài: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao phó cho con làm” (17: 4) và với lời nói sau cùng của Ngài trên thập giá: “Thế là đã hoàn tất”(19: 30), các nhà chú giải đều nhận định rằng “công việc” mà trọn cuộc đời Đức Giê-su theo đuổi trên trần gian cho đến khi “hoàn tất” đó là kế hoạch cứu độ mà Chúa Cha đã khởi xướng. Nói cách khác, ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành ở nơi công trình của Chúa Con, như Chúa Giê-su nói với người Do thái: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (11: 37-38). Như vậy, “thực hiện ý muốn của Cha” không cốt chỉ thực hiện một sứ vụ đúng thời đúng buổi, nhưng theo đuổi trọn một cuộc đời cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá.
B -Mùa gặt (3: 35-36)
Đức Giê-su dùng hình ảnh “lương thực” để diễn tả sứ mạng của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Cha Ngài cho đến mức cả hai nên một lòng một ý. Những câu tiếp theo (4: 35-36) sẽ soi sáng sứ mạng của Ngài bằng hình ảnh khác, hình ảnh “mùa gặt”.
Mới nhìn thoáng qua, có một mối liên hệ giữa hình ảnh “lương thực” và hình ảnh “mùa gặt”. Nếu lương thực là thành quả của mùa gặt, thì mùa gặt là thời gian sau cùng của một tiến trình khởi đi từ gieo giống. Tương tự như vậy, công việc của mỗi vụ mùa bắt đầu với “người gieo” và hoàn tất với “người gặt”.
Đức Giê-su lưu ý các môn đệ: “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt sao?” (4: 35), lời này rõ ràng ám chỉ đến mùa gặt chưa đến, vì câu trả lời được mong đợi phải là: “Vâng, còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt”. Quả thật, đây là khoảng thời gian giữa “gieo” và “gặt” ở miền đất Pa-lét-tin (Am 4: 7). Nhưng lời mời gọi tiếp theo: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (4: 35) đưa các môn đệ vào bình diện khác, từ bình diện mùa gặt vật chất sang bình diện mùa gặt biểu tượng, theo đó mùa gặt không còn phải đợi cho đến bốn tháng nữa. Đức Giê-su chỉ cho các môn đệ cánh đồng lúa chung quanh còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt để mời gọi họ vươn tầm nhìn cao hơn: đồng lúa chín vàng đang chờ ngày thu hoạch đó chính là dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài.
Trong khi truyền thống Nhất Lãm nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh án phạt: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mt 13: 30, 40), thì Tin Mừng Gioan nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh niềm vui: “Cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng” (Ga 4: 36b). Truyền thống Cựu Ước cũng loan báo rồi vào thời Thiên Sai không còn khoảng cách giữa người gieo với kẻ gặt: “Này đây sắp đến những ngày thợ cày nối gót thợ gặt, kẻ đạp nho tiếp nối bước người gieo giống” (Am 9: 13; Lv 26: 5). Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su với dân Sa-ma-ri, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Giê-su ám chỉ đến cuộc quy tụ của dân Sa-ma-ri chung quanh Ngài như niềm vui của mùa gặt thời Thiên Sai (4: 39-42).
C -Sứ vụ (4: 37-38)
Xét về phương diện hình thức, có một sự liên tục giữa đề tài mùa gặt đi trước (4: 35-36) và đề tài sứ vụ theo sau (4: 37-38). Trước hết, liên từ: “Thật vậy” ở đầu câu 37 tiêu biểu Tin Mừng Gioan, khẳng định những điều đi trước, đồng thời khai triển những điều theo sau như nhân với quả (x. Ga 9: 30; 13: 35; 15: 8). Quả thật, qua câu tục ngữ: “kẻ này gieo, người kia gặt”, việc sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ như những thợ gặt khai thác cùng một hình ảnh “mùa gặt” trước đây. Nhưng nếu 4: 36b hiệp nhất “cả người gieo lẫn kẻ gặt”, thì 4: 37 lại phân biệt “kẻ này gieo, người kia gặt”.
Chính trên nền tảng của sự phân biệt này mà chủ đề sứ vụ của các môn đệ như những thợ gặt được khai triển: “Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” (4: 38). Câu nói trầm buồn này ám chỉ cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Nhờ sự nhọc mệt vất vả của Ngài, mùa thu hoạch sẽ là ơn cứu độ cho con người. Như vậy, cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô đóng khung toàn bộ câu chuyện lớn lao này: cái khát của Ngài bên bờ giếng Gia-cóp loan báo một cái khát khác: “Ta khát” (Ga 19: 28) trên thập giá. Chính vì mùa gặt này mà Ngài sẽ sai các môn đệ Ngài đi gặt những gì Ngài gieo bằng cuộc sống vắt cạn của mình.
- Cuộc gặp gỡ của dân Sa-ma-ri với Đức Giê-su (4 : 39-42)
Lời chứng của người phụ nữ làm xôn xao dân Sa-ma-ri và thúc dục họ lên đường đích thân đến với Đức Giê-su, xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã chấp nhận ở lại với họ hai ngày.
Dù khởi điểm niềm tin của họ xuất phát từ lời chứng của người phụ nữ, tuy nhiên niềm tin của họ không dừng lại nhưng vượt qua lời chứng này: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (4: 42). Do đâu mà dân Sa-ma-ri đạt đến một niềm tin sâu xa như vậy, nếu không phải là họ đã lợi dụng hai ngày Đức Giê-su ở lại với họ để đích gặp gỡ và đối thoại với Ngài? Nếu thế, đức tin của họ không còn dựa trên lời chứng của người phụ nữ, nhưng trên kinh nghiệm cá nhân của mình trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với Đức Ki-tô. Lúc đó, sự kiện “Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4: 40) phải là trọng tâm của câu chuyện giữa Chúa Giê-su và dân Sa-ma-ri.
Thật kỳ diệu, “Đấng Cứu Độ xuất thân từ dân Do thái” được người Sa-ma-ri đón tiếp một cách nồng hậu và được tuyên xưng là “Đấng cứu độ trần gian”, tức là Đấng vượt lên trên tất cả mọi xung đột chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Sự nghịch lý này vang dội ngay ở đầu Tin Mừng:
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1 : 11-12).
Thánh ký kết thúc câu chuyện của mình bằng cách gợi lên tước hiệu mà dân Sa-ma-ri ban cho Ngài: “Đấng cứu độ trần gian”. Quả thật, thánh Gio-an là thánh ký duy nhất sử dụng tước hiệu này. Toàn bộ câu chuyện nhận được ý nghĩa sâu xa của nó: loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.
Vài nhà chú giải vạch ra một sự đối xứng đáng ngạc nhiên giữa bài tường thuật về sứ vụ của Đức Giê-su ở Sa-ma-ri và bài trình thuật về cuộc Tử Nạn của Ngài trong Tin Mừng Gioan. Quả thật, cả hai đều kể ra thân xác mệt mỏi của Ngài, cơn khát của Ngài và sự hoàn tất công việc của Ngài. Từ đó, họ nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa công trình truyền giáo mà Đức Giê-su thực hiện ở Sa-ma-ri, ở đó, Ngài được tuyên xưng là “Đấng Cứu Độ trần gian” và công trình cứu độ thế giới mà Ngài thực hiện trên thập giá; nghĩa là giữa thời gian mặc khải Đấng cứu độ trần gian và thời gian thực hiện ơn cứu độ cho trần gian. Lúc đó, “mười hai giờ trưa” ở trong câu chuyện này ám chỉ đến “mười hai giờ trưa” trong 19: 14, giờ siêu thăng, giờ ban Thánh Thần, giờ sinh ra Giáo Hội.
An Phong
Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng”; và Ngài nói với người phụ nữ Samari “Chị cho tôi xin chút nước uống”. Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Đừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng “mỏi mệt”, cũng “khát” như tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được “hết khát và khỏi đến đây lấy nước”. Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Đấng có thể giải quyết “cơn khát” sâu xa giằng xé con người: “Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây.”
Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là “Maxa” và “Mêriba”, nghĩa là vẫn là nơi “thử thách” và “gây chuyện”. Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể “giải khát” bằng những thứ “nước tiền tài”, “nước cơm bánh”, “nước danh vọng”, thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.
Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng duy nhất có thể ban “Nước” để “ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”, thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như “Dân Samari xin Người ở lại với họ”… “vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian.”
Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!
Con chịu đựng không nổi nữa!
Con đường con đi, chưa dài lắm
Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng;
Con đã sống bao biến cố tang thương.
Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày.
Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!
Con chịu đựng không nổi nữa!
Nhưng hôm nay… Lạy Chúa!
Có phải con mơ không?
Con tin mình đã tìm thấy
Điều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con.
Con tình cờ đọc được
câu Thánh vịnh in nơi tấm hình:
“Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa
và chính Ngài sẽ nâng đỡ con luôn.”
Và con tin rằng, qua lời kinh đó,
Chúa đang thực sự nói với con.
(Michel Quoist)
Thiên Phúc
Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uốn từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.
Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối… Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.
***
Người Ả Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.
Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm ơn cho Đức Giêsu khi cho Người uống nước từ giếng Giacóp. Hóa ra Người mới chính là vị ân nhân sẽ ban cho bà một thứ nước diệu kỳ, uống vào “sẽ không bao giờ khát nữa”.
Nước ấy chính là Nước hằng sống, nước đó chính là Lời Đức Giêsu, Lời bày tỏ con người kín nhiệm của Người, là Đấng Mesia sẽ đến. Để cuối cùng, Người dã tự tỏ mình ra không phải cho người Do Thái đồng hương, cũng không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị, người phụ nữ ngoại giáo Samari: “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây” (Ga 4,26). Niềm vui vỡ òa trong tim, chị vội vã đi loan báo cho dân làng, để họ cũng được uống thứ nước tuyệt diệu của Đức Giêsu, Nước hằng sống, nước uống vào sẽ không còn khát nữa.
“Đấng ấy” chính là Mêsia, vị cứu tinh của nhân loại. Chỉ những ai tin vào Người, mới đáng lãnh nhận ơn cứu độ.
“Đấng ấy” chính là Nước hằng sống. Chỉ những ai thật lòng khao khát mới được ban cho thỏa thuê dư dầy.
“Đấng ấy” chính là Lời hằng sống. Chỉ những ai đón nhận Lời và thực thi trong cuộc sống, mới được sống đời đời.
Cuối cùng, Đức Giêsu không ăn cũng chẳng uống. Vì Người dùng một thứ lương thực mà chính các Tông đồ cũng không hề biết. Thánh Gioan đã không để chúng ta phải chờ đợi lâu. Vâng, lương thực của Người chính là “đồng lúa đã chín vàng đang chờ gặt hái” (c.35), là “nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Người” (c.39). Cơn đói của Người là mong cho mọi người nhận biết và yêu mến Cha, cơn khát của Người là ước cho muôn người được no thoả “nước uống vào sẽ không còn khát nữa”.
Chúng ta sẽ làm thỏa cơn đói của Đức Giêsu, khi chúng ta làm theo người phụ nữ Samari mau mắn đi loan báo cho dân làng biết Người chính là Đấng Mêsia.
Chúng ta sẽ làm thoả cơn khát của Đức Giêsu, khi chúng ta cùng với dân làng Samari tin Người là “Đấng cứu độ trần gian” (c.42).
***
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con nỗi khao khát hướng về Chúa, nỗi khao khát được Chúa cứu độ và yêu thương. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Có một câu chuyện mang tên “Lòng cảm thông”, có nội dung như sau:
Có một goá phụ giàu có nọ phụng dưỡng một tu sĩ trong 20 năm liền.
Bà xây cho vị tu sĩ này một tịnh xá ngay trong khu vườn vắng vẻ thanh tịnh của bà. Bà cung cấp cho ông đủ mọi thứ trong thời gian ông tu niệm. Bà rất đỗi sung sướng khi nhận thấy những tiến bộ của ông trong bước đường thiêng liêng, nhưng bà vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Để xem 20 năm hy sinh của bà có hoài công hay không, người đàn bà này quyết chí thử lòng kẻ tu trì.
Một hôm, bà cho tìm một cô gái trẻ đẹp, trả tiền cho cô và sai cô đến cám dỗ vị tu sĩ. Nửa đêm, trong lúc vị tu sĩ này đang ngồi thiền, cô gái xông cửa bước vào tịnh xá và dùng đủ mọi lời lẽ, cử chỉ để quyến rũ ông, nhưng vị tu sĩ vẫn một mực chìm đắm trong việc tụng niệm. Đến một lúc không còn chịu đựng được nổi sự tấn công của cô gái nữa, vị tu sĩ bèn quơ cái chổi đánh túi bụi vào người cô gái và tống cô ra ngoài.
Cô gái đến gặp người đàn bà và kể lại diễn tiến câu chuyện.
Người đàn bà hài lòng về sự thánh thiện của vị tu sĩ này ư? – Không! Nghe cô gái tường thuật xong, người đàn bà liền nổi giận thốt lên:
Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Tìm đến con người
Thiên Chúa luôn đi bước trước để đến với con người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. (Ga.1,14).
Chúa Giêsu đã đi con đường băng ngang miền Samari, và Ngài đã mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari bằng việc “xin nước uống”.
Thật ra, để có nước uống, Chúa Giêsu có cần phải “xin” người phụ nữ này không, khi mà người Samari và người Do-Thái xem nhau như kẻ thù? “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Samari. (Ga 4,9) – Chắc hẳn là không! Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Chắc các ông sẽ có cách lo liệu cho thầy mình qua cơn khát. Nên, việc Chúa Giêsu xin nước là để mở đầu câu chuyện trong “hòa bình”. Ngài đóng vai một người đang cần “sự giúp đỡ”, và người giúp đỡ sẽ dễ dàng đặt câu hỏi đối với người xin mình, vì họ cảm thấy mình quan trọng.
Cuộc đối thoại trong Tin Mửng hôm nay là sự trao đổi bằng những ngôn ngữ thật đẹp, thẳng thắn và chân thành, không có khoảng cách thận trọng e dè giữa đôi bên.
Tôn trọng con người
Thiên Chúa luôn yêu thương và tôn trọng con người, vì con người là con Thiên Chúa. “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv.8,5).
Thái độ “xin” là một thái độ “khiêm nhượng” và “tôn trọng” người mình xin. Trong tình yêu, luôn có sự kính trọng! Thái độ “lắng nghe” Chúa Giêsu nói của người phụ nữ Samari cho thấy ranh giới “nghi kỵ, thù hận” đã được tháo bỏ trong tâm hồn chị ấy. Ngay những lời nói sơ giao, người phụ nữ Samari đã thấy Chúa Giêsu, người đàn ông Do Thái này, là người “có thể đối thoại được”. Và điều ấy, cũng chính là sự mở đầu của niềm tin. – Không ai thèm nói chuyện với một người mà người ta hoàn toàn không thể tin tưởng!
Thái độ “phá bỏ cái giới hạn hẹp hòi” đã phân chia hai dân tộc anh em là người Samari và Do Thái đã tạo ra ngay trong lòng người phụ nữ “câu hỏi” đầu tiên:“người này là ai?”, vì sao là một người Do Thái lại có thể giao thiệp tự nhiên với một người Samari?
Diễn tiến câu chuyện, Chúa Giêsu đã tạo cho người phụ nữ Samari phải liên tiếp tự đặt câu hỏi về Ngài. Ta có thể suy ra những ý nghĩ trong lòng người phụ nữ này, tỷ như: Người này là ai mà biết tất cả những việc mình làm như thế? Người này là ai mà trả lời trôi chảy mọi điều mình thắc mắc như thế? Để rồi, người phụ nữ ấy đi dần đến nhận ra Ngài là một Ngôn sứ. Cuối cùng là Đức Kitô.
Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,28-29).
Cứu chuộc con người.
Diễn tiến sự thay đổi trong lòng người phụ nữ Samari luôn là câu hỏi: “Người này là ai?”. Và trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng luôn muốn con người tự tìm ra câu hỏi ấy cho chính mình. Bởi vì Niềm Tin phải là sự “nhận biết” Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”. Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ. Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-mon thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt.16,13-16).
Nhận biết Con Người là ai? Giêsu Nagiarét là ai? Con người mới có thể đi tới Đức Tin. Tin vào Đức Kitô, con người mới nhận được “Nước Hằng Sống”, thứ nước đáp ứng đầy đủ mọi “cơn khát chính đáng” của con người, Những “khát vọng” mà cuộc đời không thể thỏa mãn được.
Chỉ có Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc con người, mới đem lại màu xanh sức sống cho những tâm hồn cằn cỗi kiếp nhân sinh.
Tất cả đều đến từ Tình Thương. Và Tình Thương luôn là điều cấp bách, vì con người quá thiếu.
Sẽ chẳng có câu chuyện Tin Mừng tuyệt đẹp hôm nay nếu Chúa Giêsu cũng tẩy chay người Samari, và lánh xa người phụ nữ Samari tội lỗi này, như thái độ tống khứ cô gái bằng vũ lực ra khỏi phòng của vị tu sĩ trong câu chuyện “lòng cảm thông” kể trên.
Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Tràn ngập trong cuộc sống con người là những nỗi lòng âm thầm đau khổ, là những bon chen trong hạnh phúc phù phiếm, là khắc khoải lo toan, là những cơn khát triền miên mà con người cố gắng tìm cách thỏa mãn với những niềm vui hụt hẫng chóng qua.
Trong điều kiện sống của người Samari, xứ sở cao nguyên và sa mạc, có được “giếng nước” là xem như có tất cả. Nguồn nước là nguồn sống. Mạch nước là mạch sống. Nên “giếng nước” rất quan trọng, đó là sự sống còn của họ.
Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”(Ga.4,11-12).
Nhưng sự vui mừng của người phụ nữ Samari thật rất cảm động, ta có thể hình dung sự vui mừng của chị ấy khi bỏ tất cả những gì đang có để reo mừng và chạy vào thành để loan báo Tin Mừng mà chị vừa nhận được.
Sự vui mừng của người phụ nữ Samari cho thấy cuộc sống của chị tuy đã có rất nhiều nhưng còn đó cơn khát vô tận. “Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga.4,15).
Không có một lời khiển trách nào đối với một người phụ nữ mà sáu người đàn ông bước qua cuộc đời chị không ai là chồng cả! Nhưng ở đây, niềm vui của chị khi đón nhận Lời Hằng Sống cũng chính là Sám Hối. Chị bỏ lại tất cả mọi thứ bên bờ giếng, cũng như bỏ lại quá khứ tội lỗi của cuộc đời mình, và đã đóng vai người đi loan báo Tin Mừng với niềm vui khôn tả!
Không có sự ngượng ngập hay hổ thẹn khi nhắc đến quá khứ đời mình, “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. (Ga.4,29), vì chị không để tâm gì đến nó nữa, mà trong tâm trí chị giờ đây chỉ nhớ đến một điều là loan tin về Đấng Cứu Thế. “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,29).
Truyền giáo
Thế giới vẫn còn đây cơn khát vô tận, dù sự khôn ngoan của con người đã lên đến đỉnh cao và cuộc sống con người đang rất giàu có.
Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới hôm nay, để thấy đây đó bao cảnh thiên tai, chiến tranh, mất mát, đau thương. Để hiểu giá trị cát bụi, phù vân. Để nghe cơn khát bất tận của con người. Để chọn đâu là những chân giá trị. Để đi đúng con đường của sự sống đích thực.
Con đường Giêsu. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Có thể nhận ra trong Tin Mừng hôm nay bài học tuyệt đẹp về truyền giáo:
Truyền giáo là yêu thương. “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”
Truyền giáo là sứ mệnh. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (Ga.4,34).
Truyền giáo là cấp bách. “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga.4,35).
Truyền giáo là hạnh phúc.“Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.” (Ga.4,36).
Lạy Chúa,
Xin cho con một con tim giàu lòng nhân ái,
để con biết bước theo Chúa,
với một tấm lòng dạt dào yêu thương. Amen.
Lm. Jos. DĐH.
Khả năng hiểu biết, thành đạt giầu có, chỗ đứng trong xã hội, và còn nhiều thứ khác, như khát tình yêu thương, khát được hạnh phúc, có phải đó là những khao khát chính đáng không, khi ta mang thân phận người ? Câu hỏi làm gì để ta hết khát, sẽ phức tạp đối với người thông thái, và rất đơn giản với những tâm hồn đơn sơ bé nhỏ: khát nước thì đi uống nước. Quy luật tự nhiên, khát cơm bánh thì phải chăm chỉ làm ăn, khao khát kiến thức phải nghiêm túc học tập, hoặc theo quan niệm dân gian: có chí làm quan có gan làm giầu. Còn khát tình yêu thương, nên tìm gặp Đức Giêsu, chiêm ngắm thập giá Chúa Kitô ; kẻ ấy sẽ có câu trả lời: “Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương”, và vì sao người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cóp hết khát, khi trò chuyện với Đức Giêsu.
Thực ra, để giải toả cơn khát thể lý còn có công thức áp dụng: cơm ba chén, thuốc ba thang ; để no thoả đời sống tâm linh, người ta phải tin Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian, tuân thủ theo quy trình: sám hối, từ bỏ, và sống niềm tin từng ngày. Ví như mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, ai chẳng muốn giải toả cơn khát của mình, nhưng trước hết, chúng ta phải xác định tôi đang khát tiền, khát tình, khát hạnh phúc trần gian, hay ta đang khát ơn Chúa ? Cứ theo lý lẽ ở đời, đói khát cơm bánh, quyền lực, người ta không thể “ngồi ngáp” chờ đợi như chờ “sung rụng”. Khát ơn Chúa, khao khát sự sống đời đời, không ai lại tìm đến đại gia, không ai khờ đến độ tìm kiếm cơm bánh nuôi linh hồn, hoặc uống bia ngoại, rượu tây, để thoả mãn cơn khát tâm linh. Đức Giêsu đã chẳng kiên nhẫn khai trí mở lòng cho người thiếu phụ: “ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không bao giờ khát nữa”.
Bạn đang khát điều gì ? Bạn có nghĩ rằng, địa vị giầu sang tại trần thế này sẽ đem lại hạnh phúc đời đời cho bạn không ? Thánh Phaolô nơi bài đọc 2 đã nói: “Thiên Chúa yêu thương con người ngay khi họ còn là tội nhân ; Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài đến thế gian: chịu chết và sống lại, để nhân loại qua Đức Kitô được biến đổi, được sự sống đời đời”. Nếu Thiên Chúa thực thi điều kỳ diệu từ tảng đá ở núi Ho-rép cho dân chúng thoả mãn cơn khát, thì tại nơi bờ giếng Gia-cóp, Đức Giêsu đã lay động được tâm tư người thiếu phụ biết khát niềm tin, khát sự sống: “xin Ngài cho tôi thứ nước mà Ngài vừa nói đến, để tôi khỏi khát và từ nay không phải ra đây múc nước nữa” !
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ năm xưa cho thấy: những khát vọng của con người và tình yêu thương của Thiên Chúa mà gặp nhau, việc hoán cải và ơn biến đổi tất nhiên sẽ mở ra sự sống đời đời là có thật. Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “này chị, hãy tin tôi, đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Nhưng giờ đã đến, những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế”.
Nhờ cuộc đối thoại trong yêu thương chân tình, người thiếu phụ “khát đủ thứ” đã được biến đổi, đã biết khát thứ nước “siêu nhiên”, và chị đã tin Đức Giêsu là Thầy, là Ngôn Sứ, là Tiên Tri, là Đấng cứu độ duy nhất. Ở trong nhà thờ này, ở trong tình hiệp thông cầu nguyện lúc này, bạn và tôi có muốn bày tỏ cơn khát của mình với Đấng cứu độ trần gian không ? Cuộc đời của mỗi người có phải là một quá trình tìm kiếm hạnh phúc không, dù ở hoàn cảnh nào, chúng ta cũng có thể đối thoại, gặp gỡ thân tình với Đức Giêsu, và chỉ ở trong tình yêu Giêsu, người ta mới hết khát, mới đủ bình an, niềm vui thật.
Trong kho tàng truyện dân gian có nói tới 5 ông thầy bói mù đi xem voi đầy vẻ tự đắc: ông thì sờ mặt voi, ông thì sờ ngà voi, ông thì sờ trúng tai voi, ông thì sờ chân, ông khác lại sờ đuôi voi. Tất nhiên, mỗi ông thầy mù đó có quyền nói về hình thù voi theo suy nghĩ của các ông đụng chạm tới con voi. Thế rồi chẳng ai chịu cho mình là sai, và cãi nhau, đánh nhau, chỉ vì các ông thầy mù đã thoả mãn được cái khát về sản phẩm mà các ông đã đụng chạm tới chi thể con voi.
Con người khát hiểu biết, khát hoàn thiện, khát chân lý, nhưng căn bản hơn đó là khát được hạnh phúc, khát sự sống đời đời. Mỗi người kitô hữu, trước hết và trên hết, chúng ta phải xác định xem mình có khao khát ơn Chúa không, có khát hạnh phúc đời đời không ? Không giống như 5 thầy mù đi xem voi, nhưng những người Samaria đã nói với người phụ nữ: “không phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe, và biết rằng “Người” thật là Đấng cứu độ trần gian”. Xin tình yêu Chúa soi trí mở lòng, hầu tất cả chúng ta đều biết khiêm tốn tỏ bày với Đức Giêsu trên thập giá: con tin Chúa, con khao khát được theo Chúa làm môn đệ, làm thần dân của Chúa. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn
Tác giả Lam Tuyền có bài thơ nổi tiếng mang tên Đi Tìm: “Tôi khao khát một mối tình, Một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi, Để ngày tôi ngắm tôi soi, Để đêm đắp áo cho người xông hương, Để xa tôi nhớ tôi thương, Để gần tôi thấy thiên đường ở bên, Để khi trống trãi ưu phiền, Ngã vào lòng bạn là tan hết sầu, Để khi nước lớn sông sâu, Được cầm tay bạn qua cầu bình yên, Tôi đang khao khát đi tìm, Một tình yêu chỉ là riêng của mình”. Nếu “Khao khát một tình yêu chỉ là riêng của mình”, thì hôm nay phụng vụ lời Chúa sẽ chỉ cho chúng ta tìm gặp.
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng Gioan. Chúa Giêsu đã cố tình đi ngang qua vùng đất Samari là vùng đất của dân ngoại; Đã dừng lại tại bờ giếng Giacop là nơi thỏa mãn cơn khát thể lý của người dân trong vùng, là nơi để mọi người trong vùng có thể gặp gỡ, tâm sự, chia sẻ với nhau. Điểm đặc biệt là người phụ nữ này lại đi lấy nước vào buổi trưa, thời gian nắng gay gắt, ít người đi lấy nước. Nếu như vậy thì chắc chắn chị không thể gặp gỡ, không thể chia sẻ, tâm sự với những người dân trong vùng đó. Và đó là điều cố tình của chị. Chị chỉ muốn sống cô độc trong tội lỗi của mình. Chị sợ phải đối diện với người khác, đối diện với sự thật.
Nhưng Chúa Giêsu đã không để cho chị yên trong bình an giả tạo. Ngài đã khoấy động tâm hồn chị để những cặn bã, những dơ dáy bấy lâu nay vốn nằm yên phải trồi lên, để từ đó Ngài gạn đục, khơi trong cho tâm hồn chị. Chị định đi lấy nước, thứ nước chỉ làm thỏa mãn cơn khát vật chất, và sẽ còn khát mãi, nhưng chị đã gặp được nguồn nước làm thỏa mãn tâm hồn chị và không bao giờ khát nữa.
Từ việc gặp gỡ một anh thanh niên Do Thái, đến một tiên tri, và cuối cùng là Đức Kitô, chị đã hoàn toàn biến đổi: dám chấp nhận con người thật của mình, không cần đến thứ nước vật chất uống vào vẫn khát, và nhất là chị đã mạnh dạn loan báo tin mừng ơn cứu độ mà chị vừa nhận được. Chị đã khao khát một tình yêu và chị đã tìm gặp một tình yêu. Chính tình yêu của Đức Kitô đã làm cho chị trở thành một con người mới.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta vào sa mạc tìm kiếm nguồn nước, nhưng không phải là thứ nước vật chất, mà là Nước Hằng Sống, Nước đem đến ơn cứu độ. Hãy khám phá tiến trình gặp gỡ Đức Kitô của người phụ nữ Samari để chúng ta cũng được thỏa mãn cơn khát sâu thẳm trong tâm hồn, hầu chúng ta trở thành một con người mới.
- Dám bước đến gần Đức Kitô
Người phụ nữ Samari không biết người đối diện với mình là Đức Kitô, Đấng mà chị và dân tộc của chị cũng được nghe nói đến: “Tôi biết Đấng Messia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến” (Ga 4, 25). Nhưng nhờ chị dám đối diện với người thanh niên Do Thái, dám truyện trò với anh ta mà chị đã nhận ra Ngài là Đức Kitô, để từ đó Ngài cho chị thứ nước không còn khát nữa.
Còn chúng ta, chúng ta đã biết Đức Kitô là Đấng cứu độ, Đấng sẽ làm cho chúng ta không bao giờ khát nữa, vậy mà chúng ta đã mạnh dạn đến với Ngài chưa? Tôi thấy chúng ta có đến nhưng chưa gần, có gần nhưng chưa đủ. Ví dụ có đến để tham dự thánh lễ ngày Chúa Nhật, nhưng còn nhiều người ngồi bên ngoài nhà thờ. Đi tham dự thánh lễ mà ngồi tán gẫu, hút thuốc, lấy điện thoại nhắn tin… Nếu xét về tình yêu dành cho Chúa thì chưa có, nếu xét về luật để yên lương tâm thì chưa trọn vẹn vì chúng ta chưa tham dự thánh lễ thực sự.
Hãy mạnh dạn đến gần Đức Kitô trong các giờ kinh tối chung trong gia đình, trong các giờ cầu nguyện riêng tư với Chúa, trong các thánh lễ, trong các bí tích. Khi mạnh dạn đến gần Ngài, tình yêu của Ngài sẽ như nguồn nước tuôn chảy đến tâm hồn khô khan, cằn cỗi của chúng ta giúp chúng ta không còn khao khát những điều bất chính nữa, mà sẽ khao khát một tình yêu chỉ riêng với Ngài.
- Dám đối diện với sự thật
Để có được thứ nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa và đem lại sự sống đời đời, Chúa Giêsu đã mở ngõ để chị phụ nữ dám chấp nhận sự thật nơi bản thân mình. Sự thật đó là: “Chị đã có năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị” (Ga 4, 18). Khi đối diện với sự thật không mấy tốt đẹp này, ban đầu chị thấy xấu hổ, nhục nhã lắm, nhưng sau đó, chị đã dám chạy vào thành, dám tiếp xúc với nhiều người, và dám nói lên sự thật của mình: “Người phụ nữ để vò nước lại, chạy vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi làm” (Ga 4, 29).
Những tội lỗi như hòn đá nặng trĩu lấp đầy tâm hồn chị bấy lâu nay. Giờ đây nhờ biết quăng ra khỏi tâm hồn mình để nhường cho một nỗi khao khát. Chính lúc đó Đức Kitô đã lấp đầy tâm hồn chị bằng một tình yêu đổi mới, một tình yêu cứu độ.
Muốn gia đình, cộng đoàn được tốt, thì từng người phải dám chấp nhận sự thật nơi bản thân mình, không được che lấp, dối gạt nhau. Thường thì người ta chỉ công khai và thích công khai những điều tốt, còn những sai lầm thì cố giấu diếm cho đến khi không còn giấu diếm được thì thôi. Dĩ nhiên có những sai lầm, những tội lỗi không thể nói ra trước mặt mọi người. Đối diện với sự thật là dám chấp nhận những tội lỗi của mình và quyết tâm không tái phạm nữa, sau đó đến với tòa giải tội để xưng thú tất cả.
Có những người đi xưng tội mà cố tình giấu diếm hoặc nói tránh đi, nói một cách chung chung. Ví dụ “Thưa cha con xúc phạm đến Chúa nhiều lắm, xin cha tha tội cho con”. “Thưa cha con làm nhiều điều xấu lắm, xin cha tha tội cho con”. Không xúc phạm đến Chúa, không làm điều xấu thì đi xưng tội làm chi, mà cụ thể đó là gì?… Khi chưa dám đối diện với sự thật, là chúng ta chưa thành tâm trở về với Chúa.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết Đức Kitô là Nước Hằng Sống sẽ lấp đầy mọi khao khát trong tâm hồn chúng ta. Khi đến với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ khát nữa. Muốn có được nguồn nước đó chúng ta phải đến gần Ngài để được Ngài dạy bảo, được Ngài cho thấy con người thật của chúng ta. Đồng thời phải dám chấp nhận con người thật của mình với những yếu đuối, tội lỗi và mạnh dạn quay trở về với Chúa.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”. Khi chúng ta biết “khao khát một Tình Yêu” là chúng ta đang đến gần Chúa. Khi chúng ta có được Tình Yêu của Chúa là chúng ta đang lấp đầy tất cả, là chúng ta “đang nghỉ yên bên Chúa, nguồn hạnh phúc đời con”.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ con người và ân sủng của Người vẫn hằng chan chứa cho cả những ai được coi là không xứng đáng. Đó là chủ đề mà chúng ta suy niệm trong thánh lễ Chúa Nhật III Mùa Chay dưới ánh sáng của các bài đọc Lời Chúa hôm nay.
1- Thiên Chúa sẵn sàng thi ân giáng phúc
Trong bài đọc I (Xh 17,3-7), dân Do Thái hành trình trong sa mạc, họ phải chịu cảnh đói khát vì không có thức ăn và nước uống. Họ cần của ăn và nước uống. Họ lãng quên những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm. Nên họ kêu trách ông Môsê và Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa trả lời cho dân “vô ơn” này bằng việc ban cho họ nước uống. Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Người không thù hận ai. Thiên Chúa hiểu thấu nỗi thống khổ của họ và ban cho họ những gì cần thiết.
Trong bài đọc II (Rm 5,1-2.5-8), thánh Phaolô nhắc bảo chúng ta rằng tình yêu Thiên Chúa và ơn cứu độ của Chúa Giêsu ban cho chúng ta không phải bởi vì chúng ta xứng đáng. Ân sủng đến từ cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Kitô minh chứng rằng tình yêu đó là hoàn toàn nhưng không và do lòng nhân hậu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Bởi lẽ, Chúa Giêsu đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta là những người yếu đuối, những người vô đạo, trong khi chúng ta còn là tội nhân. Chúa Giêsu chết vì chúng ta và như thế niềm hy vọng của chúng ta đặt trên nền tảng vững chắc là tình yêu của Chúa Kitô và ân sủng vững bền do Người ban tặng.
Trong bài Tin Mừng (Ga 4,5-42), chúng ta lắng nghe câu chuyện nổi tiếng về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp ở Xykha, vào giữa trưa. Trong cuộc gặp gỡ này, có rất nhiều chi tiết: nơi chốn, thời gian và những nhân vật. Chúng ta tập trung suy tư về cuộc gặp gỡ xem ra bình thường này như là thời điểm của ân sủng mà Chúa Giêsu rộng ban cho con người qua người phụ nữ này. Ân sủng đã làm cho người phụ nữ Samari phải ngạc nhiên.
2- Vượt qua những giới hạn
Chúng ta biết rằng mọi sự đang chống lại người phụ nữ này: Trước hết, bà là một người Samari. Vào thời điểm đó, người Samari và người Do Thái đang thù địch nhau và tránh mặt nhau. Người Do Thái coi người Samari như là những người dân ngoại, những người không có niềm tin. Vì thế, người Do Thái không dám sử dụng những gì mà người Samari đã dùng, kể cả thức ăn, thức uống.
Thứ đến, bà là một người phụ nữ. Vào thời đó, cả với những người phụ nữ Do Thái và nhất là đối với những người phụ nữ dân ngoại Samari, họ thực sự bị coi là thuộc hạng thấp cổ bé miệng, không có quyền lợi và ưu tiên nào cả. Làm sao người phụ nữ này dám nói chuyện với Chúa Giêsu? Tiếp theo, như trình thuật cho thấy, chúng ta biết rằng bà đã có năm đời chồng rồi, một người có vấn đề về gia đình và chắc bà này là người có vấn đề về tính cách phụ nữ, một người có vấn đề về đời sống khác thường. Như thế, tất cả những điều này vốn là những sự cản trở ngăn cản Chúa và bà gặp nhau. Nhưng Chúa Giêsu chủ động đến nói chuyện với bà trước. Chúa Giêsu cởi mở bắt chuyện với bà. Chúa Giêsu đi bước đầu hội thoại với bà bằng việc xin nước uống, từ đó, Chúa hướng bà tới một thứ nước khác, nước hằng sống mà Người sẽ ban. Theo Gioan, nước đây chính là ân huệ Thánh Thần. Nước biểu tượng của sự sống từ Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ được ban như là nguồn mạch sự sống mới cho con người. Thánh Thần sẽ được đổ vào lòng chúng ta nhờ Đấng Phục Sinh để chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và kêu lên rằng Ápba – Cha ơi (x. Rm 5,5; Gl 4,6).
Điều đó làm cho bà phải ngạc nhiên. Bà không thể tin rằng một người Do Thái như Đức Giêsu lại có thể nói chuyện với bà, một người Samari như thế này được. Bà không thể tin rằng một người đàn ông Do Thái lại có thể trao đổi với một người phụ nữ Samari được. Bà cũng không thể tin rằng người đàn ông này lại biết rõ về bà. Trái tim và cuộc sống của bà không thể che dấu người này được. Từ những trao đổi về cuộc sống cá nhân, Chúa Giêsu hướng bà tới những điều cao cả hơn: “Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,23). Những điều này làm cho bà phải ngạc nhiên và tự hỏi: “Ngài có phải là một vị ngôn sứ hay Ngài có phải là Đấng Mêsia không?” Người đàn bà dẫu không xứng đáng, nhưng qua cuộc gặp gỡ này Chúa Giêsu đã ban cho bà ân phúc cao cả, hồng ân tuyệt vời là nhận biết Đấng Mêsia và nhờ Người để bà biết tôn thờ Thiên Chúa.
3- Những điều kỳ diệu của ân sủng
Nhưng ân sủng này không chỉ cho một mình bà mà còn cho những người khác nữa. Bà đã chạy về báo tin cho mọi người trong làng biết rằng bà đã gặp Đấng Kitô. Họ kéo nhau ra để gặp Người. Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Bà trở thành một tông đồ của Chúa Giêsu khi bà kể cho họ nghe về việc bà gặp một người đặc biệt, một tiên tri và có thể là Đấng Mêsia mà người Do Thái đang trông chờ. Đấng đó biết rõ về cuộc đời tôi. Người yêu thương tôi. Người tôn trọng tôi và tôi cảm thấy được Người chúc phúc.
Ân sủng này từ một cuộc gặp gỡ nếu được dùng theo tiêu chuẩn của thế gian có thể không được ban cho người phụ nữ này, vì thân thế của bà là hoàn toàn bất xứng với ân sủng đó. Nhưng Thiên Chúa hành động hoàn toàn khác với tiêu chuẩn của con người. Thiên Chúa bảo đảm cho mọi người tội lỗi, cho tất cả những ai bất xứng rằng: “Ơn Ta đủ cho con” (2 Cr 12,9). Ơn Ta không bao giờ cạn đối với con.
Thánh Giuse mà chúng ta mừng kính trong tháng Ba này là một mẫu gương khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa. Ngài chỉ là một người thợ mộc nghèo hèn, đơn sơ, không có vai vế gì trong xã hội. Nhưng thánh nhân luôn tin tưởng vào Thiên Chúa nên ngài luôn được chúc phúc. Cũng thế, bao nhiêu con người khiêm tốn trên thế gian này, những người thực sự cảm thấy mình bất xứng với hồng ân Thiên Chúa, họ vẫn có thể quay trở về và đón nhận ân sủng của Người ban một cách nhưng không. Bởi vì ơn cứu độ, lòng thương xót của Thiên Chúa vượt trên mọi giới hạn của con người. Tình yêu Chúa lớn hơn tội lỗi con người. Thiên Chúa luôn là quảng đại, rộng lượng và nhân ái đối với hết mọi người, ngay cả khi chúng ta bất xứng để đón nhận ân sủng Người. Đó là điều làm cho chúng ta vững tin vào Chúa. Đó là điều mang lại cho chúng ta sự an ủi thiêng liêng. Đó là điều làm cho chúng ta luôn biết trở về với Chúa ngay cả khi chúng ta cảm thấy mình bất xứng và tội lỗi nhất. Cả lúc đó Chúa vẫn giang tay chờ đón chúng ta.
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta suy ngắm tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa, đồng thời cũng là cơ hội để canh tân đời sống của mình như là nghĩa cử đáp lại lòng thương xót và ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Amen!
ĐẤNG XIN NƯỚC LÀ NGUỒN NƯỚC HẰNG SỐNG
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Hành trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống lại trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.
Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành Bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của đời sống người tính hữu là: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).
Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh Bí tích Rửa tội trong đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.
Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được Thánh sử Gioan tường thuật. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời tổ phụ Giacóp. Hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một hành trình dài (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.
Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nơi «nước hằng sống» biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy. Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin, khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra:
Phải chăng Đức Kitô khát nước?
Vâng, Người khát, nhưng Người không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Người xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Người đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).
Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Người còn khẳng định rằng, Người có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài?
Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Người khát đức tin không chỉ của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho tôi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát : nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả: “Lạy Chúa là Cha chí thánh… Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”
Hình ảnh người tân tòng
Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa”. Từ nay, bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là : “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng : Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène: “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình”.
Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô
Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Người, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chảy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, để lắng nghe lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban…”
Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin đừng để chúng con đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.
CHÚA MỚI THẬT LÀ ĐẤNG TRAO BAN
Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng
Câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria trên bờ giếng Giacop có một chi tiết nghịch lý thú vị:
1. Mở đầu:
Chúa Giêsu ngỏ lời: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”. Từ khoảnh khắc đó, Chúa dẫn dắt chị đi vào bầu trời thánh ân của yêu thương, bao dung, tha thứ.
Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”.
Nhưng Chúa cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10).
Nhưng trên tất cả, Chúa muốn chị phải hiểu rằng, chỉ nhờ Chúa, con người mới đạt tới viên mãn: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
2. Sau cùng:
Chị trở thành người cầu xin: “Xin cho tôi thứ nước ấy”.
Rồi lại trở thành người tuyên xưng đức tin: “Tôi thấy ngài thật là một ngôn sứ…” (Ga 4, 19), sau khi được Chúa gợi ra chính tình trạng tâm hồn tội lỗi của chị, kẻ đã có đến sáu đời chồng, nhưng chẳng ai là chồng thực sự.
Chúa dứt khoát dẫn chị đi gặp “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).
Cái hay của câu chuyện đó là sự nghịch lý thú vị: Người xin nước uống trở thành người trao ban; còn kẻ được xin trở thành kẻ lãnh nhận.
Chị phụ nữ Samaria, người đã được Chúa xin nước, lại là người lãnh nhận cả một kho tàng không thể có bất cứ điều gì có thể so sánh. Kho tàng ấy là chính Chúa Giêsu, mạch suối trao ban nguồn nước trường sinh, đó là được sống chính sự sống của Chúa, sống vĩnh cửu.
Hóa ra cần đến nước nhưng không phải là nước. Trong hoàng cảnh này, nước chỉ là biểu tượng của sự sống trường sinh.
Và Chúa Giêsu, người đến xin nước không phải để uống nước, nhưng để trao ban chính mình.
Khai mở bằng một cơn khát nước của Đấng Cứu Chuộc, nhưng kết thúc không phải là một cơn, mà là cả một niềm khao khát mãnh liệt vươn tới tình yêu vĩnh cửu, vươn tới sự sống thường hằng và bình an đích thực của người đã có thể ý thức mình tội lỗi.
Bằng một cơn khát thể lý của Đấng Cứu Chuộc, đã có thể tạo đà cho nhân loại đi tới một cơn đói khát tâm linh, cần thiết để chuẩn bị nhân loại mở lòng đón nhận ơn lớn lao là chính Đấng Cứu Chuộc.
Chúa vẫn yêu thích tìm đến cùng chúng ta. Chúa vẫn chờ đợi để được trao ban chính mình Người.
Chúa muốn chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận thụ tạo, thân phận yếu đuối, thân phận dễ đổ ngã của bản thân, để Chúa là sức mạnh, là thuẫn đỡ, là khiên che, là chính ơn tha thứ, là chính nguồn tái sinh, là hạnh phúc đích thực cho ta ngã nhào vào mà tìm lẽ sống, mà đạt đến sự sống.
Chúng ta hãy làm như người phụ nữ Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.
Từ nay ta sẽ ăn năn hối lỗi, biết lột trần con người của mình để càng lúc càng dễ dàng nhận ra, mình chỉ là kẻ đón nhận, chỉ mình CHÚA MỚI THẬT LÀ ĐẤNG TRAO BAN.
Lm Vũđình Tường
Kéo nước từ giếng sâu là việc làm khó nhọc, gánh nước leo đồi về nhà càng vất vả hơn, nhất là gánh vác vào buổi trưa hè. Giếng đầu làng là nơi thu nhập và truyền bá tin tức trong ngày. Thời gian người ta chờ nhau kéo nước cũng là lúc tin tức trong làng được truyền miệng. Người phụ nữ thành Samarita đi kéo nước vào buổi trưa vì lúc đó vắng người. Bà hy vọng tránh không bị lôi kéo vào sinh hoạt đó. Bà cũng hy vọng không có ai ở đó. Ngạc nhiên thay, ba thấy Đức Kitô đang ngồi bờ giếng từ lúc nào, và Ngài xin bà nước uống. Việc Đức Kitô xin bà nước uống cho biết Ngài không đồng í với luật lệ trọng nam, khinh nữ và coi thường dân ngoại thời đó. Theo luật, đàn ông không được nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Do Thái giáo không nhờ vả dân ngoại. Xin nước uống người phụ nữ dân ngoại là điều cấm kị. Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và người phụ nữ tiến triển qua ba giai đoạn. Đức Kitô mổ đầu, xin nước uống cho đỡ khát; tiếp đến người phụ nữ chân thành xác nhận những gì Đức Kitô biết về quá khứ bà đều đúng, và cuối cùng bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Bà rất ngạc nhiên khi Đức Kitô xin bà nước uống vì đó là điều tối kị. Đức Kitô cho biết nếu bà biết Ngài là ai thì chính bà xin Ngài ban cho nước uống, chứ không phải Ngài xin bà. Điều này gây thắc mắc hơn nữa, bởi giếng nước sâu, Ngài không có gầu múc nước làm sao có thể lấy được nuớc. Đức Kitô cho biết nước Ngài ban là nước hằng sống, không bao giờ cạn. Dù không hiểu bà cũng xin Ngài ban cho nước không hề cạn. Đức Kitô nói với bà, hãy về gọi chồng bà ra đây. Bà tự thú bà không có chồng. Câu tiếp theo khiến nhiều học giả Kinh Thánh giải thích người phụ nữ thay đổi niềm tin như thay áo, bà đã phục vụ năm bảy vị thần khác nhau và không hài lòng với vị thần nào, ngay cả vị thần bà đang tôn kính. Số học giả khác không đồng í với giải thích trên. Tuy nhiên không ai có thể chối cãi một thực tế là Đức Kitô không hề kết án, cũng như nhắc đến tội của bà.
Ngay sau khi bà xác định bà không có chồng, câu chuyện đổi sang việc thờ phượng. Đức Kitô hướng dẫn bà về cách thờ kính Thiên Chúa. Không phải cách hay nơi thờ phượng, hay núi thánh mà là tâm tình thờ phượng phải chatn thành. Việc thờ phượng Thiên Chúa chính đáng nhất là tôn thờ với tất cả tấm lòng và trong sự thật. Vì hướng dẫn trên mà học giả Kinh Thánh giải thích chữ ‘chồng’ ở đây không đồng nghĩa như nghĩa thông thường xã hội dùng. Người phụ nữ đón nhận giải thích về cách tôn thờ chính đáng Đức Kitô đưa ra. Bà cũng cho biết cách thờ phượng đó chỉ một mình Đấng Messiah hướng dẫn khi Ngài đến. Đức Kitô nói với bà chính Ngài là Đấng Messiah. Đúng lúc đó thì các môn đệ Đức Kitô đi mua ăn trưa trở về và cuộc đối thoại bị gián đoạn. Cuộc đối thoại biến sang giai đoạn ba, giữa Đức Kitô và đám đông dân làng. Người phụ nữ về làng thông báo cho mọi người biết tại bờ giếng bà gặp một vị xem ra vị này là Đấng Cứu Thế bởi Ngài có thể nói những việc thầm kín quá khứ đời bà. Vì niềm tin phóng khoáng, đổi thần, thay thánh, của bà mà nhiều người không tin lời bà nói. Ngạc nhiên thay, lần này người ta tin và họ kéo nhau ra giếng gặp Đức Kitô. Sau khi nghe Đức Kitô, họ tin Ngài là Đấng Cứu Thế. Đám đông nói với bà. Chúng tôi tin Ngài là Đấng Cứu thế không phải do lời bà loan báo mà chính mắt chúng tôi đã thấy, tai chúng tôi đã nghe Ngài giải thích, và chúng tôi tin. Dù giải cuộc sống bà thích thế nào chăng nữa, bà chính là người loan báo Tin Mừng cho dân làng, và những điều bà loan báo minh xác sự thật- Đức Kitô là Đấng Cứu Thế.
Người phụ nữ tin vào Đức Kitô vì bà chân thành lắng nghe, cởi mở cõi lòng và bà khẩn khoản xin Đức Kitô ban cho nước hằng sống. Bà không hiểu rõ nước hằng sống là gì? Điều này cho biết tin theo Đức Kitô không phải có các câu trả lời cho thắc mắc về đức tin, mà chính là yêu mến Ngài. Tin theo Đức Kitô giúp thoả mãn khát khao của tâm hồn, giúp con tim tìm được bình an ngay trong cảnh hỗn loạn, và giúp sống trong hy vọng. Với bà, ơn không ngoan Đức Kitô trao cho dư thừa, không cần phải tìm nguồn khôn ngoan nào khác.