Bài hát và Suy niệm (20.08.2023 – Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng

 

NL: CHÚA DẪN CON

ĐC: CON SẼ CA MỪNG ( ca bai)

ALL: Chúa phán: Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến ở cùng người ấy.

DL: XIN TRI ÂN

HL: TÌNH CHÚA MUÔN THUỞ

KL: MẸ HẰNG CỨU GIÚP

CHÚA NHẬT 20 TN A 2020

NL: HÁT LÊN BÀI CA

ĐC: CON SẼ CA MỪNG

DL: TÌNH YÊU MẾN

HL: TÌNH CA VÔ TẬN

KL: MẸ ĐẸP TƯƠI

Lời Chúa: Is 56,1.6-7, Rm 11,13-15.29-32, Mt 15,21-28


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 15,21-28) 

 21 Khi ấy, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở vùng ấy đi ra, kêu lên rằng : “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi ! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm !” 23 Nhưng Người không đáp lại một lời.

Các môn đệ lại gần xin với Người rằng : “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi !” 24 Người đáp : “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25 Nhưng bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng : “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi !” 26 Người đáp : “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27 Bà ấy nói : “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp : “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật ! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh.

Chúa xót thương phận nhỏ (20.08.2023)

Chủ đề của ba bài đọc tuần này là cả dân ngoại cũng được hưởng nhờ lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, nhờ ơn cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.

Vào bài Phúc Âm, thánh sử Mát-thêu giới thiệu cho chúng ta biết về hai làng Tia và Xi-đôn thuộc mạn bắc của đất nước Pa-lét-tin, những làng gần ranh giới với dân ngoại. Thánh sử kể về “người đàn bà Ca-na-an”, tức là miêu duệ của ông Kham, con ông Nô-ê. Ca-na-an là đứa cháu nội đã bị ông nội Nô-ê không những cắt đứt dòng ân sủng, mà còn bị nguyền rủa nặng nề bởi tội của cha mình

Khi tỉnh rượu, ông Nô-ê hay biết điều mà đứa con nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông; ông liền nói:

Ca-na-an đáng bị nguyền rủa!
Nó phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó!
” (St 9,24-25)

Điều này nói lên rằng, người đàn bà Ca-na-an thuộc dòng giống một thời đã xa rời nguồn ân phúc của Thiên Chúa, xa đến ra xa lạ với Người. Ca-na-an bị tách nguồn ân sủng bởi ông Nô-ê, biến đổi nhiều đời thành dân ngoại, cuối cùng bị Chúa lên án, biến đất Ca-na-an thành đất hứa cho Ít-ra-en (x. Gs 3,10). Giờ đây, người đàn bà Ca-na-an xuất hiện, tìm về với Thiên Chúa qua danh tiếng lẫy lừng của Chúa Giê-su. Ngày đó, dân chúng đồn vang Chúa Giê-su chữa khỏi bách bệnh, chỉ bằng lời nói hay vài động tác nho nhỏ chứ không cần thuốc men. Nhất là Người chẳng hề lấy thù lao của ai bất cứ thứ gì, không giống mọi thầy thuốc khác. Việc trừ quỷ các danh y đành bất lực, nhưng với Chúa Giê-su không có trường hợp nào Người không thể làm chủ cuộc diện, luôn đánh tan quyền lực ác thần, giải phóng người bị quỷ nhập, quỷ ám cách thật dễ dàng. Ở đây, người đàn bà Ca-na-an đến gặp Chúa Giê-su như biểu tượng cho các dân tộc không hề biết đến sự hiện hữu của Thiên Chúa. Họ đang lần mò trong bóng đêm tăm tối, vô tình hay hữu ý vẫn khát khao tìm kiếm Thiên Chúa, nguồn bình an và sự sống vĩnh hằng.

Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà thánh sử Mát-thêu đặt vào môi miệng người đàn bà Ca-na-an lời van xin đặc biệt này “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!

Lạy Ngài là con vua Đa-vít” câu nói ứng nghiệm lời của ngôn sứ Na-than tiên báo về triều đại vĩnh cửu bắt nguồn từ lời Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít   “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi.” (2 Sm 7,12-16) Tức là triều đại Nước Trời miên viễn của Chúa Giê-su Ki-tô, về cốt nhục tự nhiên Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi của vua Đa-vít.

Sách Thánh Vịnh cũng xác nhận lại điều này

Xưa Chúa phán: “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,
đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta,

rằng: dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ
.” (Tv 89,4-5)

Trở lại với mạch văn của đoạn Phúc Âm, vế sau câu nói tuyên xưng, người đàn bà Ca-na-an khẩn nài Chúa Giê-su “xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” còn có nhiều ẩn nghĩa đặc biệt. Bà cầu xin lòng thương xót của Con Thiên Chúa nhập thể qua việc xin Người trừ quỷ cho con gái bà. Tức là cùng lúc bà muốn kín múc ân sủng của lòng thương xót Chúa, cũng đồng thời khơi cho thoát mạch quyền toàn năng vô biên của Người. Điều này đồng nghĩa bà chạm tới hai bản tính sâu thẳm nhất của yếu tính bản thể Đấng Tối Cao nơi Chúa Giê-su. Người đàn bà Ca-na-an có đủ sức tin như thế không nhỉ?

Trong một góc nhìn khác, người đàn bà Ca-na-an đòi hỏi lòng thương xót và quyền năng trừ quỷ mang tính tuyệt đối của Đấng Cứu Thế vươn ra ngoài dân thánh. Đòi hỏi này vượt quá phạm vi sứ mạng của Người, cho nên Chúa Giê-su mới im lặng. Nghĩa là, nếu Chúa Giê-su đáp ứng lời cầu xin của người đàn bà Ca-na-an, ban ơn cho bà, Người sẽ mở ra cánh cửa tương thông với mầu nhiệm Nước Trời cho dân ngoại. Đây là điều vượt trên lời Chúa hứa với vua Đa-vít, vượt ra khỏi ranh giới Ít-ra-en, khởi nhịp đi vào quỹ đạo của Đấng Thần Nhân – Đấng Cứu Độ nhân loại. Mở ra, khởi đầu cho vô số kỳ tích của lòng thương xót đến ngàn sau, nên cần có một đức tin xứng đáng mới có thể được thực hiện. Đó là lý do tại sao Chúa Ki-tô lại thử thách đức tin của người đàn bà Ca-na-an đến thế.

Lời Chúa Giê-su nói với người đàn bà Ca-na-an, chứng minh sự thật của lời minh giải trên “Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.

Trong thánh ý nhiệm mầu quan phòng của Thánh Tâm Chúa Thánh Thần, sự im lặng và câu trả lời của Chúa Giê-su không làm cho người đàn bà Ca-na-an nản lòng. Bà khiêm hạ tiếp tục tỏ lòng tôn kính bằng việc bái lạy Người, và tin tưởng nhẫn nại van xin lòng thương xót “Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” Ôi Đấng Thương Xót! Đấng cứu chữa các tội nhân, có phải lòng của Người đã xót thương hai mẹ con người đàn bà Ca-na-an? Nhưng để làm sáng tỏ rạch ròi ranh giới giữa Giao Ước Cũ và Giao Ước Mới; giữa dân Ít-ra-en và dân ngoại, nên Người mới nói thêm “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”?

Với câu nói nầy, Chúa Giê-su không có ý hạ thấp con người của người đàn bà Ca-na-an. Nhưng trong sứ mạng Thiên Sai, Người buộc phải tách bạch vị thế của dân thánh và dân ngoại; giữa những người được Thiên Chúa tuyển chọn và những người không được chọn. Cho ta hiểu thêm sâu sắc hơn sự khác biệt giữa những người là con Thiên Chúa, và những người đang còn là thụ tạo của Người. Hay nói cách khác, qua thái độ của Chúa Giê-su chúng ta nhận ra định lệnh của Thiên Chúa: Người ở trong giao ước của Máu thánh Con Thiên Chúa hẳn nhiên phải khác biệt với những người không tin nhận Con Duy Nhất của Người được sai đến trần gian.

Lòng thương xót của Thiên Chúa mở rộng cho dân ngoại, tức cho toàn nhân loại, được ngôn sứ I-sai-a loan báo

Người ngoại bang nào gắn bó cùng ĐỨC CHÚA
để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh,
cùng trở nên tôi tớ của Người,
hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm,
cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta,

Những ai thật tâm tìm kiếm Thiên Chúa và tuân giữ giới luật của lương tâm, hay luật mà Chúa đã ban qua các Tông Đồ, sẽ chính thức trở thành Dân Chúa trong thời Tân Ước. Lời Chúa thật tỏ tường

đều được Ta dẫn lên núi thánh
và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta.
Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận
những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân
.”

Thánh Phao-lô vị tông đồ dân ngoại nói lên thao thức, mong mỏi của ngài về phần rỗi của những người anh em gốc dân ngoại. Tâm trạng của thánh nhân là hình bóng của ý muốn Thiên Chúa: Chúa muốn cho mọi người đều được ơn cứu độ. “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?

Cái chết trên thập tự giá của Chúa Giê-su là cái chết đền bù cho tội lỗi của mỗi tội nhân, và cũng đền bù cho tội lỗi của toàn thể nhân sinh. Cho thấy tấm lòng Cha của Chúa Cha muốn con người được hưởng vĩnh phúc trên thiên đàng là ngần nào. Ơn cứu độ được ban cho dân thánh qua sự hiện diện của Chúa Giê-su Ki-tô nơi đất Ít-ra-en, chỉ là bước đệm cho ơn cứu độ tràn chảy lên các linh hồn suốt dòng lịch sử của nhân loại.

Người đàn bà Ca-na-na là một trong những nhân tố bắt cầu cho ơn cứu độ phổ quát. Chúc tụng lòng thương xót Chúa dành cho hết thảy chúng sinh, trong đó có chúng con. Amen.

Tình Yêu Hoa Cỏ

con đẻ – con ghẻ

– Có lần tôi bị một lớp học trò sơ nhí đùa rằng, lớp chúng con chỉ là “con ghẻ” của cha. Cha đã có lớp “con đẻ” rồi. Thú thật lúc ấy tôi không hiểu các sơ nhí muốn nói gì. Cho đến khi các sơ nhí cười vang thích thú thì tôi hiểu họ muốn ám chỉ điều gì.

Thì ra con đẻ là con được thương, và con ghẻ là con bị ghét bỏ. Đó cũng là cách hiểu thường tình trong xã hội. Ai lại không thương con mình sinh ra? Ai có đủ rộng lượng để thương con của người khác? Nếu có, thì đó là họa hiếm, là ngoại lệ.

– Ra như Đức Giêsu cũng có cái nhìn phân biệt như thế khi nói: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-el mà thôi”. Trong góc nhìn Kinh Thánh, dân Ít-ra-el là Dân riêng của Thiên Chúa. Dân được Thiên Chúa chọn làm con. Các dân khác là dân ngoại, là dân nằm ngoài sự chăm sóc của Thiên Chúa.

Người đàn bà Ca-na-an đi theo kêu cầu Đức Giêsu cứu giúp con bà là dân ngoại. Dường như bà bị Đức Giêsu hắt hủi. Bà và con gái bà không đáng được hưởng phúc lành từ Đức Giêsu. Thế nhưng, lòng tin và sự kiên trì của người đàn bà Ca-na-an đã thay đổi Đức Giêsu. Phạm vi ơn cứu độ đã được mở rộng.

Với lòng tin ấy, những “mảnh vụn hồng ân” đã được trao tặng cho người đàn bà dân ngoại. Con gái của bà được khỏi bệnh.

– Ngày nay, chúng ta có phúc hơn người phụ nữ dân ngoại trong Tin mừng. Chúng ta là người đạo gốc. Chúng ta được sống trong các giáo xứ toàn tòng. Chúng ta được Lời Chúa hướng dẫn, được Thánh Thể dưỡng nuôi, và bao ân phúc khác. Thế nhưng, có lúc chúng ta đã không trân trọng ơn Chúa đã ban. Giống như dân Ít-ra-el xưa đã chối từ sứ điệp Tin mừng, còn dân ngoại thì sẵn sàng đón nhận.

Chính khi chúng ta không trân trọng hay chối từ ơn Chúa ban, thì chúng ta đã tự loại mình ra khỏi gia đình của Thiên Chúa. Chúa luôn coi chúng ta là “con đẻ”, là Dân riêng, nhưng chính chúng ta đã chỉ xem Chúa là “bố dượng và mẹ ghẻ”.

Xin cho chúng con luôn biết quý trọng những ơn lành Chúa ban trong từng phút giây cuộc đời.

Xin cũng cho chúng con nhận ra Thiên Chúa là Người Cha luôn chăm sóc và nâng đỡ từng bước đi của con cái mình.

Lm. Giuse Mai Văn Điệp, OP.

LÒNG TIN KIÊN NHẪN

Đức Giêsu đang đi về miền Tia và Siđôn, bỗng gặp một người đàn bà Canaan ở đó đi ra kêu lên: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15,22). Bà này là người ngoại (kẻ thù truyền kiếp của người Do Thái), nên bà kêu xin khẩn thiết như vậy mà Người không đáp lại một lời. Ngày nay chúng con mà gặp thái độ miệt thị, dửng dưng, coi như điếc này thì bực ra mặt, đánh giá sau lưng hoặc thất vọng quay gót chẳng thèm phiền đến lần thứ hai. Đằng này bà cứ bám lì theo sau làm các môn đệ sốt ruột lên tiếng với Thầy: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15,23).

Bà lắng tai nghe ngóng thì chỉ thấy Người trả lời phân ranh: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (Mt 15,24). Khác nào bị đuổi khéo, nhưng bà không chùn bước mà tiếp tục tiến đến bái lạy, khiêm tốn xin Người cứu giúp. Chẳng ngờ Người buông thẳng một câu nghe thấy nhục nhã, rằng không nên lấy bánh dành cho con mà ném cho chó con. Vậy mà bà còn nhẫn nhục cãi lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15,27). “Của cố là của được”.

Cuối cùng Đức Giêsu đã “thua” lòng tin mạnh mẽ và kiên nhẫn của bà. Kết quả từ giờ đó con gái bà được khỏi. Người khen bà có lòng tin mạnh thật, nên bà muốn sao thì được vậy. Ôi! con cái trong nhà chúng tôi xin bái phục bà Canaan! Đến xin Thầy cứu mà Thầy không tiếp, còn ví phận dân ngoại của bà với “chó con”, vậy mà bà vẫn đủ lòng tin lòng cậy ở vị Thầy “khắt khe” hôm nay, thì lòng tin của bà quả là mạnh thật.

Chúng tôi mà bị xử như vậy thì ắt sẽ mất hết niềm tin và bỏ cuộc từ lâu. Một lòng tin mạnh mẽ vượt lên những kỳ thị chủng tộc, vượt lên thử thách đến tột cùng, sợ hãi và xấu hổ tủi nhục. Lòng kiên nhẫn không hề ngã lòng trước lời từ chối của bà đã đụng vào trái tim luôn chạnh lòng thương của Người. Sự im lặng và chối từ của Đức Giêsu đã đưa đức tin của bà vượt qua thử thách và mạnh lên. Ngày nay trong đời sống đức tin, nhiều khi chúng con cũng gặp những rào cản, thử thách nặng nề. Nhưng xem ra lúc gian nan chúng con hiểu phần nào chương trình của Chúa cho đời mình và được trưởng thành hơn trong đức tin.

Lòng tin của bà còn mạnh mẽ vì nỗi đau của con chính là nỗi đau của bà, nên bà xin Thầy dủ lòng thương “tôi”, van xin cho chính bà. Lúc Thầy ra như làm ngơ, thì các môn đệ lên tiếng làm Thầy lưu tâm giải quyết vấn đề. Ước gì ngày nay chúng con cũng trở thành cầu nối kết, để Chúa thực hiện những ơn lành cho người khác cần được quan tâm và nâng đỡ. Lúc đó mọi khó khăn được giải gỡ an ổn tốt đẹp, khi có động lực kéo ơn Chúa xuống trên con người.

Có lẽ Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy lòng tin đáng nể nơi người ngoại và hiểu tình yêu thương đại đồng của Thiên Chúa dành cho hết thảy mọi người, kể cả dân ngoại mà họ đang muốn loại trừ. Dọc dài theo Tin Mừng, ta thấy Người vẫn luôn yêu thương thi ân, chúc lành, đề cao, khen ngợi những người ngoại.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng khiêm nhường, lòng tin mạnh mẽ vượt lên mọi thử thách gian nan, để chúng con có thể đi trọn con đường Chúa muốn, với lòng tin ngày càng vững mạnh hơn, để chúng con được hưởng trọn niềm hạnh phúc của những người sống trong niềm tin yêu Chúa. Amen.

Én Nhỏ

NIỀM TIN và LÒNG YÊU THƯƠNG.

1. Ghi nhớ:

Thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu nên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm”(Mt15,22).

2. Suy niệm.

Cháu nói với ông:

– Nội ơi, nội có muốn nghe chuyện không? Con có câu chuyện này hay lắm. Kể cho nội nghe nhé.

– Có chuyện gì cứ kể nội nghe, nếu thật sự hay sẽ có thưởng.

– Chuyện là như vầy, Nó bắt đầu: Một bà mẹ dẫn đứa con trai đến gặp cha xứ. Cha nói với cậu bé.

– Nếu con trả lời được Thiên Chúa ở đâu thì cha sẽ cho con ba trái táo.

Cậu bé chẳng suy nghĩ lâu liền đáp:

– Thưa cha, con cũng có hai quả táo, cộng vào ba quả của cha thành năm , con sẽ biếu cha tất cả. Nếu cha cho con biết nơi nào không có Thiên Chúa?

– Câu chuyện hay lắm, ông khen và hứa, bữa nào ông sẽ thưởng.

Nó vỗ tay rồi bá cỏ hôn ông rối rít. Xong, nó nói tiếp:

– Như thế thì Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi, đúng không nội? Ấy vậy mà hôm rồi con có đọc được một câu. Đó là: “ Thiên Chúa không thể ở khắp mọi nơi nên Ngài đã sinh ra người mẹ”.(Proverbe Yiddish) Như vậy thì nghĩa là làm sao hả nội, có mâu thuẫn nhau không?

– Ông kéo thằng cháu vào lòng rồi chậm rãi giải thích: Câu này người nói có ý muốn làm cho nổi bật lên trọng trách cũng như tình yêu thương mà những người mẹ dành cho con cái của mình. Nội dung câu nói nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa muốn dùng đôi tay của những người mẹ mà nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ, chở che cũng như thay Ngài mà giáo dục thương mến con  mình. Ngừng lại giây lát. Ông hỏi cháu, Con có hiểu không? Đôi khi có những câu nói chúng ta không chỉ hiểu theo nghĩa đen, mà nên hiểu theo nghĩa bóng thì mới biết được người nói muốn đặt trọng tâm câu nói đó để nói lên điều gì! Đây ông đơn cử cho cháu vài ví dụ. Có người khôi hài nói rằng: “Thiên Chúa  là Đấng thông minh thượng trí, song Ngài cũng  chẳng có thể nhớ hết được trên thế giới này có bao nhiêu dòng tu.”.Ở đây người nói không có ý gì khác ngoài ý tưởng muốn nói nên sự đa dạng và phong phú của các dòng tu mà con người đã thành lập để tôn kính, phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.

Cách đây rất lâu rồi ông cũng đã đọc được một câu viết trên tờ lịch, câu đó như sau(ông không nhớ được tên tác giả):“Dù rằng Thiên Chúa là Đấng toàn năng siêu việt vô song, nhưng Ngài cũng không thể tạo dựng  được một Thánh Mẫu Maria thứ hai nữa!”. Trong câu nói này, người nói không có ý  đụng chạm đến quyền năng tối cao và vô biên của Thiên Chúa. Nhưng là muốn làm nổi bật lên phẩm chức cao trọng và sứ vụ “độc nhất vô nhị” của Đức Maria trong công trình Cứu độ trân gian của Thiên Chúa. Bởi vì Ngài là  Mẹ Chúa cứu thế và cũng là Mẹ của cả nhân loại chúng ta!.

Bài Tin Mừng hôm nay thánh sử Mattheu tường thuật lại việc một người đàn bà có đứa con bị bệnh quỉ ám nên khi nghe biết Chúa Giê-su đi ngang qua làng thì bà liền đi đến kêu van Chúa, xin Ngài dủ lòng thương xót mà chữa lành cho đứa con gái mình. Hẳn rằng bà rất thương con, và để cho đứa con gái mình khỏi bệnh, bà đã chạy chữa nhiêu nơi, đã hao tiền tốn sức, nhưng không khỏi.

Nghe tiếng “Con Vua Đavít” đã từng chữa lành nhiều người bệnh hoạn tật nguyền nên bà đặt trọn niềm tin vào Ngài và khi biết Chúa sẽ đi ngang qua bà liền ra cầu xin.  Cho dẫu lời thỉnh nguyện đó lúc đầu không được chấp nhận, nhưng sau bao nhiêu thử thách bà đã kiên trì vượt qua. Cuối cùng thì Chúa đã thực hiện điều mà bà cầu xin; Đúng là Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình(Y-Vân).

Đọc đoạn Phúc Âm trên, khiến chúng ta liên tưởng đến trường hợp của  thánh nữ Monica. Bà cũng có một người con“ bị bệnh quỉ ám tâm hồn” và vì lòng thương con, bà đã kiên trì hy sinh cầu nguyện suốt gân hai mươi năm trường để rồi sau nhiều năm tháng Chúa như vẫn lặng im không đoái hoài gì đến nỗi đau của một người mẹ mãi lo lắng, dằn vặt bởi nỗi sợ con mình bị hư mất, cuối cùng vì niềm tin tưởng và cậy trông mãnh liệt và vững vàng vào Chúa, bà đã được nhậm lời. Con bà là Augustino không những đã “khỏi bệnh”để trở lại cùng Chúa mà còn trở nên một vị đại thánh trong Hội Thánh Công Giáo nữa!.

Chúng ta được diễm phúc, bởi có hai người mẹ; một người mẹ trần thế sinh ra phần xác và nuôi dưỡng chúng ta và một người Mẹ trên trời luôn cầu bầu cho chúng ta được mọi ơn lành hồn xác.

Như xưa, tại tiệc cưới Cana Mẹ đã can thiệp để Chúa Giê-su làm phép lạ đầu tiên, giúp gia đình nhà đám vượt qua nỗi khó khăn thế nào thì ngày nay, bên tòa Chúa, Mẹ vẫn hằng giờ hằng ngày bầu cử chở che cho con cái loài người thoát cảnh nguy nan, lâm than, tăm tối. Như lời thánh Laurentio Justiniano nói: “ Mẹ phù hộ, chúng con khỏi chết; Mẹ cầu bầu, chúng con được sống.”

Kỷ niệm một trăm năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima. Chúng ta lấy lòng con thảo mà thực hiện trọn vẹn ba lệnh truyền là; Ăn năn cải thiện đời sống; Tôn sùng Mẫu tâm và xiêng năng lần hạt mân côi.

Sống thể hiện tâm tình con thảo, chúng ta mới có thể đáp đền phần nào những ân lành mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta qua bàn tay của Đức Từ Mẫu Maria.

3. Cầu nguyện:

Lạy Chúa vì thương yêu chúng con, muốn cho chúng con được sống yên vui, hạnh phúc nên Ngài đã ban cho chúng con hai người Mẹ để các Ngài gìn giữ chúng con được sống trong ân tình bảo bọc chở chê. Xin cho chúng con biết hiếu thảo bằng viêc vâng lời Mẹ  mà thực thi lời Chúa chỉ dậy: “Người bảo gì thì các con cứ làn theo”để sau cuộc đời trần gian luôn thi hành ý Chúa, chúng con được về thiên đàng cùng Mẹ hưởng phúc trường sinh bên Chúa. Amen.

4. Sống lời Chúa:

Phụng dưỡng, chăm sóc cha mẹ lúc còn tại thế. Hy sinh, hãm mình, xin lễ để cầu nguyện cho các ngài khi đã qua đời.

Đaminh Trần Văn Chính

***

 MỤC LỤC 

1. Đau khổ. 

2. Lòng tin. 
3. Chứng nhân bằng cuộc sống. 
4. Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc. 
5. Người nghèo. 
6. Những bia đá niềm tin. 
7. Người ngoại ở cửa bên cạnh. 
8. “Này bà, bà có lòng mạnh tin”. 
9. Suy niệm của Lm Đinh Minh Tiên. 
10. Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về – Noel Quesson. 
11. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long. 
12. Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách. 
13. Vững vàng tin tưởng.

***

1. Đau khổ. 

Người đàn bà ngoại giáo, có đứa con đau yếu đã đến tìm gặp Chúa Giêsu. Lần thứ nhất bà kêu xin, nhưng Ngài đã thinh lặng khiến các môn đệ phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà kêu xin, thì bị Chúa Giêsu trả lời: Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó. Thế nhưng bà vẫn không mất lòng cậy trông khi thưa cùng Chúa: Lạy Thầy, nếu như vậy thì con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn rơi xuống chứ. Cuối cùng Chúa Giêsu đã phải ca ngợi niềm tin của bà và đã làm phép lạ cho con bà được khỏe mạnh.
Từ câu chuyện này chúng ta rút ra được một bài học, một thái độ sống giữa những khổ đau và bất hạnh, giữa những gian nguy và thử thách chúng ta gặp phải giữa lòng cuộc đời. Như chúng ta đã biết: đau khổ và thử thách là như một cái gì gắn liền với thân phận con người: thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, đời có vui sao chẳng cười khì. Giáo lý nhà Phật đã gọi đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Còn trong kinh Lạy Nữ Vương, chúng ta vốn thường cho rằng đời là nơi khổ ải, nơi khóc lóc, đời là thung lũng nước mắt. Đứng trước những khổ đau và thử thách, người thì can đảm chấp nhận, không kêu ca, không oán trách, kẻ thì hậm hực tức tối, khóc lóc than van, dường như ở trên đời này chỉ mình họ là khổ đau mà thôi. Nếu có dịp, chúng ta hãy ghé thăm những bệnh viện và chúng ta sẽ thấy những khổ đau chúng ta đang phải chịu, chẳng thấm tháp vào đâu so với những khổ đau của người khác.
Ngày kia đức Khổng Tử gặp Vĩnh Khải Kỳ, tay cầm đèn, vừa đi vừa hát một cách vui vẻ. Khổng Tử bèn hỏi: Hôm nay có chi mà tiên sinh mừng vui thế. Vĩnh Khải Kỳ trả lời: Trời sinh ra muôn vật, mà loài người là loài trọng nhất, bỉ nhân đây là loài người, thì làm sao chẳng vui cho được. Trong loài người thì đàn ông hơn đàn bà. Bỉ nhân đây được may mắn là đàn ông, thì làm sao chẳng vui cho được. Sinh ra có kẻ mù lòa câm điếc hay què quặt, bỉ nhân đây không mù lòa, không câm điếc cũng chẳng què quặt, thì làm sao chẳng vui cho được. Còn nếu như nghèo nàn, bệnh tật và chết chóc là số phận chung của mọi người, không ai có thể tránh thì việc gì mà phải buồn phiền lo lắng.
Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta, những người luôn tin tưởng và cậy trông vào Chúa thì những khổ đau chúng ta chịu sẽ không kéo dài quá thời gian cuộc sống chúng ta. Chắc chắn một ngày nào đó nó sẽ chấm dứt. Người giầu và kẻ nghèo rồi thì cũng phải chết, cũng như ông phú hộ và người ăn xin tên là Lagiarô. Thế nhưng sau cái chết là cuộc sống đời đời, là tương lai vĩnh cửu sẽ mở ra cho chúng ta tùy theo như những việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Vì thế, chúng ta phải cố gắng biến những khổ đau chúng ta gặp phải trở thành nguồn ơn phúc, đem lại lợi ích cho chúng ta như lời thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: Được chịu gông cùm vì Chúa, tôi lấy làm hãnh diện hơn là ngồi trên 12 tòa các tông đồ mà xét xử muôn dân. Tại sao thế? Bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường tiến tới Phục sinh.  [Mục Lục]

2. Lòng tin. 

Người ta kể về một người đàn bà ở bãi biển. Bà ấy vừa già, lại dơ bẩn và ăn mặc dị hợm. Bà đi bộ lang thang dọc theo bờ biển, thỉnh thoảng ngừng lại cúi xuống nhặt một cái gì đó bỏ vào trong túi sách. Khi bà đi ngang qua đám trẻ con đang đùa vui trên cát biển, cha mẹ của những em bé này liền gọi các em lại để khỏi gần gũi với bà. Họ lo lắng và sợ hãi vì không biết bà có thể làm điều gì gây nguy hại cho các em. Họ căn dặn con cái: “Không có việc gì phải liên hệ với bà ta cả. Sau này, họ khám phá thấy rằng bà lão đi dọc theo bờ biển và nhặt những miếng kính vỡ bỏ vào trong túi xách để trẻ em không bị đứt chân chảy máu khi chạy vui đùa trên bãi biển.
Nếu chúng ta bước theo Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng dẹp bỏ những hàng rào ngăn cách. Điều này được thể hiện bằng thái độ nhìn tất cả mọi người bình đẳng như nhau, không còn phân biệt kỳ thị nam nữ, giàu nghèo, sắc tộc, màu da, hay tôn giáo. Và trong ánh sáng đức tin, phải nhìn mọi người là anh chị em của mình, là con cái của Chúa Cha trên trời. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta điều này trong thư gửi tín hữu Galát: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô”.
Đối với những người ngoài Kitô giáo, trong tuyên ngôn về liên lạc của Giáo Hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo, Nostra Aetate, đoạn 5, Công Đồng Vatican II đã nói: “Chúng ta không thể kêu cầu Thiên Chúa là Cha mọi người nếu chúng ta không muốn xử sự như anh em đối với một số người, cũng được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Liên lạc giữa con người với Thiên Chúa là Cha và giữa con người với anh em mình, có liên quan mật thiết với nhau như lời Thánh Kinh: “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.
Do đó, mọi lý thuyết hay hành động đưa đến kỳ thị về phẩm giá con người và những quyền lợi do phẩm giá đó mà ra, kỳ thị giữa con người với nhau, giữa dân này với dân khác, sẽ không có nền tảng.
Vì thế, Giáo Hội bác bỏ mọi sự kỳ thị hoặc đàn áp chủng tộc hay màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì thái độ ấy xa lạ với tinh thần Chúa Kitô. Do đó, thánh Công đồng theo chân thánh Phêrô và Phaolô, khẩn thiết kêu mời các Kitô hữu: “Hãy sống ngay lành giữa người lương dân”, nếu có thể được, tuỳ khả năng mà sống hoà thuận với hết mọi người như những người con một Cha trên trời”.
Đối với những người Kitô hữu, trong tinh thần hiệp nhất, Công đồng nói: “Thánh công đồng này khuyến khích tất cả mọi người Công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất”.
Đối với những anh chị em ly khai, Công đồng Vatican II nói: “Người Công giáo cần phải vui mừng nhìn nhận tôn trọng những giá trị thật sự Kitô giáo, xuất phát từ cùng một gia sản chung được tìm thấy nơi các anh em ly khai. Nhìn nhận những kho tàng phong phú của Chúa Kitô và những hoạt động của quyền lực Người trong đời sống của những kẻ đang làm chứng về Người – và có khi phải đổ máu mới nói lên được chứng tá ấy – quả là chính đáng và có giá trị cứu rỗi: vì Thiên Chúa luôn đáng khâm phục và việc Người làm bao giờ cũng kỳ diệu”.
Nhìn vào tấm gương của người đàn bà Canaan, chúng ta cũng rút ra được bài học quý giá trong đời sống đức tin. Với tình yêu lớn lao của một người mẹ đối với con gái đang đau nặng, người đàn bà Canaan đã vượt qua mọi ranh giới kỳ thị của xã hội – đàn bà và dân ngoại – để kiên trì tin tưởng vào lòng nhân lành của Chúa Giêsu. Tình yêu là động lực dẫn đến đức tin.
Trong cuốn truyện “Anh em nhà Karamazốp”, Dostoevski kể về câu chuyện của một bà lão đang bị khủng hoảng về tinh thần và thể lý. Ngày nọ bà đến bàn luận vấn đề này với linh mục Zossima. Bà tâm sự về sự yếu kém của đức tin, cùng nỗi nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đời sống mai sau.
Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe, rồi khuyên bà rằng chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng về những điều này, nhưng vẫn có thể làm cho đức tin của bà chắc chắn hơn bằng tình yêu thương tha nhân. Hãy cố gắng yêu người láng giềng cho thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng tin tưởng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và về đời sống sau khi chết. Càng yêu mến, đức tin của bà càng trở nên mạnh mẽ, và làm tiêu tan hết những nỗi nghi ngờ. Bà đã thử nghiệm và thấy có kết quả.
Linh mục Mark Link S.J., trong bài giảng Chúa nhật XX hôm nay, đã ví tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này sẽ thấy cái kia. Đức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Cha cũng dùng lời của bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer, trong cuốn sách có nhan đề “Reverence for Life” – “Kính trọng Cuộc Sống” như sau:
“Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác đồ ăn, nước uống hoặc áo mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống”.
Các bậc cha mẹ cần củng cố đức tin hãy bắt chước người đàn bà Canaan, đến với Chúa Giêsu với lòng yêu thương con cái tha thiết. Và tất cả mọi người, muốn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, hãy mở rộng tâm hồn để chấp nhận những người anh chị em không cùng tôn giáo, lập trường chính trị, văn hoá, sắc tộc hay ngôn ngữ. Bởi “Ai không yêu thì không nhận biết Thiên Chúa”.  [Mục Lục]

3. Chứng nhân bằng cuộc sống. 

(Suy niệm của Lm. Đinh Quang Vinh)
Sau buổi cơm chiều, vị linh mục già với tràng chuỗi trên tay đang gõ đều những nhịp chân trên dãy hành lang của nhà xứ. Bỗng một loạt chuông dài từ phía cổng vang lên, không chút đắn đo, vị linh mục tiến về cổng chính. Cánh cửa bật mở, một khuôn mặt thật tiều tụy xuất hiện, kèm theo lời kêu cứu: “Linh mục ơi! Xin cứu gia đình con với”; với giọng ôn tồn ngài nói: “Mời chị vào phòng khách, có điều chi hãy từ từ giải bày”.
Đón lấy ly nước mát lạnh từ tay ngài, người phụ nữ chỉ nhấp đôi chút và vội vàng cất tiếng với giọng nói thật thống thiết: “thưa linh mục, xin ngài cứu gia đình con với, xin cứu người chồng đáng thương của con. Anh ấy ngã bệnh đã hai năm nay, con đã cố gắng hết sức mình, ngay cả gia tư vốn liếng con cũng chẳng tiếc chi. Nhưng cho đến nay, mọi chuyện như muối đổ bể: bệnh tình của nhà con chẳng đỡ chút nào, còn gia đình con thì lại rơi vào khánh kiệt”. “Vậy giờ đây chị muốn tôi giúp gì cho chị? Chị cứ nói, trong khả năng của tôi, tôi xin sẵn sàng giúp chị”, vị linh mục cất tiếng nói. Xúc động bởi sự chân tình của vị linh mục trong tiếng nghẹn ngào chị ta bộc bạch: “thưa linh mục, gia đình con là gia đình cách mạng, chúng con là những đảng viên, tuy chúng con không biết về Chúa, cũng chẳng quen biết linh mục, nhưng nhờ những người hàng xóm Công Giáo gần nhà giới thiệu, cho nên con mạnh dạn đến đây để nhờ linh mục cầu nguyện cho nhà con qua khỏi cơn nguy biến này”. Vẫn với giọng nói thật chân tình, vị linh mục hỏi: “Chị tin vào lời cầu nguyện của tôi ư?” chị đáp lời: “Thưa linh mục, giờ con biết làm gì hơn ngoài điều này; vả lại có tin con mới đến đây để cậy nhờ linh mục”. “Thế thì chị hãy an tâm, tôi hứa ngay từ chiều hôm nay sẽ cầu nguyện cho chồng của chị”. Cảm động bởi tấm lòng cao thượng của vị linh mục, chị ta còn chỉ biết tạ ơn và cáo biệt ngài ra về cho kịp chuyến xe chiều. Hai tháng sau, người phụ nữ ấy trở lại với người chồng của mình để tạ ơn vị linh mục. Và cũng từ đó khơi mào cho hành trình niềm tin của hai vợ chồng.
Câu chuyện trên đây cũng phần nào diễn tả Lời Chúa ngày hôm nay: Niềm tin của người phụ nữ xứ Canaan. Người phụ nữ ấy đã tin vào Đức Giêsu Kitô: Lạy Ngài là Con Vua Đavít (Mt 15,22); dẫu chỉ nghe nói về Ngài qua những người chung quanh. Niềm tin ấy được diễn tả ngày càng mạnh mẽ, nhất là khi Đức Kitô nói với chị ta: “không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c.26). Đáp lời Ngài, chị ta nói: “thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Đây phải chăng là lời vặn vẹo hay tranh luận với Chúa Giêsu? Thưa không, lời nói của chị đượm nét khẩn cầu của một kẻ đầy lòng khiêm nhường, cúi mình trước Đấng Tối Cao; chính câu trả lời của chị như thêm một lần nữa xác tín niềm tin của mình vào Con Vua Đavít, vì chị tin rằng Ngài luôn thương đến những kẻ mọn hèn, dẫu cho là những chú “chó con” (ngôn từ mà người Do Thái thời xưa dùng để ám chỉ dân ngoại). Đọc được những tâm tình sâu thẳm ấy, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương và chữa lành cho con gái chị.
Lời Chúa hôm nay còn muốn diễn tả sứ vụ của Đức Kitô: Được sai đến với những chiên lạc nhà Israel (c.24). Thực vậy, có những con chiên mà đôi lúc do những hiểu lầm hoặc chưa được nghe Lời Chúa đã không ở trong một đàn. Trong và qua Tình Yêu Thập Tự Đức Kitô đã muốn quy tụ tất cả về trong một đàn chiên duy nhất, sống sự hiệp thông, tình yêu, bình an; Ngài muốn dẫn đưa tất cả chúng ta lên Núi Thánh Ngài (Is 56,7). Sứ vụ ấy được ủy thác lại cho các Tông Đồ khi Ngài về trời, và cho chính mỗi người chúng ta, những thành phần của Hội Thánh (Đến với muôn dân, 2).
Trăn trở trước sứ vụ thật cao cả ấy, đôi lúc chúng ta cũng tự đặt câu hỏi cho mình: “Đâu là cách thế để loan báo Tin Mừng cho thế giới ngày nay?”. Tôi muốn mượn lời của ĐGH Gioan Phaolô VI để trả lời cho vấn nạn này: “Người đương thời sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy”, thế nên “Tin Mừng trước tiên phải được công bố bằng cách làm chứng, một đời sống làm chứng bao hàm sự hiện diện, chia sẻ, liên đới” (Loan báo Tin Mừng, 21;41).
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta những bài học quý giá. Qua hình ảnh người phụ nữ xứ Canaan ta học được bài học về sống niềm tin. Chính niềm tin hun đúc và giúp chúng ta bước đi cách vững chắc trong hành trình hướng về quê trời, dẫu cho hành trình đó còn vương đầy sỏi đá; chính lối sống tín thác vào Đức Kitô, khiến ta trở thành những chứng nhân sống động của Tin Mừng, của tình yêu: rao giảng không những bằng lời nói, nhưng còn bằng chính đời sống. Thiết nghĩ khi thực thi được những điều đó ta đã thực thi phần nào sứ mạng mà Chúa uỷ thác cho mỗi người chúng ta.  [Mục Lục]

4. Khi đời không mỉm cười – Thiên Phúc 

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Chuyện kể rằng: một em bé vâng lời mẹ xách giỏ ra tiệm tạp hóa. Em cẩn thận đọc cho người bán hàng tên của từng món đồ mà mẹ em đã ghi trên mảnh giấy. Người bán hàng nhìn em và để ý theo dõi từng cử chỉ cẩn thận của em một cách thích thú.
Sau khi đã xếp gọn các món vào giỏ cho em, ông dẫn em đến trước cái hộp đầy kẹo. Vừa mở nắp hộp ông vừa bảo em thò tay vào lấy kẹo. Em bé vui mừng rút ra một viên kẹo. Người bán hàng bèn khích lệ em và nói:
– Cháu hãy bốc cho đầy lòng bàn tay của cháu đi.
Em bé mỉm cười đáp:
– Vậy ông hãy bốc kẹo giùm con.
Người bán hàng ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao vậy?
Em bé dí dỏm trả lời:
– Tại vì bàn tay của ông lớn hơn bàn tay của con rất nhiều.
***
Như em bé nhìn nhận cái bé nhỏ của mình trước sự lớn lao của người khác, nên đã được ban cho dư đầy, thì người đàn bà ngoại giáo xứ Canaan cũng khiêm tốn nhận mình nhỏ bé như “chó con” được ăn “những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bà còn hết lòng tin tưởng vào bàn tay lớn lao quyền phép của Thiên Chúa, nên bà xứng đáng lãnh nhận hồng ân cao cả, là con bà tức thì được chữa khỏi quỉ ám.
Đó chính là thái độ cần phải có khi cầu nguyện.
Chỉ có những lời cầu nguyện khiêm tốn, nhận mình là không và Chúa là tất cả, chẳng đòi hỏi gì mà chỉ trông đợi lòng thương xót Chúa, mới là những lời cầu nguyện đẹp nhất.
Chỉ có những lời cầu nguyện kiên trì, không bao giờ thất vọng nản chí cả khi Chúa xem ra như bỏ quên, như chối từ, mới là những lời cầu nguyện phát sinh sức mạnh.
Sức mạnh của lời cầu nguyện chính là đức tin. Sau khi đã chối từ lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo với lý do chính đáng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel”, thậm chí Người còn nặng lời với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Thế mà Đức Giêsu, cuối cùng đã để bà chinh phục: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Đứng trước lòng khiêm tốn, kiên trì và phó thác, Thiên Chúa sẽ không nỡ chối từ. Đức Giêsu không những đã ban cho người đàn bà được thỏa lòng mong ước mà còn công khai khen ngợi đức tin mạnh mẽ của bà trước các môn đệ.
Nếu Đức Giêsu đã không tiếc lời khen ngợi đức tin của người đàn bà ngoại giáo, hẳn là Người muốn đưa ra một mẫu gương khi cầu nguyện: khiêm tốn, kiên trì và phó thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa.
Nếu người đàn bà ngoại giáo cầu xin mà cũng được nhận lời, thì chứng tỏ Chúa không bị giới hạn trong phạm vi Giáo Hội, mà Người muốn ban ơn cho ai là tùy ý Người.
Có thể nói, đức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa, vì thế, nhà toán học kiêm triết gia Pascal đã nói: “Để có đức tin, con người phải quỳ gối cầu xin”. Cầu xin là nhìn nhận Chúa là tất cả, là đặt thánh ý Chúa trên hết, là nhận biết mình yếu đuối, và chỉ cậy trông một mình Người mà thôi.
***
Lạy Chúa, có ai khiêm tốn cầu xin mà Chúa chẳng nhận lời, có ai kiên trì phó thác mà chúa chẳng ban ơn. Xin thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con luôn tin tưởng cả khi Chúa xem ra như thinh lặng, để chúng con cậy trông cả khi cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Vì chúng con tin chắc rằng cuối cùng Chúa vẫn luôn chọn phần tốt nhất cho chúng con. Amen.  [Mục Lục]

5. Người nghèo. 

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất lạ lùng,và đối với chúng ta, cũng rất quen thuộc. Nó thuật lại một cuộc gặp gỡ một người đi xin xỏ. Thật vậy, người đàn bà Canaan không xin tiền bạc. Nhưng bà đi xin một ân huệ. Có những lúc, chúng ta gặp những người ăn xin, hoặc ở nơi bậc cửa nhà mình hoặc trên đường phố. Người ta tự hỏi Đức Giêsu xử sự ra sao trong những hoàn cảnh như thế.
Đức Giêsu đã cùng các môn đệ lui về miền Tia và Xiđon, đó là miền đất của dân ngoại. Dường như Người lui về đó để nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ngay sau khi đến đó có một người đàn bà đi theo quấy rầy Người, xin Người chữa lành cho con gái của bà.
Phản ứng của chúng ta thế nào, khi chúng ta gặp một người nào đó xin xỏ? Tôi nghĩ rằng ít người trong chúng ta từ chịu bố thí, mà được như thế thì quá tốt. Thông thường chúng ta từ chối giúp người khác. Chúng ta biện minh sở dĩ chúng ta không có khả năng và tốt hơn hết là không cho họ thứ gì bởi vì khi cho, chúng ta nuôi dưỡng tâm lý xin xỏ, dựa giẫm, ỷ lại.
Tuy nhiên, chúng ta có thể rút ra một niềm an ủi từ bài Tin Mừng hôm nay. Phản ứng của các Tông đồ không khác phản ứng của chúng ta. Đối với họ, người đàn bà Canaan là một kẻ quấy rầy, phiền nhiễu. Họ chỉ muốn Đức Giêsu tống khứ bà ấy càng nhanh càng tốt.
Dĩ nhiên, phản ứng của Đức Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trước hết, Người không biết bà ấy. Vì thế, Người từ chối bà và cố gắng thoái thác. Tuy nhiên bà là một phụ nữ có rất nhiều quyết tâm và không chịu chấp nhận một câu trả lời không. Sau cùng, Người phải thỏa mãn lời cầu xin của bà.
Từ đó, người ra rút ra điều gì: chúng ta sợ tiếng kêu của người nghèo. Gặp gỡ với một người ăn xin có thể là một kinh nghiệm quấy rầy phiền nhiễu. Nó có thể làm lộ ra những điều đáng ghét trong chúng ta. Nó làm nổi lên trong chúng ta những cảm giác mâu thuẫn về lòng thương xót, bực bội, tức giận và phạm tội. Chúng ta ghét điều mà chúng ta khám phá về mình. Và nếu không thận trọng, chúng ta có thể hướng lòng thù hận về người nghèo bất hạnh đã dám đến gần chúng ta.
Gặp gỡ một người nghèo có thể là một kinh nghiệm làm người ta khiêm nhường bởi lẽ nó làm chúng ta nhận ra sự nghèo nàn của chính chúng ta. Chúng ta nhận thức rằng trong lúc người ăn xin nghèo nàn về mặt vật chất, thì chúng ta nghèo nàn trong một ý nghĩa khác. Chúng ta nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự sẵn sàng giúp nghèo nàn lòng thương xót, nghèo nàn sự xẵng sàng giúp đỡ một người khác, nghèo nàn khả năng yêu thương.
Tuy nhiên, dù gặp gỡ một người nghèo có thể làm phiền chúng ta, nó cũng có thể sinh ra ích lợi. Qua người nghèo, chúng ta khám phá sự yếu đuối và thương tật của chúng ta mà xét cho cùng, chúng ta là như thế. Điều đó có nghĩa là chúng ta không nên đeo mặt nạ và gán cho mình điều mình không có. Có như thế, chúng ta mới đạt đến sự giải phóng nội tâm sâu xa. Nó đặt chúng ta vào sự tiếp xúc với sự thật về chính mình.
Gặp gỡ ấy cũng có thể làm thức tỉnh và bộc lộ tâm hồn. Nó có thể đánh thức trong chúng ta cảm giác dịu dàng và thương xót, nhân từ và hiệp thông. Nó cho chúng ta thấy có thể hiện hữu nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, và dâng hiến chính mình nhiều hơn. Nó có thể thay đổi chúng ta. Nó phát huy chúng ta và kêu gọi chúng ta đến với nhân loại. Vì thế nó có thể dẫn đến một sự bắt đầu mới.
Và nó nhắc nhở chúng ta rằng trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta đều nghèo. Vị linh mục cầu nguyện trong thánh lể với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện trong thánh lễ với đôi tay dang rộng. Cầu nguyện như thế là biết rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đều nghèo và chúng ta đặt như cầu hàng ngày của chúng ta vào lòng thương xót và tình yêu của Người. Vì thế chúng ta như người ăn mày đưa cái bát trống rỗng cho những khác qua đường. Thực tế chúng ta đã nói: “Lạy Chúa, trước mặt Ngài, con nghèo nàn như một người hành khất”.  [Mục Lục]

6. Những bia đá niềm tin. 

Đến viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba Chuông, Sàigòn, người ta thấy những tấm bảng đá gắn đầy tường. Phần đông người tạ ơn đề tên gọi, không có tên thánh, chứng tỏ người lương được ơn cứu giúp nhiều hơn người Công giáo.
Tại sao vậy?
Chúng ta thật khó trả lời. Có lẽ câu trả lời của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa rồi. Còn họ bây giờ mới được! Có lẽ Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.
Không, đó là câu trả lời của ta, ngầm chứa một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho mình là hơn người ngoại.
Chỉ có Chúa mới trả lời thật chính xác: “Lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao được vậy, ngay lúc đó con bà được khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ được ơn cứu giúp chính vì họ có lòng tin mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu giúp, vì ta kém lòng tin, không xứng đáng nhận được ơn Chúa.
Ơn Chúa dồi dào cho mọi người, như Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến cho họ được sống và được sống dồi dào” Người còn giải thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5, 45).
Ơn Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh sáng mặt trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như mưa sa. Công thần Nguyễn Công Trứ ở thời cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy “Của trời trăng gió kho vô tận” hay: “Của trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi”. Đúng vậy, của trời thì vô tận chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì được ơn dồi dào, người kia thì không được, chứ không phải mang danh có đạo là được ơn. Tiên tri Isaia đã được Chúa tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào gắn bó cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh Người, thì được nên tôi tớ của Người… “Ta sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện của Ta…” (Bài I – Is. 56, 6-7).
Thế là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ nể vì: “Bà có lòng tin mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng.
Lý do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói ra, nhưng sau này Thánh Phaolô đã nêu trong bài đọc II:
“Trước kia anh em không vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương… để cho chính họ cũng được xót thương” (Rm. 15, 30- 31). Họ đây là dân mới có đạo, tức là: dân ngoại đã có lòng tin mạnh mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót, để cho dân Do Thái, dân đã có đạo lâu đời, thấy mình không được ơn thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải lo có lòng tin mạnh mẽ mới mong được ơn thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có đạo noi gương lòng tin mạnh thật của dân ngoại, đánh thức lòng tin của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp như bà dân ngoại xứ Canaan.
Lòng tin mạnh thật của bà thế nào?.
Trước nhất, bà cầu nguyện với Đức Giêsu bằng nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”. Người Do Thái mong đợi con vua David đến giải phóng đế quốc hơn là đến cứu độ. Vì thế khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ đã hoan hô Ngài như một David chiến thắng dũng tướng Goliad (Mt. 21, 9). Còn bà dân ngoại, bà tin Đức Giêsu là Đấng Cứu thế đến “Đem Tin Mừng cho người khốn khó, ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm hồng ân của Chúa” (Lc. 4, 18-19). Lòng tin của bà giống như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên tri Elisa và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.
Như vậy lòng tin của bà vào lòng thương của Thiên Chúa, chứ không phải vào tài thao lược của một tướng quân như David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót của Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên giới Israel mà bà đã đến với Đức Giêsu, dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ đến với chiên lạc nhà Israel.
Thứ đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ ra rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài đến nỗi môn đệ không thể chịu đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã đuổi bà đi nhiều lần mà không xong, đành phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà quyết tâm kêu nài bằng được, đến nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi họ như chó má: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Bà đang sụp lạy trước mặt Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong dân Israel hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình xuống đến thế trước mặt Ngài.
Lòng tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã sai khiến được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà được khỏi quỷ ám.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi gương lòng tin mạnh mẽ, kiên trì, khiêm tốn sâu thẳm của bà dân ngoại xứ Canaan. Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy của Chúa, đúng là “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Xin đánh thức lòng con biết nhiệt tâm tin mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa, biết luôn luôn sấp mình trước tôn nhân hiền từ của Chúa để van nài: Lạy Chúa, xin cứu con như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị khổ sở của quỷ ám.  [Mục Lục]

7. Người ngoại ở cửa bên cạnh. 

Glady bị mù từ lúc mới sinh. Vậy mà cô đã nhập trường Đại Học. Cô có thể tìm đường đi bất cứ chỗ nào trong khu vực nhà trường mà không cần ai giúp đỡ, trừ khi cô đi vội vàng. Thế rồi có một cô gái cần giúp đỡ. Một đêm điện bị cúp. Phòng ngủ tối đen như mực. Các cô sờ soạn tìm lối đi, vấp ngã và va chạm ở những dãy hành lang. Nhưng Glady ở đúng trong môi trường của mình. cô sống trong bóng tối luôn mãi nên cô có thể dẫn các bạn của cô an toàn chắc chắn đi mọi chỗ họ muốn tới. Glady thực sự hình thành chính mình đêm đó.
Tin Mừng hôm nay nói về người đàn bà khác gặp cản trở và đã hình thành chính mình khi gặp Chúa Giêsu. Người đàn bà Canaan gặp cản trở vì phải là người Do thái. Bà ấy thuộc về một dân tộc không những là dân ngoại, nhưng từ lâu còn là địch thù của dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Thế mà bà cứ kêu to nài xin cứu chữa con bà bị quỉ ám.
Bà mẹ ở Canaan này là người dân ngoại. Bà ấy biết ít hay không biết gì về Đấng là Thiên Chúa thật. Tuy nhiên, rõ ràng là bà đã nghe biết những phép lạ của Chúa Giêsu, bà lớn tiếng: “Lạy Ngài là con vua David, xin thương xót tôi”. Tóm lại, bà mẹ này không tin rằng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng bà tin Ngài là một người khác thường và có quyền năng tuyệt vời.
Các môn đệ muốn đuổi bà ấy đi, còn Chúa Giêsu thì thoái thác. Nhưng bà mẹ khôn ngoan và kiên trì này không thất vọng. Bà kêu lớn tiếng: “Lạy Ngài, xin giúp tôi”. Bà ấy biện hộ rằng: bà thỏa mãn với những mảnh bánh vụn chứ không cần phải là được cả năm chiếc bánh. Chúa Giêsu khen ngợi lòng tin của bà và đã chữa lành con gái bà ngay tức khắc.
Cũng có hơn một tỷ người như bà mẹ này trên thế giới. Ngay ở Hoa Kỳ, dù rằng 90% tuyên bố rằng: họ tin vào Thiên Chúa mà chỉ 50% chính thức lưu tâm đến Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta phải lưu tâm đến hàng triệu người không được gặp Chúa Kitô. Nhưng tôi muốn làm tiêu tan về cá nhân, như bà mẹ ở Canaan, họ không thuộc về gia đình Thiên Chúa nhưng như bà, họ rộng mở đối với Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài.
Mỗi người chúng ta biết một vài người hay gia đình, một người láng giềng, một người bạn công nhân, một người quen thuộc, xem ra họ ít hay không lưu tâm tới Thiên Chúa. Họ không phải là người xấu đâu. Thực vậy, họ có thể có đức tính tự nhiên trổi vượt, như tính chân thật, sự ân cần. Nhưng họ là nhưng người xa lạ đối với Chúa Kitô.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho họ, chân thành và đều đặn xin Chúa Kitô lôi kéo họ về cùng Ngài. Các bạn hãy dâng thánh lễ này, hãy nói về họ với Chúa Giêsu khi hiệp lễ, hãy giới thiệu cho họ những sách báo công giáo, hãy mời họ tham dự một vài buổi lễ đặc biệt như lễ Giáng sinh, phục sinh, nhất là các bạn hãy tỏ cho họ thấy rằng: Chúa Kitô có ý nghĩa rất lớn đối với các bạn. Ngài cũng có ý nghĩa rất lớn đối với họ. Ngài đã đổ máu ra vì mọi người. Các bạn đừng đẩy người ngoại đi như các tông đồ làm. Hãy đem họ lại cùng Chúa Kitô.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.  [Mục Lục]

8. “Này bà, bà có lòng mạnh tin”. 

(Suy niệm của Lương Văn Liêm – Don Bosco)
Trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Người Do thái muốn nên công chính, nhưng không thực hiện được bởi họ tìm cách nên công chính nhờ luật, những người ngoại họ nên công chính được là vì họ tin” hoặc “Đức tin là bằng chứng cho những gì anh em không thấy, là bảo chứng cho những gì anh em trông đợi”
Quả thật nhờ lòng tin, người đàn bà xứ Canaan cứu được người con gái bà bị quỷ ám đã nhiều năm phải sống trong tình trạng rất khổ sở, đức tin của bà đã được chính Đức Giêsu khen “Bà có lòng tin mạnh thật”. Nhưng lòng tin mạnh mẽ của bà do đâu và vì đâu? Với những suy nghĩ hạn hẹp mình viết lên đôi dòng cảm nghĩ do đâu và vì đâu, mong được sự đóng góp của tất cả các bạn trẻ.
Đức tin mạnh nhờ lắng nghe và đi tìm.
Xứ Canaan là nơi mà người Do thái xưa kia cho là dân ngoại, không hề biết đến Thiên Chúa, nếu có biết thì cũng chỉ thoảng qua. Người đàn bà xứ Canaan chắc chắn không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu và cũng không thể nào biết Đức Giêsu có một quyền năng siêu phàm cải tử hoàn sinh, là thần y chữa bá bệnh để rồi tự tìm đến với Chúa, có phải chăng bà đã nghe những người Do thái truyền miệng cho nhau về Đức Giêsu, từ lắng nghe, bà cất bước đi tìm để rồi những cố gắng của bà đã được toại nguyện. những diều đó đều khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài đã gieo vào lòng con người từ khai thiên lập địa, khi con người biết lắng nghe và cất bước đi tìm Ngài sẽ tỏ lộ cho mọi người biết Ngài qua mọi sự việc, biến cố.
Đức tin mạnh khởi đi từ tình yêu.
Vào thời cựu ước ông Áp-ra-ham đã yêu mến Đức Chúa hết lòng và khởi đi từ tình yêu đó mà ông đã tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và trở thành Cha già các dân tộc tin vào Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng một lòng yêu mến Thiên Chúa một cách tuyệt đối, cũng chính tình yêu đó, Mẹ Maria đã tin tuyệt đối vào lời mời gọi Mẹ cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa điều này đã được chính Bà Ê-li-sa-bét chúc mừng Mẹ “Em thật có phúc vì đã tin những gì Thiên Chúa thực hiện nơi em”
Nói về người đàn bà xứ Canaan trong Tin Mừng hôm nay, cũng khởi đi từ tình yêu nhưng không phải tình yêu của bà dành cho Thiên Chúa vì bà có biết Đức Giêsu là Chúa đâu, bà yêu người con gái của mình, đó là giọt máu của bà, là niềm vui của bà trong cuộc sống “con đau mẹ cũng đau”, chính cái đồng cảm trong tình yêu mẫu tử, bà đã mạnh dạn đến để xin cùng Đức Giêsu chữa cho con bà và chính tình yêu đó thúc đẩy bà tin Chúa sẽ thực hiện điều bà mong ước là cho con gái được khỏe mạnh. Từ tình yêu dành cho con dẫn đến lòng tin, bà đã được Chúa đáp trả.
Đức tin mạnh khởi đi từ sự khiêm nhường.
Bắt nguồn từ sự lắng nghe, đi tìm, đồng thời kết hợp với tình yêu dành cho người con thúc đẩy, người dàn bà xứ Canaan đã đặt niềm tin vào Đức Giêsu. Ngoài những điều đó bà còn tỏ ra rất khiêm nhường, khiêm nhường lắng nghe những lời miệt thị của người Do thái, khiêm nhường khi chính Đức Giêsu lặng im với lời van xin, khiêm nhường chịu đựng khi các tông đồ nói bà nhiều lời và khiêm nhường chấp nhận mình chỉ là con chó con dưới bàn ăn của chủ. Chính nhờ lòng tin trong sự khiêm nhường đó mà bà đã được thỏa lòng mong ước.
Đức tin mạnh khởi đi từ lòng kiên nhẫn
Thánh Mátthêu đã trình thuật một cách tỉ mỉ về sự kiên nhân của người đàn bà xứ Canaan: Lần đầu bà van xin, Chúa như vờ không nghe thấy. Lần hai chính các môn đệ thưa với Chúa nhưng chúa đáp lại với các môn đệ một cách như vô tình “Thầy chỉ được sai lạc nhà Israel mà thôi”. Lần ba bà lại van xin một cách tha thiết nhưng chính Đức Giêsu đáp lại
“Không thể lấy bánh của con mà ném cho chó” với lòng kiên nhẫn bà đã đáp lại “Nhưng thưa Ngài! Chó con cũng được thừa hưởng những miếng bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống”. Quả thật điều bà xin với Chúa rất chính đáng và đó cũng là những lời giáo huấn của Đức Giêsu, bà không xin cho chính bà, bà xin cho người con đang rất cần tình yêu liên đới của mọi người và cũng từ nơi Chúa. nếu không có sự kiên nhẫn liệu bà ta có được những điều mình mong ước ngay lúc hiện tại và tương lai? Chính do lòng kiên nhẫn bà đã thành công một cách mỹ mãn đem lại cho chính bà niềm vui, đem lại cho con gái bà một sức sống mới và đem lại vinh quang cho Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Cầu nguyện
Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ vì Chúa đã ban nhưng không Đức tin cho chúng con, nhưng vì thiếu lắng nghe, đi tìm, thiếu tình yêu, thiếu sự kiên nhẫn mà đức tin của chúng con không đủ mạnh vì thế mà lời cầu nguyện của chúng con chưa thấu đến tai Chúa, giữa cuộc sống đầy những cám dỗ, sóng gió tứ bề luôn phủ lấp cuộc đời chúng con.
Xin cho chúng con có được sự lắng nghe qua lời của Chúa, qua lời mời gọi, giáo huấn của các bậc bề trên, biết đi tìm Chúa mọi lúc, mọi nơi, luôn có một tình yêu như Chúa đã yêu chúng con và cuối cùng xin cho chúng con có lòng kiên nhẫn, chờ đợi Chúa trong đời sống cầu nguyện. Nhờ đó mà chúng con có được sự bình an, niềm vui của Chúa và giúp chúng con luôn làm sáng danh Chúa trong đời sống thường ngày. Amen.  [Mục Lục]

9. Suy niệm của Lm Đinh Minh Tiên.  

“Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.”
1/ Thái độ kiên trì của người đàn bà Dân Ngoại: Trong cuộc đời hành đạo, Chúa Giêsu rất ít ra khỏi lãnh thổ của Palestine. Trình thuật hôm nay là một ngoại lệ, thánh Matthew tường thuật: “Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về miền Tyre và Sidon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Người đàn bà Canaan này phải đương đầu với ít nhất 3 thử thách lớn như sau:
(1) Nạn kỳ thị chủng tộc: Người Do thái khinh thường những người Dân Ngoại, họ không muốn có bất cứ liên hệ gì với Dân Ngoại cả. Bà phải can đảm lắm mới vượt qua được bức tường kỳ thị chủng tộc này.
(2) Các môn đệ coi Bà như một gánh nặng cần trút bỏ càng sớm càng tốt: Thấy Chúa Giêsu không đáp lại một lời, các môn đệ thưa với Ngài: “Xin Thầy bảo Bà ấy về đi, vì Bà ấy cứ theo sau chúng ta mà xin mãi!” Chúa Giêsu tỏ thái độ cho các môn đệ và cho cả Bà: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi.”
(3) So sánh Bà với chó: Đây có lẽ là một thử thách to lớn nhất về đức tin. Nhiều nhà chú giải có khuynh hướng làm dịu lại bằng cách đề cập tới chó nhà hay chó con; nhưng điều chính yếu là con người phải làm chứng cho đức tin cho dù bị xỉ nhục. Hãy nghe lời Bà đối thoại với Chúa Giêsu:
– Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
– Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.”
– Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
2/ Sự ngạc nhiên của Chúa Giêsu: Lời đối đáp của Bà nói lên một sự thật: mặc dù không được ăn bánh dành cho con cái, nhưng “lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Tuy Chúa Giêsu không trực tiếp rao giảng cho Dân Ngoại, nhưng Ngài đang huấn luyện các môn đệ để làm việc đó. Trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài muốn chọn dân Do thái trước khi bành trướng ơn cứu độ đến tất cả Dân Ngoại.
Vì Bà biểu lộ đức tin cách vững chắc, nhiệt thành, và khôn ngoan; nên Đức Giêsu trả lời Bà: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải trải qua gian khổ trước khi đạt tới vinh quang Nước Trời. Nếu chúng ta cùng chịu gian khổ với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng thống trị vinh quang với Ngài.
– Chúng ta phải nghe lời Đức Kitô để đi qua đường hẹp; vì đường rộng rãi thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Cuộc đời chúng ta có thể ví như cuộc đời con cái Israel 40 năm trong sa mạc.

10. Ra khỏi đó, Đức Giêsu lui về – Noel Quesson. 

Chúng ta đã nhận thấy, vào cuối cuộc đời Người, Đức Giêsu “rút lui”, “lánh mặt” ở vùng đất của dân ngoại. Đã hẳn có nhiều lý do được đưa ra. Dẫu sao, đây là một khúc quanh trong sứ vụ của Người. Từ khi hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu cảm nhận một cách xót xa sự hiểu lầm của dân chúng. Thật ra họ không biết sứ mạng thật của Người.
Từ nay, Người tránh họ, để chuyên tâm đào tạo nhóm nhỏ các môn đệ. Vả lại, như mỗi người trong chúng ta, Người không tránh khỏi sự mệt mỏi thể xác và tâm lý, và Người cảm thấy nhu cầu được yên tĩnh, nghỉ ngơi, cầu nguyện, xa khỏi các đám đông.
Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđon, thì này có một người đàn bà Canaan, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng…
Vậy để được yên tĩnh, Đức Giêsu phải vượt qua một biên giới. Và này Người đi dọc theo bờ biển tuyệt đẹp miền nam xứ Libăng với những vách đá màu vàng chạy xuôi ra Địa Trung Hải, và những vườn cây ăn trái xum xuê.
Vùng đất này, lẽ ra là một ốc đảo bình yên lại thường bị các cuộc chiến huynh đệ tương tàn làm xáo động. Tại đây, Đức Giêsu gặp tôn giáo ‘thờ thần’ của dân ngoại. Tia và Xiđon không còn nằm trong phần đất của Israel. Đó là hai thành phố cảng thương mại lớn, có cư dân hỗn hợp. Nhưng danh tiếng của Đức Giêsu đã vượt qua biên giới. Và đây là một phụ nữ mà Matthêu giới thiệu rõ ràng là “người đàn bà Canaan” để nhắc chúng ta nhớ lại những kẻ thù đầu tiên của Israel đã tiến vào Đất Thánh. Người đàn bà ấy đang kêu lên…
“Lạy Ngài là con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi? Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Theo thói quen thường có, Matthêu cho lời cầu xin của người đàn bà một phong cách hoàn toàn “phụng vụ”: Lạy Ngài, xin rủ lòng thương tôi” dịch chính xác ra tiếng Hy-lạp là: “Kyrie éléisòn mé”. Về chữ “Con vua Đavít” đây rõ ràng là một tước hiệu của Đấng Mêsia.
Vậy quả là một nghịch lý đáng kinh ngạc: Đức Giêsu vừa có một cuộc tranh luận, khi còn ở trên đất Israel, với các kinh sư và Pharisêu từ Giêrusalem đến (Mt 15,1-20); và chính trong vùng đất ngoại bang này, Người nhận được một lời cầu nguyện của đức tin do một người đàn bà. Đức Giêsu sẽ đón nhận lời cầu nguyện tốt đẹp, chân thành và cảm động ấy như thế nào, Người đã từng nói: “Anh em cứ xin thì sẽ được… cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Nhưng Người không đáp lại một lời.
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người không đáp lại lời cầu xin của một người mẹ đáng thương trong cảnh khốn khố? Tuy nhiên đó là một lời cầu xin rất tinh tuyền: bà xin Ngài “cứu con gái bà khỏi bị quỷ ám”. Lạy Chúa tại sao Ngài dường như rất hay im lặng khi chúng con cầu xin sự giải thoát chúng con, và giải thoát những người mà chúng con yêu mến?
Tạm thời trong lúc chờ đợi lịch sử chấm dứt sẽ soi sáng thêm cho chúng ta, có lẽ chúng ta nhớ lại ràng Đức Giêsu thường rất dè dặt trong việc làm phép lạ. Người không muốn bị coi như một người chuyên làm các phép lạ.
Một cách bình thường, Thiên Chúa để cho các quy luật của vũ trụ diễn ra và Người không muốn làm ngược lại bất cứ lúc nào. Những lần chữa bệnh hay làm phép lạ nào đó mà Đức Giêsu đã thực hiện thì không nhiều và trước tiên luôn luôn là những “dấu chỉ”. Nhưng mọi “dấu chỉ” đều mơ hồ và đều phải được giải thích. Nhiều người Pharisêu khinh thường những phép lạ của Đức Giêsu bằng cách cho rằng các phép lạ ấy thuộc quyền lực của ma quỷ (Mt 12,24)… còn với các đám đông, các phép lạ ấy thường chỉ ở trong bình diện của thầy trị bệnh và thầy pháp, điều này khiến Người phải chạy trốn (Mt 14,22) đến nỗi. Đức Giêsu thường cấm người ta nói ra những phép lạ Người làm (Mc 1,34-44; 7,36; 8,26; 9,9).
Các môn đệ lại gần xin với Người rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”.
Rõ ràng đây là một giải pháp dễ dãi. Nhưng như thế chẳng phải là làm ngưng mọi cuộc đối thoại đó sao? Người ta thoát khỏi sự phiền phức. Thế là xong. Rồi người ta được yên tĩnh.
Chúng ta cũng thế, như các Tông đồ, chẳng phải chúng ta cũng thường đi đến một thái độ cuối cùng như thế, và do đó cắt đứt mọi dự định trao đổi đó sao?
Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”.
Người bắt đầu không đáp một lời. Rồi giờ đây một sự từ khước dứt khoát. Lạy Chúa, tại sao vậy? Tại sao Chúa nói không với người đàn bà đang cầu xin Chúa? Tuy nhiên, chúng con biết rằng Chúa có trái tim nhân hậu và hay chạnh lòng thương xót. (Mt 9,36; 14,14; 15,32).
Nhưng rõ ràng, trước sự khắt khe này của Đức Giêsu chúng ta cảm thấy bị tổn thương.
Khi chúng ta biết được sự dịu dàng của Đức Giêsu đối với những người nghèo, chúng ta không thể nghĩ rằng những sự từ chối bề ngoài này không bao hàm một ý nghĩa. Chúng ta hãy thử vượt qua cảm tưởng ban đầu để khám phá ý nghĩa bao hàm trong công thức: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”. Bởi công thức này, Đức Giêsu nói lại với chúng ta tình yêu của Người theo thánh ý Chúa Cha: Người đã được Chúa Cha sai đến vì một nhiệm vụ chính xác và hạn chế. Mọi đời sống con người được đóng khung trong không gian và thời gian. Người ta không thể ở khắp nơi và làm mọi việc.
Đức Giêsu không tự mình quyết định sứ mạng của Người: Người đã được sai đi. Chính Chúa Cha đã giới hạn môi trường hoạt động trong phạm vi mà một con người có thể hoàn thành trong một cuộc đời ngắn ngủi. Chúng ta cũng thế, thay vì bám víu những mơ ước của chúng ta, chúng ta phải chấp nhận thân phận con người có giới hạn, bị gắn chặt vào một nơi nào đó ngõ hầu làm tròn nhiệm vụ riêng của mình và chỉ có chúng ta mới có thể làm được. Chúng ta luôn luôn bị cám dỗ mơ mộng đến một đời sống khác… đời sống của những người khác?
Thật vậy Đức Giêsu, ngoại trừ những cuộc du hành ít ỏi (và rất có ý nghĩa), hiếm khi Người ra khỏi biên giới của xứ Palestine, Người dành phần chính của sứ vụ cho những người đồng hương Do Thái của Người. Những người khác, các môn đệ, sẽ đi khắp thế gian (Mt 28,19), nhưng chỉ sau khi Người đã dược trao toàn quyền trên trời tức là sau cái chết và sự sống lại của Người (Mt 28,18).
Trong lúc này, Đức Giêsu bằng lòng đảm nhận một cách khiêm tốn nhiệm vụ “nhỏ bé” giới hạn đã được trao cho Người, và Người định nghĩa sứ mạng của Người khi tóm tắt lời tiên tri tuyệt vời trong đó Thiên Chúa tự giới thiệu như một Mục Tử Nhân Từ, đích thân đến để quy tụ và chữa lành những con chiên lạc (Ed 34,1-31). Nhưng dù bà mẹ đáng thương có hiểu biết viễn cảnh lịch sử ấy… bà có bằng lòng không?
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”
Ôi quả là một lời khẩn nài tuyệt diệu!
Thêm vào những lời đáp lại trước đó, câu này há chẳng phải là một lời đáp lại lý do tại sao của chúng ta đó sao?
Những thử thách của đức tin, những thử thách của việc cầu nguyện há chẳng phải là một sự thanh luyện đức tin và làm tăng giá trị của sức mạnh cho sự cầu nguyện chân thực. Giữa người đàn bà Canaan và Đức Giêsu có một quan hệ mầu nhiệm gây ngạc nhiên trong giây phút ấy: theo vẻ bề ngoài, đó là mối quan hệ bị phá vỡ, một lời từ chối, một sự bỏ rơi… nhưng bên trong những tấm lòng, chính những kh6 khăn của hoàn cảnh lịch sử làm nẩy mầm một quan hệ sâu xa nhiều hơn giữa hai người. Cũng như thế, trên núi; một đập nước dường như chận dòng nước lại… nhưng gây ra sự dâng lên cho đến lúc tạo ra những điều kỳ diệu.
Còn chúng ta? Chúng ta có biết giải thích những thử thách của chúng ta không? Thay vì để chúng ta bối rối bởi những khó khăn, chúng ta có biết “nâng cấp” mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa không? Trước sự bền đỗ tuyệt diệu này của người đàn bà ngoại giáo, Thầy chúng ta sẽ đáp lại gì?
Người đáp: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Quả là khắc nghiệt! Lạy Chúa, Chúa vừa hóa bánh ra nhiều. Thế mà Chúa từ khước mẩu bánh nhỏ mà người đàn bà nghèo khổ ấy cầu xin. Không thể như thế. Hãy đọc cho đến phần cuối của câu chuyện này…
Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Không để cho mình chán nản, người đàn bà đã nắm lấy trái bóng và với sự hóm hỉnh, trả trái banh lại cho Đức Giêsu. Nhưng Đức Giêsu thực ra đã chẳng muốn cứu giúp người đàn bà ấy hay sao? Ở Phương Đông gọi một người nào đó là con chó là một sự nguyền rủa nặng nề. Nhưng khi dùng chữ chó con Đức Giêsu muốn gợi ra tính chất của thú nuôi trong nhà, chúng hoàn toàn thuộc về những thành viên trong nhà như các con cái.
Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.
Rõ ràng đây là chỗ mà câu chuyện phải đi đến. Một niềm hy vọng to lớn được mở ra xuyên qua Tin Mừng này nhờ đức tin của người đàn bà ngoại giáo ấy. Nếu Đức Giêsu khiêm nhường giới hạn mình nơi những con chiên lạc của nhà Israel thì ở đây, Người cho thấy rằng sứ điệp và ơn cứu độ của Người là dành cho tất cả mọi người. Và chúng ta phải để cho chính Tin Mừng tra vấn chúng ta. Tại sao tôi may mắn có được đức tin? Tại sao tôi là một người có đặc ân, được ăn “bánh của con cái Thiên Chúa”? Có phải tôi không quên, mà quên thì rất thường xảy ra, đám đông nhiều vô kể đang chờ những mảnh vụn từ bàn ăn của Thiên Chúa? Mọi sự tuyển chọn của Thiên Chúa cũng là một sứ mạng hoàn vũ…
Nếu Thiên Chúa chọn “một số người”, chính là để sai họ đi đến với mọi người khác. Israel là dân tộc đầu tiên được chọn, phải là dân tộc đầu tiên tiếp nhận sự trung tín tuyệt vời của Thiên Chúa với những lời Người hứa, không quên mục đích sau cùng: Mọi người phải được cứu chuộc! “Toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế”… cho những người khác (Xh 19,5-6).

11. Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long. 

NGƯỜI PHỤ NỮ CANAAN
1.- Ngữ cảnh
Trong các bản văn trước, ta thấy, sau khi Đức Giêsu bị dân Nadarét loại trừ và Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, Đức Giêsu đã hoàn toàn tập trung vào việc giáo huấn các môn đệ; Người có chữa bệnh, nhưng không còn ngỏ lời với đám đông nữa. Tuy nhiên, các tranh luận với người Pharisêu vẫn còn, ngày càng gay gắt hơn. Đức Giêsu trách họ là đã thêm quá nhiều quy tắc vào Luật Môsê khiến cho Luật này trong thực tế không còn giá trị nữa; cùng lắm chỉ một số chuyên viên rất rành các truyền thống tiền nhân mới giữ được mà thôi. Đức Giêsu phản ứng bằng cách đưa Luật Môsê trở lại với sự đơn giản ban đầu, để toàn dân có thể tuân giữ.
Trong bản văn đi trước sát đoạn văn của chúng ta, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Trong một dịp tranh luận với người Pharisêu về món ăn trong sạch và không trong sạch, dường như Người gợi ý là người ta có thể ăn mọi thức mà chính Luật Môsê cấm! Thế mà điều này đã từng là một trong những lý do gây chia rẽ Do Thái và Dân ngoại. Vậy Đức Giêsu dường như đang quay về với một thái độ mềm dẻo hơn đối với Dân ngoại. Chính trong khung cảnh này mà ta đọc được truyện “Người phụ nữ Canaan”. Tác giả Mt trình bày cho thấy Đức Giêsu đã làm một phép lạ theo lời thỉnh cầu của một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và sự chống đối ngày càng gia tăng của giới lãnh đạo tôn giáo, phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại?
2.- Bố cục
Bản văn được bố trí thành những đoạn đối thoại với Đức Giêsu, như những bậc đi lên tới một cao điểm:
* Mở: Hoàn cảnh (15,21);
1) Đoạn một: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu làm ngơ = từ chối (15,22-23a);
2) Đoạn hai: Đức Giêsu và các môn đệ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,23b-24);
3) Đoạn ba: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu trả lời = từ chối (15,25-26);
4) Đoạn bốn: Đức Giêsu và người phụ nữ: Đức Giêsu khen ngợi = đồng ý (15,27-28).
3.- Vài điểm chú giải
– Đức Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn (21): Ghi chú về nơi chốn này có tính cách thần học. Tác giả Mt cho thấy Đức Giêsu tiếp xúc với Dân ngoại cư ngụ trong vùng này. Cụm từ “Tia và Xiđôn” thường được dùng để gọi vùng Dân ngoại cư ngụ ở về phía biên giới tây bắc Paléttina; nơi này cũng còn được gọi là Phênikia. Dân Phênikia tự gọi mình là “dân Canaan”, và Cựu Ước cũng như Tân Ước đã lấy lại tên gọi đó.
– ở vùng ấy đi ra (22): Giải thích như BJ (1998) rằng “ân huệ cuối cùng được Đức Giêsu ban cho người phụ nữ ngoại giáo này rất có thể sẽ là trong đất Israel”, hay như Bd CGKPV (2004): “Mátthêu hình như muốn ngụ ý rằng, sở dĩ người đàn bà ngoại giáo biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Con vua Đavít là vì bà đã đi ra khỏi miền dân ngoại và chỉ trong đất Israel bà mới được Chúa thi ân” dường như có phần ép nghĩa. Nhưng c. 21 lại cho hiểu rằng chính Đức Giêsu mới đi ra khỏi đất Israel để đi vào vùng Dân ngoại. Trong thực tế, các biên giới địa lý, chính trị và dân tộc giữa Galilê, Xyri và Phêniki cũng chẳng rõ ràng gì. Đàng khác động từ “đi ra” (exelthousa) và giới từ apo cũng rất có thể chỉ liên hệ đến xuất xứ ngoại giáo của bà ấy mà thôi. Vì thế, giáo sư Guillemette đề nghị dịch là “… thì này có một người đàn bà Canaan của vùng ấy…”. Dịch như thế, thì hài hòa với câu trước (c. 21). TOB (1994) dịch là “này đây một người đàn bà Canaan đến từ đó…”.
– Con vua Đavít (23): Vì danh tiếng Đức Giêsu đã lan tới các vùng này, người ta biết các tên của Người. Do đó, không chắc là khi gọi Người như thế, người phụ nữ đã tin Người là Đấng Mêsia. Rất có thể bà gọi Người như thế là chỉ bắt chước người Do Thái. Tuy nhiên, lời kêu của bà cũng vẫn là một lời trách gửi đến cho dân Do Thái vì họ đã không biết nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia.
– Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi (24): “Chỉ được sai đến” là một thái bị động thay tên Thiên Chúa (= Thiên Chúa chỉ sai Thầy đến với…). Đức Giêsu nhắc lại một bài sai rất phù hợp với các sấm ngôn nói rằng sẽ đến một ngày Yhwh đuổi các mục tử giả hiệu ra khỏi Israel và trao nhiệm vụ chăn dắt cho Đấng Mêsia (x. Ed 34,23). Nay Người loan báo rằng giờ đó đã đến. Người có vai trò tái lập Israel thành một đoàn chiên duy nhất, trung thành với Yhwh. Khi dân Israel đã được quy tụ lại rồi, khi họ đã lại đi theo vị mục tử chân thật của Thiên Chúa rồi, chỉ khi ấy các dân trên thế giới mới có thể được quy tụ lại quanh Thiên Chúa chân thật. Nhưng giai đoạn hai này của chương trình cứu độ không trực tiếp liên hệ đến sứ mạng của Người là Mêsia. Về chú giải, “những con chiên lạc nhà Israel” (ta probata… oikou Israêl) cũng có thể là một thuộc-cách giải nghĩa (epexegetical genitive), và có nghĩa là “những con chiên lạc là nhà Israel”.
– Chó con (26): Từ Hy Lạp kynarion (“chó con”) là dạng giảm nhẹ của từ kyôn (“chó”). Người Do Thái thường gọi Dân ngoại là “chó” (Híp-ri keleb). Phải chăng Đức Giêsu dùng từ ở dạng giảm nhẹ để giảm bớt tính khinh bỉ trong từ “chó”? Không chắc, bởi vì: 1) Trong Hy Lạp koinê (bình dân), không chắc là dạng giảm nhẹ ấy có giá trị là một sự giảm thiểu; 2) Ngôn ngữ A-ram không có dạng từ tương ứng với “chó con”. Do đó, hẳn là Đức Giêsu đã dùng từ A-ram truyền thống là kalơbâ’ (chó) để gọi Dân ngoại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Phải chăng Đức Giêsu đã quyết định bỏ mạc Israel mà quay sang hẳn với người ngoại? Bản văn Mt đọc hôm nay trả lời với chúng ta rằng đấy không phải là ý định của Đức Giêsu. Quả thế, Đức Giêsu đã chỉ chấp nhận làm phép lạ sau khi đã từ chối lâu dài, y như thể Người đã chấp nhận cực chẳng đã. Chúng ta tìm hiểu bản văn.
Người phụ nữ đã thưa với Đức Giêsu: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin rủ lòng thương tôi” (c. 22). Khi nói” Xin rủ lòng thương tôi”, bà đã dùng ngôn ngữ Kinh Thánh lấy từ các Thánh vịnh (Tv 6,3; 9,14; 26,7; 30,10; 40,56; 85,.3; 122,3; v.v.). Đây là ngôn ngữ quen thuộc với Hội Thánh. “Ngài/Chúa, kyrie”, là danh hiệu các môn đệ và những người cầu xin thường dùng để thưa với Đức Giêsu. Khi gọi Người là “Con vua Đavít”, cho dù đức tin của bà chưa rõ ràng, bà cho thấy bà đang quay về với Đấng Mêsia của Israel, Đấng đã chữa lành nhiều người đau ốm trong dân. Như vậy, bà biết rằng Đức Giêsu được gửi đến với con cái Israel; độc giả thấy được đức tin của bà ở chỗ là, dù biết như thế, bà vẫn kêu cầu Người.
Các môn đệ tìm cách đuổi bà ấy đi. Các ông đóng một vài trò tiêu cực, giống như ở 14,15; 19,13. Các ông giải thích xấu tiếng kêu la của người phụ nữ; các ông không nghe ra được nỗi cùng quẫn của bà, mà chỉ thấy là bà đang đi theo nhóm và làm phiền bằng tiếng kêu la. Lời đáp của Đức Giêsu nằm trong ngữ cảnh này: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (c. 24); Người tuyên bố như vậy trước mặt các môn đệ và trong hoàn cảnh dân Do Thái khép lòng lại trong thái độ cứng tin. Điều này, chính Người đã một lần nói lên khi sai phái Nhóm Mười Hai (x. 10,6). Như thế Người hỗ trợ cho việc dứt khoát từ chối người phụ nữ và còn cho thấy điều này thuộc về lịch sử cứu độ. Nếu vậy, sau này khi Đức Giêsu truyền dạy các môn đệ đi đến với muôn dân (28,18-20), điều này có nghĩa là có một sự thay đổi căn bản trong chương trình của Thiên Chúa. “Các con chiên lạc của nhà Israel” không phải chỉ là “các con chiên đen” tại Israel, nhưng có thể hiểu là toàn thể dân Thiên Chúa mà Đức Giêsu được gửi tới. Câu trả lời của Đức Giêsu cho thấy Người không dành cho người phụ nữ một chút quan tâm nào nữa. Thế nhưng bà vẫn quay về Đức Giêsu và bái lạy Người (x. 8,2; 9,18). Một lần nữa, bà gọi Người là “Ngài/Chúa, kyrie”, và một lần nữa, bày nài xin Người với những lời lấy từ các Thánh vịnh (Tv 43,27; 69,6; 78,9; 108,28). Một lần nữa, Đức Giêsu từ chối bằng lời lẽ rất mạnh: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (c. 26). Người muốn nói rằng Tin Mừng chỉ được nhắm phân phát cho “con cái”, tức là dân tộc Do Thái, những người thừa kế lời Thiên Chúa hứa. Không chắc người phụ nữ hiểu được ý này, khi bà trả lời: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (c. 27). Có lẽ phải nói rằng bà tự gọi mình là “chó” không phải là một sự khiêm nhường, nhưng là để bẻ lại Đức Giêsu: Trong gia đình, nhưng con chó cũng được hưởng những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống. Dù bị từ chối nhiều lần, người phụ nữ vẫn không nản chí, bà vẫn tiếp tục cầu xin. Thế là Đức Giêsu chấp nhận lời bà thỉnh cầu.
Đức Giêsu mô tả sự tin tưởng vô điều kiện của người phụ nữ, được diễn tả bằng những lời xin được lặp lại liên tục, là “lòng/đức tin” (x. 8,10.13; 9,22.29). Đức tin có nghĩa là người ta không có bất cứ điều gì ngoại trừ sự tin tưởng đặt nơi Đức Giêsu. Câu truyện kết thúc giống như truyện viên sĩ quan ở Caphácnaum. Lời thỉnh cầu không ngơi nghỉ của bà đã được chấp nhận. Con gái bà được khỏi (c. 28).
Việc Đức Giêsu chấp nhận lời thỉnh cầu của bà trở thành một lời gián tiếp kết án sự công chính và sự an toàn mà dân Do Thái nghĩ là họ đang có, dựa trên truyền thống và tư cách thừa kế lời Thiên Chúa hứa cho tổ phụ Abraham: họ không còn biết đón nhận ơn Thiên Chúa tuyển chọn trong đức tin nữa. Còn bà Canaan, bà đã đạt được điều bà muốn có, là bởi vì bà ở trước nhan Thiên Chúa trong tư thế chờ đợi khiêm tốn như những người được nói đến trong các Mối Phúc. Bà đã tỏ ra như là một người hành khất dưới chân Đức Giêsu, cứ không ngừng cầu xin, cứ hy vọng ngược lại mọi hy vọng, giống như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn Lc (Lc 18,1-8), như những người biết dùng sức mạnh mà vào Nước Trời (Mt 11,12). Lời bà cầu xin chính là hình thái cụ thể và sống động của niềm tin bà. Đức Giêsu thấy “lòng tin của bà mạnh thật” (c. 28), bởi vì lòng tin của bà là trọn vẹn, nó cho thấy một con tim không chia sẻ đang chờ đợi được no lòng thỏa dạ từ sự hào phóng của Thiên Chúa, từ ý muốn của Chủ. Đồng thời, chính đức tin này càng cho thấy là sự mù quáng và định kiến của dân Do Thái đối với Đức Giêsu thật thê thảm, vì họ đã từ khước nhìn nhận Người là Đấng Mêsia, trong khi “con chó” ngoại giáo này đã biết nhận ra Người là “Con vua Đavít” (c. 22). Sự tin tưởng vô điều kiện đặt nơi Đức Chúa và Con vua Đavít cũng hàm chứa kinh nghiệm cụ thể về sự chữa lành.
+ Kết luận
Truyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Ta vẫn có thể đọc truyện bà Canaan để ghi nhận sứ điệp cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Nếu bà ấy cuối cùng đã được Đức Giêsu lắng nghe, tác giả vẫn không có ý nói rằng bất cứ ai có đức tin y như đức tin của bà thì luôn luôn đạt được thành công như thế. Các mầu nhiệm của Thiên Chúa không phải bao giờ cũng trở nên minh bạch khi con người thỉnh cầu Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Bản văn hôm nay cho hiểu rằng tư cách của chúng ta là người đã được rửa tội không phải là một quyền để chúng ta có thể phê phán hoặc khinh bỉ người khác. Tư cách này thật ra là một ơn Thiên Chúa ban cho chúng ta. Riêng Ngài, Thiên Chúa không hề bị ràng buộc vào bất cứ cấu trúc tôn giáo nào hay bất cứ tư cách nào của con người cả. Ngài vẫn đang thấy có “lòng tin mạnh thật” nơi những người mà chúng ta coi thường. Ngài vẫn có thể làm dấy lên một dân mới cho Ngài.
2. Bà Canaan này đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
3. Không biết là bà có linh cảm được rằng Đức Giêsu thế nào cũng chấp nhận lời bà thỉnh cầu chăng. Không biết là bà có đã nghe biết nhiều về Đức Giêsu chưa. Không biết là bà có hiểu biết phần nào nhân cách của Người chăng. Nhưng cách bà xin cho thấy là bà biết là bà có thể cậy dựa vào Đức Giêsu. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này. Khi biết rằng bà xin không phải cho bà, khi biết rằng con người mà bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chẳng có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
4. Dường như tôi dễ buông xuôi trước một khó khăn dù bé nhỏ. Dường như tôi không có xác tín mãnh liệt về ơn gọi của tôi để sống cho đến mức độ cuối cùng. Dường như tôi không có cảm thức rằng số phận của người khác liên hệ đến cách tôi sống ơn gọi của tôi. Quả thật, tôi lùi bước tức khắc khi vừa bị từ chối. Có mấy khi tôi kiên trì cầu xin Chúa cho một người đã cậy nhờ tôi cầu nguyện cho đâu. Dường như tôi chẳng dám lên tiếng cho những người cô thế cô thân, vì tôi sợ liên lụy đến tôi, tôi sợ mất quyền lợi, mất chỗ đứng, mất sự tín nhiệm… Có khi chỉ nguyên nghĩ rằng tôi chẳng đạt được kết quả gì đâu, là tôi đã cảm thấy tê liệt, chân tôi không sao nhúc nhích được nữa rồi. Người phụ nữ Canaan này, một người ngoại, cho tôi thấy rằng kiên trì là một nhân đức, bởi vì nó lay chuyển được lòng của Thiên Chúa! Bà ý thức rằng bày tỏ nguyện vọng tốt lành, nhất là để trợ giúp kẻ khác, thì không phải là chuyện xấu để phải cả nể, để phải giữ kẽ, để phải nổi tự ái lên.
5. Hội Thánh sống giữa Dân ngoại có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.

12. Đức tin cần được tôi luyện qua thử thách 

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Lời tiên báo về tiên tri Giêrêmia thời Cựu Ước: “Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân”(Gr 1,5) và niềm hy vọng mà muôn dân đặt nơi danh Người (x. Mt 12, 21) hôm nay đã được ứng nghiệm qua sự hiện diện của Đức Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh đến ý định cứu độ phổ quát của Đức Giêsu, tức là ơn cứu độ của Ngài không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà là cho cả dân ngoại qua hình ảnh người đàn bà góa thành Canaan. Mặt khác, qua sự xuất hiện của bà và niềm tin mà bà đặt nơi Đức Giêsu, Ngài đã khen ngợi đức tin của bà, đồng thời mời gọi chúng ta noi gương bà, vượt qua mọi thử thách để tiến bước trên hành trình theo Chúa.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu về ơn cứu độ phổ quát và đức tin qua hình ảnh người phụ nữ thành Canaan.
1. Ơn cứu độ phổ quát của Đức Giêsu và niềm niềm tin nơi người đàn bà dân ngoại
Khi nói về sứ mạng truyền giáo, chúng ta sẽ khởi đi từ lệnh truyền của Đức Giêsu trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 18-19); và khi đề cập đến tính phổ quát của ơn cứu độ, chúng ta thấy Đức Giêsu nói: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Rồi trong hành trình loan báo Tin Mừng của chính Đức Giêsu, Ngài đã nhiều lần đích thân đến với dân ngoại như: câu chuyện người đàn bà Samaria bên bờ giếng Giacóp; hay như hôm nay, Ngài tiếp xúc với người đàn bà thành Canaan.
Như vậy, chúng ta hiểu: Thiên Chúa không muốn dành riêng ơn cứu độ cho một dân tộc, một thế hệ, hay một thành phần nào, mà là dành cho hết mọi người. Vì thế, ơn cứu độ được lan tỏa khắp nơi không phân biệt màu da, ngôn ngữ, hay chức vị…
Trình thuật Tin Mừng hôm nay cho thấy, Đức Giêsu rời khỏi nơi mà các Pharisêu và mấy kinh sư chất vấn Ngài về việc các môn đệ không giữ truyền thống của tiền nhân khi ăn uống. Nhưng họ đã bị Đức Giêsu khiểm trách vì sự giả hình của họ. Sau đó, Ngài và các môn đệ đi sang thành Tia và Xiđôn.
Tưởng cũng nên nhắc lại, theo truyền thống thì đây là vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc – đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia.
Vì thế, dân ở vùng này bị coi là dân ngoại. Vào thời điểm đó, dân ngoại bị coi là một lớp người bị Thiên Chúa nguyền rủa và không được cứu độ. Họ bị khinh miệt đến nỗi, trong lối suy nghĩ của người Dothái, họ là “lũ chó”. Đây là ngôn ngữ mang tính miệt thị.
Tại sao vậy? Thưa, vì từ xa xưa, người ta vẫn hiểu dân Dothái là dân riêng, được Thiên Chúa ưu tuyển. Các vùng phụ cận khác không thuộc về lãnh thổ Dothái thì đều bị khinh miệt, coi thường và nguyền rủa.
Khi Đức Giêsu dùng từ “chó con” để ám chỉ về người đàn bà, Ngài không có ý miệt thị, nhưng mục đích của Ngài là xem lòng tin của bà như thế nào! Ngài đã thử thách bà tận căn khi nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15, 26). Đây là thử thách mang tính quyết định về lòng khiêm nhường.
Nhưng người đàn bà đã không xấu hổ và tủi nhục, ngược lại, bà đã can đảm, mạnh dạn để tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Vì thế, bà đã thưa: “Lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15, 27)
Dù là bị khước từ, miệt thị , nhưng với tình yêu và lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, bà đã hoàn toàn khiêm tốn chấp nhận tất cả, kể cả sự ưu tiên cho dân Do Thái và sự miệt thị của dân Do Thái. Chính vì vậy, bà đã được Đức Giêsu khen ngợi và ra tay cứu giúp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật” và hẳn nhiên là Chúa phán “Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (x. Mt 15, 28).
Qua biến cố này, chúng ta thấy: trật tự cứu rỗi được tôn trọng, nhưng khi Đức Giêsu đến, Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới từ những kẻ có lòng tin như vậy. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
2. Khám phá sứ điệp Lời Chúa
Sứ Điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học về sự kiên trì khi gặp thử thách, đồng thời trung thành trong đức tin thì sẽ được Thiên Chúa ân thưởng.
Thật vậy, trong cuộc sống, rất nhiều khi ta bị thất bại. Sự thất bại này có thể đến từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta, khiến công việc trở nên thất bại. Nhưng nhiều khi lại đến từ chính Thiên Chúa. Tức là Thiên Chúa để cho chúng ta thất bại và rơi vào tình trạng cùng khốn. Đôi khi những thử thách đó lên đến mức khủng khiếp. Câu chuyện của ông Gióp, tiên tri Hôsê hay của người đàn bà Canaan là một thí dụ.
Tuy nhiên, như người đàn bà trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, dù bị thử thách, bà vẫn nhận ra tình thương của Thiên Chúa với mình, mặc dù bà không xứng.
Thật vậy, Thiên Chúa như người cha, Ngài không bao giờ nỡ để con cái của mình phải đi vào ngõ cụt. Nhưng Ngài muốn chúng ta được sống và sống dồi dào. Tuy nhiên, để được hưởng trọn niềm sung mãn, hạnh phúc… thì đôi khi cần phải có thử thách từ phía người ban ơn và sự cảm nghiệm của người lãnh nhận. Có thế thì món quà của người trao ban mới trở nên cao trọng và người nhận mới trân quý.
Trong đời sống đức tin cũng vậy. Nếu không có thử thách, thì đức tin ấy vẫn chỉ là đức tin trong “giấy khai sinh”, nơi “sổ rửa tội” mà thôi. Như thế, thử hỏi, chúng ta đang sống trong một xã hội với những tiến bộ vượt trội và rất nhiều cạm bẫy, thì liệu đức tin non nớt kia có đủ vững để đối diện với những thực tại của cuộc sống không? Thưa, hẳn là không.
Vì thế, trong đời sống siêu nhiên, đôi khi Chúa phải thử thách để đức tin của chúng ta được lớn lên ngay trong thử thách, hầu chúng ta mới can đảm, trung thành với niềm tin của mình ngay trong một thế giới đang tìm mọi cách lôi kéo chúng ta xa dần Thiên Chúa và niềm hy vọng của chúng ta đặt để nơi Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sống sứ điệp Lời Chúa là chúng ta sống định luật: vĩnh biệt, chia ly:
Vĩnh biệt – chia ly sự nghi ngờ, kiêu ngạo, tự phụ để kết duyên với lòng mến, cậy trông, trung thành, kiên trì, tín thác nơi Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly sự hiếu tri thuần lý, tức là chỉ dùng lý trí để suy luận những chân lý đức tin, thay cho lòng khiêm tốn trong tâm tình của người biết lắng nghe và mau mắn thi hành.
Vĩnh biệt – chia ly sự tự tin quá dáng vào bản thân, đến nỗi ân sủng của Thiên Chúa đến với ta không thể thẩm thấu vào trong tâm hồn được vì chúng ta đã dùng cái “tôi” ích kỷ đậy lại.
Vĩnh biệt – chia ly lối sống đạo hình thức bên ngoài, vụ luật, cứng ngắc để thay vào đó là sống đạo của niềm tin, yêu thương và cảm thông.
Vĩnh biệt – chia ly cung cách coi thường, miệt thị những người kém may mắn, không cùng niềm tin, để thay vào đó là lời cám ơn Thiên Chúa, vì Ngài yêu thương chúng ta vô bờ, đến lượt mình cũng phải sống sự yêu thương như Chúa.
Vĩnh biệt – chia ly thái độ “đèn nhà ai nấy rạng”, chỉ biết sống cho riêng mình, để thay vào đó là tinh thần liên đới và khao khát cho mọi người cũng được hạnh phúc như mình.
Cuối cùng, vĩnh biệt – chia ly sự hờ hững, nông nổi, thiếu sự kiên trì, và thất trung, thành một con người kiên tâm, vượt lên trên những thử thách để đạt được mục đích cuối cùng là Nước Trời.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn đặt niềm tin tưởng vào Chúa, vì: trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Đồng thời, khi đã được Thiên Chúa yêu thương, hẳn chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương mình.
Mong sao, trong mọi cảnh huống của cuộc đời, chúng ta luôn hướng về Chúa như người mẹ hiền ấp ủ con thơ. Nếu thử thách có đến thì cũng như là người mẹ hiền đang tập cho con bước đi để vững bước tiến vào đời trong tương lai.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con có thể kiên trung trong mọi thử thách. Amen.

13. Vững vàng tin tưởng 

(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Có một giai thoại kể rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò chơi mạo hiểm. Hôm đó anh mang một chiếc dù lớn đến bên bờ một vực thẳm tính để chơi cho thỏa chí mạo hiểm của anh, không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân té xuống vực thẳm, may quá anh bám được một nhánh cây chìa ra trên bờ vực. Khi đã nắm được nhánh cây kia, anh thở phào một cái, tuy dù nguy hiểm vẫn chưa qua, nhưng anh nghĩ như thế này là có hy vọng sẽ được cứu.
Anh ngước mắt nhìn lên bờ vực, không thấy có bóng dáng một ai, cúi xuống, anh thấy choáng váng mặt mày vì vực thẳm sâu, anh cũng biết rõ là không thể bám vúi như thế này mãi được, vì thế, anh nghĩ chỉ còn cách cầu nguyện. Thế là anh cầu xin: “Lạy Chúa, xin cứu con, con xin hứa con sẽ làm bất cứ điều gì Chúa muốn”. Bỗng có tiếng Chúa từ trời vọng xuống: “Được, Ta sẽ cứu con, nhưng trước khi cứu con, Ta muốn biết con có thực sự tin là Ta có thể cứu con được không”. Anh thưa ngay: “Lạy Chúa, con tin chứ, con tin chắc là Chúa cứu được con, Chúa cứu con ngay đi, con mỏi tay lắm rồi”. Chúa nói: “Được, nếu con tin thì con cứ buông tay con đang bám vào nhánh cây đó đi”. Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào nhánh cây chứ không chịu buông tay ra, rồi chàng ngẩng nhìn lên bờ cố la lớn: “Có ai ở trên bờ không, cứu tôi với”.
Giả sử chúng ta là chàng thanh niên trên đây, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống của chúng ta không? Điều Thiên Chúa muốn là chúng ta phải tuyệt đối tin tưởng vào Chúa. Lòng tin tưởng của chúng ta phải như em bé trong câu chuyện sau:
Cách đây ít lâu, báo chí tường thuật lại một sự kiện: Vào một đêm kia, một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà, trong khi những ngọn lửa phừng phừng bốc lên, người ta trông thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con hấp tấp chạy ra tức khắc, họ buồn rầu nhìn ngôi nhà mình bốc cháy. Bất chợt họ nhận ra thiếu đứa con nhỏ nhất, một đứa bé trai năm tuổi. Đứa bé lúc đó chạy ra, thấy khói lửa nghi ngút, nó hoảng sợ lùi lại, rồi leo lên tầng trên. Mọi người nhìn nhau: không thể nào liều lĩnh đi vào, trong nhà bây giờ chỉ còn là một lò lửa hừng hực. Thì kìa, một khung cửa sổ trên kia mở toang, đứa bé giơ tay kêu cứu.
Cha nó thấy nó, ông quát to: “Nhảy xuống đi”. Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”. Cha nó lại quát: “Ba thấy con, nhảy đi”, đứa bé đã nhảy, và đã bình an vô sự rơi vào vòng tay cha nó, vì ông kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé đứng trong ngôi nhà bốc cháy ấy lại không phải là hình ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa sao? Trong cơn khốn quẫn, chúng ta nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta, hãy nhảy vào vòng tay của Ta”, và rất nhiều phen chúng ta đã trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả”, và đã tưởng rằng Chúa bỏ rơi mình. Có bao giờ chúng ta nghĩ như thế không hay nghĩ tương tự như thế không? Dường như Chúa đi đâu vắng trong lúc chúng ta thật cần đến Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, nhắn nhủ chúng ta về giá trị của đức tin. Đức tin có sức mạnh, có khả năng đảo ngược tình cảnh trong đời người, giúp chúng ta vượt được gian khó, và làm được những việc quá sức tự nhiên của mình. Người phụ nữ ngoại giáo trong Tin Mừng đã có một đức tin như thế, nên bà đã nhận được điều bà muốn xin. Tuy con gái bà bị quỷ ám khốn cực và các thầy thuốc đã vô phương chữa trị, tức là tình cảnh của bà đã tuyệt vọng về mặt tự nhiên, nhưng bà tin Chúa có thể cứu chữa được con bà, nên bà đến kêu xin Chúa, và dù Chúa thử thách bà, bà vẫn kiên nhẫn và hết lòng tin tưởng. Chính vì lòng tin vững mạnh đó, Chúa đã làm phép lạ cứu chữa con gái bà.
Có lẽ sau đức tin của viên đại đội trưởng ở Ca-phác-na-um thì phải kể đến đức tin của người phụ nữ Ca-na-an này, là người ngoại giáo nhưng hết lòng tin tưởng vào quyền phép của Chúa Giêsu. Đây là tấm gương và bài học cho chúng ta khi cầu nguyện: Chúng ta hãy kiên nhẫn, cầu xin chưa được, cầu xin tiếp, cầu xin mãi, đừng bao giờ nản lòng, vì ai kiên nhẫn và tin tưởng cầu xin, sẽ được như ý.  [Mục Lục]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *