1. Nữ tu can đảm vừa đuổi trộm vừa trách mắng
Nữ tu Mary Johnice Rzadkiewicz là giám đốc của Trung Tâm Đáp Ứng Tình Yêu ở Buffalo, New York. Được thành lập vào năm 1985, trung tâm tọa lạc tại một trường học cũ của giáo xứ, cung cấp các bữa ăn nóng hổi và hướng dẫn cho những người có nhu cầu. “Ở đây, phòng ăn của chúng tôi cung cấp thức ăn cho người đói; nhà nguyện cung cấp hơi ấm tinh thần; và tủ đựng thức ăn của chúng tôi kéo dài ngân sách eo hẹp của gia đình những người khó khăn,” trang web của trung tâm cho biết.
Tờ New York Post tường thuật rằng vào sáng sớm Thứ Bảy, ngày 14 tháng Giêng, nữ tu Mary Johnice vừa cầu nguyện xong buổi sáng thì nghe thấy những tiếng động khác thường. Sơ đi ra ngoài để nhìn quanh nhà xem những gì đang xảy ra. Sơ vừa mở cửa thì một bóng người chạy vụt đi, và sơ phát hiện ra một cái thang dựa vào tường. Cái thang ở đó chắc chắn là có chuyện. Sơ nhìn lên và nhận ra rằng có một người khác trên mái nhà! Theo Buffalo News, họ đang cố gắng ăn cắp máng xối và ống dẫn nước bằng đồng. Trớ trêu thay, những nỗ lực của họ đều vô ích, bởi vì ai đó đã đánh cắp những cái bằng đồng từ nhiều năm trước; những cái hiện tại là bằng nhôm.
Sơ Mary Johnice nói với phóng viên Tucker Carlson của Fox News những gì xảy ra tiếp theo: “Tôi đã nói, ‘Anh phải đi xuống, nhưng không phải bằng cái thang này!;” Sơ ấy đã ném cái thang xuống đất, và tên trộm buộc phải nhảy xuống. Sau đó, không sợ hãi, sơ trách mắng tên trộm. “Tôi nói, ‘Đây là tài sản của Chúa. Đây là sứ mệnh của Chúa. Sao anh dám làm thế!’ Tôi chỉ tay và tôi nói với anh ta, ‘Ra ngoài’ và anh ta bỏ chạy.” Tên trộm, không nghi ngờ gì nữa, đã bỏ trốn mà không dùng bạo lực và tay trắng. Nữ tu nói với Buffalo News rằng sơ đang nắm trong tay cái thang. Có lẽ sự kiện này có thể được coi là một điều may mắn bởi vì “trung tâm không bao giờ có một cái thang đủ lớn để lên tới mái nhà.”
Tờ New York Post tường thuật rằng Sơ Mary Johnice đã có cơ hội chia sẻ với Fox News những suy nghĩ của sơ về sức mạnh của sứ mệnh và tầm quan trọng của việc làm mọi thứ cho Chúa.
“Đó là một kinh nghiệm nơi Chúa hiện diện. Anh muốn sứ mệnh đó đến được với những người nghèo, để chia sẻ thực sự rằng họ được yêu thương, được đồng cảm.”
Niềm tin chắc rằng mình là một công cụ nhỏ bé phục vụ Thiên Chúa chắc chắn đã giúp sơ ấy có can đảm để bảo vệ trung tâm khỏi những kẻ xâm lược mà không sợ hãi hay suy nghĩ lấy một giây về mối nguy hiểm mà sơ ấy có thể gặp phải. “Tôi muốn ở đó và tòa nhà mà chúng tôi đang ở thật đặc biệt. Đó là một phòng ăn. Đó là một nơi an toàn, mọi người đến với nhau, thưởng thức bữa ăn và trải nghiệm rất nhiều niềm vui. Tại sao ai đó muốn làm tổn thương nhiệm vụ đó? sơ ấy nói.
Tuy nhiên, sơ ấy không tức giận. Sơ nói với Buffalo News, “Họ có thể đến đây để lấy thức ăn hoặc quần áo. Lẽ ra họ có thể đến để nhận được một lời tử tế, một lời hướng dẫn nào đó, nhưng họ đã chọn một con đường khác. Đó không phải là đường lối của Chúa, đó là điều ác. Tôi chỉ ước mình có thể gặp lại họ. Ngày nào tôi cũng cầu nguyện cho hai kẻ gian này.”
Source:Aleteia
2. Sứ điệp Mùa Chay 2023 của Đức Thánh Cha Phanxicô
Trong Sứ điệp Mùa Chay 2023, được công bố hôm thứ Sáu 17 tháng Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa hành trình Mùa Chay và hành trình đồng nghị, cả hai đều bắt nguồn từ truyền thống và mở ra cho những điều mới mẻ.
Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ
Anh chị em thân mến!
Các Tin Mừng Mátthêu, Marcô và Luca đều kể lại đoạn Chúa Giêsu Biến Hình. Ở đó, chúng ta thấy phản ứng của Chúa đối với việc các môn đệ không hiểu Người. Trước đó không lâu, đã xảy ra một cuộc xung đột thực sự giữa Thầy và Simon Phêrô, người sau khi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, đã bác bỏ lời tiên báo về cuộc khổ nạn và thập giá của Người. Chúa Giêsu đã cương quyết quở trách hắn: “Satan, hãy lui ra sau Thầy! Lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người!” (Mt 16:23). Sau đó, “sáu ngày sau, Chúa Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao” (Mt 17:1).
Tin Mừng Chúa Hiển Dung được công bố hàng năm vào Chúa Nhật II Mùa Chay. Trong mùa phụng vụ này, Chúa cùng với chúng ta đến một nơi cách biệt. Trong khi những cam kết thông thường của chúng ta buộc chúng ta phải ở lại những nơi quen thuộc và những thói quen thường lặp đi lặp lại và đôi khi nhàm chán của chúng ta, thì trong Mùa Chay, chúng ta được mời gọi lên “một ngọn núi cao” cùng với Chúa Giêsu và sống một kinh nghiệm đặc biệt về kỷ luật thiêng liêng – đó là sự khổ hạnh – với tư cách là dân thánh của Thiên Chúa.
Sám hối trong Mùa Chay là một cam kết, được hỗ trợ bởi ân sủng, để vượt qua sự hèn tin và sự phản đối của chúng ta trong việc theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Đây chính là điều mà Thánh Phêrô và các môn đồ khác cần phải làm. Để đào sâu kiến thức của chúng ta về Thầy, để hiểu đầy đủ và đón nhận mầu nhiệm cứu độ của Người, được thực hiện trong sự tự hiến hoàn toàn do tình yêu thúc đẩy, chúng ta phải để cho Người tách chúng ta sang một bên khỏi sự tầm thường và phù phiếm. Chúng ta cần bắt đầu cuộc hành trình, một con đường khó khăn, giống như một chuyến leo núi, đòi hỏi nỗ lực, hy sinh và tập trung. Những điều kiện cần thiết này cũng rất quan trọng đối với hành trình đồng nghị mà chúng ta, với tư cách là một Giáo hội, cam kết thực hiện. Chúng ta có thể hưởng lợi rất nhiều từ việc suy tư về mối tương quan giữa việc sám hối trong Mùa Chay và kinh nghiệm đồng nghị.
Trong cuộc “ẩn cư” trên núi Tabor, Chúa Giêsu đem theo ba môn đệ, những người được chọn làm chứng nhân cho một biến cố độc nhất vô nhị. Ngài muốn kinh nghiệm ân sủng đó được chia sẻ, không đơn độc, cũng như toàn bộ đời sống đức tin của chúng ta là một kinh nghiệm được chia sẻ. Vì chính trong sự hiệp nhất mà chúng ta theo Chúa Giêsu. Cùng với nhau, với tư cách là một Giáo hội lữ hành trong thời gian, chúng ta trải nghiệm năm phụng vụ và Mùa Chay trong đó, đồng hành với những người mà Chúa đã đặt giữa chúng ta như những người bạn đồng hành. Giống như việc Chúa Giêsu và các môn đệ lên Núi Tabor, chúng ta có thể nói rằng hành trình Mùa Chay của chúng ta là “đồng nghị”, vì chúng ta cùng nhau đi trên cùng một con đường, với tư cách là các môn đệ của một vị Thầy duy nhất. Vì chúng ta biết rằng chính Chúa Giêsu là Đường, và do đó, trong hành trình phụng vụ cũng như trong hành trình của Thượng hội đồng, Giáo hội không làm gì khác hơn là tiến sâu hơn và trọn vẹn hơn vào mầu nhiệm Chúa Kitô Cứu thế.
Và vì vậy chúng ta đi đến đỉnh cao của nó. Tin Mừng thuật lại rằng Chúa Giêsu “đã biến hình trước mặt họ; dung nhan Người chói lọi như mặt trời và áo Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17:2). Đây là “đỉnh cao”, mục tiêu của cuộc hành trình. Vào cuối cuộc thăng thiên của họ, khi họ đứng trên đỉnh núi cao với Chúa Giêsu, ba môn đệ được ơn nhìn thấy Người trong vinh quang của Người, chói lọi trong ánh sáng siêu nhiên. Ánh sáng đó không đến từ bên ngoài, nhưng tỏa ra từ chính Chúa. Vẻ đẹp thiêng liêng của khải tượng này vĩ đại hơn tất cả những nỗ lực mà các môn đệ đã thực hiện khi leo lên núi Tabor. Trong bất kỳ chuyến leo núi vất vả nào, chúng ta phải giữ cho đôi mắt của mình dán chặt vào con đường; tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh mở ra ở phần cuối khiến chúng ta kinh ngạc và tưởng thưởng cho chúng ta bởi sự hùng vĩ của nó. Cũng vậy, tiến trình đồng nghị thường có vẻ khó khăn, và đôi khi chúng ta có thể nản lòng. Tuy nhiên, điều chờ đợi chúng ta ở cuối con đường chắc chắn là một điều gì đó kỳ diệu và đáng kinh ngạc, điều này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý muốn của Thiên Chúa và sứ mệnh của chúng ta trong việc phục vụ vương quốc của Ngài.
Kinh nghiệm của các môn đệ trên núi Tabor càng thêm phong phú khi, bên cạnh Chúa Giêsu biến hình, Môsê và Êlia hiện ra, tượng trưng cho Lề luật và các Ngôn sứ (x. Mt 17:3). Sự mới mẻ của Đức Kitô đồng thời là sự hoàn tất giao ước và những lời hứa cổ xưa; nó không thể tách rời khỏi lịch sử của Thiên Chúa với dân của Ngài và tiết lộ ý nghĩa sâu xa hơn của nó. Tương tự như vậy, hành trình đồng nghị bắt nguồn từ truyền thống của Giáo hội và đồng thời mở ra cho những điều mới mẻ. Truyền thống là nguồn cảm hứng để tìm kiếm những con đường mới và để tránh những cám dỗ trái ngược của sự bất động và thử nghiệm ngẫu hứng.
Hành trình sám hối trong Mùa Chay và hành trình của Thượng hội đồng đều có mục tiêu là một cuộc biến hình, cả cá nhân lẫn giáo hội. Một sự biến đổi, trong cả hai trường hợp, đều có khuôn mẫu của nó trong cuộc Biến Hình của Chúa Giêsu và đạt được nhờ ân sủng của mầu nhiệm vượt qua của Người. Để việc biến hình này có thể trở thành hiện thực trong chúng ta trong năm nay, tôi muốn đề xuất hai “con đường” phải đi theo để cùng lên núi với Chúa Giêsu và cùng với Người đạt được mục tiêu.
Con đường thứ nhất liên quan đến mệnh lệnh mà Thiên Chúa Cha ngỏ với các môn đệ trên Núi Tabor khi họ chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Tiếng từ đám mây phán: “Hãy nghe Người” (Mt 17:5). Vì vậy, đề xuất đầu tiên rất rõ ràng: chúng ta cần lắng nghe Chúa Giêsu. Mùa Chay là thời gian ân sủng trong đó chúng ta nhiệt thành lắng nghe Người khi Người nói với chúng ta. Và làm thế nào để Người nói chuyện với chúng ta? Thưa: Thứ nhất, nơi lời Chúa, mà Giáo hội cống hiến cho chúng ta trong phụng vụ. Cầu mong cho những lời đó không rơi vào những lỗ tai điếc; nếu chúng ta không thể luôn tham dự Thánh lễ, chúng ta hãy nghiên cứu các bài đọc Kinh thánh hàng ngày, ngay cả với sự trợ giúp của internet. Ngoài Kinh thánh, Chúa nói với chúng ta qua anh chị em của chúng ta, đặc biệt qua những khuôn mặt và câu chuyện của những người đang gặp khó khăn. Tôi xin nói một điều khác, điều khá quan trọng đối với tiến trình công nghị: việc lắng nghe Chúa Kitô thường diễn ra trong việc lắng nghe anh chị em của chúng ta trong Giáo hội. Việc lắng nghe lẫn nhau như vậy trong một số giai đoạn là mục tiêu chính, nhưng nó luôn luôn không thể thiếu trong phương pháp và phong cách của một Giáo hội đồng nghị.
Khi nghe tiếng Chúa Cha, các môn đệ “ngã sấp mặt xuống đất. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: ‘Chỗi dậy đi, đừng sợ!’ Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi.” (Mt 17:6-8). Đây là đề xuất thứ hai cho Mùa Chay này: đừng nương tựa vào một thứ tôn giáo được tạo nên từ những sự kiện phi thường và những trải nghiệm kịch tính, vì sợ phải đối mặt với thực tế và những cuộc đấu tranh hàng ngày, những khó khăn và mâu thuẫn của nó. Ánh sáng mà Chúa Giêsu chỉ cho các môn đệ là sự báo trước về vinh quang Phục Sinh, và đó phải là mục tiêu của hành trình của chính chúng ta, khi chúng ta theo “một mình Người”. Mùa Chay dẫn đến Lễ Phục Sinh: “cuộc tĩnh tâm” tự nó không phải là mục đích, mà là một phương tiện chuẩn bị cho chúng ta cảm nghiệm cuộc khổ nạn và thập giá của Chúa với đức tin, đức cậy và đức mến, và nhờ đó tiến đến sự phục sinh. Cũng trong cuộc hành trình đồng nghị, khi Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng có một số kinh nghiệm mạnh mẽ về sự hiệp thông, chúng ta không nên tưởng tượng rằng mình đã đến nơi – vì Chúa cũng lặp lại với chúng ta rằng: “Hãy trỗi dậy và đừng sợ”. Vậy thì chúng ta hãy đi xuống đồng bằng, và xin ân sủng mà chúng ta đã trải qua củng cố chúng ta để trở thành “những nghệ nhân của tính đồng nghị” trong cuộc sống bình thường của các cộng đồng của chúng ta.
Anh chị em thân mến, xin Chúa Thánh Thần linh hứng và nâng đỡ chúng ta trong Mùa Chay này khi chúng ta lên đường với Chúa Giêsu, để chúng ta cảm nghiệm được vẻ huy hoàng thần linh của Người và nhờ đó, được củng cố trong đức tin, kiên trì đồng hành với Người, là vinh quang của dân Người và ánh sáng của các dân nước.
Rôma, Đền Thờ Thánh Gioan Lateranô, 25 tháng Giêng, Lễ Thánh Phaolô Trở Lại.
Source:Dicastero per la Comunicazione – Libreria Editrice Vaticana
3. Đức Thượng phụ Đại kết đã tiếp đón năm linh mục đến từ Lithuania dưới quyền tài phán của mình
Trong một diễn biến đang gây tranh cãi gắt gao giữa Tòa Thượng Phụ Đại Kết Constantinople và Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa, Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô đã đón nhận 5 linh mục Chính Thống Giáo Lithuania bị Thượng Phụ Kirill trục xuất vì các ngài đã phản đối cuộc xâm lược Ukraine.
Dưới đây là toàn văn tuyên bố của Tòa Thượng Phụ Constatinople.
Vài tháng trước, các Đại linh mục rất đáng kính từ Lithuania Vladimiras Seliavko và Vitalijus Mockus, và các Linh mục Trưởng lão Vitalis Dauparas, Gintaras Sungaila và Georgy Ananiev, những người đã bị Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa áp đặt hình phạt phế truất chức tư tế, đã phát biểu trước Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô của Constantinople – và đã gửi thư thỉnh cầu trước mặt Ngài, vì các ngài có quyền làm như thế.
Thượng phụ Đại kết, người chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc nhận đơn kháng cáo, theo các Quy tắc của Thánh giáo luật (cụ thể là Điều 9 và 17 của Công đồng Đại kết lần thứ tư) và theo thông lệ về thánh hóa của Giáo hội, đã nhận được những đơn thỉnh cầu được đệ trình này.
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng các trường hợp liên quan, Tòa Thượng Phụ Constatinople chắc chắn rằng một mặt những trường hợp này đã được đưa ra xét xử chung thẩm trước cơ quan giáo hội đã áp đặt các hình phạt này, nhưng một mặt khác, lý do áp dụng các hình phạt hoàn toàn không xuất phát từ các tiêu chí giáo hội, nhưng từ sự phản đối chính đáng của các giáo sĩ này đối với cuộc chiến ở Ukraine.
Vì vậy, khi xét xử một cách không thể hủy bỏ những lời thỉnh cầu này, Đức Thượng Phụ đã đề nghị với Thánh Công Đồng rằng việc phế truất khỏi chức tư tế đã được áp đặt vô lý và các ngài được phục hồi chức tư tế trước đây trong giáo hội, cả 2 điều này đã được nhất trí quyết định.
Hơn nữa, sau phục hồi nói trên, theo yêu cầu của các ngài, Đức Thượng Phụ Đại Kết đã tiếp nhận các giáo sĩ này dưới quyền tài phán đáng kính của Ngài, có tính đến quyền đã được thiết lập từ lâu của Ngôi vị Đại kết, như nó cũng được báo cáo một cách rõ ràng trong cách giải thích của Theodore Balsamon về Antioch theo Điều 17 và 18 của Công đồng Trullo và Điều 10 của Công đồng Đại kết lần thứ bảy; cụ thể là: “Điều khoản này lưu ý rõ ràng rằng chỉ có Thượng phụ Constantinople mới được phép tiếp nhận các giáo sĩ nước ngoài, ngay cả khi không có thư cho phép của đấng bản quyền của họ”.
Nhiều quan sát viên cho rằng diễn biến này chắc chắn sẽ gây thêm căng thẳng giữa Tòa Thượng Phụ Constatinople và Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa. Tuy nhiên, nhiều người khác thì cho rằng còn gì nữa để căng thẳng thêm. Sau khi Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô đã cấp Tomos, tức là đã xác nhận Chính Thống Giáo Ukraine là một Giáo Hội Chính Thống độc lập, Thượng Phụ Kirill đã truyền cho các linh mục Chính Thống Giáo Nga không được nhắc đến Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô trong Phụng Vụ Thánh, không được hiệp thông thánh thể với các giáo sĩ của Tòa Thượng Phụ Constatinople. Xa hơn, Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa còn ngang nhiên thiết lập các giáo xứ trong lãnh thổ của các Giáo Hội Chính Thống Giáo khác. Thực tế là không còn điều gì mà Thượng Phụ Kirill chưa làm.
Source:Orthodox Times