Bài hát và suy niệm CHÚA NHẬT 18 THƯỜNG NIÊN – B

B18Vs

Lời Chúa: Xh 16, 2-4. 12-15;  Ep 4, 17. 20-24; Ga 6, 24-35.

 

MỤC LỤC

 

  1. Đời còn thiếu 
  1. Bánh từ nhà đem đến 
  1. Đằng sau vật chất hữu hình 
  1. Tấm bánh được bẻ ra – Văn Hào 
  1. Bánh hằng sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng 
  1. Đối xử công bằng với linh hồn ta 
  1. Chết trong danh dự – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

 

  1. Đời còn thiếu

Con người chúng ta gồm có hồn và xác. Thân xác của chúng ta đôi khi lâm vào tình trạng đói khát. Linh hồn chúng ta cũng vậy. Nhu cầu mà linh hồn đói khát không gì khác hơn là chính Thiên Chúa, như lời thánh Augustinô đã viết: Linh hồn tôi sẽ mãi mãi khắc khoải tìm kiếm cho đến khi được nghỉ yên trong bàn tay của Chúa.

Tom Phillips là một thanh niên thành đạt. Năm 40 tuổi, anh đã làm tới chức giám đốc một công ty lớn. Nhà có, xe có, và gia đình ấm cúng. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy không được hạnh phúc, vì còn thiếu sót một điều gì đó. Và rồi một đêm nọ, trên chuyến tàu đi Nữu Ước, anh đã khám phá ra điều mình còn thiếu sót, đó chính là Đức Kitô. Và từ đêm định mệnh ấy, cuộc đời anh đã đổi thay và anh mới cảm nhận được niềm hạnh phúc đích thực.

Charles Colson cũng vậy. Ông là một người thành đạt. Có một văn phòng rêng cạnh toà Bạch Ốc. Tuy nhiên, ông luôn cảm thấy một hố thẳm trong tâm hồn, và dường như còn thiếu một điều gì đó trong cuộc đời. Qua cuộc gặp gỡ với một người bạn thân. Nghe người bạn này kể lại sự trở về của mình. Ông đã khám phá điều mình còn thiếu. Và thế là lần đầu tiên trong đời, ông đã cầu nguyện với Chúa: Lạy Chúa, con không biết làm cách nào để tìm kiếm Chúa, nhưng con sẽ cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn tự hiến cho Ngài. Xin hãy nhận ấy con. Và từ đó cho đến ngày hôm nay, ông đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng, nhất là trong các trại giam và các trường đại học.

Từ hai câu chuyện trên, chúng ta hãy tự hỏi: Có bao giờ tâm hồn chúng ta cảm thấy đói khát hay không. Có bao giờ bản thân chúng ta khắc khoải tìm kiếm Chúa hay không? Có bao giờ con người chúng ta mong muốn được gắn bó với Chúa hay không? Nếu chúng ta trả lời có, thì lời Chúa hôm nay đã đem lại cho chúng ta đáp số để giải quyết: Ta là bánh Hằng Sống. Ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói. Ai tin vào Ta sẽ chẳng bị khát bao giờ. Nơi khác Ngài cũng xác quyết: Hỡi những ai lao nhọc và gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi.

Tóm lại, sứ điệp Chúa muốn gởi đến với mỗi người chúng ta hôm nay thật đơn giản. Sứ điệp ấy như thế này: Tận thẳm sâu cõi lòng, ai trong chúng ta cũng đều chất chứa một cơn đói khát sâu xa mà chỉ mình Chúa mới có thể thoả mãn. Chính sứ điệp này đã đem lại cho con người và cuộc đời chúng ta một ý nghĩa mới, miễn là chúng ta biết chấp nhận nó. Và để kết luận chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện của Charles Colson: Lạy Chúa, con chẳng biết phải tìm kiếm Chúa thế nào, nhưng con luôn cố gắng. Hiện giờ con là kẻ không mấy tốt lành, nhưng con vẫn muốn hiến dâng cho Chúa. Lạy Chúa, xin hãy nhận lấy con. Xin hãy nhận lấy con luôn mãi.

  1. Bánh từ nhà đem đến

Trong cuộc giao tranh, có một người lính bị thương nặng và được đưa vào bệnh viện dã chiến. Chàng có hy vọng bình phục, thế nhưng chàng lại không chịu ăn. Các y tá và nữ tu đã tìm mọi cách thuyết phục, nhưng chàng đều từ chối mọi thức ăn đem tới. Một người bạn thân biết chàng nhớ nhà nên anh đã tình nguyện đi tìm nhà của người bị thương để mời cha chàng tới. Đến nhà của người bạn, anh kể rõ hoàn cảnh. Người cha chuẩn bị lên đường thì mẹ chàng gói cho con bà một nắm cơm.

Nạn nhân vui mừng khi thấy cha mình. Nhưng chàng vẫn chưa chịu ăn, đến khi cha chàng nói: Này con, đây là nắm cơm mẹ con đã thổi. Nghe thế chàng bèn tươi ngay nét mặt và nói: Vâng, cơm mẹ con đã thổi xin cho con một miếng. Từ đó chàng bắt đầu bình phục.

Phải chăng đó cũng là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Thực vậy, chúng ta bị thương trong trận chiến cuộc đời bởi tội, bởi quên Chúa, bởi những phiền muộn, những gian nan và khổ đau hằng ngày. Chúng ta hết muốn ăn những món ăn làm cho linh hồn chúng ta thêm mạnh mẽ. Chúng ta hãy nghe Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: Cha Ta cho các ngươi bánh bởi trời đích thật. Bánh của Thiên Chúa từ trới đến và ban sự sống cho thế gian. Cũng giống như người cha trong câu chuyện đã nói với con mình: đây là cơm mẹ con đã thổi.

Vì thế, vị linh mục nhân danh Đức Kitô cũng nói với chúng ta: Đây là bánh Cha chúng ta ở trên trời đã làm. Thánh Thể là bánh từ trời, bánh ban sự sống, bánh chữa lành thiêng liêng, cũng như trao ban sức mạnh cho tâm hồn. Không có phù phép gì trong nắm cơm của người mẹ. Nhưng có tình yêu là như một phép mầu. Bởi kinh nghiệm, người lính bị thương biết rằng nắm cơm người mẹ đã thổi gói ghém biết bao nhiêu tình thương.

Cũng thế, là những kẻ theo Đức Kitô, chúng ta biết rằng: Tình yêu được ban tặng trong Thánh Thể, trong việc đem bánh bởi trời đến ngay nơi đây và ngay lúc này. Thánh vịnh đã ca ngợi Chúa vì Ngài đã ban manna, một thứ của ăn lạ lùng của Chúa trong cuộc hành trình trở về đất hứa. Manna là hình ảnh của bánh Thánh Thể.

Chúng ta cũng dùng chính những lời người Do Thái đã dùng khi cảm tạ và ca tụng Chúa, vì bánh Thánh Thể Chúa ban như là manna cho tâm hồn chúng ta được sống trong cuộc lữ thứ trần gian này: Chúa đã ban cho họ bánh bởi trời, Ngài làm mưa manna trên họ để trở nên của ăn và Ngài cho họ bánh bởi trời.

Loài người được ăn bánh của Đấng toàn năng. Thánh Thể bao gồm tất cả. Và hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng: Bánh bởi trời là liều thuốc cho linh hồn đau yếu, là sự bổ dưỡng cho những tâm hồn mang thương tích, là ánh sáng và sức mạnh cho những kẻ yếu đuối. Tất cả chúng ta sẽ thấy được điều người lính bị thương trong câu chuyện đã kinh nghiệm. Nếu chúng ta nhớ rằng: Thánh Thể là bánh được đem đến từ nhà của chúng ta ở trên trời.

  1. Đằng sau vật chất hữu hình

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Qua những biểu tượng hay dấu chỉ hữu hình, con người có thể nhận ra Thực Tại Siêu Vượt. Qua tấm bánh, con người có thể nhận ra Thiên Chúa luôn yêu thương, săn sóc và dưỡng dục mỗi người và mọi dân tộc.

I.Cơ cấu vật chất- tinh thần

Con người có thân xác, nên phải ăn phải mặc; nhu cầu vật chất là điều chính đáng và cần được thỏa mãn. Tuy nhiên, con người khác con vật, con người không chỉ có nhu cầu vật chất: ăn ngon ngủ kỹ chưa đủ làm con người hạnh phúc. Con người còn có nhu cầu tinh thần. Con người cần được chấp nhận, cần được yêu được thương, cần được phát triển tài năng của mỗi người đến mức độ tuyệt hảo.

Vật chất- tinh thần là cơ cấu của con người. Qua những gì hữu hình vật chất, con người nhận ra tinh thần hiện diện. Con người là tinh thần qua thân xác, thân xác là biểu tượng của con người xét như hữu thể vật chất- tinh thần. Thế nên, kính trọng con người đòi phải kính trọng thân xác con người. Tình yêu đối với con người cũng được diễn tả một cách cụ thể qua thân xác và những gì cụ thể hữu hình. Tình yêu của cha mẹ đối với con cái được diễn tả qua sự hy sinh, vất vả làm việc để nuôi con, kiên nhẫn giáo dục con cái, mong con mình thành người trưởng thành và hạnh phúc.

Bài đọc sách Xuất Hành cho thấy dân Do Thái đói khát trong hoang địa nên đã kêu trách Môsê và Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Manna nuôi sống họ. Họ đòi thịt, Thiên Chúa đã ban chim cút cho họ ăn. Tình yêu Thiên Chúa đối với dân Do Thái được diễn tả qua việc đưa họ ra khỏi Ai cập, qua việc che nắng và soi sáng họ bằng cột mây cột lửa, qua việc cho họ ăn uống. Thiên Chúa diễn tả tình yêu cho con người qua những gì cụ thể hữu hình, và Thiên Chúa cũng mong ước con người nhận ra tình yêu của Ngài, để con người có thể sống tín thác, an bình và hạnh phúc.

II. Siêu vượt- vượt lên những gì vật chất hữu hình

Dân Do Thái trong hoang địa càm ràm Thiên Chúa và Môsê: “Tại sao chúng tôi đã không chết trong tay Đức Chúa tại Aicập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thỏa lòng”. Dân Do Thái đã dừng lại nơi những gì là miếng ăn vật chất, nên đã không nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài can thiệp giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa đã ban bánh cho dân, vì cơm bánh là nhu cầu chính đáng của con người; nhưng qua đó Thiên Chúa cũng mời gọi dân Do Thái nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc họ, can thiệp, nuôi dưỡng và dạy dỗ họ ngang qua mọi biến cố.

Không phải chỉ dân Do Thái ngày xưa như vậy, ngày nay nhiều người cũng chỉ dừng lại những gì vật chất, họ đi tìm thỏa mãn hoan lạc nơi miếng ăn và xác thịt, họ chưa nhận ra được giá trị thực của đời người, chưa nhận ra được niềm vui sâu xa trong việc phục vụ và giúp đỡ tha nhân. Đức Giêsu nói với những người đi tìm Ngài chỉ vì bánh ăn: “các ngươi tìm Ta không vì đã thấy dấu lạ nhưng vì các ngươi có bánh ăn. Đừng lao công chỉ để có lương thực chóng qua, nhưng vì lương thực cho cuộc sống vĩnh cửu”. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy giúp nhau nhận ra giá trị đích thực, làm sao để con người có thể sống hạnh phúc ngay trong hoàn cảnh hiện tại.

Con người được mời gọi vượt trên gặp gỡ Thiên Chúa qua những trung gian vật chất. Qua lương thực hằng ngày con người cũng có thể nhận ra tình yêu và sự quan tâm săn sóc của Thiên Chúa đối với mỗi người. Qua tình yêu của người con đối với cha mẹ, hoặc của cha mẹ đối với con cái, mỗi người có thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa cho mình. Con người là hình ảnh của Thiên Chúa, vì con người được tạo dựng giống Thiên Chúa. Cái nhìn siêu vượt, là cái nhìn giúp con người nhận ra Đấng Tuyệt Đối và có tương quan thân thiết với Ngài.

III. Thiên Chúa là Cha của tất cả

Khi một người được sinh ra, người đó là con của người cha người mẹ sinh ra mình. Mỗi người không tình cờ mà hiện hữu trên đời, chính Thiên Chúa đã yêu thương và sinh ra người đó qua cha mẹ của mình. Mỗi người đều có Thiên Chúa là cha là mẹ mình. Mỗi người làm cha làm mẹ đều cố gắng thương yêu tất cả những con mình sinh ra; cũng tương tự như vậy, mỗi người đều được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt.

Lịch sử dân tộc Do Thái là một mẫu cho tất cả các dân tộc trên hoàn vũ nhận ra rằng, Thiên Chúa yêu thương dân tộc mình như Ngài đã yêu thương dân tộc Do Thái. Cho tới ngày nay, cho dù dân tộc Do Thái có bị phân tán trên khắp thế giới, cho dù đất nước Do Thái có nhỏ bé và luôn sống trong chiến tranh, thì người ta vẫn tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương dân tộc Do Thái, một dân được tuyển chọn làm dân tư tế, dân trung gian để nói về Thiên Chúa cho mọi người và mọi dân tộc khác.

Do Thái giáo là tôn giáo đặc biệt, vì Thiên Chúa mặc khải qua lịch sử dân tộc Do Thái, và lịch sử dân tộc Do Thái là lịch sử thánh. Kitô giáo là một tôn giáo đặc biệt vì đã được Đức Giêsu Kitô sáng lập, vì đã nhận ra Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Qua Đức Giêsu Kitô, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa yêu thương mỗi người như yêu thương Đức Giêsu (Ga.17, 23; 15, 8-9). Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo có thể là phương tiện Thiên Chúa dùng để giúp con người sống trong tôn giáo đó gặp gỡ Thiên Chúa theo cách thế riêng của họ; tuy nhiên Kitô giáo là một hồng ân rất đặc biệt cho Kitô hữu và cho tất cả mọi người, ngay cả cho những người sống trong các tôn giáo khác.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Đâu là dấu chỉ hay biểu tượng mà qua đó bạn dễ nhận ra Thiên Chúa hiện diện và yêu thương bạn nhất? Nếu có, xin bạn chia sẻ.
  2. Theo bạn, đâu là dấu chỉ hay biểu tượng đặc biệt có ý nghĩa đối với con người ngày nay, giúp con người vươn lên gặp gỡ Thiên Chúa?

  1. Tấm bánh được bẻ ra – Văn Hào

Chúa Nhật tuần trước, chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành giàu lòng yêu thương con người đã nhân bánh và cá lên gấp ngàn lần để cho 5000 người ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra. Nhưng chắc chắn Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia, cũng không phải là một chuyên viên đi làm công tác từ thiện xã hội, hoặc xóa đói giảm nghèo. Phép lạ Đức Giêsu thực hiện là một dấu chỉ khải thị một chân lý sâu xa hơn. Ngài chính là tấm bánh được bẻ ra để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Đức Giêsu không đóng vai một nhà từ thiện giầu hảo tâm, giúp con người vượt qua cái đói vật chất. Ngài chính là Đấng Cứu Độ, là Bánh Trường Sinh, Đấng đến trần gian để cho chúng ta được sống. Đó chính là nội dung bài diễn từ về bánh mà Thánh Gioan trình bày cho chúng ta trong chương 6, bắt đầu từ Chúa Nhật hôm nay.

I. Tấm bánh thần thiêng

Năm 1868, một cô gái người Bỉ yếu ớt được in năm dấu thánh. Cô ta tên là Louis Lateau. Từ đó trở đi, cô không còn có thể ăn uống được nữa. Trong bảy năm trời, cô ta sống nhờ lương thực duy nhất là rước Mình Thánh Chúa mỗi ngày. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với chị Têrêsa Newman và cô Matta Robin, người Sáng lập Tu hội Bác Ái. Những điều kỳ diệu đó phần nào chứng minh cho lời Chúa nói hôm nay: “Con người không chỉ sống bằng cơm bánh. Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn mau hư nát nhưng để có lương thực mang lại sự sống trường sinh, là lương thực mà Con Người sẽ ban cho các ngươi.” (Ga 6, 27). Thế, lương thực Chúa nói đây là lương thực gì?

Chúa Giêsu đã công bố: “Tôi là Bánh Trường Sinh”. Để có tấm bánh, dù là bánh bột mì hay bột gạo, trước hết phải có hạt. Hạt được gieo trồng trong ruộng, rồi phải có người tưới nước, làm cỏ, bón phân. Hạt lúa cần ánh nắng để được chín vàng. Kế đến phải có người gặt, đem về xay thành bột. Bột được nhào, nặn thành bánh và bánh phải được nung chín trong lò. Đức Giêsu, tấm bánh được Thiên Chúa ban tặng, cũng trải qua những công đoạn tương tự như thế. Ngài đã được cấy vào mảnh ruộng trần gian, nơi cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Ngài cũng đã được lớn lên trong ánh nắng mặt trời vùng quê Nazareth, đã vươn lên giữa đám cỏ lùng trong thửa ruộng dương gian. Ngài đã trưởng thành, đã chín vàng dưới ánh nắng kỳ diệu của Thần Khí. Sau cùng, Ngài đã được gặt hái, bị nghiền nát phơi thây trên Thập Giá, và được nung chín trong cuộc khổ nạn. Ngài đã trở nên một Tấm Bánh, được bẻ ra và hiến trao cho nhân loại. Tấm bánh Giêsu được hiến tặng cho ta chính là tấm bánh được nướng chín trong mầu nhiệm Thập Giá, nơi kết tụ đỉnh cao của Tình yêu mà Thiên Chúa đã tỏ bày.

Văn hào Fortry đã viết: “Dầu bầu trời có tối đen đến mấy đi nữa, thì Thánh Giá vẫn là dấu hiệu cao cả nhất và tuyệt vời nhất của tình yêu”. Cha Thánh Gioan Maria Vianney cũng diễn tả một xác tín tương tự: “Chúng ta phải đeo bám vào Thập Giá Chúa như một kẻ hà tiện bám víu vào tiền bạc, vì Thánh Giá là chóp đỉnh của tình yêu, là lương thực trường sinh, là nguồn mạch cứu độ”.

Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào tôi sẽ được sống đời đời”. Tin vào Đức Giêsu, Đấng bị phân thây trên Thập Giá, chính là tiếp nhận Ngài, mở lòng ra để “ăn” Ngài, vì Ngài chính là tấm bánh cứu độ được bẻ ra và được phân phát nhưng không cho tất cả mọi người.

Muốn trở nên lương thực nuôi sống con người, tấm bánh phải được nghiền nát và bị phân hủy để đi vào thịt máu, đem lại cho chúng ta sự sống. Đây là định luật về Bánh, đã được chính Đức Giêsu biểu tỏ qua cái chết của Ngài trên Thập Giá. Định luật đó cũng được Chúa Giêsu chuyển giao để chúng ta sống và thực hành: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày theo tôi”.

II. Sống định luật về bánh.

Văn hào Leon Tolstoi viết một tiểu thuyết ngắn với tựa đề: “Con người chúng ra sống bằng gì?” Tác giả nêu ra câu hỏi và trả lời ngay sau đó “Con người chúng ta sống bằng tình yêu”. Tần Thủy Hoàng ngày xưa đã cho nhiều người tài giỏi đi khắp nơi lùng sục những thang thuốc quý, hay những lương thực cao lương mỹ vị để được sống mãi. Nhưng ông ta đã chết, cũng như tất cả mọi người khác. Dùng đồ ăn thức uống hằng ngày cũng chỉ có thể vỗ béo và tẩm bổ thân xác hầu kéo dài thêm thời gian sống, nhưng cuối cùng ai ai cũng phải chết. Trái lại, sống bằng tình yêu, con người sẽ không bao giờ chết. Thánh Gioan trong thơ thứ nhất, đã định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”. Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống, nên những ai đi vào quỹ đạo tình yêu với Thiên Chúa và sống sung mãn huyền nhiệm yêu thương, người đó không bao giờ chết. Điều đó, chính Đức Giêsu đã khẳng định trong bài Tin Mừng hôm nay: “Tôi là bánh đem lại sự sống cho trần gian (Ga 6, 33-35). Ai ăn bánh này sẽ không còn đói.. Ai tin tôi sẽ được sống đời đời”. Định luật về bánh phản chiếu qua mầu nhiệm Thập Giá luôn hàm ngậm một nghịch lý. Hạt lúa được gieo vào lòng đất phải thối đi mới có thể nảy mầm và đơm bông kết trái. Tấm bánh phải được nhai nát, được tiêu hủy trong dạ dày mới có thể chuyển hóa thành máu và thịt. Cũng vậy, chúng ta phải đi qua cái chết mới đến được sự sống, phải đi qua Thập Giá mới có thể đón nhận vinh quang. Per Crucem ad Lucem. Per angusta ad augusta.

Con đường theo Đức Ki-tô, tấm bánh được bẻ ra, không phải là con đường thẳng tắp và phẳng lặng. Lối bước Thập Giá không phải là nẻo đường được đan kết bằng những bông hoa và nụ cười. Đó chính là con đường gập ghềnh đầy sỏi đá gai chông, là con đường đưa dẫn đến núi sọ và huyệt đá, hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy để cùng chịu đóng đanh và cùng chết với Chúa Giêsu. (Mt 16, 24-25). Muốn trở thành môn đệ Ngài, chúng ta cũng phải trở nên tấm bánh được nghiền nát, được bẻ ra để phân chia cho mọi người.

III. Ví dụ cụ thể.

Một ngày cuối năm 1965, trên một chuyến bay từ Rôma đến Mỹ mang theo một số Giám Mục tham dự công đồng Vaticanô II trở về, có một tiếp viên hàng không khá xinh đẹp. Cô ta ân cần phục vụ hành khách, nhưng hôm đó cô tỏ vẻ hơi khó chịu vì có một cặp mắt cứ nhìn cô đăm đăm mỗi khi cô xuất hiện. Cô khá bực mình và cũng hơi bối rối, vì đó lại là cặp mắt của một vị Giám Mục đáng kính và khá nổi tiếng lúc bấy giờ: Đức Cha Fulton Sheen. Khi phi cơ đáp xuống, Đức Cha là người sau cùng rời máy bay. Ngài tiến lại gần cô tiếp viên và nói: “Thưa cô, cô rất xinh đẹp. Cô hãy cám ơn Chúa vì đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời như thế”. Vị Giám Mục nói rất đứng đắn và trang nhã, nhưng cũng đầy trìu mến. Chỉ vài ngày sau, có tiếng gõ cửa tại văn phòng của Đức Cha ở New York. Người đến gặp Đức Cha không ai khác, mà chính là cô tiếp viên hôm nọ. Cô vào đề ngay: “Thưa Cha, con phải làm gì để cám ơn Chúa đã ban tặng cho con sắc đẹp?” Thay vì trả lời, Đức Cha hỏi lại cô: “Cô có bao giờ nghe nói về trại phong Di Linh ở Việt Nam chưa?” Cô trả lời rằng cô có biết qua báo chí. Đức Cha nói tiếp “Những người cùi ở đó cũng xinh đẹp lắm. Chúa Giêsu đang hiện thân nơi họ. Nếu cô muốn cám ơn Chúa, cô hãy sang Việt Nam và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã yêu thương và phục vụ chúng ta”.

Cô tiếp viên xinh đẹp đó đã bay sang Việt Nam và sau đó trở thành nữ tu. Châm ngôn sống của cô là “Tôi cũng phải trở nên như một tấm bánh được bẻ ra để trao ban tình thương của Chúa Giêsu cho những người cùng khổ.”

Kết luận: Xin được tóm kết với bài thơ ngắn của thi sĩ Thagor: “Tôi đã nài xin Chúa cất khỏi tôi sự kiêu hãnh. Chúa trả lời rằng không. Chính tôi là người phải phấn đấu để vượt thắng. Tôi đã nài xin Chúa cho đứa con tật nguyền của tôi được lành lặn. Chúa nói không. Tinh thần mới cần lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ. Tôi đã nài xin Chúa cho tôi được hạnh phúc. Ngài cũng nói không. Ơn Ta thì luôn đủ cho con, hạnh phúc con phải tìm lấy. Và cuối cùng tôi xin Chúa ban cho tôi một quả tim để biết yêu thương. Chúa nói rằng đây là lời cầu nguyện Ta vẫn hằng mong chờ. Ta sẽ ban cho con một trái tim biết rung lên những nhịp đập yêu thương để con trở nên như một tấm bánh được bẻ ra, được nhai nát và góp phần đem lại sự sống cho mọi người”.

  1. Bánh hằng sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Lịch sử ơn cứu độ là một tiến trình dài cả mấy ngàn năm liên quan đến một dân tộc đã được chọn lựa. Dân tộc này được Thiên Chúa yêu thương và hướng dẫn cách đặc biệt. Thiên Chúa chọn các tổ phụ là Abraham, Isaac và Giacob để rồi sinh xôi ra một dân tộc đông đúc, gọi là dân Do-thái. Lịch sử của dân tộc này cũng là lịch sử của ơn cứu độ. Diễn tiến cuộc sống thăng trầm của dân riêng là một qúa trình thanh luyện, thử thách và tôi luyện ròng rã để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy được Thiên Chúa chở che và bảo vệ, dân chúng thường lại muốn vượt rào và chạy theo cách sống của ngoại lai. Thiên Chúa đã nhiều lần thiết lập giao ước với dân để giữ mối giao hảo thủy chung. Thực tế, dân chúng lại cứ chứng nào tật đó và ngựa theo đường cũ từ bỏ đường lối Chúa chạy theo thói đời.

Gặp nạn đói kém, các con cháu của Giacob di dân đến đất Ai-cập. Dân Do-thái sinh sống tại đất nước này khoảng 430 năm, 12 người con của ông Jacob trở thành các ông tổ của mười hai chi tộc dân Israel. Con cái cháu chắt nhiều đời đã sinh xôi nẩy nở trở thành một dân lớn mạnh. Khi Môisen dẫn dân ra khỏi Ai-cập: Con cái Israel nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành, chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo (Xh 12, 37-38). Qua câu truyện Xuất Hành của người Do-thái, chúng ta không thể hiểu và tưởng tượng được việc Chúa đã làm cho dân riêng. Lữ hành trong sa mạc, cả triệu người này lấy gì mà ăn uống, lấy gì mà mặc và rồi các sinh hoạt cá nhân, gia đình và cộng đồng… Họ trở thành dân du mục sống 40 năm tạm cư tại nhiều nơi trước khi vào miền Đất Hứa.

Sách Dân Số ghi nhận số người của từng chi tộc khi ra khỏi đất Ai-cập. Tại sa mạc Sinai, theo lệnh truyền của Thiên Chúa,ông Môisen kiểm tra dân số:Tất cả con cái Israel đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở lên, tất cả các chiến binh trong dân Israel,tổng số người được kiểm tra, là 603.550 (Ds 1, 45-46). Chúng ta thử tínhtrên 600 ngàn chiến binh cộng thêm các phụ nữ và con trẻ nữa, phải có trên một triệu người vượt Ai-cập. Cuộc sống văn minh tiến bộ với nhiều phương tiện như hiện nay, con số trên một triệu người di dân qủa là một vấn đề lớn. Biết bao nhiêu các nhu cầu cuộc sống cần phải đáp ứng. Dân Do-thái đã trải qua những thách đố tôi luyện rất căng thẳng. Tuy nhiên, cho dù đối diện với muôn ngàn khó khăn, sau cùng, họ cũng đã tiến vào miền đất hứa chảy sữa và mật.

Sách Xuất Hành ghi lại cuộc sống nay đây mai đó, dân chúng cảm thấy thiếu thốn mọi bề, nên than khóc. Nhớ về qúa khứ ở Ai-cập ngồi bên nồi thịt và ăn no nê, dân chúng đã bắt đầu thấy chán nản và kêu trách Môisen và Aaron về lương thực hằng ngày. Thiên Chúa phán: “Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi”.(Xh 16, 12). Qua những thăng trầm cuộc sống, Thiên Chúa từ từ mạc khải những mầu nhiệm Nước Trời. Qua bánh Manna nuôi sống thân xác, Chúa dẫn đến của ăn nuôi dưỡng phần hồn. Tất cả những sự cố xảy ra trong cuộc lữ hành của dân Do-thái đều mang một ý nghĩa nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Từ những sự kiện Môisen lãnh nhận Thập Giới, việc ông Môisen đập gậy vào tảng đá để nước chảy ra và việc Môisen treo con rắn đồng lên làm dấu trong hoang địa, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng, sẽ được cứu. Thiên Chúa vừa thanh luyện tâm hồn vừa mạc khải những ý nhiệm sâu xa về Thiên Chúa độc nhất và chương trình cứu độ.

Lịch sử cứu độ được lồng vào lịch sử của dân tộc Do-thái, dân Chúa chọn. Dân Do-thái đã cưu mang chương trình cứu chuộc trong suốt hành trình lưu lạc trần thế. Thiên Chúa luôn yêu thương và giữ lời giao ước với đoàn dân. Dân chúng cũng đã vui hưởng những năm tháng an bình thịnh trị. Nhưng họ cũng không tránh khỏi những thăng trầm, gian nan, thách đố của cuộc sống. Trải qua lịch sử, cho dù nhiều lần dân chúng bỏ Chúa chạy theo bụt thần, Chúa vẫn luôn chờ đợi ngày họ quay trở về. Thiên Chúa quan tâm sai các tiên tri như là những sứ giả mở đường khai thông và bắc những nhịp cầu kết nối để giúp họ quay đầu sám hối.

Lời mời gọi sám hối là bước đầu đi vào cuộc sống an lạc và bình an. Chúa Giêsu khi ra rao giảng, Ngài cũng kêu gọi sám hối vì Nước Trời đã gần. Thánh Phaolô tông đồ cũng không ngừng nhắc nhở: Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em (Eph 4, 22-23). Lời mời gọi sám hối không phải chỉ để nghe nhưng là thực hành. Chúng ta không phải chờ tới ngày mai hay có cơ hội thuận tiện mới sám hối quay về. Lời của Chúa có sức mạnh tác động ngay trong hiện tại nếu chúng ta biết mở lòng đón nhận và quyết tâm sửa đổi cách sống.

Trong bài phúc âm hôm nay, từ những của ăn phần xác hay hư nát, Chúa Giêsu đã giới thiệu một loại bánh trường sinh. Bánh ban sự sống, đó là chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã dậy: Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận (Ga 6, 27). Chúa Giêsu là bánh từ trời xuống ban sự sống cho thế gian. Đây là một ý tưởng ngoại thường, dân chúng không dễ dàng chấp nhận. Sau khi nghe Chúa nói về bánh hằng sống chính là thịt và máu của Chúa, các môn đệ cũng xì xầm nhỏ to và có nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Thầy nữa.

Lời của Chúa Giêsu phán hai ngàn năm trước, hôm nay vẫn mang tròn đầy ý nghĩa. Chúa Giêsu đã lập Bí tích Thánh Thể, Chúa dùng bánh và rượu là của nuôi thân xác biến đổi thành Thịt và Máu Thánh Chúa để nuôi linh hồn. Đây chính là mầu nhiệm đức tin. Chúa phán:Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống (Ga 6, 51). Lời truyền của Chúa Giêsu không thay đổi vì là lời hằng sống. Giáo Hội tin và tôn thờ Chúa Giêsu hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể. Thánh Thể trở nên trung tâm điểm trong đời sống của các Kitô hữu. Đến với Thánh Thể là đến với chính Chúa Giêsu. Thực tế niềm tin cuộc sống, nhiều người không còn tin thật Chúa Giêsu hiện diện dưới hình bánh hình rượu trong Bí tích Thánh Thể. Cả chúng ta, các Kitô hữu nhiều khi cũng lơ là và không tôn kính đủ khi đến với Thánh Thể nơi Nhạ Tạm.

Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để chúng con nhận diện ra Chúa đang ngự giữa chúng con trong Bí Tích Thánh Thể. Đã nhiều lần chúng con đi qua Nhà Tạm Thánh Thể, Chúa hiện diện đó nhưng chúng con vô tình ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa đã dùng Bí Tích Thánh Thể để hiện diện và trở nên thần lương nuôi dưỡng chúng con. Xin cho chúng con biết kết hợp mật thiết với Chúa trong mọi nơi và mọi lúc. Amen.

  1. Đối xử công bằng với linh hồn ta

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Sau khi được Chúa Giêsu ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giêsu không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.”

Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giêsu răn bảo họ: “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh.” (Ga 6, 27).

Khi nói như thế, Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.

* * *

Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.

Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.

Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.

Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có “hai người con” trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.

Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.

24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.

Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!

Đó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.

Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất!

Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.

Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.

Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng “Bánh từ trời xuống.”

Chính Chúa Giêsu là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)

“Ăn” Chúa Giêsu (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giêsu nhưng là đến với Chúa Giêsu và tin vào Người: “Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”

Nói khác đi, “ăn” Chúa Giêsu là đến với Chúa Giêsu, học với Chúa Giêsu, sống như Chúa Giêsu để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giêsu và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.

  1. Chết trong danh dự – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người xưa vẫn thường nói: “trông vậy mà không phải vậy”. Một lời nói đơn sơ nhưng đầy triết lý cuộc sống. Có những người “đẹp người nhưng xấu nết”. Có những người bên ngoài nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng lòng đầy gian tham xảo quyệt. Có những người miệng nói “nam mô nhưng lại một bồ dao găm”. Có biết bao điều diễn ra trước mắt nhưng thực hư lại càng khó phân biệt đúng sai. Cuộc sống thực dụng đã làm cho nhiều người biến chất trở thành kẻ lưu manh, lừa gạt hại người, hại đời. Cuộc sống đề cao vật chất đã khiến nhiều người đang tâm sống bất trung bất hiếu giữa với gia đình, với cha mẹ, với vợ, với chồng, với con. Dầu vậy, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những tấm lòng cao thượng, những trái tim trong trắng, những tâm hồn không để những tham sân si dòng đời làm băng hoại, hoen ố. Họ luôn sống cao đẹp. Họ luôn bảo vệ giá trị của tình người. Họ không bán rẻ phẩm giá vì một chút của cải mau qua. Họ đã sống đề cao giá trị vĩnh cửu hơn là những giá trị vật chất mau qua, tầm thường.

Nhà văn Pháp Pécaut đã kể một câu chuyện thật cảm động mà chính ông vẫn ân hận mỗi khi nhớ lại chuyện xưa. Ông kể rằng:

Một hôm tôi vừa ra khỏi nhà thì một em bé trai 12 tuổi chạy đến van nài tôi mua giúp em một hộp diêm quẹt. Động lòng thương tôi rút ví ra định mua, nhưng tôi lại chỉ có toàn tiền chẵn. Tôi đang ngần ngại thì thằng bé nói ngay: “Không sao ông ạ, xin ông cứ vui lòng đưa tiền cho cháu, cháu sẽ chạy đi tìm chỗ đổi tiền rồi trả lại cho ông ngay”.

Tôi nhìn thằng bé gương mặt xanh xao của nó có vẻ thành thật đến mức tự hào. Tôi liền trao cho nó một đồng tiền vàng và nó chạy biến ngay về hướng cuối phố. 5 phút trôi qua, rồi 10 phút, tôi bắt đầu hồ nghi về sự ngay thẳng của thằng bé. Và nửa giờ sau thì tôi hết kiên nhẫn, bỏ đi tiếp tục cuộc dạo phố, lòng thầm nhủ sẽ chẳng bao giờ còn tin vào những bọn lêu lổng đầu đường xó chợ như thế nữa.

Buổi trưa, khi về tới nhà, đúng chỗ ban sáng thì tôi lại thấy một đứa bé hơn nữa, chỉ độ 8, 9 tuổi, khuôn mặt giống thằng ăn cắp như tạc. Nét mặt nó bộc lộ sự lo âu tuyệt vọng. Nó thổn thức nói với tôi: “Thưa ông, có phải ông đã đưa cho anh cháu một đồng tiền vàng không ạ? Đây là chỗ tiền lẻ. Chính anh cháu nhờ gửi lại cho ông. Chúng cháu đều là trẻ mồ côi nhưng không phải là bọn ăn cắp. Anh cháu không thể trao tận tay ông ngay lúc sáng là vì anh cháu đã bị xe đụng khi vội chạy đi tìm chỗ đổi tiền. Cháu… cháu sợ rằng anh cháu chết mất thôi…”. Tôi bàng hoàng vội hỏi thằng bé trong tiếng nghẹn ngào: “Thế bây giờ anh cháu nằm ở đâu? Dắt bác đến gặp anh cháu ngay đi”.

Tôi rảo bước gần như chạy sau em bé. Chúng tôi rời khỏi những khu phố giầu sang để lách vào những con hẻm lầy lội của một khu lao động nghèo khổ. Em bé dừng lại một căn lều xiêu vẹo. Trong một xó tối, tôi nhận ra thằng bé bán diêm quẹt ban sáng. Nó nằm dài bất động trên một đống áo quần cũ rách, mặt trắng bệch vì mất khá nhiều máu.

Tôi lặng lẽ cúi xuống hôn lên vầng trán bị giập nát vì vết thương của em. Tôi ân hận vì cái nhìn thiển cận của tôi. Tôi nuối tiếc vì sự đánh giá thiếu cân nhắc của mình. Nhưng tôi lại thầm cám ơn đời đã cho tôi gặp được một tâm hồn trẻ thơ vô cùng trong trắng ngay giữa cảnh đời nghèo khó và đau khổ đến cùng cực…

Vâng, giữa cuộc đời mà người ta đang đua nhau tranh giành miếng cơm manh áo đến nỗi coi nhẹ nhân phẩm, nhân vị thì vẫn còn đó những con người biết sống nghèo khó mà lòng thanh sạch. Giữa cuộc đời mà người ta đang loại trừ và hãm hại lẫn nhau chỉ vì một chút địa vị, bổng lộc thì vẫn còn đó những con người tìm niềm vui trong đời sống yêu thương, phục vụ một cách quảng đại và vô vị lời.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm giá trị Nước Trời hơn là những của ăn mau hư nát. Thắng bé trong câu chuyện đã sống cao thượng, nó không vì tiền mà đánh mất danh dự. Nó thà chết chứ không để lòng tốt bị đánh cắp trong xã hội hôm nay. Nếu xã hội mà mỗi người đều biết trọng danh dự, trọng lẽ phải thì cuộc đời đâu còn nước mắt, trần gian đâu còn đọa đầy mà là thiên đàng tại thế. Nếu cuộc đời ai cũng biết trần gian là tạm bợ, thiên đàng mới là vĩnh cửu, có lẽ họ sẽ sống cao thượng, sống thanh sạch, sống công bình bác ái hơn là gian dối, tham lam tầm thường.

Nguyện xin Chúa là Đường là sự thật và là sự sống giúp chúng ta biết đi theo đường lối vẹn tuyền, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát, biết chọn Chúa là phần gia nghiệp đời đời. Amen.