NL: CA NHẬP LỄ MÙA VỌNG
ĐC: TÔI MỪNG VUI
HALL: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con và ban ơn cứu rỗi cho chúng con.
DL: DÂNG LÊN
HL: ĐỂ CHÚA ĐẾN
KL: VÌ CHÚA SẼ ĐẾN
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
Đây là điều mà ông I-sai-a, con ông A-mốc, đã được thấy về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.
Rằng : “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa,
lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp,
để Người dạy ta biết lối của Người,
và để ta bước theo đường Người chỉ vẽ.
Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống,
từ Giê-ru-sa-lem, lời Đức Chúa phán truyền.
Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.
Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi,
ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường !”
Bài đọc 2: Rm 13,11-14
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
Thưa anh em, anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày : không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
Đợi chờ hạnh phúc
Bước vào mùa vọng, Lời Chúa nơi bài đọc một dẫn chúng ta đến vùng ánh sáng chứa chan niềm hy vọng của bầu trời ân phúc – ơn cứu độ. Ngày đó ngôn sứ I-sai-a phác họa hình ảnh một sự thật ở tương lai mà Hội Thánh ngày nay chính là sự thật ấy.
“Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
nước nước dập dìu kéo nhau đi.
Rằng: “Đến đây, ta cùng lên núi ĐỨC CHÚA,
lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp,”
Lời Kinh tiên báo này đã ứng nghiệm, ngày nay dân các nước hân hoan cùng nhau kéo về đầu nguồn chân lý, tắm gội linh hồn trong phúc lành ân sủng từ nhà Đấng Tối Cao. Sân quảng trường thánh Phê-rô sáng lên mỗi ngày với sự hiện diện của Đức Thánh Cha. Bầu trời cao quang chân lý tựa điệp trùng đỉnh núi thánh ân, báo hiệu về bầu trời vĩnh phúc ngập tràn ánh sáng vinh hiển mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho Dân của Người. Một dân tư tế thời Tân ước, một dân được tuyển chọn bởi lòng thương xót vô biên của Người. Một dân được cơ hội cho hưởng nhờ ân sủng tột cao quang của Đức Chúa.
Hình ảnh tất cả các dân nước lũ lượt kéo về “núi Đức Chúa”, mô tả một niềm hy vọng lớn lao đang tràn ngập khắp địa cầu, chiếm lĩnh mọi tâm hồn những người tin. “Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp” không chỉ là ngôn từ để chỉ nơi chốn linh thiêng Chúa ngự. Song còn ẩn giấu ý nghĩa hướng đến hành trình rộng mở của các bậc sủng ân mà con người được nhận lãnh từ Nhà Thiên Chúa. Thể hiện mối giao tình thân thiết thâm sâu giữa con người với Đức Chúa, tương quan Cha con được lập nên khiến cho con người vượt trội hơn cả các thiên thần. Nhờ Đấng Thiên Sai – Con Một Thiên Chúa đã đến và ở giữa chúng ta, cứu chuộc chúng ta.
“Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến.”
Lời Kinh mang đậm sắc màu chân lý của sự sống ngập tràn hạnh phúc và bình an, dưới sự quản cai, chăm sóc của Thiên Chúa Tình Yêu. Ánh sáng chân lý của Người đã xua tan nỗi hận thù, ghen ghét và tham lam nơi lòng người. Một trạng thái thánh thiện cao vời, một cuộc sống chứa chan hạnh phúc từ sâu thẳm lòng người luôn khát mong. Tất cả những ý nghĩa này dẫn tới “vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào”, lời thánh Phao-lô.
Tuy nhiên, sẽ có một sự mâu thuẫn đan xen lộ ra ở đây, nếu như ta không thấu đáo ý nghĩa của chân lý qua lời Chúa hôm nay. Lời ngôn sứ I-sai-a không hề sai, sự thật chân lý đức tin này hoàn toàn là hiện thực khi Lời Chúa thấm nhuần cuộc sống con người, chiếm lĩnh mọi tâm hồn. Điều này được hoàn thiện viên mãn ở nước thiên đàng. Còn trong thực tại trần thế, ngay cả trong cộng đoàn dân Chúa có lắm người “hữu danh vô thực”. Mang tiếng là con Chúa, con của Hội Thánh, nhưng cuộc sống đức tin của họ lại quá xa rời, xa lạ với Chúa và Hội Thánh. Thậm chí còn nhiễm nặng nề quỷ tính, khiến cho chung quanh cuộc sống họ là một nỗi đau thương lớn lao, biết bao người phải chịu đựng sự xấu xa của họ. Bởi thế, có thể dù ở địa vị tôn giáo rất cao nhưng họ đã ở trong tình trạng thất sủng, gây gương mù gương xấu cho cộng đồng nhân loại. Vì họ khiến cho danh xưng Công Giáo chưa bao giờ bị công khai ghét bỏ, chống đối, khinh dễ như thời đại hôm nay.
“Đã đến lúc anh em phải thức dậy”, một lời mời gọi vượt thời gian, mời gọi đánh thức đức tin: hãy vượt qua cơn ngủ mê thế tục để sống thực sự đức tin của mình. Có như vậy, chúng ta mới chứng thực vị thế con Chúa ở nơi mình. “Đêm sắp tàn, ngày gần đến.” lời ngân vang chẳng khác một hồi chuông báo cho nhân loại biết rằng đêm tối nhân gian sắp qua đi, và ngày của Thiên Chúa đã gần đến. Đây cũng là ý tưởng nòng cốt dẫn tới bài Phúc Âm, làm sáng lên tinh thần của mùa vọng.
Ngay đầu trình thuật, Chúa Giê-su diễn tả lại thời tổ phụ Nô-ê, con người cứng lòng trước những cảnh báo của Thiên Chúa, cứ ăn, cứ uống và thoải mái lo những chuyện trần thế. Hữu ý đến vô tình trước đại họa giáng xuống trên mình “Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy.” Chúa Giê-su cảnh báo cho tất cả chúng ta đừng như những người thời ông Nô-ê, hãy tỉnh thức để nhận ra ngày giờ Chúa sẽ đến thật bất ngờ. Thêm vào đó, điều đáng phải ghi khắc và đặt ra dấu chấm hỏi. Tại sao, trong cùng một bối cảnh sống, cùng làm một công việc, nhưng một người được chọn và một người không được chọn “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.”?
Bên ngoài cuộc sống những người đàn ông và những người đàn bà kia họ không khác nhau. Vậy, chắc chắn vấn đề Chúa muốn chúng ta tìm hiểu là nội tâm họ khác nhau. Mà vấn đề của nội tâm là vấn đề đức tin và nhân đức. Đức tin: họ đã làm, đã sống vì Chúa, cho Chúa, với Chúa hay họ làm, họ sống vì lợi lộc của chính họ, cho thế gian và với thế gian? “Cho thế gian” là cho cuộc sống đời này, những thứ sẽ qua đi với thế gian “có nhiều người sống đối nghịch với thập giá Đức Ki-tô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian.” (Pl 3,18b-19); “Hỡi những kẻ ngoại tình, các người không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa.” (Gc 4,4) Vì thế, những ai chỉ tích góp cho mình, phục vụ mình, sống hưởng thụ với thế gian, họ sẽ bị Chúa bỏ lại với thế gian là sự hư vong đời đời.
Ý nghĩa trên đây là lý do Chúa Giê-su mạnh lời tuyên bố, cảnh báo cho chúng ta “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến… Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” Chúa sẽ đến, đến cách riêng, đến thật bất ngờ với từng người chúng ta qua cái chết thể lý, đến với ta qua tòa phán xét của Người. Chúa còn đến với ta thật bất ngờ một lần nữa qua cuộc phán xét chung, và ngày đó cũng đã rất gần.
Chúa Giê-su dạy bảo chúng ta “Vậy anh em hãy canh thức”. Nhưng “canh thức” là gì? Phải chăng là tỉnh thức để canh giữ linh hồn mình không phải đi vào hư vong đời đời? Đối lại với ngủ mê trong chân lý, tỉnh thức là ở trong ân sủng Chúa, tức không ở trong tình trạng tội trọng, xây dựng được nghĩa tình với Chúa bền lâu.
Nhưng làm sao để “tỉnh thức” trước cơn mê ngủ của nhân gian trong đêm tối mịt mờ chân lý, sống thác loạn hưởng thụ và ở trong tội lỗi?
Quả thật, sự tỉnh thức của linh hồn là đòi hỏi của đức tin, phải sống ngược lại với tính tự nhiên con người. Mà có một số người tín hữu Ki-tô không thể nào chấp nhận nổi, hoặc muốn nhưng không đủ sức sống “tỉnh thức”. Cái vòng lẩn quẩn này cột trói biết bao linh hồn trong tội, trong cuộc sống bê tha và đam mê. Chỉ khi nào tâm linh được rọi sáng bởi ơn thánh, con người mới nhận ra tình trạng bi đát của linh hồn mình. Và có sức mạnh thần khí mới chiến thắng được ba thù, sống tốt lời Chúa dạy. Cho nên, để có được ơn thánh soi sáng, linh hồn phải gắn bó mình với chân lý đức tin, dùng lời Chúa làm đuốc thiêng hướng dẫn đời sống mình. Đồng thời, song song với việc học hỏi đạo lý Chúa, các con đem lời Chúa ra thực hành trong đời sống cho càng ngày càng tiến lên trong nhân đức, trong sự công chính của Chúa. Giống như cành nho phải tháp chặt vào cây nho mới trổ sinh được hoa trái (x. Ga 15,4). Có được như vậy ơn nghĩa Chúa sẽ càng ngày càng cao và thánh khi nơi các con càng ngày càng lớn, giúp cho đời sống các con trổ sinh hoa trái thần khí là phần rỗi các linh hồn.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Phải Canh Thức Và Sẵn Sàng
“Quả thế, thời ông Nôê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nôê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.” (Mt 24,37-41).
Đức Giêsu cảnh báo ngày Người đến lần thứ hai, chắc chắn sẽ xảy ra như thời ông Nôê trong Cựu Ước. Thiên hạ cứ ăn uống, dựng vợ, gả chồng cho tới ngày ông Nôê vào tàu, bỗng nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Riêng gia đình ông Nôê có sự chuẩn bị nên được cứu sống. Ngày Con Người đến cũng sẽ xảy ra cảnh tương tự, số phận mỗi người được định đoạt trong chốc lát: một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Cuộc thẩm phán sẽ phân rẽ những người vốn hiệp nhất với nhau, như hai người đàn bà đang xay bột chẳng hạn. Vậy thì tôi phải chuẩn bị thật sẵn sàng để chờ đón ngày giờ Con Người đến. Ngày Chúa đến lần thứ hai sẽ xảy ra bất ngờ nhanh chóng, con người sẽ không còn giờ để chuẩn bị, lo cứu mạng sống mình cho kịp. Dù đã được cảnh báo, nhưng như thời ông Nôê, sẽ có rất nhiều người coi thường không chịu chuẩn bị cho đến giây phút cuối. Khi người ta mải miết ngụp lặn trong những lo lắng trần tục, thì sẽ dễ dàng quên mất Thiên Chúa, quên đi chuyện hoán cải, đổi mới con người ngay từ hôm nay, lúc này, trong từng phút giây hiện tại, không cảm nghiệm được sự ngọt ngào khi gặp gỡ Chúa. Ngôn sứ Isaia mô tả viễn cảnh đẹp trong bài đọc I: “Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và họ sẽ thôi học nghề chinh chiến.” (Is 2, 4).
“Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24,44).
Trước sau gì rồi ta cũng gặp Chúa thì hãy tìm gặp Chúa ngay từ đời này cho cuộc sống vui tươi hạnh phúc. Luôn tỉnh thức đáp lại tiếng Chúa gọi khi Ngài đến: Này con đây đã sẵn sàng. Sẵn sàng chờ đợi Chúa đến không phải là thụ động ngồi đó mà chờ đợi, nhưng luôn sống trong Chúa và dấn thân phục vụ anh em. Với thái độ sẵn sàng đón chờ Chúa đến, phải loại bỏ những cản trở như danh vọng, đam mê, những thứ khác ràng buộc, khiến ta mất tự do, không hoàn toàn thuộc về Chúa, để sẵn sàng ra đón tiếp Người đến cách chung hay riêng. Người Kitô hữu phải có thái độ luôn tỉnh thức. Canh thức còn là luôn ở trong tình trạng “đang làm nhiệm vụ”. Tỉnh thức là thái độ của người đầy tớ trung tín và khôn ngoan, biết mình đang làm gì. Sự lựa chọn trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số phận trong cuộc đời vĩnh hằng. Tỉnh thức là dấu hiệu của người đang sống đức tin sống động, kết hợp mật thiết với Chúa, sẽ có tâm hồn bình an hạnh phúc. Thánh Phaolô cũng cảnh báo tín hữu Rôma nơi bài đọc II: “Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương”. (Rm 13,13).
Ai mà biết được giờ nào thì Chúa đến? Chỉ có cách tốt nhất là luôn luôn trong tư thế sẵn sàng. Nếu lúc nào chúng con cũng “có Chúa ở cùng”, sống mật thiết với Chúa thì dù có bất ngờ, chúng con sẽ được vui vẻ ra đón rước Người, chứ không phải giật mình sợ hãi.
Thực ra Chúa luôn có đó, bên ta, trong ta mà ta không thấy, vì bị nhiều thứ trần gian che mờ con mắt, nên chẳng nhận ra và khó mà thấy được. Sống canh thức là luôn sống gắn bó mật thiết với Chúa trong mọi nơi mọi lúc, ở trên mọi nẻo đường đời, trong sâu thẳm cõi lòng, cả khi cô đơn. Sống như vậy thì lúc Người chợt đến, có chi là bất ngờ hay phải giật mình hoảng sợ? Canh thức như vậy thì Chúa đến bất cứ giờ nào cũng trong tư thế sẵn sàng. Chúa rất hài lòng và sẽ ban thưởng quá lòng ước mong.
Lạy Chúa! xin dạy chúng con biết sẵn sàng canh thức để đón Chúa qua việc tiếp xúc, cư xử tốt lành với tha nhân, để chúng con được hưởng hạnh phúc của người con tín trung, ngay từ bây giờ và cho đến muôn đời. Amen.
Én Nhỏ
Chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc đời mai sau
1- Ghi nhớ:
“Anh em hãy sẵn sàng,vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24, 44).
2- Suy niệm:
Không một ai, lúc bấy giờ biết con tàu Titanic mà lại nghĩ rằng: cuộc đời nó lại vắn vỏi như thế! Thật vậy, từ lúc đưa vào sử dụng (10/04/1912) đến lúc nó chìm sâu vào lòng biển cả chỉ vỏn vẹn có chưa tròn 5 ngày (chìm vào lúc 2 giờ 20 phút ngày 15/04/1912) khi thực hiện chuyến hải hành đầu tiên và cũng là cuối cùng từ Southampson (Anh) đến New York (Mỹ) mang theo 2.224 hành khách và số người thiệt mạng là 1.517 người.
Một con tàu mà người ta cho rằng nó “không thể chìm” bởi kích thước to lớn vững vàng của nó (dài 269 m, cao18 m và rộng 28 m), trên đó có sân chơi banh, có phòng hòa nhạc, có cả bể bơi. Sự kết thúc của nó vào lúc mà người ta cho an toàn nhất bằng yên nhất. Lúc đó khoảng 23 giờ 40 ngày 14/04, thời tiết rất là đẹp ,trời yên mây tạnh, mặt biển phẳng như một tấm gương. Và rồi khi phát hiện có một khối băng trôi khổng lồ trước mặt, người điều khiển con tầu chỉ có 37 giây để đổi hướng con tầu và rồi đẫ quá muộn.
Thế gian có rất nhiều những cám dỗ, những mê hoặc lôi cuốn khiến chúng ta dễ lãng quên đi mục đích tối thượng của cuộc đời là xây dựng cho mình hạnh phúc Nước Trời. Vì vậy Chúa Giêsu luôn cảnh giác chúng ta, cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa dạy cho chúng ta bài học là phải luôn đặt mình vào tình trạng cảnh giác, sẵn sàng, để đón chờ ngày Chúa ngự đến, hay nói cách khác là ngày kết thúc cuộc đời dương thế của mình. Con người ai cũng phải chết, đó là luật tự nhiên bất biến. Nhưng không ai biết trước được mình sẽ chết lúc nào? Chết cách nào? Và chết ở đâu? Bởi vậy chỉ có cách duy nhất để đối phó là luôn tỉnh thức và sẵn sàng. Mỗi người chỉ sống có một lần và cũng chỉ chết có một lần. Điều gì xảy ra sau cái chết sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi được. Bởi vậy, chúng ta phải chuẩn bị thật chu đáo cho cuộc đời mai sau của mình.
Sống sao chết vậy! Sống trong yêu thương thì sẽ chết trong bình an. Sống cho Chúa thì chắc chắn sẽ được chết trong Chúa.
Vâng lời Chúa, con luôn tỉnh thức.
Sống tâm tình cảnh giác, đợi trông
Cho dù: “Chủ đến” bất ưng
Con đây đã có hành trang sẵn sàng
3- Cầu nguyện :
Lạy Chúa. Cuộc đời trần gian là chuyến lữ hành mà đích đến là Thiên Đàng. Xin Ngài cùng đồng hành với chúng con, giúp chúng con luôn biết thức tỉnh mà vượt qua mọi cám dỗ, mọi mê hoặc ru ngủ chúng con ở đời nà. Để qua cuộc hành trình trần gian này rồi chúng con xứng đáng được Chúa cho vào dự phần trong Nước Hằng Sống của Ngài. Amen.
4- Sống Lời Chúa :
Sáng sớm khi vừa thức dậy, việc đầu tiên tôi sẽ làm là ghi Dấu Thánh Giá dâng ngày mới lên Thiên Chúa, xin Ngài gìn giữ và chúc lành. Tối đến trước khi đi ngủ, tôi tạ ơn và dâng linh hồn trong tay Chúa, xin một đêm yên hàn, mà nếu là đêm cuối cùng thì xin cho được ra đi bằng an trong tay Ngài.
Đaminh Trần Văn Chính
***
MỤC LỤC (2016)
4. Thánh hóa từng giây phút sống
5. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
6. Sống tỉnh thức – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Để Chúa đến trong cả cuộc đời
10. Một ánh sáng trong đêm tối
***
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay nói về ngày tận thế sẽ bất ngờ xảy đến. Tất cả những biến cố được mô tả cho thấy rằng trần gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thế nhưng mà nhiều người lại dừng chân ở đó. Họ cố gắng tìm tòi vật chất và ra sức xây dựng một thiên đường trần gian. Đó chính là trường hợp của những kẻ mà ngày xưa đã bị dòng nước hồng thuỷ cuốn trôi. Những ai không biết đọc những dấu chỉ thời đại rồi cũng bị những tai hoạ bất ngờ đổ xuống như vậy.
Trong chiều hướng ấy, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: liệu tôi đã nhận ra những dấu chỉ thời đại hay chưa? Liệu tôi có đọc được thánh ý Chúa qua những biến cố xảy ra trên mặt đất này hay chưa? Công đồng Vatican II trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng đã viết: Chúng ta đang gán cái ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con người và trên nhân loại?
Trước hết về phía con người. Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút niềm kính trọng đối với nhân vị. Theo một số nhà khoa học thì con người chỉ là kết quả của một sự tình cờ ngẫu nhiên trong đà tiến hoá của vật chất. Với một quan niệm như thế thì con người còn có giá trị gì? Trong khi đó Phúc Âm đặt con người vào trong mối tương quan với Đức Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Mặc dù tội lỗi, nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc, để rồi trở nên con cái Thiên Chúa. Sự sống con người là một cái gì linh thiêng. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận: chủ nghĩa duy vật hiện nay trong lý thuyết cũng như trọn cuộc sống là một dấu chỉ thời đại thôi thúc chúng ta phải xác định lại phẩm giá con người một cách mạnh mẽ.
Tiếp đến là cộng đồng nhân loại. Trong thế giới ngày nay, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như ngày nay. Từ phương trời này đến phương trời kia chúng ta có thể liên hệ với nhau chỉ trong giây lát. Phải chăng đó cũng là một dấu chỉ thời đại khiến chúng ta phải tạo cho mình một não trạng phổ quát, một não trạng công giáo bao trùm trên toàn thế giới. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy hiện nay Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
Ngoài ra những thành công của con người cũng là một dấu chỉ biểu lộ sự phong phú vô biên của Thiên Chúa nơi tạo vật. Thế nhưng uy quyền của con người càng tăng thì trách nhiệm của nó lại càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, trong một ý nghĩa tích cực, nếu nó duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa. Nếu nó xa lìa Thiên Chúa, thì uy quyền càng nhiều, sức phá huỷ của nó càng gia tăng. Trước những chuyển biến xảy ra hằng ngày, liệu chúng ta có tỉnh thức nhận ra sứ điệp Chúa muốn gởi đến hay không?
2. Chúa đến
Mùa Vọng là mùa trông chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói, cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh phúc:
Sẽ không còn chiến tranh, thù hận và hao tốn tiền của nữa, vì thời đại của Chúa là thời đại hoà bình. Bản thân Chúa chính là sự bình an như lời các thiên thần hát vang trên cánh đồng Bêlem: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Thời đại của Chúa là thời đại hòa bình như tiên tri Isaia đã diễn tả: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn tuốt gươm ra xông đánh nước kia. Mọi người sẽ chung sống với nhau trong hoà thuận và yêu thương. Sẽ không còn cái cảnh cá đớp cá, người trói người. Sẽ không còn cái cung cách người với người là chó sói của nhau bởi vì tứ hai giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em ruột thịt vì cùng là con của Cha trên trời.
Người ta sẽ không còn tranh chấp lừa đảo nhau nữa bởi vì Chúa sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ tuân theo ý định của Ngài. Mọi mơ ước của con người sẽ được thoả mãn, sẽ trở thành sự thật. Vậy cảnh địa đàng này bao giờ sẽ tới? Bao giờ Chúa mới ban cho chúng ta hoà bình và hạnh phúc đích thực và lâu dài?
Điều đó chúng ta không hay biết bởi vì Chúa đã phán: Vào lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến. Lúc Chúa đến có thể hiểu là giờ chết của mỗi người chúng ta, hay là ngày tận thế. Chúng ta không biết lúc nào sẽ xảy ra hai việc ấy. Do đó, lo lắng tìm biết lúc nào mình sẽ chết hay lúc nào sẽ là ngày tận thế? Đó là một việc làm luống công và vô ích. Trái lại hãy phó thác tương lai cho Chúa như lời Ngài đã phán: Chớ áy náy về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy, nhưng tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Ngài.
Vì thế, nhiệm vụ của chúng ta không phải là tìm biết ngày giờ lìa đời, hay ngày giờ tận thế, nhưng là chuẩn bị tâm hồn để có thể đứng vững trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Hay như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang lấy khí giới của ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng của xác thịt.
Có sống như vậy thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ được nghe những lời nói đầy êm dịu ngọt ngào và yêu thương của Chúa: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến, lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời, đã được dọn sẵn cho các con từ muôn ngàn thuở trước.
Qua phần phụng vụ Lời Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân, thì ngày sau hết chính là ngày cái chết gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự kiện vừa chắc chắn lại vừa gần gũi. Với cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà án tối cao của Thiên Chúa, để chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm khi còn sống ở trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho chúng ta thấy hai giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều cho chúng ta thấy hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Một người thì sẽ được đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn một người thì sẽ bị đày đoạ trong hoả ngục với muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã chống đối ơn sủng và tình thương của Chúa cho đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề quan trọng nhất đó là sống trong tình thương và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta: Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn bị và sửa soạn. Một tai nạn xe hơi. Một cơn đau tim hay một ngọn gió độc bất ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục thái độ can đảm của những người tín hữu trưởng thành, khi phải đối đầu với cái chết. Họ đã giục lòng ăn năn ám hối xin Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là một hồng ân Chúa ban bởi vì họ đã kịp chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành và thánh thiện. Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời của chúng ta được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết, và phải được chết đi trong tình thương và ơn sủng của Chúa. Để đạt tới mục đích này, không gì hơn là hãy thực hiện lời khuyên của thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói: Đêm sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vị ám muội và mang lấy khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài mới là đường, là sự thật và là sự sống của chúng ta mà thôi.
4. Thánh hóa từng giây phút sống
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Hôm nay chúng ta bắt đầu năm Phụng Vụ mới: năm Phụng vụ 2013-2014. Cùng với việc mừng “tết” Phụng vụ, chúng ta cũng đồng thời bắt đầu bước vào mùa Vọng mới.
Mùa Vọng mang hai đặc tính thiết thực: 1. Mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên Chúa nhập thể làm người. 2. Mùa mà qua cuộc kính nhớ ấy, mời gọi ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế.
Ngay ngày đầu mùa Vọng, cũng là ngày đầu năm, Hội Thánh, qua Lời Chúa, nhắc nhở ta tinh thần chuẩn bị sẵn sàng cho việc đón chờ ngày Chúa đến. Đó là ngày bất ngờ, ngày đáng sợ như đại lụt hồng thủy xưa:
“Thời ông Noê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
Theo cách viết của thánh Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm gì nên tội. Họ chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Họ chết trong cơn nước lụt, không phải là vì họ có tội, mà vì họ không thánh hóa mọi giờ khắc, mọi công việc của mình.
Họ đã không làm mọi việc trong tinh thần cầu nguyện, trong lòng yêu mến Chúa. Đúng hơn, họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả. Họ đã không làm những việc phải làm. Ngược lại, họ chỉ làm những việc không cần thiết.
Chúa Giêsu nhắc nhở ta phải luôn sẵn sàng vì Người sẽ đến bất cứ lúc nào. Sự sẵn sàng của ta không như những người thời Noê, nhưng là theo ý Chúa dạy. Nghĩa là, giữa cuộc sống trần thế còn nhiều bộn bề, nhiều vất vả, lo âu, nhưng ta chỉ tin tưởng phó thác vào Chúa mà thôi. Ta tập cho mình dù làm gì, ở đâu, bất cứ thời gian nào, đều biết thánh hóa giây phút hiện tại, biết hiến dâng chính giờ này, việc này, hoàn cảnh này cho Chúa.
Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận, con người của niềm hy vọng, đã nêu gương tuyệt hảo trong việc sống và thánh hóa giây phút hiện tại. Ngài nói: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút hiện tại, sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn; đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó”. (Đường Hy vọng 997). Đức Hồng Y càng sống niềm hy vọng, ngài càng ra sức thánh hóa phút hiện tại.
Ngày 15/8/1975, vừa khi bị bắt, ngài hụt hẩng, cô đơn vì không còn được thực hành mục vụ của một chủ chăn giáo phận. Nhưng ngay sau đó, Đức Hồng Y nhận ra, một tù nhân như ngài, không thể chờ đợi bất cứ tương lai nào. Ngài quyết định: Chỉ có thánh hóa và sống giây phút hiện tại. Ngài đã làm cho phút hiện tại chất chứa đầy tình thương.
Quá khứ đã qua, tương lai còn phía trước, chỉ có hiện tại nằm trong tầm tay của ta. Phút hiện tại sẵn sàng đồng hành với ta, giúp ta thể hiện mọi tư tưởng, thi hành mọi hành động trong cuộc sống và cho cuộc sống.
Chính khi thăng hoa phút hiện tại bằng cách thánh hóa nó, ta càng cảm nhận bàn tay kỳ diệu của Chúa vẽ thẳng trên những đường cong qua mọi ngày đời ta.
Như Đức Hồng Y, đón nhận lời mời gọi hãy tỉnh thức của Chúa Giêsu, ta hãy triệt để thánh hóa và sống thật tốt giây phút hiện tại của mình. Dù phải trăn trở, vất vả, lo âu, lao nhọc, mồ hôi, nước mắt, ta vẫn thấy Chúa đang hiện diện với mình, và bản thân đang ở trước mặt Chúa, ở trong Chúa.
Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến, ngày mà Người mời gọi ta về với Người.
Sống với Chúa luôn luôn như thế, là ta đang sẵn sàng, đang tỉnh thức chờ đợi ngày của Chúa. Từng giây phút sống sẵn sàng và tỉnh thức, cho thấy ta đang sống mãnh liệt niềm hy vọng trong Chúa của mình.
Sống với Chúa mãnh liệt và triền miên như thế, ta không còn sợ ngày tận thế sẽ là ngày bất ngờ với ta, vì luôn luôn có Chúa, luôn luôn hiện diện trong Chúa, chẳng có gì là bất ngờ cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con và tha thứ mọi tội lỗi, mọi thiếu sót mà trong một năm qua, chúng con đã xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em của mình. Xin cho mỗi chúng con, bước vào năm Phụng vụ mới, biết ý thức từng giây phút sống, để chúng con luôn sống cho Chúa và sống trong Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận tinh thần tĩnh thức, là sống thánh thiện, sống nhân đức, sống hiến dâng, sống phó thác làm phương cách chuẩn bị cho giờ ra đi của mình.
5. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm, Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: “Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!”. Mưu chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông…” nhưng rồi ý kiến nầy cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: “Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ thế nầy: “có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống đời sau… (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm) nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa muộn.”
Một tràng pháo tay giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài, chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối, sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì…
Qua bài trích thư gởi tín hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng mơ tưởng đời còn dài rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.”
Và Lời Chúa trong Tin Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như “Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”.
Nếu hôm nay, lúc còn an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay cả bây giờ, chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng quên phần rỗi đời đời của chúng con.
6. Sống tỉnh thức – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu “nước tới chân mới nhảy” thì quá trễ. Người Miền Trung đã quá thấm thía câu nói này qua những ngày tháng lũ lụt kéo dài suốt gần 1 tháng qua. Không có lương thực dự trữ, đa phần phải sống trong cảnh thiếu thốn, bữa no bữa đói. Có những nơi chỉ còn biết trông chờ ở những đoàn cứu trợ từ khắp nơi mang đến. Không ai nghĩ rằng lũ lụt lại quá kinh khủng như vậy. Thế nên, họ vẫn ăn uống, vẫn vui chơi, vẫn không cần tích trữ cho ngày mai. Họ đâu ngờ rằng có những ngày “gạo quế củi châu”, khiến họ phải đói khổ cơ hàn, để rồi phải ngửa tay van xin lòng thương xót của người khác. Họ đâu ngờ rằng những gì họ tích luỹ, cất dấu lại bị nước cuốn trôi và trở nên trắng tay lại hoàn trắng tay. Xem ra trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến độ “một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích”.
Hôm nay, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì, như “thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng”. Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi người. Một mình ông đóng tàu. Một mình ông chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình lên tàu, còn những người khác vẫn ăn uống, vẫn đàn hát cho đến khi cơn hồng thủy đến và nhậm chìm vạn vật và hàng triệu sinh linh trên mặt địa cầu.
Mùa vọng là mùa đợi chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ đến.
Ngày xưa có một ông cụ già cố cứu kinh thành Sôđôm khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa. Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn. Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
– Tại sao cụ nói cho họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
– Có lẽ tôi không thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Câu truyện kể trên chỉ là một dụ ngôn. Nhưng trên thực tế ông Lót ngày xưa sống trong kinh thành Sôđôm. Chính là ông già đó.
Trong thư thứ hai của thánh Phêrô có ghi rằng: “Chúa cứu Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công chính, tâm hồn luôn luôn bị dày vò vì những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng ngày quanh mình.
Ông Lót sinh sống tại vùng Sôđôma. Khi Sôđôma bị các nước lân bang xâm chiếm, Lót bị bắt đi. Abraham là chú phải ra tay tiếp cứu Lót. Nhưng Lót vẫn về sống ở kinh thành Sôđôma. Khi Chúa quyết định giáng tai họa xuống kính thành Sôđôma, Abraham đã cầu xin Chúa giải cứu, nhưng vì Sôđôma không có đến mười người kính thờ Chúa, nên đã bị tiêu diệt. Trước khi tai họa xảy ra, có hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót. Nhưng ông ta vẫn còn lần lữa. Khi đã ra khỏi Sôđôm, bà vợ ông Lót còn ngoái lại nhìn và đã bị biến thành tượng muối.
Vâng, trong thế giới ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim, băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, aid đã tiêu diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ, vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa. Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng: “cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài”.
Là người tin Chúa sống trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
7. Để Chúa đến trong cả cuộc đời
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách Ngôn sứ Isaia: “Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng Đức Chúa soi đường” (Is 2,1-5).
Ngôn sứ Isaia ước mơ về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục …
Isaia hướng nhân loại về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).
Khát vọng của Ngôn sứ Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến: Trình Thuật Mới Về Công Việc Sáng Tạo:
– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc, không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc), nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.
– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau, các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với lợi ích riêng biệt.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.
– Và Thiên Chúa nhìn thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật: bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.
– Và Thiên Chúa thấy cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân tộc và tôn giáo.
Và Thiên Chúa phán: “Sự việc phải như vậy”. Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.
– Và Thiên Chúa thấy cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.
Và Thiên Chúa phán: “Như thế là tốt”. Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.
– Và Thiên Chúa thấy cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.
Và Thiên Chúa phán: “Tất cả như thế là tốt”. Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.
– Và Thiên Chúa nhận thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.
Và Thiên Chúa phán: “Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành”. Đó là ngày thứ bảy của việc sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.
Một nền hoà bình đích thực dẫn đưa con người đến “trời mới, đất mới” (Kh 21,1) hiệp thông với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13), mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Thiên Chúa là Sự Sống, là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Năm Phụng Vụ khởi đầu bằng Mùa Vọng. Bài thánh ca quen thuộc ngân vang trong những sinh hoạt đạo đức hàng ngày: Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến, xin cho lòng chúng con luôn thắm đượm một tình yêu mến, xin cho lòng chúng con luôn ước ao, luôn khát khao, một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau…. để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi…
Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy trong trang Tin Mừng: ngày Con Người đến thật bất ngờ: vào ngày nào, giờ nào không một ai biết. “Lúc Con Người đến” chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng nó lại đến một cách bất ngờ. Bất ngờ như trận lụt đại hồng thủy thời ông Noê. Bất ngờ như hai người đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, một người bị đem đi, một người để lại. Không ai biết được mình sẽ ra đi lúc nào. Không ai biết được tương lai của mình ra sao. Không ai biết được ngày tận thế. Vào thời ông Noê, trong khi không ai để ý chuyện gì sắp xảy ra, cuộc sống vẫn cứ tiếp tục với những dấu hiệu bình an: “Thiên hạ vẫn ăn uống, dựng vợ gả chồng”. Chỉ có ông Noê là người tỉnh thức và sẵn sàng. Vâng lệnh Chúa, ông Noê đóng một chiếc tàu rất lớn. Đang khi đóng tàu, dân chúng chế giễu ông lẩm cẩm. Sau khi hoàn tất, ông và gia đình cùng với súc vật vào tàu, trời bắt đầu sấm chớp và đổ mưa như trút ngày đêm. Lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt. Tất cả đều bị cuốn trôi trong nước lũ. Chỉ còn lại gia đình ông Noê được cứu sống. Chúa đến sẽ bất chợt khi chúng ta đang làm việc, đang sinh sống, đang ăn uống, đang ngũ nghỉ.
Chúa đã đến và vẫn đến mỗi ngày. Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, là không quá mê say danh, lợi, thú. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa viếng thăm. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Mùa Vọng chúng ta trông chờ Chúa hay Chúa trông chờ chúng ta?
Mùa Vọng được khai mở với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Bước đầu là bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Trong một lớp giáo lý Rước Lễ Trọng Thể, khi được hỏi: “Con tàu No-ê đã trôi về đâu”, một em học viên tuổi vào đời đã trả lời nhanh: “Dạ, nó trôi lênh đênh như con thuyền không bến”.
Hay! Giữa trời biển bao la, còn đâu là bến bờ, câu trả lời thật thơ mộng và chính xác!
Nhưng đó chỉ là hình ảnh được hiểu theo kiểu “người trần mắt thịt”, thấy sau biết vậy. Con thuyền No-ê không trôi vô định, phó mặc dòng đời tùy hên xui may rủi, kiểu “con thuyền không bến” của người đời: “cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu”. Con thuyền No-ê đã được tạo thành có mục đích, nó trôi nổi giữa dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng mục đích.
Đó là một cuộc hành trình có khởi điểm, có lộ trình, và có điểm đến. Đó là một cuộc hành trình do Thiên Chúa hoạch định. Đó là ơn gọi vì yêu thương.
Bến cũ không còn an toàn, Thiên Chúa muốn ông No-ê rời bỏ nơi ấy, để đến bến bờ mới của sự sống, nơi sẽ là Trời Mới, Đất mới – một Thế Giới Mới. No-ê đã vâng lời. Ông tin những gì Thiên Chúa nói. Ông vâng phục những gì Thiên Chúa dạy. Ông phó thác mọi sự trong chương trình của Thiên Chúa.
Nên, giữa trời biển bao la, vẫn có một bến bờ mà nếu không có đôi mắt đức tin không thể nào thấy được, đó là bến bờ vô hình đang chờ đợi “con thuyền không bến” của No-ê cập bến: – bến bờ sự sống mới.
Như vậy, cuộc hành trình của con tàu No-ê là một cuộc hành trình hy vọng. Hy vọng những điểu tốt lành Thiên Chúa sẽ trao ban như lời Ngài đã hứa.
CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG
Chờ đợi luôn chứa đựng hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng. Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi sinh.
Đó là Mùa Vọng của con tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa.
Muốn có được niềm hy vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ “nằm há miệng chờ sung”. Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ luyện, con người mới vươn lên được. “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.
Cuộc sống chỉ để thỏa mãn những thú vui thấp hèn. Theo đuổi những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những thứ phàm tục thoáng qua. Buông thả theo bản năng. Mất phương hướng đời người. Không còn cảm nhận được những giá trị cao cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự chấm hết trong thế giới tan biến phù hoa ảo ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết được với nguồn sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Thời ông Nô-ê thế nào, thì con người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con người quan lâm cũng sẽ như vậy”. (Mt.24,37-39).
VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG NGỜ…
Ở quê tôi, không nhớ rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được trong chiếc quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.
Thật khó mà tả được hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt con lần cuối, nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng còn hình thù gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ và dự định ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.
Buổi sáng ngày dự định chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di ảnh đứa con trai cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một người ở ngoài đường hối hả chạy vào nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã cho biết tên Sang đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn sống!”.
Người mẹ đứng chết trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô, những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.
Ngay ngày hôm sau, người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân nhân đến tìm mộ.
Mấy ngày sau, tôi đến thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc. Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm, vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước lòng mẹ…
Ôi, sự sống quý trọng biết bao và là khát vọng muôn thuở của con người!
Tôi chợt nhớ đến hình ảnh của Chúa Giêsu đã xúc động trước đám tang của con trai bà góa thành Na-im (Lc.7,11-17). “Trông thấy bà Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc nữa’”. Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc rất lớn lao và thật không ngờ. “Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.
Niềm vui ấy không chỉ riêng của bà mẹ thành Na-im và bản thân người chết, mà còn là niềm vui của mọi người. Đó là nỗi khắc khoải chờ mong của mọi người, của kiếp nhân sinh. “Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người ’”. (Lc.7,16).
Đó là niềm vui lớn nhất mà chúng ta chờ đợi. Đó là hy vọng mà chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.
Cuộc đời của chúng ta có rất nhiều điều không ngờ. Chúng ta là thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương chúng ta đến mức không ngờ. Ngài tha thứ chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là Thiên Chúa mà chọn cái chết vì chúng ta thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không ngờ. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc không ngờ.
Chỉ có điều, ta đáp lại tình Ngài như thế nào qua cách sống của chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng trong niềm tin yêu Thiên Chúa. Nếu ta biết lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn lựa những gì thuộc về Chúa. Nào ta còn sợ gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi thay. Sóng gió tư bề bao phủ. Chuyện kinh thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề sợ đến “hồn xiêu phách lạc”, vì ta tin vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai trung thành và hằng kêu cầu đến Thánh danh Ngài. “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và hãy ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc.21.28).
Có một chút màu trắng trinh nguyên,
Có một chút màu đen bóng tối,
Có một chút màu xanh hy vọng,
Có một chút màu đỏ tình yêu.
Đan quyện lấy nhau.
Pha trộn vào nhau.
Để cho ra màu tím.
Màu Tím Mùa Vọng.
Màu của đợi chờ.
Lạy Chúa,
Cho con cúi xuống, chẳng dám nhìn lên,
Dòng lệ ăn năn khóc đời lầm lỡ.
Cho con ngước lên, dòng lệ òa vỡ,
Trông chờ Chúa thương cứu chuộc đời con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Quan Trung)
Thiên tai, địch họa, bão lũ, cuồng phong trong thời gian gần đây đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ vỡ! Đã cướp bao sinh mạng! Đã vùi bao mái ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?
Cuộc sống ngày càng mang tới nhiều nơm nớp lo âu: bạo hành từ gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo ngược trong cuộc sống! Bạo thiên nghịch địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại đất? Tại đời?
Đạo đức ngày càng thêm tuột dốc! Nhân cách ngày càng lúc nhạt phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn! Tình đời ngày tráo trở liên hồi! Nào phải tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng chẳng tại đời! Mà tại lòng người không thích lắng nghe lời hay, không muốn đi vào đường thiện, không cùng hòa nhịp yêu thương!
Tất cả những điều bất hạnh ấy đã được vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: “Hãy tỉnh thức!”(Lc 21,36); “ Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc 21,25).
“Hãy tỉnh thức”: – để sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
“Hãy tỉnh thức”: – để tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp “con”để sống đẹp kiếp “người”!
“Hãy tỉnh thức”: – để làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong; đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Lũ lụt miền trung
Bởi từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã gây họa cho nhau: rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ nước chặn nguồn, nên lũ trôi nước cuốn là lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh thẫm bị khai thác vô tội vạ, còn biết lấy đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh nộ của cuồng phong, nên đồi sạt đá lở nào phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao dòng sông đã không ô nhiễm! Bao khí trời đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu vương nhiều mầm bệnh!
Do từ lòng tham không đáy, mà chính mình đã giết chết đời nhau: bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành món hàng bị bán buôn, trao đổi, bị xóa đi nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã giết chết đường tương lai rạng rỡ. Đam mê, dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm chết bao lứa tuổi mộng mơ!
Rồi cũng từ lòng tham không đáy, nơi được gọi là rèn đúc nền tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái tâm của bao nhà giáo chân chính: loạn học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu. Nỗi đau này ai gánh, ai mang?
Mùa Đông se lạnh đang về. Mùa Vọng chờ mong một cuộc hoán chuyển lòng người đã tới. Có mấy ai muốn nghe lời nhắn nhủ đầy yêu thương của Đấng muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình: “Hãy tỉnh thức đi con! Hãy quay về đi con! Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự lột xác, để đời không còn bị trói buộc trong ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen tương, trong tính toán tom góp vật chất mà quên rằng: cuộc sống này rồi cũng qua đi nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết! Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết phần “con” chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần “người”!
Nếu sống phút giây hiện tại như giây phút cuối đời mình: Chắc không mấy ai mãi mê chạy theo danh vọng!
Nếu sáng thức dậy mà biết hoàng hôn chưa xuống thì cuộc đời mình sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng mấy ai đắm chìm trong biển vàng rừng bạc!
Nếu sống mà tỉnh thức như thế, tận thế hay không cũng chẳng còn là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ trở nên niềm vui hạnh phúc! Nỗi lo lắng cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh trĩu nặng trên vai!
Chúa không cảnh báo, răn đe, mà Chúa đang khuyên nhủ, đang mời gọi, đang mở đường để ta không phải lệch đường, sai lối trên con đường lữ hành hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy yêu thương ấy; lời mời gọi đầy ân tình ấy; có phút nào ta mở rộng tim mình để cảm nhận, để đáp trả, để Chúa có thể vào trú ngụ không đây?
10. Một ánh sáng trong đêm tối
(Suy niệm của Bernard Lafrenière – BTGH chuyển ngữ)
Trong hành trình, ban đêm, trên một con đường xa lạ, chúng ta chỉ cần nhìn thấy một ánh sáng hoặc một ngôi nhà để cảm thấy được an tâm. Như vậy, khi chúng ta vượt qua những giai đoạn khó khăn, chúng ta tìm một ánh sáng trong đêm tối. Trong ba bài đọc hôm nay, nói về giấc ngủ, đêm tối và ánh sáng.
“Hãy đến – lời tiên tri Isaia nói với chúng ta – hãy bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa”. Thánh Phaolô viết: “Giờ đã đến để ra khỏi giấc ngủ… Đêm sắp tàn,ngày đang đến gần…”. Chúa Giêsu nói thêm: “Hãy sẵn sàng: Chính vào giờ các con không ngờ, Con Người sẽ đến…”. Và như để nhấn mạnh tầm quan trọng của thông điệp nầy, Chúa Giêsu đưa ra ba ví dụ, trong đó những người không nghi ngờ gì hết trong khi một biến cố hệ trọng xảy ra.
Trong trình thuật của sách Sáng Thế Ký, một tình huống khác thường sắp sửa đảo lộn nhân loại,nhưng không ai mảy may nghi ngờ, trừ một người tên là Noé. Xung quanh Ông, người cưới hỏi, ăn uống như thể không gì có thể xảy ra. Chỉ có Ông Noé là làm cho mình một con tàu ngay giữa nông thôn. Vả lại, Ông đã rất già yếu và người ta thích chí ngắm ông làm. Chúa Giêsu nói thêm: “Người ta không nghi ngờ gì hết, cho tới khi nạn hồng thủy ập tới chôn vùi tất cả bọn họ: đó cũng sẽ là ngày Con Người đến.
Hai người đàn ông sẽ ở ngoài đồng, làm công việc rất bình thường, giữa thiên nhiên: “một người được đem đi, người kia bị bỏ lại”. Hai người phụ nữ sẽ ở cối xay bột. Người ta vẫn còn tìm thấy những chiếc cối nhỏ Phương Đông được làm với hai hòn đá đặt chồng lên nhau và một hòn có một tay nắm, mà hai phụ nữ ngồi chuyển cho nhau để làm cho viên đá nầy quay. Đây là một công việc rất đơn giản. Cả ở đó nữa, – Chúa Giêsu nói – “một người được đem đi, một người bị bỏ lại”.
Nhưng biến cố nào sẽ chợt xảy đến với chúng ta? Tại sao lại phải thức dậy khi đang ngủ và để cho mình được dẫn đi theo ánh sáng? Muốn hiểu nó, chỉ cần nhìn những người sống xung quanh ta và tự hỏi: “Điều gì làm họ chăm chú vậy?”
Nhiều người an toạ tốt bao nhiêu hay bấy nhiêu trong thế gian chóng qua nầy. Đã hẳn tiện nghi cung cấp cho chúng ta một sự thoải mái nhất định. Nhưng cuộc sống qua đi và không có gì mỏng manh như là những lời hứa của thế gian nầy. Phải thức dậy: Đức Chúa đang đến! Chúng ta phải chỉnh tề khi Nước Thiên Chúa sắp đến!
Mục lục (2019)
1. Lòng hiếu khách (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Bất ngờ và thức tỉnh (Gm. Giuse Trần Văn Toản)
3. Sẵn sàng cho tình yêu (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Tỉnh thức (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
5. Chuẩn bị gì cho ngày Chúa đến (Sr. Anna Như Ý, MTG.Thủ Đức)
6. Hạnh phúc bất ngờ (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
7. Không ngờ (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
8. Sống tỉnh thức (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
9. Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
10. Tỉnh thức đợi chờ (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
11. Dọn lòng đón Chúa (Lm. Minh Vận, CRM)
12. Người đến để con tim được vui trở lại (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
13. Ngày và đêm (Lm. Bùi Quang Tuấn)
14. Có thể đây là năm cuối đời tôi (Lm. Hà Ngọc Đoài)
***
LÒNG HIẾU KHÁCH
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc gặp gỡ giới trẻ châu Á do Cộng đoàn Taizé tổ chức tại Hong Kong vào tháng 8 năm 2019 đã chọn đề tài “Chúng ta đừng quên lòng hiếu khách”. Câu Kinh Thánh này được trích dẫn từ Thư gửi tín hữu Do Thái: “Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết” (Dt 13,2). Nếu chúng ta cần tỏ lòng hiếu khách, là vì Thiên Chúa cũng rất quảng đại đón tiếp chúng ta. Qua công trình tạo dựng, Ngài đã gọi chúng ta từ hư vô tới hiện hữu. Khi chúng ta phạm tội, Ngài đã giang rộng vòng tay đón chào chúng ta trở về. Lòng hiếu khách của Thiên Chúa, vừa tạo dựng chúng ta, vừa tha thứ cho chúng ta với tình cha nhân hậu thắm thiết.
Chúng ta đã bước vào Mùa Vọng, là thời điểm nhắc nhớ chúng ta: Con Thiên Chúa đã đến trong lịch sử. Tài liệu hướng dẫn suy niệm của Cộng đoàn Taizé viết: “Chúa Giêsu bày tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa là tình yêu, trao gửi cho chúng ta tình bằng hữu. Một cách khiêm nhường, Chúa Kitô đứng trước nhà chúng ta và gõ cửa. Như một người nghèo, Người hy vọng và chờ đợi sự hiếu khách của chúng ta. Nếu ai đó mở cửa cho Người, Người sẽ bước vào”. Vâng, Chúa Giêsu đã đến trần gian cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay, Người vẫn tiếp tục đến trong tâm hồn chúng ta. Người kiên nhẫn gõ cửa và chờ đợi chúng ta mở cửa. Đó không phải là cánh cửa của một căn nhà, nhưng là cửa tâm hồn. Những ai mở rộng cửa tâm hồn để đón chào Chúa, chắc chắn sẽ gặp được bình an và hạnh phúc.
Lòng hiếu khách đối với Ngôi Lời nhập thể, nhưng mỗi chúng ta cũng phải có lòng hiếu khách đối với anh chị em mình, bởi vì, như lời tác giả thư Do Thái trích dẫn trên đây, trong khi chúng ta đón tiếp anh chị em, chúng ta được đón tiếp các thiên thần của Thiên Chúa và được đón tiếp chính Chúa Giêsu, vì Người đã tự đồng hóa với những người bé mọn, cô thế cô thân và không nơi nương tựa.
Để thể hiện lòng hiếu khách một cách cụ thể, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Sự tỉnh thức được nói đến trong Kinh Thánh, chính là sự khôn ngoan, cân nhắc và thận trọng để lựa chọn cho mình một hướng đi, một nghề nghiệp và một lối sống. Tỉnh thức cũng là sự sẵn sàng để bất cứ Chúa đến lúc nào, chúng ta không bị bất ngờ. Câu chuyện ông Nôê và trận đại hồng thủy là một bài học cho con người ở mọi thời đại. Khi ông Nôê đóng tàu, có nhiều người chê cười nhạo báng vì cho đó là điều ảo tưởng vô ích. Con người ngày nay cũng bỏ ngoài tai những lời giáo huấn của Chúa. Họ chỉ chú ý đến cuộc sống hiện tại, lấy vật chất làm tiêu chuẩn, lấy lợi nhuận làm định hướng cho cuộc đời.
Theo thánh Phaolô, tỉnh thức nghĩa là sống đàng hoàng, như ban ngày và từ bỏ những hành vi ám muội. Những kẻ trộm cắp hay hành động về ban đêm. Thánh nhân khuyên chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu”. Ngài cũng giải thích chi tiết khái niệm “sống giữa ban ngày”: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương”. Nhờ vậy, khi Chúa đến, chúng ta được thanh thản tâm hồn để đón Người.
“Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự chờ đợi nào cũng dễ làm cho chúng ta nóng lòng sốt ruột. Chúa đã hứa: những ai kiên trì và trung thành tỉnh thức sẽ được Chúa ban thưởng, vì họ có lòng hiếu khách và trân trọng đợi chờ ngày Chúa đến. Ngày Chúa đến trước hết là khi chúng ta kết thúc cuộc đời. Ai cũng sợ chết nhưng chẳng ai phủ nhận được sự chết. Dù trường thọ cao niên, dù dồi dào bổng lộc, chẳng ai sống mãi trên đời. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: Giờ chết là giờ phán xét riêng. Mỗi người phải trình diện trước nhan Chúa về hành vi cử chỉ của mình đối với Chúa và đối với tha nhân.
Ngày Chúa đến cũng là ngày “quang lâm”, tức là Chúa đến trong vinh quang để phán xét nhân loại. Đó là ngày vinh quang đối với những ai sống công chính, nhưng là ngày đại họa cho những kẻ sống hận thù. Chúa Giêsu là vị Thẩm phán công minh, sẽ căn cứ vào mối tương quan với tha nhân của chúng ta mà xét xử (x. Mt 25, 31-46).
Lời ngôn sứ Isaia (Bài đọc I) mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử. Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuộc thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu đã đến trong lịch sử, cách đây hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Chúa vẫn đến với tâm hồn cá nhân mỗi người. Chúng ta hãy thể hiện lòng hiếu khách đối với Chúa, vừa đón Chúa đến trong tâm hồn, vừa dọn đường để Người đến nơi mọi nẻo đường trần gian, hầu vương quốc hòa bình của Chúa được lan tỏa khắp nơi.
.
Gm. Giuse Trần Văn Toản
Giáo Hội bắt đầu năm phụng vụ với mùa vọng. Đây là mùa đón chờ Chúa đến. Trong bài Phúc Âm của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm A, Mt 24, 37-44, Chúa Giêsu cảnh báo: “Các con hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Đây là tính bất ngờ của việc Chúa đến, và vì bất ngờ, nên phải luôn tỉnh thức.
Tính bất ngờ của việc Chúa đến: Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu trưng dẫn sự kiện xảy ra thời ông Noe: “Thời ông Noe thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (c.37-39). Trong lịch sử thánh, Chúa đã bất ngờ giáng sinh trong máng cỏ như một hài nhi của một gia đình di dân không tìm được quán trọ tại Belem (Mt 2,7). Tính bất ngờ của việc Chúa đến vẫn còn xảy ra trong hiện tại cho đến ngày cánh chung. Vì, một trong những cách mà Chúa ưu tiên chọn lựa để đến với ta hàng ngày là Chúa đến qua những người đói khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày (Mt 25,31-46).
Vì bất ngờ nên phải thức tỉnh: Chúa Giêsu so sánh với thái độ thức tỉnh canh chừng kẻ trộm của người chủ nhà: “Anh em hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c.43-44). Trong biến cố Chúa đến lần thứ I tại Belem, chỉ một nhóm nhỏ thức tỉnh và đã gặp Chúa. Đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse, ông Giacaria và bà Isave, các mục đồng và các nhà đạo sĩ, ông Simeon và bà Anna. Để đợi chờ Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, sách Khải Huyền dạy ta phải thức tỉnh mới lắng nghe được tiếng Chúa gõ cửa đời ta: “Hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn. Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3, 19-20).
Thức tỉnh là sống tốt giây phút hiện tại: Quá khứ là những gì đã qua, tương lai là những gì chưa tới, và ta chỉ có hiện tại để sống. Chính vì thế, ta cần ý thức rằng: thường thì ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể phá hủy hiện tại bằng cách quá tiếc nuối quá khứ, và quá lo lắng cho tương lai. Thức tỉnh sống hiện tại là phải sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời ta. Vì là ngày cuối cùng, nên phải “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (2Cr 5,9). Và lời khuyên của Thánh Phaolô luôn là cần thiết và hữu ích: “Thưa anh em, chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ (1Tx 5, 4-6)… Hãy từ bỏ những hành vi ám muội… không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghanh tị… chớ lo lắng và thỏa mãn những dục vọng xác thịt” (Rm 13,11-14).
Thức tỉnh cần thinh lặng trở lại với lòng mình để thiết lập tương quan với Thiên Chúa: Thường xuyên trở lại với lòng mình trong thinh lặng nội tâm, tâm hồn ta được coi như mảnh vườn thiêng liêng, trong đó, Chúa Thánh Thần như “Bác Làm Vườn” thường xuyên chăm sóc và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Trong cuộc gặp gỡ này, Chúa thức tỉnh hồn ta về khát vọng Thiên Chúa của ta vì ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Từ khát vọng này, đi đến ý thức rằng không phải ta khát vọng Thiên Chúa trước, mà thực ra, chính Thiên Chúa khát vọng ta, và vì thế Ngài luôn đến tìm ta, chờ đợi ta, và vui thích ở với ta. “Mỗi buổi chiều, trong gió hiu hiu, Thiên Chúa đến địa đàng đi dạo và đàm đạo với Adam và Eva (x. Kn 3,8). Đây là lúc ta có thể thốt lên như Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa mà thôi”. Khát vọng này tạo nên sự thức tỉnh trong cuộc sống, như hơi thở, như nhịp đập của con tim, như dòng máu lưu thông trong thân thể…
Thiết lập tương quan với Chúa để ta cũng thiết lập tương quan với tha nhân: Đó là tương quan của ta với con người thời đại. Người môn đệ Chúa Kitô, theo gương mẫu của Thầy Chí Thánh trong mầu nhiệm Nhập Thể, tìm thiết lập các tương quan bằng chia sẻ cuộc sống với những cảm thông, bao dung, và đồng hành. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng của Công đồng Vaticanô II viết: “Vui Mừng và Hy Vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1). Hơn nữa, người Kitô hữu, còn tìm thiết lập các tương quan bằng tinh thần yêu thương và khiêm tốn phục vụ nhau như Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thế: “Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Nhất là, người môn đệ của Đức Kitô sống theo lý tưởng của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, đã hiến thân vì anh chị em, “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người”. Trong tương quan với tha nhân, không những ta gặp được Chúa mà còn bước theo gương mẫu yêu thương, phục vụ, và tận hiến.
Thiết lập tương quan với Chúa và với tha nhân, để ta cũng thiết lập tương quan với thiên nhiên trong tâm tình ngợi khen, tạ ơn và trách nhiệm: Thông điệp “Chăm sóc ngôi nhà chung – Laudato si” đã dùng bài ca vạn vật của Thánh Phanxicô để ca tụng Đấng Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa của con, chúc tụng Chúa qua người chị của chúng con, Mẹ trái đất, là người nuôi dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao hoa thơm cỏ lạ” (số 1). Và số 9 viết: “Là Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu…”. Chính trong tương quan với thiên nhiên này, mà ta ý thức ta và thiên nhiên có cùng một nguồn gốc là Đấng Tạo Thành, để ta tận hưởng thiên nhiên như ân phúc của Thiên Chúa, đồng thời ta ý thức trách nhiệm cộng tác với Đấng Tạo Thành để chăm sóc thiên nhiên, hướng về Trời Mới Đất Mới của Nước Thiên Chúa, ngày Chúa Giáng Lâm trong vinh quang.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Giả sử trần gian này vắng bóng tình yêu, một nhân loại sẽ không bao giờ tồn tại và giả sử nhân loại này quên mất ý nghĩa tình yêu đích thật, nhân loại sẽ sống trong hỗn loạn, tội lỗi, sự xấu ngập tràn. Cần có một Tình Yêu đích thật giáng thế, để con người có thể đối chiếu, tỉnh thức với những cám dỗ, tránh được những dục vọng thấp kém đánh mất tình yêu đích thực để sống.
Tỉnh thức
Tỉnh thức chẳng bao giờ là thừa, chung quanh và ngay ở trong con người ta cũng đầy những cám dỗ, những ảo tưởng, những tham lam để sống.
Trong trần gian, những buôn bán chợ đời, những rong ruổi, vất vả lo âu, như trang Tin Mừng diễn tả: “Thời ông Nô-ê thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy.” (Mt 24, 38).
Ta có thể nói, không có thời gian để dừng lại, để suy nghĩ; nhưng vấn đề không biết dừng lại xem xét lại và để hồi tâm, con người đang tự đánh mất niềm vui sống đích thực. Cuộc sống đâu chỉ là ăn uống, làm lụng, hưởng thụ, ngày qua ngày như trả nợ đời.
Cuộc sống cần có tình yêu đích thật để sống. Thiếu tình yêu đích thật, con người trở nên chai cứng, sỏi đá, không hiểu trần thế mình đang sống đáng sống biết bao; không hiểu anh chị em mình chung sống dễ mến dường nào? Ta không hiểu vì ta không yêu thương, hoặc ta không yêu thương vì ta không hiểu. Ta dành hết thời gian lo cơm, áo, gạo, tiền, cuộc đời của ta là nhà cao, cửa đẹp. Những thứ vô hồn đẩy đưa ta vào chốn cô đơn.
Những khu rừng biến thành gỗ, những tài nguyên thành những món tiền, những tình yêu chỉ thoả lòng dục, những con người trở thành món hàng… Thiếu tình yêu nên sống với nhau là hận thù, ghen ghét, chiếm đoạt, lừa dối, đe doạ, giết chết lẫn nhau.
Trong tất cả những hỗn loạn đó, cần có thời gian dừng lại, suy gẫm, dọn lòng đón nhận tình yêu giáng thế, chính vì thế mà ta cần có mùa Vọng, bình tâm suy xét.
Tình yêu giáng thế.
Tình yêu không là ngôn từ sáo rỗng, tình yêu giáng thế là một Thiên Chúa xuống thế làm người, bằng xương, bằng thịt. Một tình yêu mang danh Giê su ở giữa nhân loại. Một tình yêu vô biên đổ rót vào những tình yêu giới hạn và vẫn không ngừng đổ rót: “Tặng vật người ban vô biên vô tận, nhưng để đón xin, tôi chỉ có hai tay bé nhỏ vô cùng. Thời gian lớp lớp đi qua, người vẫn chửa ngừng đổ rót, song lòng tôi thì hãy còn vơi.” (Lời dâng, bài số 1. R. Tagore).
Tình yêu đích thực dạy ta cách sống, chỉ cho ta những tặng vật tình yêu Chúa ban ngay trong tâm hồn. Cho ta niềm vui vĩnh cửu, lòng yêu mến tràn đầy ra khỏi những nhỏ nhoi đời sống. Thường khi ta nhận gì của ai, khi thiếu vắng tình yêu đích thật, ta chỉ nghĩ đến những giá trị đổi chác, qua mau, như người ta vẫn nói: “Có qua, có lại”, “Của biếu là của nợ”. Ta trao nhau bằng tình yêu đích thật như tình yêu của Chúa dành cho ta, Thánh Phaolô nói: “Anh em chớ mắc nợ nhau điều gì, trừ ra tình thương mến! (Rm 13,8). Đó là cuộc sống Chúa dạy để sống chan hoà yêu thương.
Tình Yêu giáng thế cho ta niềm vui để sống, nhận ra tương quan mật thiết giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, giúp ta mến yêu cuộc sống này mà dấn thân cho những giá trị vĩnh cửu, mang tình yêu đến cho anh chị em, xoá vết lầm than đau khổ nơi người yếu thế, bị bỏ rơi, nghèo khó. Đem tình yêu vào chốn hận thù, xây dựng đời sống công bằng, bác ái yêu thương.
Tỉnh thức và cầu nguyện! Đêm an hoà, đêm an bình, đêm Tình yêu giáng thế, cho ta sống trọn vẹn niềm vui và bước vào một năm mới với tâm hồn mới, một chặng đường vươn tới trời cao với lòng hân hoan.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Vọng. Mùa Vọng là mùa của sự mong chờ và tỉnh thức. Giáo Hội với tấm lòng yêu thương của người mẹ hiền đã chuẩn bị cho con cái những món ăn tinh thần nuôi dưỡng rất thích hợp qua phụng vụ lời Chúa của các mùa lễ.
Trong cuộc lữ hành trần thế với những đổi thay của thời khí và mùa màng. Giáo Hội dẫn chúng ta bước vào Mùa Vọng với nhiều ý nghĩa khác biệt. Nhà thờ được chuẩn bị với Vòng Hoa Mùa Vọng và từng cây nến được thắp lên mỗi tuần. Ánh sáng của cây nến đã dần đẩy lui đêm tối để mở cửa cho ánh sáng tinh tuyền chiếu dọi.
Bài phúc âm hôm nay giới thiệu cho chúng ta hình ảnh của ngày cuối đời nơi mỗi người. Ngày giờ sẽ đến với mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau. Như có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng làm việc, một người được tiếp nhận và một người bị bỏ rơi.
Trong cuộc sống, chúng ta chứng kiến biết bao những người anh em cùng lứa tuổi, cùng xóm làng và cùng hoàn cảnh đã ra đi. Có người ra đi một cách rất đột ngột như bị tai nạn, chiến tranh, động đất, sóng thần và nhiều nguyên nhân khác. Có người được chuẩn bị đôi chút trên giường bệnh. Sự ra đi nào cũng là sự bất ngờ. Không mấy ai thỏa mãn hoàn toàn với cái chết của mình trừ khi họ sống trong tỉnh thức.
Phải tỉnh thức như người lính gác mong trời rạng đông. Tỉnh thức như người bị lạc trong rừng sâu với muông thú hiểm nguy. Tỉnh thức như người đang lái xe trên đường. Cuộc đời chúng ta là một hành trình đi về một cùng đích. Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống, nhưng lại không ý thức mình đang sống. Đôi khi thức nhưng chúng ta không tỉnh táo để quan sát sự việc xảy ra chung quanh. Không gì nguy hiểm bằng khi chúng ta đi lang thang không mục đích. Do vậy, sống là chúng ta không ngừng tiến về phía trước và tỉnh thức sẽ giúp chúng ta luôn định hướng để khỏi bị lạc đường.
Hãy chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa sẽ đến với chúng ta qua nhiều cách trong cuộc sống hiện tại. Chúng ta có thể gặp gỡ Chúa qua người thân yêu, người nghèo khó ốm đau, trẻ em nơi đầu đường xó chợ, nơi những người bần cùng nhất của xã hội và qua sự cầu nguyện liên kết với Chúa. Đôi khi Chúa hiện diện gần bên mà chúng ta không hay biết. Chúng ta hãy mở rộng cửa đón Chúa qua môi trường và tha nhân.
Chúa cũng sẽ đến bất chợt vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời và vào lúc không ngờ, chúng ta hãy sẵn sàng. Đây thực sự là giây phút quan trọng mà chúng ta cần chuẩn bị và thức tỉnh để đón Chúa cả bây giờ và ngày sau.
.
Sr. Anna Nguyễn Như Ý
Kẻ trộm đến không bao giờ báo cho chủ nhà biết trước, vì thế chủ nhà thường hay đề phòng, chuẩn bị mọi thứ thật cẩn thận để bản thân không bị hại, cũng như của cải sẽ được bảo toàn. Cũng vậy, sự đến bất ngờ của tên trộm giống như ngày Chúa đến là hình ảnh mà Đức Giêsu muốn kêu mời những ai đang sống miên man trong những đam mê của mình, hãy mau tỉnh thức trở về với Chúa, nếu không họ sẽ không còn nhiều thời gian để chuẩn bị cho cuộc hội ngộ bất ngờ này.
Lời Đức Giêsu hôm nay cũng là lời thức tỉnh mỗi người chúng ta, bởi Thiên Chúa không muốn bất cứ một ai phải diệt vong trong ngày Con Người đến nhưng muốn họ được sống đời đời. Lời Ngài nói không có ý đe dọa chúng ta, làm cho cuộc sống của chúng ta bị phân tâm, ăn không ngon, ngủ không yên. Ngài báo trước những sự việc sẽ xảy ra để nhắc nhở chúng ta rằng, cuộc sống nơi trần gian này không phải là vĩnh cửu. Ngài thức tỉnh chúng ta bởi Ngài yêu thương chúng ta, mà những ai được Thiên Chúa yêu thương, sẽ luôn luôn được Người khuyên răn chỉ dạy (x. Dt 12 , 4 – 15). Vì lẽ đó, chúng ta hãy sống và lo cho tương lai vĩnh hằng của chúng ta chứ không chỉ sống cho cuộc sống tạm bợ này, để khi Chúa đến chúng ta không bị bối rối, bỡ ngỡ nhưng hân hoan ra đi với Người như những cô trinh nữ khôn ngoan luôn sẵn sàng đèn dầu đi đón chàng rễ (x. Mt 25, 1 – 13).
Tỉnh thức và sẵn sàng không có nghĩa là chúng ta không bao giờ chợp mắt, chúng ta cũng phải sống và sống một cách có ý nghĩa nơi trần gian này chứ không phải ngồi chờ sung rụng. Cuộc sống này đáng để cho chúng ta phải sống, vì chính Chúa đã tạo dựng nên nó cho chúng ta sử dụng. Tuy nhiên, cuộc sống trần gian này cũng chỉ là phương tiện Chúa dùng để chúng ta biết cách sinh lời cho tương lai vĩnh cửu của ta. Ngài không muốn chúng ta vì một chút lợi ích của cải trần gian mà quên mất nghĩa vụ của mình là làm thế nào để chiếm cho được phần thưởng Nước trời. Bởi “nếu được cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích chi” (Lc 9, 25).
Là những Kitô hữu, chúng ta được mời gọi để sống cho những giá trị Tin mừng. Chúng ta đang mang trong mình một trách nhiệm cao cả là làm cho Nước Chúa hiện diện giữa thế gian này. Chúng ta không sống cho những thú vui nơi trần gian của chúng ta nhưng làm cho cuộc sống chúng ta sinh hoa kết quả, nhờ vào những công đức chúng ta đóng góp vào việc xây dựng Nước Chúa. Giữ đạo và sống đạo không chỉ là việc chỉ đi nhà thờ, đọc kinh, xem lễ thường xuyên, nhưng còn bằng việc bác ái của chúng ta đối với anh chị em sống chung quanh chúng ta. Bởi Chúa nói “hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại” ( Mt 24, 40 – 41). Nếu là Kitô hữu mà chúng ta bị bỏ lại thì đó là chúng ta đang sống nhưng chưa thật sự tỉnh thức. Chúng ta sống với hình thức bên ngoài chỉ vì một chút danh vọng, địa vị chứ không vì tình yêu dành cho Thiên Chúa. Đừng nghĩ rằng, chúng ta là những người đã được rửa tội, mang danh Kitô thì sẽ được cứu thoát trong ngày Chúa đến, bởi việc cứu thoát còn tùy thuộc vào sự cộng tác trong cách sống của mỗi người chúng ta đối với Thiên Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thức tỉnh chúng ta từng giây phút sống, giúp chúng ta biết cách chọn lựa thế nào cho phù hợp với ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa luôn yêu thương mời gọi chúng con hãy tỉnh thức và sẵn sàng cho ngày Chúa đến, vì Chúa biết thân phận yếu đuối của mỗi người chúng con luôn có thiện chí nhưng chưa đủ khả năng để hoàn thành trách nhiệm của một người Kitô hữu. Xin Chúa ban ơn thêm sức giúp chúng con biết nhận ra đâu là những giá trị bền vững cho cuộc sống vĩnh cửu, để chúng con luôn sống cho Chúa và chờ Chúa đến cách hân hoan trong ngày quang lâm. Amen.
.
Bông hồng nhỏ
Cuộc sống luôn có những bất ngờ. Có bất ngờ mang đến niềm vui, hạnh phúc tràn đầy nhưng cũng có những bất ngờ dẫn đến nỗi sợ hãi và đau khổ. Hôm nay, Chúa Giêsu nói về ngày Con Người quang lâm. Ngày ấy cũng sẽ đến cách bất ngờ. Đó sẽ là ngày tràn ngập niềm vui hay là ngày mang lại những sợ hãi và đau khổ cho ta?
“Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4, 8). Thánh Gioan Tông đồ đã xác tín như vậy và tất cả những ai được nhận biết Thiên Chúa là Cha nhân lành đều cảm nhận được tình yêu thương vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho mình. Chắc chắn những gì Thiên Chúa để xảy đến cho ta đều xuất phát từ tình yêu bao la mà Ngài dành cho ta. Điều quan trọng là chính ta phải đón nhận tất cả những gì xảy đến với tâm tình và thái độ nào. Khi đứng trước sự ra đi của một người thân, ta được đặt trước một bước ngoặt quan trọng của cuộc đời. Có một trật tự mới đã được xếp đặt lại trong cuộc đời ta. Có một người ta yêu mến đã đi về cùng Chúa. Và sẽ có một ngày, ta cũng sẽ trở về với Thiên Chúa, trở về nơi ta đã xuất phát. Ngày người thân yêu của ta ra đi đã xảy đến cách bất ngờ. Nói cách khác, ta đã quá bất ngờ trước một sự thiếu vắng đến hụt hẫng. Bởi ta đã chưa bao giờ nghĩ đến hay dám nghĩ đến một sự thật dường như đầy phũ phàng như thế. Ta chưa hề sẵn sàng cho biến cố ấy. Đó là một lời nhắc nhở đầy yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho ta, để ta được thức tỉnh khỏi tình trạng ngủ mê trong nhịp sống đầy vội vã. Dường như càng vội vã, người ta càng không thể tỉnh thức được, vì họ quên mất rằng mình là ai và mình sẽ đi về đâu và đâu mới thật là ngôi nhà vĩnh cửu của con người, đâu mới là cùng đích của họ. Trước những sự bất ngờ như thế, thay vì khóc lóc đau khổ mãi thì ta phải dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã thức tỉnh ta ngang qua cái chết của người ta yêu thương.
Nghĩ đến ngày Con người quang lâm phải chăng có lẽ quá xa vời? Chẳng ai biết trước được ngày đó sẽ đến lúc nào. Hãy nghĩ đến ngày Thiên Chúa gọi ta về, có thể là lát nữa đây hay ngay ngày mai và có thể là những ngày sau đó. Ta sẽ làm gì đây? Ngồi chờ đợi trong sợ hãi hay sống thật vội vã? Không phải. Giây phút hiện tại ta đang có chính là giây phút kết dệt nên đời ta. Hãy sống từng giây phút đong cho đầy tình yêu, yêu Chúa và yêu người bằng một cuộc sống dấn thân phục vụ. Khi sống trong sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa, chắc chắn ta sẽ được Ngài ban sức mạnh và lòng cậy trông vững vàng, một niềm mến yêu tha thiết và một đức tin kiên cường trong thử thách. Hãy luôn luôn để Chúa làm chủ đời ta và sẵn sàng đón Chúa đến ngay nơi cung lòng ta từng ngày, để khi ngày Chúa gọi ta về, ta đang sẵn sàng. Nếu có bất ngờ khi Chúa đến thì đó cũng là một sự bất ngờ mang đến hạnh phúc đầy tràn vì được gặp Đấng mà lòng ta yêu mến.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ con đang cần gì nhất. Xin Chúa hãy thức tỉnh con bằng những biến cố hằng ngày và bằng chính sự hiện diện đầy yêu thương nơi Bí tích Thánh Thể và chính trong Lời hằng sống của Chúa. Để khi Chúa đến, con không rơi vào sợ hãi và sa ngã nhưng đã sẵn sàng, lòng phấn khởi hân hoan. Con không biết trước những gì sẽ xảy đến cho mình và không có quyền định đoạt tất cả, nhưng Chúa cho con được tương quan với Chúa, bằng sự tỉnh thức và sẵn sàng. Amen.
.
Anna Cỏ May
Chúng ta vẫn thường nhận được những tấm thiệp mời, trong đó viết về đôi tân hôn và ngày giờ tổ chức tiệc cưới. Đôi tân hôn và vị khách được mời sẽ có thời gian để sắp xếp và chuẩn bị cho phần việc của mình. Ngoài ra, có nhiều điều mà chúng ta biết trước nó sẽ diễn ra và kết thúc lúc nào khi chính chúng ta là chủ của việc đó. Thế nhưng, vẫn có những lúc chúng ta không biết trước về những biến cố bất ngờ xảy đến cho chính mình hay người khác.
“Không ngờ sáng nay cô ấy vẫn khỏe mà giờ lại phải nằm bất động”. Chúng ta vẫn thường thốt lên hai chữ “không ngờ” như thế. Chúng ta còn sẽ gặp nhiều điều không ngờ nếu không có một thái độ sẵn sàng để đón nhận những điều sẽ xảy ra cho mình và người thân. Chúa Giêsu đã nói: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42). Canh thức là sẵn sàng và sẵn sàng là canh thức. Canh thức không có nghĩa là thụ động nhưng là một sự chủ động. Nghĩa là canh thức không dừng lại ở việc ngồi một chỗ để chờ mà phải được diễn ra và trải dài trong cuộc sống, trong mọi hoạt động và mọi công việc. Thánh Phêrô đã nói: “Anh em có nói thì nói lời Thiên Chúa, có phục vụ thì phục vụ sức mạnh của Thiên Chúa”(1Pr 4,11). Một người sống trong sự canh thức là người làm mọi việc luôn quy hướng về Chúa. Còn người dù sống trong sự công bằng nhưng không hướng về Chúa thì không được gọi là canh thức. Người canh thức là người không chỉ chu toàn bổn phận của mình mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Bởi vì, Chúa đến gặp chúng ta trong chính cuộc sống của chúng ta, trong lúc chúng ta làm việc, lúc chúng ta cùng mọi người vui đùa.
Thật sự để sống trong tinh thần canh thức đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn ý thức Chúa sẽ đến. Mỗi ngày, chúng ta cần từ bỏ dần các tật xấu của mình để có thể sống triệt để và hoàn thành nhiệm vụ Chúa trao. Khi Chúa đến, chúng ta được gặp Thiên Chúa tình yêu hay Thiên Chúa phán xét là tùy chúng ta đang sống như thế nào. Nếu mỗi ngày chúng ta yêu như Ngài yêu và trung thành với Ngài là chúng ta đang canh thức chờ đợi như trẻ thơ chờ đợi mẹ. Để khi Chúa đến, chúng ta không rơi vào vòng lưới “không ngờ” mà sẵn sàng theo Chúa vào chung hưởng hạnh phúc.
Lạy Chúa! Xin giúp chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì nhưng trong thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày sống xứng đáng hơn, hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
.
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Năm phụng vụ mới bắt đầu, khởi đầu là mùa Vọng. Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Chúa đã đến lần thứ nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài Quang lâm. Để đón chờ ngày Quang lâm, Đức Giêsu dạy: “Hãy tỉnh thức”. Tin mừng Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ về sự tỉnh thức: Lụt hồng thuỷ, kẻ trộm, đầy tớ trung tín và mười trinh nữ. Hai dụ ngôn: Lụt hồng thuỷ và kẻ trộm, được chọn cho Chúa nhật thứ I mùa Vọng này.
- Dụ ngôn Lụt hồng thuỷ
Mở đầu dụ ngôn, Đức Giêsu nói: “Quả thế, thời ông Noe thế nào, ngày Quang lâm, Con Người cũng như vậy”.
Quang lâm là gì? Quang là ánh sáng, lâm là đến. Tiếng Hylạp là “Parousia”, nghĩa là sự hiện diện. Xưa, trong thế giới La-Hy, người ta dùng từ ấy để chỉ những cuộc đi thăm chính thức của hoàng đế: “Thánh thượng giáng lâm”.
Theo Cựu ước, Quang lâm là ngày của Chúa, ngày Đức Chúa can thiệp vào lịch sử thế giới, ngày vinh quang đầy ánh sáng huy hoàng, đến xua đuổi bóng đen tội lỗi bao phủ dân Ngài. Theo Tân ước, Quang lâm là ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai, ngày Ngài trở lại trong vinh quang, phán xét người lành kẻ dữ, có các Thiên thần hầu cận.
Lụt hồng thuỷ thời Noe được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người. Rachi chú giải: “Sự sa đoạ nhục dục của con người thời Noe, đã đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội, đến nỗi loài người tự huỷ diệt chính mình mà không còn hy vọng sống sót…”. Đức Giêsu biết rõ điều đó, biết con người thời đó quá gian ác và vô luân, lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày. Tuy nhiên, Đức Giêsu không nói về tội vô luân, không trách sự sa đọa của những người thời Noe. Ngài chỉ trách một điều: “Họ không biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ tới cuốn đi hết thảy”. Họ có vẻ tin là họ bất tử, ăn chơi trác táng. Mắt họ bị bịt kín không thấy thân phận dòng mỏng con người. Họ phải chịu cái chết “nuốt trôi”, để rồi phút chốc khám phá thấy mình không phải là “thần linh”. Nếu muốn sống, họ cần phải có Thiên Chúa.
Để diễn tả ngày Quang lâm, Đức Giêsu lấy lời Ngôn sứ Xôphônia: “Đang lúc người ta hăng say với công việc đời thường của mình. Giữa lúc người nông dân đang cầy ruộng, người nội trợ đang xay bột, Chúa đến. Chúa đến bất chợt như chiếc lưới thình lình chụp xuống, như chớp loé từ Đông sang Tây”. Và Ngài giải thích: “Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, một người được đem đi, một người bị bỏ lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, một người được đem đi, một người bị bỏ lại…”. Tại sao thế? Hai người chẳng có gì khác nhau, cùng làm ruộng, cùng xay bột, Chúa biết sự khác nhau của họ: Người sẵn sàng, người không. Bởi thế, Chúa nói: “Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến”.
- Dụ ngôn kẻ trộm
Để nhấn mạnh phải tỉnh thức, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn kẻ trộm: “Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ nhà biết vào canh nào, kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải tỉnh thức”. Đức Giêsu không có ý so sánh Ngài với kẻ trộm, chỉ có ý nói sự bất chợt của ngày Quang lâm. Gia chủ nọ, nếu ông biết canh kẻ trộm đến, hẳn ông phải thức, không để nó khoét vách nhà mình. Ngày Quang lâm chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không biết vào ngày nào, vấn đề là phải tỉnh thức.
Tỉnh thức, Đức Giêsu nói đây, chẳng phải là một thái độ tiêu cực, cứ ngồi đấy nôn nóng chờ đợi. Tỉnh thức là trung thành với nhiệm vụ được trao phó, như người quản gia trung tín. Tỉnh thức là chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại, như những trinh nữ khôn ngoan, là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình như những đầy tớ được trao những nén bạc, là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
Tỉnh thức, Đức Giêsu mời gọi, không phải là sợ hãi, chỉ có những kẻ ngủ mê mới phải sợ hãi, bởi họ không được Chúa đem đi. Lời mời gọi tỉnh thức của Đức Giêsu không chỉ nhắm vào thời sau cùng, còn nhắm tới việc Người đến với mỗi người trong giờ chết. Không ai hay được ngày giờ mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc, ngủ nghỉ, giải trí. Việc chuẩn bị ngày chết, cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thực sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của ngày giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, chính giờ phút không ngờ, cho dù Chúa có đến, ta vẫn hân hoan vui mừng, bởi giờ cứu rỗi đã điểm, ta sẽ cùng với Chúa tiến vào tiệc cưới nước Trời.
.
Lm. Phêrô Lê văn Chính
Mùa Vọng là chờ đợi trong hy vọng, sự chờ đợi vì hy vọng được đổi mới, cũng là thời gian hy vọng hòa bình vì Chúa sắp đến mang lại hòa bình thực sự cho các tâm hồn. Hằng năm Giáo hội lại khởi đầu năm phụng vụ bằng Mùa Vọng để chuẩn bị các tín hữu mừng mầu nhiệm Giáng sinh, sự nhập thể của Con Thiên Chúa làm người. Sự nhập thể này vừa có chiều kích hiện tại vừa có chiều kích cánh chung. Người đã đến và người vẫn đến trong cuộc đời chúng ta, và người sẽ còn đến trong vinh quang chói lòa của Thiên Chúa để dẫn đưa chúng ta vào đời sống thần linh vĩnh cửu. Vì thế Vọng là thời gian đặc biệt, sự chờ đợi đặc trưng của Kitô giáo: Chúa đến với mỗi người và Chúa sẽ đến trong vinh quang. Các bài đọc của Chúa nhật này làm vang vọng lên lời mời gọi tỉnh thức bởi vì Con người sẽ đến rất bất ngờ. Để chờ đợi con người đến, thái độ đúng đắn phù hợp nhất là phải tỉnh thức trong đức tin.
Từ thời Cựu ước đã vang vọng lên lời tiên báo của tiên tri Isaia về Giêrusalem. Đó là thời kỳ các dân nước sẽ đổ về núi Thiên Chúa để được lắng nghe lời Thiên Chúa dạy dỗ, để bước đi theo đường lối Thiên Chúa. Vì được lắng nghe lời dạy và lời khiển trách của Thiên Chúa, người ta sẽ biết sám hối, họ sẽ biết thay đổi đời sống và có những hành động cụ thể để thay đổi thế giới họ đang sống, từ bỏ những khí giới chiến tranh hủy diệt và tạo ra một thế giới bình an, hòa bình cho mọi người. Chính lời Chúa sẽ giáo huấn và thay đổi lòng trí của họ. Để hiểu về hoàn cảnh chính trị xã hội thời kỳ của tiên tri Isaia, cần nhớ đó là vào khoảng những năm sau năm 740 khi nhà vua Ozias băng hà, lúc đó Isaia nhận được ơn gọi loan báo sự sụp đổ của nhà Israel và nhà Giuđa vì những sự bất tín của họ. Đây là thời kỳ mà cả hai vương quốc do thái này bị đe doạ bởi đế quốc Assyria. Nhà vua trẻ Achaz của Giuđa tìm cách liên minh với nhà vua Assyria và Isaia đã tìm cách can ngăn vua Achaz nhưng không thành công, trong khi đó vương quốc phương bắc là Israel sụp đổ. Điều quan trọng trong sứ điệp của tiên tri Isaia, đó là luôn kêu gọi mọi người phải đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, đừng vội tìm kiếm những liên minh chính trị, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng sẽ bảo đảm cho họ ơn cứu độ và từ trong số sót của dân tộc sẽ phát xuất Đấng cứu thế từ dòng dõi Đavít, người sẽ cai trị trên toàn cõi địa cầu trong bình an và sự hiểu biết Thiên Chúa.
Bài phúc âm của tuần I mùa Vọng theo thánh Matthêu làm vang vọng sứ điệp cánh chung. Lời loan báo thời đại Con người sẽ đến với những đảo lộn vũ trụ ghê sợ. Chúa Giêsu nhắc đến hai thiên tai hủy diệt nhân loại trong thời Cựu ước đó là cơn lụt đại hồng thủy và lửa từ trời xuống thiêu đốt thành Sôđôma thời ông Lót. Trong khi mọi người vẫn bình an tiếp tục những lo lắng bận rộn thông thường của mình với những công việc cưới vợ lấy chồng, thì thiên tai đã ập xuống tiêu diệt mọi người. Đây là thời điểm quyết định đối với vận mệnh mỗi người, sẽ được cứu sống hay phải chết hư mất đời đời. Đứng trước những lời loan báo của Chúa Giêsu, người ta dễ nghĩ đến những biến đổi vũ trụ khủng khiếp như trời đất ra tối tăm, mặt trời mặt trăng không còn chiếu sáng v.v… mà mọi người có thể quan sát được như là dấu chỉ của sự kết thúc của thời gian và vũ trụ. Các Kitô hữu thời kỳ đầu cũng đã nghĩ như thế, họ nghĩ đến sự kết thúc thời gian với những thay đổi khủng khiếp của những hiện tượng thiên nhiên. Điều Chúa Giêsu muốn gợi ý là những dấu chỉ này đã bắt đầu, không phải là những hiện tượng thiên nhiên dễ sợ mà là những biến đổi âm thầm đã bắt đầu như hạt cải bé nhỏ âm thầm mọc lên, như chút men trộn trong đấu bột. Sự biến đổi này không nhất thiết phải là một sự cắt đứt hay đổ vỡ của thế giới mà chúng ta đang sống, nhưng tiến trình thay đổi của nó đang diễn ra. Chúng ta có thể hình dung những tiến bộ kỹ thuật đang diễn ra hằng ngày, tiến trình toàn cầu hóa với những hệ lụy kinh tế văn hóa, rồi là những biến đổi khí hậu đang làm thay đổi và đe doạ môi trường sống của con người. Những thay đổi mới mẻ không ngừng diễn ra hằng ngày, và thách đố đối với chúng ta là những thay đổi đó có gợi lên trong chúng ta việc chờ đợi ngày của con người đến không? Việc chờ đợi ngày con người đến có nghĩa là gì? Sự chờ đợi của Kitô giáo không đơn giản chỉ là hình dung những gì sẽ xảy ra mà là một thái độ và hành động tỉnh thức trong đời sống bình thường của đời kitô hữu. Điều quan trọng là cách thế sống sự chờ đợi này, không phải để tìm cách xoay xở thế này hay thế khác, chẳng hạn mua nến đèn hay mua mì gói phòng hờ. Sự chờ đợi này không đơn giản chỉ là như thế mà là một sự tỉnh thức biết thay đổi đời sống một cách triệt để, đồng thời cũng là một cố gắng thay đổi để sống đời sống mới vì Nước Trời đang đến. Đây là công trình của Thiên Chúa đang thực hiện cho chúng ta, một trời mới đất mới đầy lòng thương xót của Thiên Chúa, là quà tặng tình yêu đầy tràn sự sống của Thiên Chúa cho con người và đòi hỏi mỗi người tự do một cách triệt để đáp lại. Sự chờ đợi của người kitô hữu vừa là lòng tin tưởng yêu mến vào hồng ân tuyệt đối của Thiên Chúa vừa là nhận thức một cách nghiêm chỉnh trách nhiệm của mình đứng trước những lời hứa của Thiên Chúa. Đây cũng là điều mà thánh Phaolô nhắc, đây là lúc chúng ta hãy thức dậy và không còn mê ngủ. Đây là lúc từ bỏ những hành vi ám muội như chè chén say sưa hay chơi bời dâm đãng mà ngược lại biết mặc lấy khí giới của sự sáng, mặc lấy Chúa Kitô.
Lời Chúa đánh thức nơi chúng ta một sự hy vọng năng động, biết từ bỏ những gì không thiết yếu để đón nhận chính Chúa Kitô và sức mạnh của Người. Chờ đợi, đó cũng là tin vào cái chưa tới, nhưng chắc chắn sẽ tới, là hướng về điều mới mẻ chưa từng có, bởi vì Thiên Chúa sẽ đến để thực hiện mọi điều nên mới. Hẳn nhiên, con người chúng ta vốn có cách chuẩn bị theo kiểu của chúng ta, cho sự an toàn của con người với những lo lắng vật chất và những đam mê của cải xác thịt. Nhưng biến cố ngày của Chúa đến vượt quá những hình dung giới hạn của chúng ta, vượt quá những chuẩn bị vật chất của con người bởi vì tự nó vốn không thể hình dung nổi, không thể nghĩ tưởng nổi. Thế nên tỉnh thức sẽ là thái độ đúng đắn khi chúng ta sống giây phút hiện tại cách trọn vẹn với một trái tim khai mở theo hướng dẫn của Lời Chúa. Sự tỉnh thức này làm cho chúng ta biết tin tưởng hy vọng ngay cả trong những đau khổ, trong những thất bại và mất mát. Và đó chính là hoa quả của sự tỉnh thức đặt tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng đổi mới mọi sự, vượt quá những dự định chật hẹp của con người, sự tỉnh thức biết đặt tình yêu và hy vọng nơi Thiên Chúa như dấu chỉ của sự chọn lựa và dấn thân của chúng ta. Sự tỉnh thức làm chúng ta dám chấp nhận như bước đi trong bóng tối giữa những thử thách, những thất bại, mất mát từ bỏ đau đớn. Như thế, chúng ta đang chờ đợi ngày của Chúa đến mà mầu nhiệm giáng sinh nhập thể của con Thiên Chúa làm cho chúng ta cảm nếm sự khó nghèo là nơi mà con Thiên Chúa muốn đến để làm người, thân phận mong manh nhỏ bé của kiếp người bị bỏ rơi, bị xua đuổi và bị đe doạ đến tận cùng.
.
Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải
Thưa anh chị em,
Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào năm Phụng vụ mới, năm A, bắt đầu là Mùa Vọng. Mùa Vọng vừa là thời gian chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Giáng sinh, kỷ niệm Ngôi Hai Thiên Chúa đến lần thứ nhất khi Ngài giáng sinh ở Belem; vừa là thời gian mời gọi các tín hữu sống tâm tình trông đợi Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai trong ngày cánh chung, ngày tận cùng của thế giới. Chính vì thế mà mỗi năm Mùa Vọng về, là mỗi lần Mẹ Giáo hội mời gọi các tín hữu chuẩn bị tâm hồn với những thái độ sống căn bản sau đây:
– Với Chúa: sống tỉnh thức và cầu nguyện
– Với chính mình: Sửa lại con đường tâm hồn
– Với tha nhân: sống tình bác ái chia sẻ
Hôm nay Chúa nhật I Mùa Vọng, Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì không biết ngày nào giờ nào Chúa các con sẽ đến.
Đọc lại những trang Tin mừng, Đức Giêsu dùng rất nhiều dụ ngôn nói về thái độ sống tỉnh thức và cầu nguyện, để sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến gọi ta về.
Chẳng hạn như: Tỉnh thức như người đầy tớ tốt đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa thì mở ngay cho chủ (Lc 12, 35); tỉnh thức như năm cô trinh nữ khôn ngoan, ngọn đèn đức tin luôn tỏa sáng và bình dầu luôn đầy tình Chúa, đầy ắp tình người, vì không biết ngày nào chàng rể Giêsu đến mời gọi chúng ta (Mt 25,1-13).
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói về những người sống thời ông Nô-e. Lúc bấy giờ người ta ăn chơi hưởng thụ tối đa. Trong khi đó chỉ một mình ông Nô-e nghe lời Chúa đi đóng tàu.
Bạn bè và làng xóm cho ông là một người khác thường không giống ai. Còn họ thì cứ sống thoải mái, ăn chơi nhảy nhót, dựng vợ gả chồng, chìu chuộng thân xác tối đa, như thể không có ngày mai.
Thế nhưng, giữa lúc dân chúng ăn chơi hưởng thụ như thế, thì lụt đại hồng thủy thình lình ập đến, cuốn đi tất cả nhân loại xấu xa đó chỉ trừ một mình gia đình ông Nô-e. Đức Giêsu nhắc lại biến cố này để nhắc nhở chúng ta giờ Chúa đến hết sức bất ngờ như thế đó.
Thật vậy, không ai trong chúng ta biết khi nào mình chết, và chết ở đâu, và sau khi chết linh hồn mình sẽ ra sao. Tất cả đều nằm trong thánh ý nhiệm mầu của Chúa.
Bởi lẽ, thân phận con người là một cuộc lữ khách. Sinh ký tử quy, sống gửi thác về. Và bản chất con người như một bông hoa sớm nở, tối tàn, nghĩa là đời người thật ngắn ngủi mong manh biết bao.
Mỗi ngày trên thế giới có rất nhiều mạng người biến khỏi mặt đất này, đó là một lời nhắc nhở chúng ta, rồi đây sẽ đến một lúc nào đó, chúng ta cũng phải giã từ cuộc đời tạm bợ này. Và không ai biết trước giờ mình chết và chết ở hoàn cảnh nào. Chết ở trên giường hay chết ở ngoài đường. Nếu tối nay hay ngày mai Chúa gọi, thì liệu chúng ta có sẵn sàng hành trang về với Chúa chưa?.
Chính vì thế mà Đức Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức. Tỉnh thức không để lòng mình buông theo những cám dỗ thế gian, những ước muốn tầm thường. Tỉnh thức là sống với lương tâm ngay thẳng không theo đường lối gian tà, không dín bén với của cải.
Tỉnh thức là đi vào con đường hẹp, con đường của Phúc âm, đừng tìm dễ dãi bản thân, nuông chiều theo xác thịt. Nếu chúng ta không tỉnh thức sẽ dễ rơi vào cơn cám dỗ của ba thù. Đó là: ma quỉ – xác thịt – thế gian. Kẻ thù đáng sợ nhất là ma quỉ.
Ma quỷ là cha của sự dối trá, nó đánh lừa rất tinh vi, làm chúng ta ươn lười, biếng nhác trong việc siêng năng đọc kinh dự lễ. Vì nghĩ rằng: mình còn trẻ, còn khỏe chưa chết đâu, cứ ăn chơi hưởng thụ tối đa, vì thời gian còn dài lo gì sửa mình, nhưng Chúa đến gọi vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết thì đã muộn rồi.
Tỉnh thức để khỏi rơi vào cơn cám dỗ thứ 2, đó là xác thịt. Xác thịt nó gắn liền chúng ta như người bạn đồng hành. Người ta nói nhu cầu xác thịt còn lớn hơn nhu cầu ăn uống. Chỉ vì con người đắm chìm trong xác thịt, nên bất chấp luân thường đạo lý, mà hậu quả là những thai nhi bị sát hại không hề thương tiếc.
Tỉnh thức đừng để rơi vào cơn cám dỗ thứ 3, đó là thế gian. Thế gian chứ không phải thế ngay. Chúng ta sống trong một thế giới đầy dẫy những quyến rũ, tình – tiền – tài – rất ư là hấp dẫn lôi kéo chúng ta lung lạc đức tin rồi từ từ bỏ Chúa tìm những đam mê bất chính khác.
Cuối cùng, thưa anh chị em, tỉnh thức luôn phải đi đôi với cầu nguyện. Thật vậy, chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta giảm bớt những bận tâm lo lắng đời này, để lo cho phần rỗi đời sau.
Chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta biết từ bỏ những tính hư tật xấu làm buồn lòng Chúa. Và chỉ có cầu nguyện mới giúp chúng ta xa lánh những cám dỗ, những thách đố trong cuộc sống đầy biến động này.
Xin Chúa giúp chúng ta tích cực sống tinh thần sám hối của Mùa Vọng dọn lòng đón mừng đại lễ Chúa Giáng sinh. Đồng thời, sống tỉnh thức và cầu nguyện chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón đợi Chúa đến với bất cứ hoàn cảnh nào. Amen.
.
Lm Minh Vận
Mùa Vọng là mùa khơi dậy cho con cái Chúa một niềm vui đầy hy vọng và trông đợi Chúa đến. Sự trông đợi Chúa đây, không phải như các tổ phụ, các tiên tri và dân Do Thái xưa mong đợi Chúa Cứu Thế đến trần gian, vì Chúa Cứu Thế đã đến, Người sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem đã 2000 năm rồi.
Nhưng trong Mùa Vọng, Giáo Hội muốn nhắc nhớ và khuyên nhủ con cái, dọn tâm hồn trong sạch để xứng đáng đón rước Chúa đến với mỗi tâm hồn chúng ta, bằng ơn thánh, bằng tình yêu thương và an bình của Chúa. Đó là món quà đặc biệt nhất Chúa muốn ban tặng cho các con cái ngoan thảo của Chúa trong dịp mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh sắp tới.
Vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thế nào để tâm hồn chúng ta được xứng đáng đón tiếp Chúa đến với chúng ta?
HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi đề cập đến lụt đại hồng thủy thời ông Noe, đang lúc người ta chỉ mải mê ăn chơi xa xỉ, thì bất ngờ đại hồng thủy đến, cuốn đi tất cả; Chúa đã khéo lợi dụng câu truyện này để khuyên nhủ chúng ta: “Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Chúa các con sẽ đến”(Mt 24:44).
Cô Thanh là một cô gái rất ngoan đạo, được sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, được truyền thụ một nền giáo dục đạo hạnh. Lúc nào cô cũng khát khao được gặp Chúa và siêng năng lợi dụng thánh hóa các công việc hằng ngày, nhất là công việc cô đang đảm trách là đứng bán hàng trong một cửa tiệm tạp hóa do cha mẹ cô trao phó. Một đêm kia, đang nằm ngủ, cô được mộng báo là hôm sau cô được Chúa Kitô tới thăm nơi cửa tiệm. Giấc chiêm bao sống động và vui sướng đến nỗi, cô Thanh tưởng rằng câu truyện đó là một thực tại sẽ xảy ra. Thế là ngay sáng hôm sau, khi vừa tới cửa tiệm, cô lo quét dọn, sắp đặt và trang hoàng lịch sự để đón tiếp Chúa tới thăm. Cô Thanh cuống lên giục người phụ tá phất trần, lau bụi, chưng hoa và cho biết hôm nay sẽ đón tiếp một vị Thượng Khách. Cô phụ tá tên là Huyền Vi rất vui vẻ và hăng say trong việc chuẩn bị, để đón tiếp vị Thượng Khách. Huyền Vi chỉ xin một ơn huệ là nhờ cô Thanh lái xe đưa về nhà lo thuốc thang cho bố, rồi sẽ trở lại cửa tiệm ngay chỉ trong vòng 30 phút thôi.
Cô Thanh chia buồn vì bố Huyền Vi bệnh, rất muốn giúp nhưng không thể làm được hôm nay, vì công chuyện quá khẩn cấp trong việc chuẩn bị. Lại nữa, lỡ ra lúc vắng mặt 30 phút vị Thượng Khách tới thì sao. Thế là cả hai đều chăm chú vào việc dọn dẹp chuẩn bị.
Mỗi lần cánh cửa tiệm mở, nghe thấy chuông báo hiệu có người vào là cô Thanh phóng ngay cặp mắt về hướng đó… Nhưng vô hiệu, vì không thấy bóng vị Thượng Khách, ngoại trừ những khách hàng quen thuộc thường lệ, đến trao đổi lời chào thăm và mua bán.
Vào quãng giữa trưa, một người hành khất từ ngoài đường bước vào, thân mình gầy còm hốc hác nấp dưới tấm áo rách tả tơi bẩn thỉu, đầu tóc rối bù tanh hôi. Người xấu số ngửa tay van lơn: “Nhờ ông đi qua, nhờ bà đi lại cho tôi chút cháo đổ vào bụng, đã mấy ngày không cơm…” Cô Thanh cầm mấy đồng cắc dí vào tay ông rồi vội vàng dẫn ra cửa, dường như không muốn kẻ hôi tanh nán lại, lỡ ra vị Thượng Khách bất ngờ tới thăm.
Chiều hôm đó cũng qua đi như mọi ngày. Cửa tiệm vẫn thế, kẻ ra người vào, kẻ đến người đi… trong số đó có một bà quả phụ tìm đến cửa hàng mong được sự giúp đỡ, vì con bà phạm pháp bị bắt giam. Bà ta bối rối lo sợ, chẳng biết kêu với ai. Nghe truyện thương tâm, cô Thanh rất cảm động hết lòng muốn giúp đỡ, nhưng chẳng dám rời cửa tiệm phút nào, vì sợ Chúa đến mà không được gặp.
Đã đến giờ đóng cửa, cô phụ tá ra về, khách hàng hết vãng lai. Đường phố đã chìm ngập trong cảnh hoàng hôn hiu quạnh, nhưng Chúa Giêsu vẫn chưa thấy đến thăm. Ngã lòng vì chờ đợi mỏi mệt, cô Thanh thất vọng ra về nghĩ bụng: “Thật điên rồ chạy theo giấc chiêm bao!”
CHÚA ẨN THÂN NƠI KẺ RỐT HẾT
Về tới nhà, sau khi nghỉ ngơi, ăn uống, thu dọn nhà cửa; tới giờ đọc kinh tối như thường lệ và suy niệm Lời Chúa. Tình cờ, cô Thanh mở sách Tin Mừng theo Thánh Matheu đoạn 25, cô đọc thấy những dòng sau đây: “Bấy giờ Vua phán với những kẻ đứng bên phải: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh cơ nghiệp Nước Trời, đã dọn sẵn cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống, Ta đau yếu các ngươi đã an ủi, Ta ở tù các ngươi đã thăm viếng”. Bấy giờ các kẻ lành thưa lại rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà nuôi dưỡng, khát mà cho uống, mình trần mà đã cho mặc? Có bao giờ thấy Chúa đau yếu hay ở tù mà chúng con đã đến thăm viếng Chúa đâu?” Vua đáp lại: “Những gì các ngươi đã làm cho anh chị em hèn mọn nhất của Ta là làm cho chính Ta”(Mt 25:34-40). Cô Thanh hồi tưởng lại những gì xảy ra trong ngày và nghĩ rằng giấc chiêm bao đã thành sự thật… Chúa Giêsu đã đến thăm cửa tiệm hôm ấy mà cô đã không ngờ. Chúa đã đến và Chúa lại đến hằng ngày, qua mỗi người anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, nồng hậu tiếp đón Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta qua mỗi người anh chị em, cho dù là những người hèn mọn nhất trên trần gian.
Kết Luận
Là con cái Chúa, chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng như một thời cơ thuận tiện, để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Chúa ngự đến với mỗi người chúng ta; bằng cách thực thi Đức Bác Ái, biết nhận ra Chúa, đón tiếp Chúa nơi tha nhân, chia sẻ cơm bánh với những người đói khát, biết cảm thương an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ những người yếu đuối, khích lệ những người thất vọng ngã lòng. Hơn nữa, Chúa còn muốn chúng ta hướng tâm hồn lên cao hơn, biết yêu thương cả những kẻ thù nghịch, làm ơn lành cho những kẻ ghen ghét mình, lại cầu nguyện cho những kẻ vu oan cáo vạ, bắt bớ, bách hại chúng ta nữa.
Chu toàn được những điều Chúa muốn trên đây, là chúng ta đã biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón tiếp Chúa đến với chúng ta, bất cứ giờ phút nào. Chúa sẽ sung sướng ngự vào tâm hồn chúng ta như Chúa của sự bình an và nguồn hạnh phúc; ban cho chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng Thiên Đàng ngay khi còn ở trần gian này.
.
NGƯỜI ĐẾN ĐỂ CON TIM ĐƯỢC VUI TRỞ LẠI
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
- Bỏ quá khứ lại sau lưng để tiến về phía trước:
Ý nghĩa đầu tiên của Mùa Vọng gần như được diễn tả ngay trong tên gọi của tiếng la tinh: Adventus, Mùa “Đến, mùa Quang lâm”. Vâng, Mùa Vọng chính là thời điểm thích hợp để chúng ta sống tâm tình và thái độ đức tin đón chào cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, hay sống với nỗ lực dấn thân thực hiện cuộc canh tân và hoán cải tâm hồn theo những lời mời gọi của Phúc Âm.
Vâng, Lời Chúa chúng ta vừa nghe công bố gần như hết lòng hổ trợ ý tưởng nầy và lôi kéo chúng ta tập chú suy tư và cầu nguyện theo ý hướng đó:
Bài đọc 1 đã trình bày: giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất nước, lưu đày, Sứ Ngôn I-sa-i-a loan báo cho dân Ít-ra-en một viễn tượng huy hoàng ở cuối chân trời lịch sử: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Tin Vui đó, viễn tượng một thế giới hòa bình an lạc đó chắc chắn không phải là một thứ “tuyên truyền ngẫu hứng” của một tay “thần kinh bất ổn” mà là của chính Thiên Chúa mặc khải qua miệng của vị sứ ngôn được Ngài ra tay tuyển chọn. Và 600 năm sau lời tiên tri đó, Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa Làm Người đã xuất hiện, Ngài đến để giải phóng toàn diện lịch sử con người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu.
Hôm nay, bước vào Mùa Vọng, khai mạc một Năm Phụng vụ mới, Lời Chúa cũng muốn nhắn gởi chúng ta qua chính lời tiên tri ấy. Cũng như dân Ít-ra-en đang sống trong nổi ê chề thất vọng của kiếp phận lưu đầy được nhà sứ ngôn loan tin giải thoát với niềm hy vọng một ngày mai tươi sáng đang đến gần, cộng đoàn chúng ta hôm nay đang được Lời Chúa mời gọi hãy vứt bỏ đi những nổi chán chường, thất vọng của một lối diễn tả đức tin mang đầy dấu vết của nô lệ, của lưu đầy, của sự lựa chọn biếng lười, ích kỷ và vô trách nhiệm. Hãy vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững, không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Hãy vứt bỏ đi cuộc sống chỉ có biết bon chen, cặm cụi với cái lãi cái lời vật chất, cặm cụi đầu tư bất kể cho những thứ chóng qua mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu. Và cũng vứt bỏ đi cái lối sống đạo và hành xử đức tin vụ hình thức, giả tạo, biệt phái và kiêu căng.
Một cuộc vứt bỏ như thế để làm lại cuộc đời trong thánh thiện yêu thương phải chăng là tiêu đích của Hành trình Mùa Vọng, của đức tin Kitô, mà theo theo cách nói của Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma trong bài đọc 2 đó là một cuộc “bừng mắt dậy sau đêm dài của giấc ngủ tội lỗi đen tối”: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu…”
- Một cuộc hạnh ngộđể đổi đời.
Nếu “Thiên Chúa của chúng ta không bao giờ cũ”, thì cuộc gặp gỡ Ngài, chọn lựa Ngài, đến với Ngài phải luôn là một cuộc “hạnh ngộ” đầy hoan vui và hy vọng, một cuộc hạnh ngộ để làm lại cuộc đời.
Trong trích đoạn Tin mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu đã thuật lại một bài giáo lý của Đức Kitô mà nội dung cốt lỏi cũng chính là thể hiện niềm tin bằng lối sống luôn là “sắp sẳn, tỉnh táo như người đang đón đợi khách quí, như kẻ đang nai nịt hành trang lên đường hay như ngôi nhà đang thắp sáng với đầy đủ những con người đang tỉnh thức canh phòng đến độ không còn chỗ hở nào để kẻ trộm thâm nhập”. Đây không phải là chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.
Câu chuyện vui sau đây là một minh họa cho ý nghĩa trên của Mùa Vọng:
Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà chờ đợi. (“Mỗi ngày một tin vui”)
Mùa Vọng khơi gợi lên một cuộc chiến đấu của đức tin, một hành trình sống đạo năng động, ra sức đẩy lùi mọi biểu hiện tiêu cực, tầm thường, máy móc, vụ lợi, vụ hình thức. Chính trong chiều kích tích cực đó mà chúng ý thức rằng:
– Mỗi một lời kinh tôi đọc hôm nay phải là một đối thoại tuyệt vời, thực sự với Thiên Chúa.
– Mỗi một Thánh lễ tôi dâng phải là một cử hành sống động lễ Vượt Qua của chính Chúa Kitô mà tôi được diễm phúc cọng tác và kết hợp với Ngài.
– Mỗi một khi bước tới tòa Giải tội là một lần hoán cải thực sự, một cuộc đổi đời.
– Mỗi một việc bác ái tôi làm, một công tác mục vụ tôi đảm trách, phải là một biểu lộ thực sự của tình yêu, một tình yêu vô vị lợi và quảng đại.
– Mỗi một việc làm cho nhau trong đời thường giữa vợ chồng, con cái, anh em, bạn hữu…không còn là chuyện đải bôi môi mép, lạm dụng và ích kỷ, nhưng tất cả phải là những nghĩa cử của tinh thần trách nhiệm, phục vụ và yêu thương.
Nếu mọi Kitô hữu đều xác tín và hành động như thế, thì Mùa Vọng trở về thật ý nghĩa và cần thiết biết bao! Khi ấy, Giáo Hội không còn là một tổ chức kềm kẹp sự tự do của tôi, Ngày Chúa Nhật không còn là một bận rộn ngán ngẩm, Tòa Giải tội không còn là một tòa án tàn nhẫn và đáng sợ, và ngay cả bệnh tật chết chóc cũng sẽ trở thành cơ hội để tôi tìm thấy giá trị và niềm vui, như lời chứng sống động của Elena Frings:
Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề (Christopher Notes).
Vâng, sống Mùa Vọng là sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của cuộc đời. Đức tin không cho phép chúng ta đầu hàng hay tìm một lối mòn dễ dãi; cũng không có quyền nhắm mắt đưa chân mặc tới đâu thì tới, hay tìm lãng quên trong hưởng thụ, trong bon chen trong trác táng thả buông…Nhưng đức tin gọi mời chúng ta ngẫng cao đầu tiến về phía trước trong một con tim mới, cõi lòng mới như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy: “và con tim đã vui trở lại”:
Và con tim đã vui trở lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai. Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời. Tôi hy vọng được ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại. Và niềm tin đã dâng về người. Trọn tâm hồn, Nguyện yêu mãi riêng người mà thôi…
Giờ đây, một cuộc gặp gỡ kỳ diệu đang và sắp xảy ra: Đức Kitô một lần nữa đang đến với chúng ta trong bàn tiệc Tạ ơn nầy: Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô của một Mùa Xuân bất diệt, Đức Kitô mới mãi, trẻ mãi, sinh động và đầy ắp yêu thương. Ngài là Mục Tử nhân lành hôm nay trở về để đưa ta vào đồng xanh suối mát. Chúng ta vui mừng cử hành ngày “Tân Niên Phụng Vụ” trong tâm tình hân hoan, tin tưởng, trong thái độ khiêm tốn tạ ơn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm tay mà bước đi trên hành trình Mùa Vọng để tiến vể Đại Lễ Giáng Sinh với tất cả niềm hăng say phấn khởi và nỗ lực đổi mới cuộc đời cho đẹp hơn, thánh hơn, hiệp nhất hơn, yêu thương hơn. Nói cách khác, đây là giờ phút không phải chúng ta hát mà là thực sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen.
.
Lm Bùi Quang Tuấn
“Các con phải sẵn sàng” (Mt 24,44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). “Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa” (Is 2,5).
Đó là lời mời gọi cấp thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.
“Đêm sắp tàn, ngày gần tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh giới giữa ngày và đêm?
Một vị sư phụ đã nêu câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác, sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng, vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc “phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là “nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.
Nỗi khát mong đợi chờ cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là “Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.
Ấy thế mà dường như nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?
Ngày xưa, theo truyền thuyết của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.
Vào năm 336, Đức Giáo Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của biết cố Nhập thể.
Từ đó trở đi, cứ mỗi lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.
Đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay, không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ mãi lắng lo trong bao sự đời.
Ngày xưa mùa Vọng đã trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn, có khi… tội lỗi.
Một lần nữa, lời nhắn nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn các dục vọng xác thịt”. (Rm 13,12-14)
Thực hành lời khuyên nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng trong lễ Giáng sinh sắp đến.
.
CÓ THỂ ĐÂY LÀ NĂM CUỐI ĐỜI TÔI
Lm Hà Ngọc Đoài
“Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.” (Mt 24,42)
Trong một bữa tiệc tất niên với bạn hữu, bà B nói nhỏ với ông A khuyên chồng bà đi xưng tội, để chuẩn bị lễ Giáng Sinh cách đặc biệt. Năm nay các con cháu xa gần sẽ quy tụ tại nhà ông bà để mừng lễ Giáng Sinh. Vì con cái nghĩ rằng cha mẹ họ đã già, đến với nhau được năm nào hay năm đó. Biết đâu đây là dịp cuối cùng con cái được quây quần bên cha mẹ để mừng lễ. Ông B trước đây là một người ngoan đạo, sốt mến trong các việc giúp đỡ giáo xứ, nhưng vì một hiểu lầm nào đó ông bỏ lễ luôn! Bạn bè thông cảm và khuyên rằng, nếu bất bình với cha xứ hoặc với ai trong giáo xứ mà bỏ lễ thì không đúng. Chúng tôi không bênh vực ai hết, nhưng mời ông nhìn vào thực tế của đời mình và Thiên Chúa. Đạo là do Chúa ban cho mỗi người qua Giáo Hội. Cùng với Giáo Hội đức tin của chúng ta lớn mạnh và cùng với Giáo Hội chúng ta có bổn phận phát triển nước Chúa. Tại sao vì giận người trần mà bỏ Thiên Chúa và bỏ môi trường Chúa ban cho ta để sống và nương nhờ nhau. Trong cuộc sống chung, va chạm và hiểu lầm là chuyện thường tình. Chỉ có một điều là đừng quá khích và tự tôn mà xa nhau. Cần có sự quảng đại và thông cảm cho mỗi người trong công việc của họ thì mới xây dựng cộng đoàn dân Chúa được. Xã hội gồm nhiều người có nhiều đặc tính khác nhau, hễ bất mãn là phá, hễ không vừa ý mình là chống thì làm sao mà hòa hợp được. Ông B nghe lời khuyên có lý, nhưng vì tự ái còn âm ỷ trong mình nên trả lời rằng ‘khi gần chết thì tôi sẽ làm hoà lại.” Mọi người an lòng khi nghe như vậy, nhưng ai cũng im lặng và suy nghĩ trong lòng rằng ai biết được giờ chết của mình? Ơn hòa giải đến từ Thiên Chúa hay chính mình ban ra? Quyền quyết định về phần rỗi là nơi Thiên Chúa hay chính con người? Thánh Augustinô khi đang còn sống trong tình trạng tội lỗi cũng lý luận, biện minh, và trì hoãn như thế. Ngài nói là xin cho con ơn trở lại, nhưng hãy đợi lúc sắp chết! Trong tác phẩm Confessions của Ngài kể rằng, một hôm tiếng lương tâm thúc dục: chần chờ bao lâu nữa? Ngài dày vò đầu óc tự hứa là ngày mai sẽ trở lại. Lương tâm tiếp tục cảnh cáo rằng tại sao không bây giờ, ngày mai thì không chắc chắn! Liền ngay đó có tiếng nói hai lần: Hãy cầm lấy và đọc. Ngài đi hỏi người bạn tiếng nói ấy có ý nghĩa gì, thì người bạn đưa cho cuốn Thánh Kinh, Ngài mở đúng ngay đọan Rom 13:11-14: hãy biết rằng giờ này là lúc con hãy thức dậy.
Thực Hành: “Đêm sắp tàn, ngày sắp đến… phần rỗi chúng ta gần đến.” (Rom 13:11-12) Trái đất quay chung quanh mặt trời để muôn vật có ánh sáng và sự sống. Chúa ban cho chúng ta có mùa phụng vụ để thay đổi đời mình tốt đẹp hơn và sống gần Chúa hơn. Xin cho con ơn nhạy cảm để đời con không mất đì cơ hội sống đời đời.