Bài hát và Suy niệm (05.02.2023 – Chúa Nhật V Thường Niên năm A)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng

NL: ĐI VỀ NHÀ CHÚA

ĐC: THÁNH VỊNH 111

Trong u tối, Người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay.

HALL: Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ có ánh sáng, ánh sáng của sự sống.”

DL: TIẾN DÂNG CHA

HL: CHẠM LÒNG CON

KL: LỄ XONG RỒI

Lời Chúa: Is 58,7-10 , 1 Cr 2,1-5, Mt 5,13-16

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 5,13-16)

13 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại ? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.

14 “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15 Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

Muối cho đời, ánh sáng cho trần gian

Hôm nay chúng ta được Thần Khí dọn cho một bữa tiệc “Lời” thật cao sang. Chúng ta có thể nghĩ rằng lời Chúa trao gởi những tinh hoa của tinh thần Phúc Âm, là sự sáng trong ánh sáng để dẫn lối cho linh hồn đi trong đức tin. Ai nhiệt thành với đời sống đức tin bao nhiêu, thì nhận được sự sáng ấy càng dồi dào bấy nhiêu.

Muối của biển là muối mặn, muối ướp thực phẩm; “muối cho đời” là chất vị của yêu thương, là men nồng hạnh phúc của lòng trắc ẩn và vị tha, quảng đại và cao thượng. “Anh em là muối cho đời” là sứ mạng, là ơn gọi của người môn đệ Chúa Giê-su; là tinh hoa hồn sống của người con Thiên Chúa còn lưu lạc cõi nhân gian, chờ gặt hái vinh quang, danh dự và hạnh phúc vĩnh hằng.

Sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người chúng ta đều được mời gọi sống vai trò con Thiên Chúa qua ba thiên chức: tư tế, ngôn sứ và vương đế. Đồng thời, khi chúng ta tích cực thực thi ba thiên chức này, cũng là thi hành sứ mạng Chúa trao cho ta, sứ mạng làm “men, muối cho đời”.

Ánh sáng cho trần gian”, ánh sáng của đèn là ánh sáng vật chất, thứ ánh sáng soi bóng đêm sự vật; còn “Anh em là ánh sáng cho trần gian”, là con người mang nơi mình ánh sáng chân lý, ánh sáng ơn thánh và ánh sáng ơn cứu độ. Tất cả ánh sáng nói trên tạo nên hiệu ứng làm nên hình ảnh Chúa nơi người môn đệ, có khả năng soi sáng cho thế gian.

Chúa Giê-su muốn môn đệ mình làm “muối cho đời”, tức là đem lại cho cuộc sống sắc màu: tin kính Chúa, tinh thần tông đồ, men Nước Trời, yêu thương, bác ái, hy sinh, hãm mình, cầu nguyện, khoan dung, tha thứ, quảng đại… đã kín múc tự Tình Trời cao cả. Đồng thời cũng mang lại cho tha nhân ánh sáng mà chính Chúa Giê-su Ki-tô đã đem xuống trần gian rồi chuyển thông sang cho các môn đệ của Người “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” (Ga 9,5) ;

ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại
.” (Ga 1,4)

Ánh sáng sự sống đem lại ơn cứu độ cho tha nhân, được người môn đệ thắp lên bởi những chất liệu “lòng nhiệt thành xây dựng Nước Chúa, trung tín, nhân hậu, trung thành giữ lề luật, sốt sắng nhiệt thành thực thi lời Chúa, sống công chính và thánh thiện, tình yêu cứu độ các linh hồn được thể hiện một cách cao đẹp, sáng suốt và chân thực, sẵn sàng hy sinh tất cả vì đức tin…”

Ánh sáng ấy sẽ xuyên thấu những tâm hồn đang ngủ mê trong tội, đắm chìm trong đam mê. Vạch lối cho họ quay về với Thiên Chúa, dẫn đưa vào bến bờ ơn cứu độ.

Đến đây, chúng ta hiểu rõ tại sao Thần Khí lại quan phòng cho phụng vụ thánh trích lời ngôn sứ I-sai-a

chia cơm cho người đói,
rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục.

Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở
gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người,

nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói,
làm thoả lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ.”

Đồng thời trích cả tinh thần sống thánh của thánh Phao-lô, phô diễn lòng tận tụy kính Chúa và say mến Người ở ngài, trong bài đọc hai “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.

Lòng say mến Chúa làm cho thánh Phao-lô chọn sống khiêm hạ, và giữ nguyên tuyền tinh thần Tin Mừng, chứ không để pha trộn lời lẽ và sự khôn ngoan người đời vào chân lý “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” Điều này, cho ta biết Thánh Nhân luôn chọn sống công bằng và bác ái với tha nhân. Không để cho cái “tôi” của ngài chặn lấp vinh quang Thiên Chúa và ơn cứu độ của tha nhân.

Bài Tin Mừng còn cho chúng ta những lời răn dạy tinh túy, nâng cao tinh thần trách nhiệm “Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.” “muối mà nhạt đi” tức là những người không thể đem lại “hương vị” cho cuộc sống, không thể sống yêu thương, không thực thi công bằng, bác ái; không thể hiện được các nhân đức… như bố vừa chia sẻ ở trên. Và họ cũng chẳng còn gắn bó với Chúa, không giữ lấy lời Chúa nơi lòng, không mặc lấy tinh thần của Người trong ứng xử với tha nhân; nên không thể làm muối cho đời hay làm ánh sáng cho muôn dân. Nói một cách khác hơn, là không cùng Chúa xây dựng Nước Thiên Chúa, bằng cách đưa các linh hồn đến với ơn cứu độ bằng tất cả cuộc sống mình. Cho vinh quang của Thiên Chúa được hiển sáng, như thế, “muối ấy thực sự đã trở thành vô dụng, phải bỏ đi!

Quăng ra ngoài cho người ta chà đạp”, một tình trạng bị loại bỏ ra khỏi khung trời yêu thương và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ còn đau đớn bởi tình cảnh: mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, dữ hiếp ít dữ hơn; chà đạp lẫn nhau trong đau khổ tột cùng và ghét nhau vô độ. Một tình trạng bị chà đạp, giày vò bản thể: cả thể xác lẫn linh hồn.

Điều này hoàn toàn trái ngược với những con người được ơn nghĩa với Chúa, như bài đọc một đã ghi

Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước,
vinh quang ĐỨC CHÚA bao bọc phía sau ngươi.

Bấy giờ, ngươi kêu lên, ĐỨC CHÚA sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: “Có Ta đây!”

Hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược giữa kẻ “muối không còn mặn” và người “mang ánh sáng cho đời”. Người được ơn nghĩa với Chúa, có Chúa ở cùng, hạnh phúc biết bao!

Tình Yêu Hoa Cỏ

Muối và ánh sáng

Rất vô tình, mấy em đến học hát thánh vịnh méc với tôi: “Cô ơi! cô giáo cháu đọc mãi cuốn sách của cô và bảo chúng cháu rằng các em phải học theo cô này”. Tôi ngạc nhiên vì không hề biết hoặc liên hệ gì với cô giáo đó. Nhưng tôi thầm cám ơn Chúa, chút muối men và ánh sáng của Chúa đã “thấm” qua tôi, gây ảnh hưởng ra đến nơi trường sở ngoài xã hội, dẫu rằng đó mới chỉ là những tâm tình đơn sơ được chia sẻ trên trang giấy mà thôi.

Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với các môn đệ:  “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian”. Khi gọi các môn đệ là “muối và ánh sáng”, Người muốn họ trở thành chất xúc tác để chiếu sáng và ướp mặn trần gian. Sống giữa lòng nhân loại, họ có nhiệm vụ giữ trần gian cho khỏi hư thối vì sự phá hủy của tội lỗi. Họ phải như đèn chiếu sáng để người khác biết đâu là đường đi, đâu là nguy hiểm phải tránh. Sự hiện diện của các ông phải làm tăng thêm ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống con người.

Cuộc sống của những người theo Chúa phải sáng lên niềm vui tươi hy vọng, để khi nhìn vào, người u sầu tìm được niềm vui an ủi, người thất vọng hồi phục lòng tin tưởng cậy trông. Nhưng nếu đời sống của chúng con chỉ “sáng” ở nhà thờ, trong buổi cầu nguyện thì cũng chưa phải là ánh sáng mà Chúa muốn. Nơi càng tối càng cần ánh sáng, đồ ăn cần để lâu càng cần ướp mặn. Từ chính những nơi này, ánh sáng và muối sẽ chứng tỏ giá trị đích thực của nó. Chúng con cần phải hiện diện, hòa đồng, gần gũi với mọi người, không phân biệt họ là ai. Nhưng tự sức chúng con không trở nên muối và ánh sáng được. Chỉ có Chúa mới là Muối và Ánh Sáng thật. Muối và Ánh Sáng ở đâu thì ướp mặn và tỏa sáng nơi đó.

Tôi sống mối tương quan với Đức Kitô ra sao? mặn nồng thắm thiết hay nhạt nhẽo? Chúa có là niềm vui hạnh phúc của đời tôi không hay còn nhiều thứ khác? Nếu chúng con mở lòng ra đón nhận Chúa vào cuộc đời, buông mình trong tay Chúa để Ngài hoạt động trong con người mỏng dòn yếu đuối của mình, chúng con sẽ trở nên như muối và ánh sáng của Chúa. Sống gắn bó thân mật với Chúa, Muối và Ánh Sáng của Chúa trong chúng con sẽ thấm sâu và lan tỏa ra nơi những người sống xung quanh chúng con: “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

Én Nhỏ   

Muối và ánh sáng thế gian

1. Ghi nhớ:

“Chính anh em là muối cho đời… Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” ( Mt.5.13)

2. Suy niệm:

Chuyện kể rằng: Năm ấy, Aren Gandhi (cháu nội của nhà cách mạng Mahatma Gandhi 1868-1948) lên mười sáu tuổi. Một hôm Bố của Aren là ông Malilah Gandhi nhờ con lái xe đưa ông đi họp, khi đến địa điểm họp ông hẹn con là đúng hai giờ đồng hồ sau thì đến đón ông về.

Trong thời gian chờ đợi, Aren đen xe đi rửa, sau đó đến rạp chiếu phim. Vì phim truyện hay quá nên cậu chăm chú theo dõi từ đầu chí cuối. Lúc nhớ đến nhiệm vụ đón Bố thì đã trễ bốn mươi phút rồi.

Lúc đến nơi vì biết rằng Bố đã đợi mình khá lâu, sợ Bố mắng nên Aren đã nói dối rằng: “xe hư con phải sửa chữa, bởi vậy  mà trễ giờ đón Bố.”

Không ngờ ông Malilah gọi đến  tiệm sửa xe để “xác minh”. Sự việc nói dối của Aren bị bại lộ… Nhưng thật không ngờ, ông chẳng hề lớn tiếng la mắng con mà bình tĩnh ôn tồn nói:

“Con đã làm sai mà không có dũng khí nhận lỗi,đấy là do Bố đã giáo dục con không tốt.Vì thế Bố quyết định sẽ đi bộ trở về nhà ,để vừa đi Bố vừa suy xét lại mình!”

Lúc này trời đã tối, ông lặng lẽ đi phía trước, còn Aren chỉ còn biết chạy xe chầm chậm đằng sau, dùng đèn xe để pha đường cho Bố. Họ cứ đi như thế suốt năm giờ đồng hồ, khi về gần đến nhà thì ông đã quá mệt mỏi, nhìn  những bước chân loạng choạng,xiêu vẹo của Bố. Aren bật khóc và tự hứa với lòng mình: “Từ nay sẽ sống thật tốt và  không bao giờ còn dám nói dối nữa!”

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài thì phải trở thành muối thành ánh sáng.

Ngày nay, chúng ta cũng được xem như là những môn đệ của Chúa và mệnh lệnh của Ngài  kêu gọi chúng ta là phải trở nên muối và ánh sáng cho đời và cho mọi người.

 Muối và ánh sáng  phải được khởi đầu từ ngay tại chính lòng chúng ta. Bởi vì căn cứ theo lời của Chúa thì nếu muối mà “nhạt đi thì lấy gì làm cho mặn lại!” và hậu quả là nó sẽ bị quang ra ngoài đường cho người ta giầy xéo chà đạp mà thôi.

Cũng vậy, ánh sáng phải được đặt trên đế cao để mọi người chung quanh mới có thể nhìn thấy. Tục ngữ Việt-Nam có câu: “Gần mực thì đen,gần đèn thì sáng”. Như thế, chúng ta phải là những cây đèn luôn luôn tỏa sáng để mọi người được sáng lây.

Trước hết là phải tỏa sáng ngay tại gia đình. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII nói: “Gia đình là nền tảng của xã hội, gia đình thế nào thì xã hội thế ấy”. Còn Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II thì nói: “Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đình”. Đầu tiên ngay tại gia đình, vợ chồng phải trở nên muối và ánh sáng ướp mặn và giãi sáng cho nhau, cho con cái. Ngoài trách nhiệm nuôi nấng, còn phải dạy dỗ con cái theo tinh thần Phúc Âm. Nhất là luôn làm gương sáng để con cái noi gương bắt chước.

Sống như thế, chúng ta đã xây dựng được một gia đình thành muối ướp và ánh sáng cho xã hội cũng như cho Giáo hội. Được như vậy thì chắc chắn Thầy Giê-su sẽ rất hài lòng và sãn sàng chúc phúc cho chúng ta qua những nỗ lực và cố gắng của mình.

3. Cầu nguyện:

 Lạy Chúa Ngài đã truyền cho chúng con phải trở nên muối và ánh sáng cho mọi người. Xin luôn đồng hành cùng chúng con, để trên bước đường trần gian này, chúng con có đủ sức mạnh và nghị lực mà hoàn thành mệnh lệnh này, cho ngày sau chúng con xứng đáng hưởng phần thưởng Chúa hứa ban. Amen.

4. Sống lời Chúa:

Luôn ý thức rằng: “Tôi sống đã có Chúa hằng phù trì trợ giúp, phải sống xứng với danh hiệu Ki-tô hữu, phải luôn làm việc lành”.

Đaminh Trần Văn Chính

***

MỤC LỤC 

 

1. Muối 

2. Ánh sáng

3. Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

4. Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

5. Bảo vệ căn tính – Lm Vũ Đình Tường

6. Hãy trở nên “vị mặn tình yêu Giêsu”

7. Gần đèn thì rạng!

8. Chiếu ánh sáng của chúng ta khi cần.

***

1. Muối 

Mahatma Gandhi (1869-1948), vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động, đã nói: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”. Nếu mẹ Têrêsa đã sống vào thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành phố Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một người Công giáo. Một vị thánh giống như Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm cho người khác phải tin vào Thiên Chúa. Chính mẹ Têrêsa đã sống và đã định nghĩa: “Kitô hữu là người trao ban chính bản thân mình”.

Hôm nay trong bài Phúc âm, vai trò của người Kitô hữu trên trần thế được Chúa Giêsu định nghĩa bởi hai tiếng: Muối và Ánh sáng. “Các con là muối đất cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại?… Các con là ánh sáng cho trần gian, một thành xây trên núi không tài nào giấu được”.

Theo William Barclay, khi Chúa Giêsu nói: “Các con là muối cho đời”, Ngài đã sử dụng một lối diễn tả đặc biệt bằng cách ca ngợi sự vĩ đại nhất dành cho một con người. Đó là nhấn mạnh đến sự hữu ích và phẩm giá của một người. Thời xưa muối rất có giá trị. Người Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng Latinh, người Lamã đã nói: “Nil utilius sole et sale” – “Không có gì hữu ích hơn là mặt trời và muối”. Trong thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba đức tính cao quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị.

Người Lamã nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ vật của người Do Thái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.

Thời cổ xưa, muối là một phương tiện phổ thông nhất để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư thối. Plutarch đã dùng một lối diễn tả lạ lùng khi nói rằng thịt là một xác chết. Xác chết đó sẽ thối, nếu để nó y như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi. Do đó muối giống như một linh hồn mới được đưa vào trong một thân xác đã chết. Muối giữ cho thịt khỏi bị mục rữa. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải có một ảnh hưởng chống lại những điều độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống.

Nhưng đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng. Đồ ăn thiếu muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.

Thế nhưng điều trái ngược đã xảy ra trong lịch sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo đã làm mất hương vị của cuộc sống. Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và biến Kitô giáo thành tôn giáo của đế quốc Lamã, đến thời hoàng đế Julian lên ngôi, ông lại muốn đưa các thần linh xưa kia trở lại, và phàn nàn rằng: “Các bạn có nhìn kỹ vào những người Kitô hữu này chưa? Con mắt lõm sâu, đôi má tái mét nhợt nhạt, bộ ngực xẹp lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn, chẳng ồn ào tham vọng: mặt trời chiếu rọi cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái đất cống hiến đầy đủ cho họ, nhưng họ chẳng ước muốn gì; tất cả những điều mong muốn của họ là từ bỏ mọi sự và chấp nhận đau khổ cho đến chết”.

Thực ra không phải vì Kitô giáo đã trở nên bi quan yếm thế, làm mất đi sự sinh động của cuộc đời, nhưng bởi hoàng đế Julian quá dính bén với cuộc sống trần thế vật chất này và đã trở nên sa đọa!

Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, người Do Thái dùng muối được lấy ra từ hai nguồn cung cấp. Một là từ các bờ biển sản xuất muối có chất lượng cao cho việc nấu nướng đồ ăn, gọi là muối biển. Người đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào nồi đồ ăn, rồi nếm thử, nếu đã vừa miệng thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài lần, từ từ sẽ trở nên lạt, và giảm dần sự mặn mà.

Nguồn cung cấp muối thứ hai đến từ Biển Chết – biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ Biển Chết có pha trộn nhiều khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan ra, nó không còn là cục muối nữa, mà chỉ là một cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ ném ra ngoài đường “cho người ta chà đạp dưới chân”. [Mục Lục]

2. Ánh sáng 

Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể khác để nói về vai trò của các môn đệ: “Các con là ánh sáng cho trần gian”. Ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói về chính Ngài rằng: “Ta là ánh sáng thế gian”. Vậy ai là ánh sáng thế gian, Chúa Giêsu hay các môn đệ?

Điều có vẻ mâu thuẫn này được giải quyết khi Chúa Giêsu nói về chính mình như sau: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vai trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản ảnh lại ánh sáng đó.

Xưa kia, có một người đàn ông mua được một hộp nữ trang mà người bán hàng hứa rằng nó sẽ chiếu sáng lóng lánh trong đêm tối. Đêm đó ông đặt hộp nữ trang trên bàn và bật đèn sáng lên xem. Nhưng quá thất vọng vì hộp nữ trang đã không chiếu tỏa ra ánh sáng trong đêm tối như người bán hàng đã hứa. Tình cờ vợ của ông nghe biết được câu chuyện. Ngày hôm sau, bà đặt hộp nữ trang dưới ánh sáng mặt trời, đến tối nó tỏa ra ánh sáng lung linh rực rỡ. Thấy thế bà vợ mới cắt nghĩa cho chồng như sau: “Anh đã quên làm theo những lời hướng dẫn trong cái hộp này: “Hãy đặt tôi dưới ánh mặt trời ban ngày, và ban đêm tôi sẽ chiếu ánh sáng cho bạn”. Hộp nữ trang đó đã không tỏa ra ánh sáng vì nó đã không hấp thụ được ánh mặt trời ban ngày. Nó phải nhận được ánh sáng thì mới phát ra ánh sáng được.

Trong bài đọc thứ 2, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta nơi chốn để lấy được năng lực và sản xuất ánh sáng. Đó là từ thập giá của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói rõ ràng là nhiều vị giảng thuyết tài ba đã đến với dân thành Côrintô, kẻ thì dựa trên học vấn lỗi lạc, người thì dựa vào tài hùng biện, ăn nói khéo léo, kẻ khác dựa trên các đức tính cá nhân của họ. Còn ngài, thánh Phaolô đã dựa trên: “Tôi xác định rằng hồi còn ở với anh em, tôi đã không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà chính Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”.

Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúng ta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhận phản chiếu ánh sáng Chúa Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của đức tin trong đời sống Kitô hữu.

Sách Giáo lý Công giáo số 1216 xác định rằng: “Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bãn thân họ là “ánh sáng”.

Công đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.

Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta chẳng là gì cả. [Mục Lục]

3. Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos Tạ Duy Tuyền 

(Trích từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)

Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào cửa Phật. Thầy trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao ngủ được. Ngộ Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại nghiêng bên kia. Bèn quay sang nói với Thầy: “Ngày mai chúng ta vào cõi Phật rồi, sao Thầy không vui?”. Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: “Ngộ Không con ơi, con là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy đã là Người, lại bỏ kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà chưa giúp gì cho đời, liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa hay không?”.

Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy đi Thỉnh kinh đã mang hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không có cơ hội thay đổi bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần thông cũng không thay đổi phận số của mình. Còn chúng ta là người, nhưng sống cho trọn kiếp người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng ta vẫn chưa thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một người kytô hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị thánh, thì bạn phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh làm phật, dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được nhiều chuyện lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là một con người hoàn hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình. “Tu thân tích đức – tề gia – trị quốc – bình thiên hạ”. Một em học sinh muốn trở thành những nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em phải là những học sinh gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò của mình mới mong lập được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có tài nhưng không sống đúng bản chất con người là “nhân chi sơ tính bản thiện” thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng tài năng để phục vụ cho đời.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.

Các con là muối cho đời – là ánh sáng cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho người phụ nữ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm đà.

– Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong bóng tối, thì đó chỉ là những mối quan hệ bất chính và tội lỗi.

Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụn xuống. Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho người ta chà đạp và khinh bỉ.

Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.

Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng, vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để định hướng vào bờ.

Ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa Giáng Sinh, tiên tri Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho đời:

Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về mặt tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau khổ được hạnh phúc…

Và “Như thế, sự sáng của ngươi sẽ tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy đau yếu, Mẹ hỏi: Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng không có dầu. Vả lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm ra chiếc đèn, lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít lâu sau Mẹ nhận được một lá thơ với mấy dòng chữ: “Nụ cười vui tươi của Mẹ, như dầu khích lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về”.

Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời gọi để thắp sáng cuộc đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để thắp sáng niềm tin cho anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu thương bác ái và cảm thông. Vì:

“Làm thân cây nến vào đời

Càng tiêu hao cháy, càng ngời vinh quang”

Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn chát, khô cằn thiếu sức sống vui tươi. Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen. [Mục Lục]

4. Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng 

Muối

Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và trách nhiệm “bảo vệ và gìn giữ” những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng, những giá trị đạo đức nhân phẩm để con người sống “nên người”, sống “cho ra người” hơn. Ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”.

Muối là gia vị làm cho thức ăn được ngon miệng, mặn mà. Từ đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà con người cần phải có để cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ “lạt như nước ốc, bạc nhơ vôi”.

Ánh Sáng

Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh sáng con người chiêm ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.

Nhờ ánh sáng, con người định hướng được hướng đi của đời mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục cuộc hành trình an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần thiết cho những cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.

Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu ánh sáng tâm hồn. Đôi mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm tối, nhưng đôi mắt tâm hồn “mùa lòa” sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có thể không đến với những con người mà đôi mắt đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của đời người, dù sống trong tăm tối, tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới nhiệm mầu của riêng họ.

Điểm chung của muối và ánh sáng

Muối và ánh sáng đều đem lại sự an bình. Không hư hao, và tránh những điều xấu có thể đến.

Muối và ánh sáng đem lại cho đời những điều tốt đẹp hơn. Mặn mà và tươi sáng.

Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan biến và dần dần tự hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để cho đời ánh sáng. Mặt trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn kiệt.

Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh. Khi dùng những món ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả…không ai khen muối. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời… không ai khen ánh sáng.

Vì đời và cho đời

Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không mặn thì có còn là muối không?

Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh sáng mà không chiếu sáng, thì có còn là ánh sáng không?

Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ mà không giống thầy, thì có còn là môn đệ thầy không?

Chúa Giêsu, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài dành cả cuộc đời ở trần thế nầy để “vì đời và cho đời”.

Vì đời và cho đời như “muối và ánh sáng”.

Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem đến đỉnh Can-vê! Còn ai “vì đời và cho đời” hơn như thế không?

Nên môn đệ Chúa Giêsu phải là “muối” và “ánh sáng” theo gương của Thầy Chí Thánh của mình là Chúa Giêsu.

Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).

Chính anh em là ánh sáng cho trần gian (Mt.5,14).

“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”.

Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giêsu Ki-tô.

Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. (Ga.1,14).

Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119,105).

“Muối và ánh sáng vì đời và cho đời”, để đời có Niềm Tin, Hy Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.

“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga.14,6).

Lạy Chúa,

Xin dạy cho con,

và soi sáng cho con,

biết suy nghĩ và hành động,

theo thánh ý Chúa. Amen. [Mục Lục]

5. Bảo vệ căn tính – Lm Vũ Đình Tường 

Khi lẩn vào đám đông chúng ta bị mất hút trong đám đông. Càng đông người thì việc nhận diện người thân quen càng khó, ngoại trừ người đó có đặc điểm. Khó nhận bởi vỉ người giống người. Khó nhận bởi tầm nhìn bị hạn chế. Khó nhìn xa vì vật gần bắt mắt.

Để tránh bị đám đông thu hút Đức Kitô khuyên chúng ta cần phải bảo vệ căn tính. Một khi bị đám đông thu hút căn tính là bị lạc vào rừng người, rừng tư tưởng. Sức quyến rũ của đám đông thường mạnh hơn sức đối kháng cá nhân nên chiều theo số đông là bị cuốn theo chiều gió. Bị đám đông quyến hút căn tính bị lung lay, trật gốc thế là bị đám đông đồng hoá. Đồng hoá trong lòng đám đông và đồng hoá xảy ra trong cõi lòng mình. Bị đám đông đồng hoá cách suy nghĩ, lối sống thì căn tính Kitô hữu bị thay đổi. Đức Kitô dùng hai hình ảnh quen thuộc giúp ta bảo vệ căn tính Kitô hữu. Muối giúp thực phẩm lâu hư nát. Muối có tác dụng diệt trùng, bảo vệ và thẩm thấu. Đây là những đức tính người Kitô hữu cần có để thanh tẩy và triệt tiêu tư tưởng sai lầm để bảo vệ chính mình và bảo vệ người. Đồng thời giúp tình yêu Chúa thấm nhập vào lòng mình và lòng người. Bởi vì căn tính đó mà tình yêu Kitô hữu đi đến bất cứ đâu cũng luôn gặp hai trường hợp. Sẽ có những người vui mừng hoan hỉ đón nhận tình yêu Đức Kitô; lại cũng có nhóm người chống báng, ra mặt đối nghịch tình yêu Đức Kitô do các sứ giả Tin Mừng mang lại. Họ không chỉ chống lại tình yêu Chúa mà còn chống lại mọi biểu hiệu diễn tả tình yêu Chúa. Vì thế cầm giữ bảo vệ căn tính Kitô hữu và làm cho căn tính đó sống động là điều tối quan trọng trong việc làm nhân chứng Tin Mừng cho muôn dân. Nếu không là chứng nhân đích thực sẽ trở thành chứng nhân giả tạo. Giả tạo bởi vì thay vì là muối ướp đời lại bị muối đời hoà tan mất trong lòng đời. Vì thế chúng ta thấy rất nhiều Kitô hữu có danh mà không có thực chất căn tính, không thể hiện tình yêu Chúa trong cuộc sống, trong cách giao tế hàng ngày. Họ là Kitô hữu biến thể, Kitô hữu lí thuyết còn thực hành tình yêu Chúa thì không, trái lại họ sống theo đường lối trần thế. Nói cách khác chứng nhân bị mất căn tính thì lời chứng thiếu yếu tố tín trung.

Một hình ảnh quen thuộc khác là ánh sáng. Thiếu ánh sáng mắt sẽ bị quáng gà nên chúng ta thường nghe ví ‘nhìn gà hoá quốc’. Thực ra việc chủ trương làm trong bóng tối thường có kết quả xấu. Vì thế tội phạm thường mượn bóng tối để thi hành điều ám muội.

Ánh sáng soi sáng sự vật làm cho sự vật trở nên tốt lành, sáng láng hơn. Nhìn cầu vồng vắt ngang trời ta thấy bầu trời đẹp hơn. Ánh sáng chiếu trên sóng biển óng ánh giúp tâm hồn trải rộng, thảnh thơi, thoải mái. Ánh sáng chiếu trên giọt sương mai làm cho buổi sáng tươi mát, mang hy vọng một ngày vui. Xem thế ánh sáng không phải chỉ chiếu dọi vẻ đẹp bề ngoài mà còn khơi dậy, làm sống lại cái đẹp trong tâm hồn. Thánh vịnh 36,9 diễn tả ánh sáng Chúa dẫn ta nhận ra sự tốt lành của Thiên Chúa và thánh vịnh 119,105 nhắc đến ánh sáng Chúa soi đường cho con bước đi.

Ân sủng Chúa đong đầy lòng ta làm cho tâm hồn vui trong an bình, nội tâm thanh thản và nơi nào có tình yêu Chúa tràn đầy bóng tối sẽ bị đẩy lui, tiêu diệt. Ánh sáng Chúa chiếu dọi tâm hồn các tín hữu và giúp họ cảm nhận tình yêu tuyệt vời trong nước Chúa. Đức Kitô từng tuyên bố không có gì che dấu mãi mà không bị lộ ra ngoài. Chúng ta thường hiểu là điều xấu chúng ta muốn che dấu nhưng không thể dối mình mãi và dối Thiên Chúa. Hơn nữa những điều tốt lành cũng bị che dấu khỏi tầm nhìn của những tâm hồn hững hờ, dửng dưng với tình yêu Chúa. Họ nhìn mà không thấy nhưng tâm hồn công chính, ước ao tìm kiếm sự thật sẽ nhận ra sự tốt lành, trọn hảo của tình yêu Chúa.

Tâm hồn khiêm nhượng vui mừng đón nhận muối và ánh sáng Đức Kitô ban cho sẽ được Ngài ban cho muối công chính ướp đời tươi sáng và ánh sáng Ngài soi đường cho ta bước vì thế sẽ không sợ vấp ngã vì có ánh sáng Chúa soi đường và tình yêu Chúa đồng hành trong cuộc sống. Những tâm hồn đó cầm giữ được căn tính Kitô hữu bởi tình yêu Chúa luôn đồng hành với họ. [Mục Lục]

6. Hãy trở nên “vị mặn tình yêu Giêsu” 

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Chúa Nhật tuần trước, thánh Mátthêu tường thuật việc Đức Giêsu lên tiếng giảng dạy và mời gọi những người đang nghe Ngài đi theo con đường Bát Phúc thì được sống hạnh phúc đời đời. Hôm nay, như một sự tiệm tiến mang tính cấp thiết, Đức Giêsu không ngần ngại khẳng định: “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Nhưng“Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc đổ ra ngoài cho thiên hạ chà đạp lên thôi” (Mt 5,13).

Vậy vai trò của muối trong đời sống thường ngày và ý nghĩa mà Đức Giêsu dùng để chỉ về các môn đệ là gì?

  1. Muối trong sinh hoạt đời thường

Khi nói đến muối, chúng ta cũng nhớ ngay đến những cánh đồng muối. Muối được tích tụ từ lượng nước biển, khi nước biển dâng lên, người ta đắp đập, be bờ để giữ nước, rồi chờ cho ánh nắng mặt trời chiếu vào và sau đó, nước biển se lại thành muối. Từ một khối nước khổng lồ, nhưng khi thành muối, ta thấy nó trở thành những hạt li ti. Như vậy, muối là một hạt nhỏ nhoi trong muôn ngàn những loại khổng lồ. Nó nhỏ đến độ nhiều người không cần quan tâm đến nó nữa, chỉ biết được nó nặm mà thôi. Tuy nhiên, để cho mọi người thưởng thức được ngon miệng thì bản chất của nó phải hòa tan ra giữa thức ăn. Nếu không tan ra thì muối chỉ trơ trọi một mình và không phát huy được tác dụng của nó. Khi nhắc đến muối, người ta cũng nhớ đến màu sắc của nó là màu trắng, gợi lại cho chúng ta màu của sự tinh khiết, trong sạch. Khi nghĩ về muối, người ta cũng cảm nghiệm ngay đến vị mặn của nó.

Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây… không ai nói là tôi không cần đến muối. Vì thế, người ta dùng muối để bảo quản thức ăn khỏi hư thối, tăng hương vị. Chẳng thế mà cha ông ta thường có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”. Muối làm cho thức ăn thêm đậm đà. Muối cũng làm cho vị ngọt đã ngọt lại càng ngọt hơn. Người ta cũng dùng muối để trị bệnh, sát trùng và diệt khuẩn. Muối còn có chức năng giúp tiêu hóa tốt, dung hòa i – ốt trong cơ thể, và ngăn ngừa bệnh tật. Muối là một trong những khoáng chất quan trọng nơi sinh hoạt của con người và súc vật. Muối trở nên quan trọng và phát huy tác dụng là vì nhờ vào vị mặn của nó. Nếu nó không còn mặn thì chỉ còn nước đổ ra đường cho người ta chà đạp lên mà thôi.

  1. Muối của người môn đệ

Khi ví người môn đệ như là muối ướp, Đức Giêsu muốn nói đến bản chất của người môn đệ là phải mặn. Người môn đệ phải mang trong mình vị mặn của tình yêu, tha thứ, bao dung và liên đới. Nếu không có vị mặn như thế thì không còn đóng giữ vai trò của mình nữa. Chính vì thế, Đức Giêsu nói: “Các con là muối đất” (Mt 5,13). Nhưng tiếp theo sau đó, Ngài nói ngay: “Nếu muối mà nhạt đi, thì lấy gì mà muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc đổ ra ngoài cho thiên hạ chà đạp lên thôi” (Mt 5,13). Thật vậy, người môn đệ trở nên muối trước tiên là ướp chính mình; sau là ướp cho đời.

Khi nói người môn đệ phải có trách nhiệm ướp đời, Đức Giêsu ngầm muốn nói đến một xã hội đang bị hư hỏng vì sự bê tha, suy đồi và trụy lạc về luân lý… Vì thế, để khỏi hư thối, người môn đệ phải trở nên muối mặn của nhân đức, và phải mang trong mình “vị mặn Giêsu” thì mới mong ướp cho đời được. Có thế, người môn đệ mới hy vọng đem lại cho xã hội một mùi vị thơm ngon… thay cho lạt lẽo, gian dối.

Cũng như những hạt muối được làm từ một khối nước biển tràn vào thế nào, thì người môn đệ cũng phải biết đón nhận nguồn “vị mặn Giêsu”, để rồi trở nên muối và góp phần ướp cho đời như vậy. Nếu hạt muối phải tan chảy ra thấm nhập vào từng thớ thịt, con cá… để tăng hương vị, để khỏi hư thối thế nào, thì người môn đệ cũng phải hòa mình vào trong cuộc sống nhân loại như vậy. Tuy nhiên, chúng ta không thể làm biến chất vì những thói đời hư hỏng, mà vẫn luôn giữ được vị mặn như muối.

Thật vậy, vị mặn của mỗi chúng ta chính là mặn vì yêu mến Chúa, mặn vì yêu thương anh em, mặn vì lòng bao dung và sẵn sàng tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta.

Lạy Chúa, giữa một xã hội vàng thau lẫn lộn, coi thường những giá trị đạo đức, và đang trên đà xuống dốc vì những giá trị tầm thường. Xin Chúa cho chúng con được trở nên muối ướp cho đời để xã hội này ấm hơn nhờ “vị mặn của tình yêu Giêsu”. Amen. [Mục Lục]

7. Gần đèn thì rạng! 

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Thi sĩ Xuân Ly Băng (Đức Ông JB Lê Xuân Hoa) viết bài thơ “Đừng thích làm mặt trời”. Lời thơ thật nhẹ nhàng mà sâu lắng. Nhiều hình ảnh so sánh rất gần gũi thân thương của đời thường.

Khoan mộng làm mặt trời.

Đừng mơ làm sao sáng.

Hãy cố gắng con ơi.

Làm những điều nhỏ mọn

Chỉ vì mến Chúa thôi.

Tặng người con không thích

Một nụ cười thế thôi.

Đôi mắt nhìn trìu mến

Để chia sẽ tâm tình

Với một người đau khổ.

Viếng thăm và giúp đỡ

Người bệnh tật già nua.

Đừng ngại nắng ngại mưa.

Thấy Chúa trong người họ

Không mắng la nạt nộ.

Đừng giận dữ một ai.

Chút mật bắt nhiều rồi

Hơn giấm chua từng hũ.

Hiền lành và tha thứ

Biết rộng rãi khoan dưng.

Theo Chúa ở khiêm nhường

Và sẵn sàng phục vụ.

Việc làm tuy bé nhỏ

Giá trị thật vô cùng

Làm mặt trời đừng mong.

Cũng đừng mơ làm sao sáng…

Đọc thơ, tôi liên tưởng đến hình ảnh Muối và Ánh Sáng của Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.

Khoan mộng làm mặt trời.

Đừng mơ làm sao sáng.

Chỉ mong làm muối đất.

là ánh sáng Chúa thôi.

Hiến chương Nước trời được Chúa Giêsu công bố trong Tin mừng Chúa nhật vừa qua. Tiếp theo bài giảng trên núi, Chúa Giêsu xác định sứ mạng của các môn đệ: “Anh em là muối cho đời… anh em là ánh sáng thế gian”.

  1. Anh em là muối cho đời, một định nghĩa tuyệt vời về Kitô hữu.

Sử gia Pliny viết: “Không gì bằng hữu dụng bằng muối và ánh sáng”. Không có ánh sáng, cỏ cây sẽ úa tàn. Không có muối, sơn hào hải vị cũng sẽ ra nhạt phèo. Chúa Giêsu ví các môn đệ của Ngài như muối đất và ánh sáng của trần gian. Đây là một vinh dự cho các môn đệ vì họ được mời gọi tham dự vào sứ mệnh làm muối đất, ánh sáng của Chúa Kitô.

Chúa Giêsu Kitô chính là Ánh Sáng soi chiếu trần gian u mê (Mt 4,16; Pl 2,15; Ep 5,8). Ngài đến để giảng dạy cho thế gian biết đâu là hạnh phúc chân thật: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6). Chúa Giêsu đã chữa lành những kẻ bị tật nguyền, xoa dịu những tâm hồn đau khổ. Như muối đất, tình yêu của Ngài được biểu lộ qua những nghĩa cử bác ái và cái chết, đã làm cho trần gian tẻ nhạt và khổ đau thêm mặn mà, ý vị.

“Muối đất”. Muối được dùng để khử trùng, gìn giữ thức ăn và để nêm vào các món ăn cho thêm hương vị mặn mà. Nếm một món ăn thiếu muối sẽ thấy nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người bị bệnh cao huyết áp phải ăn lạt nên thường mất ngon khi ăn. Người Việt thường dùng nước mắm để nêm các món ăn, nhưng vẫn phải thêm muối, món ăn mới hấp dẫn.

Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.

Ngày xưa, khi chưa khám phá ra phân bón hóa học, người ta dùng muối để làm đất đai thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và thức ăn, cất giữ được lâu ngày hơn. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng. Mặn thuộc về bản chất của muối.Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn nồng. Vị mặn là tình yêu tha nhân mặn mà. Yêu Chúa mặn nồng, yêu tha nhân mặn mà, đời sống Kitô hữu sẽ ướp hương vị tình yêu mặn mòi cho cuộc đời.

  1. Anh em là ánh sáng cho trần gian, một định nghĩa quá cao trọng về Kitô hữu.

Chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga1,5), chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12). “Anh em là ánh sáng” vì anh em gần Thầy “gần đèn thì sáng”.

“Ánh sáng thế gian”. Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo hiệu đang có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn đem lại niềm vui và thu hút mọi người.“Các con là ánh sáng thế gian”, đây là lời mời gọi truyền giáo, qua đời sống, qua lời nói và hành động, Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần bước trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.

Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian nhưng lại nói: “Các con là muối đất và là ánh sáng thế gian”, bởi vì các con là môn đệ của Thầy, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.

“Các con là sự sáng thế gian”, sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: “Ta là sự sáng thế gian” (Ga 8,12). Chúa Giêsu muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài, cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó, ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: “Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời”.

Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong Bài đọc 1 đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi “lạt” và ngọn đèn luôn chiếu sáng. Đó là sống bác ái, chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc… Khi ấy, “ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày”.

Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại, đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc bé nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói lịch thiệp, những cử chỉ bác ái khiêm nhường, thái độ biết lắng nghe, sống tha thứ biết nghĩ đến người khác…

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ muối đất và ánh sáng trần gian của Kitô hữu. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương thì chính đời sống, việc làm, việc bác ái sẽ mang lại hương vị cuộc đời, hương thơm cho mọi người, chiếu tỏa ánh sáng giúp nhiều người đến với Chúa là “nguồn ánh sáng và ơn cứu độ” (Tv 2,1). Kitô hữu tiếp nhận ánh sáng từ Chúa Giêsu để rồi chiếu lên làn ánh sáng hy vọng, ánh sáng tin yêu, ánh sáng công bình bác ái. Những chứng tá đức tin cậy mến, những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm chính là muối thêm hương vị đức ái cho đời, là những ánh sáng đức tin soi đường truyền giáo. [Mục Lục]

8. Chiếu ánh sáng của chúng ta khi cần. 

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Trong một cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một phóng viên đã hỏi ngài: “Đức Thánh Cha cầu nguyện cho những ai và cho điều gì?” Đức Thánh Cha trả lời bằng việc trích dẫn đoạn văn mở đầu trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng Vatican II. Đoạn văn ấy như sau: “Sự vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo âu của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo hay những người bị bách hại, cách nào đó là niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo âu của những người theo Chúa Kitô” (Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, số 20).

Thật ra Đức Thánh Cha đã trả lời câu hỏi không chỉ như ngài là một Giáo Hoàng mà với tư cách là một người Công giáo, một người theo Chúa Kitô, giống như mọi người chúng ta. Chắc chắn những lời cầu nguyện của Đức Thánh Cha cũng sẽ là của chúng ta nữa. Dĩ nhiên cầu nguyện phải dẫn tới hành động và hành động tương quan với tha nhân nữa.

Biến lời cầu nguyện thành hành động là giáo huấn của tiên tri Isaia trong Thánh Lễ hôm nay: “Hãy chia bánh với người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ bị áp bức và không nhà. Mặc quần áo cho kẻ mình trần khi thấy họ, đừng xoay lưng lại với những khốn khổ đang xảy ra”. Những lời cảm động này muốn nói tới những người Do Thái bị lưu đày, họ trở về sau khi thoát ách nô lệ ở Babylon. Họ tìm thấy quê hương họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, một dân không chia sẻ cùng một tôn giáo hay nền luân lý của họ. Họ cảm thấy mình như là một dân tộc thiểu số trong một khu vực thù địch.

Chúng ta không giống như họ nơi xã hội của chúng ta, những người Công Giáo không phải là một nhóm người thiểu số, nhưng một số người đang lớn dần lên chung quanh chúng ta có vẻ như trái tim họ bị xơ cứng trước những nhu cầu của người anh em, ví dụ như những người đói khát, những dân nhập cư, những người không nhà, những người nhận trợ cấp xã hội. Các nhu cầu giúp đỡ sẵn sàng bị loại bỏ như là việc vô giá trị và không đáng được phục vụ. Ở một số nơi, tinh thần này đã thay thế cho sự thương xót. Những người Công Giáo chúng ta không thoát khỏi ảnh hưởng của những biến chứng này. Đôi khi những hiệu quả thì rất tinh tế mà chúng ta không hề ý thức đên chúng.

Ngày nay, một số người nghèo khổ và thích cuộn mình nằm nơi góc tối, nơi đó họ không bị nhìn thấy. Nhưng Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng chúng ta phải chiếu sáng sự tốt lành của chúng ta trên những người có nhu cầu để họ không bị quên lãng, tiên tri Isaia đã giúp chúng ta hiểu những gì Chúa Giêsu muốn nói bằng việc nói với chúng ta: “Nếu các người rời khỏi nơi áp bức, sự kết án gian dối và những bài giảng ác tâm, nếu các ngươi cho những kẻ đó bánh ăn, an ủi những kẻ ưu phiền, thì ánh sáng sẽ bùng lên ngay giữa nơi tối tăm của các ngươi”.

Chúng ta có thể cần tự nhủ phải trở lại với lối suy nghĩ của người Công Giáo và hành động theo Đức Kitô, những người mà niềm vui hay những đau thương, nhu cầu và những lo âu của họ trong thời đại này, đặc biệt là của những người nghèo khó hoặc những người đau khổ là những người có liên quan đến chúng ta.

Thật ra, tất cả chúng ta đều có những nhu cầu lớn lao, không có mức độ tài chánh nào có thể đáp ứng cho đủ cả. Chúng ta cần Thiên Chúa và ân sủng của Người. Thiên Chúa không hề quay mặt đi khỏi chúng ta. Người hằng nhìn xem chúng ta và đáp trả những lời cầu xin của chúng ta cách quảng đại, đặc biệt là lời cầu trong Thánh Lễ. Người gọi chúng ta ra khỏi tình trạng không nhà của thế giới trần tục để vào trong nhà của Người là Giáo Hội. Ở đây, Người tiếp đón chúng ta bằng những lời êm dịu và yêu thương trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Con của Người. Có phải chúng ta xứng đáng với tất cả chuyện đó chứ? Chúng ta làm gì để xứng đáng với điều đó? Chắc chắn những hồng ân quảng đại của Thiên Chúa hằng ban xuống trên chúng ta, sẽ khiến chúng ta đi theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha và làm cho những nhu cầu của tha nhân thật sự trở nên của chính mình. [Mục Lục]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *