Bài hát và suy niệm (22.05.2022 – Chúa Nhật VI Phục Sinh năm C)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Năm 2022:

NL: MUÔN TẠO VẬT ƠI

ĐC: CON SẼ CA MỪNG

DL: DÂNG NIỀM CẢM MẾN

HL: CHÚA TRONG LÒNG CON

KL: HOAN CA MARIA

Năm 2019:

NL: ĐI VỀ NHÀ CHÚA

ĐC: CON SẼ CA MỪNG

HALL: Chúa phán : Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy / và Cha thầy sẽ yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy.

DL: XIN HIỆP DÂNG

HL: CHO CON BIẾT YÊU THƯƠNG

KL: AVE MARIA

Năm 2016:

Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29, Kh 21,10-14.22-23, Ga 14,23-29

Bài đọc 1: Cv 15,1-2.22-29

Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.

Hồi ấy, có những người từ miền Giu-đê đến An-ti-ô-khi-a dạy các anh em rằng : “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ.”  Ông Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.

Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba. Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín trong Hội Thánh.  Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau :

“Anh em Tông Đồ và kỳ mục chúng tôi gửi lời chào anh em gốc dân ngoại tại An-ti-ô-khi-a, tại miền Xy-ri và Ki-li-ki-a.  Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang.  Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô,  những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.  Vậy chúng tôi cử ông Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây :  Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này :  là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”

Bài đọc 2: Kh 21,10-14.22-23

Bài trích sách Khải huyền của thánh Gio-an tông đồ.

Tôi là Gio-an, đang khi tôi xuất thần, thì một thiên thần đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống,  chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê.  Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en.  Phía đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa.  Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên.

Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành.  Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 14,23-29)

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
27 “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28 Anh em đã nghe Thầy bảo : ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”

Đức tin trao ban bình an

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” lời chân lý tuyệt hảo dẫn đưa tới sự sống đời đời này, chúng ta có khả năng làm được hay không?

Lời Chúa thì phong phú vô cùng, làm sao chúng ta ghi nhớ hết để “giữ” đây! Một sự thật đớn đau không nhỏ ở phận người. Thế nên, như các tín hữu thời sơ khai, đừng trao thêm gánh nặng phải giữ cho anh em trong đức tin. Hãy giúp nhau cởi bỏ những gánh nặng không hợp thời, tựa như, ngày đó, có kẻ mạnh tiếng “phải “cắt bì” theo luật Mô-sê mới được ơn cứu độ”. Đây là gánh nặng thuở ban đầu, khi đức tin còn dây dưa với quan điểm, lề luật của người Do Thái. Sau đó lại là “là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết”. Hiện nay nhiều giáo phái căn cứ vào những lời kinh này của các thánh Tông Đồ, và nói “Người Công Giáo đã sống sai với lời Chúa dạy!” Nhưng chúng ta đừng quên rằng Chúa Giê-su đến để kiện toàn lề luật “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5,17) Hơn thế nữa, chính Thiên Chúa từng cho rằng không hề ô uế những thức ăn trước đó lề luật Mô-sê cho là ô uế. Gặp Chúa trong cuộc xuất thần, Người nói với thánh Phê-rô “Ông thấy đói và muốn ăn. Đang khi người ta dọn bữa thì ông xuất thần. Ông thấy trời mở ra và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả xuống đất. Trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết sống trên đất, cùng mọi thứ chim trời. Có tiếng phán bảo ông: “Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn!” Ông Phê-rô thưa: “Lạy Chúa, không thể được, vì không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch.” Lại có tiếng phán bảo ông lần thứ hai: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì ngươi chớ gọi là ô uế.” (Cv 10,10-15) Trong bối cảnh giao thời, áp lực của Luật Cũ còn quá nặng trên các tín hữu thời sơ khai, nên các Tông Đồ phải tùy hoàn cảnh mà áp dụng thêm những điều ghi trên. (Hơn nữa, thánh Gia-cô-bê ngày đó, chỉ đại diện cho giáo phận Giê-ru-sa-lem chứ không phải toàn Hội Thánh. Vấn đề mang tính Giáo hội địa phương. Không phải lời thánh Phê-rô, vị cầm đầu Hội Thánh.) Còn trong sự thật đức tin, chúng ta hoàn toàn không cần phải giữ luật cũ, như luật ô uế về ăn uống của dân Ít-ra-en. Vì chính Chúa Giê-su đã dạy “Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?” Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch.” (Mc 7,18b-19) Cho nên lời cáo buộc của các anh em ly giáo về người Công Giáo là không đúng.

Để giữ lời Chúa, đầu tiên chúng ta phải học biết Lời Ngài, Lời rất phong phú về ý nghĩa và cách áp dụng cũng có cao thấp khác nhau, ứng dụng trong những tình huống khác biệt có nhiều khi khá khác nhau. Vì thế, chúng ta không những học để gia tăng kiến thức, mà còn phải học để biết thấu đáo, cho có thể sống thật tích cực lời Chúa dạy trong mọi hoàn cảnh.

Ai siêng năng học tập lời Chúa, học đạo lý của Người rồi đem ra thực hành, đó mới là người thật khôn ngoan. Khôn ngoan hơn cả khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, bởi vì sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn chỉ là khôn ngoan tự nhiên. Một thứ khôn ngoan làm cho ông nên giàu có, quân đội hùng mạnh, danh tiếng lẫy lừng, nhưng lại không đủ sức làm cho ông giữ được tình Chúa ở lại với mình. Không tạo nên một đời sống có nhiều nghĩa tình với Chúa, cuối đời vua Sa-lô-môn đã lỗi nghĩa với Chúa. Nên, cho dù vua Sa-lô-môn có khôn ngoan bậc nhất nhân loại, thì sự khôn ngoan ấy cũng không cùng đẳng cấp với khôn ngoan thần khí. Là khôn ngoan dẫn tới sự sống vĩnh hằng mà Chúa Giê-su dạy các Tông Đồ và môn đệ “Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” Chúng ta nhìn lại, so sánh hai cuộc đời của vua Sa-lô-môn và vua Đa-vít, cha của ông. Sẽ thấy kết quả cuối cùng ai mới là người được ơn nghĩa với Chúa, được Chúa coi trọng và yêu thương “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”!

Vinh quang được Chúa ở cùng, cũng là vinh quang mà bài đọc hai nói đến. Một thứ vinh quang thượng giới được khởi đầu từ những gian khổ nhân gian, một cái giá phải trả theo đường về của Đức Ki-tô Giê-su. Thành Thánh Giê-su-sa-lem mới được diễn tả cách thật lộng lẫy và cao sang hết mực, ngay cả chất liệu xây thành cũng được xây tựa bằng ngọc quý, sang trọng cách hết mực thánh thiêng. Là hình ảnh của cõi thiên đàng vĩnh phúc, nơi những người được vinh dự hiển ngự trong ánh sáng sẽ có cuộc sống vinh sang tột bậc vĩnh hằng. Vinh quang của tòa thành được xây nên bởi móng nền chân lý tông truyền và ân sủng mà mười hai thánh Tông Đồ được nhận từ Đức Ki-tô và Đấng Bảo Trợ, là chính Chúa Thánh Thần. Rồi được Thiên Chúa Ba Ngôi soi sáng cho thành, ánh sáng vinh quang của bản thể Thiên Chúa.

Điểm này cho thấy khi được Chúa Cha yêu thì kết quả sẽ như thế nào, ta có thể nói vinh phúc hơn cả những gì mà bài đọc hai diễn tả. Bởi vậy được Chúa Cha ở với mình là diễm phúc có được thiên đàng ngay trong thiên đàng.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Bình An Của Thầy 

Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (Ga 14, 23). Người ta yêu nhau thì luôn nhớ lời đã nói với nhau, giữ lời hứa với nhau, luôn làm theo ý muốn của người yêu. Nếu quên hay chẳng muốn giữ lời thì tình yêu bị mờ nhạt, lạnh lẽo. Bởi ông Giuđa thắc mắc sao Thầy chỉ “tỏ mình” cho chúng con thôi, mà không “tỏ mình” cho thế gian thiên hạ? Thầy mới nói như trên và còn khẳng định: “Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.” (Ga 14,24a).  Suốt mấy năm theo Thầy, các môn đệ được ở với Thầy, chứng kiến bao việc Thầy làm, nghe bao lời dạy dỗ của Thầy. Thầy trò sống mật thiết yêu thương, Thầy coi trò như bạn thân. “Thầy không gọi anh em là đầy tớ, song là bạn hữu”.

Ngày nay nếu chúng con không yêu mến Thầy, sẽ chẳng màng đến Lời Thầy, làm sao Thầy “tỏ mình” cho chúng con? Đời sống đạo sẽ khô cằn nứt nẻ, buồn tẻ, nhạt nhẽo. Chúng con vẫn rước Thầy mỗi Thánh lễ mà chẳng thấy chi, dường như Thầy vẫn ở đâu đó, trên thiên đàng hay bị nhốt trong Nhà Tạm kia. Còn nếu chúng con vì yêu mà tìm đến Thầy, mở lòng đón Thầy thì “Cả Nhà Thầy”: Cha – Con và Thánh Thần sẽ đến và ở trong chúng con. Thầy sẽ “tỏ mình” cho chúng con. Càng “biết” Thầy chúng con càng yêu, càng yêu Thầy chúng con không dám sai Lời Thầy vì sợ làm Thầy buồn, sai Lời Thầy chúng con sẽ tự đẩy mình ra xa Thầy.

Thầy còn căn dặn ủi an các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14,27). Đây thực là những lời ủi an tâm huyết chứa chan tình Thầy đến nghẹn ngào. Sống trên trần thế, ai cũng mong ước được sống trong hòa bình, ấm no hạnh phúc. Bình an thế gian là: có được cuộc sống sung sướng, tự do, khỏe mạnh, mọi sự êm ả, không gặp sóng gió cuộc đời, không có bệnh tật đau khổ… Vậy mà Thầy lại hứa ban thứ bình an khác: “Thầy ban bình an không theo kiểu thế gian.” Chúng con chỉ thích những thứ bình an theo kiểu thế gian thôi, mà Thầy lại hứa ban thứ bình an nào nữa đây? Sự bình an này các thiên sứ đã reo vang trong ngày Thiên Chúa giáng trần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm”. Sự bình an của Thiên Chúa đến từ trong tâm hồn, khác hẳn với sự bình an của thế gian. Sự bình an của thế gian thật mong manh, nay cười rồi mai lại khóc. Sự bình an của Chúa hiện diện ngay trong đau khổ, thử thách và nghịch cảnh bên ngoài. Một tâm hồn rộng mở đón Chúa ngự trị, thì với trái tim đầy niềm vui của Chúa, bình an trong Thánh Thần, con người sẽ được bình an thực sự. Nếu con người cố bám vào bình an hời hợt của thế gian, thì khó mà cảm nhận được sự bình an của Chúa. Trong sự bình an đích thực của Thiên Chúa, chính Chúa đã trải qua cuộc tử nạn, tự hiến và trao ban vì tình yêu, cho đến ngày phục sinh khải hoàn. Ngày nay bước theo Chúa giữa thế trần này, chúng con cũng phải đương đầu với những giằng co tranh chấp trong tâm hồn và bên ngoài cuộc sống. Với cái nhìn thế gian, chúng con đã lãnh nhận những thua thiệt, nhưng như Chúa trên thập giá, chúng con nhận được sự bình an.

Lạy Chúa! xin cho con biết kiếm tìm sự bình an từ chính thập giá của Chúa. Đối diện với Thập giá, chắc chắn con sẽ lo âu, sao xuyến. Nhưng nếu con biết tận hiến và trao ban, con sẽ an tâm vững bước theo con đường Chúa đã đi, vì chỉ khi biết cho đi, con mới nhận được nguồn bình an đích thực của Chúa. Amen.

Én Nhỏ

Đón nhận và sẻ chia cho nhau

Ghi nhớ:Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”.

Suy niệm: Giờ từ biệt các môn đệ để vào cuộc “Vượt Qua” thật cảm động. Những lời trăn trối thật chí tình, lời chia sẻ đầy yêu thương. “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy.” Tình yêu Đức Giê-su trong chúng ta là nguồn mạch mọi công trạng của chúng ta trước mặt Thiên Chúa, là linh hồn của sự thánh thiện mà mọi người được kêu gọi hướng tới. Thánh Phao-lô còn nói: Không có Đức mến “Tôi chẳng là gì” và bất cứ điều gì là đặc ân, công việc phục vụ thậm chí nhân đức mà nếu ta không có đức mến thì cũng “chẳng ích gì cho tôi”.

Đức mến cao trọng hơn mọi nhân đức, đứng đầu các nhân đức đối thần. Để đi vào trọng tâm của Tin Mừng này có lẽ mỗi người tự trả lời cho những lời  mời gọi yêu thương của Ngài. Chúng ta có yêu thương những người quanh mình không? Chúng ta trả lời thế nào khi quanh ta còn nhiều người cần chia cơm sẻ áo? Những đoàn viên quanh ta có phải là anh em ta không? Sao ta không ân cần thăm hỏi? Sao ta không ủi an khi cần thiết. Là đoàn viên chúng ta hãy sống tốt hơn, tự làm một việc tốt lành cho người sống xung quanh mình để bày tỏ tình yêu của mình với Chúa.

Sống Li Chúa: “Thầy ban bình an của Thầy cho các con “.

Chúng ta đón nhận bình an của Chúa và sẻ chia cho nhau, từ những lời chào thăm đến những việc làm chúng ta cho là cần thiết như  thi hành sứ vụ Tông đồ bác ái  của Huynh đoàn mà tất cả Anh Chị em đều được mời gọi thực hiện theo Chương 2 của Luật sống: “Đời sống đoàn viên” bao gồm bốn yếu tố:

– Kết hiệp với Chúa,

– Hiệp thông với anh chị em,

– Chuyên cần học hỏi để tăng trưởng đức tin,

– Thi hành sứ vụ tông đồ theo đoàn sủng Đa Minh.

Cầu nguyn: Ly Chúa ca chúng con. Xin cho mỗi người đoàn viên chúng con xứng đáng thành môn đệ của Chúa. Xin cho chúng con biết thực hiện đời sống theo bốn yếu tố Tinh thần Dòng. Chúng con cảm tạ Chúa.

BRC

 

***

 

1. Bình an

2. Lo âu

3. Bình an

4. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

5. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện

6. Chú giải của Noel Quesson

 

1. Bình an

Cách đây khoảng năm, mười năm tại Manila này, hầu như mọi người lớn tuổi cũng như giới trẻ, ai ai cũng nói đến truyện phim khoa học giả tưởng có tựa đề là “Người ngoài hành tinh trái đất”. Với dung mạo kỳ dị khác mọi người trong trái đất này, nhưng lại có một tâm hồn hiền lành, tràn đầy tình yêu thương. Người ngoài hành tinh này bị đi lạc vào trái đất, và những con người mà người hành tinh được dịp tiếp xúc trên mặt đất này đều tỏ ra nghi kỵ, lo sợ, không hiểu và không chấp nhận những cử chỉ yêu thương của người hành tinh, chỉ có một em bé xem ra như đã vượt qua được sự ngăn cách, cảm thông được với người ngoài hành tinh. Nhưng sự cảm thông này cũng không đủ để giữ người ngoài hành tinh này ở lại trái đất, và người ngoài hành tinh sẽ tìm mọi cách để trở về với thế giới của mình, thế giới ở bên kia, khác với thế giới con người.

Truyện phim khoa học giả tưởng này có thể gợi ý cho chúng ta phần nào để lĩnh hội sứ điệp của Chúa Giêsu được nhắc đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu một cách nào đó có thể được so sánh như một người ngoài hành tinh, ngoài trái đất này. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, sống trong thế giới khác biệt với thế giới chúng ta, một thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi từ cõi đời đời, thế giới của tình yêu thương, của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng khác với người hành tinh, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa đã không bị đi lạc vào trong thế giới của chúng ta, nhưng Ngài đã cố ý đến với thế giới chúng ta, trở thành con người như chúng ta để cứu rỗi chúng ta, biến chúng ta trở thành giống Người nhiều hơn, sống sự sống của Người trong yêu thương. Trọn cả cuộc đời của Ngài trên trần gian là để dạy sứ điệp tình thương.

Người ngoài hành tinh rời trái đất trở về thế giới khác, để lại cậu bé trong niềm luyến tiếc, vì em bé này biết rằng mình vĩnh viễn sẽ không bao giờ gặp lại người bạn tốt này nữa. Chúa Giêsu thì lại khác, Ngài từ giã các tông đồ để trở về lại cùng Thiên Chúa Cha không phải để vĩnh viễn xa chúng ta luôn mãi, nhưng là để dọn chỗ cho chúng ta. Nơi Ngài đi chúng ta cũng sẽ tới, nếu chúng ta chấp nhận cuộc sống của Ngài, đó là cuộc sống yêu thương như Ngài đã dạy. Ngài biết chúng ta đã được dựng nên bằng gì? Có những yếu đuối như thế nào? Người đã không giảng dậy xuông mà còn thực hiện qua hành động cụ thể để ban cho chúng ta chính sức mạnh của Người, đó là ban Chúa Thánh Thần để hiện diện và hướng dẫn chúng ta luôn mãi. Ngài chỉ nài nỉ một điều duy nhất là hãy ở lại trong tình yêu Ngài, hãy duy trì sự hiệp nhất với Ngài.

Giữa thế giới của người ngoài hành tinh và thế giới của chúng ta không có sự liên lạc nào là hoàn toàn xa cách và người ngoài hành tinh hãy trở về lại với thế giới của mình. Thế giới của Thiên Chúa tuy khác với thế giới của mỗi người chúng ta, nhưng không hoàn toàn cách biệt, vì giữa hai thế giới này có sự liên hệ mật thiết với nhau và mỗi người chúng ta có thể bước vào trong thế giới của Chúa, nếu chúng ta chấp nhận sống giống như Chúa, sống kết hiệp với Chúa, chu toàn giới răn yêu thương của Chúa.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được ơn khiêm tốn đủ để đón nhận lời dạy của Chúa và xin Ngài cũng ban cho chúng ta được ơn can đảm để sống những gì Chúa truyền dạy. Chúng ta đừng chỉ đứng nhìn trời, chỉ mơ ước Thiên Chúa làm mọi sự cho chúng ta hưởng dùng, nhưng hãy nhìn vào anh chị em xung quanh, hãy nhìn vào thế giới chúng ta đang sống với muôn vàn thử thách với tâm hồn tràn đầy xác tín, tuân phục giáo huấn của Chúa, tràn đầy tình thương và sức mạnh của Ngài để thực thi giáo huấn của Ngài.

Đây là cách hữu hiệu nhất để chúng ta bước vào trong thế giới của Thiên Chúa, bước vào Nước Chúa trong hiện tại, ngay bây giờ và trong tương lai vĩnh cửu của nước hằng sống. Xin Chúa thương ban cho mỗi người chúng ta được ơn bước vào trong thế giới của Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ sự dấn thân của chúng ta và nâng đỡ đức tin của chúng ta mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính. 

 

 

2. Lo âu

Nếu có một người nào đó hỏi chúng ta: “Ông bà, anh chị có yêu mến Chúa không?”. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trả lời được ngay. Không những trả lời được mà còn cho người đó hỏi một câu dư thừa, vớ vẩn. Nhưng nếu người đó hỏi thêm một câu nữa: “Làm sao ông bà, anh chị biết được mình yêu mến Chúa, hay dựa vào bằng chứng nào để tôi biết được ông bà, anh chị yêu mến Chúa?”. Câu hỏi này anh chị em trả lời được không? Dĩ nhiên là được. Nhưng có lẽ sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời thay cho chúng ta, Chúa đã chỉ dạy cho chúng ta một dấu hiệu, một bằng chứng, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa hay không?: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?

Lời Chúa ở đâu? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói: Lời Chúa chứa đựng trong sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói: Lời Chúa còn chứa đựng trong thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong phụng vụ, tức là những gì Giáo Hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và Lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo Hội, tức là những giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các giám mục. Tóm lại, Kinh Thánh, thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo Hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến Lời Chúa, chúng ta thường hiểu là Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng.

Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.

Cũng thế, người ta thường nói: “Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng”. Do đó, muốn suy nghĩ, nói năng, hành động, phản ứng như Chúa, thì điều quan trọng là phải có đầy Chúa trong tâm hồn, phải thấm nhiễm tinh thần của Chúa, phải in sâu hình ảnh dịu hiền của Chúa, những gương sáng Chúa đã thực hiện, lời Chúa dạy dỗ, giáo huấn vào đầu óc của mình. Để được như vậy, chỉ có cách duy nhất là hằng ngày chăm chỉ đọc Lời Chúa trong Kinh Thánh và suy niệm. Nhờ đó Lời Chúa dần dần chi phối đời sống chúng ta và trở thành nguyên tắc hướng dẫn mọi hành vi, cử chỉ của chúng ta và biến đổi chúng ta nên giống Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta đọc và suy niệm lời Chúa là rất tốt rồi, nhưng điều quan trọng hơn nữa, là chúng ta phải áp dụng, phải thực hành lời Chúa, vì đây là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm… Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành lời Chúa. Thực hành lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.

Yêu mến Chúa là giữ lời Chúa truyền dạy. Giữ ở đây không hiểu theo nghĩa thụ động, nghĩa là đem chôn giấu lời Chúa, nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là có sáng kiến đem lời Chúa ra thực hành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhưng lời Chúa là lời nào? Tất cả lời của Chúa gồm tóm rất gọn trong một tiếng này, đó là “yêu”. Yêu Chúa với tình yêu của một người con hiếu thảo và yêu đồng loại với tình yêu như Chúa đã yêu chúng ta.

Đàng khác, sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu. Lo âu về tương lai, về gia đình, về con cái, về tiền bạc, về công việc làm ăn, về sức khỏe… Lời Chúa hôm nay an ủi và khích lệ chúng ta đừng xao xuyến và sợ hãi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa mọi lao công vất vả, mọi lo lắng buồn phiền. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời mình cho Chúa và xin Chúa ban sự bình an. Bởi vì có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi. 

 

 

3. Bình an

Trên những chuyến xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”, người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.

Những vấn đề vừa nêu trên cho thấy bình an luôn luôn là nhu cầu thiết yếu của con người dù không nói ra. Có nhu cầu bình an tất nhiên cũng cần phải kiếm nơi cung cấp nhu cầu bình an.

Vấn đề được đặt ra là những ai đứng ra cung cấp nhu cầu bình an, cung cấp như thế nào và liệu có thực sự đem lại bình an cho thân chủ hay không?

Nếu chỉ dựa trên qui luật “cung cầu”, bất cứ ai cũng có thể có được bình an miễn là có tiền, chỉ cần bỏ tiền ra thuê một vài vệ sĩ ở các “công ty dịch vụ vệ sĩ” là có thể có bình an. Bình an theo cách này chẳng khác nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng “bình an thế gian ban tặng”. Bình an dựa trên qui luật cung – cầu có thực sự bình an không?

Trong tháng 1- 2001 tổng thống Kabila của cộng hòa dân chủ Công-gô, dù được bảo vệ, canh phòng rất cẩn thận, nhưng ông vẫn bị ám sát; người ám sát ông không phải ai xa lạ hay tổ chức chính trị đối lập, mà chính cận vệ thân tín của ông, người có nhiệm vụ bảo vệ ông và luôn sát cánh bên ông.

Điều này càng cho thấy sự bình an dựa trên qui luật cung cầu, quy luật mua bán trao đổi hay nói theo lời của Đức Giêsu “bình an thế gian ban tặng” xem ra chẳng có gì bảo đảm, nói không sai là rất mong manh. Rốt cuộc bình an luôn là ước mơ, nhu cầu sống còn của con người.

Vẫn biết bình an là nhu cầu sống còn của con người, nhưng cách thức ban bình an của Đức Giêsu trái ngược hoàn toàn với cách thức của con người, bình an trong những tình huống bất an.

Trong khi người đời cần phải có phương tiện bên ngoài, tỷ như có vệ sĩ bảo vệ… mới được bình an. Đức Giêsu hứa ban một thứ bình an như lời Ngài khẳng định “… không như thế gian ban”. Bình an Đức Giêsu không có gì bảo đảm bên ngoài mà chỉ dựa vào lời hứa của Đức Giêsu “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”. Đây mới là sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.

Thật vậy, bài Tin Mừng cho thấy một bối cảnh thật xúc động, Thầy Giêsu chuẩn bị chia tay với các môn đệ. Trước đó các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại mỗi lần Đức Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, còn cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Khi Đức Giêsu hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ cũng tan biến và ngược lại.

Như thế, nguyên nhân khiến các ông sợ hãi là không thấy sự hiện diện bằng thể lý của Đức Giêsu. Chính trong lúc không còn gì để bám víu, để lệ thuộc, mà chỉ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, lúc đó các ông mới cảm nhận sự bình an Đức Giêsu ban cho. Nói như Phaolô “Bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu”. Bình an Đức Giêsu ban bất chấp sự đe dọa bên ngoài. Bình an Đức Giêsu ban không có gì khoa trương bên ngoài rất âm thầm, sâu lắng nhưng rất mãnh liệt… làm cho chúng ta bình an thật sự dù có bị tối tăm vây quanh, dù có bị sóng gió cuộc đời quật ngã ta vẫn không bị tiêu diệt… cũng chính Phaolô đã nói lên kinh nghiệm xương máu của ông trong các cuộc hành trình truyền giáo “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt”. Đơn giản vì Phaolô luôn mang trong mình lời hứa bình an của Đức Giêsu. Bình an Đức Giêsu hứa ban không chỉ dành riêng cho các môn đệ mà còn cho tất cả những người tin vào Đức Giêsu – các Kitô hữu. Vậy làm thế nào để có được sự bình an này?

Đứng trước những thách đố, sóng gió trong đời sống gia đình, tỷ như thiếu gạo, tiền đóng học cho con, tiền điện nước… ta chỉ ngồi đó than thân trách phận, “đóng cửa” lại như các môn đệ để tìm bình an sao? Đó không phải là bình an của Đức Giêsu, bình an của Đức Giêsu là “bung ra”, làm ăn chân chính, làm hết sức mình để lo cho gia đình dù kết quả không như mong muốn, ta vẫn thấy sự bình an của Đức Giêsu hiện diện. Sự bình an của Đức Giêsu được thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui trong gia đình, đôi khi ta không nhận ra.

Hoặc là đứng trước những chọn lựa sống, sống không ngay thẳng trong làm ăn buôn bán làm ta giàu hơn, còn sống trung thực đôi khi lại làm ta mất đi những món lợi lớn. Bình an của Đức Giêsu ở đây chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Thiết tưởng thước đo để xét xem ta có sự bình an của Đức Giêsu hay không đã nằm sẵn trong bài Tin Mừng “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.

Một vị ẩn sĩ già có hai môn sinh, ông hướng dẫn họ sống lời Chúa, sau một thời gian người thứ nhất cảm thấy vui tươi hạnh phúc, đường tu trì có nhiều tiến bộ, còn người thứ hai luôn buồn bực và nhăn nhó. Khi được hỏi lý do, người thứ nhất trả lời: “Con giữ lời Chúa dạy vì con yêu mến Chúa” và sự bình an của Đức Giêsu ở trong anh. Còn người thứ hai cho biết: “Con giữ lời Chúa dạy vì thầy dạy phải giữ như vậy”, thật ra anh không có lòng yêu mến. Sau một thời gian ngắn người thứ hai bỏ vị ẩn sĩ già để ra đi, vì anh không có được sự bình an trong đường tu trì.

Lời hứa ban bình an của Đức Giêsu là lời bảo đảm chắc chắn nhất cho những ai tin tưởng vào Ngài. Xin cho sự bình an của Đức Giêsu luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta. 

 

4. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 

Đấng Phù Trợ là Thánh Thần…, sẽ nhắc nhở cho các con

Chúa nhật thứ VI Phục Sinh, Chúa chúng ta chuẩn bị về Trời (Lễ Thăng Thiên). Phụng vụ Lời Chúa gợi lên cho chúng ta nhớ lại những lời tâm sự cuối cùng của Chúa và mời gọi chúng ta không được “xuyến xao và sợ hãi” (Năm C). Nhưng, bằng lời cầu nguyện hãy phó thác cho Chúa Giêsu và nhờ Ngài mang về Trời dâng lên Đức Chúa Cha cho chúng ta. Những lời trăng trối của Chúa Giêsu đòi buộc chúng ta để ý đến cách đồng truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng”, vì là lệnh truyền của Chúa Nhân Lành, nên cần phải được tôn trọng. Truyền thống phụng vụ này, được thánh Mamert đưa vào từ năm 470 tại thung lũng Rhône, và mở rộng tới tận Gaule, đúng thời điểm diễn ra Công Đồng đầu tiên tại Orléans. Theo Truyền thống, trong khoảng thời gian Chúa về Trời, các tín hữu công giáo sẽ tuân giữ việc giữ chay, (nghĩa là từ thứ Hái, Ba, Tư tuần này) họ sẽ ăn chay để chuẩn bị cử hành Lễ Chúa về Trời. Ở nông thôn, các linh mục sẽ chúc phúc cho ruộng đồng và hoa màu. Lời Ca nhập lễ: Hãy vui mừng loan báo cho mọi người được nghe. Rao truyền đi đến tận cùng cõi đất rằng: Chúa đã giải phóng dân Người. Hallêluia.

* Bài đọc Phụng vụ năm A

– Tđcv 8, 5-17: Rao giảng Tin Mừng cho dân thành Samaria

– Tv 66, 1: Toàn trái đất, hãy reo mừng Thiên Chúa

– 1 Pr 3, 15-18: Anh em hãy là những chứng nhân về niềm hy vọng của chúng ta ở giữa thế gian

– Ga 14, 15-21: Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi

* Bài đọc Phụng vụ năm B

– Tđcv 10, 25-26; 34-35; 44-48: Những người dân ngoại đầu tiên chịu Phép rửa tội

– Tv 98, 1: Chúa đã biểu dương Quyền Năng của Ngài trươc mặt chư dân

– 1 Ga 4, 7-10: Tất cả những ai yêu thương đều là con cái Thiên Chúa

– Ga 15, 9-17: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em

* Bài đọc Phụng vụ năm C

– Tđcv 15,1-2; 22-29: Giáo hội quyết định đón nhận dân ngoại

– Tv 67, 2: Thân lạy Chúa, ước gì chư dân ca tụng Ngài Dieu!

– Kh 21, 10-14; 22-23: Con Chiên là ánh sáng cho dân Chúa

– Ga 14, 23-29: Lời hứa sai Chúa Thánh Thần đến

“Đấng Phù Trợ là Thánh Thần…, sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”

Chúa Giêsu Kitô, Đấng “phó thác Thần khí” trên cây thập giá (Ga 19, 30) đã thực hiện như lời Ngài đã hứa trước khi chịu khổ nạn. Vì Ngài là là Chiên Thiên Chúa và là Con của loài người, đã hiện đến với các môn đệ “thổi hơi” trên họ và nói với họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần. (Ga 20, 22 )… thế là Chúa Thánh Thần đến làm cho họ tràn ngập niềm vui, làm cho họ đang buồn sầu trở nên vui, đúng như lời Ngài nói là biến những “sự ưu phiền của các ngươi sẽ trở thành niềm vui. ” (x. Ga 16:20).

Và nhất là khi loan báo diễn từ li biệt sắp xảy đến: Chúa Kitô phục sinh như khai mở một cuộc sáng tạo mới, gửi Chúa Thánh Thần đến trên các môn đệ. Khi hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại. Qua các vết thương chịu đóng đinh, Chúa Giêsu đã trao ban cho họ Thần Khí: ” Ngài cho họ thấy tay chân và cạnh sườn Ngài. Các môn đồ mừng rỡ, vì được thấy Chúa. (Ga 20:20). Đó là chứng tích của những vết thương, Ngài nói với họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần. (c. 22).

Vì thế, có một liên kết chặt chẽ được thiết lập giữa việc sai Chúa Con và cử Chúa Thánh Thần đến. Việc cử Chúa Thánh Thần (sau nguyên tội) không thể xảy ra mà không có thập giá và sự sống lại, đúng như lời Ngài nói: “Song Ta nói thật với các ngươi: Ta ra đi, thì ích lợi hơn cho các ngươi; vì nếu Ta không ra đi, thì Đấng Bào Chữa không đến với các ngươi. Còn nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến với các ngươi. “(Ga 16, 7). Sứ mạng của Chúa Con trong một nghĩa nào đó, được thực hiện trọn vẹn trong sự cứu chuộc và sứ mạng của Chúa Thánh Thần phát xuất từ công trình cứu chuộc: “Vì thế mà Ta đã nói: Ngài lấy của Ta mà thông báo cho các ngươi”. (Ga 16,15). Ơn cứu chuộc được thực hiện hoàn toàn do Chúa Con là Đấng được xức dầu đã đến trong thế gian và hoạt động bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, khi dâng mình chính thân mình làm của lễ hy sinh trên thập giá. Và sự cứu chuộc không ngừng được hoàn tất trong trái tim và trong lòng nhân loại – trong lịch sử của thế giới – nhờ Chúa Thánh Thần là “Đấng Bầu Chữa khác” (Ga 14,16).

Năm nay kỷ niệm 50 năm khai mạc Công Đồng Vatican II, năm mà Giáo hội nhấn mạnh đến truyền giáo. Tưởng chúng ta cũng nhớ lại Công Đồng Giêrusalem, một Công đồng quyết định cho việc truyền giáo mà sách Tông Đồ Công Vụ kể lại biến cố được gọi là “Công Đồng Giêrusalem”. Tại Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem; nơi Công Đồng đầu tiên, công đồng mở cửa cho những anh chị em ngoài do thái giáo ( TĐCV 15, 11- 29). Cuộc họp đầu tiên đó của các Tông Đồ và những vị Trưởng Lão đã được triệu tập để giải quyết một vấn đề quan trọng. Đối với các tín hữu thuộc nhóm Pharisêu xác tín rằng những người ngoài do thái giáo trở lại kitô giáo, phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môisen, thì hai thánh Phaolô và Barnaba mạnh mẽ bênh vực lập trường rằng ơn cứu rỗi không đến từ những việc của Lề Luật, nhưng từ đức tin vào Chúa Kitô.

Nhờ những can thiệp được linh ứng của Thánh Phêrô và Thánh Giacôbê, lập trường của Thánh Phaolô và thánh Barnaba, được chấp nhận; và kể từ ngày đó, Giáo Hội “ra khơi”, sẵn sàng đem Tin Mừng đến cho tất cả mọi dân tộc và mọi nền văn hóa. Sức hoạt động tông đồ do Chúa Thánh Thần soi sáng vào khởi đầu, đã không bị tàn lụn và được tiếp tục cho đến hôm nay. Ước muốn duy nhất và bổn phận của các tín hữu là ước muốn rao giảng cho tất cả mọi người biết Chúa Giêsu, Đấng cứu chuộc của con người.

Bước vào tháng Năm là quãng thời gian Giáo hội dành để kính Đức Trinh Nữ Maria, Bông Hoa xinh đẹp nhất trong các thụ tạo, là cánh hồng xuất hiện vào thời sung mãn, khi mà Thiên Chúa sai Con của Ngài đến trần gian thì đã ban cho nó một mùa xuân mới. Mẹ là nhân vật chính yếu, âm thần và khiêm tốn. Mẹ là trái tim thiêng liêng của Giáo hội, bởi vì sự hiện diện của Mẹ ở giữa các môn đệ là ký ức sống động của Chúa Giêsu và bảo chứng cho hồng ân của Thánh Linh. Chúng ta hãy đem hết tình con thảo mà dâng kính Mẹ, xin Mẹ đoái thương đồng hành cùng con cái nơi dương thế. Amen. 

 

5. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện 

(Chú giải và suy niệm của Lm PX. Vũ Phan Long)

Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.

1.- Ngữ cảnh

Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.

Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);

2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);

3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).

3.- Vài điểm chú giải

– lời (23): Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos) có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.

– Thánh Thần… Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho…) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho…

– sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại” không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại” song đối với nhau.

– bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.

– nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy ra[1].

– Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?

Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”. “Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)

Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.

Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.

* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)

Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.

* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)

Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?

Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.

+ Kết luận

Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
  2. Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải “giữ các lời Người” (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
  3. Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
  4. Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.

——————————————–

[1] M. Zerwick, Biblical Greek.313. 

 

 

6. Chú giải của Noel Quesson 

Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Thánh. Đoạn văn mà chúng ta sắp đọc được Gioan giới thiệu như câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Toàn thể văn chương Do Thái thời Đức Kitô đều minh chứng cho ta thấy, những người động thời với Người luôn ngóng đợi một Đấng Mêsia mạnh về chính trị, có thể chiến thắng cách hiển nhiên mọi quân thù và cưỡng bức các đối thủ phải phục lụy. Đó cũng là nỗi mong chờ của các tông đồ. Và chúng ta cũng không lường ước mong như thế nào?

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.

Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người. Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.

Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong khung tình yêu nhân loại, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.

Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.

Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Đức Giêsu như một mô hình của nhân loại; người ta không chống đối Người điều gì; nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người, bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Đức Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Đức Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa, cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ. Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.

“Đức Kitô của bạn ở đâu?”.

Chính Đức Giêsu trả lời: Đức Giêsu của bạn, chưa khi nào chúng tôi đã gặp thấy.

Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đức Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.

Khi Đức Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.

Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng.

Ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Đức Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Đức Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động… có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.

Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.

Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật” nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

Thánh Thần không thêm gì cho Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không thêm gì cho Chúa Cha. Đó là ba, nhưng chỉ một! Không có “ba Thiên Chúa”. Thiên Chúa là một. Người Israel vẫn nói như thế. Và Hồi giáo sẽ lặp lại như vậy. Dù có những khác biệt không tránh khỏi trong ngôn ngữ diễn tả, nhưng Kitô hữu không thể nói ngược lại đức tin cốt yếu trên đây. Chúa Cha, chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình của Người. Đức Giêsu, cũng chính là Thiên Chúa, đã hiện diện, nói năng và hành động để cứu chuộc con người. Thánh Thần, cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.

Thánh Thần… Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.

Chúng ta chiêm ngắm trong tâm hồn họa phẩm Chúa Ba Ngôi do Rublev vẽ một cách tuyệt đẹp, hiện được lưu giữ trong bảo tàng viện Trétiakov tại Mát-cơ-va và người ta từ thắp nới trên thế giới thường đến tham quan. Ba Ngôi vị đều có cánh, thông hiệp với nhau rất mật thiết, chung quanh một cái bàn kỳ diệu, làm nên một trong vòng tròn duy nhất và hoàn hảo, do ba đường chu vi của chúng tạo nên Chúa Cha, “vượt trên tất cả”, hiện diện sau chiếc bàn, đang ngắm nhìn đắm đuối Người Con dấu của mình, ngồi ở bên hữu và thông ban tất cả. Chúa Con, mặc áo màu da người hồng đỏ, đang để cho màu xanh của thiên tính Chúa Cha xuyên qua lấp lánh cũng nhìn đắm đuối Thánh Thần và thông ban tất cả. Nhưng mầu nhiệm của mối hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi không dừng lại ở đó. Ôi, kỳ diệu thay! Trong Thánh Thần, vòng tròn tự mở ra, vì chính Thánh Thần đang ngắm nhìn và chỉ ngón tay về phía trái đất để thông ban cho trái đất tất cả. Chúa Ba Ngôi, đó là mỗi tình yêu thương mật thiết vĩnh cửu giữa ba mà chỉ là một: Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu đã đến dẫn đưa các môn đệ của Người vào trong “gia đình” đó nhờ Thánh Thần.

Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều. Và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

Theo Đức Giêsu, Thánh Thần là Đấng sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của ‘Thiên Chúa cho nhân loại, khi giúp cho con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó là chính Đức Giêsu, Ngôi lời của Chúa Cha. Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm cho nhớ lại… Chính các Tông đồ tuy đã sống nhiều tháng năm với Đức Giêsu, cũng chưa có một đức tin đích thực nơi Người, vào lúc Người ra đi. Gioan thú nhận rằng, sau này ông mới nắm bắt được những gì Đức Giêsu đã nói (Ga 2, 17-22; 13, 6-19). Khi Đức Giêsu ra đi, trong một ý nghĩa nào đó, thì chưa có gì là hoàn tất, là cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo hội dần dần hiểu biết “điều đã được mạc khải”. Một số người nghiêm khắc đã vội ngạc nhiên vì Giáo hội “thay đổi”. như họ phản đối. Nhưng rõ ràng đối với Đức Giêsu,. Giáo hội còn phải thay đổi nhiều hơn do ảnh hưởng của Thánh Thấn. “Thánh Thần sẽ dạy anh em và sẽ làm cho anh em nhớ lại..”. Phần lớn những Lời của Đức Giêsu chỉ được bày tỏ khi được suy gẫm và cầu nguyện trong ký ức của Giáo Hội trong nhiều thế kỷ. Mọi tín điều kinh Tin kính đã có một quá trình lịch sử và chỉ được định tín sau một thời gian dài để cho chín muồi. Và tình trạng đó vẫn còn tiếp tục. Chúng ta có thực sự tin Thánh Thần hiện diện trong Giáo hội không? Tại sao Thánh Thần lời có thể ngừng hoạt động ở thế kỷ thứ III hay thế kỷ XV? tại Công đồng Ni-xê hay tại Công đồng Trentô? Ngày nay, hiển nhiên Thánh Thần vẫn đang làm việc. Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở với anh em cho đến tận thế”. Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải sống động. Và điều, đúng thực sự với Giáo hội, cách tổng quát, với lịch sử của mình trong thời gian vẫn còn đúng thực, cách riêng biệt, với mỗi người chúng ta: Thánh Thần còn phải giúp tôi khám phá ra nhiều điều! Trong tôi vẫn có một khả năng lãng quên không thể tưởng. Như thế, khi lời Tin Mừng được chiếu sáng cho tôi, được Thánh Thần tác động vật soi sáng, tôi đừng chần chờ thực hành và tuân giữ lời đó để sớm hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.

Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng, Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”.

Bình an! Shalom! Đó là lời chào chúc quen dùng tại Israel. Nhưng ở đây, đó là lời chào chúc Phục sinh của Đức Giêsu sống lại: bình an phát xuất từ sự hiện diện của Đấng được coi là Vắng Mặt, nhưng Đấng đó không ngừng trở lại đối với những kẻ yêu mến Người… Một thứ bình an mà thế gian không thể nào nhận ra được, vì thế gian không nhận ra sự hiện diện đầy an ủi đó.

Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.

Trong khi thi hành sứ vụ tại trần gian, Đức Giêsu chỉ có thể hiện diện với tất cả những giới hạn của không gian và thời gian: đó là những giới hạn của “thân phận con người”. Đức Giêsu nhận biết điều đó: “Vì là con người, nên Thầy thấp kém hơn Chúa Cha!”. Một kiểu nói cần phải hiểu cho đúng, vì nó không phủ nhận những kiểu nói khác nhằm quả quyết Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha. Chính các tông đồ cũng không hiểu biết gì vào chiều hôm đó.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29;  Kh 21,10-14.22-23;  Ga 14,23-29

——-

Mục lục

1. Di ngôn của Thầy  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tự do trong Chúa Thánh Thần  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. An bình  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

4. Vâng lời và bình an (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Giữ Lời Thầy  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Bình an của Chúa. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

7. Xây đền thờ cho Chúa Ba Ngôi  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

8. Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục sinh_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

9. Cuộc sống mới  (Lm. Nguyễn Hữu Thy)

10. Hãy giữ lời Thấy  (Lm. Nguyễn Đức Trung)

11. Bình an của Chúa- (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

12. Đức Giêsu vẫn hiện diện (Lm. Đinh Lập Liễm)

13. Nợ tình  (Trầm Thiên Thu)

14. Một đời tri ân  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

15. Thầy ban bình an cho anh em (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

16. Chúa ThánhThần luôn bảo trợ Giáo hội và các tín hữu (Lm.Giuse Đỗ Đức Trí)

——-

1. Bình an và sự thật (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2. Trong và ngoài tình yêu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3. Giữ lời hứa rất khó (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Thánh Thần tình yêu được ban tặng  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

5. Muốn được bình an, hãy yêu mến và tuân giữ lời Chúa (Lm.Antôn Nguyễn Văn Độ)

6. Hành động theo tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Tại sao lại tỏ mình ra cho con?  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

8. Định luật thương xót (Trầm Thiên Thu)

9. Bình an Thiên quốc (AM. Trần Bình An) 

10. Thừa kế di sản lòng thương xót  (JM. Lam Thy, ĐVD)

11. Ánh sáng soi đường (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)

12. Ai yêu mến Thầy (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

13. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót (Jos. Vinc. Ngọc Biển)

14. Môn đệ của tình yêu (Dã Quỳ)

15. Vượt qua cơn khủng hoảng đức tin (Lm. Đan Vinh – HHTM)

16. Chúa Nhật 6 Phục sinh_C  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

17. Bình an nội tâm  (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

18. Bình an của Chúa (Huệ Minh)

19. Thánh Thần và chúng tôi (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa) 

20. Đến và ở lại  (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

 

.

DI NGÔN CỦA THẦY

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Chuẩn bị mừng lễ Thăng Thiên, Phụng vụ cho chúng ta nghe những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ vào cuối bữa tiệc ly. Đây là những di ngôn của một người Thày đối với các môn sinh, là những người từng bao năm gắn bó và chia sẻ ngọt bùi. Những lời này đã làm nên tôn chỉ cốt lõi của cộng đoàn tín hữu sau này. Di ngôn của Chúa không phức tạp dài dòng, chỉ vỏn vẹn mấy câu cốt lõi: Hãy giữ lời Thày. Hãy yêu mến nhau. Hãy an tâm, đừng xao xuyến. Những lời này đã đem lại sức mạnh và nghị lực thiêng liêng cho các môn đệ vào thời Giáo Hội sơ khai, cho các tín hữu suốt bề dày hai mươi thế kỷ và cho chúng ta hôm nay.

“Hãy giữ lời Thày!”. Đây không phải là lần đầu tiên Chúa nói câu này. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa là lời mời gọi thường xuyên trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Chúa đã so sánh ai nghe và tuân giữ Lời Chúa giống như xây nhà trên đá, luôn vững bền trước mọi phong ba bão táp của cuộc đời. Nhờ xây dựng đời mình trên Lời Chúa, mà các thánh đạt tới mức hoàn thiện ngay khi còn sống ở đời này. Lời Chúa vừa ngọt ngào ban niềm vui, nhưng Lời Chúa cũng như “thuốc đắng dã tật”, sửa phạt khi chúng ta lầm lỗi. Lời Chúa không để cho chúng ta ngủ yên trong vỏ bọc ích kỷ của cái tôi tầm thường nhỏ mọn, nhưng mở rộng tâm hồn để đến với tha nhân. Đức Maria là một mẫu gương cho chúng ta về việc tuân giữ Lời Chúa. Thánh Luca ghi lại, khi Mẹ chứng kiến vui buồn xảy đến với Đức Giêsu, Mẹ ghi nhớ và suy niệm trong lòng (x. Lc 2051). Giữ lời Thày là bằng chứng hùng hồn của tình yêu dành cho Thày.

“Hãy yêu mến nhau!”. Yêu mến là cốt lõi giáo huấn Kitô giáo. Đây cũng là lời mời gọi thường xuyên của Chúa Giêsu. Có thể nói lời mời gọi yêu thương trải dài trên từng trang của Tin Mừng. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, mà chính Người làm gương cho các môn đệ. Người đã rửa chân cho các ông vào cuối bữa tiệc ly. Đây vừa là cử chỉ yêu thương đối với các ông, vừa là một gương mẫu sống động để qua đó, Người khẳng định với các ông: yêu thương và phục vụ đi đôi với nhau. Ngay từ khi Tin Mừng được loan báo trên quê hương Việt Nam chúng ta, những người lương dân chưa biết danh xưng của tôn giáo mới có nhiều người theo. Họ căn cứ vào những gì người Công giáo làm hằng ngày mà gọi Đạo Công giáo là “Đạo Yêu Thương”. Tiếc rằng trong cuộc sống hôm nay, hai từ yêu thương có nguy cơ trở thành câu khẩu hiệu và lý thuyết vô hồn. Đây đó tại một số nơi, trong các bài phát biểu, các bài viết, người ta nói đến yêu thương như một công thức, còn trong thực tế thì ngược lại. Tình trạng xung đột, chia rẽ và khép kín của một số cộng đoàn đã làm biến dạng hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô.

“Hãy an tâm, đừng xao xuyến!”. Giữa bối cảnh xã hội đầy bất an hôm nay, lời khuyên hãy an tâm dễ bị hiểu như một sự trấn an giả tạo nhằm ru ngủ người nghe. Tuy vậy, nếu chúng ta có niềm xác tín nơi tình yêu của Chúa, tin Ngài là Đấng dẫn dắt cuộc đời chúng ta, thì làm sao chúng ta còn lo lắng buồn phiền. Bởi lẽ, lo lắng cũng không làm cho cuộc sống của chúng ta kéo dài thêm, dù chỉ một gang tay (x. Mt 6, 27). Nếu chúng ta có thể an tâm, là vì chúng ta có ơn Chúa Thánh Thần. Ngài luôn hoạt động trong Giáo Hội để hướng dẫn Giáo Hội trong cuộc lữ hành trần gian. Bài đọc I kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử, đó là Công đồng đầu tiên của Kitô giáo, được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 46 sau Công nguyên. Các tông đồ đã ý thức trách nhiệm của mình trước những ý kiến dư luận trái ngược nhau về những thực hành trong Đạo Do Thái như cắt bì, ăn thịt cúng, tuân giữ Luật ông Môisen… “Văn kiện” đúc kết của Công đồng rất đơn sơ, nhưng nêu rõ “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.  Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn suốt bề dày của lịch sử, giữa những thăng trầm thử thách. Cũng trong những di ngôn, Chúa Giêsu đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Chúa Thánh Thần vừa bảo trợ Giáo Hội, vừa soi sáng cho Giáo Hội nhớ lại giáo huấn của Chúa Giêsu, để luôn thực hành những gì Chúa đã chỉ dạy.

“Hãy giữ lời Thày. Hãy yêu mến nhau. Hãy an tâm, đừng xao xuyến”. Khi thực hiện những lời khuyên này, chúng ta cảm nhận sâu xa sự hiện diện của Chúa Giêsu, mặc dù Người đã về trời. Xác tín vào sự hiện diện và tình yêu thương của Chúa, tuy còn sống ở trần gian, chúng ta đã được hưởng hạnh phúc tương lai. Trong một thị kiến, Thánh Gioan tông đồ đã thấy những hình ảnh về Giêrusalem (Bài đọc II). Đây là một cách diễn tả hạnh phúc thiên đàng, ở đó, tình yêu, an bình và chân lý sẽ ngự trị. Không còn gian dối và mưu mô. Không còn những toan tính vụ lợi trần tục, nhưng tất cả đều được vinh quang Thiên Chúa bao trùm trong một nghi lễ phụng vụ thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và niềm vui.

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.” Hãy nghe những lời tâm huyết của Chúa. Đó là di ngôn của người sắp đi xa. Yêu mến Thày là cội nguồn của bình an và là bảo đảm của hạnh phúc hôm nay cũng như suốt đời.

 

.

TỰ DO TRONG CHÚA THÁNH THẦN

Lm Giuae Hoàng Kim Toan

Hoa trái của Chúa Thánh Thần là bình an, hoan lạc. Bình an Thánh Phao lô nói tới không như thế gian ban tặng, bình an đó chính là Chúa Kitô ngự trong tâm hồn. Có hai điều chia sẻ: Thoát khỏi sợ hãi từ thư Thánh Phê rô và kinh nghiệm về Thiên Chúa tình yêu của Thánh nữ Teresa d’ Avila.

Thoát khỏi sợ hãi.

Một trong bảy ơn Chúa Thánh Thần là ơn can đảm. Thường chỉ biết cách chung là can đảm để chống lại sợ hãi. Không hẳn như vậy! Nhiều người cho thấy, chống lại những sai lầm của  mình thường không thành công. Do nhiều dấu chứng thừa kế “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 Pet 18).

Tự mình thoát khỏi những ràng buộc của tội lỗi thì rất khó. Thi hào R. Tagore cũng đã viết về tấm khăn liệm cuộc đời mà cứ muốn ôm lấy. “Chướng ngại trong tối thường dai dẳng, nhưng khi rắp tâm đập tan tôi lại thấy lòng dạ nhói đau. Tôi chỉ thèm có tự do giải thoát, nhưng lại thấy hổ thẹn khi mong đợi ngóng chờ… Vải liệm bao thân tôi là khăn liệm bụi bậm và chết chóc; tôi ghét vô cùng, ấy thế mà vẫn cứ yêu thương ôm vào lòng.” (bài số 28, Lời Dâng, R. Tagore).

Có biết bao điều thừa kế từ những thế hệ trước, dù tốt nhưng không còn phù hợp với những gì đang xảy ra nữa, cũng là những trở ngại. Chẳng hạn như các khuyến dụ xưa về tội lỗi là mất linh hồn, là chết đời đời, cần xa lánh tội lỗi. Sống đối phó, tránh né, cố gắng ép mình khỏi sa vào tội, cuối cùng vẫn làm rối tung cuộc sống. Có quá nhiều cám dỗ hơn xưa, không thể bịt mắt, bịt tai, không nghĩ và không làm. Một chuỗi rắc rối khi cứ tự mình loay hoay ra khỏi sự dữ bao quanh. Cần Có Chúa!

Thánh Phê rô viết thêm để ý thức: “anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô.” (1Pet 19). Thánh Phêrô đã kinh nghiệm về ơn giải thoát do chính Chúa Giê su thực hiện cho ngài ở bờ hồ Tiberia. Chúa biết rõ con người của ta, Chúa yêu thương ta như chính ta là và mỗi người đều rất quan trọng với Chúa. Chúa hiện ra với Phê rô sau mẻ cá đầy, và Chúa muốn Phê rô xác định một điều: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 15). Chỉ cần một câu trả lời xác tín: “Chúa biết, con yêu mến Chúa”. Bấy nhiêu thôi, cứ lập đi lập lại nhiều lần trong ngày, trong lời cầu nguyện, những điều khác Chúa cứu chữa và giải thoát khỏi ràng buộc.

Tự do trong Chúa. Chúa Giê su dạy ta cầu nguyện luôn, Chúa Thánh Thần kêu cầu cho ta, tháp nhập ta vào trong Chúa Giê su, ta được kêu lên: “Abba, Cha ơi” (Gl 4, 6). Trong Chúa Thánh Thần, ta được biến đổi, được giáo hoá, được chữa lành, cho ta được giải thoát khỏi ràng buộc. Như trong ngày lễ ngũ tuần, Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Không còn sợ hãi, các môn đệ ra khỏi phòng đóng kín, ra đi loan báo Tin Mừng giải thoát.

Kinh nghiệm về tình yêu

Chúa Thánh Thần là Đấng tình yêu, nối kết Chúa Cha và Chúa Con, nối kết con người với Chúa Giê su. Là Đấng đưa con người vào trong huyền nhiệm Tình Yêu. Trong Tình Yêu không còn sợ hãi, ta được tự do.

Tình yêu Chúa thể hiện là chết cho người mình yêu, và tình yêu biểu lộ trong trái tim bị đâm thâu, rộng mở. “Họ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (Ga 19, 37). Chiêm ngắm Trái Tim bị đâm thâu, ta cũng được Tình yêu giải thoát khỏi vũng lầy của ta, như kinh nghiệm của viên đội trưởng hành hình, quỳ gối, ngả mũ trước Đấng họ đã đóng đinh và treo trên thập giá (Lc 23, 47).

Thánh nữ Teresa d’ Avila kinh nghiệm về tình yêu đã giải thoát ngài khỏi âu lo, sợ hãi. Trong một lần đang cầu nguyện, thánh nữ nghe thấy như Chúa Giê su đang nói với ngài và ngài nghiệm thấy: “Ngay lúc Chúa Giê su bằng một lời trấn an tôi, tôi thấy tức khắc một bình an lạ lùng, đầy tin tưởng không chút lo sợ. Y như Chúa luôn đang ở đó… Tôi không nhìn thấy gương mặt Ngài, nhưng luôn ý thức Ngài đang đi bên cạnh tôi và chứng kiến hết mọi hành động và thiếu sót của tôi”.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa hằng ngày trong đời sống cầu nguyện, giúp ta vượt qua được những quá khứ chẳng êm đẹp gì, Thánh Phê rô khuyên dạy: “ Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1Pet, 5, 7 – 8). Thánh Phao lô thì khuyên dạy: “Quên đi quá khứ mà lao mình về phía trước” (Pl 3, 13). Phía trước ấy chính là lòng thương xót của Chúa, lao vào vòng tay của Chúa, như người con hoang đàng trở về trong tình yêu.

Bình an, không còn điều gì có thể làm lo sợ. Hoan lạc, không còn niềm vui nào khác ngoài niềm vui trong Chúa. Tất cả điều đó, Chúa Thánh Thần ban chính Chúa Giê su cư ngụ trong tâm hồn là nguồn mạch để được sống và sống dồi dào.

Xin Chúa Thánh Thần đến giải thoát chúng con.

 

.

AN BÌNH

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tình yêu hoa trái an bình,
Cha Thầy thương mến, hết tình trao ban.
Hiến thân Con Một thiên nhan,
Hy sinh thập giá, chứa chan ân tình.
Dấn thân chịu chết khổ hình,
Ba ngày sống lại, thiên linh rạng ngời.
Yêu thương tha thứ tội đời,
Giới răn trọng đại, giữ lời Thầy luôn.
Hết lòng yêu mến suy tôn,
Yêu Thầy mến Chúa, dủ hồn ái nhân.
Xin ban Phù Trợ Thánh Thần,
Nguồn ơn chân lý, canh tân lòng người.
Bình an để lại cho đời,
Kiên tâm bền chí, trong thời khó khăn,
Lòng đừng xao xuyến băn khoăn,
Cũng đừng sợ hãi, người săn kẻ dòm.
Thánh Thần gìn giữ trông nom,
Qui về một mối, tụ gom một nhà.
Vui mừng phấn khởi trong Cha,
Ngày Thầy trở lại, bao là dấu yêu.

Thiên Chúa là tình yêu. Nói về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu thì luôn mới và bao la như biển cả, cao siêu như mây trời, sưởi ấm như mặt trời và vằng vặc như mặt trăng. Bài Phúc âm hôm nay tiếp tục đến tình yêu. Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ: Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Chúa Giêsu chuẩn bị từ giã các Tông đồ để về cùng Chúa Cha. Chúa đã truyền lại giới răn yêu thương. Đây là lời trăn trối thân thương nhất, yêu Chúa và yêu tha nhân.

Tình yêu của Chúa được thể hiện qua tình bác ái đối với tha nhân. Yêu thương mọi người, yêu gia đình, yêu tha nhân và yêu cả kẻ thù. Mỗi câu truyện tình yêu trong đời sống đều phản ánh tình yêu của Chúa Kitô. Chúa Kitô đã đi hết nội dung của yêu thương. Vì yêu, Chúa hạ xuống thấp tận cùng để nâng loài người lên và cho chúng ta làm con Chúa. Vì yêu, Chúa đã hiến thân làm của lễ đền tội và lập Bí Tích Thánh Thể để dưỡng nuôi và ở lại với chúng ta. Vì yêu, Ngài đã chết nhục hình và đổ tới giọt máu cuối cùng để cứu độ chúng ta. Không còn tình yêu nào cao qúi hơn nữa.

Truyện kể: Có một bà mẹ 57 tuổi bị hư thận và xơ gan. Bà ở trong tình trạng nguy hiểm tính mạng. Mặc dù chịu đau đớn, bà từ chối đề nghị của bác sĩ ghép gan và thận do hai người con hiến tặng. Các con thương mẹ, không muốn mẹ chết khi còn trẻ. Sau nhiều ngày điều trị và qua sự thuyết phục của hai con. Hai người con sẵn sàng hiến tặng mẹ, một người hiến nửa lá gan, một người hiến một trái thận. Người mẹ chấp nhận và cuộc giải phẫu diễn ra tốt đẹp. Năm tháng sau, cả ba người hồi phục nhanh chóng. Đây là trường hợp cho và nhận đầu tiên từ hai người con Rosario và Jose tại Tiểu Bang California. Mẹ đã cho các con ra đời. Các con biếu lại mẹ cơ quan để sống còn. Tình mẹ, tình con hiến tặng và hy sinh cho nhau.

Chúa Giêsu yêu thương các môn đệ, Ngài đã cho tất cả và còn hứa ban Thần Chân Lý đến để phù trợ và dẫn dắt các ngài đi trong sự thật. Sau cùng Chúa đã ban sự bình an đích thực trong tâm hồn các môn đệ. Xin sự bình an của Chúa ở lại trong tâm hồn chúng con để chúng con cùng chia xẻ niềm vui và sự bình an của Chúa tới mọi người.

 

.

VÂNG LỜI VÀ BÌNH AN

Bông Hồng Nhỏ

Đến và ở lại với ai bằng cả trái tim là điều làm cho tương quan của ta với người ấy thêm gắn kết. Chỉ khi đến và ở lại như thế, ta mới có cơ hội sống sự hiện diện trọn vẹn. Khi yêu Chúa, người tín hữu sẽ giữ Lời Chúa dạy và nhận được bình an đích thực. Chính Thiên Chúa hiện diện và làm cho những ai yêu mến Người được lớn lên trong hạnh phúc.

Thầy Giêsu đã khẳng định: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14,23). Thầy Giêsu đã yêu những “người con bé nhỏ” và ban Lời của Ngài để họ tiến gần hơn đến tình yêu Thiên Chúa. Giữ Lời của Thầy là giữ giao ước tình yêu với Thầy. Ở trong tình yêu của Chúa, ta sẽ được Thiên Chúa yêu thương. Ở trong sự hiện diện của Chúa, ta được sống trong ta vì Thiên Chúa ở trong ta. Ta không thể sống trong ta nếu ta không sống trong sự hiện diện của Chúa. Bởi vì Thiên Chúa làm cho ta nhận biết ta là ai, ta thuộc về ai, ta đang có sứ mạng gì. Dù ta đang vui vẻ, hạnh phúc hay đau khổ, bối rối hay khó khăn, dù ta đang tốt hơn hay xấu đi, ta vẫn sẵn sàng đón nhận con người thật của ta. Ở trong tình yêu của Chúa, ta đón nhận tất cả với tâm hồn tự do và bình an. Khi ta từ chối Lời Chúa, ta cũng từ chối con người mình và ta đang sống ngoài ta, ta xa lạ với chính tâm hồn mình, ta từ chối sự hiện hữu của chính mình. Nói các khác, từ chối tình yêu của Chúa là ta đang đánh mất hạnh phúc.

“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27a). Một tâm hồn bình an là một tâm hồn hạnh phúc. Bình an đích thật chỉ đến từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ban cho môn đệ món quà tuyệt vời là “Bình an”. Chúa Giêsu đã đi đến cùng của tình yêu và Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ngài đã dùng chính cái chết nhục nhã trên thánh giá để dạy bài học của sự vâng phục, của việc giữ Lời Thiên Chúa cho người môn đệ. Và rồi khi phục sinh, Ngài đã ban bình an cho các môn đệ: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19b). Ta đã thấy, hoa quả của vâng phục là bình an.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa vì đã đến và ở lại với con trước để con cũng được đến và ở lại trong tình yêu của Chúa. Chúa đã trải qua nhiều đau khổ để dạy con biết vâng phục và ban bình an cho con. Xin cho con biết yêu Chúa và ở lại trong sự hiện diện của Chúa luôn, để con biết giữ Lời Chúa và đón nhận bình an trong từng giây phút sống. Amen.

 

.

GIỮ LỜI THẦY

Anna Cỏ May

Ai trong chúng ta cũng có người để nhớ, để yêu thương. Khi yêu, trái tim chúng ta luôn hướng về người mình yêu và dành cho họ một sự quan tâm đặc biệt. Chúng ta dễ nhạy cảm trước nhu cầu của họ. Chúng ta dễ quên những sở thích của mình, quên đi cái tôi của mình để sống hợp tính, hợp nết với người mình yêu. Đó là những cử chỉ diễn tả tình yêu.

Thiên Chúa là tình yêu. Ngài yêu thương tất cả chúng ta và mời gọi tất cả mọi người đáp lại bằng tình yêu. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy” (Ga 14, 23). Lời Chúa là lời yêu thương, lời dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa. Thánh Gioan cũng đã viết: “Còn hễ ai giữ lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thật sự nên hoàn hảo (1Ga 2,5).

Vậy làm sao chúng ta có thể giữ lời Ngài mỗi ngày? Muốn nhớ một từ gì, chúng ta phải đọc và viết lại nhiều lần. Muốn giữ một vật gì, chúng ta cần phải cất giữ bảo vệ cẩn thận. Muốn giữ Lời Chúa trong lòng, chúng ta cần đọc và khắc sâu vào trí, tin tưởng và mau mắn tìm dịp để thực hành luôn. Thật không dễ dàng để thực hiện điều đó khi tâm trí chúng ta còn lo lắng quá nhiều, trái tim chúng ta còn bị chiếm chỗ bởi những niềm vui khác. Nhưng với niềm khao khát yêu mến Chúa và nhờ biết chạy đến với Chúa, chúng ta sẽ làm được vì chúng ta đã có Đấng Bảo Trợ. Chính Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta như lời Ngài đã hứa (x.Ga 14,26). Nhờ đó, chúng ta sẽ sống trọn hảo với tình yêu Thiên Chúa. Tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập bình an của Chúa và chúng ta sẽ vững bước đến với Chúa mà không bao giờ còn sợ hãi nữa.

Lạy Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Cảm tạ Chúa đã chỉ dạy cho chúng con con đường dẫn đến tình yêu trọn hảo với Ngài. Xin gia tăng cho chúng con lòng yêu mến Chúa qua việc đọc Lời Chúa và giúp chúng con luôn giữ Lời Chúa, suy đi nghĩ lại trong lòng và đem ra thực hành trong cuộc sống để chúng con trung thành với tình yêu Chúa và đem tình yêu đến cho mọi người. Amen.

 

.

BÌNH AN CỦA CHÚA.

                            Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Nếu chúng ta để ý thì trên những chiếc xe khách hay nơi các bến xe… chúng ta thường thấy để hàng chữ “Kính chúc quý khách thượng lộ bình an”. Nếu là xe của người Công giáo thì có để ảnh tượng Đức Mẹ trên chỗ Cabin, và kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Như vậy, ai cũng mong đi đến nơi về đến chốn được bình an.

Chúng ta đang sống giữa một thế giới đầy văn minh khoa học hiện đại. Có thể nói là vượt mức về mọi phương diện, nhưng lại là một thế giới đầy những biến động làm cho con người bất an bất ổn, và dường như ai trong chúng ta cũng có một chút lo sợ lo lắng nào đó.

Chúng ta lo sợ về đồ ăn thức uống không được an toàn thực phẩm; lo lắng về bệnh tật tiền mất tật mang; lo sợ công ăn việc làm bấp bênh; lo sợ giá cả thị trường không ổn định; lo sợ vợ chồng không chung thủy, lo lắng con cái hư hỏng. Thậm chí có người đã nói: “Tôi thương người nhưng tôi sợ lòng người”… Vì thế, ai cũng khao khát có một cuộc sống bình an.

Người ta thường quan niệm bình an là một trạng thái hồn an xác mạnh, đời sống an khang thịnh vượng. Bình an còn có nghĩa là được đầy đủ như ý muốn, không gặp điều gì rắc rối, buồn phiền.

Thế nhưng, tất cả những hình thức bình an trên đây chỉ là bình an tự nhiên bề ngoài theo lối nghĩ trần gian. Còn bình an mà Đức Giêsu công bố đó là: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con sự bình an không như thế gian ban tặng” (Ga. 14, 27).

Đức Giêsu không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an khi Ngài đã chiến thắng tử thần. Ngài không còn chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương nhân loại đến cùng (Ga. 13,1), nên hy sinh mạng sống để đem lại nguồn bình an đích thực cho nhân loại.

Thánh Phaolô gọi đây là sự “Bình an của thập giá”. “Nhờ giá máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,24). Như vậy, sự bình an của Đức Giêsu là sự bình an của lòng thương xót, bao dung, tha thứ, xóa bỏ mọi hận thù chia rẽ do con người gây ra.

Nhưng điều quan trọng là chúng ta làm sao để có được sự bình an của Chúa. Muốn có được sự bình an của Chúa, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào Chúa là Cha phép tắc và lòng lành vô cùng. Ngài làm được mọi sự và luôn làm điều tốt cho chúng ta. Vì thế, chúng ta hãy luôn tín thác và bằng lòng với những gì mà Chúa an bài gửi đến.

Muốn có được bình an của Chúa, chúng ta cố gắng sống hiền lành và khiêm nhường, sống chan hòa tình thương với những người chung quanh. Nhịn nhục và tha thứ cho nhau. Đừng làm phiền lòng nhau, nhưng hãy nhường phần hơn, nhịn nết xấu, đoán ý lành cho nhau.

Anh chị em thân mến,

Mỗi khi cử hành Thánh lễ, rất nhiều lần chúng ta tha thiết xin Chúa ban ơn bình an và chúc bình an cho nhau. Đây không phải là một nghi thức phụng vụ, nhưng là hành vi biểu lộ sự tha thứ cho nhau. Chính khi chúng ta thật lòng tha thứ cho nhau qua nghĩa cử trao ban bình an, thì tâm hồn chúng ta mới có bình an trong Chúa, để rồi chúng ta mới có khả năng chia sẻ bình an cho người khác.

Chúng ta sống trong tháng hoa dâng kính Đức Mẹ, được thể ra bên ngoài bằng việc rước kiệu và dâng lên Đức Mẹ nhiều bông hoa muôn màu muôn sắc, điều đó chắc Đức Mẹ hài lòng lắm. Nhưng những đoá hoa đó cho dù đẹp đến đâu đi nữa rồi cũng héo tàn. Đoá hoa mà Đức Mẹ yêu thích nhất đoá là hoa lòng của chúng ta. Vậy hãy dâng lên Đức Mẹ:

– Những đoá hoa hồng, tượng trưng cho lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn tha thiết.

– Những đoá huệ trắng, nói lên sự trinh trong như tấm gương sáng ngời của Đức Mẹ.

– Những màu hoa cúc, biểu lộ ánh hào quang rực rỡ mọi đặc ân Chúa ban cho Mẹ.

– Những cánh hoa lan, đậm nét thơ thảo của những con tim sắt son yêu mến Mẹ trọn đời.

Và xin dâng lên Mẹ những màu xanh sắc lá thắm tươi hy vọng, dệt lên những bài ca réo rắc, hoà với năm chục kinh Mân Côi sốt sắng, dâng lên cho Đức Mẹ trong mỗi ngày sống. Xin Đức Mẹ là Nữ Vương ban sự bình an, ban cho chúng ta ơn bình an trong Chúa và trong nhau. Amen.

 

.

XÂY ĐỀN THỜ CHO CHÚA BA NGÔI

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Xưa kia, vua Đa-vít ước ao xây một Đền thờ nguy nga tráng lệ cho Thiên Chúa. Vua nói với Ngôn sứ Na-than: “Ông xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều vải!”

Nhưng khi được biết Chúa không muốn Đa-vít xây đền thờ cho Ngài vì tay ông đã vấy máu quân thù, vua Đa-vít ủy thác cho người kế vị là Sa-lô-mon thực hiện ước vọng của mình.

Vua Đa-vít thiết lập bản thiết kế Đền thờ cũng như chuẩn bị sẵn cho Sa-lô-môn rất nhiều vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ quý, ngọc báu, đủ loại đá quý và rất nhiều cẩm thạch.

Ngoài ra, vua còn huy động toàn dân tham gia đóng góp cho công cuộc xây dựng nhà Chúa và dân chúng đã rộng tay đóng góp rất nhiều vàng, bạc, đá quý để xây dựng công trình vĩ đại nầy. (Sử biên niên I, 28-29)

Hôm nay, vì thiếu thốn tiền bạc và vì khả năng rất hạn chế nên không mấy ai ước mơ xây dựng đền đài hay thánh điện cho Thiên Chúa như vua Đa-vít ngày xưa. Xây một căn nhà đơn giản đã là chuyện khó, huống gì những công trình lớn lao.

Tuy nhiên, bài Tin mừng hôm nay đem đến cho chúng ta một niềm vui lớn, vì Chúa Giê-su cho biết rằng, dù chúng ta bất tài, dù chúng ta nghèo túng… nhưng ai trong chúng ta cũng có thể xây dựng được một ngôi đền thờ cao đẹp cho ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị; đền thờ nầy không những rất cao đẹp mà còn được Thiên Chúa vui thích ngự trị đêm ngày nữa.

Làm sao chúng ta có thể làm được việc thần kỳ như thế? Lấy vàng bạc, đá quý, châu ngọc… đâu mà làm?

Việc này rất đơn giản và ít tốn kém. Chỉ cần mỗi chúng ta biết yêu mến và tuân giữ Lời Chúa là công trình sẽ được hoàn thành, như lời Chúa Giê-su quả quyết: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Thế thì chính khi chúng ta yêu mến và tuân giữ Lời Chúa Giê-su thì Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (vì bất cứ ở đâu có Chúa Cha và Chúa Con thì cũng có Chúa Thánh Thần) hết lòng yêu mến chúng ta và ở lại trong chúng ta. Thế là ngay lúc đó, thân xác chúng ta trở nên đền thờ của ba Ngôi Thiên Chúa, một đền thờ được Thiên Chúa vui thích chọn làm nơi cư ngụ của mình.

Như vậy, Lời Chúa trong Tin mừng hôm nay soi sáng cho chúng ta hai điều:

Thứ nhất, nếu chúng ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa phán dạy, thì chúng ta không còn là thụ tạo thấp hèn nữa mà đã được nâng lên thành đền thờ của Vua Trời, được trở nên cung điện của Thiên Chúa tối cao như lời thánh Phao-lô xác nhận trong thư gửi tín hữu Cô-rinh-tô: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao!” (IC 6,19).

Thứ hai, cũng theo lời thánh Phao-lô trong thư nói trên, chúng ta đừng quên thờ phượng Thiên Chúa ngay nơi bản thân mình: “Anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.” (IC 6,20)

Xưa kia, thánh Ô-gút-ti-nô đã có một trải nghiệm quý báu về điều nầy. Trong thời thanh xuân, ngài đã khắc khoải tìm kiếm Chúa suốt cả chục năm trời ở nhiều nơi mà chẳng gặp cho đến tuổi ba mươi, ngài mới khám phá ra Chúa hiện diện ngay trong tâm hồn mình. Bấy giờ với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Ô-gút-ti-nô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng. Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài.”

Ước gì chúng ta không phải hối tiếc vì đã vòng vo tìm Chúa cách vô vọng như thánh Ô-gút-ti-nô trong buổi đầu, trái lại sớm được hạnh phúc hoan lạc vì tìm gặp Chúa ngay trong bản thân mình.

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết quý trọng thân xác chúng con là ngôi đền thờ uy linh cao cả có ba Ngôi Thiên Chúa hằng ngự trị.

Xin cho chúng con quyết tâm thanh tẩy đền thờ đáng quý trọng nầy nếu nó bị ra nhơ uế vì tội lỗi và thói hư.

Xin cho chúng con biết tôn tạo, nâng cấp đền thờ nầy bằng các nhân đức và phẩm chất cao đẹp.

Và nhất là xin cho chúng con luôn gặp gỡ và kết hợp với Chúa đang hiện diện trong ngôi đền thờ cao cả là chính bản thân con.

 

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

Một lần nữa chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu nói về luật yêu thương của Ngài.

1.  Tuần trước Chúa Giê-su nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”,Khi nói như hế Chúa đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Và người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng là bằng tình yêu.

Hôm nay, Chúa nói: Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy. Khi nói như thế Chúa Giê-su đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giê-su không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoàinhà thờ, mà là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Như vậy chúng ta thấy trong xã hội của Chúa sẽ không còn phân biệt hữu thần với vô thần mà chỉ còn hữu tâm hay vô tâmnghĩa là có trái tim hay không có trái tim

Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ.

Ngược lại người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân.

Một buổi tối lạnh lẽo, rét buốt ở miền bắc Virginia cách đây đã nhiều năm. Một ông lão với bộ râu lão cứng ngắc trong cái lạnh của mùa đông đang đợi có ai đó giúp đưa ông qua sông. Sự chờ đợi dường như vô tận. Cơ thể ông tê cóng và cứng đờ bởi những cơn gió bấc giá lạnh.

Bỗng ông nghe thấy tiếng ngựa phi nhịp nhàng đang đến gần men theo con đường đầy sương gió. Ông lo lắng nhìn khi một nhóm chàng trai phi ngựa rẽ qua khúc quanh. Ông đã để cho người đầu tiên chạy qua mà chẳng hề gọi. Sau đấy, một người khác đi qua, rồi một người nữa. Lúc này, tuyết đã rơi, trông ông lão giống như một bức tượng bằng tuyết, ông đã thấy người kỵ sĩ cuối cùng. Khi người này đến gần, ông già ra dấu với người kỵ sĩ rồi nói:

–  Chào cậu, cậu có phiền đưa già này sang bên kia sông được không? Chẳng có lối nào để đi bộ được cả.

Người kỵ sĩ ngồi trên ngựa đáp:

–  Được chứ, thưa bác. Bác nhảy lên đây nào.

Thấy ông lão không thể nhấc nổi cơ thể đã gần như đông cứng khỏi mặt đất, chàng trai nhảy xuống và giúp ông leo lên ngựa. Chàng kỵ sĩ không chỉ đưa ông già sang sông mà còn mang ông đến nơi ông định đến cách đó vài dặm nữa.

Khi đến gần một mái nhà tranh nhỏ xíu ấm cúng, chàng kỵ sĩ tò mò hỏi:

–  Thưa bác, cháu thấy bác đã để nhiều người cưõi ngựa khác chạy qua mà không nhờ lấy một ai để giúp qua sông. Khi cháu đến thì bác nhờ cháu ngay lập tức. Cháu thắc mắc không hiểu tại sao, vào một buổi tối mùa đông lạnh giá như thế này, bác lại đợi và nhờ người cuối cùng. Nếu cháu từ chối không giúp bác thì sao?

Ông lão từ từ leo xuống ngựa, nhìn thẳng vào mắt chàng trai, đáp:

–  Bác đã ngồi ở đấy một lúc rồi. Bác nghĩ mình biết cách nhìn người. Khi bác nhìn vào mắt những chàng trai kia bác nhận ra ngay là họ chẳng quan tâm gì đến tình cảnh của bác cả. Nhờ họ giúp cũng không ích gì. Nhưng khi nhìn vào mắt cháu, lòng tốt và sự thương người hiện lên rất rõ. Bác biết rằng thái độ dịu dàng của cháu sẽ mở ra cho bác cơ hội được giúp đỡ lúc bác cần.

Những lời ấm lòng đó của ông lão làm người kỵ sĩ hết sức cảm động.

–  Cháu hết sức cám ơn những gì bác vừa nói. – Anh nói với ông lão – Có lẽ sẽ chẳng bao giờ cháu quá bận rộn với chuyện riêng của mình mà không đáp lại những gì người khác cần bằng lòng nhiệt thành cả.

Vâng chúng ta hãy cố đừng để mình trở thành một người xa lạ, vô tâm, vô cảm với những người chung quanh mình. Nhưng hãy trở thành những người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Tôi nhớ có lần Albert Einstein đã nói: “Một cuộc sống vì một cuộc sống khác mới là một cuộc sống xứng đáng.”

2.  Còn mẹ Têrêsa: “Hãy trao tặng tình yêu thương ở mỗi nơi bạn đặt chân đến: trước hết là ở ngay chính căn nhà của bạn.

Hãy yêu thương con cái, người bạn đời của bạn, và cả những người hàng xóm…

Hãy đừng để người nào đến với bạn rồi ra đi mà không cảm thấy vui tươi và hạnh phúc hơn.

Hãy là hiện thân cho lòng nhân ái của Thượng Đế bằng cách thể hiện trên nét mặt, trong ánh mắt, trong nụ cười và cả trong những lời chào nồng nhiệt của mình.”

Một câu chuyện nhỏ từ Internet:

Vào một buổi sáng mùa đông, tuyết rơi nặng hạt. Tôi đứng ở một góc phố tối và lạnh lẽo chờ chuyến xe buýt đầu tiên trong ngày. Cách chỗ tôi đứng không xa, có hai vợ chồng già  cũng đứng chờ xe buýt. Chiếc áo khoác ngoài của họ bị tuyết phủ trắng xóa. Xem ra, họ đứng đợi xe đã khá lâu. Cuối cùng chiếc xe buýt cũng đến. Người lái xe bấm còi, đi lướt qua chỗ hai vợ chồng cụ già rồi dừng lại chỗ tôi đang đứng. Khi tôi vừa bước lên xe, người tài xế cho xe chạy ngay, bỏ lại hai vợ chồng già đứng trong tuyết. Tôi tức giận hỏi:

– Chẳng lẽ cậu không nhìn thấy hai vợ chồng già đó sao?

Người lái xe trẻ tuổi ấy nói:

– Hôm nay là ngày đầu tiên tôi đi làm. Hai cụ già đó là bố và mẹ tôi. Họ đến đây để xem tôi làm việc như thế nào.

Tôi bỗng rưng rưng xúc động.

Xét như thế, thì Nước Chúa thực là rộng lớn. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Jêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Jêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có đền thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quí toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim chúng ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Jêrusalem mới cho tình yêu Thiên chúa ngự trị. Amen.

 

.

CUỘC SỐNG MỚI

Lm. Nguyễn Hữu Thy

Chu kỳ phụng vụ Mùa Phục Sinh sắp chấm dứt. Hàng năm nó đã mang lại cho tất cả chúng ta những suy niệm khẩn thiết về đức tin vào Ðức Giêsu và về tình yêu của Người, một tình yêu đã biểu lộ tính chất nhân bản qua cái chết của Người, nhưng đồng thời cũng bộc lộ uy quyền của Thiên Chúa qua cuộc Phục Sinh khải hoàn của Người! Từ những suy niệm đó, cuộc sống của chúng ta một khi đã được gắn liền với Ðức Giêsu, thì luôn phải đạt tới cứu cánh của nó.

Thứ nhất: “Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy…. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời các con nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Ðấng đã sai Thầy!” Ðó là điều đầu tiên trong chương trình hành động của một cuộc sống được gắn liền với Ðức Giêsu!

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là thâm tín rằng Thiên Chúa đã ban bố huấn thị của Người qua Ðức Giêsu; điều đó muốn nói rằng chúng ta không xếp đặt vũ trụ và cuộc sống theo sở thích, theo kế hoạch, theo mơ ước hay theo sự sợ hãi của mình; bởi vì Thiên Chúa đã thiết đặt một chuẩn độ rõ ràng trong Ðức Giêsu!

Giữ lời Ðức Giêsu có nghĩa là nhất thiết phải thực sự nhận biết huấn thị đó của Thiên Chúa. Dĩ nhiên điều đó không ý nói là nhất thiết phải đi rao truyền mọi lời của Người khắp nơi, nhưng là phải nhận thức được mục đích nền tảng của lời Người nói và của hành động Người làm qua việc lắng nghe Tin Mừng, tức: Tin nhận và yêu mến Thiên Chúa! Tiếp đến, chấp nhận và yêu thương người đồng loại; và không chỉ chấp nhận điều đó trên lý thuyết thuần túy mà thôi, nhưng phải hiện thực chúng một cách cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, đối với Thiên Chúa và tha nhân, và trung thành thực hiện cho đến cùng!

Thứ hai: “Ðấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi lời Thầy đã nói với các con!” Ðó là điều thứ hai trong chương trình của Thiên Chúa: Biết đón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu!

Ðón nhận Thánh Thần Ðức Giêsu có nghĩa là phải nhất thiết sống theo tinh thần các giáo huấn của Người. Nói cách khác, Thánh Thần ngự đến không chỉ để trợ giúp chúng ta chiếm giữ được tinh thần các giáo huấn của Ðức Giêsu như chuẩn độ đúng đắn, nhưng còn là sức mạnh đỡ nâng chúng ta thực thi các giáo huấn đó trong cuộc sống cụ thể. Vậy, chúng ta hãy để cho sức mạnh đó được tự do hoạt động trong cuộc sống của mình, và điều đó không có nghĩa gì hơn là chúng ta phải luyện tập cho mình tinh thần yêu thương, sự hy sinh xã kỷ của Ðức Giêsu; luyện tập biết chấp nhận kẻ khác, chứ không phải tìm mọi cách tự khẳng định chính mình; luyện tập biết cho đi, chứ không phải tìm cách chiếm đoạt mọi sự cho chính mình; luyện tập biết can đảm và trung thành với tinh thần xã kỷ đó, cả khi bị hiểu lầm, bị thiệt thòi về danh dự hay nguy hiểm đến tính mạng.

Thứ ba: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy. Thầy ban cho các con sự bình an, không theo kiểu thế gian ban. Các con đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!” Ðó là điều thứ ba của chương trình, là: Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong tâm hồn!

Nhưng có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là hội được đủ điều kiện để có thể sống thực sự đúng với nhân vị của mình mà Thiên Chúa đã ban cho. Ðó không phải là sự bình an mà thế gian có thể cho được; đó không phải là một sự hoan lạc ích kỷ, khiến cho chúng ta không còn nhìn thấy được những cơ cực thiếu thốn của đồng loại; đó không phải là một sự giải hòa có thể mặc cả được, tức tìm một sự quân bình khả dĩ cho sự bất hòa. Sự bình an của Ðức Giêsu là sự an ninh chắc chắn, được phát xuất từ sự ý thức sâu xa: “Phải làm lành lánh dữ”, kể cả khi chúng ta phải hy sinh tính mạng, vì thâm tín được rằng, Thiên Chúa sẽ đền bù lại cho chúng ta gấp trăm sự mất mát!

Có được sự bình an của Ðức Giêsu, có nghĩa là có điều kiện để từ sự anh ninh đó, kiến tạo sự bình an thực sự. Bởi vì chỉ có sự ý thức chắc chắn được rằng người ta phải sống công chính trước mặt Thiên Chúa, thì mới có can đảm để chấp nhận tất cả; thì người ta mới thông cảm hiểu biết nhau và mới loại bỏ mọi căng thẳng và va chạm, phát xuất bởi những tư duy ích kỷ và thiển cận, chỉ muốn bảo vệ quan điểm và ước vọng của mình trước đồng loại, cũng như chỉ muốn bảo đảm sự sống còn của mình!

Những lời Chúa phán cùng chúng ta hôm nay là sự hướng dẫn cho một cuộc sống theo gương Ðức Giêsu. Ðó là một chương trình sống tuyệt hảo, dẫn chúng ta đạt tới sự sống chân thật và hạnh phúc vĩnh cửu! Ðó là:

Giữ lời Ðức Giêsu.

Tiếp nhận Thánh Thần Ðức Giêsu.

Có được sự bình an của Ðức Giêsu trong mình.

Thật là cả một sự khác biệt to lớn với những chương trình thuần túy nhân loại, mà trong đó chúng ta chỉ nhắm tới những lợi lộc ích kỷ tư riêng của mình!

Chương trình của Thiên Chúa, là: Trong Ðức Giêsu, chúng ta có thể đạt tới một cuộc sống hạnh phúc chân thật. Chương trình đó có thể đổi mới vũ trụ. Chắc hẳn tất cả chúng ta đều nhất trí với chương trình đó?

 

.

HÃY GIỮ LỜI THẦY

Lm. Nguyễn Đức Trung

Trong một lần đi thăm trung tâm xã hội Campuchia cách đây gần chục năm, chúng tôi có đến một nơi chăm sóc các anh chị em đang mang căn bệnh thể kỷ thời kỳ chót. Không khí ảm đạm, những cái nhìn vô vọng về một nơi xa xăm, nhưng tôi bắt gặp nhiều ánh mắt, những ánh mắt long lanh đan xen giữa hy vọng và sự sợ hãi. Chúng tôi ngỏ lời hỏi thăm vì biết rất nhiều người ở đó là người Việt Nam. Có một anh đã thì thào và ghi lại cho tôi một địa chỉ xin hãy chuyển tên và lời xin lỗi đến người thân ở phía Bắc, vì anh không có thể thư về cho họ được nữa, và anh hiểu trung tâm này sẽ là nơi anh yên nghỉ. Anh như năn nỉ tôi hãy nhớ đừng quên. Khi sửa soạn rời khỏi trung tâm, những ánh mắt đó lại như van lơn, mong muốn chúng tôi đừng đi và mong muốn chúng tôi đừng quên những gì họ đã ký gởi. Chắc đến nay nắm tro tàn của anh đã im lặng nơi lòng đất lạ, nhưng những hình ảnh và những lời ký thác của anh vẫn vấn vương đâu đó trong ký ức của tôi.

Là Kitô hữu từ thuở bé tới giờ, chắc chắn đã nhiều lần chúng ta nghe những lời tâm tình ký gởi của Chúa Giêsu đã tín nhiệm giao cho chúng ta, những lời tâm huyết mà chính Ngài đã xác nhận, không nhẹ ký vì nó chuyển tải một kho tàng thiêng liêng. Những lời Ngài nói không chỉ là của Ngài mà là của Cha, Đấng đã sai Ngài và chính trong tình yêu thông hiệp của Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm chúng ta hiểu. Vậy giữ lời Thầy là những điều nào, vì ba muơi ba năm Chúa đã ở nơi dương gian này, nhiều điều Chúa đã nói, thật là nhiêu khê, nhưng chắc chắn điều Chúa truyền dạy không gì khác hơn là để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân từ, Thánh Thần Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng cứu chuộc, mọi người là anh em, và phải đi đến hệ luận thực hành là kính mến Chúa, yêu thương người, như Ngài đã yêu thương họ đến cùng, thì Ngài cũng mong muốn chính những người đã được Ngài yêu mến hãy đáp trả lại cho Ngài giống i như thế.

Câu chuyện Tin Mừng tuần này kể lại trong bầu khí của một giai đoạn quyết liệt mà chính Ngài quyết tâm thực hiện cho đến cùng. Sẽ có cuộc chia ly người đi kẻ ở lại, một cuộc ra đi về với Cha, điều mà các môn đệ không hề nghĩ đến vì các ông vẫn tưởng Ngài đến thế gian này là để thống trị chứ không phải là đến để rồi chết hay đi đâu cả, trong khi Chúa không hề che dấu điều gì về sứ vụ của mình. Chính vì vậy để tránh kiểu ông nói gà bà nói vịt, bằng những lời chân tình, Ngài bày tỏ sứ vụ của mình qua hình ảnh như Ngài ở trong Cha và Chúa Thánh Thần, để mọi người thấy Thiên Chúa luôn ở trong tình yêu, và là nguyên lý cho mọi người đi đến. Phải đi trong tình yêu, nghĩa là đi trong Chúa chúng ta mới đạt đến cùng đích cuộc sống. Giữa sự thánh thiêng và phàm nhân luôn có một khoảng cách nhất định, tuy nhiên chính ơn cứu chuộc của Đức Kitô làm cho khoảng cách này được nối kết, xoá bỏ. Nhưng vì con người vẫn còn ở dưới thế, cuộc hành trình đi lên của chúng ta vẫn nhiều chông gai. Chúa thấu hiểu điều đó nên Ngài đã ban bình an, một nguồn bình an thật, làm cho chúng ta dù có chao đảo nhưng không nghiêng đổ, dù có sợ sệt nhưng không hãi hùng, dù có hay quên nhưng vẫn nhớ tuân giữ lời Ngài và thực thi lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” vẫn vang vọng trong đời sống Kitô hữu của chúng ta, tuy nhiên nhiều khi chính trong chúng ta có cái khập khiễng có thể yêu Chúa nhưng không bao giờ giữ lời Chúa, hoặc giữ lời Chúa dạy nhưng lại không yêu mến Chúa. Các số liệu thống kê của giáo hội tại Âu châu phần nào cũng cho chúng ta thấy tình trạng này, đó chính là bài học để chúng ta xét mình về việc sống đạo. Chuyện đã có bên Tây cũng là chuyện của chúng ta, nếu chúng ta nghiêm túc xem xét lại, và thử rảo quanh bên ngoài các nhà thờ Công giáo vào ngày Chúa nhật. Chuyện gì đang xảy ra, thái độ không nghiêm túc của rất nhiều người đi tham dự đang bôi đen đi hình ảnh đẹp thờ phượng của Kitô hữu, đó là chưa kể đến việc sống đạo trong đời thường, những xung khắc vẫn xảy ra nơi cộng đoàn xứ đạo và nhiều người chỉ giữ đạo vào những mùa vui, lễ hội, chưa kể đến những phát triển xã hội sẽ có những khoảng trống trong niềm tin, thoái thác những ràng buộc để tự do hơn. Chuyện yêu mến Thầy và giữ lời Thầy sao nó nặng nề, sao nó rắc rối, cái mà chúng ta cảm thấy nguy đó khi những lối sống này đang trở thành thói quen xấu và đang có những sự lây lan, liều thuốc nào đó để ngăn chăn, vắc xin nào tăng sức đề kháng, tất cả đã có nơi chúng ta, chả lẽ chúng ta chấp nhận bệnh khi chúng ta có cả một vườn thuốc đặc trị!

Ánh mắt của Chúa khi trao cho người phụ nữ ngoại tình, không kết tội mà nói: “Con hãy về đi và đừng phạm tội” sao nhân từ quá. Chúa nhìn Phêrô khi Phêrô vừa bai bải chối Thầy, làm Phêrô đấm ngực khóc than sám hối. Mới thoáng qua chúng ta nghĩ cách đơn giản rằng Chúa yêu họ cách riêng, nhưng thực ra sau ánh mắt là bài học: con hãy giữ lời Thầy đừng phạm tội, đừng cao ngạo. Cái ánh mắt của anh thanh niên trong trung tâm xã hội kia, chỉ mong tôi giữ lời và thực hiện hộ cho anh điều mà anh muốn làm, hôm nay vì đau bệnh không thể làm được nữa, nó tha thiết làm ray rứt chính chúng tôi, hôm nay không phải bằng ánh mắt, mà bằng chính lời của Chúa đang thân tình nói với chúng tôi rằng: “Ai yêu mến Thầy, hãy giữ lời Thầy” chả lẽ không đủ đánh động tôi và mọi người nghiêm chỉnh thực thi sao?

 

.

BÌNH AN CỦA CHÚA-

Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Vào trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành cuộc họp thường niên, một số các nhà hoạt động bênh vực “quyền lợi” của những người đồng tính luyến ái đã đột nhập và phản đối ồn ào, chống lại những giáo huấn của giáo hội liên quan đến “quyền lợi” của những người đồng tính.

Được biết trong cuộc họp lần này, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra bản tuyên ngôn về hôn nhân, kêu gọi một sự tín trung hơn trong giao ước hôn nhân giữa nam và nữ. Bản tuyên ngôn xác định rõ ràng hôn phối là sự kết hiệp thánh thiện giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Không thể chấp nhận chuyện những người cùng phái lấy nhau.

Đã có khoảng 200 người tụ tập biểu tình đòi giáo hội chấm dứt tình trạng “khủng bố tinh thần” chống lại những người đồng tính hay đổi phái. Sau đó có khoảng 100 người biểu tình bị bắt giữ vì đã có hành vi bạo động quá đáng. Một số người trong tổ chức “Dignity and Soul Force” cho rằng Giáo hội không đi đúng đường lối Phúc âm khi không mang lại an bình cho tâm hồn người ta, lại còn tạo nên bầu khí phân cách đối với người đồng tính.

Đức Cha Joseph A. Galante, Giám mục Phó của địa phận Dallas đã trả lời những người trong tổ chức Dignity and Soul Force rằng: “Phúc âm vẫn là Phúc âm. Trong đó luôn có thách đố, nhưng chắc chắn không có việc khơi mào bạo động hay thù hận đối với ai. Tuy nhiên có những người dùng Thánh kinh như để phục vụ cho mục đích riêng của mình chứ không phải để trung tín bước theo ý nghĩa xác thực của Tin Mừng.”

Hoa trái của Tin Mừng là bình an, thứ bình an do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải đến từ thế gian. Có nhiều người lầm tưởng bình an là những cảm giác yên hàn, mọi chuyện xuôi đẹp, không có chông gai, chiến tranh, thập giá. Đây không phải là thứ bình an đích thực. Nó tuỳ thuộc vào ngoại cảnh. Nó không phải là thứ bình an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Bình an Chúa ban luôn có bóng hình thập giá.

Danh ngôn thế giới có câu “Nemo dat quod non habet” – Không ai cho kẻ khác điều mình không có. Vậy thì làm sao Đức Giêsu lại có thể có được an bình để trao ban cho các môn đệ khi mà trước mắt Ngài là những đau thương và ngăm đe của khổ hình thập giá, cùng với muôn sự ruồng bỏ dể duôi của bao người?

Có lẽ chỉ khi nhìn vào Đức Giêsu trong thời điểm đối diện với những gian nan thử thách, chiến đấu cam go, người ta mới thấy rõ hơn sự bình an sâu thẳm mà Ngài để lại cho các môn đệ như món gia bảo cuối đời. Đây là thứ bình an nội tại, một thứ bình an được kết tinh nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha, thế nên, dù bóng cao thập giá có mịt mùng thì hồn Ngài vẫn là nguồn sáng cho nhân loại.

Một khi có được sự hiệp thông với Thiên Chúa thì dù gặp thành công hay thất bại, may mắn hay rủi ro, giàu có hay khó nghèo, chống đối hay ủng hộ, đều không làm người ta xao xuyến, nhát đảm, hoặc bất an. Còn khi bước sai lệch nẻo đường đến với Thiên Chúa thì dù muôn sự tưởng như thuận buồm xuôi gió hay an nhàn vô sự, tâm hồn vẫn mãi bất an cho đến khi tìm lại được ơn giao hoà.

“Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an cho các ngươi” (Ga 14:27a). Hẳn là Chúa Giêsu muốn nói đến sự bình an mà Ngài sẽ mang lại cho con người qua mầu nhiệm thập giá. Bởi vì bấy lâu nay, kể từ ngày Adong Eva sa ngã, nhân loại mãi sống trong tội, chạy theo những đam mê thế tục, để cho những tên giặc xác thịt khuấy động và làm bất an tâm hồn. Nay qua cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu mà an bình được ban xuống cho nhân loại. Chiếc cầu giao hoà giữa trời cao với đất thấp được lập nên nhờ thập giá.

Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.

Những lời sau đây trích trong sách “Gương Chúa Giêsu” đáng để chúng ta suy gẫm giữa bao vinh nhục, thăng trầm của cuộc sống:

Đời hứa bình an cho những ai phụng sự đời. Nhưng thứ bình an nền tảng ở tiền tài, sắc dục, kiêu ngạo… đã đánh lừa những người theo đuổi nó, và nó đã tiêu tan đi như giấc mộng đẹp.

Trái lại, bình an thực nền tảng ở một lương tâm thanh thản. Nó hệ tại biết kìm hãm ước muốn, biết tự thoát, khiêm nhường, hơn là thoả mãn dục vọng, ăn trên ngồi trốc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ Bình an của Chúa, thứ bình an mà người đời không thể cho được, để chúng con được thư thả mà phụng thờ Chúa và được hạnh phúc an nghỉ trong Chúa cho đến muôn đời.

Thành tâm tuân giữ luật Chúa, bước theo Đức Kitô như Ngài đang “tiến đến với Cha” (Ga 14:28), dù bước tiến đó đầy chông gai, thử thách, và đau đớn xác thân, chắc một điều: an bình, niềm vui, và sự sống chính là phần thưởng cho những người môn đệ tín trung.

 

.

ĐỨC GIÊSU VẪN HIỆN DIỆN

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Bài Tin mừng hôm nay là một đoạn trích trong bài diễn từ giã biệt của Đức Giêsu (Ga 13,31; 14,31). Việc Đức Giêsu ra đi đã làm cho các môn đệ buồn sầu lo lắng, không biết tương lai sẽ ra sao. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trấn an các ông, Người khuyên các ông “đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27), vì Người ra đi rồi sẽ trở lại với các ông bằng một cách thế khác.

Đức Giêsu khuyên các ông hãy giữ mối tinh thắm thiết với Người, đừng “cách mặt xa lòng”, và cách thế để tỏ lòng yêu mến đối với Người  là hãy thực hiện những điều Người truyền dạy :”Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy”(Ga 14,5). Và tuân giữ lời Người là thước đo cụ thể và chính xác nhất lòng yêu mến của các ông đối với Người.

Đức Giêsu còn cho các ông biết việc Người ra đi thì có lợi cho các ông hơn vì Người có ra đi thì Thánh Thần mới được sai đến để dạy dỗ và nhắc nhở các ông, giúp các ông hiểu thấu đáo hơn những lời nói và việc làm của Người khi còn tại thế :”Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).

Sau cùng, Đức Giêsu còn hứa ban cho các môn đệ sự bình an riêng của Người.  Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có thể ban tặng cho chúng ta :”Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1 : Cv 15,1-2.22-29

Ngay từ ban đầu, Hội thánh cũng gặp một ít trục trặc, nhưng đã được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Số là đang khi Phaolô và Barnabê truyền giáo cho dân ngoại thì có những người Do thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tân tòng phải cắt bì và phải tuân giữ luật của Maisen. Hai vị truyền giáo không đồng ý  nên trình vấn đề này lên Hội thánh.

Các Tông đồ đã họp hội nghị tại Giêrusalem và ra quyết nghị : những người ngoại tân tòng chỉ phải giữ những cái tối thiểu. Hội nghị đã cử Phaolô, Barnabê và mấy vị khác đến Antiochia với sứ mạng báo tin cho họ : chỉ cần giữ những điều cần thiết, đó là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm.

+ Bài đọc 2 : Kh 21,10-23.

Trong một thị kiến khác, thánh Gioan được trông thấy “kinh thành muôn thưởûû” lý tưởng trong tương lai. Đó là hình ảnh uy nghi của Giêrusalem mới được trình bầy cho chúng ta :

–          Thành từ trên trời ngự xuống.

–          Rất xinh đẹp và tươi sáng.

–          Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.

–          Đó là Hội thánh tương lai trên trời khi vương quốc của Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang trọn vẹn.

+ Bài Tin mừng : Ga 14, 23-29

Bài Tin mừng lấy từ bài diễn từ của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và ý chính là sự ra đi sắp xẩy ra của Người. Người bảo đảm cho các môn đệ rằng Người sẽ không để cho họ mô côi.  Dù Người ra đi, Người và họ sẽ không rời nhau. Nếu họ giữ lời Người, họ sẽ được đưa vào trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con. Chính Thánh Thần sẽ nhắc họ lời Người.

Trong dịp này, Người trấn an các môn đệ trong cuộc ra đi của Người. Vì thế, Người hứa ban cho các ông sự bình an, một thứ bình an đặc biệt mà thế gian không thể ban cho.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA

I. SỰ HIỆN DIỆN MỚI CỦA ĐỨC GIÊSU

  1. Sự ra đi của Đức Giêsu.

Trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng của Đức Giêsu, các môn đệ đã được Người rao giảng về Nước Trời, được nghe những lời Người giảng, chứng kiến những việc Người làm, nhưng các ông chưa hiểu được ý Chúa. Các ông cứ tưởng Chúa mời gọi mình để được hưởng đặc quyền đặc lợi, được ăn trên ngồi trốc, được quyền lãnh đạo và được mọi người tôn trọng trong Nước Người sắp thành lập.

Nhưng không, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người : Người sẽ bị bắt, bị đánh dòn, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Thật là một tin sét đánh làm cho các ông chao đảo. Các ông chìm vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại vì “Ra đi là chết trong lòng một ít”.

Các ông cảm thấy lo sợ vì như sống trong cảnh rắn mất đầu, các ông sẽ phải cô đơn, phải gặp nhiều trắc trở và gian nan thửû thách. Tương lai còn mù mịt, không biết số phận mình sẽ rao sao. Đức Giêsu hiểu rõ tâm trạng của các ông.

  1. Những lời khích lệ của Đức Giêsu

Đức Giêsu nói với họ rằng Người không để cho họ mồ côi đâu. Người ra đi rồi sẽ trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, mầu nhiệm, chỉ dành cho những ai trung tín với lời Người.  Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng trong ngày thế mạt, nhưng , ngay từ bây giờ, là sự hiệp thông nghĩa thiết với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi :”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).

Đức Giêsu còn cho biết việc ra đi của Người sẽ có lợi cho các ông hơn, vì như Người nói :”Các con sẽ buồn vì nghe nói Thầy phải rời xa các con. Lòng các con sẽ buồn sầu và sợ hãi, nhưng này Thầy bảo cho chúng con biết Thầy ra đi sẽ tốt cho các con hơn, vì khi ấy, Cha Thầy sẽ sai Thánh Thần đến giúp các con tăng trưởng theo một cách thức mới”.

Hay nói cách khác, Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết đã đến giờ Người phải rời xa các ông ít lâu, đã đến giờ họ phải bắt đầu một giai đoạn mới trong việc phát triển tâm linh, đã đến giờ họ cần được phát triển theo một phương cách mới.

Đức Giêsu nhấn mạnh cho các ông tư tưởng này là hãy bình tĩnh :”Các con đừng xao xuyến và sợ hãi”(Ga 14, 27). Người không bỏ rơi các ông nhưng luôn hiện diện với các ông bằng một cách thức khác mà các ông không ngờ.

Truyện : Thầy đã vác con trên vai

Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài trên biển. Bốn vết bàn chân hằn lên rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì chỉ thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạc thất vọng kêu lên :”

– Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình ?

Chúa Giêsu nhỏ nhẹ bảo anh ta :

– Con thử nhìn kỹ xem, coi đó là những vết chân của ai ?

Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra,  đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên :

– Vậy thưa thầy, lúc đó con ở đâu ?

Chúa âu yếm trả lời :

– Con ạ, những lúc con gặp khó khăn gian nan, chính khi đó Thầy biết con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi hoạn nạn đấy.

Dĩ nhiên đây là câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểu cặn kẽ : đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.

Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói :”Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa.

  1. Những lời căn dặn của Đức Giêsu.

Người ta thường nói :”Cách mặt xa lòng” (Tục ngữ) nghĩa là xa nhau thì dễ quên nhau. Đây là một kinh nghiệm rất phổ biến vì nó thường xẩy ra hằng ngày một cách rất tự nhiên.  Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng “cách mặt xa lòng”, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để “cách mặt, nhưng gần lòng”.

a) Về phía Thiên Chúa.

Đức Giêsu đảm bảo với các môn đệ rằng về phía Thiên Chúa  không có cách mặt xa lòng đâu.  Chúng ta có thể trưng ra những câu Đức Giêsu nói với các ông trong bữa Tiệc Ly :

– “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với các con (Ga 14,23)

– “Cha Thầy phái đến nhân danh Thầy, Đấng Bào chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều  Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).

-Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế, chứ không để các con mồ côi đâu.

Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong các con, các con được yêu mến, dạy dỗ, được bào chữa nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, Người càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phía thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với các con ở khắp mọi nơi mọi lúc.

b) Về phía loài người.

Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa, thì Đức Giêsu đã bảo :”Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”(Ga 14,23). Giữ lời Thầây là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa.

Đức Giêsu đã nói : “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mếân Thầy, thì không giữ lời Thầy”.  Câu nói này đủ xác định thế nào là yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu, bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa.  Vì đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta  đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta giữ lời Chúa nhiều hay ít.

Chúa bảo chúng ta hãy tuân giữ lời Chúa, nhưng lời Chúa ở đâu ?  Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói : lời Chúa chứa đựng trong Sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói : lời Chúa còn chứa đựng trong Thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong Phụng vụ, tức là những gì Giáo hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự.  Và lời Chúa còn chứa đựng  trong đời sống của Giáo hội, tức là giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục.

Tóm lại, Kinh thánh, Thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến lời Chúa , chúng ta thường hiểu là Thánh Kinh, nhất là sách Tin mừng.

Ngoài ra, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ và chúng ta  khi xa mặt Chúa, phải có đức tin vững vàng trong cơn gian nan thử thách. Thiên Chúa xếp đặt cho chúng ta  phải trải qua một thời kỳ gian khổ, để ta trưởng thành về tâm linh. Nhưng trong suốt thời gian chịu đựng thử thách đó, Thiên Chúa không bỏ rơi ta.  Người luôn ở trong ta để động viên và giúp đỡ ta  vượt qua gian khổ, để đức tin của ta  ngày càng mạnh mẽ và trưởng thành.

Truyện : Con kén và con bướm.

Ngày nọ, một chuyên gia sưu tầm các loài bướm vào một công viên, thấy một cái kén lạ treo lơ lửng trên cành cây, ông ta liền bứt lấy cành cây ấy và đem kén bướm về nhà nghiên cứu. Ít ngày sau, ông thấy có cái gì động đậy bên trong kén. Ông biết là sắp tới lúc con bướm nở. Hôm sau, cái kén lại nhúc nhích, nhưng cũng chẳng có gì khác xẩy ra. Ngày thứ ba vẫn thấy kén nhúc nhích mà con bướm bên trong cũng không ra được. Nghĩ rằng tại cái kén mà bướm không ra được, ông lấy con dao sắc ra rạch vỏ kén giúp nó ra ngoài. Có điều sau một ngày mà con bướm vẫn không bay ra được, và cuối cùng chết.

Về sau, ông được một người bạn thân là nhà côn trùng học cho biết lý do con bướm không bay ra được, là do thiên nhiên đã xếp đặt cho nó phải tự phấn đấu để thoát ra khỏi cái kén. Ngày nào nó phát triển  đến độ tự mình đạp bể cái kén chui ra ngoài thì mới chứng tỏ nó phát triển đầy đủ và mới có khả năng sinh tồn được trong thiên nhiên.  Muốn làm con bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, thì bướm phải trải qua thời kỳ làm con sâu lặng lẽ, rồi phải ẩn mình trong cái kén một thời gian, đợi ngày phát triển đầy đủ. Còn nếu ông rạch cái kén giúp nó ra ngoài trước thời hạn, là ông vô tình tiêu hủy  khả năng phát triển và sinh tồn của nó.

Chúng ta chẳng khác gì con bướm nọ : Thiên Chúa đã hoạch định cho chúng ta  phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về mặt tâm linh. Chúa đã an bài mọi sự để vào một số thời điểm trong cuộc sống chiêm niệm của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống tín trung của chúng ta, vào một số thời điểm trong cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, chúng ta phải nỗ lực gian khổ.  Vào những thời điểm ấy, Thiên Chúa ở rất gần chúng ta . Chúa biết rõ chúng ta cần phải chịu gian khổ một thời gian vì lợi ích riêng của chúng ta, vì nhờ những gian khổ  này chúng ta mới được tăng triển về mặt thiêng liêng để trở thành những Kitô hữu vững mạnh (M. Link,  Giảng lễ Chúa nhật năm C, tr 133).

II. ĐỨC GIÊSU BAN THÁNH THẦN CHO CÁC MÔN ĐỆ

Nay Đức Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo hội tất cả những gì Đức Giêsu đã ban bố khi còn ở trần gian.

Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật”, nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố Phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thể khác cho liên hệ giữa Người và các môn đệ. Thời kỳ Chúa Thánh Thần mà “Cha sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.

Léon Dufour giải thích rằng:”Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nazareth, là thời kỳ của Đấng Bầu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn. Sứ vụ của Đức Giêsu ở trần gian kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Thần còn rọi sáng những lời Đức Giêsu dạy rõ hơn khi các ông nghe lúc trước”(Lecture de l’Eùvangile selon Jean, Seuil, tr 120).

Nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã dạy lúc tại thế. Khi nói nhắc lại thì không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Thánh Kinh, là khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.

Về vấn đề này, X. Léon-Dufour chú giải :”Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Người còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho đến lúc này, còn rất tối tăm đối với các ông… Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Thần liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn nơi mạc khải  luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế, lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian”(Sđd, tr 132).

III. ĐỨC GIÊSU BAN BÌNH AN CHO CÁC ÔNG.

Đức Giêsu nói với các môn đệ :”Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con  không như thế gian ban tặng”(Ga 14, 27).

Theo phong tục Do thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng “bình an” (shalom), nhưng ở đây sự bình an của Đức Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường, vì thế gian chỉ có thể cầu chúc bình an  chứ không thể tự mình ban bình an được, còn Đức Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.

Trong tiếng Hip-ri, bình an là Shalom, một chữ được dùng rộng rãi trong Thánh Kinh. Nội dung từ ấy rất phong phú đến nỗi từ “bình an hay hòa bình” chỉ chuyểân tải một phần ý nghĩa. Một cách tổng quát, nó có ý nghĩa một sự viên mãn phổ quát, một điều kiện trong đó không một vật gì được thiếu sót. Từ ấy diễn tả hạnh phúc hoàn hảo chỉ thuộc về Thiên Chúa. Khi người ta có bình an, người ta sống trong sự hiệp thông hoàn hảo với Thiên Chúa.

Vì vậy, Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là  vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng tâm hồn, không có chiến tranh, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.

Theo cha Cantalamessa, Đức Giêsu không nói tới một sự bình an bên ngoài, chủ yếu là không có chiến tranh, xung đột giữa các dân tộc và quốc gia khác nhau. Người nói đến bình an đó trong những dịp khác, chẳng hạn khi nói :”Phúc thay ai xây dựng hòa bình vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”.

Trong đoạn Tin mừng hôm nay, Người nói đến một sự bình an khác, bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa. Điều này thật rõ ràng nơi lời nói mà Đức Giêsu thêm vào liền theo đó trong đoạn văn này của thánh Gioan :”Các con đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi”. Đây là sự bình an nền tảng nhất. Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại. Từ Đức Giêsu sử dụng là “shalom”. Người Do thái chào chúc lẫn nhau với lời này và vẫn còn làm thế; chính Đức Giêsu đã chào các môn đệ với lời này vào buổi chiều Phục sinh và truyền cho các môn đệ chào hỏi dân chúng cùng cách thức như thế :”Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói : “Bình an cho nhà này”(Lc 10,5-6).

Đức Giêsu có thể ban bình an cho các Môn đệ bởi vì chính Người sở hữu sự bình an :” Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy”. Bình an là sự hiệp thông với Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu hiệp thông hoàn toàn với Thiên Chúa, Người có thể ban cho ta ơn bình an. Chúng ta có thể ban sự bìn an nào nếu không phải là sự bình an của chúng ta ? Người Kitô hữu có ơn gọi đem lại bình an. Nhưng khổ nỗi, thay vì chúng ta đem lại bình an cho người khác, chúng ta bắt họ chịu đựng sự bất an và bất hạnh của chúng ta.

Sự bình an thực sự chỉ có khi chúng ta tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu là : ”Các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34).  Về vấn đề này, Đức Giáo hoang Gioan Phaolô II nói :” Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương. Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hòa bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67)

Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ. Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5,44), thay vì luật báo thù – luật rừng. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Báo thù không dẫn đến hòa bình. . Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự mà thôi. Vì Thiên Chúa là Tình yêu cũng là nguồn bình an (Ga 4,8,16; Rm 16,20).

 

.

NỢ TÌNH

Trm Thiên Thu

Là con người, không ai lại không mắc nợ, dù ít hay nhiều. Có thể không mắc nợ về vật chất nhưng ai cũng mắc nợ về tinh thần – nợ cha mẹ, nợ anh em, nợ bạn bè, nợ thầy cô, nợ xã hội,… Nói chung, mắc nợ gì cũng… khổ. Món nợ càng to thì nỗi khổ càng lớn, không an tâm, thậm chí là mất ăn mất ngủ.

Món nợ đơn giản nhất là nợ cá nhân – riêng giữa hai người với nhau, món nợ cũng có thể mang tính xã hội, mang tầm vóc quốc gia hoặc quốc tế. Chính khách John Adams (1735-1826, tổng thống thứ nhì của Hoa Kỳ) nói: “Có hai cách để chinh phục và nô dịch hóa một đất nước. Cách thứ nhất là bằng thanh kiếm. Cách thứ hai là bằng nợ nần. Thật là nguy hiểm với “khổ nhục kế” như thế – không chỉ khổ mà còn nhục. Thế nên, cứ “thà lên giường ngủ không ăn tối còn hơn thức dậy với nợ nần” (chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, một trong các vị khai sinh Hoa Kỳ). Tại sao vậy? Bởi vì “người mắc nợ chẳng khác nào nô lệ” (văn thi sĩ Ralph Waldo Emerson, 1803-1882). Nợ nần khổ thật!

Nhưng mắc nợ vì hoàn cảnh khó khăn đã đành, đáng quan ngại là mắc nợ vì “bóc ngắn, cắn dài” hoặc “vung tay quá trán”. Đôi khi tự làm mình mắc nợ vì thói đua đòi hoặc khoe mẽ, ưa bề ngoài. Đó chính là dạng mắc nợ mà Benjamin Franklin đã cảnh báo: “Mua thứ mình không cần rồi sẽ phải bán thứ mình cần”.

Tránh được nợ thì lòng thanh thản. Nhưng có món nợ không tránh được, thậm chí là nên mắc nợ nhau, đó là NỢ TÌNH, như Thánh Phaolô nói: “Đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).

Cuộc sống có đủ loại tình với nhiều cấp độ. Cuộc đời không có tình yêu thì không có sức sống, y như trái đất không có ánh nắng vậy. Tình yêu thương như một điệp khúc của bài trường ca vô tận, luôn được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đến nỗi có thể có người cảm thấy nhàm chán vì nghe hoài, nghe mãi, nghe suốt năm phụng vụ, thậm chí nghe hằng ngày. Cứ nghe mãi như vậy mà chúng ta vẫn chẳng thực hiện được bao nhiêu, mặc dù Thánh Gioan nói “nhẹ” thế này: “Các điều răn của Người có nặng nề gì đâu” (1 Ga 5:3). Quả thật, Đạo Chúa chỉ là một chữ Yêu, rất ngắn gọn và đơn giản – theo Việt ngữ chỉ có 3 mẫu tự, ấy thế mà lại nhiêu khê. Tuy nhiên, dù sao đi nữa thì tình yêu vẫn mãi mãi vĩ đại và cao cả vô cùng!

Thật vậy, tình yêu kỳ diệu đến nỗi đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, người Pháp) đã minh định: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Rất kỳ lạ. Chỉ có người đã từng yêu hết lòng thì mới khả dĩ hiểu được mà thôi. Yêu là một dạng điên, càng yêu sâu đậm càng điên dữ dội. “Điên” ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực chứ không “bệnh hoạn” theo kiểu điên rồ!

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải nên hoàn thiện (Mt 5:48), yêu thương cả kẻ thù (Mt 5:44), học nơi Ngài nhân đức hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29). Nói chung, chúng ta phải nên giống Ngài. Con nhà tông, không giống lông cũng giống cánh. Làm sao nhận diện? Thánh Angela Merici (1474-1540, người Ý) cho biết: “Muốn biết một người có nên giống Chúa Giêsu hay không, phải coi họ chấp nhận sự khinh mạn sỉ nhục như thế nào”. Chúa Giêsu vẫn yêu cuồng si dù biết chúng ta phụ tình Ngài. Yêu là như thế đó. Yêu không chỉ “chết trong lòng một ít” mà phải te tua, tơi tả, và “chết thật” chứ không thể cứ tà tà. Chán lắm, ngán lắm, ớn lắm, và sợ lắm! Thế nhưng vẫn có những người thích kiểu “không giống ai” như vậy. Hầu như người đời không thể hiểu hết ý nghĩa chữ “yêu” theo kiểu “ngược đời” như thế, chỉ những ai có niềm tin vào Chúa-Giêsu-chịu-đóng-đinh thì mới khả dĩ hiểu!

Mọi thứ luôn liên quan lẫn nhau, cái này liên quan cái kia – trực tiếp hoặc gián tiếp. Sách Công vụ cho biết có những người từ miền Giuđê đến dạy thế này: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê thì anh em không thể được cứu độ” (Cv 15:1). Khi đó, hai ông Phaolô và Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề đang tranh luận này. Tranh luận để hiệp nhất thì đó là điều cần, nếu không thì thật đáng quan ngại.

Tác giả sách Công Vụ cho biết rằng bấy giờ các tông đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa (biệt danh là Basaba) và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh. Họ trao cho phái đoàn bức thư có nội dung thế này: “Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu, và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, những người đã cống hiến cuộc đời vì danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy chúng tôi cử ông Giuđa và ông Xila đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh” (Cv 13:24-29). Con người thời nào cũng có “máu” dễ sa đà lắm, thế nên luôn phải nhớ lời tiền nhân căn dặn: “Cẩn tắc vô ưu”.

Cẩn trọng là khôn ngoan – một nhân đức quý giá, bởi vì “khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15). Thật vậy, “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban” (Kn 7:14). Đó là kho báu vô giá: “Trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:9).

Có nhiều thứ phải cẩn trọng, đặc biệt là miệng lưỡi – ngôn ngữ, bởi vì lời nói có thể làm hại người khác: “Nhất ngôn xuất, tứ mã nan truy”. Tác hại khôn lường vì cái lưỡi! Chắc hẳn chúng ta cũng đã biết điều này: “Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật”. Luật phục vụ con người chứ con người không phục vụ luật. Có con người rồi mới phát sinh luật. Luật cũng cần thiết để giúp con người hoàn thiện, nhưng theo luật phải vì yêu mến thật lòng, chứ chỉ khư khư giữ luật vì luật mà không vì yêu mến thì hóa vô ích. Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi muốn làm gì cũng được”. Người nào dám yêu thì không hề sợ bất cứ điều gì, kể cả cái chết, vì tình yêu còn mạnh hơn cả Tử Thần.

Yêu thương là đường lối của Thiên Chúa, là chân lý của Ngài, là niềm khao khát vĩnh hằng của Ngài, và không chỉ là quy luật mà còn là mệnh lệnh của Ngài. Ai cũng phải cố gắng sống yêu thương, và không ngừng cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và chúc phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa, và muôn nước biết ơn cứu độ của Ngài” (Tv 67:2-3). Đồng thời cũng phải biết chân thành mong muốn: “Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người cai trị muôn nước theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv 67:5-6).

Chắc chắn ai cũng mắc món nợ ân tình – cả ân nghĩa và tình cảm. Nhưng vì yêu mến Thiên Chúa mà người ta càng muốn mắc món nợ đó, món nợ không bao giờ trả hết ở đời này. Ước vọng đó là niềm khao khát khôn nguôi của những người tin vào Thiên Chúa, và cầu chúc cho nhau điều tốt lành nhất: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8).

Mệnh danh Tông Đồ của Tình Yêu và tự xưng là “môn đệ được Chúa yêu”, Thánh trẻ Gioan là con người can đảm, vì yêu mà ngài dám đứng dưới chân Thập Giá, và rồi được Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ. Thánh nhân kể về thị kiến: “Đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, chói lọi vinh quang Thiên Chúa. Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ítraen. Phía Đông có ba cửa, phía Bắc có ba cửa, phía Nam có ba cửa và phía Tây có ba cửa. Tường thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con Chiên” (Kh 21:10-21).

Thị kiến là sự khác thường, thần bí, vượt ngoài tầm nhìn phàm nhân. Thánh Gioan là thị nhân thần bí như vậy vì được Thiên Chúa mặc khải nhiều điều rất lạ lùng. Thánh nhân cho biết thêm: “Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Ôi, cuộc thị kiến quá đỗi lạ lùng! Nhưng đó cũng là những điều Chúa hứa ban cho những ai dám yêu Ngài hết lòng, hết sức, và hết trí khôn – nghĩa là tất cả đều nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài.

Một hôm, tông đồ Giuđa (cũng gọi là Giuđa Nhiệt Thành hoặc Tađêô, không phải Giuđa Ítcariốt) hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14:22). Nghe hỏi vậy, Đức Giêsu đáp ngay: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14:23-24). Một loạt các mối liên kết của tình yêu, như một đa giác có các cạnh và các góc không thể tách rời nhau – kể cả các đường trung tuyến hoặc đường cao. Một hệ lụy tất yếu đối với tình yêu thương thật kỳ diệu!

Chúa Giêsu là Con Đường duy nhất dẫn tới Chúa Cha, và cũng là Cửa Chuồng Chiên duy nhất, Ngài căn dặn các đệ tử: “Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14:25-26). Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần, vì Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống. Đó là tặng phẩm vô giá mà Chúa Giêsu muốn dành cho mỗi chúng ta. Tại sao? Vì Ngày rất yêu thương mỗi chúng ta, đến nỗi tên mỗi người đều được Ngài khắc vào lòng bàn tay (Is 49:16), đã cứu chuộc chúng ta bằng giá máu và mỗi chúng ta đều là của riêng Ngài (Is 43:1).

Ngài luôn muốn chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10:10), và Ngài vừa hứa hẹn vừa động viên: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14:27). Ngài xác định: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin” (Ga 14:28-29). Bất cứ điều gì cũng được Ngài nói trước để không ai bất ngờ mà ngỡ ngàng. Thế mà… Ôi chao!

Hôm nay, Thầy chí thánh Giêsu dạy chúng ta hai điều quan trọng. Thứ nhất là về tình yêu thương: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12); thứ nhì là về lòng can đảm: “Đừng sợ!” (St 15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St 50:18-21; Xh 14:13; Xh 20:20; Đnl 31:6; Is 7:4; Is 8:12; Is 10:24; Is 35:4; Is 37:6; Is 40:9; Is 41:10; Is 41:13-14; Is 43:1; Is 43:5; Is 44:2; Is 44:8; Is 51:7; Is 54:4; Gr 1:17; Gr 46:27-28; Gr 51:46; Gs 10:25; Xp 3:16; Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Cv 18:9; Kh 1:17-18; và còn nhiều nữa…).

Thật kỳ lạ: Mệnh lệnh cách “Đừng Sợ” được đề cập 365 lần trong Kinh Thánh, với các sắc thái khác nhau. Như vậy, mỗi ngày chúng ta đều được Thiên Chúa động viên – mỗi ngày một kiểu cho suốt năm. Có hai điều này liên quan lẫn nhau: Yêu thì phải can đảm, nghĩa là không sợ, còn nếu sợ thì không thể yêu. Hệ lụy tất yếu là thế!

Lạy Thiên Chúa Tình Yêu Vĩnh Hằng và Thương Xót Vô Tận, xin cho chúng con biết can đảm để có thể sống trọn tình yêu thương như Con Một Ngài – Người Tôi Trung Đau Khổ. Xin Tình Yêu của Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh biến đổi cuộc sống của mỗi chúng con ngày càng trở nên hoàn thiện qua tác động của Chúa Thánh Thần, nhờ đó mà chúng con xứng đáng là những Kitô hữu đích thực. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

.

MỘT ĐỜI TRI ÂN

Lm. Jos DĐH.

Lời nói xã giao, việc làm hời hợt, rượu nhạt, trà thiu, có phải là nguyên nhân làm tan vỡ nhiều “cặp đôi” vì sắc mầu của mặn ngọt, thơm ngon, vì mất phương hướng nơi cuộc sống ? Bậc sinh thành nhất định phải hiểu: cha mẹ hiền lành để đức cho con ; phận làm con có ai không hiểu: anh em hiếu thuận, gia đình an vui ? Tạ ơn, cám ơn, là cách nói đơn giản hơn, khi chúng ta sống đức thảo hiếu đối với tổ tiên dòng tộc, khi chúng ta tiếp nối truyền thống của tiền nhân: cha anh hùng, con hảo hán. Xã hội thời nào chẳng có giai cấp địa vị, có vui buồn sướng khổ, gia đình nào mà không có lúc khủng hoảng như cơm khô, canh nhạt ; qui luật chung, ai cũng thích rượu mừng, và ngao ngán với rượu phạt ! Tạ ơn, cám ơn, là mô phỏng cách sống của tiền nhân: yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch vẫn kê cho bằng.

90 năm, 100 năm đời người, chắc chắn không phải để hưởng thụ, thực tế một chút, chúng ta vẫn ý thức: sống là vừa học, vừa hành, giá trị cuộc đời không hệ tại giỏi, giầu, bằng cấp, biết ăn chơi, biết xài tiền, mà là biết sống trên thuận dưới hoà, sống tình làng nghĩa xóm. Đức Giêsu lại một lần nữa minh định nguồn cội của con người là yêu thương: “ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Ý thức yêu mến phải có nguồn gốc từ Thiên Chúa, tuân giữ lời Chúa phải bắt đầu từ tình yêu nên một với Đấng đã chết và sống lại vì yêu thương, các tông đồ được thu hút bởi tình Thầy-trò, được xác tín hơn bởi ơn ban của Đấng phục sinh, yêu và được yêu, chỉ thế là đủ. Xuất phát từ mầu nhiệm yêu thương, các học trò của Đức Giêsu, bằng đức ái chân thành, các ông không sợ phải minh chứng: buổi sáng nghe được đạo lý, buổi chiều dẫu chết cũng hạnh phúc rồi.

Hành trình đời người dài ngắn, không ai chắc chắn được, bằng cấp cao, kiến thức nhiều, rồi cũng phải đối diện với qui luật: sinh lão bệnh tử. Nếu một ngày, một giờ, hoặc một phút giây trong đời, chúng ta chợt nhận ra sự giới hạn mong manh của kiếp người, hẳn chúng ta đang đi đúng qui trình của Vị Thầy đã dám chết vì yêu, minh chứng: “lời các con nghe không phải của Thầy, nhưng của Cha, Đấng sã sai Thầy”. Một đời tri ân, hay một lần trong đời biết ơn bậc sinh thành, biết ơn cội nguồn, đều đáng được đứng vào hàng ngũ Đại gia đình yêu thương. Sách có câu: người khéo dùng oai không giận bậy, người khéo dùng ơn không cho bậy. Thầy Giêsu không dùng uy quyền, không lấy đức ái thống trị hay dụ dỗ các học trò, Ngài chân thành, không “ba phải” khi công bố: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”. Một lần yêu thật, là tri ân thật, một lần sống mến yêu và thật sự tuân giữ lời Thầy, là đời người có cả tình yêu Ba Ngôi hiện diện.

Bình an mà Thầy Giêsu nói là bình an nào ? Thưa, đó là bình an có sắc mầu của khổ đau thập giá, có niềm vui của Đấng phục sinh, có trọn vẹn tình yêu Ba Ngôi tẩy rửa tội lỗi, bổ dưỡng đức tin, và làm sống động tâm hồn thành viên Kitô giáo. Chẳng có gì không chân chính mà trở nên vĩ đại, chẳng có tình yêu giả tạo nào mà bền vững, cũng như không có sự thật nào mà không được đáp đền bằng hạnh phúc. Các học trò không hiểu thế nào là hạnh phúc thật, do đó Thầy Giêsu giải thích thêm: “nếu các con yêu mến Thầy, các con sẽ vui mừng vì Thầy về cùng Cha, bởi Cha trọng hơn Thầy”. Ở bên tình yêu của Chúa Cha là hạnh phúc thật, là bình an thật, là cùng đích của tình yêu nên một. Nếu người ta biết dùng cái cần câu để câu cá, câu cơm, hẳn không ai sử dụng tình yêu thật, ơn bình an thật của Đấng phục sinh, nhằm mưu cầu vật chất địa vị để hy vọng sống mãi ở đời này.

Kinh nghiệm thực tế ở đời: tình bạn, tình yêu, không phải là cả đời không cãi nhau, nhưng to tiếng với nhau rồi, xin lỗi, làm hoà, vì họ được mời gọi ở bên nhau suốt đời. Đi theo Chúa làm môn đệ, tin Chúa ban tình yêu và bình an thật, nhưng đâu phải vì thế mà hành trình đời người không gặp gian nan đau khổ ; đau khổ thập giá chính là lời tạ ơn, biết ơn, đẹp và chuẩn nhất với Đấng ta yêu mến tin thờ. Xã hội thời nào cũng biểu dương người thật việc thật, tình yêu thật bao giờ cũng cần được minh chứng bằng việc làm thật. Chúng ta đang tri ân tình Chúa, tình người, chúng ta có yêu mến và tuân giữ lời Thầy Giêsu không ? Chúng ta có tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa thật, là Đấng đã chịu chết và sống lại thật vì yêu thương nhân loại không ? Câu trả lời phải là: thưa có, khi chúng ta ý thức mình đang là học trò, là môn đệ của Đấng Kitô, chúng ta vẫn kết hiệp cầu nguyện và sống bằng tình yêu Ba Ngôi mỗi ngày, mỗi giây phút trong đời là sự thật. Amen.

 

.

THẦY BAN BÌNH AN CHO ANH EM

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Nếu Chúa Nhật vừa rồi, Lời Chúa nói về giới răn yêu thương, thì Chúa Nhật tuần này, Lời Chúa nói về bình an là món quà quý giá mà Đấng Phục Sinh ban tặng.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian” (Ga 14,27).

1- Một thứ bình an rất khác

Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói về thứ bình an nào? Quả thật, Người không nói về sự bình an bên ngoài, sự bình an vắng bóng chiến tranh và tranh chấp giữa người với người, giữa các dân tộc hay giữa các quốc gia với nhau. Người nói về thứ bình an này trong những dịp khác nhau, chẳng hạn như khi Người nói: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”

Nhưng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nói đến một thứ bình an hoàn toàn khác, thứ bình an nội tâm của tâm hồn mà một người có nơi mình nhờ sống kết hợp với Thiên Chúa. Điều này quá rõ ràng từ những gì Chúa Giêsu liền bổ sung ngay sau đó: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27). Đây là sự bình an nền tảng nhất. Nếu không có sự bình an này, những sự bình an khác không thể hiện hữu. Cũng như một tỷ giọt nước bẩn sẽ không thể làm cho một đại dương sạch, thì một tỷ trái tim xao xuyến sẽ thể không làm cho nhân loại này được bình an.

Từ mà Chúa Giêsu dùng là từ “shalom.” Người Do Thái chào nhau bằng từ này, ngày nay họ vẫn còn chào nhau như thế khi gặp nhau. Chính Chúa Giêsu chào các môn đệ bằng từ này vào buổi chiều Phục Sinh và Người truyền cho các môn đệ hãy chào dân chúng theo cách thức như thế: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: “Bình an cho nhà này” (Lc 10,5-6).

2- Chúa chính là bình an

Để hiểu ý nghĩa của sự bình an mà Chúa Giêsu ban tặng, chúng ta cần tìm hiểu trong Kinh Thánh. Theo đó, “shalom” có nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là chỉ theo nghĩa bình an là vắng bóng chiến tranh và hỗn loạn. Một cách tích cực, nó diễn tả sự khỏe mạnh, sự yên bình, dĩ nhiên, cả sự thành công và vinh quang. Thật vậy, Kinh Thánh nói về sự “bình an của Thiên Chúa” (Pl 4,5) và cũng nói về “Thiên Chúa của bình an” (Rm 15,32). Bình an không có nghĩa chỉ là những điều Thiên Chúa ban nhưng cả những gì Thiên Chúa là. Trong một Vịnh Ca, Giáo Hội gọi Chúa Ba Ngôi là “đại dương bình an.” Như thế, bình an là ân huệ đến từ Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa. Bởi thế, khi nhập thể làm Người, Chúa Giêsu được gọi là Hoàng Tử Bình An và cũng là nguồn mạch bình an. Sau khi phục sinh, Người là Đấng ban tặng bình an. Thế nên, trong những cuộc hiện ra với các môn đệ, lời đầu tiên mà Đấng Phục Sinh nói là: “Bình an cho anh em.” Trong thánh lễ, linh mục đại diện Chúa Kitô lặp lại lời chúc này tới cộng đoàn cử hành, là vọng lại lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh. Bởi lẽ, bao giờ cũng thế, con người luôn cần đến sự bình an của Người.

Điều này cũng nói với chúng ta rằng bình an tâm hồn mà tất cả chúng ta đều khát khao không bao giờ hoàn toàn hiện hữu và chúng ta có được mà không có Thiên Chúa, hay ở ngoài Người. Trong tác phẩm “Divina Commedia” đại thi hào Dante Alighieri đã tổng hợp tất cả những điều này trong câu thơ mà nhiều người xem là câu thơ đẹp nhất trong tác phẩm ông: “Bình an chúng con là ở nơi ý của Ngài.”

3- Đức tin mang lại bình an

Tin vào Chúa Kitô không có nghĩa là chúng ta được miễn chuẩn khỏi đau khổ, khó khăn và thử thách. Tin Mừng không hứa ban một phương thuốc để giải quyết hết mọi vấn đề; một cách nào đó, lo lắng, khó khăn, thử thách là một phần của thân phận con người. Nhiều lúc chúng ta còn phải đối diện với những khó khăn đó nhiều hơn cả những người không tin, chúng trên cả những khả năng của chúng ta. Nhưng Tin Mừng chỉ ra một phương dược giúp chúng ta vượt qua khó khăn và được bình an trong khi gặp thử thách. Đó là lời đầu tiên trong chương Tin Mừng Gioan: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ở lại trong Người là phương được để có bình an. Điều này khiến mỗi người phải chất vấn mình: Nhưng lúc gặp khó khăn, tôi có chạy đến Chúa không? Tôi có tin vào Chúa không?

Sau chiến tranh thế giới II, một cuốn sách được xuất bản với tựa đề: “Những lá thư cuối cùng từ Stalingrad”. Đó là những lá thư của những lính chiến Đức là những người đang chờ cuộc tấn công cuối cùng vào Liên Xô ở Stalingrad. Trong đó tất cả bị giết chết. Những lá thư đó được một máy bay chở ra khỏi thành phố. Người ta tìm thấy sau chiến tranh trong một lá thư, một người lính trẻ viết cho mẹ anh với những lời này: “Con không sợ chết. Đức tin con làm cho con vững mạnh tuyệt vời như thế.”

Tôi còn nhớ câu chuyện về mẹ tôi, lần kia, một người trong gia đình tôi gặp một tai nạn nghiêm trọng, nghe tin điều đó, mẹ tôi rất lo lắng, mẹ liền chạy đến đền thánh Antôn nhờ thánh nhân cầu bầu cùng Chúa cho gia đình được bình an. Sau khi đã cầu nguyện, mẹ tôi trở về trong sự bình tĩnh và phó thác để đối diện với những khó khăn vừa xảy ra.

Có lẽ mỗi người đều có kinh nghiệm tương tự như thế, những lúc gặp khó khăn thử thách và cả những lúc êm ả, chỉ có Chúa là nơi chúng ta nương thân, chỉ có Chúa mới mang lại bình an cho tâm hồn chúng ta.

Giờ đây chúng ta hiểu được ý nghĩa mà chúng ta cầu chúc trong thánh lễ khi hôn bình an. Chúng ta chúc nhau được mạnh khỏe, bình an, có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Nói cách khác, chúng ta chúc nhau có một con tim đầy bình an của Chúa Kitô là sự bình an nền tảng cho toàn bộ cuộc sống con người. Ai cũng cần đến thứ bình an đó của Chúa. Chúng ta hãy chúc nhau bằng lời chúc của Đấng Phục Sinh: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em!” Amen!

 

.

CHÚA THÁNH THẦN LUÔN BẢO TRỢ GIÁO HỘI VÀ CÁC TÍN HỮU

Lm.Giuse Đỗ Đức trí

Trong chương trình khám phá thế giới gần đây đã giới thiệu Israel là một quốc gia được coi như môi trường khởi nghiệp lý tưởng cho các bạn trẻ. Bởi vì tại quốc gia này, chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi về tài chính, cơ sở, phòng thí nghiệm hiện đại để giúp các bạn trẻ thực hiện được ý tưởng của mình. Không chỉ dành cho các bạn trẻ, mà cả các thiếu nhi và thiếu niên, học sinh khi dám đưa ra những ý tưởng phát minh, thì cũng được các thầy cô giáo và các chuyên gia đồng hành để giúp các em thực hiện những ý tưởng đó. Vì thế cho đến nay Israel là một trong những quốc gia có nền công nghệ tiên tiến nhất, và chiếm nhiều giải Nobel khoa học nhất trên thế giới. Vì quốc gia này có cả một sách lược để hỗ trợ những tài năng, những người đam mê nghiên cứu.
Cách đây hơn hai ngàn năm, cũng tại Israel có một nhóm 12 bạn trẻ, họ đang căng tràn nhiệt huyết, say mê với sứ mạng của Thầy Giêsu trao phó. Họ được sự bảo trợ của một vị Thầy là Chúa Thánh Thần, từ đó mười hai con người này đã thực hiện một cuộc thay đổi hoàn toàn thế giới.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nói trước cho các tông đồ về việc các ông sẽ đón nhận được một động lực, một sức mạnh sẽ giúp các ông ra đi thực hiện mục tiêu cuộc đời mình đó là Tin Mừng hóa toàn thế giới. Động lực và sức mạnh đó chính là Chúa Thánh Thầnmà hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là Đấng Bảo Trợ: “Đấng Bảo Trợ
là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.
Sau ba năm miệt mài với sứ mạng xây dựng Nước Trời, rao truyền giới răn yêu thương của Tin Mừng, giờ đây trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã tin tưởng trao cho các ông tất cả sự nghiệp và dự phóng của Ngài. Chúa Giêsu còn gửi đến cho các môn đệ một Người Thầy là Chúa Thánh Thần để giúp các ông thực hiện sứ mạng lớn lao đó. Vì Chúa biết rằng, sứ mạng Chúa trao cho các tông đồ là một sứ mạng vượt quá sức của các ông, đó là: đem Tin Mừng đến tận cùng cõi đất; rao giảng cho mọi dân tộc; dạy cho họ giới răn của Tin Mừng và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Chúa Giêsu biết rằng để thực hiện được sứ mạng này, cần phải có một lòng mến lớn lao dành cho Ngài. Lòng mến sẽ là sức mạnh giúp các tông đồ ra đi và giúp các ông trung thành với sứ mạng Chúa trao. Chúa Giêsu cũng cho biết là Thiên Chúa Cha sẽ yêu mến những ai yêu mến Con của Ngài là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha yêu những người yêu Đức Giêsu đến độ, Ngài sẽ cùng với Đức Giêsu đến thăm và ở lại trong tâm hồn những người đó: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”.Những ai được ở trong Thiên Chúa và được Thiên Chúa ở trong tâm hồn là hạnh phúc tột cùng, là hạnh phúc vĩnh cửu, là được ở trong Nước Trời.
Vì vậy, sứ mạng của các tông đồ là phải giúp cho mọi người được biết và yêu mến Đức Giêsu, để họ cũng được hạnh phúc đón Thiên Chúa vào tâm hồn mình. Dấu chỉ và thước đo để biết một người có yêu mến Đức Giêsu hay không đó là sống và thực hành lời dạy của Chúa Giêsu: “Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy”.Như thế sẽ không thể có ai nói mình yêu mến Đức Giêsu mà lại chối từ sống theo lề luật của Ngài. Kẻ từ chối giữ giới răn lề luật của Đức Giêsu chắc chắn là người không yêu mến Ngài.
Khi đón nhận và thực hành giới răn, lề luật của Đức Giêsu, chúng ta sẽ đón nhận được sự bình an trong tâm hồn. Sự bình an này đến từ ơn thánh tẩy và tha thứ của Thiên Chúa. Vì Lời của Chúa Giêsu có sức thanh tẩy và chữa lành tâm hồn, giải thoát chúng ta khỏi sự trói buộc của tội lỗi, gỡ bỏ những cắn rứt của lương tâm, đem lại sự bình an và niềm vui thật sự. Chắc chắn nhiều lần chúng ta đã cảm nhận được ơn bình an và niềm vui này khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Giải tội: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian”.Vì thế gian có thể tạo ra cuộc vui nhất thời nhưng không thể đem lại niềm vui và không thể đem đến bình an trong tâm hồn.
Từ niềm vui và sự bình an trong tâm hồn do Chúa Giêsu ban tặng, các tông đồ đã mạnh dạn lên đường loan báo Tin Mừng, giới thiệu Đức Giêsu và giáo lý của Ngài cho thế giới. Các ông gặp rất nhiều khó khăn, thử thách, bị chống đối, bắt bớ, hành hạ thể xác và tinh thần, nhưng trong lòng các ông vẫn vui và bình an. Các tông đồ vui vì biết mình có Chúa Giêsu ở cùng và có Chúa Thánh Thần là sức mạnh, là Đấng Bảo Trợ dẫn đường cho các ông. Câu chuyện trong sách Công Vụ cho thấy các tông đồ đã giải quyết tất cả những khó khăn nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Lúc đó, ngay trong nội bộ giáo hội sơ khai đã có nhiều quan điểm khác nhau. Có một số người vẫn muốn níu kéo các tập tục Do thái, họ muốn những anh em dân ngoại khi tin Chúa Giêsu phải chịu phép cắt bì như những người Do Thái. Vấn đề đã đến lúc phải có một quyết định chung cuộc, Ông Phaolô và Barnaba đã lên Giêrusalem để hỏi ý kiến các tông đồ về vấn đề đó. Quả thật, với sự soi sáng và tác động của Chúa Thánh Thần và nhân danh Thánh Thần, các tông đồ đã long trọng tuyên bố: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác…”Với quyết định này, Kitô giáo tách hẳn khỏi Do Thái Giáo để bắt đầu một con đường mới dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Qua biến cố này lại một lần nữa minh chứng cho thấy, Chúa Thánh Thần, Đấng bảo trợ mà Chúa Giêsu Phục sinh ban tặng cho Giáo Hội đang hoạt động hết sức mạnh mẽ trên các tông đồ và trong tâm hồn các tín hữu. Chính Thánh Thần dẫn đưa Giáo Hội qua những khúc quanh an toàn và còn thúc đẩy Giáo Hội không ngừng vươn tới mọi miền trên thế giới. Qua dòng thời gian, đã không ít lần con thuyền Giáo Hội bị cuốn theo những cơn sóng của thế trần, con cái Giáo Hội đã nhiều lần sống và hành xử theo thế tục. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi Giáo Hội của Ngài, nhưng đã ra tay che chở và dẫn lối cho Giáo Hội. Cho đến hôm nay, Đấng Bảo Trợ vẫn không ngừng hoạt động trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội vượt qua những khó khăn và những thăng trầm; giúp Giáo Hội đi đúng với con đường mà Chúa Giêsu muốn, đó là con đường đem Tin Mừng Cứu Độ đến cho toàn thế giới.
Cuộc sống ngày nay tuy hiện đại, nhưng con người dường như cảm thấy không an toàn, họ dễ dàng bị cuốn theo những đợt sóng, trào lưu của xã hội. Con người vẫn cứ muốn tìm kiếm một cuộc sống an toàn hơn, tốt đẹp hơn cho mình và gia đình. Các thứ quảng cáo của xã hội làm thông tin và sự thật bị xáo trộn khiến cho con người không biết dựa vào ai, tin vào ai. Cảm giác bất an này cũng đang ảnh hưởng trên đời sống đức tin của nhiều người, khi chứng kiến các hình thức mê tín, tâm linh, được nhiều người ủng hộ. Nhiều Kitô hữu bị dao động trong đời sống đức tin hoặc để cho đức tin của mình bị sa sút biến thành những hình thức mê tín, cuồng tín, theo các hình thức ngoại giáo. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần cậy dựa vào Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Ngài vẫn đang hoạt động liên lỉ trong Giáo Hội để giúp mỗi chúng ta trở về với đúng con đường của Chúa Kitô. Chúng ta cần phải cầu nguyện với Ngài, và mạnh dạn bước theo sự soi sáng hướng dẫn của Ngài. Ngoan ngoãn vâng theo sự chỉ dạy của Thánh Thần, chúng ta sẽ sống đúng theo ý Chúa.
Chúa Thánh Thần chính là Đấng đã hoạt động mạnh mẽ trên các tông đồ, biến đổi các ông thành những con người đem Tin Mừng đi chinh phục thế giới. Chúa Thánh Thần cũng đang hoạt động trên chúng ta, Ngài thúc đẩy, mời gọi chúng ta và chờ đợi chúng ta đáp trả lại bằng việc thực hiện theo những gì Ngài hướng dẫn. Trách nhiệm của chúng ta là làm sao để nghe được sự hướng dẫn của Thánh Thần. Ngài sẽ nói với chúng ta trong sự tĩnh lặng của tâm hồn, Ngài sẽ tác động trên trí khôn và thúc đẩy ta ước ao làm những điều thiện ích cho anh em.
Xin Chúa Thánh Thần là Đấng đã đổi mới các tông đồ, biến các ông thành những con người hăng say đem Tin Mừng của Chúa đến cho muôn dân, cũng biến đổi bản thân và gia đình mỗi người, gỡ bỏ khỏi ta những thói quen và nếp sống cũ không phù hợp với Tin Mừng. Xin Thánh Thần Chúa giúp chúng ta sống con người mới, trưởng thành hơn trong đức tin và nhiệt thành hơn trong nhiệm vụ chúng ta đang đảm nhận nơi gia đình và cộng đoàn. Amen.

 

.

 

BÌNH AN VÀ SỰ THẬT

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
.

Trong những ngày này, việc khám khá ra nguyên nhân làm cá biển chết hàng loạt ở miền Trung khiến người dân phẫn nộ và thu hút sự quan tâm của báo giới. Thì ra công ty Formosa (Đài Loan) bấy lâu nay vẫn ngấm ngầm hàng ngày xả một khối lượng nước thải khổng lồ ra biển mà người dân không hề hay biết, đến khi “cháy nhà ra mặt chuột” thì đại diện của công ty lại có những phát ngôn vô trách nhiệm, đến mức coi thường và xúc phạm người Việt Nam, khiến dư luận dậy sóng.

Cũng trong những ngày này, truyền thông nói nhiều đến thực phẩm bẩn. Đây là một quốc nạn vì nó đang tồn tại trong cả nước, một “nhân tai” vì do con người dã tâm gây nên, một “đại hoạ” vì chúng gây hậu quả là giết chết tương lai của dân tộc. Những vụ việc được phanh phui chỉ là số nhỏ trong số những vụ việc gian lận đang tiếp diễn trong cuộc sống của chúng ta. Đây vẫn còn là những câu chuyện dài chưa có hồi kết.

Những tác hại nghiêm trọng trên đây được núp dưới nhãn mác “an toàn”, “bình an”, nhưng đó là thứ bình an giả tạo. Trong một số lãnh vực, người ta dùng chiêu bài bình an để che đậy những hành động thực chất là xấu xa, thậm chí là ác độc. Cũng cần nêu bổ sung những động ăn chơi đồi truỵ trá hình, những hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, những con sâu mọt tham nhũng làm nghèo đất nước…

Trong bối cảnh này, Lời Chúa nói với chúng ta về sự bình an đích thực.

Phụng vụ hôm nay tiếp tục đưa chúng ta về với bầu khí linh thiêng của bữa Tiệc ly. Khi chỉ còn một “số ít” những môn sinh của Chúa, Người uỷ lạo họ và hứa ban bình an đích thực cho họ. Người nói rõ, bình an mà Người ban cho họ khác với thứ bình an giả tạo, hoặc bình an vật chất mà con người vẫn ban tặng cho nhau. Sự bình an này, các môn đệ đạt được khi thực thi tuân giữ Lời Chúa.

Sự bình an đích thực là được Chúa ngự trong tâm hồn, nhờ đó, chúng ta được Chúa hướng dẫn và soi sáng, để nhận thức được những việc mình làm là tốt hay xấu. Qua lương tâm ngay thắng, Chúa vẫn hướng dẫn những suy nghĩ và hành động của chúng ta. Nếu biết chấp nhận để Lời Chúa soi sáng, sự gian dối sẽ không còn.

Người tín hữu tin có Chúa Thánh Thần hiện diện và soi sáng cuộc đời họ. Chúa Thánh Thần là Đấng Bảo trợ, được Chúa Cha sai đến trần gian để giúp con người sống theo Chân lý. Sống ở đời là cuộc chiến đấu trường kỳ để đoạn tuyệt với gian dối, chọn lựa đứng về Sự thật và Ánh sáng. Chúa Thánh Thần cũng là linh hồn của Giáo Hội, là Đấng liên kết mọi thành viên của Giáo Hội trong sự hợp nhất. Bài đọc I kể lại một biến cố quan trọng trong lịch sử, đó là Công đồng đầu tiên của Kitô giáo, được tổ chức tại Giêrusalem vào khoảng năm 46 sau Công nguyên. Các tông đồ đã ý thức trách nhiệm của mình trước những ý kiến dư luận trái ngược nhau về những thực hành trong Đạo Do Thái như cắt bì, ăn thịt cúng, tuân giữ Luật ông Môisen… “Văn kiện” đúc kết của Công đồng rất đơn sơ, nhưng nêu rõ “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định…”.  Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần hướng dẫn suốt bề dày của lịch sử, giữa những thăng trầm thử thách. Vì vậy, nhưng phong ba bão tố, kể cả quyền lực hoả ngục cũng không phá huỷ được.

Trong một thị kiến, Thánh Gioan tông đồ đã thấy những hình ảnh về Giêrusalem (Bài đọc II). Đây là một cách diễn tả hạnh phúc thiên đàng, ở đó, tình yêu, an bình và chân lý sẽ ngự trị. Không còn gian dối và mưu mô. Không còn những toan tính vụ lợi trần tục, nhưng tất cả đều được vinh quang Thiên Chúa bao trùm, trong một nghi lễ phụng vụ thiên quốc, tràn đầy hạnh phúc và niềm vui. Những ai suốt đời tận tuỵ trung thành tuân giữ Lời Chúa và gắn bó với Người, sẽ là những công dân của Thành này.

Bình an là quà tặng mà Chúa Phục sinh ban cho các tông đồ, ngay khi Người từ cõi chết sống lại. Bình an cũng là quà tặng mà hôm nay, Chúa đang rộng tay ban phát cho những ai tuân giữ Lời Người. Người tín hữu, sau khi nhận quà tặng của Chúa, được mời gọi để trở nên những sứ giả đem bình an đến cho thời đại mình đang sống. Nếu ý thức được như vậy, chúng ta sẽ góp phần đẩy lùi những hành động gian dối đanh huỷ hoại tương lai của dân tộc chúng ta.

.

.

TRONG VÀ NGOÀI TÌNH YÊU

Tgm. Ngô Quang Kiệt

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

 

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
  2. Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
  3. Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
  4. Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?

 

.

GIỮ LỜI HỨA RẤT KHÓ

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Hứa thì dễ nhưng giữ được lời hứa lại rất khó. Khó vì con người dễ quên lời hứa. Càng khó giữ hơn khi vì lời hứa mà bị thiệt thòi cho bản thân. Lời hứa còn dễ lãng quên  khi xa mặt cách lòng. Con người dễ bội tín, thất trung với lời hứa của mình.

Sự thất hứa không chỉ làm cho ta mất uy tín mà còn để lại nỗi đau cho người bị thất hứa. Nỗi đau của con tim quặng đau khi chờ đợi nhiều, hy vọng nhiều nên cũng thất vọng ê chê nếu lời hứa bị lãng quên.

Có một câu chuyện vỏn vẹn 136 chữ nhưng chứa đựng nội dung thật sâu sắc. Nội dung trong đó khiến mỗi người lớn phải suy ngẫm trước khi đưa ra lời hứa của mình dành cho con trẻ.

“Tết, anh chở con đi chơi. Về nhà, thằng bé khoe ầm với lũ bạn cùng xóm. Trong đám trẻ có thằng Linh, nhà nghèo, lặng lẽ nghe với ánh mắt thèm thuồng. Thấy tội, anh nói với nó: “Nếu con ngoan, Tết năm sau chú sẽ chở con đi chơi”. Mắt thằng Linh sáng rỡ.

Ngày lại ngày. Cuộc đời lại lặng lẽ trôi theo dòng thời gian.

Thoắt mà đã hết năm. Lại tết. Đang ngồi cụng vài ly với đám bạn thì thằng Linh cứ thập thò. Vẫy tay đuổi, nó đi được một chốc rồi lại lượn lờ. Cáu tiết, anh quát nó. Thằng Linh oà khóc nức nở. Tiếng nó nói lẫn trong tiếng nấc: “Chú hứa chở con đi chơi… cả năm qua con ngoan… không hư một lần nào…”

Câu chuyện ngắn ngủi mà cảm động. Thật tội nghiệp cho đứa trẻ, nhưng cũng phải trách người lớn đôi khi vô tình làm tổn thương tâm hồn trẻ thơ.

Chúa Giê-su trước khi về trời cũng chỉ mong các môn đệ hãy hứa tuân giữ lời Thầy. Tuân giữ lời Thầy sẽ được Thầy ban cho bình an. Bình an khỏi mọi lo âu sợ hãi. Bình an vì có Chúa luôn bảo vệ phù trì. Bình an vì được Chúa dẫn dắt qua những thung lũng sâu của dòng đời.

Nhưng thử hỏi trên thế gian nay có bao nhiêu người đã thực hiện lời hứa? Có mấy ai không thẹn lòng với Chúa vì đã nhiều lần bất trung với Chúa?

Giữa dòng đời hôm nay ta vẫn gặp rất nhiều người bất trung với Chúa và với nhau. Vì quyền lợi bản thân, vì hạnh phúc riêng mình mà họ đã quên lời Thầy và quên cả lời hứa với nhau. Giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vì danh vọng mà bỏ Chúa, vẫn còn đó những người vì nuông chiều tính xác thịt mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó tình nghĩa phu thê sao khó giữ lòng vẹn nghĩa thủy chung . . .

Nếu biết rằng thất hứa sẽ làm đau lòng người yêu, thì xin đừng làm đau lòng Chúa, đau lòng nhau vì bội tín vong ân. Nếu biết rằng: “Một lần bất tín vạn lần bất tin” thì đừng đánh mất uy tín, danh dự của mình khi nói mà không giữ lời, khi hứa mà không làm. Hơn nữa, người giữ lời hứa luôn được yêu thương, kính trọng, và nếu giữ lời hứa với Chúa còn được Chúa yêu thương chăm sóc chở che, thì tại sao chúng ta không giữ lời hứa để được yêu thương?

Xin Chúa giúp chúng ta luôn can đảm trung thành với Chúa, luôn tuân giữ lời Chúa để được Chúa quan phòng chở che. Xin Chúa cũng giúp chúng ta biết giữ lời hứa với nhau để xã hội luôn thăng tiến nhờ những con người biết giữ lời hứa và trung thành với lời cam kết của mình. Amen.

 

.

THÁNH THẦN TÌNH YÊU ĐƯỢC BAN TẶNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Theo thần thoại Hy Lạp, Eros là vị thần tình yêu. Thần Eros luôn mang một cây cung và những mũi tên ái tình bên mình. Khi Eros bắn những mũi tên này vào ai đó thì ngay lập tức, người đó sẽ yêu người khác giới đầu tiên gặp được nếu không phải là người có quan hệ huyết thống hay họ hàng. Do thần Eros là một đứa trẻ hay nghịch ngợm và thiếu trách nhiệm nên đã gây ra nhiều chuyện dở khóc dở cười, làm cho nhiều người phải đau khổ.

Trong Kitô Giáo cũng nói đến một Vị Thần Tình Yêu, nhưng hoàn toàn khác với Eros. Vị Thần Tình Yêu của chúng ta chính là Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Giêsu mạc khải là Ngôi Ba Thiên Chúa và là Thiên Chúa quyền năng. Ngài không dùng mũi tên tình yêu để bắn vào trái tim, nhưng Ngài là chính Tình yêu, là ngọn lửa mến đốt cháy tâm hồn tín hữu và là Đấng Bảo Trợ hướng dẫn đời sống tín hữu. Ngài hiện hữu từ muôn thuở và hoạt mạnh mẽ trong cuộc đời Chúa Giêsu và còn tiệp tục hoạt động trong Giáo Hội và nơi mỗi chúng ta.

Hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Thần của Tình yêu, là Đấng Bảo trợ an ủi và là Đấng soi sáng chỉ dạy mỗi người. Là Thần Tình yêu, vì Ngài chính là Tình Yêu nhiệm màu của Thiên Chúa, từ nơi Thiên Chúa được ban cho thế gian. Ngài trở thành tác nhân, là động lực thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa. Nói đúng hơn, với khả năng và giới hạn của trái tim, con người không thể yêu mến Thiên Chúa như Ngài mong đợi nếu không có Chúa Thánh Thần thúc đẩy và tác động. Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy : Chúa Thánh thần sẽ giúp chúng ta yêu mến Chúa Giêsu và thực hành lời Chúa Giêsu chỉ dạy. Thánh Thần sẽ làm cho chúng ta trở nên những người học trò ngoan khi chúng ta dám để cho Ngài soi sáng, chỉ bảo. Ngài sẽ giúp ta nhận ra sự chỉ dạy của Chúa Giêsu và thực hành trong cuộc đời. Một khi chuyên chăm lắng nghe và thực hành Lời Chúa Giêsu, chúng ta trở nên bạn, nên anh em với Chúa Giêsu và được Chúa Cha thương mến. Lời Chúa Giêsu sẽ uốn nắn cuộc sống chúng ta và Chúa Thánh Thần sẽ trang điểm cho chúng ta bằng tình yêu để chúng ta trở nên người con ngoan, dễ thương trước mặt Chúa.

Khi có lòng yêu mến và thực hành Lời Chúa Giêsu, Chúa Thánh Thần sẽ đốt nóng tâm hồn chúng ta, đốt cháy cả những thói hư tật xấu. Ngài trang hoàng tâm hồn tín hữu nên xứng đáng là đền thờ cho Thiên Chúa cư ngụ. Khi đó, Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha sẽ đến và ở trong tâm hồn những kẻ yêu mến Ngài. Ngược lại, khi từ chối Thánh Thần của Thiên Chúa, từ chối đón nhận và thực hành lời Chúa Giêsu, tâm hồn đó sẽ trở thành sa mạc khô cằn, không sức sống, và còn là hang ổ cho ma quỷ và sự dữ trú chân.

Là Đấng Bảo Trợ, có nghĩa là Thánh Thần được Chúa Cha sai đến để bảo vệ và trợ giúp các tín hữu. Ngài sẽ bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của ma quỷ và sự dữ, vì Ngài là sức mạnh của Thiên Chúa. Thánh Thần bảo vệ chúng ta khỏi sự khô khan chai đá trong tâm hồn vì Ngài là Tình Yêu và là Đấng đổi mới đời sống tín hữu. Thánh Thần sẽ trợ giúp để chúng ta có thể chiến đấu và chiến thắng ma quỷ, dục vọng và xác thịt. Thánh Thần giúp chúng ta hiểu Lời Chúa, giúp nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta và là Đấng đem lại sự bình an trong tâm hồn.

Trong đoạn cuối bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã hứa để lại cho các môn đệ một món quà hết sức đặc biệt, đó là sự bình an. Chúa Giêsu khẳng định rằng, bình an của Chúa khác hẳn sự bình an theo kiểu thế gian. Bình an của thế gian chỉ là sự an bình ở bên ngoài, trên bề mặt, giống như mặt nước phẳng lặng nhưng dưới sâu, bên trong, lại là dòng chảy cuồn cuộn. Bình an của Chúa Giêsu là sự bình an từ trong tâm hồn lan tỏa ra bên ngoài. Đó là sự bình an của những tâm hồn sạch tội, có lương tâm ngay thẳng, có một cuộc sống không gian dối.

Hơn nữa, bình an Chúa Giêsu ban cho các tông đồ là sự bình an vì tin rằng Chúa không bao giờ lìa xa chúng ta, Ngài luôn hiện diện bên cạnh và bên trong mỗi người. Ngài không còn hiện diện bằng thể xác với các môn đệ, nhưng Ngài vẫn hiện diện bằng quyền năng và sự bảo vệ của Ngài. Một khi sống với Chúa bằng tình yêu mến, chúng ta sẽ luôn nhìn thấy Ngài đang hiện diện bên chúng ta.

Các tông đồ là những người đã đón nhận Chúa Thánh Thần từ nơi Chúa Giêsu, từ đó, các ông mạnh dạn và miệt mài làm việc trong sự hiện diện của Chúa Phục Sinh và hoạt động trong sự hướng dẫn của Thánh Thần. Mỗi khi có khó khăn hoặc có vấn đề nảy sinh trong Giáo Hội, các tông đồ lại nại đến Chúa Thánh Thần như là cố vấn kỳ diệu, là điểm tựa vững chắc cho mọi quyết định của mình.

Sách Công vụ cho thấy một vấn đề lớn nảy sinh trong Giáo Hội sơ khai, khi những người dân ngoại tin vào Chúa Giêsu ngày càng đông. Vấn đề được những người bảo thủ đặt ra là : Những người dân ngoại tin theo chúa Giêsu cũng phải chịu phép cắt bì và tuân giữ luật Môsê. Ông Phaolô và Barnaba đã cử người đến gặp Simon Phêrô và các tông đồ để trình bày vấn đề và xin ý kiến của vị thủ lãnh Giáo Hội. Phêrô và các anh em tông tồ tại Giêrusalem đã họp lại và đưa ra một quyết định hết sức quan trọng : Thánh Thần và chúng tôi quyết định : Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết.

Quyết định này là quyết định hết sức quan trọng. Kể từ đây, Giáo Hội sơ khai hoàn toàn tách khỏi Do Thái Giáo và các sinh hoạt theo tục lệ đạo Do Thái để bước vào giai đoạn mới. Quyết định này không phải là của riêng các tông đồ, nhưng là do Thánh Thần và chúng tôi quyết định. Điều đó chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn hoạt động cách cụ thể và sinh động trong Giáo Hội, giúp Giáo Hội đi theo đúng con đường của Chúa Giêsu.

Cho đến ngày nay, Thánh Thần Tình yêu và Bình an vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong Giáo Hội và nơi mỗi tín hữu. Thánh Thần đang thôi thúc Giáo Hội không mệt mỏi để đem tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến cho thế giới. Nếu như Thánh Thần Thiên Chúa là nguồn tình yêu không bao giờ vơi cạn đã được trao ban cho Giáo Hội, thì Giáo hội cũng không ngừng nghỉ thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người. Cùng với Đức Thánh Cha, vị cha chung của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội đang cùng nhau đi ra khắp mọi ngõ ngách của xã hội, đi tới những vùng ven, đến với những người sống bên lề xã hội, những người di dân, để chia sẻ và nâng đỡ, an ủi họ.

Là những Kitô hữu, tất cả chúng ta đều đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh Bí tích Rửa tội. Chúng ta được mời gọi để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta và sẵn sàng vâng nghe sự soi sáng của Ngài. Cuộc sống bộn bề, sức ép của cơm áo gạo tiền và những cám dỗ của xã hội khiến nhiều người đã không còn nghe được tiếng nhắc nhở và sự soi sáng của Thánh Thần. Thánh Thần nhắc cho chúng ta nhớ những Lời Chúa dạy và các giới răn lệnh truyền của Chúa. Hãy tin tưởng, mạnh dạn làm theo sự hướng dẫn của Ngài. Thánh Thần thêm sức mạnh để chúng ta dám chọn lựa sống và hành động theo đúng luật Chúa, đừng cưỡng lại sự trợ giúp của Ngài.

Miền Tây và nhiều nơi trong cả nước ta đang bị nắng hạn, ruộng đồng nứt nẻ, cỏ cây khô cháy, các dòng sông bị nước mặn xâm nhập hủy hoại mùa màng và các hệ động thực vật ven sông. Tâm hồn con người nếu không có Thánh Thần Tình Yêu cũng sẽ bị khô hạn, nứt nẻ như vậy. Từ chối sự hiện hiện diện soi sáng của Thánh Thần, tâm hồn chúng ta không chỉ như một vùng cằn cỗi chết chóc, mà những dòng nước mặn là dục vọng, ích kỷ, gian ác sẽ xâm lấn cuộc đời và hủy hoại tâm hồn chúng ta.

Chúa Giêsu Phục Sinh là Đấng ban Chúa Thánh Thần trên chúng ta, Ngài là Thần Bảo Trợ sẽ bảo bọc, trợ giúp chúng ta trong mọi hoàn cảnh, chỉ cần chúng ta biết tin tưởng cầu xin sự hướng dẫn của Ngài. Thánh Thần sẽ nhắc cho chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu truyền dạy, chỉ cần chúng ta để tâm lắng nghe và thi hành. Ngài là vị Thần Tình yêu và Bình an xin cho chúng ta cũng biết mở lòng để cho Ngài ngự vào tâm hồn. Xin Ngài uốn nắn trái tim và cuộc sống chúng ta, để chúng ta có được một trái tim yêu mạnh mẽ, một tâm hồn rộng mở và trở thành sứ giả đem bình an của Chúa đến cho thế giới. Amen.

 

.

MUỐN ĐƯỢC BÌNH AN, HÃY YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ LỜI CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha”  (Ga 13,1), với trọn tình Thầy trò, Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết, cụ thể như truyền cho các môn đệ một Điều răn mới (x. Ga 15,12). Mới là vì Chúa Giêsu là người đầu tiên thực hiện bằng việc tự hiến nộp mình cho thế nhân. Mới là vì yêu đến thí mạng vì người mình yêu: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13-14). Mới là vì tình yêu hướng đến người khác, khiến họ ra khỏi chính mình, đi đến với tha nhân. Kế đến Người bảo họ : “các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34), vì đây là dấu chỉ để người ta “nhận biết các con là môn đệ của Thầy” (Ga 13,35).

Vẫn trong bầu khí tâm sự với các môn đệ, Chúa phán bảo họ rằng : “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14,23). Thật không đơn giản, lời di chúc này có ý nói : các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc lời Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là : khi yêu mến Chúa Giêsu, các môn đệ sẽ tuân giữ lời Chúa truyền, cụ thể là thực hành các giới răn Chúa để lại. Có thể hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng lời Thầy truyền, tôn trọng các lời Thầy là thể hiện lòng mến Thầy nên tuân giữ.

Một điều sẽ xẩy đến cho những ai tuân giữ lời Chúa Giêsu là sẽ được Chúa Cha và chính Người yêu mến, đồng thời chọn làm nơi ở như lời Chúa nói : “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy”, nghĩa là người ấy là đền thờ Thiên Chúa ngự. Thiên Chúa sẽ ở với người ấy. Thánh Tông Đồ Phaolô nói rõ: “Được Chúa Giêsu ngự trong lòng anh em nhờ bởi lòng tin” (Eph 3,17). Do vậy không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bằng lòng đến ở nhà những người tin, yêu mến và tuân giữ lời Chúa. Đó là lý do tại sao, sau khi hoàn tất các công việc Chúa phán : “Đây là nơi Ta nghỉ ngơi đời đời mãi mãi, Ta sẽ ngự tại đó vì Ta muốn!” (Tv 131,14) …

Tiếp theo, Người mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần : “Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26). Đồng thời hứa ban bình an cho các ông. “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi. Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi. “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết. Bình an do Chúa tặng ban khác với bình an do thế gian ban tặng. “Bình an” của Chúa Giêsu ban không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, đây là thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ. Chúa Giêsu chính là nội dung của bình an; hiểu cách khác: Người chính là nguồn bình an, Người ban cho các ông chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa lối hiểu của con người.

Chúa Giêsu trấn an các ông : “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14,26). Tại sao Chúa Giêsu nói những lời ấy? Thưa là vì trước sự ra đi của Thầy Chí Thánh, các môn đệ cảm thấy cô đơn, lo sợ và bất an. Các ông lo cho chính mình, sợ bị bỏ rơi, sợ phải sống cô đơn, và bằng một lời hứa Chúa Giêsu nâng đỡ các ông : “Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con” (Ga 14,2).

Chúng ta lắng nghe những lời của Chúa Giêsu: “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14, 26). Thử hỏi, cuộc sống của chúng ta sẽ ra như sao, nếu không có Chúa, nếu không thực hành và liên lỉ sống đức tin, củng cố bởi Ðức Cậy, hướng về Trời Cao, nơi con người có thể gặp Chúa Kitô?

Vậy, đừng xao xuyến lo âu vì những bất ổn của địa cầu, của tình anh em hữu nghị đổi thay, hay con người thay lòng đổi dạ. Hãy phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa, như trẻ thơ trong vòng tay của mẹ. Vì thế giới này là tạm bợ, con người là thay đổi, không phải là chổ nương thân. Chỉ trong Thiên Chúa chúng ta mới tìm được nguồn vui tột đỉnh của tâm hồn.

Ước chi lời khuyên của Chúa Giêsu hôm nay thấm nhập vào trong tâm trí chúng ta, như là nguồn mạch của bình an, thanh thản và niềm vui. Nếu Chúa Giêsu Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống chúng ta còn lo sợ hãi gì? Tại sao không tin tưởng vào Thiên Chúa, là Cha Đức Giêsu, Cha chúng ta và tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta? Còn hạnh phúc nào hơn khi có Thiên Chúa là sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta không bị gục ngã dưới sức nặng của khó nhọc, của tuyệt vọng và buồn phiền.

Lạy Chúa Giê su, Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, thầy ban bình an của thầy cho các con…”. Xin đoái thương ban cho chúng con ơn hiệp nhất và bình an theo ý Chúa muốn, để ngay ở đời này chúng con đã được nếm hưởng hạnh phúc bất diệt Chúa giành cho chúng con nhờ sự chết và phục sinh của Chúa. Amen.

 

.

HÀNH ĐỘNG THEO TÌNH YÊU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Nhật tuần trước, Phúc âm kể về những lời tâm huyết của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Phúc âm tuần này tiếp nối những lời tâm huyết ấy: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các môn đệ và ban bình an cho các ông: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Sự hiện diện của người vắng mặt. Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những người yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Sau khi Phục sinh khải hoàn, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại. Chúa hiện diện trong những ai yêu mến Ngài: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”. Chúa hiện diện trong những ai thực hành và giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Ngài hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Ngài: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ…. Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

  1. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”

Người Kitô hữu là người có Đức Kitô nhờ đi theo và yêu mến Ngài. Ai không yêu mến, không đi theo thì không có Ngài, nên không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Chúa ta sống trong Ngài: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Người ta chỉ sống trong nhau vì nhau cho nhau khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô và được Đức Kitô sống trong ta khi ta yêu mến Ngài. Yêu mến là giữ lời Ngài “Nếu các con giữ lệnh truyền của Ta thì các con sẽ lưu lại trong lòng mến của Ta” (Ga 15,10).

Nhưng làm sao yêu mến Ngài được khi mà ta không hề thấy Ngài cách hữu hình, không nghe Ngài nói trực tiếp, không động chạm đến Ngài? Chúa cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Điều răn của Chúa là gì? Chúa xác định rõ ràng điều răn cốt yếu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Chúa cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Như vậy, câu nói “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa. Nói cách khác, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này: “Nếu ai nói : Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

  1. “Anh em có lòng yêu thương nhau”

Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và 14, cuối cùng Chúa đúc kết trong một lời khuyên ân cần : “Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Lời trọng tâm của chương 13 và 14 là: “Chúng con hãy yêu thương nhau”. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Chúa Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Chúa. Ai không có đặc trưng ấy thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi.

Thánh Gioan sau khi nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Thầy Chí Thánh đã nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu Chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Ngài, là sống sự sống của Ngài.Tình yêu đó là một tình yêu sáng suốt của lý trí, thể hiện nơi những việc làm cụ thể là yêu thương nhau.

Từ nay để gặp gỡ Chúa, để yêu mến Chúa, để sống với Chúa, cần phải có đức tin và tình yêu. Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta như lời Chúa Giêsu nói: “Ngày đó, anh em sẽ biết Thầy ở trong Cha Thầy,Thầy ở trong anh em và anh em ở trong Thầy.Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy.Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến.Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ cho người ấy biết Thầy”.

Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện.

Anh hỏi vị tu sĩ: Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?

Vị tu sĩ đáp: có chứ.

Người thanh niên hỏi: Dựa vào chứng cứ nào mà thầy tin được ?

Vị tu sĩ đáp : Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta.

Người thanh niên hỏi : nhưng làm thế nào điều đó có thể xảy ra được?

Vị tu sĩ đáp : Khi biết sống yêu thương, thì chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.

Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây lát, rồi hỏi : Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?

Vị tu sĩ đáp : Bằng cách hành động theo tình yêu. Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn, thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và sự bất tử của linh hồn. Ðiều này đã được thử nghiệm. Ðây là đường lối đúng đắn.

Những người yêu mến Chúa là những người biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành. Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép: “Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác… Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng xẻ cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Ngài quả là người yêu mến Chúa thật và đã đáng Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời.

Lạy Chúa, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn. Amen.

 

.

TẠI SAO LẠI TỎ MÌNH RA CHO CON?

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gio-an) Đức Giê-su đã mất nhiều công sức để trấn an các môn đệ Người; chắc hẳn lúc đó các ông đang trong rơi vào tình trạng rất bồn chồn lo lắng, tương tự như một nhóm học sinh gần tới ngày ra trường phải ôn thi: các ông mong ghi nhớ hết mọi lời Thầy dạy, nhớ tới từng chi tiết, nhưng lại có nguy cơ quên mất điểu hệ trọng chính yếu nhất; và điều chính yếu đó không phải là những bài học từ chương về các điều Thầy dạy dỗ, nhưng là bộc lộ bản chất đích thực của Thầy Giê-su – Lời tối hậu của Thiên Chúa. Việc bộc lộ này rõ ràng chỉ dành cho các môn đệ là những người thâm tín đã theo Thầy suốt bằng ấy năm: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Nếu nắm bắt được nội dung lời trăn trối này, chúng ta sẽ có cơ may thấu hiểu được cái cỗi lõi của niềm tin Ki-tô hữu chăng?

Nắm giữ Lời là điều tối quan trọng trong việc duy trì tương quan với Thầy Giê-su, kể cả khi Người đã ra đi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Lời đó chắc chắn không chỉ đơn thuần là các bài thuyết giảng mà Người đã từng tuyên giáo trên khắp các nẻo đường xứ Ga-li-lê và Giu-đê trong ròng rã ba năm trời; trong số đó có những bài thật ý nhị và độc đáo, chẳng hạn bài bàn về các mối phúc hay các câu chuyện dụ ngôn…; thế nhưng, cho dầu có tuân giữ được mọi lời Ráp-bi Giê-su giảng dạy đi nữa, thì điều đó cũng đâu có thể làm cho “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Lời đây hẳn là một điều gì rất đặc biệt mà Người đã từng khảng định: “không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Lời mà Người nhân danh Chúa Cha đến trần gian để nói lên cho bằng được, và chỉ có thể nói cho các môn đệ thâm tín nhất là những kẻ đã tin theo Người mà thôi.

Tuy nhiên Lời này sẽ không hề dễ hiểu, ngay cả đối với các môn đệ! Hồi đó, cho tới lúc Thầy Giê-su sắp ra đi, các môn đệ vẫn luôn cảm thấy khó chấp nhận bài học này: mỗi lần Thầy Giê-su đề cập tới sự tự hiến Thập Giá và đau khổ mà Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, không một ai trong số họ không lớn tiếng phản đối, can ngăn. Nhất là khi Người khảng định: ai nhìn thấy Thầy tự hiến là nhìn thấy Chúa Cha, nhìn thấy vinh quang đích thực của Cha… thì không một môn đệ nào có thể hiểu nổi (xem Ga 14:8-11). Đức Giê-su biết rất rõ điều đó; cần phải có một can thiệp đặc biệt, can thiệp của Thần Khí; các môn đệ cần tới một đấng Bảo Trợ, Đấng “sẽ được sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Phải, để hiểu được Lời của Giê-su Thập Giá, hiểu được Tình Yêu tự hiến và cứu đô của Thiên Chúa, dứt khoát cần tới sự can thiệp của Thánh Thần. Người thường thì chỉ có thể hiểu được các lời khuyên dạy, các câu chuyện dụ ngôn, các lời dạy dỗ đầy khôn ngoan từ miệng Ráp-bi Giê-su phán ra, nhưng để hiểu chính con người và hành động của Giê-su Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nhất là khi Lời đó được vang lên, không phải trên bục giảng mà là trên Thập Giá, thì trí khôn con người, cho dầu có xuất chúng tới mấy đi nữa (kể cả bộ óc kỳ tài như Albert Einstein chẳng hạn), cũng không thể nào nắm bắt được.

Ồ, thật vậy sao? Ngay cả một Linh mục lớn tuổi như tôi mà vẫn cứ đinh ninh rằng: để hiểu và giữ lời Chúa thì chỉ cần một chút thông minh, một chút thiện chí; và thông minh – thiện chí cũng là điều tôi vẫn thường lớn tiếng đòi kêu gọi anh chị em tín hữu phải có. Có lẽ chính vì thế mà, cho tới giờ này, tôi có thấu hiểu gì về Lời Tình Yêu – Thập Giá đâu… và các giáo hữu nghe tôi giảng có lẽ cũng chẳng hiểu được gì hơn! Tôi chăm chú suy tư, lo đọn bài giảng hơn là dành thời giờ cầu nguyện, lo trình bày cho khôn khéo hơn là tin tưởng vào tác động của Đấng Bảo Trợ đang ngự trong tâm hồn các tín hữu; trên tòa giảng, tôi lo tạo ấn tượng trên các thính giả của mình, hơn là tìm cách đóng trên họ dấu ấn của Thần Khí.

Và dấu ấn của Lời đó trong Thần Khí thì thật rõ ràng: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi… Thầy để lại bình an cho anh em… Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Lời Thầy Giê-su – Lời Thiên Chúa xót thương không bao giờ là lời đe dọa; Lời đó không tạo áp lực ép buộc, cũng chẳng tạo căng thẳng lo âu! Lời Thầy Giê-su sẽ luôn lan tỏa an bình, thư thái cho cả những tâm hồn đã phạm phải những tội tầy trời nhất; “Ta không kết án, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!” Nếu vậy, tôi – một linh mục của Đức Ki-tô có thật sự mang Lời bình an này tới tâm hồn mọi tín hữu, nhất là những tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đang rất cần tới Lời an ủi hơn bất cứ điều gì khác? Và để làm được điều đó: không một ai khác có thể giúp tôi, hơn là Thánh Thần, Đấng ủi an.

Lạy Chúa Giê-su là Lời đích thực của Thiên Chúa Cha giầu lòng xót thương, xin đổ Thần Khí xuống trên con, để con hiểu được Lời Tình Yêu, nhất là mỗi khi con cử hành Thánh Lễ. Nếu chính con chưa một lần hiểu và giữ được Lời Tình Yêu đích thực, nhất là qua biểu lộ của Thánh Thể – Thập Giá, thì làm sao con có thể mở miệng loan truyền Lời Chúa cho anh chị em tín hữu? Có thể con đã giảng lời Giê-su quá nhiều, nhưng đã giảng Lời-Chúa quá ít. Xin chỉnh đốn tình trạng thiếu sót trầm trọng này nơi con! Xin đổ tràn ngập tâm hồn con thứ bình an độc đáo của Chúa, phát xuất từ cảm nghiệm bản thân về lòng Chúa Xót Thương, để con – linh mục của Chúa cũng có thể loan báo và thông truyền Tin Mừng đầy an ủi này cho mọi người, nhất là cho các tội nhân bất hạnh và bị đọa đầy. A-men.

 

.

ĐỊNH LUẬT THƯƠNG XÓT

Trầm Thiên Thu

Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Con người có trước luật, nhưng con người sa ngã nên sinh ra luật. Điều đó chứng tỏ con người rất ngang ngược, vì “cái tôi” lúc nào cũng rình nổi dậy. Hai con người đầu tiên đã bất tuân Thiên Luật, con cháu muôn đời cũng chưa chừa, vẫn máu kiêu ngạo. Do đó, lúc này thì “nhân sinh vị luật”, nếu không có luật thì xã hội loạn hết.

Lĩnh vực nào cũng cần có luật, chí ít cũng là nội quy. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Ngay cả cái mà chúng ta gọi là Tự Do cũng vẫn có luật, có giời hạn của tự do. Không thể lợi dụng tự do để tự tung tự tác. Tương tự, yêu thương cũng có luật, thương xót cũng có luật. Yêu cho tha thiết, xót phải thật lòng, thương vô điều kiện. Ông Abe Shinzō, thủ tướng Nhật Bản, ngồi quỳ khi nói chuyện với người cao tuổi, hình ảnh thật đẹp và đáng để chúng ta học tập!

Thánh Phaolô nói: “Anh em đng mc n gì ai, ngoài món n tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn L Lut. Đã yêu thương thì không làm hi ngườđng loi; yêu thương là chu toàn L Lut” (Rm 13:8 và 10). Nếu không thì sao ? Có “vấn đề” ngay thôi: “Người không được ct bì trong thân xác mà vn chu toàn LLut, ngườy s lêán bn, vì bn có L Lut ghi chép hn hoi và bđã được ct bì, mà vn vi phm L Lut” (Rm 2:27).

Đúng vậy, như Chúa Giêsu đã nói với nhóm Pharisêu: “Nếu cáông đui mù thì cáông đã chng có ti. Nhưng gi đây cáông nói rng: Chúng tôi thy, nên ti cáông vn còn! (Ga 9:41). Người Việt cũng có câu tục ngữ: “Khôn cho người ta rái (s), di cho người ta thương, d d ương ương t cho người ta ghét.

Trình thuật Cv 15:1-2. 22-29 cho biết tầm quan trọng của lề luật. Hồi đó, có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: “Nếu anh em không chu phép ct bìtheo tc l Môsê, anh em không th được cđ. Rõ ràng giữ luật là việc làm cần thiết. Giữ luật là chứng tỏ vâng lời.

Lúc đó, ông Phaolô và ông Banaba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn quyết định cử ông Phaolô, ông Banaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này. Bấy giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy người trong các ông, để phái đi Antiôkhia với ông Phaolô và ông Banaba. Đó là ông Giuđa, biệt danh là Basaba, và ông Xila, những người có uy tín trong Hội Thánh.

Tranh luận là điều cần, không phải là để biết ai mạnh hay yếu, ai giỏi hay không, nhưng là để làm sáng tỏ vấn đề, sáng tỏ sự thật.

Các ông trao cho phái đoàn bức thư này: “Chúng tôi nghe biết có mt s người trong chúng tôi, không được chúng tôi u nhim, mà lđnói nhng điu gây xáo trn nơi anh em, làm anh em hoang mang. Vì thế, chúng tôđã đng tâm nht trí quyếđnh chn mt s đi biu, và phái h đến vi anh em, cùng vi nhng người anh em thân mến ca chúng tôi là ông Banaba và ông Phaolô, nhng ngườđã cng hiến cuđi vì danh Đc Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vy chúng tôi công Giuđa và ông Xila đếtrình bày trc tiếp nhng điu viết sau đây: Thánh Thn và chúng tôđã quyết đnh không đt lên vai anh em mt gánh nng nào khác ngoài nhng điu cn thiết này: là kiêng ăđ đã cúng cho ngu tượng, kiêng ăn tiết, ăn tht loài vt không ct tiết, và tránh gian dâm. Anh em cn thn tránh nhng điđó là tt ri. Chúc anh em an mnh”.

Ngoại tại chứng tỏ nội tại. Cách ăn mặc có thể biểu lộ tâm tính. Ánh mắt có thể biểu lộ tâm hồn. Có đầy mới tràn! Vì thế, đừng coi thường bề ngoài, nhưng cũng chớ chú trọng bề ngoài. Thái quá thì bất cập. Đàng nào cũng khả dĩ nguy hại. Trung dung mới là khôn ngoan. Nên tự xét xử hơn là để Chúa phải xét xử (1 Cr 11:31-32).

Luật là nguyên tắc đúng được công nhận, và luật khả dĩ thể hiện Thánh Ý Chúa. Cầu nguyện là một cách giữ luật của con người, đặc biệt là các Kitô hữu: “Nguyn Chúa Tri d thương và chúc phúc, xin to ánh tôn nhan rng ngi trên chúng con, cho c hoàn cu biếđường li Chúa, và muôn nước biếơn cđ ca Ngài (Tv 67:2-3). Cầu xin cho mọi người “biết đường lối Chúa” là biết luật Chúa, và nhờ đó mà “biết ơn cứu độ của Ngài”. Kỳ lạ quá!

Luật là biện pháp cai trị, nhưng luật Chúa cai trị bằng luật yêu thương, luật thương xót. Cảm nhận sâu sắc nên tác giả Thánh Vịnh phải lên tiếng: Ước gì muôn nước reo hò mng r, vì Chúa cai tr c hoàn cu theo l công minh, Người cai tr muôn nước theo đường chính trc và lãnh đo muôn dân trên mđt này. Ước gì chưdân cm t Ngài, ly Thiên Chúa, chư dân phđng thanh cm t Ngài (Tv 67:5-6).

Ước mơ không chỉ cho riêng mình, mà còn phải ước mơ cho mọi người. Đó mới là đi đúng định luật thương xót của Thiên Chúa: “Nguyn Chúa Tri ban phúc lc cho ta! Ước chi toàn cõđt kính s Người! (Tv 67:8). Mình vui mà người khác đau khổ thì niềm vui của chúng ta chưa trọn vẹn, và đó là ước mơ vị kỷ. Thiên Chúa cấm sống ích kỷ. Sống thương xót là sống bao dung. Bao dung là “buông dao”, chứ không là “bung dao”. Rất đơn giản!

Tha thứ để được thứ tha, yêu thương để được thương yêu, xót thương để được thưng xót. Hệ lụy tất yếu theo luật Chúa. Có vậy mới khả dĩ gặp Chúa. Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Ai được lên núi Chúa? Ai đượ trong đn thánh ca Người? (Tv 24:3). Chắc chắn chỉ có những người “tay sạch, lòng thanh, chẳng mê ngẫu tượng, không thề gian, nói dối” (Tv 24:4). Ai biết thương xót là nhân từ như Chúa (Lc 6:36) và là người diễm phúc (Mt 5:7).

Thị nhân Gioan tường thuật thị kiến: “Đang khi tôi xut thn thì ngườđem tôi lên mt ngn núi cao hùng vĩ, và ch cho tôi thy Thành Thánh, là Giêrusalem, t tri, tnơi Thiên Chúa mà xung, chói li vinh quang Thiên Chúa. Thành rc sáng tđáquý tuyt vi, như ngc thch trong sut ta pha lê. Thành có tường rng và cao, vi mười hai ca do mười hai thiên thn canh gi, và trên các ca có ghi tên mười hai chi tc con cáÍt-ra-en. Phíđông có ba ca, phía bc ba ca, phía nam ba ca và phía tây ba ca. Tường thành xây trên mười hai nn móng, trêđó có tên mười hai Tông Đ ca Con Chiên (Kh 21:10-14). Quang cảnh vô cùng kỳ lạ, chúng ta không thể hiểu hết bằng trí óc phàm nhân. Tuy nhiên, chúng ta có thể cảm thấy sung sướng và hy vọng tràn trề về Quốc Gia Siêu Nhiên là Nước Trời, là Thiên Đàng.

Thị nhân Gioan cho tiết lộ thêm: “Trong thành, tôi không thy có Đn Th, vì Đc Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đn Th ca thành. Thành chng cn mt tri, mt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa to rng, và Con Chiên là ngđèn chiếu soi” (Kh 21:22-23). Chúa Giêsu là Ánh Sáng Siêu Nhiên, là Thái Dương Công Chính, là Vinh Quang Đời Đời, mọi thứ ánh sáng khác đều bắt nguồn từ đó. Tuyệt vời!

Trình thuật Ga 14:23-29 là một phần trong trong “những lời cáo biệt” của Đức Giêsu, như những lời trăn trối của Ngài, trước khi Ngài đón nhận chén cay đắng nhất.

Ngài nói với các môn đệ: “Ai YÊU MN Thy thì s GI li Thy. Cha Thy s yêu mến ngườy. Cha Thy và Thy s đến và  li vi ngườy. Ai KHÔNG YÊU MN Thy thì KHÔNG GI li Thy. Và li anh em nghe đây không phi là ca Thy, nhưng là ca Chúa Cha, Đng đã sai Thy. Cáđiđó, Thđã nói vi anh em, đang khi cò vi anh em. Nhưng Đng Bo Tr là Thánh Thn Chúa Cha ssai đến nhân danh Thy, Đng đó s dy anh em mđiu và s làm cho anh em nh li mđiu Thđã nói vi anh em. Với nhân tính, Ngài cũng cảm thấy lưu luyến và buồn khi phải chia tay người thân, và chắc hẳn lúc đó các môn đệ cũng buồn lắm. Nhưng Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần đến để an ủi và nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh.

Ai theo Chúa Giêsu và giữ lệnh truyền của Ngài thì sẽ an tâm vui sống, vì chính Ngài là nguồn bình an, là nền hòa bình đích thực. Thật vậy, chính Ngài đã xác định: “Thđ li bình an cho anh em, Thy ban cho anh em bình an ca Thy. Thy ban cho anh em KHÔNG theo kiu thế gian. Anh em ĐNG XAO XUYN cũng ĐNG S HÃI. Anh em đã nghe Thy bo: Thy ra đi và đến cùng anh em. NU anh em yêu mến Thy thì hn anh em ĐàVUI MNG vì ThĐI V cùng Chúa Cha, bi vìChúa Cha CAO TRNG hơn Thy. Bây gi, Thy nói vi anh em trước khi s vic xy ra, đ khi xy ra, anh em tin.

Phàm nhân yếu đuối và hèn mọn, nhưng lại thật hạnh phúc khi được Thiên Chúa củng cố niềm tin. Chúa Giêsu minh định: “Chính Thy là con đường, là s tht và làs sng. Không ai đến vi Chúa Cha mà không qua Thy (Ga 14:6). Ngài còn là Ánh Sáng soi cho thế gian biết đường đi nước bước: “Tôi là ánh sáng đến thế gian(Ga 8:12; Ga 12:46). Ánh sáng đối nghịch với bóng tối. Ánh sáng luôn cần thiết để chúng ta khả dĩ nhận biết mọi thứ.

Nhưng làm sao phân biệt? Chuyện kể rằng… Người thầy hỏi các học trò: “Làm sao biết lúc nào là thđim tách bit ngày và đêm?. Một trò trả lời: “Thưa thy, nếu nhìn t xa mà chúng ta có th phân biđược con trâu và con bò”. Thầy lắc đầu. Một trò khác cho biết: “Thưa thy, nếu nhìn t xa mà chúng ta có th phân biđược cây xoài và cây táo. Thầy vẫn lắc đầu. Lại một trò khác trả lời: “Thưa thy, nếu nhìn t xa mà chúng ta có th phân biđược con gà và con v. Cứ thế, mỗi trò có một nhận xét khác nhau, nhưng thầy vẫn bảo là không đúng.

Cuối cùng, thầy nói: “Đó là lúc người ta có th nhn ra nhau bng tình đng loi, lòng yêu thương, lòng thương xót. Có ánh sáng tình yêu thì người ta có th nhn biết mi th. Cách phân biệt thật tuyệt vời!

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết sng trong Ánh Sáng Tình Yêu ca Ngài bng cách thc thi lòng thương xóđi vi tha nhân, nht là đi vi nhng người hèn mn. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cđ nhân loi. Amen.

 

.

BÌNH AN THIÊN QUỐC

AM. Trần Bình An

Cô Nguyễn Thanh Thúy sinh năm 1957, đến từ Lâm Đồng, dự thi Tìm kiếm tài năng Việt Nam bằng ca khúc Riêng một góc trời của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên. Hình ảnh cô với trang phục đơn sơ, ngồi đánh đàn guitar trên sân khấu lộng lẫy củaVietnam’s Got Talent 2016, khiến giám khảo Trấn Thành bấm nút chọn cô, vì muốn tìm hiểu về người đàn bà hát có gương mặt khắc khổ này.

Khi Trấn Thành hỏi: “Cô đang làm công việc gì?” Cô Thúy đáp:“Dạ! Thí sinh vừa làm vườn, vừa là thầy thuốc chuyên ấn huyệt, bấm huyệt giúp những trẻ bại liệt đi đứng được, từ thiện hoàn toàn. Dù hoàn cảnh của thí sinh còn gặp nhiều khó khăn, ở trên đồi, không có điện, không có nước xài, nhưng vẫn quyết cứu trẻ khuyết tật. Ở trên đồi, hai chị em gái còn độc thân. Thí sinh thì 60 tuổi, em gái 50 tuổi, ở chung trên một cái đồi hoang vắng. Không có điện để mình biết thông tin này nọ kia đâu, nhưng mà có một vị ở Sài Gòn, vị đó giờ là kỹ sư – thân nhân của trẻ khuyết tật mà trước đây thí sinh từng ấn huyệt. Thân nhân của trẻ gọi điện thoại lên hỏi: “Cô Thúy ơi! Cô Thúy có muốn dự thi hay không?” Thế là thí sinh nói: “Cô muốn lắm, nhưng mà cô chỉ có cây đàn ghi-ta mới được người ta tặng thôi! Khi biết tin được mời lên thi, 2g, 3g sáng rọi đèn pin, soi từng bước từng bước đi xuống đồi, để đến quốc lộ 20 đón xe khách đi lên trên đây. Mà phải đi chậm chậm, mang ở sau một một cái ba lô quần áo rồi cái cây đàn ghi-ta. Vừa đi vừa niệm Phật là đừng trơn té, vì lớn tuổi rồi, trơn té là gãy xương thôi, mà gãy xương thì không dự thi được.” Bằng Kiều hỏi: “Cô cho con hỏi lý do nào mà cô lại đi thi được không ạ?”

Cô Nguyễn Thanh Thúy đáp: “Thi để hi vọng được lãnh một phần thưởng nho nhỏ nào đó thôi. Chứ mình không hi vọng mình sẽ đạt phần thưởng nhiều tiền, lớn tiền đâu. Có thể mình có chút tiền để xây một cái bể chứa nước mưa, vì trên đồi đào hai cái giếng, mà không có nước. Rồi mua một cái bình ắc-quy nho nhỏ, rồi mình thắp đèn ở trong nhà, thắp đèn trên bàn Phật”.

Giám khảo Trấn Thành hỏi: “Ở trên đó (Lâm Đồng) có ai giúp đỡ cô không?” Cô Nguyễn Thanh Thúy kể:“Thỉnh thoảng những người giàu ở Sài Gòn hay gởi quà từ thiện. Quà trong đó có gạo, bột ngọt hay là dầu ăn, hay đường vậy đó. Chùa thấy thương, thì chùa gọi điện qua để nhận. Nhận thì thí sinh là người vác gạo lên vai nè, rồi xách đi 4-5 cây số đi lên dốc trên đồi. Tại vì em gái thì 50 tuổi vẫn còn độc thân, hai chị em độc thân từ nhỏ đến lớn, nhưng mà em gái thì không dám ra ngoài, vì có một lần bị côn đồ ở trên đồi sàm sỡ. Đi xuống đồi thì phải đi ngang một đoạn đường vắng, nên em gái không dám đi. Thành ra thí sinh phải là người đi!”

Trấn Thành thốt lên: “Cuộc sống của cô cơ cực quá!”Cô Nguyễn Thanh Thúy: “Không sao đâu, không sao đâu! Cứ bình tĩnh sống!”

Cả Trấn Thành và Bằng Kiều đều hết sức tâm đắc và ấn tượng với cách “bình tĩnh sống” của cô Thúy…Cả ba giám khảo đều quyết định cho cô Nguyễn Thanh Thúy vào vòng sau. Trấn Thành gửi gắm: “Chúc cô luôn yêu đời như vậy và hãy luôn luôn bình tĩnh sống.”(Thu Nguyệt, Không sao đâu bình tĩnh sống, Tuoitre.com)

Nghe những lời bộc bạch chân chất, đơn sơ của chị Nguyễn Thanh Thuý, ba vị giám khảo đều chạnh lòng trước những ước vọng, mong muốn cụ thể, nhỏ nhoi, thường tình, chẳng hề dám đũa mộc chòi mâm son, cao sang, dư giả. Chỉ mong sắm được bể chứa nước sinh hoạt và một cái bình ắc quy thắp sáng. Thế thôi.

“Không sao đâu, không sao đâu! Cứ bình tĩnh sống!”Câu nói của chị biểu lộ một tâm hồn an nhiên tự tại, bình an và hạnh phúc. Chẳng đố kỵ, cũng chẳng ganh đua, bon chen với đời. Lấy việc từ thiện, bấm huyệt, chữa trị miễn phí trẻ em khuyết tật, làm nguồn vui trong cuộc đời ẩn dật, khiêm tốn. Mặc dầu chị chưa là Kitô hữu, nhưng đã sống trọn vẹn tinh thần Kitô chân chính. Xả kỷ vị tha, cứ mãi cho đi, để chỉ nhận lại tình thương của các cháu bé bại liệt.

Bình an nhờ vâng Lời Chúa

“Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy,” Thương ai thì nghe theo và thực hiện ước muốn người yêu. Dĩ nhiên, sẽ làm ngược lại nếu không thương yêu. Vì vậy, Đức Giêsu đã đúc kết một điều kiện duy nhất để theo Người, để yêu Người. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.” (Mc 8, 34) Vì vâng lời Người, yêu mến Người, ông Simon Phêrô và các bạn chài đã dám từ bỏ bản thân, từ bỏ mọi sự, công danh sự nghiệp, mà theo Người. Hay các ông Giakêu, ông Mátthêu cũng đã mau mắn bỏ cả tiền bạc, thu nhập, chức tước, danh lợi, quyền lực, mà hăng hái đi theo Người.

Vật chất của cải, ham muốn, hưởng thụ, cám dỗ thế gian, phù phiếm xa hoa, ảo ảnh, đều là những chướng ngại vật, những rào cản đến với Chúa. Hơn nữa, tìm kiếm và chiếm đoạt những thứ đó còn làm hao tâm tổn sức, tạo nên những cơn khủng hoảng nghiêm trọng, những nỗi stress dày vò liên tục suốt cả cuộc đời.

Đắm chìm trong vũng lầy phàm trần nhơ nhuốc đó, lạc lối trong mê lộ huyền ảo, vô tận đó, làm sao thoát khỏi kiếp nô lệ cho phù vân? Làm sao thanh thoả được tâm hồn? Làm sao được bình an? Hơn nữa, còn thì giờ nào, cơ hội nào nghĩ đến Chúa và tha nhân?

 “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy ví được như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc.” (Lc 6, 47-48) Thực hành Lời Chúa là nhận được bình an, yên vui, vì Lời Chúa che chở, bảo vệ, chống đỡ khỏi lũ lụt, bão táp, khỏi những thách đố nguy hiểm.

“Chúng ta có nguy cơ làm nô lệ cho đầu óc tiền tài và kinh tế, là thứ làm giáng cấp từ “cái-là” (being) sang “cái-có” (having).” Đó lời ĐGH Biển Đức XVI cánh báo trong diễn văn Benedict XVI trước các vị lãnh đạo nhà nước Liban, các chức sắc tôn giáo, các đại biểu thuộc các tổ chức thế giới, toàn thể nhân dân Liban cũng như cho những ai quan tâm đến việc kiến tạo hòa bình, ngày 14/9/2012.

Bình an nhờ Chúa ngự đến

Bình an là nhờ hiệp thông chặt chẽ với Thiên Chúa. Đức Giêsu hằng kết hợp với Đức Chúa Cha qua việc cầu nguyện liên tục. Vì thế, Người luôn giữ được bình tĩnh khi ứng xử với những kẻ dữ, toán tính ám hại. Bình an của Đức Giêsu kết tinh từ sự vâng phục Thánh Ý Chúa Cha, vì Người được dưỡng nuôi bằng chính Thánh Ý: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4, 34) Nay Người thương ban bình an của Người cho các môn đệ, những người tình nguyện theo Chúa, cùng vâng theo Thánh Ý.

“Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy.” Nhờ hồng ân Đức Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Đền thờ hiệp nhất trong tình yêu sẽ ban bình an cho người tôn thờ, tin yêu, trông cậy, như Đức Giêsu đã thương yêu cầu chúc: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.

Bình an còn nhờ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Sống kết hiệp thân mật với Đức Giêsu, nghiêm nhặt tuân giữ cùng trung thành thực hành Lời Chúa, tín hữu Kitô mới thật sự được bình an, hoan lạc và sinh hoa thơm trái ngọt nhân đức.“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.” (Ga 15, 5)

Bình an nhờ Thánh Thần khai sáng

Bình an còn tiếp tục ở lại với Kitô hữu, khi được Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, khai tâm trước những vấn nạn, bế tắc, nan giải trong cơn lốc cuộc đời biến động.“Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con.”

Đức Chúa Thánh Thần luôn sẵn sàng giải mã Lời Chúa theo đúng Thánh Ý. Ngài sẽ khai thông, hoá giải tất cả bế tắc, dẫu khó khăn, bất khả thi với nhiều người, với cả cộng đoàn. Điển hình như bất đồng về việc tuân giữ Lề Luật Do Thái với người tân tòng.  “Thánh Thần và chúng tôi xét rằng không nên đặt thêm cho anh em gánh nặng nào khác ngoài mấy điều cần kíp này là anh em hãy kiêng đồ cúng thần, huyết, thịt thú chết ngạt và gian dâm; giữ mình khỏi các điều đó là anh em làm phải. Chúc anh em vạn an.” (Cv 15, 28-29) Nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Linh chiếu dọi, các cộng đoàn Antiôkia, Syrie và Cilicia đều đồng tâm chấp thuận và bình an bội phần.

“Thưa: “Vâng” là dễ, nhưng hãy xem Chúa Giêsu theo tiếng gọi cho đến chết trên thánh giá. Hãy bỏ mình, vác thánh giá mỗi ngày và đóng đinh mình trên thánh giá ấy.” (Đường Hy Vọng, số 73)

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, khấn xin thương xót luôn mở tai, mở lòng chúng con lắng nghe Lời Chúa và tích cực đem áp dụng vào đời. Xin Người biến đổi, cảm hoá, thánh hoá chúng con, xứng đáng trở nên đền thờ Thiên Chúa Ba Ngôi ngự đến. Xin ban Đức Chúa Thánh Thần đến khai tâm chúng con, thấm nhuần sâu sắc Lời Chúa, cùng hoàn toàn xin vâng Thánh Ý Chúa, để chúng con xứng đáng hưởng sự bình an của Chúa.

Khấn xin Mẹ Maria cầu bầu, dìu dắt, giúp đỡ chúng con biết từ bỏ bản thân, luôn vác thập giá theo chân Chúa, mãi theo Chúa cho đến trọn đời. Amen.

 

.

THỪA KẾ DI SẢN LÒNG THƯƠNG XÓT

JM. Lam Thy ĐVD.

Mặc dù Đức Giê-su đã tiên báo cuộc Thương Khó tới ba lần (Lần thứ nhất: Mt 16, 21-23; Mc 8, 31 -33; Lc 9, 22; Lần thứ hai: Mt 17, 22-23; Mc 9, 30 -32; Lc 9, 43-45; Lần thứ ba: Mt 20, 17-19; Mc 10, 32 -34; Lc 18, 31 -34), nhưng các môn đệ vẫn hoang mang lo lắng, vì thế trước khi bước vào cuộc khổ nạn là cái chết trên Thập tự, Người phải trấn an: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4).

Tuy vậy, nhưng các môn đệ vẫn băn khoăn thắc mắc. Ông Tô-ma thì hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”; ông Phi-líp-phê thì nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện.”; còn ông Giu-đa (không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt) thì lại hỏi: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (Ga 14, 6.8.22). Bài Tin Mừng hôm nay (CN VI.PS-C – Ga 14, 23-29) là trich đoạn trình thuật Lời Đức Giê-su trả lời ông Giu-đa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.” (Ga 14, 22-26).

Đến cuối phần những lời dặn bảo, khi thấy quân dữ đã tới gần (“Thủ lãnh thế gian đang đến” – Ga 14, 30), Đức Ki-tô nhấn mạnh: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.” (Ga 14, 27-29). Toàn bộ những lời dặn bảo này phải được coi là một di chúc của Lòng Thương Xót để lai di sản thừa kế cho các môn đệ và nói chung là các tín hữu. Xin cùng tìm hiểu:

Di sản thừa kế là tài sản của người chết để lại. Di sản thừa kế không chỉ là nhà cửa, tiền bạc hay những đồ quý giá, nhưng còn là những giá trị tinh thần và đạo đức nữa. Tất cả những thứ đó thường được ghi lại trong di chúc (lời dặn bảo, ủy thác) của người đã chết. Trường hợp người để lại di chúc không biết chữ thì nhờ người thân viết giúp, cũng có thể tập họp con cái quây quần bên giường bệnh nghe lời dặn dò sau cùng. Với trường hợp Đức Giê-su thì cũng vậy, trước khi bước vào cuộc Thương khó và cái chết thập giá, Người đã tập họp các môn đệ trong “bữa ăn cuối cùng: bữa Tiệc Ly” (Mt 26, 17-19; Mc 14, 12 -16; Lc 22, 7-13). Trong bữa ăn đó, Người đã trao lại cho các môn đệ một di sản thừa kế “không như thế gian ban tặng”, đó là ân huệ tình yêu và bình an. Đây chính là ân sủng phát sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được Ngôi Lời Nhập Thể – hiện thân của Lòng Thương Xót – lập đi lập lại trong “những lời dăn bảo sau cùng” của Người vào bữa Tiệc Ly.

Xét theo kiểu trần gian “sinh ký tử quy” (sống gửi thác về) thì không những đây là những di ngôn (lời nói để lại) của người sắp chết, mà còn được coi là di ngôn của người sắp trở về cõi trường sinh. Đức Giê-su sắp tử nạn trên thập giá, để về cùng Chúa Cha trên Nước Trời vinh hiển, thì những di ngôn của Người chính là di chúc để lại những di sản thừa kế cho các thế hệ tín hữu kế nghiệp là Giáo Hội. Nói cụ thể thì đây chính là di chúc của Lòng Thương Xót. Trong di chúc này, Đức Ki-tô đã để lại 2 tài sản vô cùng cao quý: Đó là Tình Yêu và sự Bình An. Hai tài sản đó xuất phát từ Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng thể hiện cụ thể nhất nơi Ngôi Ba Thánh Thần và vì thế, Đức Giê-su mới truyền dạy: ”Thầy sẽ xin Chúa Cha ban cho anh em Đấng Bảo Trợ đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14, 16-17).

Giáo lý Hội Thánh Công Giáo (số 735-736) đã lý giải ân huệ cao quý này: “Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “ân huệ mở đầu” của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21) là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh. Sự sống này là yêu thương “như Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta” (x. 1Ga 4, 11-12). Tình yêu này (Đức Ái của 1Cr 13) là nguyên lý đời sống mới trong Đức Ki-tô. Chúng ta có thể sống được như thế, vì chúng ta đã “nhận được sức mạnh của Thánh Thần” (Cv 1, 8). Nhờ quyền năng của Thánh Thần, con cái Thiên Chúa có thể làm được những viêc tốt lành. Đấng đã tháp chúng ta vào Cây Nho thật, sẽ giúp chúng ta trổ sinh “hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, quảng đại, nhân từ, lương thiện, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gl 5, 22-23). “Thánh Thần là sự sống của chúng ta”; chúng ta càng từ bỏ ý riêng (x. Mt 16, 24-26), “Thánh Thần càng hướng dẫn đời ta” (Gl 5, 25).” Người tín hữu cần ý thức 2 chiều kích bất khả phân ly của Di sản Thừa kế, đó là Tình Yêu và sự Bình An:

1- Di sản Tình Yêu: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4, 8.16) và Tình Yêu là hồng ân tuyệt diệu chứa đựng tất cả các ơn khác. Tình yêu này “Thiên Chúa đã đổ vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5, 5).”  Thiên Chúa đã biểu lộ tình yêu ngay từ khởi nguyên: Dựng nên con người có nam có nữ và ban cho họ toàn bộ công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật. Cũng vì tình yêu, khi con người bất trung, sa vòng tội lỗi, Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót sẵn sàng tha thứ những lỗi lầm của họ, bằng việc sai Đức Giê-su đến dạy cho loài người nhận biết tinh yêu của Thiên Chúa và sẵn sàng hiến thân chịu chết trên thập giá để cứu độ những ai tin và đi theo con đường yêu thương của Người, như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). (GLHTCG, số 733).

Không những vậy, mà trong quá trình thực hiện Lòng Thương Xót, Đức Ki-tô còn dạy các môn đệ phải yêu thương nhau, vì đó là dấu hiệu để người ngoài nhận ra họ thực sự là môn đệ của Người (Ga 13, 35); đồng thời hãy thi hành lời Người truyền là: luôn luôn tha thứ cho những người đã xúc phạm đến mình (“Thầy không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” – Mt 18, 22); thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù (“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” – Mt 5, 44; Lời cầu xin tha cho kẻ đã đóng đinh giết Người trên thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” – Lc 23, 34). Cuộc đời của Đức Giê-su đầy những hành động yêu thương: chữa lành các bệnh tật như bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt, đui mù, câm điếc (Mt 4, 23-25); nhân bánh ra nhiều nuôi những kẻ đói được ăn no (Lc 9, 12-17); thiết lập bí tích Thánh Thể để ban sự sống đời đời (Ga 6, 48-51) và dù có trở về cùng Chúa Cha nhưng vẫn “ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).

Tất cả đều nêu bật ý nghĩa: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta,và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Thiên Chúa là Tình Yêu: Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1Ga 4, 10.16). Rõ ràng Tình yêu là “nhận về” và “cho đi”, chúng ta đã nhận về từ Thiên Chúa biết bao ân sủng, nhưng Người không đòi chúng ta phải đáp trả, mà Người muốn: “Anh em đã được cho không thì cũng phải cho không như vậy.” (Mt 10, 8), cũng bởi vì “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20, 35). Thánh Phao-lô đã nhận chân được vấn đề khi ngài viết cho tín hữu Cô-rin-tô: “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi người, thì mọi người đều chết… Ngài đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình.” (2Cr 5, 14-15).

2- Di sản Bình An:  Giáo hội quy định mỗi Thánh lễ là một cuộc tái hiện Hy Tế Thập Giá (“Hy tế của Đức Ki-tô chỉ diễn ra một lần là đủ. Thế nhưng trong Thánh Lễ, hy tế ấy được hiện tại hóa và thông ban hiệu quả cho chúng ta: “Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó Đức Ki-tô đã chịu hiến tế làm Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta, được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện” (LG 3). Thánh lễ là một hy tế vì hiện tại hóa hy tế thập giá, vì tưởng niệm và ban phát các hiệu qủa của hy tế này.” – Giáo lý HTCG, số 1364-1366).

Trong mọi Thánh lễ, sau khi đọc lời kinh cầu nguyện bình an cho mọi người và cho Giáo Hội, vị chủ tế chúc: “Bình An của Chúa hằng ở cùng anh chị em!” Tiếp liền lời chúc đó là lời mời gọi “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau” để bày tỏ lòng yêu mến và hòa hợp với nhau, trước khi rước Mình và Máu Thánh Chúa. Suy niệm Lời Chúa sẽ thấy mỗi khi Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông Đồ, Người đều chúc: “Bình An cho anh em!”, và trong bài Tin Mừng hôm nay, Người xác định sự Bình An do Người ban tặng không phải là sự Bình An tạm thời của thế gian, nhưng là sự Bình An thật, sự Bình An bền vững trong tâm hồn có Chúa ngự. Sự Bình An thật trong Chúa giúp người tín hữu luôn biết sống tin tưởng và phó thác mọi sự trong tay Chúa, dù khi được mọi sự như ý hay khi gặp những khó khăn, nghịch cảnh, hay những bách hại vì Đức Tin. Đó cũng là sự Bình An thật  trong tâm hồn có thể cảm nghiệm được khi sống trong sạch, sống theo các giới răn của Chúa và hòa hợp yêu thương mọi người trong tình yêu Chúa.

Tóm lại, tuy tách ra 2 di sản cho dễ phân tích học tập, nhưng hồng ân Tình Yêu và Bình An vẫn chi là một di sản tột cùng cao quý mà các môn đệ được thừa kế từ Lòng Thương Xót. Cứ nhìn vào thế giới hiện tại sẽ thấy Tình Yêu và Bình An luôn gắn kết với nhau, tuy hai mà một. Vâng, vì sao mà thế giới luôn luôn có chiến tranh (từ chiến tranh cục bộ trong một quốc gia đến chiến tranh giữa các nước với nhau), rồi thì khủng bố, áp bức, bóc lột… xảy ra nhan nhản khắp nơi? Đó chẳng phải vì thiếu tình yêu, thiếu vắng lòng thương xót đó sao? Không có Tình Yêu thì không thể có Bình An, mà không có Bình An thì đào đâu ra hạnh phúc đích thực?

Hóa cho nên có thể kết luận: Di sản Lòng Thương Xót đươc trao ban trong di chúc của Đức Giê-su không gì khác hơn là chính “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy” (Ga 14, 26). Và đó cũng là lý do “Những lời cáo biệt – Những lời dặn bảo sau cùng” của Đức Ki-tô – hiện thân của Lòng Thương Xót – trong bữa Tiệc Ly, được Phụng vụ Giáo hội xếp vào Chúa nhật VI/PS trước lễ Thăng Thiên (CN VII/PS). Người Ki-tô hữu chì có thể đón nhận di sản Tình Yêu và Bình An – di sản thừa kế Lòng Thương Xót – khi thực sự được Thánh Linh bảo trợ. Vâng, “Thánh Thần ban cho chúng ta “bảo chứng” hoặc “ân huệ mở đầu” của Gia Sản (x. Rm 8, 23; 2Cr 1, 21) là chính sự sống của Ba Ngôi Chí Thánh.” (Giáo lý HTCG, số 735).

Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, nhờ mầu nhiệm Ðức Ki-tô sống lại, Chúa đã thương đổi mới chúng con cho đáng hưởng sự sống đời đời. Xin làm cho mầu nhiệm ấy sinh hoa kết quả tốt đẹp trong tâm hồn chúng con, và làm cho thần lương chúng con vừa lãnh nhận trở nên nguồn sinh lực dồi dào. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con.  Amen.” (Lời nguyện hiệp lễ Chúa nhật VI Phục Sinh).

 

.

ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG

Lm. Phạm Thanh Liêm

Chúng ta đang ở Chúa Nhật thứ sáu phục sinh, thứ năm tới là lễ Chúa Thăng Thiên nếu nơi đó không dời vào Chúa Nhật tới, và Chúa Nhật tới nữa là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

 

Ai yêu Ta thì giữ Lời Ta

Theo Tin Mừng, Đức Yêsu nói với các tông đồ rằng: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó”.

Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Yêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21).

Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.

 

Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự

Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần được Thiên Chúa Cha gởi tới nhân danh Chúa Yêsu, sẽ dạy các tông đồ mọi sự, và sẽ nhắc nhớ các tông đồ những gì Đức Yêsu đã nói với các ngài.

Chính trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu ban bình an của Ngài cho chúng ta. Bình an Chúa Yêsu ban cho chúng ta, không ai có thể cướp được, ngay cả những người quyền thế có thể giết người, cũng không thể cướp được bình an ấy. Bình an Chúa ban, là hậu quả của xác tín được Chúa thương yêu vô cùng. Người có ơn bình an Chúa ban, cảm nhận Chúa là tất cả đối với mình. Ngài là Đấng không gì có thể đánh đổi được, Ngài là “mối lợi tuyệt vời” mà người được ơn nhận ra.

Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài dạy chúng ta mọi sự, Ngài giúp chúng ta làm những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Thần giúp chúng ta tự do với tất cả. Trong bài đọc thứ nhất, một số Kitô hữu gốc Do Thái đòi các Kitô hữu gốc dân ngoại phải cắt bì, vì họ cho rằng có như vậy, các tín hữu dân ngoại mới được cứu độ. Để bảo vệ và làm sáng tỏ Tin Mừng, Phao-lô vàBarnabas đã quyết làm sáng tỏ vấn đề: Kitô hữu được cứu độ không do cắt bì nhưng do tin vào Đức Yêsu. Và “quyết định dưới tác động Thánh Thần” của các tông đồ đồ, là các Kitô hữu không phải cắt bì. Thánh Thần giúp chúng ta sống trong bình an và tình yêu, chứ không sống trong sợ hãi hay nô lệ. Thánh Thần Thiên Chúa, làm chúng ta tự do đích thực.

 

Ánh sáng soi thành là Con Chiên

Để có thể nhìn thấy vật gì đó, vật đó cần ánh sáng chiếu rọi và hình ảnh được phản chiếu vào mắt, nhờ vậy người ta có thể nhìn được. Con Chiên là đèn soi thành, Đức Yêsu là ánh sáng, là tiêu chuẩn giúp người ta nhận định được đâu là điều hay để làm và điều xấu để tránh.

Thế gian có tiêu chuẩn riêng của nó, và những người theo thế gian sống theo tiêu chuẩn thế gian: tiền bạc, danh vọng, địa vị. Hậu quả của việc đi tìm tiền bạc, danh vọng, không là hạnh phúc đích thực. Tiền bạc, danh vọng, khoái lạc, có “xiềng xích” riêng của nó, nó có thể trói buộc con người và biến con người thành nô lệ.

Ước gì mỗi người nhận ra Đức Yêsu là “đường, sự thật và sự sống”, và để Chúa trở thành tiêu chuẩn và ánh sáng cho từng người, để chúng ta được tự do đích thực.

 

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

  1. Theo Chúa, bạn được giải phóng khỏi nô lệ điều gì?
  2. Bạn có kinh nghiệm Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin bạn chia sẻ.
  3. Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta! Điều nào Chúa dạy khó nhất đối với bạn? Tại sao?

 

.

AI YÊU MẾN THẦY

Lm. DĐH

Câu thành ngữ quen thuộc ai cũng biết : trời sinh voi, trời sinh cỏ. Đối lại, cha ông chúng ta cũng có câu : siêng làm thì có, biếng nhác thì không. Thực ra, sống trên đời ai mà không mơ ước được hạnh phúc, thành công, vì thế, chân lý mà mọi người cần lưu ý hơn cả vẫn là : biết học, biết hành. Chẳng ai chăm chỉ làm việc mà phải chết đói, cũng không thể lười biếng, sáng say chiều xỉn mà được gọi là người giầu sang phú quý. Sống thế nào là hợp tình hợp lý, hẳn nhiều người đã tìm ra qui luật là biết “mến yêu”.

Sống trên đời, bậc làm cha mẹ, thầy cô ở trường lớp, luôn có ý dạy dỗ con, giáo dục trò, hiểu, và sống có tình, có nghĩa, trong các tương quan gia đình xã hội. Cũng nhằm hướng con cháu đừng đặt nặng về giá trị vật chất, tiền nhân chúng ta có chia sẻ một kinh nghiệm : người ta bà con vì tổ vì tiên, không ai bà con vì tiền vì gạo. Hôm nay đây, bắt đầu với cụm từ “ai yêu mến Thầy”, Đức Giêsu tổng hợp tương quan tình yêu giữa Cha – Con – và Thánh Thần, yêu mến là trung tâm nối kết những ai thuộc về Đức Kitô.

Sống sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười ở hẹp người chê. Sống như thế nào gọi là có tình có nghĩa, sống như thế nào để minh chứng : tôi đang yêu mến Thầy Giêsu ? Con không chê cha mẹ khó, chó không chê gia chủ nghèo, liệu câu thành ngữ đó có thôi thúc chúng ta biết đến truyền thống yêu thương, trung thành với gia đình không ? Với khả năng tự nhiên, người ta sẽ cho cuộc sống ở đời thật mông lung và phức tạp, đâu phải dễ gì mà chúng ta biết sống chữ tình chữ hiếu trước phận làm con. Cùng một số kiến thức, dễ gì chúng ta biết cư xử tốt đối với mọi người. Trong tâm tình thầy – trò, Đức Giêsu khai mở cho các môn đệ về vị trí hoạt động của Thánh Thần sẽ đến và ở với những ai yêu mến Thầy.

Người đời vẫn quan niệm rằng : ngọc không mài không sáng, người không học không thông. Ở trong Đức Giêsu mà không biết sống mến yêu, không thể gọi là học trò, không đáng để gọi là môn đệ, và cũng không thể nhận biết Đấng phù trợ là Thánh Thần sẽ đến. Đức Giêsu thấy và biết các môn đệ không thể sống mà thiếu tình yêu, Ngài ban tình yêu cho các môn đệ, khác với tình yêu của thế gian. Nếu không ở trong Đức Giêsu, người ta sẽ cho rằng yêu là khổ, không yêu là lỗ; thực ra tình yêu thật không có lỗ hay khổ, tình yêu của thế gian mới có lời có lỗ.

“Ai yêu mến Thầy, thì giữ lời Thầy, và Cha thầy sẽ yêu mến người ấy”. Tình yêu Đức Giêsu nói đến quả là chặt chẽ, đến độ Thánh Thần mà Chúa Cha sai đến sẽ nhắc nhớ và dạy dỗ anh em mọi điều. Tính vững chắc ấy còn có sự hiện diện của tình yêu Ba Ngôi, Các Ngài sẽ ở mãi trong những ai yêu mến và tuân giữ Lời của Đức Kitô. Hôm nay đây, những người yêu mến Thầy Giêsu, tuân giữ Lời Thầy Giêsu không những ở trong nhà thờ, vì mọi hoạt động yêu thương đều có Thánh Thần hướng dẫn phục vụ.

Trong khung cảnh yêu mến hiệp thông, Chúa Giêsu còn hứa để lại bình ban, ban tặng bình an cho các môn đệ, cho những ai sống giới luật yêu thương. Bình an của Chúa khác với bình an thế gian, nghĩa là bình an được xây dựng bằng tình bác ái, bằng việc tuân giữ Lời Thầy và có tình yêu của Ba Ngôi. Nếu dựa trên quy luật tiền trao cháo múc, người ta chỉ mua được bình an của thế gian, thứ bình an được trao đổi bằng tiền, bỏ tiền ra thuê vệ sĩ hầu tìm lấy bình an tạm thời. Chúa Giêsu nhắc nhớ “tuân giữ Lời Thầy” mới đúng là đích điểm của người môn đệ, bình an thật là nghe được Thần Chân Lý chỉ dạy, hiểu và sống tinh thần của Thầy Giêsu.

Ngày hôm nay, nhiều người đã biết đặt ra những câu châm ngôn sống rất hay : giầu có không phải là những gì bạn có trong tài khỏan, ngân hàng, mà là những gì bạn có trong tim. Rất có thể mỗi chúng ta đã từng khẳng định tôi yêu mến Thầy Giêsu, tôi hằng tuân giữ Lời Thầy, nhưng tâm hồn tôi chưa bình an, hoặc là tôi mới yêu bằng môi miệng, hoặc tôi mới có thứ bình an tạm thời của thế gian. Học đi đôi với hành, là áp dụng đức ái Kitô vào từng hoàn cảnh sống của mỗi người, học và hành theo mẫu gương Đấng Kitô không phải là mưu cầu danh lợi.

Chúa Giêsu mãi là Thầy, là chuẩn mực yêu thương, mỗi người theo Chúa làm môn đệ không thể thụ động, dù tài năng đức độ thời giờ còn giới hạn. Nói một đàng, làm một nẻo, biết yêu mến Thầy mà không tuân giữ lời Thầy, thì mới chỉ yêu mình, chỉ là tình yêu một chiều của thế gian. Hiểu, biết, và sống, luôn là dấu chỉ của người trưởng thành, tình yêu và ơn bình an là sự hòa hợp người môn đệ Đức Kitô trong Chúa Cha và Thánh Thần. Thao thức của Chúa Giêsu là mọi người trở nên môn đệ của Ngài, biết vâng nghe Thánh Thần tình yêu hướng dẫn và sống trọn vẹn tinh thần người môn đệ yêu mến như Thầy Giêsu. Amen.

 

.

CHÚA THÁNH THẦN TIẾP NỐI CON ĐƯỜNG THƯƠNG XÓT

Jos. Vinc. Ngọc Biển

Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.

Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.

Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.

Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.

Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.

  1. Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn

Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính  háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian…. những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.

Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm… đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!

Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu”(Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và:“Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).

  1. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót

Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa… là điều hết sức quan trọng.

Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông:  “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).

Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì: “Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều  Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).

Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi  nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).

Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).

Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực…! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!

Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!

Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.

Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.

Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy.  Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.

 

.
MÔN ĐỆ CỦA TÌNH YÊU

Dã Quỳ

Trong cuộc sống của chúng ta hàng ngày ít nhiều cũng có những chia ly. Cuộc chia ly nào cũng để lại những dấu ấn, những tâm tư vui buồn lẫn lộn, ưu sầu hay lo lắng và tác động không nhỏ vào đời sống tự nhiên lẫn siêu nhiên của chúng ta. Những cuộc chia ly còn cho chúng ta kinh nghiệm sống mà ta gọi là “những bài học không có trong sách giáo khoa.”

Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu cũng có một cuộc chia ly với các môn đệ. Trước giờ chia ly ấy, Chúa đã nhắn nhủ với môn đệ của Người những lời tha thiết, mà Thánh Gioan gọi là “Những lời cáo biệt.” Chúa  an ủi, động viên, trao ban bình an…và nhất là Chúa khẳng định với môn đệ và cũng là với mỗi Kitô hữu rằng dù ra đi, nhưng Chúa sẽ mãi ở với mỗi trái tim nào có tình yêu Chúa và tuân giữ Lời của Người: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”(Ga 14,23). Đây là một bảo đảm thật tuyệt vời cho môn đệ và tất cả chúng ta.

-“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy.” Tình yêu là khởi điểm giữa Thiên Chúa và tạo vật, giữa Chúa Giêsu và con người. Tình yêu cũng là khởi điểm của đời sống người môn đệ và của mỗi Kitô hữu. Tình yêu là trường học, nơi đó chúng ta học biết về Thiên Chúa mà cụ thể là Chúa Giêsu và họa lại vẻ đẹp, lời nói, hành động của Người; vì “Thiên Chúa là Tình Yêu.”

Những lời cáo biệt của Chúa Giêsu được khởi đầu bằng tình yêu. Chúa đã diễn tả Tình yêu của Người với nhân loại và đặc biệt Người tỏ cho môn đệ biết Người yêu thương họ dường nào, để rồi môn đệ chỉ còn cách đáp trả tình yêu. Chúa đã yêu thương tôi vô bờ bến, tôi cần phải đáp lại bằng cách yêu mến Người. Vì yêu mến Chúa, tôi tuân giữ những Lời Chúa dạy bảo và giới răn Chúa truyền ban. Đó là cách cụ thể mà tôi chứng minh lòng yêu mến Chúa. Vì yêu là hiểu biết nên tôi học hỏi về Chúa qua Lời của Người. Vì yêu là hoạt động nên tôi tuân giữ, thực hành, sống Lời Chúa dạy trong đời sống cụ thể của tôi. Và đây là điều kiện để tôi được Thiên Chúa đến, cư ngụ.

-“Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.”Thiên Chúa tỏ mình cho những ai tin vào Người. Nhưng Chúa còn đến và ở lại trong những con tim yêu mến và tuân giữ Lời Người. Chúa chỉ đến và ở lại nhà những ai có tình yêu và sẵn sàng mở cánh cửa cho Người; những ai đón nhận, tuân giữ Lời của Chúa; những ai yêu mến Người cách tự do. Chúa đến và ở lại không phải trong Đền Thờ  bằng gỗ đá, nhưng là trong mỗi Kitô hữu trung thành nghe và thực thi Lời Chúa. Chính vì thế, ta không cần tìm Chúa ở đâu xa. Chúa hiện diện ở đây trong bạn, trong anh, trong tôi nếu chúng ta biết yêu mến Chúa, cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa dạy.

Chúa không dùng quyền ép buộc chúng ta nghe, tuân giữ Lời Chúa và cũng không muốn thực hiện những dấu lạ hiển hách gây ấn tượng để ép ta gắn bó với Người. Chắc chắn Chúa rất muốn tỏ mình cho tất cả mọi người, nhưng Người tôn trọng tự do của mỗi chúng ta, vì: Tình yêu không thể bị ép buộc! Thế nên Chúa ủy thác cho các môn đệ và chúng ta, những Kitô hữu của Người làm môi giới cho tình yêu. Chính đời sống mang đậm nét tình yêu của ta đối với Chúa và lòng yêu thương, phục vụ, bác ái, tha thứ, …của ta đối với tha nhân sẽ làm cho Chúa được tỏ hiện và biểu lộ với tất cả những ai chưa biết, chưa tin và còn sống xa Chúa. Có Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ luôn hướng dẫn trợ giúp Giáo hội và mỗi Kitô hữu thực thi sứ mệnh.

-“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.” Bình an của Chúa ở trong trái tim Người. Chúa là người Bình an và là người mang Bình an như lời Ngôn sứ Isaia nói “Danh hiệu của Người là Hoàng Tử Bình An.”(x. Is 9,5) Bình an lan tỏa trên khuôn mặt, trong thái độ và lời nói của Chúa. Bình an là chính Chúa nên khi ban cho môn đệ, Chúa đã nói “Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng.” Bởi vì bình an của thế gian đến từ con người và chắc chắn không bền vững.

Chúa thấy rõ trong thế gian, môn đệ của Người sẽ gặp bao hỗn tạp làm họ chao đảo, lo lắng! Và sự thật lúc này đây, âm mưu của Giuđa bán nộp Thầy; chối Thầy của Phêrô và cái chết của Thầy được loan báo đang làm cho môn đệ xao xuyến, hãi hùng! Chính vì thế, Chúa động viên, an ủi, đem lại nghị lực cho môn đệ. “Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi!”  Chúa yêu thương môn sinh nồng nàn và tình yêu của Chúa bao phủ các ông nên đừng sợ hãi, vì “Tình yêu không biết đến sợ hãi” và  “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.”(1Ga 4, 18.16) Vì thế, Chúa ra đi nhưng vẫn luôn hiện diện trong trái tim môn đệ. Chúa thật thân tình, yêu thương, cảm thông với môn đệ của Người. Cùng nhịp thở, cùng nhịp yêu và thấu hiểu cuộc sống cũng như những khó khăn thử thách mà mỗi môn đệ và mỗi Kitô hữu hôm nay sẽ phải đối diện trong cuộc đời.

Vậy hãy để Chúa đong đầy trái tim chúng ta tình yêu và bình an của Chúa khi chính chúng ta biết đáp lại tình Người bằng lòng yêu mến Chúa chân thành và hăng say tuân giữ Lời Chúa dạy; yêu thương tha nhân, hy sinh quên mình phục vụ trong khiêm tốn và nhẫn nại tha thứ vì căn cước của Kitô hữu là Tình yêu. Như thế, chúng ta sẽ thật hạnh phúc có Chúa ở cùng để rồi ta được ở lại trong tình yêu và trở thành môn đệ của tình yêu.

Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con trở thành Kitô hữu- là môn đệ của Chúa. Xin đổ tràn trong trái tim chúng con tình yêu và bình an của Chúa, tình yêu và bình an mà chúng con và cả thế giới luôn mong đợi. Amen.

 

.

VƯỢT QUA CƠN KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Ga 14,23-29

(23) Đức Giêsu đáp: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (24) Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. (25) Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. (26) Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (27) Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. (28) Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. (29) Bây giờ, Thầy nói với anh em, trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra”.

  1. Ý CHÍNH:

Bài Tin mừng hôm nay trích trong bài từ biệt các Tông đồ của Đức Giêsu tại Nhà Tiệc Ly và gồm hai điểm chính như sau:

– THỂ HIỆN LÒNG MẾN: Đức Giêsu đòi các Tông đồ phải chứng tỏ lòng yêu mến Người bằng cách tuân giữ Lời Người truyền dạy, nhờ đó họ sẽ được kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi và sẽ nhận được ơn Thánh Thần trợ giúp.

– HỨA BAN BÌNH AN VÀ NIỀM VUI: Đức Giêsu cũng hứa sẽ ban bình an của Người cho các Tông đồ. Bình an thực sự và ngay trong tâm hồn. Nhờ đó, các ông sẽ không còn bối rối sợ hãi khi gặp phải những cơn bách hại xảy ra. Vì Người hứa sẽ ở lại với các ông luôn mãi.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 23-24: +Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy: Đức Giêsu đòi các môn đệ phải chứng tỏ lòng yêu mến Người bằng hành động cụ thể chứ không bằng lời nói hay tình cảm suông. Hành động chứng tỏ lòng yêu mến là tuân giữ giới răn Người truyền. +Cha Thầy và ThầyCha Thầy và Thầy ám chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, vì Chúa Thánh Thần chính là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con nhiệm xuất ra.

– C 25-26: +Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy: Đức Giêsu loan báo sẽ xin Chúa Cha sai Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ đến với các Tông đồ để Người sẽ ở lại với các ông luôn mãi (x. Ga 14,16). +Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em: Sứ mệnh của Thánh Thần là dạy cho các môn đệ tất cả những gì Đức Giêsu đã bày tỏ nhưng lúc đó các ông chưa thể lãnh hội được hết ý nghĩa (x. Ga 13,7).

– C 27-29: +Thầy để lại bình an cho anh em: Người Do thái thường chào nhau bằng lời chúc “Bình an”. Sự bình an này đồng nghĩa với không có chiến tranh… Còn sự bình an của Chúa Giêsu ban ở đây thuộc lãnh vực đức tin siêu nhiên. có nghĩa là được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết và được hưởng ơn cứu độ. +Bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy: Xét về bản tính Thiên Chúa thì Đức Giêsu ngang bằng Chúa Cha. Nhưng xét về tư cách Đấng Thiên Sai, thì Đức Giêsu là “Ngôi Lời đã hóa nên người phàm”(Ga 1,14) nên không thể cao trọng bằng Thiên Chúa là Đấng đã sai Người (x Ga 14,28b). Thánh Phaolô đã nói về điều này như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hòan tòan trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu…” (Pl 2,6-11).

  1. CÂU HỎI:

1) Đức Giêsu đòi môn đệ làm gì để chứng tỏ lòng yêu mến đối với Người ? 2) Ai yêu mến Người thì sẽ được Thiên Chúa ban thưởng thế nào ? 3) Đức Giêsu hứa ban Chúa Thánh Thần đến nhằm mục đích gì ? 4) Sự bình an do Đức Giêsu hứa ban giống hay khác với lời chào chúc bình an của người Do thái ? 5) Tại sao Đức Giêsu lại nói : ”Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” đang khi giáo lý dạy ba Ngôi Thiên Chúa bằng nhau và không Ngôi nào lớn hơn !

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: “Thầy đi thì ích lợi cho anh em” (Ga 16,7).

2. CÂU CHUYỆN:

1) CÁCH LY ĐỂ CON PHÁT TRIỂN TRƯỞNG THÀNH HƠN:

MERIƠN OÉT (Marion West) là một bé gái 4 tuổi. Ngày nào bé cũng vui mừng nhảy nhót khi thấy mẹ từ chỗ làm tới đón về nhà ăn trưa. Vì bận phải đi làm việc gần nhà nên từ sáng sớm, mẹ cô bé đã đem con nhờ người hàng xóm tốt bụng trông giúp. Rồi đến trưa bà tranh thủ ra khỏi chỗ làm để đi đón con, và hai mẹ con hối hả trở về nhà cùng ăn trưa và vui đùa bên nhau. Rồi đến một giờ chiều, bà lại phải từ giã bé để đến chỗ làm tiếp tục công việc. Sau đó, bé MERIƠN thường buồn tủi ngồi im lặng hàng giờ đồng hồ. Thế rồi, theo lời khuyên của chuyên gia tâm lý, một ngày kia, mẹ bé đã thôi không về nhà vào mỗi buổi trưa đón bé nữa. Trưa hôm ấy, bé MERIƠN buồn rầu không thiết ăn uống. Em cứ thắc mắc tại sao mẹ lại không về nhà ăn trưa và chơi đùa với em? Nhưng rồi lâu ngày bé quen dần và trở lại vui vẻ như trước.

Nhiều năm sau đó, MERIƠN mới được mẹ kể cho biết bấy giờ hàng ngày bà vẫn trở về nhà, nhưng không ghé đón cô. Bà thường ngồi bên cửa sổ nhà bếp vừa ăn trưa vừa nhìn con vui chơi với các bạn bên nhà hàng xóm. Bà ao ước được chạy lại ôm ấp cô cho thỏa lòng. Nhưng vì muốn cho con trưởng thành, bà đành nén lòng lại, để con quen dần với sự vắng mặt của bà mà phát triển tâm lý bình thường như bao trẻ khác. Giờ đây khi đã khôn lớn, MERIƠN mới hiểu lý do tại sao mẹ cô lại làm như thế, và cô lại càng biết ơn mẹ nhiều hơn.

  1. CẦN TỰ PHẤN ĐẤU ĐỂ VƯỢT QUA KHỦNG HOẢNG ĐỨC TIN:

Một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm ngày kia đã nhìn thấy một chiếc kén của loài bướm lạ trong khu vườn sau nhà. Ông ta liền ngắt cành cây có chiếc kén kia mang vào trong nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy bên trong chiếc kén có sự nhúc nhích, nhưng con bướm vẫn chưa thể phá được chiếc kén để bò ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta cũng ghi nhận được sự kiện tương tự và không thấy có sự tiến bộ nào. Thế là ông quyết định dùng mũi dao lam rạch một đường trên chiếc kén giúp chú bướm bò ra. Tuy nhiên, ông rất thất vọng vì chú bướm sau đó chỉ sống được một lúc rồi lăn ra chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã giải thích cho ông hiểu: Thiên nhiên đã sắp xếp cho con bướm phải đấu tranh để thoát ra khỏi chiếc kén bao bọc nó, vì chính nhờ sự đấu tranh mà chú bướm mới phát triển toàn diện để sinh tồn khi ra ngoài.

Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén sẽ giúp cho chú bướm dễ dàng thoát ra hơn. Nhưng ông không biết rằng làm như thế là ông đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.

3.THẢO LUẬN: 1) Khi gặp cơn khủng hoảng về đức tin (chán ngại cầu nguyện, lười biếng làm các việc đạo đức bác ái…), bạn cần làm gì để vượt qua cơn khủng hoảng ấy? 2) Bạn sẽ làm gì để lời chúc bình an cuối lễ được ứng nghiệm trong đời sống thường ngày ?

4. SUY NIỆM:

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay ghi lại lời Chúa Giêsu tâm sự với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly trước khi Người lìa bỏ các ông ra đi chịu khổ nạn. Tin Mừng gồm mấy điểm chính như sau:

1) Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần:

Khi nghe Đức Giêsu tiên báo việc Người sắp ra đi chịu khổ nạn rồi mới được Chúa Cha tôn vinh (x Mc 10,33-34), các môn đệ rất đỗi buồn phiền chán nản. Đức Giêsu đã phải an ủi khích lệ các ông khi cho biết việc Người ra đi là để dọn chỗ rồi sau đó Thầy trò lại sẽ lại được đòan tụ với nhau, nên lẽ ra các ông phải vui mừng vì Người được Chúa Cha tôn vinh. Hơn nữa các ông sẽ không bị mồ côi vì Chúa Cha sẽ sai Chúa Thánh Thần đến an ủi và phù giúp các ông chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời. Quả thật sau khi Chúa Giêsu thăng thiên, các môn đệ không còn thấy Người hiện ra nữa. Nhưng Chúa Thánh Thần đã được sai đến vào lễ Ngũ Tuần đến thay Người giúp các ông chu tòan sứ vụ loan Tin Mừng như Người đã hứa: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14, 26).

Chúa Thánh Thần giống như một thầy giáo phụ đạo, sẽ soi sáng và giúp các môn đệ Đức Giêsu hiểu rõ lời Người dạy và giúp các ông chu tòan sứ vụ làm chứng nhân cho tình thương của Người đến tận cùng trái đất (x Ga 15,26-27).

2) Ích lợi của việc Đức Giêsu ra đi:

Sau khi hoàn tất công việc được Chúa Cha trao phó, Đức Giêsu đã trao lại sứ vụ cứu độ trần gian cho Đấng Bảo Trợ khác là Chúa Thánh Thần. Dù rất yêu thương các môn đệ và luôn muốn ở cùng các ông, nhưng Đức Giêsu vẫn quyết tâm ra đi, vì điều đó mang lại lợi ích thực sự cho các ông: nó vừa giúp các ông trưởng thành về đức tin hơn, lại vừa giúp các ông mở lòng cầu xin ơn Thánh Thần để có thể chu tòan sứ vụ:

– Sứ vụ được sai đi (x Ga 20,22-23).

– Sứ vụ phải loan báo Tin Mừng và dạy người ta giữ các giới răn của Người (x Mt 28,19-20).

– Sứ vụ phải làm chứng cho tình thương của Người “cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

3) Chúng ta phải làm gì để giữ vững đức tin khi gặp gian nan thử thách? :

Có những lúc, chúng ta cảm thấy như bị Thiên Chúa bỏ rơi, rồi sinh ra chán nản, không còn thiết tha cầu nguyện hằng ngày, không còn đi chầu Chúa Thánh Thể… Có những lúc đức tin của chúng ta trở nên yếu đuối, không thấy hứng thú với các sinh hoạt đòan hội như hội họp, làm công tác thăm viếng, quét dọn vệ sinh nhà Chúa, tập hát… Có những lúc chúng ta có cảm tưởng bị Thiên Chúa bỏ rơi, giống như Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn đã thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).

Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương và không bao giờ bỏ rơi chúng ta, nhưng Ngài biết đã đến lúc chúng ta cần bắt đầu một giai đoạn mới để được biến đổi nên trưởng thành hơn. Đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng giá trị của sự cầu nguyện không hệ tại ở việc có cảm thấy sốt sắng hay không. Trong những lúc tâm hồn như bị chai cứng, lại là lúc chúng ta càng phải cầu nguyện nhiều hơn, và lời cầu nguyện khi ấy lại ytở nên một lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Vì bấy giờ chúng ta cầu nguyện do lòng mến Chúa thôi thúc như lời Chúa Giêsu: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

4) Áp dụng thực hành:

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một sự dâng hiến, một sự cậy trông phó thác hoàn toàn cho Chúa quan phòng, một lời thưa “xin vâng ý Chúa Cha” như Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu khi xưa: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh với các gian khổ gặp phải để nhờ đó có thể lớn lên về đức tin. Trong những giờ phút đen tối ấy, chúng ta hãy ý thức rằng: Chúa Giêsu luôn ở bên và ở trong lòng chúng ta. Người vẫn tiếp tục đổ ơn Thánh Thần của Người để nâng đỡ chúng ta, giúp đức tin của chúng ta ngày một vững mạnh để chu toàn được sứ vụ làm chứng tá cho Người.

Tóm lại: Đức tin chân chính là một tâm tình dâng hiến, là một thái độ phó thác cậy trông vào Chúa quan phòng, là một lời thưa “xin vâng” thánh ý Chúa Cha như Chúa Giêsu và Thánh Mẫu Maria đã nêu gương cho chúng ta (x. Mt 26,39; Lc 1,38). Do đó khi rước lễ hay chầu Mình Thánh Chúa, mà chúng ta không cảm thấy sự hiện diện của Chúa, thì hãy làm như bài hát chầu Mình Thánh Chúa: “Ta hãy lấy đức tin bù lại, nếu giác quan không cảm thấy gì”. Bấy giờ đức tin của chúng ta sẽ được Chúa chúc phúc, như lời Chúa Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).

  1. NGUYỆN CẦU:

– LẠY CHÚA GIÊSU. Trong Tin mừng hôm nay, Chúa đã hứa rằng: sau khi Chúa ra đi thì Đấng Bảo Trợ khác là Thánh Thần sẽ được Chúa Cha sai đến, để Người sẽ tiếp tục dạy dỗ và giúp các môn đệ nhớ lại mọi điều Chúa đã truyền dạy trước đó. Chính Thánh Thần sẽ giúp Hội thánh, trong đó có mỗi người chúng con thêm lòng yêu mến Chúa để thực hành giới răn quan trọng nhất là “mến Chúa yêu người”.

– LẠY CHÚA. Cho tới bây giờ hầu như chúng con mới chỉ yêu thương tha nhân bằng sự cầu nguyện, bằng lời nói suông hơn là việc làm. Xin Chúa hãy đổ Thần Khí canh tân lòng trí chúng con. Xin cho chúng con ý thức lòng mến Chúa phải được thể hiện bằng hành động cụ thể như: năng nghĩ đến người bên cạnh, luôn quên mình hy sinh phục vụ tha nhân, biết quảng đại chia sẻ giúp đỡ cho người nghèo đói có cơm ăn áo mặc, các bệnh nhân có tiền thuốc thang chữa trị… Nhờ đó, những người đau khổ sẽ tìm được sự cảm thông an ủi, người đang đi lạc được dẫn dắt trở về nẻo chính đường ngay.

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

.

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_C

Lm. Antôn

Có một câu chuyện về một cố vấn chính trị nổi tiếng cho một vị tổng thống. Sau một vụ xì căng đan, bị truy tố và tống giam vào tù.  Trong tù ông đã trải qua một sự biến đổi tinh thần sâu đậm.  Ông đã chân thành cam kết cuộc đời còn lại của ông cho Chúa Giê-su.

Một thời gian ngắn sau khi bị tù, ông thắc mắc tự hỏi “Tại sao Chúa bắt ông chôn vùi cuộc đời vào tình cảnh này, sau mấy lần “tái sinh” và “thay đổi” trong những lần tham dự giảng của các mục sư đạo Tin lành.” Ông cảm thấy cuộc đời không còn ý nghĩa, giá trị, và bị Chúa bỏ rơi.

Một hôm tình cờ, ông dở cuốn Kinh thánh và đọc một đoạn trong thư của Phao-lô gởi người Do thái về Con Thiên Chúa, là Chúa Giê-su Ki-tô được sai xuống trần và sống giữa con người để mang ơn cứu độ đến cho nhân loại.  Thình lình ông cảm thấy tình trạng của ông giống như sứ mệnh của Chúa nơi trần gian.  Ông tự nghĩ phải chăng đây là thánh ý Chúa sai ông vào tù để sống giữa và mang hy vọng đến cho những người tù đày.  Ông cảm thấy Chúa đã cho ông biết thánh ý của Người kêu gọi ông trở thành người mục vụ cho tù nhân trong những nhà giam. Sau khi ra tù, ông đã khởi xướng một phong trào giúp đỡ tù nhân, cung cấp những cơ hội tìm việc làm, giúp đỡ tinh thần, tư vấn cho tù nhân và gia đình trong thời gian bị tù và sau khi ra tù.

Ông bà anh chị em thân mến.  Câu truyện trên đây giúp chúng ta hiểu rõ điểm quan trọng trong lời tâm sự của Chúa Giê-su với các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay.  Các ông xao xuyến và sợ hãi khi nghe Chúa nói sẽ từ biệt các ông một thời gian.  Các ông không biết cuộc đời của mình sẽ ra sao khi vắng bóng, không có sự hiện diện của Chúa.  Các ông tự hỏi cuộc đời của các ông còn có ý nghĩa và giá trị gì hay không?  Tại sao Chúa phải rời bỏ các ông, khi các ông vừa mới bỏ gia đình đi theo Chúa?  Tại sao Chúa để cho sự kiện này xảy ra khi các ông vừa mới trao cả cuộc đời cho Chúa?

Thế nhưng như chúng ta đã biết Chúa hứa sẽ sai Thánh Thần đến và giúp các ông thực hiện được những điều mới, tốt lành, to lớn và trọng đại hơn sức và lòng các ông mong muốn, cho dù không có Chúa hiện diện bên các ông.  Đây là điều thật quan trọng cho chúng ta, và điều quan trọng đó là: nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta cảm thấy hình như Chúa bỏ rơi chúng ta, hình như Chúa để chúng ta xao xuyến và sợ hải một mình, khi phải đối diện với những khó khăn, thử thách và nguy hiểm.

Tôi xin đơn cử những thí dụ sau đây.  Có những lúc khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta cảm thấy có nguồn an bình, vui mừng và hy vọng.  Nhưng cũng có những lúc, đặc biệt là những lúc khó khăn hay bây giờ, chúng ta không tìm được nguồn an bình và vui mừng trong sự cầu nguyện.  Có những lúc niềm tin của chúng ta vững chắc và mạnh mẽ có thể “chuyển dời” núi non, nhưng bây giờ không thể hay khó di chuyển dù chỉ là một cái ly giấy hay một cái rác, hay một tánh xấu.  Đã có những lúc chúng ta rất bác ái và quảng đại, có những lúc chúng ta rất hăng say, sốt sắng và nhiệt tình tham gia, giúp đỡ người khác hay giáo xứ, và chúng ta cảm thấy vui thích và thoải mái, nhưng bây giờ nâng cánh tay lên cũng khó và nặng nhọc, không có sự thúc đẩy và hứng thú.  Hình như Chúa đã bỏ rơi để mặc chúng ta một mình. Chúng ta tự hỏi tại sao Chúa lại để cho những sự kiện này xảy ra trong đời sống đức tin, đời sống Ki-tô hữu  chúng ta?  Chúng ta cảm thấy những sự kiện này không mang lại những ơn ích gì, hay tốt đẹp gì cho đời sống hiện tại chúng ta.

Ông bà anh chị em thân mến.  Thật sự, Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta.  Có lẽ Chúa chỉ vắng mặt một thời gian ngắn, hay chúng ta không nhận ra Chúa thôi.  Và lúc này là thời điểm để chúng ta thăng tiến và trưởng thành về mặt tinh thần, về phương diện đức tin.  Chúa hiện diện với chúng ta qua một phương cách mới, và muốn chúng ta sống một đời sống mới như các tông đồ. Thí dụ, Chúa muốn dạy chúng ta hy sinh thời giờ tham dự Thánh lễ thờ phượng kính mến Chúa, khi chúng ta thấy lòng chúng ta khô khan và nguội lạnh.  Chúa muốn dạy chúng ta cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy không có gì xảy ra qua sự cầu nguyện theo ý chúng ta.  Thật sự, lời cầu nguyện tốt lành và chân thành nhất xảy ra khi trái tim của chúng ta nguội lạnh và cảm thấy không có gì xảy ra hay không tiếp nhận được gì.  Vì đây chính là sự cầu nguyện với niềm tin, với đức tin chân thật. Ngoài ra, Chúa còn muốn dạy chúng ta biết đức tin không phải chỉ là một cảm nghiệm, mà còn là một sự cam kết, là một sự phó thác cuộc sống của chúng ta cho Chúa, và là một sự “xin vâng” theo thánh ý Chúa như Đức Mẹ Maria, mà chúng ta mừng kính trong Tháng 5 này, vì Chúa là Chúa của chúng ta. Cuối cùng, Chúa muốn dạy chúng ta bác ái và quảng đại, hy sinh tham gia và nhiệt thành giúp đỡ người khác hay giáo xứ không phải vì vui mừng và thích thú từ những công việc đó, như từ chính lời Chúa Giê-su kêu gọi, dạy và thúc đẩy chúng ta.

Nếu vì lý do hay hoàn cảnh nào đó làm cho chúng ta thắc mắc tự hỏi tại sao Chúa bỏ rơi chúng ta?  Hay như tình cảnh các tông đồ, tại sao Chúa từ biệt chúng ta?  Lý do đơn giản: Chúa muốn đức tin của chúng ta lớn mạnh, hay dẫn đức tin chúng ta đến một sự trưởng thành trong ân sủng và bình an của Chúa.  Hay nói cách khác, Chúa muốn đức tin của chúng ta bắt đầu lớn lên trong đường lối mà chúng ta không nghĩ có thể hiện thực được.  Chúa muốn ban cho chúng ta một đường lối sống mới, một cách thức sâu sắc hơn trong sự cầu nguyện, trong cuộc sống đức tin, trong việc bác ái và trong sự hy sinh tham gia giúp đỡ người khác, để đời sống Ki-tô hữu của chúng ta luôn sống trong tình yêu và bình an của Chúa.

Ông bà anh chị em thân mến. Chúng ta nhận thấy chúng ta đang sống trong một quốc gia giàu có và tân tiến nhất thế giới, gần như có mọi sự.  Nhưng tiếc thay nhiều người lại không có một điều rất quan trọng và rất cần thiết cho cuộc sống, đó là bình an trong tâm hồn. Có đầy đủ dư thừa về vật chất như tiền bạc, nhà cửa và gia đình, nhưng lại rất lo lắng, sợ hãi và bất an.  Cho nên trong thâm tâm, chúng ta luôn khao khát tìm bình an. Nhưng sự bình an chân thật của Chúa chỉ đến từ sự liên hệ mật thiết với Chúa, từ Bí tích Thánh Thể và từ sự sống lời Chúa dạy mà thôi. Chúa  cho chúng ta biết ai yêu mến Chúa  thì giữ giới luật Chúa dạy, và Chúa ở trong chúng ta, và chúng ta ở trong bình an của Chúa. Thật vậy, bình an chân thật chỉ tìm thấy nơi và từ Chúa Giê-su, và cũng là quà tặng cao quý của Chúa Giêsu ban cho chúng ta, giữa những sóng gió và khó khăn trong cuộc sống, như Chúa đã nhắc nhở: “Thầy nói với các con những điều ấy, để trong Thầy các con  được bình an. Trong thế gian, các con sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).  Xin Chúa ban bình an chân thật của Chúa để trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta luôn trung thành, sống thánh ý và lời Chúa dạy bảo.

 

.

BÌNH AN NỘI TÂM

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Trong Thánh Kinh, bình an (salom) không có nghĩa là thoát ly khỏi mọi đớn đau, lo sợ. Nói đến bình an, chúng ta hay nghĩ, đó là cuộc sống thoải mái, không đụng chạm rắc rối hay đối đầu với đau khổ.

Ngược lại, hôm nay, chính lúc Chúa đang từ giã các môn đệ để đi vào cuộc vượt qua, Chúa lại nói: “Thầy ban cho các con bình an của Thầy”. Bình an của Chúa là bình an trong tâm hồn, đó là ơn bình an nội tâm.

Giữa lúc môn đệ rơi vào bi quan nhất, giữa lúc các ông sắp phải đối diện với những mất mát tận cùng, Chúa ban ơn bình an của tâm hồn để các ông đủ can đảm mà chiến thắng.

Ơn bình an này cần thiết biết bao nhiêu cho đoàn môn đệ của Chúa. “Bình an của Thầy” là như thế. Bình an ấy không thể nào thế gian có thể có được để mà ban tặng. Đó là bình an mà thế gian phải tìm tòi.

Thực tế, bình an của thế gian thường là thứ bình an do tránh né đương đầu với khó khăn, do chạy trốn những bất ổn mua lấy sự yên thân hơn là tạo được một tâm hồn bình an. Bình an đó không bền vững, nhưng chóng vánh. Chỉ có bình an thật sự trong tâm hồn mới là bình an cần thiết cho cuộc đời chúng ta.

Bình an mà Chúa ban cho chúng ta là bình an chiến thắng của nội tâm con người. Nó là kết quả của bao nhiêu cam go, dằn vặt, chấp nhận, và chịu đựng mới có thể có được.

Bình an ấy chính Chúa Giêsu đã trải qua trên thánh giá. Đó là bình an của tình yêu dâng hiến và đón nhận, cả đến chấp nhận. Thứ bình an mà nhìn bên ngoài chỉ thấy toàn thương đau ô nhục, nhưng bên trong nội tâm là trọn một lòng phó thác trong tay Thiên Chúa.

Bình an của Chúa Giêsu trên thánh giá trở thành nguồn bình an nội tâm của chúng ta. Bên ngoài, trước mắt mọi người, có khi chúng ta phải cam chịu, phải đối diện nhiều bất trắc, nhưng bên trong tâm hồn, chúng ta biết mình luôn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa, tình yêu con người.

Chúng ta biết mình thuộc về Chúa. Hãy hiến dâng cả cuộc đời, và hiến dâng tất cả mọi diễn biến xảy ra trong trọn cuộc đời ấy, để nội tâm chúng ta ngày càng trưởng thành, ngày càng nên một với thánh ý Thiên Chúa hơn.

Một khi đã có được tâm hồn bình an, không có bất cứ một hoàn cảnh nào của cuộc sống trần thế có thể cướp mất được. Bình an của tâm hồn hoàn toàn độc lập với mọi hoàn cảnh bên ngoài.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con bình trong nội tâm mình, để bình an nội tâm trở thành sức mạnh giúp chúng con chiến thắng mọi hoàn cảnh của đời sống, nhất là những lúc chúng con gặp phải bi thương, chán nản. Xin ban cho chúng con bình an của Chúa. Amen.

 

.

BÌNH AN CỦA CHÚA

Huệ Minh

Đã lâu lắm rồi, cách riêng người Việt Nam không còn nghe súng đạn, không còn ngửi mùi thuốc súng nữa thế nhưng thử hỏi con người có được sự bình an gọi là bình an bình thường hay không ? Con người ngày mỗi ngày vẫn mong đi tìm sự bình an, đi tìm hạnh phúc của đời mình.

Cuộc sống của mỗi người là hạnh phúc hay khốn khổ tùy thuộc vào từng suy nghĩ, lời nói, việc làm của mình. Có những ngày ta thấy thật phấn khởi hân hoan khi vừa mở mắt thức giấc, muốn cùng muôn tạo vật cất lời ngợi ca; và khi chiều tà, lòng ta đầy hạnh phúc khi cất lên lời tạ ơn. Nhưng … làm sao tránh được những đêm trường giăng mắc cả khi bình minh sáng chói. Nhìn đâu cũng thấy ảm đạm, chán chường bởi trong lòng ta mất niềm tin tưởng, cảm thấy bế tắc trước những khó khăn, những áp lực liên tục xảy đến. Ta cầu xin cho thời gian qua mau để đem đi nỗi buồn bực nhưng kết quả gần như ngược lại. Khi ấy, ta đã đánh mất bình an.

Bình an thật sự trong tâm hồn thật quý giá, vậy bạn có biết thế nào là bình an đích thực không? Bình an không có nghĩa là được thanh thản trong môi trường tuyệt vời, như ý muốn. Bình an đích thực là khi bạn cảm thấy lòng mình không lay động trong những rộn ràng, sóng gió cuộc đời! Bình an cũng không phải có ở một gia đình giàu có, sung túc, quyền lực cao sang ! Bình an không phải có nơi sở hữu một chiếc xe hạng sang hay có được những món đồ cao cấp.

Có một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.

Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.

“Ta chấm bức tranh này! – Nhà vua công bố – Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên”.

Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.

Bình an ấy ở đâu? Bình an ở có ở nơi tĩnh lặng thật sự mới có sự bình an! Nơi đó chỉ có ta tồn tại hữu hình. Và khi ta ý thức mình là cá thể độc nhất đang đối diện với Đấng Toàn Năng. Tâm ta sẽ mở rộng, phơi bày mọi thành công, thất bại, ưu cũng như khuyết điểm, vui buồn, lo lắng, … tóm chung, không có ai phải giấu giếm.

Từ đó, ta sẽ ý thức hơn về thân phận mỏng manh, bất toàn của mình, cảm thấy mình không là gì, không làm được gì và không chịu nổi bất cứ điều gì nếu không được Ơn trợ giúp. Nếu ta ý thức được điều này có nghĩa là ta đã biết được bình an rồi đó, ta biết nhận lấy bình an từ đâu rồi đó, vấn đề còn lại là ta có chịu mở lòng đón nhận hay không mà thôi!

Trang Tin Mừng hôm nay trình thuật lại cho chúng ta về phần cuối của cuộc diễn từ ly biệt giữa Chúa Giêsu và các môn đệ. Trong lúc chuẩn bị Thầy trò chia tay nhau để Ngài lên đường chịu chết, chuộc tội cho thiên hạ.

Vì thế, Chúa Giêsu đã để lại cho các ông một gia sản quý giá hơn hết mọi thứ, đó chính là sự bình an. Ngài không nói: “Anh em hãy ở lại bình an”, mà nói: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”.

Bình an của Đức Giêsu trao tặng cho các môn đệ không chỉ dừng lại ở việc an toàn về mặt thể xác, mà còn đi xa hơn để đạt được thứ bình an trong sâu thẳm trong tâm hồn. Bình an này hướng người ta về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ.

Chúa Giêsu chính nội dung của bình an; hay nói cách khác: Ngài chính là nguồn bình an, Ngài ban cho các ông chính bình an của Ngài.

Bình an của Chúa chắc chắn không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Chúa Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình.

Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?

Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới.

Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Niềm an bình Thiên Chúa ban khác hẳn, loại trừ khỏi tâm hồn con người mọi thái độ hung hăng, hiếu chiến, mọi thèm khát bất chính, để làm nảy sinh ra tình yêu thương, tình bằng hữu chân thành, vô vị lợi, lòng nhân từ tha thứ và sự công chính.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta luôn tín thác cuộc đời của chúng ta trong tay Chúa, trong sự hướng dẫn của Thần Khí để ta luôn luôn bước đi trong sự bình an nhờ có Chúa ở cùng.

 

.

THÁNH THẦN VÀ CHÚNG TÔI

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Hạnh phúc thiên đàng là đây. Có Thiên Chúa ở cùng là điều mà Kitô hữu hằng khát khao. Trong Thánh lễ, điệp khúc: “Chúa ở cùng anh chị em – Và ở cùng cha” được cất lên những bốn lần: trước nghi thức khởi đầu Thánh lễ, trước khi đọc Tin Mừng, trước Kinh Tiền Tụng và trước khi chúc lành kết lễ. Có thể khẳng định rằng việc tuân giữ lời Chúa Kitô chính là chìa khóa để có hạnh phúc đích thực. Nội hàm của lời mà Chúa Kitô muốn nói ở đây chính là “tin vào Thiên Chúa và tin vào Người”, đồng thời thực hành “giới răn mới” mà Người long trọng truyền dạy (x.Ga 13,34-35; 14,1).
Cần thú nhận rằng nhiều lúc chúng ta thật khó phân biệt ý lời của Chúa Kitô với ý lời của người phàm. Ngay thánh Phaolô tông đồ cũng đã từng thú nhận rằng “hiện nay chúng ta thấy lờ mờ như thấy qua tấm gương” (x.1Cr 13,12). Chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha sai đến, cũng là Đấng mà Chúa Kitô ban tặng, sẽ giúp chúng ta hiểu đúng ý lời của Chúa Kitô để thực thi. “Thánh Thần và chúng tôi quyết định: Không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm” (Cv 15,28-29). Đây là lời công bố chính thức của Công đồng Giêrusalem, Công đồng đầu tiên của Hội Thánh thời các Tông đồ. Câu tuyên bố của các Tông đồ “Thánh Thần và chúng tôi quyết định…” một cách nào đó cho ta thấy trong quyết định ấy có phần của Thánh Thần và có phần của các ngài. Phần của Thánh Thần dĩ nhiên là chân lý tuyệt đối, còn phần của các tông đồ ít nhiều bị điều kiện hóa và khó tránh khỏi sự bất cập hoặc hạn chế mặt này, mặt kia. Vấn đề là chúng ta cần phân biệt đâu là phần của Thánh Thần và đâu là phần của các Tông đồ.
Tính bất cập, tương đối và bị điều kiện hóa của quyết định do phía các tông đồ có thể nói là đã lộ rõ khi các ngài dạy: “Kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết”. Chưa nói gì đến niềm tin còn bất cập về máu huyết của Do Thái giáo xưa, ở đây, chúng ta thấy các Tông đồ đã đưa ra một giải pháp mang tính thỏa hiệp, giải quyết tình thế. Để xây dựng sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu gốc lương dân và gốc Do Thái giáo, đặc biệt qua các bữa ăn, các Tông đồ đã truyền giữ tập tục kiêng cử về huyết cũng như thịt thú chết ngạt. Nhiều người dân Việt vốn thích món “tiết canh” chắc là phải bỏ mình lắm lắm! Còn về việc ăn thịt cúng thì chắc hẳn các Tông đồ không quên lời dạy của Thầy năm xưa: “Những gì bên ngoài vào trong con người thì không làm cho họ ra ô uế?” (x.Mc 7,14-23). Sau này chính Thánh Phaolô cũng đã từng minh định với tín hữu Côrintô rằng ăn thịt cúng hay không thì chẳng sao cả, miễn là đừng gây cớ vấp phạm cho những người đang còn non kém về lòng tin (x.1Cr 8,1-13).
Chúng ta cùng xem xét phần Thánh Thần chỉ dạy.
– Không đặt gánh nặng lên vai người anh em: Một trong những sứ mạng của Chúa Kitô khi đến thế gian là giải thoát con người khỏi vòng nô lệ thần dữ. Tiếp tục và hoàn thành sứ mạng của Chúa Kitô, Thánh Thần đã giải thoát chúng ta khỏi ách nặng nề của “chế độ lề luật”, khỏi “tinh thần nô lệ” mà việc bãi bỏ luật cắt bì của Cựu Ước là một điển hình. Từ đây, người Kitô hữu được mời gọi đến với Thiên Chúa trong tư cách những người con. Nhờ Thánh Thần và trong Thánh Thần chúng ta có thể thân thưa với Thiên Chúa “Abba” – “Cha ơi” (x.Rm 8,14-17).
Nhiều người đã xem Công đồng Vaticanô II như là một Lễ Hiện Xuống mới. Sở dĩ có cái nhìn này vì người ta không chỉ thấy Giáo Hội đã để cho Thánh Thần thúc đẩy mình ra khỏi tháp ngà cố thủ, để đến với thế giới mà còn thấy Giáo Hội đã gỡ bỏ nhiều ách nặng nề bấy lâu nay đang đè trên vai, trên cổ mình, khiến đoàn dân Chúa khó có thể sống tinh thần nghĩa tử với Thiên Chúa và khó sống tinh thần huynh đệ với nhau cách thực sự. Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động cho đến ngày Chúa Kitô lại đến (x.Kh 22,17). Như thế, chắc hẳn vẫn còn đó nhiều gánh nặng đang kìm giữ chúng ta trong tinh thần nô lệ mà chúng ta cần phải gỡ bỏ cho nhau. Để được vậy, chúng ta, đoàn tín hữu, từ con chiên đến các mục tử, hãy tích cực mở rộng tâm hồn để đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần, và dĩ nhiên, trên hết, trước hết cần phải biết nhạy bén với lời chỉ dạy của Thánh Thần qua các dấu chỉ thời đại.
– Tinh tuyền hóa niềm tin vào Thiên Chúa và lành mạnh hóa tương quan với nhau: Ẩn sâu dưới quyết định rằng phải kiêng ăn thịt đã cúng cho ngẫu tượng thì chúng ta nhận ra chân lý là “phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (x.Mt 4,10; Lc 4,8). Và qua lời truyền dạy rằng “tránh gian dâm” hay như một vài bản dịch khác là “không được kết hôn bất hợp luật”, thì chúng ta không chỉ thấy đó là một chỉ dẫn luân lý thuần túy trong đời hôn nhân, mà còn nhận ra một chân lý trong tương quan đồng loại, đó là tôn trọng quyền lợi của nhau trong sự hài hòa và trật tự khách quan. Cần phải tôn trọng, tuân giữ trật tự khách quan này ngay từ trong cái tế bào của xã hội, cái nền tảng của đời sống nhân loại đó là “hôn nhân – gia đình”.
Mạc khải đã nên trọn vẹn và hoàn hảo nơi cuộc đời và lời giảng dạy của Chúa Kitô. Một trong những sứ mạng của Chúa Thánh Thần là giúp chúng ta hiểu đúng lời mạc khải. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu lời Chúa Kitô đã long trọng tuyên bố năm xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai giới răn ấy” (Mt 22,37-40).
Đã là người ai cũng mong đạt được hạnh phúc. Nhiều người có niềm tin và Kitô hữu chúng ta lại còn khát khao hạnh phúc vĩnh cửu. Và điều kiện như tất yếu để có hạnh phúc vĩnh tồn đó là thực thi lời của Chúa Kitô. Để thực thi lời của Chúa Kitô thì cần phải hiểu đúng lời của Người. Thực tế vẫn có đó sự lẫn lộn giữa lời của người phàm và lời của Đức Kitô. Không gì hơn hãy khẩn xin Chúa Thánh Thần ngự đến. Thánh Thần đã được ban tặng. Vấn đề còn lại là xin cho chúng ta có thái độ thức tỉnh và khiêm nhu để đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần mà thôi.

.

ĐẾN VÀ Ở LẠI

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu

Suy Niệm

Khi được hỏi Ðức Kitô hiện diện ở đâu,
chúng ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà Tạm.
Tiếc thay lắm khi chúng ta dừng lại ở đó.
Chúng ta ít nghĩ đến một lối hiện diện khác của Ngài.
Không phải chỉ là ở với, ở bên, ở trước mặt,
mà còn là ở trong con người yếu đuối của ta.
Chúng ta ít nghĩ, vì chúng ta không dám tin
vào hồng ân quá đỗi lớn lao đó.
Chính vào lúc sắp chia tay các môn đệ để về với Cha,
Ðức Giêsu đã long trọng loan báo chuyện Ngài ở lại:
“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy,
Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy.
Chúng ta sẽ đến với người ấy
và sẽ làm nhà nơi người ấy” (Ga 14,23).
Ðại từ Chúng Ta ở đây để chỉ Chúa Cha và Chúa Con,
mà ở đâu có Chúa Cha, Chúa Con thì cũng có Thánh Thần.
Vì yêu Ðức Kitô, tôi được đón nhận thế giới Ba Ngôi.
Vì yêu tôi, Ba Ngôi muốn đến thăm tôi và cư ngụ tại đó.
Trong tình yêu hai chiều này, thiên đàng chớm nở.
Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng tôi.
Thiên đàng ấm áp ở nơi nghèo hèn, bé nhỏ,
nơi tâm hồn biết yêu Ðức Kitô và tuân giữ lời Ngài.
Ðôi khi tôi cần tự hỏi Thiên Chúa có ở trong tôi không.
Tôi có cảm nghiệm được chút nào sự hiện diện đó chăng?
Có bao giờ tôi thờ lạy sự hiện diện đó của Ngài không?

Kitô hữu không chỉ là bạn hữu của Ðức Kitô,
mà còn là người có Ðức Kitô nơi chính mình.
Họ là những cung thánh, những nhà thờ lưu động.
Họ không chỉ chứa đựng Ðức Kitô như một Nhà Tạm,
họ còn nên một với Ngài trong tình yêu.
Các bí tích chúng ta lãnh nhận đều nhằm mục đích
làm cho tình yêu giữa ta với Ðức Kitô được lớn lên.
Trước khi tôi rước lễ, Ðức Kitô đã ở trong tôi rồi.
Sau khi tôi rước lễ, Ngài cũng chẳng bỏ tôi.
Nhưng mỗi lần rước lễ, sự hiện diện Ngài lại tăng trưởng.
Ngay cả khi không thể đến nhà thờ,
tôi vẫn có thể gặp Ðức Kitô nơi cung lòng mình.
Chỉ cần để lòng mình lắng xuống,
là tôi có thể gặp Ngài và bước vào cuộc đối thoại.

“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”
Yêu mến Ðức Kitô không phải chuyện dễ.
Yêu một người ta chưa gặp mặt và sống xa ta 20 thế kỷ.
Giữ lời Ðức Kitô chẳng phải chuyện dễ.
Lời đòi chúng ta ra khỏi mình và bay lên cao.
Chính Thánh Thần sẽ giúp ta thấy Ðức Kitô thật gần
để có thể say mê Ngài,
thấy Lời Tin Mừng trở nên sống động và bừng sáng
để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh.

Hội Thánh của chúng ta sẽ là một Hội Thánh vô hồn,
nếu chẳng có sự hiện diện của Chúa nơi lòng các tín hữu.

Cầu Nguyện

Ngài đã xuống tận đáy lòng con,
xin cho con chỉ tập trung
và tận đáy lòng con.

Ngài là thượng khách của lòng con,
xin cho con bước vào nhà
là chính đáy lòng con.

Ngài chọn cư ngụ trong lòng con,
xin cho con biết ngồi yên
ngay tại đáy lòng con.

Duy Ngài ở lại trong con,
xin cho con biết chìm sâu
xuống tận đáy lòng con.

Duy Ngài hiện diện trong lòng con,
xin cho con biết xóa mình
khi Ngài ở bên con.

Khi con đã gặp Ngài,
không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả,
và Ngài là tất cả.

(theo Swami Abhisiktananda)