NL: ĐI VỀ NHÀ CHÚA
ĐC: NGÀI LÀ DŨNG LỰC
ALL: Chúa phán: nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy .
DL: NÀY TỪNG GIỌT RƯỢU
HL: CHO CON BIẺT YÊU THUƠNG
KL: VỀ BÊN MẸ
CHÚA NHẬT 30 TN A 2020
NL: NGỢI CA
ĐC: CHÚA LÀ DŨNG LỰC
HALL: Chúa phán: “Nếu ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến ở cùng người ấy.”
DL: XIN HIỆP DÂNG
HL: YÊU CHÚA YÊU NGƯỜI
KL: NỮ VƯƠNG MÂN CÔI
Lời Chúa: Xh 22, 20-26; 1Tx 1, 5c-10; Mt 22, 34-40
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 22, 34-40)
Yêu thương là điều răn trọng nhất (29.10.2023)
Tuần này chúng ta được Thánh Thần đãi ngộ một bàn tiệc lời Chúa hết sức tinh tế và nhiệm mầu. Tinh tế vì không những đi sâu vào nội tâm con người mà còn chỉnh đốn, sửa sai những tiền lệ, những thói quen lầm lạc trong cuộc sống nhân sinh. Nhiệm mầu vì lời Chúa nói lên những điều có vẻ rất tự nhiên giữa cuộc sống con người, nhưng bản chất của những điều tự nhiên ấy lại phát xuất từ sâu thẳm trong nội tại Thiên Chúa.
Nội dung của các bài đọc có thể được xem là một chương huấn giáo sâu sắc, nhưng cũng là một sẻ chia “tận đáy lòng của Chúa” dành cho những người Chúa yêu thương! Những tâm tình của lời Chúa bày tỏ tính chất trọng yếu trong bản thể Thiên Chúa: Thiên Chúa là Tình Yêu.
Bản thể Thiên Chúa là tình yêu, bởi thế những ai muốn thuộc về Người, được ở với Người trong cõi đời vĩnh cửu, hưởng hoan lạc và hạnh phúc thiên thu. Cũng phải sống cuộc sống của những người đã thâm nhập vào tình yêu Thiên Chúa, tức là biết sống yêu thương với mọi loài thọ vật, đặc biệt là với con người Chúa đã dựng nên và chịu chết để cứu chuộc họ.
Lời Chúa Giê-su trả lời người thông luật “Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Ngoài tính cách của một giới răn dành cho những người quyết tâm theo Chúa, còn có một ý nghĩa khác cao siêu và đem lại hạnh phúc không nhỏ. Đó là, Đấng được tạo dựng xác hồn trong bản thể Tình Yêu, hiện hữu trong Tình Yêu, nếm trải tình yêu trong viên mãn. Rồi Người đến thế gian để chia sẻ lại trải nghiệm của chính mình trong tư cách vừa là Thầy (là con người), vừa là Đấng Thiên Sai (là Ngôi Lời nhập thể và nhập thế). Bởi thế, lời của Chúa Giê-su vừa mang tính chất của sự thật tự nhiên hướng con người tiến đến với Thiên Chúa bằng con đường sống yêu thương; vừa là sự thật siêu nhiên vì là Đấng đã mở và làm nên con đường sống yêu thương nơi chính bản thể của Người, và nơi cuộc đời Người. Cái chết trên Thánh Giá của Đức Ki-tô là chặng cuối của con đường yêu thương không bến bờ ấy. Cuối đường Thập Tự là sự thoát thai “cá chép hóa rồng” để đi vào vĩnh cửu, đi vào tình yêu miên viễn và hoan lạc vô ngần.
Thật ra lời răn dạy về điều răn của Thiên Chúa qua Chúa Giê-su, không dừng lại nơi ý nghĩa “điều răn” để phải tuân giữ, mà còn là lời mặc khải về Thiên Chúa là tình yêu: một Thiên Chúa rất gần gũi con người, yêu thương con người như chính Mình. Bởi vậy, từ ngàn xưa Thiên Chúa đã hướng dẫn, răn dạy dân Người về đức yêu thương, phải đối xử tốt ngay cả với những người hèn mọn, yếu thế, cô thân “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu.” Thiên Chúa tỏ cho con người biết Người yêu sự thiện, ghét điều ác, quý chuộng người lành và sẽ rút đi lòng thương xót đối với kẻ dữ. Nếu ngoan cố trong đường tội lỗi, Người sẽ thẳng tay trừng trị “Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.”
Hơn thế nữa, điều răn của Thiên Chúa không những mặc khải trong ý nghĩa của Lời, là sự hiểu biết, mà còn dẫn chúng ta vào cuộc trải nghiệm con- đường- của- yêu- thương. Tức là sức mạnh và quyền năng của yêu thương, đưa tới kết quả thần linh: sự sống vĩnh hằng trong hạnh phúc viên mãn yêu thương và được yêu thương thật thỏa lòng.
Nhưng trước hết, theo một góc nhìn khác, Chúa Giê-su khi mạc khải điều răn yêu thương “Đức Giê-su đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” Là để chữa lành những rạn vỡ bên trong thể xác và linh hồn con người do tội lỗi. Tội Tổ tông và tội riêng ta phạm đã làm rạn vỡ từ thể lý đến tinh thần, tâm lý đến tình cảm con người. Một sự rạn vỡ đánh mất sự thánh thiện nguyên tuyền nơi bản thân: có khả năng chung thủy, khả năng yêu thương, tôn trọng người bạn đời hay mọi người có tương quan đến mình. Người tuân theo lời Chúa dạy biết sống yêu thương, là người biết kết hợp với Chúa, tự chữa cho mình tình trạng rạn vỡ đem đến sự hủy diệt linh hồn trong tội. Làm được như thế, là tạo ra công trạng lớn giúp cho thuyền cứu độ của Chúa Ki-tô thêm vững chắc trước gió bão cuộc đời. Mẹ Hội Thánh đang cần lời cầu nguyện thiết tha cùng của lễ hy sinh của toàn dân Chúa.
Những ý nghĩa này đòi hỏi chúng ta không được dừng lại nơi lý thuyết, mà phải thực tâm tích cực sống yêu thương. Tâm tình huấn giáo của thánh Phao-lô sáng lên tinh thần tương thân tương trợ bởi yêu thương và kính trọng, khi ghi lại tương quan đời sống của người tín hữu thời sơ khai với các Tông đồ của Chúa Giê-su “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến.” Thời nay, ngẫu tượng được trá hình tinh vi trong vô số hình thức của xã hội đương đại, làm cho ý muốn của con người xem ra được tự do hơn. Nhưng thật ra đang đi vào thế tục, làm nô lệ cho thế tục, giam giữ vô số linh hồn trong bến mê của cõi đời hư ảo.
Những ai thỉnh thoảng trầm lắng một chút để suy tư về thời đại của chúng ta, so sánh với dòng lịch sử nhân sinh. Chắc hẳn đều có cảm nhận rõ hơn bao giờ hết, nhân loại sẽ đối mặt với cơn thịnh nộ của Thiên Chúa một ngày không xa. Xin cho những người con đích thực của Thiên Chúa ngẩng đầu lên để thấy ngày được giải thoát, ngày vinh quang của mình đã đến gần.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Đoạn tuyệt với tội lỗi
Các sách Phúc Âm, đặc biệt là Phúc Âm của thánh Mát-thêu cho chúng ta thấy rõ một cuộc đối đầu giữa Chúa Giê-su và các nhóm Xa-đốc, Kinh sư, Biệt phái, Pha-ri-sêu, Tư tế… những người lãnh đạo dân Ít-ra-en thời bấy giờ. Và đoạn trình thuật Tin Mừng nầy là một trong những hình ảnh biểu trưng cho cuộc chiến nhiệm mầu mà Chúa Giê-su là Thủ Lĩnh đại diện cho Thiên Chúa và những người tin nhận Người. Người đã đến nhân gian trong tư cách Đấng Thiên Sai, mang sứ mạng đem ánh sáng vào mặt đất đầy tăm tối bởi tội lỗi và sự chết. Nên Người từng tuyên bố “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.” (Mt 10,34-36)
Trong một ý nghĩa có vẻ như nghịch lý với não trạng tự nhiên, Chúa Giê-su lại là đầu mối cho nhiều chia rẽ, phân tranh, thù hằn… đến kẻ nghịch với sự thiện tức tối sẵn sàng giết chết Người.
Vấn nạn được đặt ra “Tại sao thế?”
Mặc dù không được Phúc Âm nói đến, nhưng có một ý nghĩa thắt gút: minh chứng cho vai trò cứu thế của Chúa Giê-su trong cuộc chiến này, khẳng định Người là Đấng Mê-si-a. Đấng phải đến, Đấng mà Thiên Chúa đã tiên báo ngay từ thuở ở vườn Địa Đàng
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.”(St 3,15)
Mối thù Thiên Chúa đã đặt để giữa “người đàn bà” và dòng dõi của Bà, trở nên một ký kết chiến tranh không thương lượng hay thỏa hiệp giữa con cháu E-và và Xa-tan cùng đạo binh hỏa ngục. Những người chống lại Chúa Giê-su, dù ý thức tỏ tường hay không, cũng đã tự xếp mình vào hàng ngũ “dòng giống” của Xa-tan trong cuộc chiến này.
Đây là điều mà tất cả những ai chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình đều phải kinh qua. Bởi vậy, nếu trên mặt trận tâm linh chúng ta không luôn sẵn sàng chiến đấu tích cực như một chiến binh của Nước Trời, chúng ta sẽ sớm bị loại dần ra khỏi đường nhân đức, khỏi vị thế của người được ơn nghĩa cùng Chúa Giê-su.
Chúa Thánh Thần trong phần hai, phần chính của đoạn Tin Mừng đã đẩy ý nghĩa thiêng liêng này lên đến đỉnh điểm. Không hề ngẫu nhiên khi người thông luật chọn “để thử Người” bằng câu hỏi “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đáp ứng với Thần Khí Thiên Chúa, Chúa Giê-su dõng dạc tuyên bố “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”
Câu trả lời của Chúa Giê-su là giương cao ngọn cờ chân lý sáng ngời của ánh sáng thần khí mời gọi đạo binh sự thiện. Dù còn giấu ẩn, nhưng đã phần nào bộc lộ ý định nghìn đời của Thiên Chúa, khi các thiên thần cầm gươm sáng lóe giữ cho A-đam và E-va không quay trở lại E-đen (x. St 3,24). Thì hôm nay lời Chúa Giê-su nói lại là hai ngọn đuốc thiêng còn sáng hơn ánh lưỡi gươm canh giữ đường đến cây trường sinh của thiên thần, soi đường cho hai ông bà và con cháu trở lại chốn vinh phúc vĩnh hằng.
Vì ý chủ lực của lời Chúa là ý định ngàn đời của Thiên Chúa về hành trình của nhân loại tiến về quê trời: “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Ở đây còn có một điều sâu nhiệm giao thoa về tình mến mà thánh Gioan Tông đồ chưa nói hết. Đó là
“Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa”
mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy.” (1Ga 4,20)
Khởi sự bước đầu của tình yêu thương, không thể không tuân thủ lời thánh nhân dạy, là yêu mến tha nhân trước để chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa. Nhưng khi đã tiến bước trong tình mến trên hành trình nhân đức, linh hồn không thể nào yêu thương tha nhân hết lòng, hay yêu được kẻ thù, nếu không yêu mến Thiên Chúa thật nhiều. Tình yêu tha nhân làm gia tăng tình mến Chúa, và tình yêu mến Chúa thật nồng nàn, thật đậm sâu mới có thể cho ta có khả năng để yêu thương tha nhân đến cạn cùng lý trí và con tim.
Tuy nhiên, để có thể yêu mến Thiên Chúa “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi.” Linh hồn phải dấn thân sâu hơn vào cuộc sống đức tin, đáp ứng những đòi hỏi của ý muốn Thiên Chúa. Điểm này Thánh Gioan quãng diễn rõ chi tiết theo từng cấp độ
“Điều kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi
Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Ki-tô
thì làm cho mình nên thanh sạch
như Người là Đấng thanh sạch.
Phàm ai phạm tội thì cũng chống lại luật Thiên Chúa,
vì tội lỗi chống lại luật Thiên Chúa.
Thế mà anh em biết: Đức Giê-su đã xuất hiện
để xoá bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi.
Phàm ai ở lại trong Người thì không phạm tội.
Còn ai phạm tội
thì đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người.
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường.
Ai sống công chính, kẻ ấy là người công chính,
như Đức Giê-su là Đấng Công Chính.
Ai phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,
vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.
Sở dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện,
là để phá huỷ công việc của ma quỷ.
Phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội,
vì mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy,
và người ấy không thể phạm tội,
vì đã được Thiên Chúa sinh ra.
Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt
con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ:
phàm ai không sống công chính
thì không thuộc về Thiên Chúa;
ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.
Điều kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái
Quả thế, đây là lời loan báo
anh em đã nghe từ lúc khởi đầu:
chúng ta hãy yêu thương nhau;
chúng ta đừng bắt chước Ca-in:
nó là người của Ác thần, nên đã giết em mình.
Tại sao nó đã giết em?
Bởi vì các việc nó làm thì xấu xa,
còn các việc em nó làm thì công chính.
Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên,
nếu thế gian ghét anh em.
Chúng ta biết rằng:
chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống,
vì chúng ta yêu thương anh em.
Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết.
Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.
Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào
có sự sống đời đời ở lại trong nó.
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì:
đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta.
Như vậy, cả chúng ta nữa,
chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.
Nếu ai có của cải thế gian
và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu,
mà chẳng động lòng thương,
thì làm sao tình yêu Thiên Chúa
ở lại trong người ấy được?
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng
chúng ta đứng về phía sự thật,
và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.
Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta,
Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,
và Người biết hết mọi sự.
Anh em thân mến,
nếu lòng chúng ta không cáo tội chúng ta,
chúng ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa.
Và bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho,
bởi vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người
và làm những gì đẹp ý Người.
Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin
vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người,
và phải yêu thương nhau,
theo điều răn Người đã ban cho chúng ta.
Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa
thì ở lại trong Thiên Chúa
và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được
Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,
đó là nhờ Thần Khí,
Thần Khí Người đã ban cho chúng ta.” (1Ga 3,3-24).
Tình Yêu Hoa Cỏ
MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI
Khi nghe tin Thầy Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc bị khóa miệng, thì những người Pharisêu “họp nhóm” lại với nhau. Rồi một người thông luật trong nhóm giơ tay hỏi (ý kiến) Đức Giêsu để thử Người: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” (Mt 22, 36). Phải chăng đây là cơ hội để làm Thầy Giêsu mất mặt? Họ hỏi xem Thầy có hiểu biết gì về luật và có tôn trọng luật lệ không? Ai dè Thầy nhanh chóng “tóm tắt nội dung” rõ ràng: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” (Mt 22, 37-40). Toàn bộ lề luật được tóm gọn lại trong hai giới răn quan trọng nhất: mến Chúa-yêu người. Hôm nay Thầy nối kết hai điều răn này là một, như một sự bất khả phân ly.
Giới răn thứ nhất: Kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là điều răn quan trọng đối với người Dothái. Để nhắc nhớ, họ dán trên cửa, đeo trên đầu như thẻ kinh và đeo trên cánh tay mỗi khi cầu nguyện sáng chiều. Điều răn phổ cập toàn dân như vậy mà họ còn đem ra hỏi Thầy Giêsu, chứng tỏ họ khinh thường muốn làm khó Thầy. Một điều răn đã “khắc ghi trên trán” như vậy, nhưng chỉ dễ nhớ mà không dễ thực hành. Người Do Thái vẫn đúc bê vàng để thờ hoặc chạy theo thần ngoại bang. Ngày nay chúng con cũng thuộc nằm lòng từ bé: “Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến người trên hết mọi sự.” Nhưng có lúc chúng con đặt các thứ khác lên trên Thiên Chúa như tiền, danh, lợi, thú…
Giới răn thứ hai: yêu người thân cận như chính mình. Ai mà không yêu chính mình? Tình yêu đối với tha nhân được đo lường bằng tình yêu đối với chính mình. Đó thực sự là “khuôn vàng thước ngọc”. “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta , vì luật Môsê và các sách ngôn sứ dạy như thế”. (Mt 7, 12). “Chớ làm cho người điều chi mà con không chịu được.” (Tb 4, 15). Lý thuyết thì hay và dễ nhưng khi đối diện với hoàn cảnh cuộc sống thực tế thì xem ra rất khó.
Khi người ta yêu Chúa với tất cả tâm hồn, bằng cả con tim với tình yêu đậm đà mật thiết với Chúa, Chúa sẽ chỉ cho biết phải yêu thương anh em như thế nào, “yêu như Chúa yêu”, hiến dâng cả mạng sống… Tình yêu Chúa như ánh mặt trời. Ta thu nhận sức nóng tình yêu của Chúa qua cầu nguyện, ở lại với Chúa và sống trong Lời Chúa. Để rồi trong Chúa ta được hâm nóng tình người bằng tình yêu Chúa qua những hành động cụ thể, những cử chỉ yêu thương nho nhỏ, một nụ cười, một lời ủi an khích lệ, một ý kiến xây dựng, hành động sẻ chia vật chất, một sự tha thứ bao dung…
Chúa ơi! nhìn lên Thánh giá, con thấy Chúa không còn cách nào để yêu con hơn được nữa. Xin cho con biết tìm về sống trong Tình Yêu Chúa. Nhờ Tình Yêu Chúa hun đúc, tim con cũng thấm đẫm tình yêu ấy, để con sống chan hòa với mọi người anh em của con.
Én Nhỏ
MẾN CHÚA và YÊU NGƯỜI
1. Ghi nhớ:
“Ngươi hãy yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi và ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi.” (Mt22,37-39)
2. Suy niệm:
Bác sĩ Albert Schweitzer(1875-1965) người Đức đã bán hết gia tài đi để lấy tiền thành lập một bệnh viện ở Lamberene. Gabon thuộc Phi Châu vào năm 1913. Ông tâm sự: “Làm sao tôi có thể vui vẻ hạnh phúc được khi bên cạnh tôi còn biết bao anh em bệnh hoạn khổ đau!”.Thành lập xong bệnh viện ông huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc ông trở về Âu Châu trình diễn âm nhạc trong các thành phố lớn, lấy tiền bán vé để mua thuốc cho bệnh viện. Ông tin tưởng rằng những người nghèo khô ở Châu Phi đều là những thành viên trong đại gia đình của Thiên Chúa. Ông nói; “ Làm việc thiện thật là khó khăn. Nhưng chỉ với những việc đó mới làm cho đời người có ý nghĩa và hạnh phúc hơn”.
Ông đoạt giải thưởng Nobel hòa bình vào năm 1952.
Sống trên đời này chúng ta phải thi hành hai giới luật: Mến Chúa và Yêu Người. Trên thế gian này từ cổ chí kim, từ đông sang tây có bao nhiêu điều luật được đề ra nhằm đưa con người ta hướng đến Chân, Thiện, Mỹ thì cũng chỉ tựu chung lại hai điều này mà thôi; Đó là: Mến Chúa và Yêu Người.
Kinh Mười Điều Răn đoạn kết thúc đã tóm tắt gọn gàng lại trong hai điều này mà chớ: “Trước kính mến Một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy. Amen”.
Như một đồng tiền có hai mặt. Nó chỉ có giá trị lưu hành khi kiện toàn đầy đủ hai mặt của nó. Cũng vậy con người ta chỉ sống có ý nghĩa khi kiện toàn được hai lề luật là kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em!
Chúng ta phải kính mến Thiên Chúa là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên cả hồn lẫn xác và nuôi dưỡng chúng ta. Bởi vậy việc kính mến Ngài là một việc làm chính đáng, là một việc làm phải đạo.
Không một người cha nào trên trần gian này lại không muốn cho các con cái mình yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Cũng thế, Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều là con cái của mình được Ngài sinh ra thì họ phải thương yêu nhau. Thiên Chúa là vị Cha chung nên Ngài đòi buộc các con cái mình phải yêu thương nhau. Như vậy thì theo tinh thần thảo hiếu, chúng ta phải cương quyết thi hành điều mong mỏi thiết tha của Người Cha của mình đã dạy bảo.
Hơn thế nữa Thiên Chúa lại đồng hóa, Ngài là hiện thân của những người sống chung quanh chúng ta . Bởi chính Chúa Giê-su đã xác nhận trong Phúc Âm khi phán xét chung: “ Hỡi những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy vào hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi, vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc”…Bấy giờ các người công chính sẽ thưa răng: “Lạy Chúa có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc?”…Đức Vua sẽ đáp lại rằng: “Ta bảo thật các ngươi; mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính ta vậy!”. (Mt 25,34-40).
Chúa đã đồng hóa Ngài là những người anh em bé mọn, khó nghèo. Như vậy thì khi ta thương yêu giúp đỡ anh em là ta đã làm cho chính Chúa vậy. Và việc làm này như tấm giấy thông hành để chúng ta được dự phần trong Nước Hằng Sống.
3. Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Ngài ban cho chúng con hai giới luật Kính Chúa và yêu tha nhân. Nghe thì tưởng dễ thực hành, song thực tế thì lại rất khó. Xin ban ơn để cho chúng con đủ sức hoàn thành được hai giới luật quan trọng này để ngày sau xứng đáng được hưởng vinh phúc Nước trời. Amen.
4. Sống lời Chúa:
Luôn khẳng định Thiên Chúa hiện diện trong anh em.
Đaminh Trần Văn Chính
***
2. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
3. Vị thế tối thượng của tình yêu
4. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai
10. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
11. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
1. Mến Chúa
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. [Mục Lục]
2. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”
Chúa Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.”
- Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: “điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về “cuộc phán xét cuối cùng”, Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ… (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là “những kẻ được Cha Ta chúc phúc” và được Người mời “đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa” (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: “Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật” (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
- Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: “Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: “Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao” (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì “yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13, 10). [Mục Lục]
3. Vị thế tối thượng của tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn…. Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.”
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái – Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: “Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối… chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. [Mục Lục]
4. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: “Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống”. Thế nhưng, “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là “yêu mến tha nhân như chính mình”. Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi “dám chết cho người mình yêu”. Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen. [Mục Lục]
5. Điều răn quan trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen. [Mục Lục]
6. Tình yêu là tất cả
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này, chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu, trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22. Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.
Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho Thiên Chúa.
Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng, tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.
Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài. Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha nhân.
Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp, chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa, nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay. [Mục Lục]
7. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm, tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.
Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một khế ước: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (Xh 1,14-17)
Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết! Ađam – Eva đã không giữ được cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết bao nhiêu là khế ước.
Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.
Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là: phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã ban thập điều cho dân.
Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.
Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: “Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)
Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)
Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.
Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: “Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em”. (Xh 11,18-32)
Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.
Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ… và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là “ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội”… Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.
Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.
Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: “Yêu thương là chu toàn lề luật”. Thế đấy! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là lòng mến, là tình yêu.
Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại sao? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ… cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.
Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: “Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ” (1 Thes 1,5-8). Thế đấy! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng cho bằng luật của lòng mến.
Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận thù, ghen ghét này. [Mục Lục]
8. Yêu
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là “Mến Chúa và Yêu Người”. Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên “Nhất cử nhất động”, con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ “cọng tóc ra làm tư” đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là “ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi”. Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: “Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm”. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn “Mến Chúa và Yêu Người” trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối”. Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen. [Mục Lục]
9. Giới răn yêu thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: “Thiên Chúa là Tình Yêu”, và ngài dẫn giải: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy”.
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương. [Mục Lục]
10. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm… thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi” (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: “Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” (Mt 22, 37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi “yêu mến là chu toàn cả Lề luật” (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác… Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng “yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa “là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta” (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: “Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là “kẻ khác” Chúa phán: “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì “tha nhân” là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật “hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”, Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? “Yêu như chính mình ngươi”.
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình”, Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu “kẻ khác” hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu ” kẻ khác ” như “mệnh lệnh của Người,” mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. “Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em” (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những “việc làm” như bác ái, hay “phải làm” cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là “không giả vờ,” tức là, phải chân thật, nghĩa đen, “không giả hình,” (Rm 12, 9); người ta phải yêu “với một con tim trong sạch” ( 1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
“Như chính mình” Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen. [Mục Lục]
11. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: “Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý.”
Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chip “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội – bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.
Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người “không dại gì” và cũng chính “nhờ” những người “không dại gì” đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình.
Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình.
Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau thương mà anh chị em mình đang trải qua.
Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi yêu thương.
Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen. [Mục Lục]
12. Hai điều răn
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội. Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham lam, không giết người… Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu. Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một. Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong chúng ta dám tự hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau. Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa. Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
* Hai từ “Tình Yêu” đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?
* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em. [Mục Lục]