Chuyến tông du thứ 31 của Đức Thánh Cha – Giới thiệu đất nước và Giáo Hội Mozambique, Madagascar, Mauritius

1. Giới thiệu đất nước và Giáo Hội Mozambique

Tổng quát

Mozambique là một quốc gia ở đông nam Phi châu, phía đông giáp với Ấn Độ Dương, bắc giáp Tanzania, tây giáp Malawi, Zambia, và Zimbabwe, nam giáp Swaziland và Nam Phi.

Với tổng diện tích 799,380 km2 (khoảng 2.5 lần Việt Nam) trong đó 786,380 km2 là đất liền, Mozambique là quốc gia lớn thứ 36 trên thế giới.

Từng là một cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha, Mozambique là một thành viên của Cộng đồng các quốc gia nói tiếng Bồ Đào Nha. Tuy chưa bao giờ bị Anh quốc đô hộ, Mozambique cũng xin gia nhập Khối Thịnh Vượng Chung.

Quốc kỳ của một quốc gia là một biểu tượng cao quý của một dân tộc. Phê bình quốc kỳ của một nước có lẽ là một điều không nên. Tuy nhiên, nhiều lần tại Liên Hiệp Quốc đã nảy ra những tranh luận về quốc kỳ của Mozambique. Ngày 25 tháng 6 năm 1975, sau khi giành được quyền kiểm soát đất nước từ tay người Bồ Đào Nha đảng cầm quyền FRELIMO, có khuynh hướng Mácxít, đưa ra một lá cờ “không giống ai” trong đó vẽ một khẩu AK-47 và một cái cuốc. Quốc kỳ như hiện nay, trong đó khẩu AK, và cái cuốc còn được vẽ lớn hơn, đã được chính thức sử dụng từ ngày 1 tháng Năm 1983. Nhìn lá cờ này, nhiều người không khỏi “chạnh lòng” nghĩ đến Pol Pot và Ieng Sary và những tên đồ tể khác trên thế giới.

99.7% trong tổng số 28.8 triệu dân Mozambique là người gốc Phi châu (Makhuwa, Tsonga, Lomwe, và Sena). 0.3% còn lại là người Âu Châu và Ấn Độ. Khác với nhiều quốc gia trong vùng, như Sudan chẳng hạn, người Ả rập gần như biến mất khỏi Mozambique mặc dù họ đã từng thống trị vùng này từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 16.

Tiếng nói chính thức được dùng tại Mozambique là tiếng Bồ Đào Nha.

Lịch sử cận đại

Tháng 7 năm 1497, nhà thám hiểm Vasco da Gama lãnh đạo một hạm đội gồm 4 chiếc tàu rời cảng Lisbon thám hiểm Phi Châu. Tháng 12 năm đó, ông vượt qua mũi Hảo Vọng của Nam Phi sang bờ phía Đông, khám phá ra những vùng đất người Âu Châu chưa bao giờ đặt chân đến, trong đó có Mozambique. Hầu hết các vùng đất này đang nằm dưới ách cai trị của những người Hồi Giáo Ả rập.

Tháng Ba, 1498, ông giả làm một người Hồi Giáo để vào yết kiến quốc vương Mozambique. Chẳng may, kế hoạch bị lộ, ông phải rút lui. Tuy nhiên, ông khám phá ra vùng đất này thật lý tưởng cho các chiến hạm Bồ Đào Nha. Nơi đây có thể cung cấp nước ngọt, gỗ và nhân công. Tóm lại là một chặng dừng chân lý tưởng của các chiến hạm Bồ Đào Nha trên đường viễn chinh nhằm thu phục các quốc gia vùng Vịnh và Á Châu.

Năm 1505, Bồ Đào Nha thiết lập được nền đô hộ tại đây.

Tháng 4 năm 1974, Bồ Đào Nha trải qua một thời kỳ khó khăn với cuộc đảo chính quân sự ở Lisbon. Nhân cơ hội này, Mặt trận giải phóng Mozambique, gọi tắt là FRELIMO, được sự ủng hộ của cộng sản Trung Quốc từ thập niên 1960, đã giành được quyền kiểm soát lãnh thổ này. Mozambique giành được độc lập khỏi tay Bồ Đào Nha ngày 25 tháng 6 năm 1975.

Nhưng ngay sau đó, từ năm 1976 đến năm 1992, nước này lâm vào một cuộc nội chiến đẫm máu, cướp đi sinh mạng của gần 1 triệu người. FRELIMO muốn thiết lập một thể chế độc tài độc đảng theo ý thức hệ cộng sản tại Mozambique. Mặt trận kháng chiến quốc gia, gọi tắt là RENAMO, khởi nghĩa chống lại mưu toan này. Lo sợ sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản trong khu vực, Nam Phi và Rhodesian đã giúp RENAMO, trong khi khối cộng sản bao gồm cả Trung Quốc và Liên Sô giúp cho FRELIMO.

Cộng đoàn thánh Egidio đã giúp đưa hai bên đến bàn hòa đàm tại Rôma chấm dứt 15 năm nội chiến với Hiệp Định Tổng Quát Rôma ngày 4 tháng 10, 1992.

Căng thẳng lại bùng lên giữa hai phe từ năm 2013 đến nay. Trong cuộc họp báo hôm 27 tháng Ba vừa qua, Ông Alessandro Gisotti, lúc ấy là Giám Đốc lâm thời của Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho các ký giả biết một trong các mục tiêu trong chuyến tông du này của Đức Thánh Cha là tìm cách vãn hồi hòa bình tại Mozambique.

Tuy nhiên, Đức Thánh Cha chưa đến quốc gia này, hòa bình xem ra đã được lập lại. Thật vậy, hôm mùng 1 tháng Tám vừa qua, lãnh tụ RENAMO, là Ông Ossufo Momade, và tổng thống Filipe Nyusi đã ký kết với nhau một hiệp định hòa bình. Ông Ossufo Momade cho biết ông chấp nhận ký hiệp định này để thể hiện lòng tôn trọng đối với Đức Thánh Cha Phanxicô.

Chính trị

Mozambique theo chế độ cộng hòa, đa đảng. Bên cạnh đảng cầm quyền hiện nay là Đảng FRELIMO, còn có các đảng RENAMO, Đảng Dân chủ Mozambique (PDM), Đảng Liên minh dân chủ Mozambique (CODEMO), Đại hội Độc lập Mozambique (COINMO).

Tổng thống, là người đứng đầu nhà nước, được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống hiện nay là Ông Filipe Nyusi thuộc đảng FRELIMO, nhậm chức vào ngày 15 tháng Giêng 2015. Ông là vị tổng thống thứ Tư của Mozambique từ khi quốc gia này giành được độc lập vào năm 1975.

Thủ tướng do Tổng thống chỉ định là người đứng đầu chính phủ. Thủ tướng hiện nay là Ông Carlos Agostinho do Rosário, cũng là một thành viên của đảng FRELIMO.

Quốc hội Mozambique có 250 ghế, được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu và có nhiệm kỳ 5 năm. Hiện nay, Quốc hội do Đảng FRELIMO chiếm đa số.

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Mozambique

Lúc 8 giờ sáng ngày 4 tháng Chín, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành từ sân bay Rome Fiumicino để bay sang phi trường quốc tế của thủ đô Maputo, bắt đầu chuyến tông du thứ Sáu bên ngoài nước Ý trong năm nay.

Lúc 6:30 chiều, ngài sẽ đến sân bay Maputo, nơi sẽ có nghi thức đón tiếp trọng thể. Sau đó, Đức Thánh Cha sẽ về nghỉ tại tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

Sáng thứ Năm ngày 5 tháng 9, lúc 9:45 sáng, Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm tổng thống Filipe Nyusi tại dinh tổng thống gọi là Palacio da Ponta Vermelha

Sau cuộc hội kiến với tổng thống kéo dài trong 30 phút, cũng tại dinh này, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với chính quyền, lãnh đạo xã hội dân sự và ngoại giao đoàn.

Lúc 11 giờ sáng, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ liên tôn với giới trẻ tại vận động trường có mái che Maxaquene.

Lúc 4:15 chiều Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên tại Nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội.

Sáng thứ Sáu, 6 tháng Chín, lúc 8:45 sáng, Đức Thánh Cha sẽ đến thăm bệnh viện Zimpeto gần thủ đô Maputo.

Tiếp đó, lúc 10 giờ sáng, ngài cử hành Thánh lễ tại sân vận động Zimpeto

Lúc 12:25 trưa, Đức Thánh Cha sẽ ra sân bay Maputo. Tại đây sẽ có nghi thức tiễn Đức Thánh Cha bay sang phi trường quốc tế Antananarivo của Madagascar.

Giáo Hội tại Mozambique

Cả ba quốc gia trong chuyến tông du quốc tế lần thứ 31 của Đức Thánh Cha là Mozambique, Madagascar, và Mauritius đều là các quốc gia nơi dân số Kitô Giáo chiếm đa số.

Năm 1505, Bồ Đào Nha thiết lập được nền đô hộ tại đây, và nhờ công lao của các cha dòng Phanxicô Bồ Đào Nha, Đạo Công Giáo được phát triển rất mạnh kể từ đó. Dù thế, nhiều nhà sử học không cho rằng Đạo Công Giáo bắt đầu đến với quốc gia này vào năm 1505. Có những chứng cứ cho rằng các tín hữu Kitô đã có mặt từ rất lâu tại đây nhưng bị người Hồi Giáo tận diệt.

Theo thống kê vào tháng Bẩy, 2018, Mozambique có 8.784 triệu người Công Giáo, tức là chiếm 30.5% trong tổng số 28.8 triệu dân.

Theo Niên Giám Thống Kê 2017 của Tòa Thánh, Giáo Hội tại Mozambique có 3 tổng giáo phận và 9 giáo phận, với 337 giáo xứ, được coi sóc bởi 659 linh mục và 1,182 nữ tu.

Giáo Hội sở hữu 21 bệnh viện và 8 nhà dưỡng lão và các trung tâm chăm sóc trẻ mồ côi và trẻ khuyết tật.

Tòa Thánh đã thiết lập ngoại giao đầy đủ với Mozambique vào ngày 17 tháng 11 năm 1974. Ngày Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm ngoái, Đức Thánh Cha Phanxicô đã triệu hồi Sứ Thần Tòa Thánh tại Mozambique, là Đức Tổng Giám Mục Edgar Peña Parra, người Venezuela, về Vatican đảm nhận chức vụ Phụ tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh thay cho Đức Hồng Y Angelo Becciu được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Bộ Tuyên Thánh.

Sứ thần Tòa Thánh hiện nay là Đức Tổng Giám Mục Piergiorgio Bertoldi, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm vào chức vụ này từ ngày 19 tháng Ba năm nay.

Tổng giáo phận Maputo.

Ngày 21 tháng Giêng, năm 1612, Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Ngũ đã thiết lập miền Giám Quản Tông Tòa Mozambique. Năm 1783, Đức Giáo Hoàng Piô Đệ Lục đã nâng lên hàng giáo phận. Và cuối cùng, ngày 4 tháng Chín năm 1940, Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12 nâng lên hàng tổng giáo phận.

Ngày 18 tháng Chín, 1976, Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục đã đặt tên lại là tổng giáo phận Maputo.

Tổng giáo phận hiện được Đức Tổng Giám Mục Francisco Chimoio, dòng anh em hèn mọn coi sóc.

Tỷ lệ người Công Giáo nếu tính chung cả nước Mozambique là 30.5%. Riêng thủ đô Maputo tình hình khả quan hơn. Maputo có 1,223,000 người Công Giáo trong tổng số 3,040,000 dân, tức là 40.2%.

Anh chị em tín hữu Công Giáo sinh hoạt trong 44 giáo xứ, dưới sự coi sóc của 98 linh mục trong đó có 34 linh mục triều và 64 linh mục dòng. Bên cạnh đó còn có 147 nữ tu và 172 nam tu sĩ không có chức linh mục.


Source:Crux

2. Giới thiệu đất nước và Giáo Hội Madagascar

Madagascar, trước đây gọi là nước Cộng hòa Malagasy, là đảo quốc lớn thứ hai trên thế giới (chỉ sau Indonesia), nằm ngoài khơi bờ biển đông nam bộ của Phi châu trong Ấn Độ Dương, đối diện với Mozambique. Quốc gia này bao gồm đảo Madagascar, là đảo lớn thứ tư trên thế giới chỉ sau Greenland, New Guinea, và Borneo, và nhiều hòn đảo ngoại vi nhỏ hơn.

Với tổng diện tích 587,041 km2 (1.7 lần Việt Nam) trong đó 581,540 km2 là đất liền, Madagascar là quốc gia lớn thứ 48 trên thế giới.

Hầu hết người dân Madagascar là người Merila, thuộc chủng Mã Lai. Sau đó đến người Cotiers pha trộn giữa chủng Mã Lai và Phi châu. Rồi đến người Pháp, Ấn Độ và những người Ả rập.

Các nhà nhân chủng học cho rằng con người bắt đầu định cư tại Madagascar trong khoảng từ 350 trước Chúa Giáng Sinh cho đến 550 sau Chúa Giáng Sinh. Tin tưởng chung được công nhận rộng rãi là vào thời điểm Chúa Giáng Sinh, Madagascar vẫn còn là một đảo hoang. Các nhà khảo cổ học cho rằng người Indonesia là những người đầu tiên di cư đến vùng đất này và canh tác ở vùng phía Đông của hòn đảo trong khoảng từ năm 200 đến năm 500 sau Chúa Giáng Sinh.

Cho đến nay, các thành phố lớn và các trung tâm kinh tế của Madagascar vẫn chủ yếu nằm ở phần phía Đông. 21% diện tích của Madagascar vẫn là các khu rừng nguyên sinh với các loại thú to lớn không nơi nào có.

Từ thế kỷ thứ 7, người Ả rập bắt đầu gia nhập với người Indonesia ở phía Đông Madagascar. Khoảng năm 1000, người Bantu bắt đầu vượt qua eo biển Mozambique để di cư sang Madagascar. Họ sống chủ yếu ở phần phía Tây.

Lịch sử cận đại

Một con tàu Bồ Đào Nha đã nhìn thấy hòn đảo và đi dọc theo bờ biển vào năm 1500. Diogo Dias đã nhìn thấy hòn đảo sau khi con tàu của ông tách khỏi một hạm đội đang trên đường đến Ấn Độ. Ông đặt tên cho hòn đảo là São Lourenco, vì hôm đó là ngày lễ kính Thánh Lôrensô, và tiếp tục việc buôn bán với người dân trên đảo. Phát hiện của người Bồ Đào Nha lan sang Pháp và Anh, và cả hai nước đổ xô thiết lập các khu định cư trên đảo.

Năm 1794, vua Andrianampoinimerina đã tìm cách hợp nhất các bộ lạc khác nhau ở Madagascar, tạo thành một vương quốc duy nhất. Ông thành lập Vương quốc Merina. Đến năm 1810, ông được con trai của mình là Vua Radama Đệ Nhất kế vị. Nhà vua mở rộng vương quốc Merina trên các hòn đảo chính, đặc biệt là đảo Betsimisaraka và các đảo khác ở phía nam. Vua Radama I hoan nghênh và kết bạn với các nước lớn ở Âu châu và yêu cầu họ hỗ trợ trong việc hiện đại hóa vương quốc và tiếp tục các cuộc chinh phạt của ông. Nhờ thế, các nhà truyền giáo, dẫn đầu bởi David Jones, đã đưa được Kitô Giáo và bảng chữ cái La Mã vào Madagascar.

Sau khi vua Radama qua đời vào năm 1828, Nữ hoàng Ranavalona, vợ của Radama I, đã lên ngôi. Là một tín hữu Hồi Giáo nhiệt thành, bà cương quyết chống lại Kitô Giáo và năm 1835 bà buộc các nhà truyền giáo rời khỏi Madagascar.

Năm 1883, người Pháp tấn công Madagascar. Sau gần 3 năm chiến tranh, Madagascar đã trở thành một xứ bảo hộ của Pháp trước khi trở thành thuộc địa vào năm 1895. Chế độ quân chủ đã bị bãi bỏ và tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ chính thức.

Sau thế chiến thứ Hai, năm 1958, người Pháp đã bầu một tổng thống mới, Charles De Gaulle. Tổng thống ngay lập tức trao trả độc lập cho Madagascar.

Người dân Madagascar phải mất một thập kỷ nữa để rũ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, và năm 1975, Tổng thống Didier Ratsiraka được bầu lên. Chẳng may, ông đã đưa Madagascar đi trên con đường sai lầm nghiêm trọng là chạy theo chủ nghĩa xã hội, với một kết thúc bi đát vào năm 1993, sau hai năm biểu tình bạo lực: Kinh tế Madagascar hoàn toàn bị phá sản.

Kể từ đó, Madagascar đã trải qua những cuộc chính biến liên tục. Vào tháng 12 năm 2013, người dân Madagascar cuối cùng đã có cơ hội bầu một tổng thống mới, là Ông Hery Rajaonarimampianina. Cuộc bầu cử diễn ra trong hòa bình, nhưng mãi đến nay, Madagascar vẫn chưa thoát khỏi tình trạng ảm đạm về kinh tế.

Chính trị

Madagascar là một nước cộng hòa đa đảng dân chủ, trong đó tổng thống do dân bầu với nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống sau đó chỉ định một thủ tướng, là người giới thiệu các ứng viên bộ trưởng lên tổng thống để hình thành nội các. Tổng thống hiện nay là Ông Andry Nirina Rajoelina, sinh ngày 30 tháng Năm, 1974, đảm nhận chức vụ này từ ngày 19 tháng Giêng năm nay. Cả ông và vợ là Mialy Rajoelina đều là người Công Giáo và đã được Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp khi ngài vừa được bầu vào ngôi Giáo Hoàng. Thủ tướng hiện nay là Ông Christian Ntsay. Ông đã được cựu tổng thống Hery Rajaonarimampianina mời vào chức vụ này từ ngày 6 tháng Sáu, 2018 và được tân tổng thống lưu nhiệm.

Thượng viện gồm 63 ghế trong đó 42 vị được các Hội Đồng Địa Phương bầu lên và 21 vị do tổng thống chỉ định.

Hạ viện gồm 151 ghế trong đó 127 vị do dân bầu và số còn lại do các Hội Đồng Địa Phương bầu lên.

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Madagascar

Thứ Sáu ngày 6 tháng Chín

Lúc 12:40 thứ Sáu 6 tháng Chín, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành từ phi trường quốc tế Maputo để bay sang Antananarivo, Madagascar.

Sau 2 giờ 50 phút bay, ngài sẽ đến sân bay Antananarivo lúc 16:30 theo giờ địa phương (Antananarivo đi trước Maputo một giờ).

Sau các nghi lễ đón tiếp tại phi trường quốc tế Antananarivo, Đức Thánh Cha sẽ về nghỉ tại Tòa Sứ Thần Tòa Thánh.

Thứ Bảy ngày 7 tháng Chín

Lúc 9:30 sáng, Đức Thánh Cha sẽ thăm xã giao tổng thống tại dinh Iavoloha

Sau các nghi thức chào đón chính thức, Đức Thánh Cha sẽ gặp riêng tổng thống trong vòng 30 phút. Kế đó, lúc 10:15, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo trong chính quyền, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn trong tòa nhà nghi lễ cũng nằm trong dinh tổng thống.

Lúc 11:15, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ và đọc kinh chung trong tu viện các nữ tu dòng Carmêlô Nhặt Phép.

Vào buổi chiều lúc 16 giờ, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ các giám mục Madagascar tại nhà thờ chính tòa Thánh Giuse Andohalo.

Sau cuộc gặp gỡ này, lúc 17:10, Đức Thánh Cha sẽ viếng mộ Chân phước Victoire Rasoamanarivo (1848 – 21/8/1894) là người đã tận hiến đời mình chăm sóc cho những người nghèo và những người bất hạnh. Ngài đã được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong Chân Phước vào ngày 30 tháng Tư, 1989.

Lúc 18giờ, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Đêm Canh Thức với giới trẻ trẻ tại cánh đồng Soamandrakizay

Chúa Nhật, ngày 8 tháng Chín

Lúc 10 giờ sáng, Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ tại cánh đồng giáo Soamandrakizay.

Buổi chiều, lúc 15:10, Đức Thánh Cha sẽ thăm “Cộng đồng Những Người Bạn Tốt” Akamasoa. Cộng đồng này đã được Cha Pedro Opeka, một người đồng hương Á Căn Đình với Đức Giáo Hoàng, thành lập trong nỗ lực chống nghèo đói tại quốc gia nghèo nhất nhì thế giới này.

Lúc 16 giờ Đức Thánh Cha sẽ cùng cầu nguyện với các công nhân xây dựng tại Mahatzana.

Hơn một giờ sau đó, lúc 17:10 Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các linh mục, tu sĩ và chủng sinh tại trường đại học Tổng Lãnh Thiên Thần Micae.

Thứ Hai, ngày 9 tháng Chín

Lúc 7:30 sáng, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay đến phi trường Port Louis của Mauritius. Tuy nhiên, Đức Thánh Cha chưa chính thức từ giã Madagascar. Sau khi thăm Mauritius, Đức Thánh Cha sẽ trở lại đây vào buổi tối.

Giáo Hội tại Madagascar

Theo Niên Giám Thống Kê 2017 của Tòa Thánh, Madagascar có 23,572,000 dân trong đó 34.47% sống trong các đô thị và 65.53% sống trong các vùng nông thôn hẻo lánh.

Số người Công Giáo đã được Rửa Tội là 7,934,000, tức là 34.90%.

Đạo Thánh Chúa đến được vùng này nhờ các nhà truyền giáo, nổi bật là David Jones (7/1796 – 1/5/1841), một người xứ Welsh. Ông có công dịch Kinh Thánh sang tiếng Madagascar cùng với ông David Griffiths. Năm 1820, ông đặt chân đến Antananarivo và bắt đầu công cuộc truyền bá Tin Mừng tại đây cho đến khi bị Nữ hoàng Ranavalona trục xuất vào năm 1835. Vào thời điểm đó, ông đã thiết lập được 37 trường học, với 44 giáo viên và 2309 học sinh. Họ là những mầm mống Tin Mừng cho quốc gia này. Sau khi bị trục xuất, ông rút về Mauritius nơi ông qua đời vì sốt rét ngã nước vào ngày 1 tháng 5, 1841.

Đạo Thánh Chúa bị cấm cách cho đến năm 1883, khi người Pháp chiếm được quốc gia này.

Giáo Hội tại Madagascar hiện có 4 tổng giáo phận và 18 giáo phận. Anh chị em giáo dân sinh hoạt trong 423 giáo xứ, dưới sự coi sóc của 1,654 linh mục. Bên cạnh đó, còn có 4,778 nữ tu.

Do 65.53% sống trong các vùng nông thôn hẻo lánh, Giáo Hội Madagascar có 8,805 cứ điểm truyền giáo nơi điều kiện làm việc của các linh mục và các nhà truyền giáo hết sức chông gai.

Giáo Hội tại Madagascar sở hữu 23 bệnh viện và 29 nhà chăm sóc cho những người già, trẻ mồ côi và những người khuyết tật.

Madagascar có quan hệ ngoại giao đầy đủ ở mức Sứ Thần Tòa Thánh vào ngày 23 tháng Chín, 1960.

Sứ Thần Tòa Thánh hiện nay là Đức Tổng Giám Mục Paolo Rocco Gualtieri, 58 tuổi, được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm từ ngày 13 tháng Tư, 2015.

Tổng giáo phận Antananarivo

Tổng giáo phận thủ đô Antananarivo là nơi diễn ra các hoạt động của Đức Thánh Cha trong chuyến tông du thứ 31 bên ngoài Italia, và cũng là chuyến tông du thứ Tư của ngài đến Đại Lục Phi Châu (sau Uganda, Kenya and Cộng Hòa Trung Phi vào năm 2015, Ai Cập 2017 và Morocco 30-31/3/2019).

Ngay trong thời gian Đạo Thánh Chúa còn bị cấm cách, năm 1841, Đức Thánh Cha Grêgôriô thứ 16 đã thiết lập Miền Truyền Giáo Madagascar. Năm 1848, Đức Thánh Cha Piô thứ Chín nâng lên hàng Phủ Doãn Tông Tòa. Thánh Piô X nâng lên hàng giáo phận và đặt tên là giáo phận Tananarive và năm 1913. Ngày 14 tháng Chín, 1955, Đức Thánh Cha Piô thứ 12 nâng lên hàng tổng giáo phận. Cuối cùng, ngày 28 tháng 10, 1989, sau khi thay đổi các địa giới, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thiết lập tổng giáo phận Antananarivo như hiện nay.

Theo Niên Giám Thống Kê 2017 của Tòa Thánh, tổng giáo phận Antananarivo có 1,830,875 người Công Giáo trong tổng số 3,864,120 dân, tức là 47.4% dân số.

Tổng giáo phận hiện được Đức Tổng Giám Mục Odon Marie Arsène Razanakolona coi sóc. Ngài được Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 bổ nhiệm vào ngày 7 tháng 12, 2005.

Anh chị em tín hữu Công Giáo sinh hoạt trong 87 giáo xứ, dưới sự coi sóc của 394 linh mục, trong đó có 181 triều và 213 linh mục dòng. Bên cạnh đó còn có 1,715 nữ tu và 1,065 nam tu sĩ không có chức linh mục.


Source:Catholic & Cultures

3. Giới thiệu đất nước và Giáo Hội Mauritius

Tổng quan

Mauritius là một hòn đảo ở phía nam Ấn Độ Dương có diện tích 2,040 km2, tức là xấp xỉ diện tích Sàigòn. Hòn đảo này nằm cách Madagascar 800km về phía Đông. Có nguồn gốc từ núi lửa, Mauritius có một cao nguyên trung tâm cao khoảng 400 mét so với mực nước biển. Núi nằm rải rác trên đảo, rừng nhiệt đới và thực vật là những yếu tố khác làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của hòn đảo.

Dân cư trên đảo hầu hết là người gốc Ấn Độ, kế đến là những người di cư từ Madagascar, Mozambique và Sénegal. Tiếng nói chính thức là tiếng Creole, có nguồn gốc từ tiếng Pháp, pha trộn với thổ ngữ và tiếng Anh.

Lịch sử cận đại

Những người Âu châu đầu tiên đến thăm Mauritius là người Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ XVI, rất có thể là vào năm 1510. Người Hà Lan định cư trên đảo vào năm 1598 đã đặt tên cho hòn đảo này là Mauritius theo tên Hoàng tử Maurice của triều đại Nassau.

Người Hà Lan đã đưa cây mía và giống nai từ đảo Java đến đây trước khi bỏ đi vào năm 1710, vì họ đã tìm thấy một nơi định cư tốt hơn nhiều: là Mũi Hảo Vọng ở Nam Phi.

Khoảng năm năm sau, vào năm 1715, người Pháp đã chiếm đảo này, đổi tên thành “Isle de France”.

Năm 1810, người Anh đã chiếm đóng Mauritius và chính thức được Pháp nhượng lại theo hiệp ước “Traiti de Paris” năm 1814. Hầu hết những người định cư Pháp, vẫn ở trên đảo và được phép giữ các phong tục, tôn giáo và luật pháp của họ.

Vài năm sau, vào năm 1835, người Anh đã bãi bỏ chế độ nô lệ và điều này dẫn đến việc nhập khẩu những người lao động Ấn Độ để có công nhân làm việc trên các cánh đồng mía. Cuối cùng, họ đã định cư ở Mauritius và con cháu của họ ngày nay chiếm phần lớn dân số trên đảo.

Mauritius giành được độc lập vào ngày 12 tháng 3 năm 1968 và thông qua hiến pháp dựa trên hệ thống nghị viện của Anh. Những năm đầu tiên rất khó khăn nhưng sau hơn 15 năm lên kế hoạch và làm việc chăm chỉ, Mauritius đã đạt được sự ổn định về kinh tế và chính trị.

Chính trị

Mauritius theo thể chế dân chủ cộng hòa đa đảng, trong đó Tổng thống là người đứng đầu nhà nước và Thủ tướng là người đứng đầu chính phủ được hỗ trợ bởi một Hội đồng Bộ trưởng.

Hiến pháp Mauritius được ban hành ngày 12 tháng 3 năm 1968, và được sửa đổi ngày 12 tháng 3 năm 1992. Tổng thống do Quốc hội bầu, nhiệm kì 5 năm; Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm và có trách nhiệm trước Quốc hội.

Tổng thống hiện nay là Ông Paramasivum Pillay Vyapoory, thường được gọi tắt là Barlen Vyapoory. Ông đảm nhận chức vụ này một cách tạm thời sau khi nữ tổng thống Ameenah Gurib từ chức sau các tai tiếng về tài chính. Ông Barlen Vyapoory là một tín hữu Ấn Giáo.

Thủ tướng Mauritius là Ông Pravind Jugnauth, cũng một tín hữu Ấn Giáo, nhậm chức từ ngày 23 tháng Giêng, 2017. Ông cũng đồng thời là Bộ trưởng Tài Chính.

Quốc hội Mauritius gồm 66 thành viên, trong đó 62 thành viên được bầu theo phổ thông đầu phiếu, nhiệm kì 5 năm, 4 thành viên còn lại do Ban bầu cử chỉ định cho những đảng không thành công trong cuộc tranh cử để các dân tộc ít người có người đại diện.

Chế độ bầu cử ở Mauritius là chế độ phổ thông đầu phiếu. Công dân từ 18 tuổi trở lên được phép bầu cử.

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô

Thứ Hai 9 tháng Chín,

Lúc 7:30 sáng, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay từ phi trường quốc tế Antananarivo để bay đến phi trường Port Louis. Sau 2 giờ 10’ bay, Đức Thánh Cha sẽ đến sân bay Port Louis vào lúc 10:40. Tại đây sẽ diễn ra nghi thức chào đón Đức Thánh Cha (Port Louis đi trước Antananarivo một giờ).

Lúc 12:15 trưa, Đức Thánh Cha sẽ cử hành Thánh lễ tại tượng đài Đức Mẹ, Nữ vương Hòa bình

Sau đó, ngài sẽ có cuộc gặp gỡ với các Giám Mục thành viên của Liên Hội Đồng Giám Mục Ấn Độ Dương.

Lúc 16:25, Đức Thánh Cha đến cầu nguyện tại Đền thờ Chân phước Jacques-Desire Laval, vị tông đồ truyền giáo cho người Mauritus.

Ba mươi phút sau đó, Đức Thánh Cha viếng thăm xã giao tổng thống Barlen Vyapoory tại dinh tổng thống.

Sau cuộc gặp gỡ kéo dài trong 20’, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với thủ tướng Pravind Jugnauth cũng trong dinh tổng thống

Lúc 17:40, Đức Thánh Cha sẽ có cuộc gặp gỡ với các nhà lãnh đạo chính phủ, xã hội dân sự và ngoại giao đoàn trong dinh tổng thống.

Lúc 18:45 sẽ diễn ra lễ nghi từ biệt tại sân bay Port Louis

Lúc 7 giờ tối, Đức Thánh Cha sẽ khởi hành bằng máy bay để quay lại Antananarivo, Madagascar.

Lúc 8 giờ tối, Đức Thánh Cha sẽ về đến sân bay Antananarivo.

Thứ Ba 10 tháng Chín,

Lúc 9 giờ sáng sẽ có lễ nghi từ biệt Madagascar tại sân bay Antananarivo.

Lúc 9:20, Đức Thánh Cha khởi hành về Rôma.

Theo dự trù, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ về đến sân bay quân sự Ciampino của Rôma vào lúc 7 giờ tối cùng ngày.

Giáo Hội tại Mauritius

Đạo Thánh Chúa đến với hòn đảo này cùng với người Pháp vào năm 1715. 22 năm sau đó, Giáo Hội chính thức có các định chế tại đây.

Với diện tích chỉ xấp xỉ, chưa bằng được Sàigòn, Mauritius có một giáo phận, là giáo phận Port Louis; và một miền Giám Quản Tông Tòa là Rodrigues.

Giáo phận Port Louis

Giáo phận Port Louis là một giáo phận trực thuộc thẳng Tòa Thánh. Ngày 6 tháng Sáu, 1837, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô thứ 14 đã thành lập miền Giám Quản Tông Tòa Mauritius và bổ nhiệm Đức Cha Edward Bede Slater dòng Salêsiêng làm Giám Mục tiên khởi. Đến ngày 7 tháng 12, năm 1847, Đức Giáo Hoàng Piô thứ Chín đã nâng lên hàng giáo phận và đổi tên là giáo phận Port Louis như ngày nay. Vị cai quản giáo phận Port Louis hiện nay là Đức Hồng Y Maurice Evenor Piat.

Đức Hồng Y sinh ngày 19 tháng Bẩy năm 1941. Ngài được thụ phong linh mục ngày 2 tháng 8, 1970 và được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Giám Mục Phó Port Louis vào ngày 21 tháng Giêng, 1991. Khi Đức Hồng Y Jean Margéot về hưu, ngài thay thế ngài làm Giám Mục Port Louis vào ngày 15 tháng Hai, 1993.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nâng ngài lên hàng Hồng Y vào ngày 19 tháng Mười Một, 2016.

Theo Niên Giám Thống Kê 2017, Giáo phận Port Louis có 327,600 tín hữu Công Giáo trên tổng số 1,260,000 dân, tức là chiếm tỷ lệ 26%. Anh chị em tín hữu sinh hoạt trong 36 giáo xứ, do 91 linh mục coi sóc, trong đó có 46 linh mục triều và 45 linh mục dòng. Bên cạnh đó, còn có 117 nữ tu và 70 nam tu sĩ không có chức linh mục.

Miền Giám Quản Tông Tòa Rodrigues

Ngày 31 tháng 10, 2002, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thành lập miền Giám Quản Tông Tòa Rodrigues, được tách ra từ giáo phận Port Louis, và giao cho Đức Cha Alain Harel làm Giám Mục tiên khởi.

Lý do tách ra là vì Rodrigues là một hòn đảo về phía Đông Mauritius với diện tích 108km2, nơi dân số gần như toàn tòng Công Giáo.

Đức Cha Alain Harel sinh ngày 24 tháng Sáu, 1950. Ngài được thụ phong linh mục tại giáo phận Port Louis vào ngày 3 tháng Chín, 1978 và được bổ nhiệm Giám Mục vào ngày 31 tháng Mười, 2002.

Theo Niên Giám Thống Kê 2017, miền Giám Quản Tông Tòa Rodrigues có 38,714 tín hữu Công Giáo trên tổng số 42,396 dân, tức là chiếm tỷ lệ 91.3%. Trên đảo Rodrigues hiện nay có 5 giáo xứ, do 4 linh mục triều và một linh mục dòng coi sóc, cùng với 12 nữ tu và 2 thầy chưa chịu chức linh mục.


Source:Vatican News

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *