Người giáo dân Đa Minh với việc Giảng Thuyết (1/3)

NGƯỜI GIÁO DÂN ĐA MINH
VỚI VIỆC GIẢNG THUYẾT (phần 1/3)

“Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm.
 Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ,
 người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.”
(Ge 3,1)

Anh chị em thân mến,

Tôi hết sức vui mừng khi viết lá thư này – vào đúng ngày kỷ niệm Dòng được châu phê – để khai mạc một năm trong giai đoạn chín năm hướng đến Năm Thánh của Dòng. Chủ đề năm nay là “Người giáo dân Đa Minh với việc giảng thuyết”. Năm nay được bắt đầu liền ngay sau Năm Đức Tin do Đức Thánh Cha Bênêđíctô khai mạc tại Thượng hội đồng về Tân Phúc Âm hóa và truyền giảng đức tin, để kỷ niệm ngày khai mạc công đồng Vatican II, và khép lại với việc Đức Thánh Cha Phanxicô công bố Tông huấn Niềm vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium).

Vì vậy, chúng ta phải lưu tâm đến người giáo dân Đa Minh, trong bối cảnh Dòng Thuyết Giáo nhận được rất nhiều tiếng kêu mời phải canh tân nhiệt tình rao giảng Tin Mừng. Quả vậy, Tổng hội gần đây của anh em đã chọn chủ đề cho Năm Thánh là “Được sai đi loan báo Tin Mừng”, một chủ đề vừa đơn sơ nhưng cũng rất căn bản. Việc chọn chủ đề như thế nhắc lại việc các anh em tiên khởi được sai đi giảng thuyết để phục vụ Giáo hội, hoàn toàn dấn thân cho việc loan truyền Lời Chúa.

Khẩu hiệu Năm Thánh thật đơn sơ, nhắc chúng ta lưu ý đến trọng tâm của sứ vụ mà Giáo hội mong muốn nơi Dòng : đó là loan báo Tin Mừng. Khẩu hiệu này cũng mang ý nghĩa căn bản, bởi vì, vượt trên tất cả những khó khăn mà chúng ta có thể gặp phải, vượt trên tất cả những bấp bênh của sứ vụ hay của đời sống, nó luôn nhắc chúng ta nhớ rằng trước hết và trên hết chúng ta phải sẵn sàng để được “sai đi”, vì như thế là chúng ta sống đúng căn tính của mình. Ngày nay, có lẽ hơn lúc nào hết, chủ đề về người giáo dân Đa Minh phải giúp chúng ta nhận rõ hơn rằng tất cả chúng ta, là thành viên gia đình Đa Minh, đều được sai đi cùng nhau để cổ vũ cuộc đối thoại của Thiên Chúa với thế giới qua việc rao giảng Tin Mừng bình an.

bttq_cadore.jpg

Một “Cộng đồng Đa Minh” được sai đi rao giảng Tin Mừng

Hẳn nhiên, đã có nhiều thay đổi so với thuở ban đầu của Dòng. Chẳng hạn, Giáo hội đã suy tư về việc giảng thuyết. Giáo hội cũng suy tư về người giáo dân và vai trò thiết yếu của họ trong vấn đề làm chứng và loan báo Tin Mừng, Công đồng Vatican II là một thời điểm đặc biệt quan trọng đối với những suy tư đó. Cũng thế, suy tư trên được thực hiện và được hỗ trợ bởi những kinh nghiệm cụ thể của người giáo dân, xét vì họ là thành phần toàn vẹn của các Hội Dòng, của các cộng đoàn mới cũng như của các truyền thống linh đạo. Tất cả những điều đó có một điểm chung là xác tín đã được Đức Phaolô VI nhấn mạnh trong Công đồng chung Vatican II, đó là : Giáo hội chỉ trở thành chính mình cách đích thực tuỳ theo mức độ biến chính mình thành một cuộc đối thoại trong thế giới. Điều đó có nghĩa là qua việc rao giảng Tin Mừng cho thế giới, Giáo hội mong muốn làm chứng rằng, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa của mạc khải Kinh Thánh đến gặp gỡ con người để đối thoại với  họ.

Cách đây khá lâu, tôi có dịp may được tham dự sinh hoạt của một giáo xứ ở Haiti,vào lúc mà người ta tổ chức những cộng đoàn Giáo hội nhỏ bé, gọi là các “Huynh Đoàn”. Sau này, tại một số giáo xứ khác, hình thức đó được gọi là “Ti Legliz” (Giáo hội nhỏ). Cả hai cách gọi đó nhắc cho chúng ta một điều rất đơn giản là vào những thế kỷ đầu tiên, “Huynh đoàn” là tên gọi được dùng để chỉ các cộng đoàn trong Giáo hội. Huynh đoàn, nơi đan xen giữa việc chia sẻ đức tin và hình thành cuộc sống nhân sinh của mỗi cá nhân, cũng chính là lò tôi luyện giúp cho việc làm chứng và truyền giáo. Như thế, huynh đoàn được coi như ấn dấu trên bản khai sinh của Giáo hội.

Rõ ràng là tình hình hiện nay đã khác với thuở ban đầu của Dòng, tuy vậy, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy một số điểm tương đồng khiến chúng ta nhớ lại những gì đã đốt lên ngọn lửa nơi đức giám mục Diego và cha thánh Đa Minh: đó là có những xáo trộn về lối sống trong Giáo hội, do những biến đổi trong xã hội phong kiến, sự xuất hiện những kiến thức mới cũng như những cách thức mới để đạt được những kiến thức đó, những thay đổi tận căn trong cơ cấu tổ chức của xã hội và các thành phố. Ngay trọng tâm của những thay đổi này, xuất hiện những nhóm giáo dân mời gọi Giáo hội chuyển động, dám mạo hiểm ra khỏi những cơ cấu vốn quá ổn định và cứng nhắc đến độ bóp nghẹtngọn gió đang thổi đến. Những con người “nghèo” và “hèn mọn” này chọn lựa cuộc sống liên kết với sự hiện diện khiêm tốn trong thế giới, với một lời sống động vàđích thực được rao giảng như một tin vui, và với một lối sống khá quyết liệt. Họ được thúc đẩy bởi trực giác này là, một lối sống quyết liệt trong trọn vẹn con người vì Tin Mừng, là cách tốt nhất để “diễn giải” Lời và bày tỏ sự hiện diện của Đấng đã đến cứu độ thế giới. Trong số các nhóm giáo dân đó, một số được chính Đức Innôcentê III cho phép đi giảng lưu động và hành khất. Những hội “Dòng Ba” khất thực có thể được xem cách nào đó như là những người thừa kế của các phong trào này, mà chúng ta phải phân biệt rõ ràng khỏi các sáng kiến về đời sống tu trì.

Từ chính bối cảnh Giáo hội sôi nổi tìm cách tái khám phá bản chất đích thực của mình, mà phát sinh nhóm “Giảng Thuyết Thánh tại Prouilhe”, và một số giáo dân đã gia nhập vào cuộc phiêu lưu còn mới mẻ của thánh Đa Minh. Đọc lại thời gian sơ khai này, tôi không thể không nghĩ rằng, khi thánh Đa Minh đón nhận những người nữ hoán cải đầu tiên muốn đặt mình dưới sự bảo trợ của ngài, tiếp đến là bà Ermengarde Godoline và chồng là Sanche Gasc (8/8/1207), thì cha Đa Minh đã bắt đầu mơ về một lối sống theo mẫu gương cộng đoàn được thánh sử Luca đề cập trong Tin Mừng của ngài, cộng đoàn đi theo Đức Giêsu, “qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” (Lc 8,1-3). Đoạn văn ngắn của Tin Mừng Luca mô tả Đức Giêsu, nhà giảng thuyết, là trọng tâm của trình thuật từ đoạn 7 đến đoạn 10, trong ý nghĩa đó, chúng ta có thể vui mừng bởi vì, đến lượt mình, chúng ta cũng “được sai đi để rao giảng Tin Mừng” theo cung cách của huynh đoàn. Tiếp nối nhóm “giảng thuyết thánh”, chúng ta được sai đi như một gia đình để rao giảng Tin Mừng. Như thế, khái niệm “Gia đình Đa Minh” không phải chỉ là một cách nói để diễn tả việc qui tụ những nhóm có chung một mục đích giống nhau, nhưng nó còn diễn tả một cách thức loan báo Tin Mừng và, từ lối nhìn này, người giáo dân Đa Minh là một lời nhắc nhở về một đòi hỏi bắt nguồn từ trong Tin Mừng.

Sự thống nhất của Dòng chúng ta thực sự có được nhờ sứ vụ rao giảng Tin Mừng : giáo dân, nữ tu và anh em trong Dòng là những thành viên của cùng một gia đình với căn tính chung là tất cả đều được sai đi rao giảng Tin Mừng qua việc làm chứng cho một Thiên Chúa đang đến đối thoại với con người. Hay đúng hơn, chúng ta có thể nói rằng căn tính “Đa Minh” trước hết là một gia đình – một “cộng đoàn hiệp thông” được thiết lập bởi mối liên hệ chặt chẽ giữa việc rao giảng Tin Mừng và suy niệm chân lý; Chân lý này là Lời sống động đã đi vào thế giới, mà chúng ta cố gắng trình bày qua ba dạng thức là cầu nguyện, học hỏi và huynh đệ, mỗi khía cạnh được cụ thể hóa cách riêng biệt tuỳ theo lối sống của mỗi anh chị em.

Đoạn Tin Mừng của thánh Luca được trích dẫn ở trên cho thấy việc sai nhóm Mười Hai, rồi đến nhóm bảy mươi hai môn đệ đã được gắn liền với việc Đức Giêsu mạc khải chính mình như Lời đến trần gian để hoàn tất lời hứa và trao ban sự sống, Lời mà chúng ta phải lắng nghe và đem ra thực hành, chính Lời này đang quy tụ anh chị em lại với nhau. Khi giới thiệu các anh em giảng thuyết, đức Hônôriô mô tả họ là những người hoàn toàn hiến thân cho việc rao giảng Lời Chúa. Chính sự dấn thân cho Lời, qua việc rao giảng và chiêm niệm (“xin hãy thánh hóa họ trong chân lý: Lời ngài là chân lý”, Ga 17,17) làm cho chúng ta nên một. Trong viễn cảnh ấy, chiều kích hiệp nhất của gia đình Đa Minh là điều thiết yếu bởi vì nó được liên kết với sứ vụ loan báo Vương Quốc (trong Tin Mừng Gioan, phần tiếp theo lời Chúa Con cầu nguyện với Chúa Cha,rõ ràng nhắc đến việc sai đi đến với thế giới và việc cầu xin cho họ được nên một [Ga 17,18-23]).

Hẳn nhiên, Dòng Anh Em Giảng Thuyết không chiếm độc quyền giảng thuyết hay loan báo Tin Mừng trong Giáo hội, nhưng tôi nghĩ rằng khi Giáo hội “châu phê” Dòng cách đây gần 800 năm, thì cũng chỉ thị cho Dòng, như Dòng “giảng thuyết thánh”, phải phục vụ đặc sủng giảng thuyết của Hội thánh,tức là phục vụ chiều kích cốt yếu đó của Hội thánh. Chính vì chiều kích giảng thuyết này mà Hội thánh được hình thành và được thiết lập nhờ ân sủng từ Thánh Thần của Đức Kitô. Việc phục vụ này không phải chỉ bằng hình thức giảng thuyết hay loan báo Tin Mừng, nhưng hơn thế nữa, còn do việc là gia đình này được xây dựng trên sự hiệp nhất qua việc giảng thuyết, do đó nó là một lời nhắc nhở giữa lòng Giáo hội rằng việc rao giảng Tin Mừng góp phần hình thành nên Giáo hội Huynh đệ và hiệp thông.