ĐGH tôn phong 7 vị chân phước lên bậc Hiển Thánh (Chúa Nhật 14/10/2018)

https://youtu.be/9_hR3ue-bTQ
 7 vị thánh mới gồm 1 vị Giáo Hoàng, 1 TGM, 2 LM, 2 nữ tu và một giáo dân. Xét về quốc tịch có 4 vị người Ý, 3 vị còn lại người El Salvador, Đức và Bolivia gốc Tây Ban Nha. Trên mặt tiền Đền Thờ Thánh Phêrô có treo các bức ảnh lớn của 7 vị.

 Các thành phần tham dự

Hiện diện tại Quảng trường có hơn 80 ngàn tín hữu, phần lớn là người Italia, nhưng cũng có 7 ngàn người El Salvador, hàng trăm người Bolivia. Từ giáo phận Milano có 2500 tín hữu, 130 LM và phó tế, do Đức TGM bản quyền Mario Delpini cùng với 7 GM phụ tá hướng dẫn. Đức Phaolo 6 từng làm TGM Milano trước khi được bầu làm Giáo Hoàng. Hàng ngàn tín hữu khác đến từ giáo phận Brescia, quê hương của Ngài. Trong số các tín hữu hiện diện cũng có vài người đã được phép lạ của các thánh mới, như bà Cecilia Maribel Flores de Rivas, 34 tuổi, cùng với gia đình của bà. Bà đã được khỏi bệnh ung thư một cách lạ lùng nhờ lời chuyển cầu của Đức TGM Oscar Romero.

Có 15 phái đoàn chính phủ đứng đầu là phái đoàn Tây Ban Nha do Hoàng Thái Hậu Sofia hướng dẫn, tiếp đến là phái đoàn Italia, Chile, El Salvador và Panama do 4 tổng thống liên hệ cầm đầu. Đoàn Honduras, Đài Loan và Uganda do 3 vị Phó Tổng thống hướng dẫn. Các phái đoàn khác do một vị Bộ trưởng cầm đầu.

Đồng tế với ĐTC có đông đảo 600 vị Hồng Y và GM, trong đó nhiều vị cũng là nghị phụ Thượng HĐGM hiện nay về giới trẻ và 3 ngàn linh mục. Các HY và GM đứng cạnh ĐTC nơi bàn thờ là những vị bản quyền của các giáo phận nguyên quán của các vị thánh mới. Đặc biệt cũng có một phái đoàn Anh giáo do Đức nguyên TGM giáo chủ Rowan Williams hướng dẫn và gồm 10 vị Tổng Giám Mục.

Một chi tiết đáng để ý là trong phẩm phục ĐTC mặc tại buổi lễ, có giây cột áo chùng trắng đã được Đức TGM Oscar Romero dùng trong thánh lễ ngài bị sát hại cách đây 38 năm, dây có vết máu của Đức TGM, gậy mục tử, dây Pallium và chén lễ cũng là của Đức Chân phước Phaolô 6. Qua những cử chỉ này, ĐTC Phanxicô muốn bày tỏ sự gần gũi với các vị thánh mới.

Phần thánh ca, ngoài ca đoàn Sistina của Tòa Thánh, còn có 3 ca đoàn thuộc các giáo phận Brescia, Pontevico, Cosenza, ca đoàn giáo xứ Torre del Greco, sau cùng là ca đoàn Mẹ Giáo Hội.

 Nghi thức phong thánh

Nghi thức phong hiển thánh diễn ra vào đầu thánh lễ, với bài ca cầu xin Chúa Thánh Thần. Tiếp đến ĐHY Angelo Becciu, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với 7 vị thỉnh nguyên án phong thánh, tiến lên trước ĐTC, và ĐHY xin ĐTC ghi tên vào sổ bộ các thánh của Giáo Hội 7 chân phước: Phaolô 6, Oscar Romero, Francesco Spinelli, Vincenzo Romano, Maria Kasper, Nazaria Ignatia và sau cùng là Nunzio Sulprizio. Tóm lược 7 vị chân phước được xướng lên trong dịp này.

 Tóm lược tiểu sử 7 vị thánh

1. Đức Phaolô 6 sinh cách đây 121 năm, và làm Giáo Hoàng trong 15 năm, từ 1963 đến 1978. Trong vô số các sáng kiến của ngài, có công trình tiến hành và áp dụng Công đồng chung Vatican 2, các chuyến tông du ở nước ngoài, thăng tiến đối thoại đại kết và liên tôn. Ngài qua đời lúc 81 tuổi tại Castel Gandolfo ngày 6-8 năm 1978 sau một thời gian rất ngắn bị bệnh và được phong chân phước cách đây 4 năm.

2. Vị chân phước thứ hai được phong thánh hôm qua là Đức TGM Oscar Arnulfo Romero Galdámez, sinh năm 1917 tại thành phố Barrios ở El Salvador. Thụ phong LM năm 25 tuổi và làm cha sở 25 năm tại thành phố Miguel. Năm 1970 khi được 53 tuổi, ngài được Tòa Thánh bổ nhiệm làm GM phụ tá tổng giáo phận thủ đô San Salvador rồi 7 năm sau thăng TGM chính tòa tại đây. Thời đó El Salvdor bị nội chiến, phe cực hữu thi hành bạo lực chống những người yếu thế, giết hại các LM và giáo lý viên. Đức TGM Oscar Romero bênh vực các tín hữu và ngày 24-3 năm 1980, ngài bị đội quân tử thần của phe cựu hữu sát hại trong lúc dâng thánh lễ. Đức TGM được phong chân phước cách đây 3 năm (2015).

3. Vị chân phước thứ ba được tôn phong là cha Francesco Spinelli người Italia, sinh tại Milano năm 1853, thụ phong LM năm 22 tuổi. Cha sáng lập dòng các nữ tu Thờ Lạy Thánh Thể và làm bề trên Hội dòng này. Cha qua đời năm 1913 thọ 60 tuổi và được ĐTC Gioan Phaolô 2 phong chân phước năm 1992.

4. Vị thứ tư là Chân phước Vincenzo Romano, thuộc giáo phận Napoli, nam Italia sinh năm 1751 và làm cha sở giáo xứ Torre del Greco. Giáo xứ này bị núi lửa Vesusio tàn phá hoàn toàn và cha đã tái thiết đẹp đẽ và khang trang hơn. Cha Romano quen được gọi là thánh Gioan Maria Vianney của Italia, đã giúp hồi sinh về vật chất và nhất là về tinh thần và luân lý cho cộng đoàn tín hữu. Cha qua đời năm 1831, thọ 80 tuổi và được phong chân phước năm 1963.

5. Thứ năm là Nữ chân phước Maria Caterina Kasper người Đức, sinh năm 1820, có sức khỏe mạnh mẽ và lao tác trong các công việc đồng áng và xây đường. Chị thành lập một dòng chuyên phục vụ những người nghèo khổ nhất trong xã hội, đó là dòng Nữ Tỳ nghèo của Chúa Giêsu Kitô. Dòng phát triển mạnh, vượt ra ngoài Âu Châu và lan tới Mỹ châu. Chị qua đời năm 1898 thọ 78 tuổi và được phong chân phước năm 1978.

6. Thứ sáu là nữ Chân phước Nazaria Ignazia sinh tại Madrid Tây Ban Nha năm 1889 và cùng gia đình di cư sang Nam Mỹ, gia nhập dòng các nữ tu săn sóc những ngừơi già bị bỏ rơi năm 1908 tại Bolivia. Về sau đứng trước tình trạng xã hội ngày càng bi thảm, chị lập dòng các nữ tu đạo binh thánh giá của Giáo Hội. Chị qua đời năm 1943 lúc 54 tuổi và được ĐGH Gioan Phaolô 2 phong chân phước năm 1992.

7. Sau cùng là chân phước giáo dân Nunzio Sulprizio, người Italia, sinh năm 1817 và mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được bà ngoại săn sóc, nhưng bà cũng qua đời. Nunzio được người cậu làm thợ rèn đưa về nuôi, nhưng ông cũng hành hạ cháu, đến độ Nunzio mắc bệnh lao xương. Được đưa tới nhà thương ở Napoli, tại đây anh được rước lễ lần đầu. Bệnh nặng thêm, Nunzio qua đời năm 1836 lúc mới được 19 tuổi. Lòng can đảm trong bệnh tật của anh trong tinh thần đức tin đã làm cho nhiều cảm phục. Đức Giáo Hoàng Phaolô 6 đã tôn phong Nunzio Sulprizio lên bậc chân phước năm 1963.

Phong thánh

Sau khi cộng đoàn hát kinh cầu Các Thánh, ĐTC đã long trọng đọc công thức lấy quyền tông đồ truyền ghi tên 7 vị chân phước vào sổ bộ các thánh, để tôn vinh Chúa Ba Ngôi chí thánh, tuyên dương đức tin Công Giáo và gia tăng đời sống Kitô.

Cộng đoàn vỗ tay hân hoan tạ ơn Chúa trong khi ca đoàn ca bài ”Hãy reo mừng, hát lên mừng Chúa”, và thánh tích của các vị tân hiển thánh được rước lên bàn thờ. Thánh tích của Thánh Phaolô 6 là chiếc áo thung mang máu của ngài khi bị mưu sát ở Manila, Philippines. Mộ của thánh nhân, theo di chúc, tiếp tục giữ nguyên tại hầm đền thờ Thánh Phêrô, thay vì được di chuyển lên tầng trên như trường hợp thánh Gioan 23 và Gioan Phaolô 2. Thánh tích của 5 vị thánh khác là một mẩu xương, còn thánh tích của thánh nữ Nazaria Ignazia là một ít tóc.

Bài giảng của ĐTC

Trong bài giảng, ĐTC đã diễn giải bài Tin Mừng, trích từ đoạn 10 theo thánh Marco, về người kia, vốn đã chu toàn việc tuân giữ các giới răn, hỏi Chúa xem phải làm gì để gia sản là cuộc sống đời đời, và trong câu trả lời Chúa Giêsu đòi người ấy đi xa hơn nữa:

”Chúa đòi người ấy tiến từ việc tuân giữ lề luật tới sự hiến thân, từ thái độ làm cho mình tới việc ở với Chúa. Và Chúa đưa ra một đề nghị sống thật là ”sắc bén”: ”Anh hãy bán tất cả những gì anh có, cho người nghèo [..] rồi đến đây theo tôi!” (v.21). Chúa Giêsu cũng nói với bạn: ”Hãy đến đây, theo tôi!”. Hãy đến, chứ đừng đứng nguyên, vì không làm gì xấu, vẫn chưa chủ để thuộc về Chúa Giêsu. Hãy theo tôi: đừng chỉ theo Chúa Giêsu khi bạn thấy là thích hợp, nhưng còn phải tìm Chúa mỗi ngày; đừng hài lòng với việc tuân giữ các giới răn, làm phúc bố thí một chút và đọc vài kinh; hãy tin nơi Ngài Vị Thiên Chúa luôn yêu mến bạn, tìm nơi Chúa ý nghĩa cuộc sống của bạn, sức mạnh để hiến thân.

Bán của cải cho người nghèo

Và Chúa Giêsu còn nói: ”Hãy bán những gì bạn có và cho người nghèo”. Chúa không đưa ra lý thuyết về nghèo khó và giàu sáng, nhưng đi thẳng vào cuộc sống. Chúa đòi bạn hãy bỏ đi tất cả những gì làm cho tâm hồn bạn nặng nề, hãy loại khỏi bạn những của cải để dành chỗ cho Chúa, là điều thiện hảo duy nhất. Ta không thể thực sự theo Chúa Giêsu khi ta bị sự vật đè nặng. Bởi vì nếu tâm hồn bị tràn ngập của cải, thì sẽ không còn chỗ cho Chúa, Chúa bị coi như một đồ vật giữa các đồ vật khác. Vì thế, Chúa Giêsu nói, của cải giàu sang là nguy hiểm, làm cho ta khó được cứu độ. Không phải vì Thiên Chúa nghiêm khác, không phải vậy, vấn đề là từ phía chúng ta: chúng ta có quá nhiều, ước muốn quá nhiều bóp nghẹt tâm hồn và làm cho chúng ta không còn khả năng yêu mến. Vì thế thánh Phaolo nhắc nhớ rằng ”Sự ham hố tiền bạc là căn cội gây ra mọi sự ác” (1 Tm 6,10). Chúng ta thấy điều đó: nơi nào người ta đặt tiền bạc ở trung tâm chỉ không có chỗ cho Thiên Chúa và cũng chẳng có chỗ cho con người”.

Buồn sầu vì bám víu của cải

Trước câu trả lời và yêu cầu của Chúa Giêsu, người ấy ra đi, buồn sầu (v.22). Người ấy đã thả neo nơi các giới răn và nhiều của cải, nên không muốn dâng hiến tâm hồn. Tuy đã gặp Chúa Giêsu và được cái nhìn yêu thương của Chúa, nhưng anh ta ra đi buồn sầu. Sự sầu muộn là bằng chứng về tình yêu không trọn vẹn. Đó là dấu chỉ một con tim nguội lạnh. Trái lại một tâm hồn được thảnh thơi khỏi của cải, tự do yêu mến Chúa, thì luôn tỏa lan niềm vui, niềm vui mà ngày hôm nay chúng ta rất cần. Thánh Giáo Hoàng Phaolô 6 đã viết: Chính nơi trọng tâm những lo âu của con người ngày nay mà họ đang cần được biết niềm vui, cần nghe thấy tiếng ca của Chúa” (Tông huấn Gaudete in Domino, I). Ngày hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy trở về với nguồn mạch niềm vui là cuộc gặp gỡ với Chúa, can đảm chọn lựa rủi ro để theo Chúa, thích từ bỏ cái gì đó để sống theo Chúa. Các thánh đã bước theo con đường đó.

ĐTC áp dụng vào cuộc đời 7 vị thánh mới:

Đức Phaolo 6 đã làm như thế, noi gương thánh Tông Đồ mà ngài nhận tên hiệu. Như thánh Phaolô, Người đã hiến thân vì Tin Mừng của Chúa Kitô, vượt qua các biên cương mới và trở thành chứng nhân của Chúa trong việc loan báo và trong cuộc đối thoại, thành vị ngôn sứ của một Giáo Hội hướng ngoại, nhìn đến những người ở xa và chăm sóc người nghèo. Cả trong những cơ cực và giữa những hiểu lầm, Đức Phaolô 6 đã say mê làm chứng về vẻ đẹp và niềm vui được hoàn toàn theo Chúa Giêsu. Ngày nay Ngài còn nhắn nhủ chúng ta, cùng với Công Đồng mà Ngài là người hướng dẫn khôn ngoan, hãy sống ơn gọi chung của chúng ta, ơn gọi mên thánh chung của tất cả mọi người. Không phải sống nửa chừng, nhưng là nên thánh.

Thật là đẹp vì cùng với Đức Phaolô 6 và các vị thánh nam nữ ngày hôm nay, có Đức Cha Romero, ngừơi đã từ bỏ an ninh trần thế, và chính an ninh của bản thân, để hiến mạng sống theo Tin Mừng, gần gũi với người nghèo và dân của mình, với tâm hồn được Chúa Giêsu và các anh chị em thu hút. Cũng vậy chúng ta có thể nói về Cha Francesco Spinelli, Vincenzo Romano, Maria Caterina Kasper, Nazaria Ignazia Thánh Nữ Têrêsa Chúa Giêsu và Nunzio Sulprizio. Tất cả các vị thánh này, trong những hoàn cảnh khác nhau, đã diễn tả bằng cuộc sống Lời Chúa hôm nay, không chút nguội lạnh, không tính toán, nhưng với lòng nhiệt thành chấp nhận rủi ro và từ bỏ. Xin Chúa giúp chúng ta noi gương các ngài.

Phần cuối của thánh lễ

Thánh lễ được tiếp tục theo nghi thức thường lệ và trong phần lời nguyện giáo dân, cộng đoàn đã cầu nguyện cho Hội Thánh, các tin hữu Kitô bị bách hại, cho những người trẻ đang tìm ơn gọi, cho các đôi vợ chồng trẻ và đặc biệt bằng tiếng Hoa, mọi người cầu nguyện cho các nhà lập pháp và các chính quyền.

Trong phần rước lễ, 350 LM và Phó tế được giao phó nhiệm vụ phân phát Mình Thánh Chúa.

Cuối thánh lễ, ĐTC cùng mọi người đọc kinh Truyền Tin kính Đức Mẹ. Trong dịp này ngài cám ơn các HY và rất đông đảo các GM và LM đến tự các nơi trên thế giới, và ngài không quên chào thăm và cám ơn các phái đoàn của các chính phủ đến dự lễ, đặc biệt là Hoàng thái hậu Sofia, Tổng thống Italia, Chile, El Salvador và Panama, và phái đoàn Anh giáo do Đức TGM Rowan Williams hướng dẫn.

G. Trần Đức Anh OP – Vatican

TIỂU SỬ

Trong Thánh Lễ này, Đức Hồng Y Giovanni Angelo Becciu, tổng trưởng bộ Tuyên Thánh sẽ tuyên đọc tiểu sử chính thức của 7 vị được tuyên thánh như dưới đây.

1. Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục

Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tên khai sinh là Giovanni Battista Montini. Ngài sinh tại Concesio (Brescia) năm 1897. Được thụ phong linh mục năm 1920, ngài tiếp tục học tại Rôma, trong khi nắm giữ các chức vụ trong ngành ngoại giao của Tòa Thánh. Ngài trở thành Phụ Tá Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh vào năm 1937. Trong Thế chiến thứ hai, ngài đảm nhận trách vụ tìm kiếm những người mất tích và hỗ trợ cho những người bị bách hại. Năm 1952, ngài được bổ nhiệm làm Đồng Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh [cùng với Đức Hồng Y Domenico Tardini]. Năm 1955, ngài được bổ nhiệm Tổng Giám mục Milan, là nơi ngài đã lo lắng đặc biệt cho những người ở các vùng xa xôi hẻo lánh và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Năm 1958, ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII tấn phong Hồng Y. Ngài được bầu làm Giáo hoàng vào ngày 21 tháng 6 năm 1963 với danh hiệu Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục. Trong cương vị đó, ngài đã tiếp tục và kết thúc Công Đồng Chung Vatican II.

Ngài đã dẫn dắt Giáo Hội đối thoại với thế giới hiện đại và giữ cho Giáo Hội hiệp nhất trong cuộc khủng hoảng sau Công Đồng. Ngài ban hành 7 Tông thư và nhiều Tông huấn. Ngài đã dâng hiến đời mình cho việc công bố Tin Mừng, nhiệt thành yêu mến Chúa và Giáo Hội. Ngài qua đời tại Castel Gandolfo vào ngày 6 tháng 8 năm 1978. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên Chân Phước cho ngài vào ngày 19 tháng 10 năm 2014.

2. Chân Phước Tổng Giám Mục Oscar Romero

Đức Tổng Giám Mục Oscar Arnulfo Romero Galdámez sinh tại Ciudad Barrios thuộc El Salvador vào ngày 15 tháng 3 năm 1917 trong một gia đình bình dân. Ở tuổi 12, ngài làm việc như một người thợ mộc. Năm 1930, ngài bước vào tiểu chủng viện San Miguel. Năm 1943, ngài đạt được bằng thần học tại Đại học Giáo Hoàng Grêgôriô. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài trở về nhà và dâng hiến đời mình cho các hoạt động mục vụ trong tư cách một linh mục giáo xứ.

Sau đó, ngài được bổ nhiệm làm giám đốc Chủng viện San Salvador, Thư ký Hội Đồng Giám Mục San Salvador và Tổng Thư ký điều hành của Liên Hội đồng Giám mục Trung Mỹ và Panama. Năm 1970, ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục Phụ Tá của San Salvador, và đã cống hiến đời mình cho việc bảo vệ người nghèo.

Từ năm 1974, ngài trở thành Giám mục Santiago de Maria và từ năm 1977, ngài là Tổng Giám mục San Salvador giữa lúc đang xảy ra cuộc đàn áp toàn diện về chính trị và xã hội. Ngày 24 tháng 3 năm 1980, ngài bị bắn chết trong khi đang cử hành Thánh Lễ cho các bệnh nhân tại một bệnh viện. Ngài được tuyên Chân Phước vào năm 2015 tại San Salvador.

3. Chân Phước Linh mục Francesco Spinelli

Cha Francesco Spinelli sinh tại Milan vào ngày 14 tháng 4 năm 1853 và được phong chức linh mục vào ngày 17 tháng 10 năm 1875 ở Bergamo, là nơi vào ngày 15 tháng 12 năm 1882, cùng với Thánh nữ Caterina Comensoli, ngài đã khai sinh ra cộng đồng Chầu Thánh Thể đầu tiên. Ngài trải qua những thử thách nghiêm trọng bằng một đức tin anh hùng, sự vâng phục tuyệt đối và sự tha thứ quảng đại. Nhưng những hiểu lầm và thử thách ấy đã buộc ngài phải rời Bergamo.

Ngài được Đức Giám Mục Geremia Bonomelli chào đón vào hàng giáo sĩ Cremona, và tại Rivolta d’Adda các nữ tu dòng chầu Thánh Thể đã lập một cộng đoàn mới. Cha Spienlli không thể điều hành hội dòng tại Bergamo nữa, nên đã chia dòng thành hai: Mẹ Comensoli đã thành lập dòng các nữ tu Thánh Thể, còn cha Spinelli thành lập dòng các nữ tu chầu Thánh Thể.

Các nữ tu của cha Spinelli có nhiệm vụ thờ kính Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể cả ngày và đêm và bên cạnh đó, các sơ còn phục vụ các anh chị em nghèo khổ và đau khổ, và nhìn thấy gương mặt Chúa Kitô nơi những con người nghèo khổ này và phục vụ với tình yêu vô điều kiện. Ngài qua đời ngày 6 tháng 2 năm 1913 tại Rivolta d’Adda giữa hương thơm và danh tiếng về sự thánh thiện. Cha được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên Chân Phước ngày 21 tháng 6 năm 1992 tại đền thánh Đức Mẹ ở Caravaggio.

4. Chân Phước Linh mục Vincenzo Romano

Cha Vincenzo Romano sinh tại Torre del Greco (Naples) năm 1751 và trải qua toàn bộ cuộc đời ngài ở đây, nơi ngài thánh hóa mình trong chức vụ linh mục và thực hiện các trách vụ của một linh mục giáo xứ tại Santa Croce. Ngài là một nhà giáo dục khôn ngoan đã đào tạo nhiều thanh niên, trong đó nhiều người đã trở thành linh mục. Hơn nữa, ngài nổi bật với danh tiếng là nhà truyền giáo cần mẫn cho các dân cư nông thôn, một người cứu giúp giàu lòng thương xót đối với những người nghèo khổ và yếu đau, một thừa tác viên nhiệt thành trong các nghi lễ phụng vụ và trong việc ban phát các bí tích, và một nhà truyền giáo nhiệt thành loan báo Lời Chúa.

Sau tai họa núi lửa Vesuvius phun trào, phá hủy nhà thờ giáo xứ và phần lớn thị trấn vào năm 1794, vị Chân Phước đã trở thành linh hồn cho sự tái sinh vật chất và tinh thần của Torre del Greco. Ngài đã xây dựng lại nhà thờ Santa Croce thậm chí còn đẹp hơn trước. Ngài qua đời ngày 20 tháng 12 năm 1831 giữa hương thơm và danh tiếng về sự thánh thiện. Ngài được Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tuyên Chân Phước năm 1963.

5. Chân Phước Nữ tu Caterina Kasper

Sơ Caterina Kasper sinh ngày 26 tháng 5 năm 1820 tại Dernbach, Đức, trong một gia đình nông dân. Ngài đã chọn đời sống thánh hiến và mở ngôi nhà đầu tiên cho người nghèo vào năm 1848. Sơ Caterina Kasper đã thành lập dòng “Những nữ tì khó nghèo của Chúa Giêsu Kitô”. Năm 1859, dòng phát triển nhanh chóng tại Hà Lan. Đức Giáo Hoàng Piô thứ 9 đã ban một Nghị định Khen ngợi vào ngày 9 tháng 3 năm 1860. Ngày 20 tháng 5 năm 1870 Tòa Thánh chính thức chấp thuận luật dòng. Năm 1868, các nữ tu đến Hoa Kỳ: tại Chicago, các sơ thành lập một viện dục anh dành cho trẻ mồ côi và Bệnh viện San Giuseppe. Trong khi đó, ở Luân Đôn, các sơ đã giúp đỡ những người nhập cư Đức. Sau đó, các nữ tu đến Ấn Độ, Ba Tây và Mễ Tây Cơ, nơi các sơ mở các nhà trẻ và trường học.

Sơ Caterina Kasper qua đời vào ngày 2 tháng 2 năm 1898 trong một cơn đau tim. Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tuyên Chân Phước cho sơ Catherine vào ngày 16 tháng 4 năm 1978, và gọi sơ là một người phụ nữ “có tâm hồn dạt dào đức tin và dũng cảm”. Dù không có phương tiện và gặp nhiều trở ngại về văn hóa, sơ đã thành công trong việc cống hiến cuộc sống mình cho việc truyền giáo và thúc đẩy sự thăng tiến xã hội.

6. Chân Phước Nữ tu Nazaria Ignazia March Mesa

Sơ Nazaria Ignazia March Mesa sinh tại Tây Ban Nha vào ngày 10 tháng Giêng năm 1889. Vào đêm trước ngày được Rước Lễ Lần Đầu, cô nghe thấy tiếng gọi của Chúa: “Nazaria, theo Ta”. Cô trả lời, “Con sẽ theo Chúa, Chúa ơi, đó là điều dễ nhất mà một sinh vật có thể làm.” Được ưu đãi với những phẩm chất tuyệt vời, cô đã sống với những người bạn đồng hành của mình trong hội “Những nhà truyền giáo thầm lặng”. Năm 1906, cô di chuyển đến Mễ Tây Cơ cùng với gia đình, nơi cô đã gia nhập dòng các chị em săn sóc người cao niên bị bỏ rơi. Sau một thời gian dài ở đó, sơ chuyển đến Oruro. Ở đây, sơ cảm thấy được mời gọi bước vào một đời sống truyền giáo mới, cống hiến toàn bộ cho việc truyền giáo, dấn thân cho sự hiệp nhất của Giáo Hội và cho việc mở rộng Vương quốc Chúa Kitô. Năm 1925, sơ thành lập dòng Thập tự chinh truyền giáo của Giáo Hội.

Nói về dòng này, sơ cho biết: “Đây là tôn chỉ của chúng ta: ngoan ngoãn, trung thành, can đảm, tất cả vì tình yêu, trên tất cả là tình yêu dành cho Chúa Kitô và trong Chúa Kitô chúng ta đến với tất cả mọi người. Dâng hiến chính mình cho người nghèo, khích lệ những người buồn rầu, nâng dậy những ai sa ngã, dạy dỗ con gái của người dân, chia sẻ lương thực với họ. Hãy ban sự sống và làm mọi thứ vì Chúa Kitô, Giáo Hội, và các linh hồn”.

Sơ qua đời tại Buenos Aires ngày 6 tháng 7 năm 1943 giữa hương thơm và danh tiếng về sự thánh thiện. Thi hài sơ được đưa về chôn cất tại Oruro. Sơ đã được Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị tuyên Chân Phước tại Rôma vào ngày 27 tháng 9 năm 1992.

7. Chân phước Nunzio Sulprizio

Chân Phước Nunzio Sulprizio sinh tại Pescosansonesco, Abruzzo, ngày 13 tháng 4 năm 1817. Cha mẹ mất sớm, ngài được giao phó cho bà ngoại của mình chăm sóc. Từ bà ngoại của mình, ngài đã học được nghệ thuật cầu nguyện và những chân lý sâu sắc về đức tin. Khi lên chín, một lần nữa ngài lại chịu cảnh mồ cô. Do đó, ngài được giao phó cho một người chú ruột, là một người thợ rèn, cộc cằn và bạo lực. Trong cửa hàng, Nunzio vừa phải chịu đựng sự đối xử tệ hại của người chú, vừa phải chịu thêm những đau khổ về thể chất.

Ngài trở nên đau ốm trầm trọng vì chứng nhuyễn xương và được gửi đến Bệnh viện Naples nơi chuyên chữa các chứng nan y. Một người chú ruột trao ngài cho Đại tá Felice Wochinger, là người đã nhận ngài làm con nuôi và chăm sóc ngài như một người cha thực sự. Việc điều trị kéo dài suốt 21 tháng.

Chịu đau khổ giữa những người đau khổ, Nunzio Sulprizio trưởng thành về đàng thiêng liêng. Bệnh tình của anh bị tuyên bố là không thể chữa được. Tình trạng ngày càng nặng thêm và bị buộc phải nằm liệt giường, ngài qua đời ở tuổi 19, vào ngày 5 tháng 5 năm 1836. Tất cả cuộc sống của ngài được dâng hiến cho Thiên Chúa. Cuộc sống của người thanh niên trẻ tuổi này được đánh dấu bằng hai tình yêu lớn lao: “Thánh Thể và Đức Mẹ”.


Source: UFFICIO DELLE CELEBRAZIONI LITURGICHE DEL SOMMO PONTEFICE SANTA MESSA CELEBRATA DAL SANTO PADRE FRANCESCO CON IL RITO DELLA CANONIZZAZIONE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *