Phêrô Ðoàn Công Quý, Sinh năm 1826 tại Búng, Gia Ðịnh, Linh mục, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn Chân Phước cho cha Phêrô Đoàn Công Quý ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 31/07. |
|
Những năm thơ ấu.
Ông Antôn Đoàn Công Miêng và bà Anrê Nguyễn Thị Thường sinh sống ở Bắc Việt cho đến năm 1820. Cả gia đình di cư vào Nam ở tại họ Búng, làng Hưng Thịnh, tổng Bình Thạnh, hạt Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1826, người con trai út, Phêrô Đoàn Công Qúi chào đời. Đây là người con thứ sáu trong gia đình và là hy lễ của gia đình ông Miêng hiến dâng cho Thiên Chúa. Vì thấy cậu út rất thông minh, nên ông Miêng cố lo liệu để cậu chuyên chăm theo đường học vấn, với hi vọng mai sau nối dòng thi lễ, làm vẻ vang cho cả gia tộc. Nhưng thiên Chúa muốn cho người con út này đi theo con đường khác. Cậu Quý thường lui tới và học hỏi cha Tám ở nhà thờ họ Búng. Một thời gian sau, cậu xin phép cha mẹ được ở luôn với người, thỉnh thỏang mới về thăm gia đình. Theo tiếng Chúa gọiNăm 1847, cha Tám giới thiệu chàng trai 21 tuổi này với cha Gioan Miche Mịch để được học hỏi tiếng la tinh và tiếp tục theo đuổi ơn gọi tu trì. Sau khi học tiếng Latinh tại nhà cha Mịch, cậu Quý được học tại chủng viện Thánh Giuse (Thị Nghè) do cha Borelle làm giám đốc. Năm 1848, thày Quý du học tại đại chủng viện Hội Thừa Sai Paris ở Pénang (Mã Lai). Tại đây, thày học triết lý và thần học, ngôn ngữ, văn chương. Việc huấn luyện như thế được coi là khá đầy đủ cho một linh mục thuộc miền truyền giáo trở về hoạt động tại quê hương. Trên con đường xứ vụNăm 1855, thày Quý hồi hương vào thời kỳ vua Tự Đức ra sắc chỉ cấm đạo gắt gao. Tháng 9.1855, vua Tự Đức ra chiếu chỉ thứ ba, trong đó không những lùng bắt các đaô trưởng, mà còn bắt cả giáo hữu phải xuất giáo, triệt hạ các thánh đường, phá hủy các cơ sở tôn giáo … Với hoàn cảnh bất lợi này, Đức cha Lefèbvre Nghĩa trao cho thày nhiệm vụ săn sóc, dạy dỗ, động viên các giáo hữu tại các họ đạo. Qua một thời gian hoạt động, thày tỏ ra là người nhiều khả năng, nên Đức cha đã truyền các chức nhỏ cho thày. Sau ba năm thi hành việc mục vụ tại các giáo họ, tháng 9.1858, thày Quý đã được lãnh chức linh mục tại nhà thờ Thủ Dầu Một. Sau một thời gian phục vụ tại các giáo xứ Lái Thiêu, Gia Định và Kiến Hòa, Đức cha bổ nhiệm cha Phêrô Quý làm phó xứ Cái Mơn (Vĩnh Long). Cha Phêrô Quý được tuyển chọn vào cánh đồng truyền giáo trong giai đoạn đặc biệt của đất nước : Pháp và Tây Ban Nha đem quân đánh phá ở Cửa Hàn (Đà Nẵng) vào tháng 9.1858 làm cho vua Tự Đức càng thêm căm ghét các giáo sĩ nước ngoài và Đạo Thiên Chúa. Do đó, cuộc bách hại ngày càng khốc liệt hơn. Nhưng nhiệt tình truyền giáo đã làm cho cha Quý vượt thắng mọi gian khổ, đe dọa, hiểm nguy. Chỉ ba tháng sau khi cha về Cái Mơn, quân lính bao vây Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn để lùng bắt giáo sĩ, nhưng không có vị nào ở đó, nên lính bắt giam một tu sĩ nữ để tra tấn, khai thác các chị về chỗ ở của các ngài. Nghe tin các nữ tu bị bắt, cha Quý muốn nộp mạng để lính tha cho chị em, nhưng giáo hữu ngăn cản và không để cha thực hiện ý định này. Cha vẫn ao ước sẵn sàng hy sinh tính mạng để thế cho các chị. Cha chỉ bỏ ý định này khi có lệnh rõ ràng của cha bề trên giáo phận Borelle Hòa. Từ đó cha cải trang thành thường dân, đi thăm viếng, an ủi và ban các bí tích cho các giáo hữu. Chặng đường khổ giáĐức cha bổ nhiệm cha Quý về giáo họ Đầu Nước ở Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang ngày 27.12.1858 thì mười ngày sau (07.01.1859) quan Tổng đốc An Giang được mật báo có Tây dương đạo trưởng trú ẩn tại nhà ông Lê văn Phụng ở Đầu Nước. Quan sai 100 lính đến bao vây nhà ông Phụng. Khi lính gần đến làng, giáo hữu tới báo tin cho gia đình ông Phụng. Nghe tin này, cha Pernot Định đã đề nghị với cha Quý cùng đi trốn, nhưng cha Quý bình tĩnh trả lời: “Tôi là người bản xứ chắc quan quân khó nhận ra, cha cứ đi trước, tôi ở lại thu dọn đồ lễ khỏi gây phiền hà cho chủ nhà và giáo họ, rồi sẽ theo sau”. Sau khi cha Pernot ra khỏi thì quan quân ập tới. Cha Quý chạy vào ẩn nấp dưới sàn nhà, quan ra lệnh cho ông Phụng phải nộp đạo trưởng Tây như đã được mật báo. Ong Phụng cương quyết trả lời là không có ai là đạo trưởng Tây cả. Quan dọa là nếu không tuân lệnh thì sẽ bị đánh đòn. Thấy lính sắp đánh đòn chủ nhà, cha Quý tự ra nhận mình là đạo trường. Lính không chịu nghe và nói chắc chắn là có tên đạo trưởng Tây ở trong nhà này. Cha Quý lại cương quyết khẳng định : “Không có Tây dương đạo trưởng nào ở đây, chỉ có tôi là đạo trưởng. Ai muốn theo đạo tôi sẵn sàng chỉ dậy”. Thấy cha Quý còn rất trẻ, quan không tin ngay liền hỏi em nhỏ 10 tuổi, cháu nội của ông Phụng xem đạo trưởng là ai. Nó chỉ vào cha Quý và thưa : “Bẩm, ông này ạ”. Lính liền trói cha Quý, ông Phụng và 32 giáo hữu, rồi xiềng xích giải về Châu Đốc. Đến Châu Đốc, lính áp giải cha Quý đến quan tổng đốc. Quan thẩm vấn cha nhiều điều và hứa sẽ tha cho cha nếu cha tuyên bố bỏ đạo, theo như chiếu chỉ nhà vua. nhưng cha Quý vẫn kiên quyết nhận mình là đạo trưởng, không bao giờ bỏ đạo Thiên Chúa. Lần khác quan nói với cha: “Thày là người thanh liêm, nhân từ, đức hạnh, tại sao lại mê theo tà đạo, hãy nghe ta mà bỏ đạo đó đi”. Cha Quý trả lời: “Dạ, thưa quan tôi là người giảng dạy đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được ? Vả nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dậy điều tốt lành, chứ khong phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu”. Quan ra lệnh tống giam cha và sau đó dùng nhiều phương kế dụ dỗ đe nạt, tra tấn hòng làm thay đổi lập trường của cha. Nhưng cha vẫn một lòng trung kiên với chính đạo. Sau cùng, quan thảo bản án trảm quyết gửi về kinh đô. Bảy tháng trong ngục, cha Quý động viên các bạn tù, cử hành bí tích, nguyện ngắm và đọc kinh Mân Côi với họ. Một giáo hữu đến thăm cha, có cả linh mục bản quốc cải trang để vào giải tội và cho cha rước Thánh Thể. Tình thương với thân mẫuDù sống trong cảnh tù ngục, cha Quý vẫn tưởng nhớ đến thân mẫu của mình (thân phụ đã qua đời). Cha gởi thơ kính thăm và báo tin cho thân mẫu biết tin mình sắp được phúc tử đạo. Ký vụ thân mẫu đôi chữ trưởng tri … Nay thơ, Sau ba tiếng chuông ngânƯớc vọng hiến dâng trọn vẹn cuộc đời cho Thiên Chúa của cha Phêrô Đoàn Công Quý đã được chấp nhận. Ngày 30.07.1859, bản án trảm quyết cha được gởi từ kinh đô về đến Châu Đốc cùng với bản án ông Emmanuel Lê Văn Phụng. Sáng hôm sau (31.07), cha Quý và ông Phụng hớn hở đi ra pháp trường ở xóm Chà Và cùng với quan quân và giáo hữu. Người lính đi trước tay cầm tấm thẻ của cha Quý và thỉnh thoảng đọc to: “Tự Đức thập tam, An Giang tỉnh, kỷ vị niên, thất nguyệt, sơ nhị nhật. Đến nơi xử án, hai vị chứng nhân Chúa Kitô: cha Quý và ông Phụng, cùng qùy xuống cầu nguyện. Sau đó, cha Quý giải tội cho ông Phụng. Giờ hành xử đã đến, ba tiếng chuông vang lên giữa pháp trường, lý hình chém cha Quý ba nhát gươm, đầu cha lìa khỏi thân mình và rơi xuống đất. Vị tử đạo già từ cõi đời trở về quê hương vĩnh cửu với tuổi đời 33, sau một năm thi hành chức vụ linh mục. Thi hài vị tử đạo được an táng tại nhà thờ Năng Gù, sau được cải táng về chủng viện Cù Lao Giêng năm 1959, nhân dịp bách chu niên cuộc tử đạo. Đức Piô X suy tôn Chân Phước cho cha Phêrô Đoàn Công Quý ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Nguồn từ thư viện Đa Minh Trường thi tử Đạo.Linh mục Giuse Ðoàn Công Quý Cha Tám đang quản khu giáo xứ Sau Cha Tám gởi liền chủng viện Ở Pénang Thừa sai của hội Ðộng viên giáo hữu bao họ đạo Tân Linh mục đó là Cha Quý Sau tuyển chọn chuyên cho truyền giáo Vua Tự Ðức đã dành oán ghét Ra chiếu chỉ truyền giao bắt đạo Sau lính bắt truy lùng tu sĩ Giả dân thường để mà đi lại Quan về làng vây bao trăm lính Quan quát lớn tấn tra đòn đánh Ðứa nhỏ chỉ trong vùng đạo trưởng Quan dụ dỗ nghe tin đức hạnh Dạ thưa quan sớm hôm giảng đạo Xin quan lớn cảm phiền hiểu thấu Quan tức giận thảo bàn trảm quyết Thi hài an táng đời đau khổ Năm Kỷ Mùi (1859) trung kiên tử đạo Lời bất hủ: Quân lính hỏi có Tây dương đạo trưởng trong nhà này. Cha Quý khẳng định trả lời: “Không có Tây dương đạo trưởng nào ở đây, chỉ có tôi là đạo trưởng. Ai muốn theo đạo, tôi sẵn sàng chỉ dạy”. Quan tra hỏi và bắt bỏ đạo, cha trả lời: “Dạ, thưa quan, tôi là người giảng đạo này, sao lại có thể bỏ đạo cho được! Và nữa, đây là chính đạo, vì chỉ dạy những điều tốt lành, chứ không phải là tà đạo như quan hiểu lầm đâu”. |