Sở dĩ anh em đoàn tụ làm một trước hết là để anh em sống đồng tâm nhất trí trong một nhà và để anh em chỉ có một lòng một ý trong Thiên Chúa… Tất cả đều là của chung cho canh em (Tu luật Thánh Âutinh).
Như tu luật dậy, sở dĩ anh em đoàn tụ làm một trước hết là để anh em chỉ có một lòng một ý trong Thiên Chúa (HP 2).
Như trong Hội Thánh của các tông đồ, sự hiệp thông giữa chúng ta phải được đặt nền, xây dựng và củng cố trong cùng một Thánh Thần, trong Người, chúng ta đón nhận Ngôi Lời bởi Thiên Chúa Cha bằng một đức tin, chúng ta chiêm ngưỡng bằng một tâm hồn và chúng ta ca tụng bằng một miệng lưỡi ; trong Người, chúng ta trở nên một thân thể vì thông phần cùng một Bánh ; sau hết, trong Người, chúng ta để mọi sự làm của chung và được cắt cử vào cùng một công việc loan báo Tin Mừng (HP 3).
Chắc chắn rằng Dòng của Thánh Đa Minh đặt nền tảng trên đời sống cộng đoàn, khi chọn tu luật thánh Âutinh, Dòng đã dựa trên gương mẫu Giáo Hội của các Kitô hữu thời đầu tại Giêrusalem. Ngay từ Hiến pháp nguyên thuỷ, khi nói đến đòi hỏi đồng tâm nhất trí trong đời sống chung, cha Đa Minh đã nhấn mạnh điều cốt yếu theo như ý Người : La vita apostolica, nếp sống của các tông đồ.
Thật rõ ràng thời của Thánh Đa Minh cách xa thế kỷ chủ trương đề cao cá nhân. Vào thế kỷ XIII, người ta không suy nghĩ bắt nguồn từ cá nhân, từ ý thức riêng, từ số phận cá nhân, như người ta sẽ làm vào thế kỷ XVI. Trái lại, vào thời Thánh Đa Minh, người ta suy tư về cộng đoàn, về ích lợi chung, về sự hiệp thông các thánh.
Trong các truyền thống tu trì trước Thánh Đa Minh, từ đó Người kín múc ý tưởng cho Dòng của mình, tất cả đều có tính cộng đoàn. Điều này có thể nhận thấy nơi các đan sĩ của thánh Biển Đức cũng như các tu sĩ Prémontrés của thánh Bruno. Tất cả đều mong muốn thực hiện lý tưởng của đời sống Kitô giáo như được miêu tả trong sách Công vụ Tông Đồ. Tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý, và để mọi sự làm của chung (x. Cv 2,44).
Khi Thánh Đa Minh nhận được linh hứng thành lập một Dòng gồm những người giảng thuyết, thánh nhân nghĩ ngay đến tính cộng đoàn. Người muốn rằng các anh em sẽ sống chung với nhau, cầu nguyện chung, và đi giảng thuyết chung với nhau.
Đàng khác, theo biên niên sử, ta thấy Đa Minh luôn ở giữa anh em. Người không bao giờ ở một mình. Điều ấy không thể tưởng tượng được. Người linh hoạt ngay tại các cộng đoàn được hình thành dần dần. Và khi phải di chuyển, Người đi từ tu viện này sang tu viện khác, tuân theo các tục lệ địa phương tại nhà cơm cũng như tại cung nguyện. Ngay cả khi đi đường, Người cũng không bao giờ đi một mình, nhưng luôn với một hay nhiều bạn đồng hành. Chính những người này thuật lại cho chúng ta những chứng từ quí báu về thái độ của Thánh Đa Minh trong những hoàn cảnh khác nhau. Ngày hôm nay cũng như thời xưa, đời sống chung không phải là điều dễ dàng. Câu châm ngôn sau đây vẫn đúng : Vita communis, maxima paenitentia, đời sống chung là việc đền tội lớn nhất.
Thánh Đa Minh được mô tả như một người có đủ mọi đức tính cần thiết cho đời sống chung.
Cha là một người khiêm tốn, dịu dàng, kiên nhẫn, nhân từ, thanh thản, ôn hoà, nhã nhặn, giản dị đạo hạnh, đầy chín chắn trong mọi hành động và lời nói. Cha là người an ủi mọi người, nhất là các anh em, là người rất nhiệt thành trong đời sống tu trì, và là người yêu mến sự nghèo khó, không ai sánh bằng (VIE tr. 46).
Chứng từ trên của anh Amizo thành Milan cũng trùng hợp với chứng từ của các anh em khác, và chứng từ này cũng nêu lên một nét mà mọi người đều đồng ý : Đa Minh là một người an ủi tuyệt vời của anh em, chúng ta cùng xem chứng từ của anh Phaolo thành Venise :
Thánh nhân là một người an ủi tuyệt hảo đối với anh em và những người lâm cảnh khốn khổ hay đang bị thử thách. Chứng nhân biết được điều này do kinh nghiệm riêng cũng như kinh nghiệm của những người khác (VIE tr. 70).
Nói theo ngôn ngữ ngày nay, thánh nhân có ơn đặc sủng để đồng hành thiêng liêng. Người không chỉ bằng lòng với việc lôi cuốn anh em vào Dòng, nhưng còn biết đồng hành với họ, nâng đỡ họ trong những lúc khó khăn, bảo vệ họ khi gặp những thử thách không tránh khỏi trong một cuộc sống đầy sóng gió, khuyến khích họ những khi nản chí, cảnh cáo họ những lúc phản bội. Bởi vì Thánh Đa Minh không hề thiếu can đảm, một điều rất hiếm trong đời sống chung : biết cứu lại những tội nhân mà không làm họ bị thương tổn. Người ta cũng thấy thánh nhân tỏ ra nghiêm khắc, ngay thẳng nhưng nghiêm nghị, như chứng từ của anh Frogier de Penna.
Vì thánh nhân tuân giữ lề luật cách nghiêm ngặt và đầy đủ, nên Người cũng yêu cầu các anh em phải trung thành như vậy. Nếu thấy anh em nào vi phạm, Người sẽ nghiêm phạt, nhưng lại với lòng khoan dung và những lời lẽ rất êm dịu, khiến không ai chống đối, dù rằng hình phạt rất nặng (VIE, tr. 73).
Theo Thánh Đa Minh, đời sống chung không chỉ giới hạn trong việc cùng sống dưới một mái nhà. Để cuộc sống này tốt đẹp, cần phải có yếu tố không thể thiếu là sự đồng tâm nhất trí. Trước tiên, điều này có nghĩa là chỉ có một tâm hồn : điều này không chỉ đúng trong đời sống cộng đoàn thông thường, dù rằng không phải là đơn giản, nhưng còn trong việc lãnh trách nhiệm tập thể trong đời sống cộng đoàn này. Như các bạn dòng Xitô, từ khi thức dậy đến khi đi ngủ, sống một đời sống đan viện hoàn toàn có tính cộng đoàn. Thánh Đa Minh muốn rằng các anh em của Người cũng sống đời sống cộng đoàn như thế, nhưng là đời sống của các tông đồ. Câu châm ngôn nổi bật của cách tổ chức này là : Điều gì cần được mọi người sống, phải do mọi người quyết định.
Đời sống cộng đoàn Đa Minh dựa trên sự đa dạng được chuẩn bị rất kỹ của các công hội. Thông thường, không bao giờ có anh em sống một mình. Họ sống thành tu viện, nói khác đi là sống hiệp thông. Tu viện được quy tụ thành công hội đều đặn. Những người nào có quyền đầu phiếu thì tham gia công hội. Tại đó người ta quyết định mọi việc : bầu bề trên tu viện, chấp nhận phó bề trên, đưa ra những định hướng tông đồ chính của tu viện. Ngay cả chi tiết của thời khoá biểu cũng được quyết định trong công hội.
Các tu viện họp nhau thành Tỉnh Dòng. Mỗi tỉnh dòng cũng có công hội để quyết định những gì liên quan. Tất cả các tỉnh dòng họp nhau thành Dòng Giảng Thuyết, và họp nhau ba năm một lần trong Tổng Hội để quyết định mọi sự, trừ việc thay đổi nét chính yếu của ơn gọi Đa Minh.
Vì vậy, cần thiết phải thực hành việc đồng tâm nhất trí : không có yếu tố này, các cuộc hội họp trở thành những việc cá nhân xếp cạnh nhau nhằm bảo vệ quyền lợi nghiệp đoàn, như người ta thường thấy trong các cuộc hội họp được gọi là dân chủ. Không có đồng tâm nhất trí, không thể nào có cộng đoàn, nhưng là những tập thể. Một điều như thế không hề có trong tâm trí Thánh Đa Minh, cũng không có trong dự phóng của Người. Tài năng thiên phú của Người là, ngay từ ban đầu, đã thấy được những nguy cơ của lối quản trị cộng đoàn này và đã dự trù những phương thế để việc quản trị này luôn có tính cộng đoàn và có thể thực hành được. Những người đương thời đều tin rằng toàn bộ Dòng của Người dựa trên lời cầu nguyện của Đấng Sáng Lập. Ngày nay, các anh em của Người vẫn tin như thế.
Người trợ giúp các nhà truyền giáo của mình nhờ lời chuyển cầu và nhờ sức mạnh của Chúa làm cho số người ấy tăng thêm mãi (LIB s. 62).
Tất cả những ai thực hành nếp sống này đều hiểu rằng đời sống cộng đoàn chỉ có thể thành công nếu người ta chịu trả giá. Và cái giá phải trả hệ tại việc cho đi chính mình hoàn toàn, không chiếm hữu, tận hiến mình cho người khác mà không đòi đáp trả. Điều này đúng trong đời sống thường ngày tại các tu viện và cũng đúng trong đời sống tông đồ. Đó cũng là trở nên khó nghèo, trong tinh thần của Thánh Đa Minh, không giữ bất cứ điều gì cho mình, nhưng trao tặng tất cả những gì mình đã lãnh nhận, sống lệ thuộc vào các anh em cũng như các ân nhân, tín thác vào lối lý luận tin mừng là mất tất cả để được tất cả.
Cần phải xác định rõ ràng và phải có sức mạnh của tâm hồn, như Thánh Đa Minh đã làm. Trong đoạn văn dưới đây, người ta sẽ nhận ra những nét cho thấy sự hiện diện đầy tinh tế của Người trong đời sống cộng đoàn (lòng trìu mến dạt dào, tận tuỵ hết mình).
Cha thánh đón nhận mọi người vào trong tấm lòng bao la của tình mến và, bởi vì Người yêu mến mọi người, nên mọi người yêu mến Người. Người ra luật riêng cho mình là vui với người vui, khóc với người khóc, dạt dào lòng trìu mến đạo hạnh và tận tuỵ hết mình lo cho người khác, đầy lòng thương với những người lâm cảnh khốn khổ (LIB s. 107).
Nhưng một khi đời sống cộng đoàn được thể hiện đúng mức như cần phải có, lại trở thành nguồn mạch đem lại niềm vui tuyệt vời, thứ niềm vui do Chúa hứa và thế gian không hiểu được. Chân phước Réginaldo đã kể lại chứng từ thay cho nhiều anh em :
Tôi nhớ lại khi cha thánh còn tại thế, anh Matthêu là người đã biết thánh nhân khi lúc ở ngoài đời, đã hỏi anh Réginaldo với đầy vẻ ngạc nhiên : Thưa Cha, Cha không cảm thấy khó chịu gì với bộ áo Dòng đang mặc chứ ? Nhưng ngài cúi đầu xuống và nói : tôi nghĩ rằng không có một công trạng nào để sống trong Dòng này, vì tôi tìm được ở đây quá nhiều niềm vui (LIB s. 64).