1. Một linh mục sống trong khu ổ chuột Á Căn Đình rất được Đức Thánh Cha thương mến đã qua đời
Một “linh mục khu ổ chuột” ở Á Căn Đình mà Đức Thánh Cha Phanxicô rất ngưỡng mộ đã qua đời hôm thứ Bảy 29 tháng 8 sau trận chiến kéo dài ba tháng với coronavirus. Ngài được dân chúng ca ngợi như một “vị tử đạo vì người nghèo”.
Cha Basilicio “Bachi” Britez, đã qua đời ở tuổi 52. Ngài đã bị các bệnh về thận, huyết áp cao và tiểu đường, vì vậy khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát ở Á Căn Đình, ngài được khuyên nên rời khỏi khu ổ chuột nơi ngài sống và phục vụ người dân vì không thể nào tuân thủ một chế độ kiểm dịch nghiêm ngặt trong những khu chật chội như vậy.
Cha Britez từ chối, và khẳng định rằng ngài không thể bỏ rơi những người mà ngài được giao phó chăm sóc và bảo vệ ở La Matanza, một trong những khu vực nghèo nhất trong vành đai công nghiệp của Buenos Aires.
Sau khi xét nghiệm dương tính với coronavirus vào tháng 6, Cha Britez đã phải nhập viện trong phòng chăm sóc đặc biệt tại bệnh viện San Camilo.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã theo dõi sát trường hợp của vị linh mục này, và nhiều lần gọi điện đến bệnh viện San Camilo để nói chuyện với ngài hoặc với những người chăm sóc khi cha Britez không thể nói chuyện được.
Trong một video gửi cho Đức Cha Edaurdo Garcia, Giám Mục giáo phận San Justo, là Giám Mục của Cha Britez vào tháng Bảy, Đức Thánh Cha Phanxicô nói ngài gần gũi với các linh mục sống trong các khu ổ chuột và đau buồn khi thấy Cha Bachi đang chiến đấu để giữ mạng sống mình trong nhà thương.
Ước tính có khoảng 4, 000 khu ổ chuột và các thị trấn tồi tàn ở Á Căn Đình, và tính đến năm 2018, hơn ba triệu người sống trong tình trạng vô cùng bấp bênh, nghĩa là không có ánh sáng, khí đốt hoặc cống rãnh. Đại dịch đã khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn, khi các biện pháp cấm vận nghiêm ngặt của chính phủ phải kéo dài đến ngày 20 tháng 9.
Thánh lễ an táng Cha Britez do Cha Jose Maria “Pepe” Di Paola, một người hoạt động lâu năm trong phong trào của các linh mục khu ổ chuột. Bên cạnh đó còn có mặt đại diện của ủy ban quốc gia chăm sóc mục vụ cho những người nghiện ngập, và mạng lưới Hogar de Cristo, nghĩa là Nhà của Chúa Kitô. Thánh lễ được cử hành sau khi đóng cửa và truyền trực tiếp, vì các nghi lễ phụng vụ công cộng đã bị cấm ở Buenos Aires trong hơn năm tháng.
Cha Di Paola cho biết Cha Britez sinh tại Paraguay, di cư đến Á Căn Đình cùng gia đình khi còn nhỏ, và luôn sống trong những khu ổ chuột. Cha Britez được nhiều người nhớ đến như là nhà lãnh đạo tiên phong trong mạng lưới rộng lớn Hogar de Cristo. Đó là các trung tâm dành cho những người nghiện ma túy, do Giáo hội điều hành và cơ sở đầu tiên được mở vào năm 2008 theo lệnh của Đức Hồng Y Jorge Mario Bergoglio, ngày nay là Đức Thánh Cha Phanxicô. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô biết rất rõ về Cha Britez.
Có 160 Hogares de Cristo trên khắp đất nước và họ đã làm một công việc vô cùng khó khăn là giúp hàng nghìn nam và nữ thanh niên – một số trẻ chỉ mới 9 tuổi – thoát khỏi tình trạng nghiện ngập paco.
Paco là loại ma túy bất hợp pháp rẻ nhất hiện có trên đường phố Buenos Aires, paco là thứ còn sót lại từ các xưởng sản xuất cocaine bán cho thị trường Hoa Kỳ và Âu châu. Đó là hỗn hợp thật kinh khủng bao gồm cocaine thô được cắt nhỏ, tẩm hóa chất, keo dán, thủy tinh nghiền nát và thuốc diệt chuột để gây nghiện cao.
Source:Crux
2. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ gặp gỡ gia đình có bốn người làm y tá điều trị bệnh nhân coronavirus
Bốn anh chị em trưởng thành, tất cả đều là y tá đã từng làm việc với bệnh nhân coronavirus trong thời kỳ tồi tệ nhất của đại dịch, sẽ được gặp Đức Thánh Cha Phanxicô, cùng với gia đình của họ vào ngày thứ Sáu 4 tháng 9.
Lời mời triều yết riêng với Đức Thánh Cha được đưa ra sau khi Đức Thánh Cha Phanxicô gọi điện cho hai anh em và hai chị em trong gia đình có 4 người con này. Tất cả đều là y tá đang làm việc trên chiến tuyến chống lại COVID-19 ở Ý và Thụy Sĩ.
“Đức Thánh Cha muốn ôm tất cả chúng tôi, ” Raffaele Mautone, người anh cả, nói với tờ báo La Regione, tiếng Ý phát hành ở Thụy Sĩ.
13 thành viên trong gia đình sẽ dâng lên Đức Thánh Cha Phanxicô một chiếc hộp chứa đầy những bức thư và bài viết của một số người đã bị ảnh hưởng trực tiếp bởi đại dịch COVID-19. Họ là những bệnh nhân, nhân viên y tế và những người phải than khóc cái chết của một người thân yêu.
Trong thời gian này, Valerio, 43 tuổi, đang đi bộ đến yết kiến Đức Giáo Hoàng. Trong năm ngày, anh đi bộ khoảng 80 km trên tuyến đường hành hương Via Francigena cổ đại, từ Viterbo đến Rome, để đến triều yết Đức Thánh Cha ngày 04 tháng 9.
Em gái của anh, Maria, 36 tuổi, đã xin lời cầu nguyện trên Facebook cho anh mình mà cô gọi là “người hành hương của chúng tôi”. Cô cho biết anh Valerio đang hành hương cho gia đình họ và cho tất cả các y tá và bệnh nhân trên thế giới.
Sau khi tiết lộ rằng cô ấy sẽ gặp Giáo hoàng, Maria đã viết trên Facebook rằng cô “rất vui khi được mang bức thư của bất kỳ ai muốn gởi cho Đức Phanxicô. Bạn không được xấu hổ. Cảm ơn bạn đã phơi bày những nỗi sợ hãi, suy nghĩ, lo lắng của bạn, ” cô nói.
Gia đình của các y tá bắt đầu nhận được sự chú ý từ các phương tiện truyền thông địa phương trong thời gian chính phủ Ý áp đặt lệnh cô lập, khi đợt bùng phát coronavirus ở thời điểm tồi tệ nhất.
Gia đình này quê quán ở Naples, nơi Stefania, 38 tuổi, vẫn sống tại đó.
Cha của họ cũng là một y tá trong 40 năm, và ba người dâu rể của gia đình cũng làm y tá. “Đó là nghề mà chúng tôi yêu thích. Hôm nay còn nhiều hơn thế, ” Raffaele nói với tờ Como La Provincia của thành phố April.
Raffaele, 46 tuổi, là anh cả, sống ở Como, nhưng làm việc tại một khu vực nói tiếng Ý ở miền nam Thụy Sĩ, tại thị trấn Lugano. Vợ anh cũng là một y tá và họ có ba người con.
Kế đến là Valerio, 43 tuổi. Rồi đến Stefania, 38 tuổi. Người em út là Maria, 36 tuổi.
Valerio và Maria đều sống và làm việc tại Como, cách biên giới Ý – Thụy Sĩ không xa.
Stefania nói với tạp chí Città Nuova rằng vào đầu đại dịch, cô đã bị cám dỗ ở nhà vì có con gái nhỏ. “Nhưng sau một tuần, tôi tự nhủ: ‘Nhưng một ngày nào đó, tôi sẽ nói gì với con gái mình? Tôi không thể bỏ trốn như thế? Tôi đã tin tưởng vào Chúa và tôi đã bắt đầu quay lại làm việc”
“Tái khám phá tình nhân loại là cách chữa bệnh duy nhất, ” cô nói và lưu ý rằng cô và các y tá khác đã giúp bệnh nhân gọi điện video vì người thân không được phép đến thăm và khi có thể, cô hát các bài hát cổ điển của Naples hoặc bài “Ave Maria” của Schubert để mang lại niềm vui cho các bệnh nhân.
Maria làm việc trong một khu phẫu thuật tổng quát, nơi đã được biến thành một đơn vị chăm sóc đặc biệt cho các bệnh nhân COVID-19. “Tôi đã tận mắt nhìn thấy địa ngục và tôi không quen nhìn thấy những người chết này, ” cô nói với Città Nuova. “Cách duy nhất để gần gũi với người bệnh là chạm vào họ.”
Raffaele cho biết anh được truyền cảm hứng từ các y tá đồng nghiệp của mình, những người đã dành hàng giờ để nắm tay bệnh nhân, ở bên họ trong im lặng hoặc lắng nghe câu chuyện của họ.
“Chúng ta cần thay đổi hướng đi cả về con người và thiên nhiên. Virus này đã dạy chúng tôi điều này và tình yêu của chúng tôi càng phải dễ lây lan hơn, ” anh nói.
Anh nói với tờ La Provincia rằng anh tự hào về “sự dấn thân của các anh chị em trong gia đình trên tuyến đầu trong những tuần lễ này.”
Source:Catholic News Agency
3. CNN tìm cách xuyên tạc diễn từ của nữ tu Deirde Byrne
Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, cho biết CNN đã phát sóng bằng tiếng Tây Ban Nha diễn từ của nữ tu Deirde Byrne, nguyên là Đại Tá Quân Y trong quân đội Hoa Kỳ trước khi bước vào đời sống tu trì. Trong chương trình phát hình của CNN, từ phò sinh, tiếng Anh là “pro-life” đã bị cố ý dịch sang tiếng Tây Ban Nha là “anti-aborto” nghĩa là “chống phá thai”. Đây là một động thái khiến người ta phải đặt ra câu hỏi về sự liêm chính của CNN.
Trong diễn từ vào ngày 26 tháng 8 tại Đại hội Toàn quốc của Đảng Cộng hòa, Sơ Deirde Byrne đã sử dụng cụm từ “phò sinh” ba lần: một lần để nói đến bản thân, một lần ám chỉ Tổng thống Donald Trump, và một lần để nói đến cộng đồng phò sinh tại Hoa Kỳ.
Trong cả ba trường hợp, mạng tin tức CNN en Español đã dịch cụm từ này là “anti-aborto” nghĩa là “chống phá thai”.
“Pro-vida” là một cụm từ tiếng Tây Ban Nha thường được sử dụng để dịch cụm từ “pro-life” trong tiếng Anh. Những người ủng hộ cụm từ này nói rằng “phò sinh” gợi lên một cam kết rộng rãi đối với phẩm giá của cuộc sống con người, còn cụm từ “chống phá thai” là một cách diễn đạt tương đối giản lược không truyền đạt cùng một ý nghĩa, và nhằm mục đích kích động sự căm ghét của các thành phần phò phá thai đối với diễn giả.
Việc sử dụng cụm từ “anti-aborto” thay vì “pro-vida” để dịch cụm từ “pro-life” của sơ Byrne đã gây ra sự thất vọng từ một số người ủng hộ cuộc sống nói tiếng Tây Ban Nha.
“Bài phát biểu của nữ tu Deirdre Byrne trong Hội nghị Quốc gia của Đảng Cộng hòa đã chỉ ra tầm quan trọng của việc phải có một lập trường phò sinh rõ ràng từ quan điểm khoa học, đức tin và tình nhân loại nói chung, ” Marcial Padilla, giám đốc của tổ chức ủng hộ cuộc sống Mexico Concience và Participación, nói CNA.
“CNN en Español đã quyết định tự làm nhục mình, và không có sự lịch sự tối thiểu để dịch những lời của sơ Deirdre một cách chính xác. Tôi hy vọng sự gian trá của CNN được các cử tri ghi nhận. Họ nên biết rằng CNN không phải là nguồn thông tin khách quan. Thật không may, các phương tiện truyền thông lớn trên thế giới đang trở thành những người đưa tin kém khách quan hơn và ngày càng trở thành các nhà vận động chính trị chống lại quyền sống, ” Padilla nói thêm.
Bác sĩ María Denisse Santos người Mexico của Coalición de Líderes Provida nói với CNA rằng “nói rằng chúng tôi là những người ‘phò sinh’ là nói sự thật, bởi vì chúng tôi thực sự đang bảo vệ quyền sống của những thai nhi bé nhỏ. Cố gắng che giấu sự thật đó bằng cách gọi chúng tôi là ‘chống phá thai’, như CNN en Español đã làm với bài phát biểu của nữ tu Byrne, đã vạch trần thực tế là họ sợ phải thừa nhận rằng ‘phò lựa chọn’ là ủng hộ cái chết của một ai đó”
“Nhưng sự thật cuối cùng sẽ sáng tỏ, rằng chúng ta ủng hộ cuộc sống và ủng hộ cuộc sống vĩnh cửu, ” Santos nói.
Xu thế phò phá thai trong văn phong của các cơ quan truyền thông thế tục
Hướng dẫn văn phong của Associated Press, được các nhà báo ở Mỹ sử dụng rộng rãi, khuyến khích các nhà báo sử dụng cụm từ “chống phá thai” thay vì “phò sinh”. Cũng vậy nó đề nghị sử dụng cụm từ “quyền phá thai” thay vì “ủng hộ phá thai” hoặc “phò lựa chọn”.
Các hướng dẫn văn phong của Washington Post và New York Times cũng những chỉ dẫn tương tự.
Tuy nhiên, hướng dẫn văn phong AP đặt ra những ngoại lệ đối với việc trích dẫn, người ta nói làm sao thì mình viết lại y như thế, là điều mà đạo đức báo chí yêu cầu phải được tuân thủ với độ chính xác hoàn toàn.
Cuốn Sổ tay Báo chí của Reuters giải thích rằng “những câu trích dẫn là bất khả xâm phạm. Chúng không bao giờ được thay đổi trừ ra việc xóa một từ hoặc mệnh đề thừa, nhưng chỉ khi việc xóa đi ấy không làm thay đổi ý nghĩa của câu trích dẫn dưới bất kỳ trường hợp nào.”
Về việc dịch các trích dẫn, Reuters nói rằng “khi dịch các trích dẫn từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, chúng ta nên dịch theo ý nghĩa tương đương thay vì từng chữ. Cần phải cẩn thận để đảm bảo rằng giọng điệu của bản dịch tương đương với giọng điệu của bản gốc.”
Quy tắc đạo đức của Hiệp hội Dịch giả Hoa Kỳ giải thích rằng “tính toàn vẹn về ngôn ngữ là cốt lõi của những gì người dịch và người phiên dịch phải tuân thủ.”
Các cuộc thăm dò cho đến nay nói rằng cử tri người Mỹ Latinh ủng hộ ông Joe Biden hơn Tổng thống Trump. Tuy nhiên, tổng thống nhận được sự ủng hộ của một tỷ lệ lớn hơn các cử tri Công Giáo Mỹ Latinh so với năm 2016. Chiến dịch tái tranh cử của Tổng thống Trump đã nhấn mạnh quan điểm rằng Tổng thống Trump là “vị tổng thống phò sinh nhất trong lịch sử” khi tiếp cận với các cử tri có niềm tin tôn giáo.
Source:Catholic News Agency
Ký giả Christopher Bedford của tờ The Federalrist có bài nhận định sau về diễn biến này. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi qua lời dịch sang Việt Ngữ của Kim Thúy.
Đối với bất cứ ai có may mắn được biết người Công Giáo đặc biệt nhất của tổng giáo phận này, điều đó sẽ không có gì đáng ngạc nhiên. Không phải vì vị linh mục này đã viết và rao giảng chống lại những tín hữu đang co rúm lại vì sợ chết, như một bài báo gây ngạc nhiên của tờ Washington Post đang muốn bạn tin, mà bởi vì không giống như đại đa số chúng ta, từ chính trị đến bục giảng cho đến những hàng ghế, Đức Ông Pope sống những gì ngài rao giảng, và ngài làm như thế không chút sợ hãi.
“Cha sở một nhà thờ Công Giáo trên Đồi Capitol, người kêu gọi mọi người đừng ‘thu mình lại vì sợ hãi’ coronavirus chủng mới đã mắc Covid-19, ” Rebecca Tan của Washington Post viết hôm Chúa Nhật 2 tháng 8. Để nhạo báng Đức Ông, cô ta trích dẫn câu ngài thường nói: “Cuộc sống còn nhiều điều hơn là không bị bệnh và không chết, ” và xuyên tạc rằng Đức Ông đã từng dùng từ “nguội lạnh” để quở trách những người Công Giáo không có nguy cơ nghiêm trọng vì coronavirus, nhưng vẫn không quay lại với Thánh lễ – là điều mà ngài mạnh mẽ phủ nhận. “Tôi chưa bao giờ nói rằng những người Công Giáo chưa quay trở lại với thánh lễ là nguội lạnh”, ngài nói với tờ The Federalist. “Có rất nhiều người chưa nên quay trở lại và tôi đã luôn thận trọng, ” ngài nói thêm.
Một ngày sau đó, hôm 3 tháng 8, Tờ Business Insider nhại lại tờ Washington Post: “Một linh mục từng nói với giáo dân đừng sợ coronavirus đã phải nhập viện vì COVID-19”.
Đáng buồn thay, trong một nền văn hóa tôn vinh một cách đúng đắn sự dũng cảm của các nhân viên y tế tuyến đầu nhưng trong sự kiêu ngạo và nhẫn tâm của nó lại tấn công các linh mục, các mục sư và các nữ tu trên tuyến đầu chăm sóc cho linh hồn chúng ta. Điều này có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên: Đức Ông Pope và các giáo sĩ khác như ngài đang đi trên những con đường không tương hợp với thế gian này.
Cuộc đời của một linh mục tốt là một cuộc đời viên mãn, và những đường lối các ngài chọn để theo cũng rất nhiều. Đức Ông Pope đã chọn một cuộc đời thi hành sứ vụ công khai, nói chuyện với các tín hữu trên đài phát thanh, trong các bài viết thường xuyên của mình, trong nhà của họ, tại nhà riêng, trong công viên, trên đường phố, và trong các bài giảng lễ của ngài.
Các bài giảng của ngài thường dài gần gấp ba lần các bài giảng trung bình trong các thánh lễ Chúa Nhật tại Mỹ, và rất nổi tiếng ở địa phương, thu hút cả các Kitô hữu thuộc nhiều giáo phái và truyền thống khác đến với ngôi nhà thờ theo truyền thống là nhà thờ dành cho người da đen mà ngài phục vụ từ năm 1993 đến 1999, sau đó bắt đầu lại từ năm 2007 cho đến nay. Trong khi người Công Giáo New England giống như bản thân tôi chưa bao giờ được dự một thánh lễ trong đó bài Phúc Âm được hát, các ca đoàn vỗ tay và nhảy múa, giáo xứ đã đón chúng tôi với tình cảm nồng nhiệt mà họ dành cho Đức Ông Pope, cũng như ngài đã dành cho họ.
Năm 1993, Đồi Capitol là một môi trường nguy hiểm, bị ô nhiễm bởi ma túy và bị bao vây bởi bạo lực. Những cô gái mại dâm, cả những kẻ mại dâm đồng tính cũng có mặt và hoạt động công khai, sát cánh với những tay buôn bán ở Công viên Lincoln xinh đẹp. Các băng nhóm giết hại lẫn nhau mà không hề sợ hãi chính quyền, và cửa ra vào cũng như cửa sổ của nhiều ngôi nhà phải được bảo vệ bằng những thanh kim loại giống như nhà tù. Đức Ông đã đón nhận cộng đồng của mình, dạy các tín hữu và thách thức họ, chính ngài, và những người xung quanh họ hãy trở thành những người Công Giáo tốt hơn.
Ngài công khai cho chúng ta biết về con đường đến với Chúa của ngài, và về những cuộc đấu tranh cá nhân sâu sắc mà ngài đã vượt qua bằng đức tin. “Tôi không phải là người mà tôi muốn trở thành, ” ngài thích nói câu đó, trích dẫn một bài thánh ca nổi tiếng, “nhưng tôi không phải là con người tôi đã từng là.”
“Anh chị em có thể cho tôi một tiếng amen không? “
“ Amen!” Tiếng hồi đáp vang lên từ các hàng ghế.
Đức Ông cũng mang Lời Chúa đến với thế giới thế tục, công khai phản đối văn hóa sự chết của người Mỹ và tư vấn cho các nạn nhân của nó, cũng như đi dạo Công viên Lincoln hàng ngày để cầu nguyện lần hạt với các nữ tu dòng các Nữ tì của Chúa và Đức Trinh nữ Maria gần đó. Những điều này, ngài nói, đến với ngài một cách dễ dàng. Thử thách thực sự của ngài nằm sau những cánh cửa đóng kín, nơi ngài và ba linh mục khác ở Washington – với sự hỗ trợ của những giáo dân dũng cảm – cầu nguyện và đương đầu với bóng tối trong nhiệm vụ đáng sợ và nguy hiểm của họ như những người trừ quỷ của tổng giáo phận.
May mắn thay cho giáo xứ của ngài, chúng tôi có một giáo sĩ tuân thủ các giao thức để giữ an toàn cho những người dễ bị tổn thương nhưng cũng từ chối đóng cửa khi đại dịch và sự cuồng loạn tiếp theo ập đến với chúng tôi, khi giáo dân dễ bị tổn thương nhất, khi người dân bị thiệt hại về thể chất, tài chính, và về mặt tâm linh, và khi nỗi sợ hãi và sự hèn nhát đã lây nhiễm cho tầng lớp ưu tú, bao gồm nhiều nhà lãnh đạo của chính Giáo Hội.
“Coronavirus, Lạy Chúa, Chúa ở đâu? ” Đức Ông Pope nêu câu hỏi trong một bài báo hồi tháng 5, và nhắc nhở độc giả của ngài rằng thánh thư dạy chúng ta rằng Chúa Kitô đã đến để “tiêu diệt kẻ nắm giữ quyền lực của sự chết, tức là ma quỷ, và giải phóng những người cả đời bị làm nô lệ bởi nỗi sợ hãi cái chết.”
“Chúng ta đã hạn chế và thậm chí từ chối các bí tích dành cho các tín hữu, ” ngài than thở trong một bài viết hai tháng sau đó. Điều này “truyền đạt thông điệp thầm lặng rằng sức khỏe thể chất quan trọng hơn sức khỏe tinh thần.”
Trích dẫn Thánh Vịnh, ngài viết “Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày, cả dịch khí hoành hành trong đêm tối, cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.” Hình ảnh tiêu biểu cho đoạn Thánh Vịnh này là bức tranh, “Đi bộ trên nước của Ivan Aivazovsky” trong đó mô tả trình thuật Chúa Giêsu quở trách Thánh Phêrô vì sợ hãi “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi? ”
Thái độ bác bỏ sự hèn nhát của ngài không có nghĩa là Đức Ông Pope đã liều lĩnh, như bài báo của tờ Washington Post nói. Chính Đức Tổng Giám Mục của chúng ta đã chủ sự thánh lễ công khai đầu tiên kính hai thánh Corlêliô và Cyprianô, như một ví dụ về cách thận trọng trở lại các Bí tích. Nơi chúng ta đã từng có nước thánh, bây giờ chúng ta có chất khử trùng; giáo dân được yêu cầu đeo khẩu trang y tế và đứng cách xa ra; số lượng các tín hữu tham dự cũng bị hạn chế; ngay cả ca đoàn hát phúc âm mà người Công Giáo ở New England rất yêu mến cũng vắng mặt.
Nhưng trong cuộc tấn công của kẻ ác trên khắp đất nước, Đức Ông vẫn bị lên án.
Trong một video cập nhật tình trạng của mình, Đức Ông đã chia sẻ với chúng tôi ngài đã khóc trước mặt người y tá khi biết mình có kết quả xét nghiệm dương tính. Cô ấy nói “Ông sợ COVID đến thế sao? ” Nhưng nước mắt của ngài không phải dành cho chính mình: đó là dành cho chúng tôi. “Tôi là một linh mục, ” ngài nói với cô y tá. “Tôi đã chạm vào hàng trăm sinh mạng theo nghĩa đen và nghĩa bóng và tôi có thể thấy tất cả quân cờ domino đang rơi xuống, mọi người trong nhà xứ sẽ phải cách ly, tôi có thể thấy những con số khổng lồ những người bị ảnh hưởng.”
Sau khi đã qua thời kỳ nguy hiểm, Đức Ông Pope nhận xét rằng:
“Tôi không biết tại sao Chúa lại cho phép điều này xảy ra vào lúc này. Ngài đã để rất nhiều đau khổ xảy ra trong cuộc sống của tôi trong năm qua. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi yên tâm biết rằng Chúa biết tại sao, và điều đó mang lại cho tôi sự bình yên.”
Trong vài tháng qua, Đức Ông Pope đã cố vấn cho tôi vượt qua một số thời điểm khó khăn nhất trong cuộc đời tôi bất chấp những rủi ro có thể gây ra cho ngài khi ngài gần 60 tuổi. Trong thông điệp video của mình, ngài cảm ơn giáo xứ vì những lời cầu nguyện của chúng tôi, và ngài xin lỗi vì đã mắc phải coronavirus và khiến chúng tôi gặp rủi ro. Chúng tôi biết ngài xin lỗi, nhưng chúng tôi rất đau lòng khi nghe điều đó vì chúng tôi biết sự hy sinh riêng tư của ngài – và bây giờ là công khai – đã được đưa ra không do dự, vì lợi ích của chúng tôi. Tờ Washington Post đã dùng ngay lời xin lỗi hoàn toàn không cần thiết của ngài để chế nhạo ngài.
Tại sao lại cố gắng thực hiện một sự thiếu trung thực để nhục mạ một linh mục tốt lành và vị tha? Tại sao điều này lại được chấp nhận ở rất nhiều giai tầng trong nước Mỹ này?
Với những người quan tâm đến sức khỏe thể chất của chúng ta, những người làm việc cho các cửa hàng tạp hóa của chúng ta, những người đáp lại lời kêu gọi của họ để làm nhiệm vụ thường được ca tụng là những người lao động tuyến đầu cao quý. Trong khi đó, đất nước chúng ta lại đi nhục mạ một linh mục làm việc để cứu linh hồn chúng ta. Lấy được cả và thế gian mà đánh mất linh hồn thì có ích gì? Chúng ta vẫn hiểu điều này khi chúng ta gửi các tuyên úy đến tiền tuyến chiến đấu bên cạnh quân đội của chúng ta, nhưng trong tình trạng suy tàn ở quê nhà, nhu cầu của linh hồn nhanh chóng bị loại bỏ khi đối mặt với cái chết.
“Một phần lý do khiến tôi nghĩ rằng tầng lớp giàu có và trí thức lo lắng và sợ hãi về điều này hơn là những người khác, người nghèo và tầng lớp lao động chẳng hạn, đó là vì những người giàu có và có nhiều đất đai lo lắng nhiều về những thứ xa hoa”. Đức Ông Pope đã chia sẻ trong một chương trình hồi tháng 5 trên The Federalist Radio Hour.
“Sự giàu có xa hoa thường dẫn chúng ta đến chỗ nghĩ rằng chúng ta có quá nhiều thứ để mất”
Trong một bài viết khác đăng vào tháng Bảy, Đức Ông viết: “Chúng ta hãy trở lại câu hỏi của Chúa: ‘Tại sao lại sợ hãi? ’ Trường hợp xấu nhất, và ít có khả năng xảy ra nhất, là bạn sẽ chết, nhưng đối với một Kitô hữu, cái chết có ý nghĩa, và ‘Chết là được’ (Phil 1:21). Liệu rằng chúng ta có lo lắng nhiều cho linh hồn của mình như chúng ta làm cho cơ thể của chúng ta hay không!”
Cảm tạ Chúa cho những người biết mối nguy hiểm lớn nhất là mất linh hồn mình. Và xin Chúa phù hộ cho Đức Ông Charles Pope.
Khi chúng tôi dịch bài này, tin mới nhất cho biết Đức Ông đã hoàn toàn bình phục và quay lại làm việc, ngài không chết như bọn Washington Post mong mỏi!
Source:The Federalist