Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
Lời Chúa: Xp 2,3 – 3,12-13; 1Cr 1,26-31; Mt 5,1-12a
Bài đọc 1: Xp 2,3 ; 3,12-13
Bài trích sách ngôn sứ Xô-phô-ni-a.
Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở,
những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa,
anh em hãy tìm kiếm Người ;
hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường
thì may ra anh em sẽ được che chở
trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa.
Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa.
Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ.
Bài đọc 2: 1 Cr 1,26-31
Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô.
Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem : khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh ; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người. Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, hợp như lời đã chép rằng : Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu (Mt 5,1-12a).
Khi ấy, thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Người lên tiếng dạy họ rằng :
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại
và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Phúc cho những ai…
Cùng theo chủ đề ba bài đọc tuần trước, bài đọc một hôm nay tiếp tục kêu gọi những người tin Chúa “hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường”. Thú vị thay, lời Chúa không phải mời gọi cách chung, cũng không phải mời gọi những người khôn ngoan thông thái, người có địa vị cao, có quyền thế mạnh, có tài năng vượt trội v.v… Song lại kêu mời
“Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở,
những kẻ thi hành mệnh lệnh của ĐỨC CHÚA,
anh em hãy tìm kiếm Người;
Những điều này mang ý nghĩa gì? Tại sao lại như thế?
Người thế gian (trong đó có chúng ta) vốn tìm kiếm sự khôn ngoan thông thái, làm mọi cách để có địa vị cao hay trở nên quyền thế, học tập cho có tài năng, lanh, giỏi… Chủ ý là để mình được tôn vinh, được coi trọng, đây là tinh thần thế tục đã làm cho anh Lu-xi-phe lẫn Tổ Tông con người vấp ngã. Nên chính vì đó, người ta có tâm thức cao ngạo muốn nâng mình lên, và chủ tâm theo đuổi những mục tiêu trần thế như thế để tạo vẻ vang cho mình. Nói cách khác, mong muốn học theo thói đời cho đạt được những hư danh và quyến rũ của thế gian phục vụ cho cuộc sống tạm bợ. Linh hồn trở nên con mồi rất ngon cho các anh kéo mạnh tay vào hỏa ngục. Bởi thế Chúa không ưa thích những người đó, do đó họ không thuộc về những người được Chúa chọn. Như Chúa từng nói bóng bẩy trong sách Thánh Vịnh
“Vó ngựa phi, Chúa không ưa chuộng,
chẳng thích gì chân kẻ chạy nhanh,
nhưng ưa chuộng những ai kính sợ CHÚA,
và trông cậy ở tình thương của Người.” (Tv 147,10-11)
Tinh thần của Chúa ngược lại với tà khí anh Lu-xi-phe đã đặt để trong con người sau tội nguyên tổ, nên cũng ngược lại với dòng đời, ngược với tâm trạng tự nhiên nơi mỗi chúng ta. Lời Chúa hôm nay thúc giục chúng ta hướng về sự tốt lành vĩnh cửu, để biết xem nhẹ những quyến rũ của thế gian.
“hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường
thì may ra anh em sẽ được che chở
trong ngày thịnh nộ của ĐỨC CHÚA.”
Sự công chính và đức khiêm hạ nầy, thánh Phao-lô phân tích rõ nơi thư gởi giáo đoàn Cô-rin-tô. “Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người.” Tắt rằng, Chúa ghét những người tự phụ, tự hào về bản thân mình, vì tất cả là do ân sủng của Chúa mà có.
Một thực trạng nữa, Vị Thánh dân ngoại tinh tế phân bày, bổ sung thêm cho những phân giải trên đây “khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái.” Từ những ý nghĩa lời Chúa trên đây cho thấy, chúng ta nhận ra Chúa yêu chọn những người bé nhỏ, nghèo hèn, thấp kém… Tại sao thế? Vì những hạng người tầm thường, hèn mọn nầy họ không cậy vào sức mình hay tài năng của mình, mà dễ dàng tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Cho nên Chúa Giê-su ca tụng thánh ý Chúa Cha, đồng thời vui mừng cho vinh phúc đời đời của họ “Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Lc 10,21)
Đến đây, chúng ta thấy rất rõ ràng Chúa yêu chuộng người khiêm hạ, dấu ái những ai biết tìm kiếm Chúa và cậy trông vào Người. Điều này đồng nghĩa, yêu kính Chúa là chọn sống khiêm hạ, nhỏ hèn trước mắt nhân gian.
Chân lý rất rõ ràng, lời Chúa phơi bày minh bạch, nhưng có vô số người kém tin, không giữ lời Chúa trong tim mình. Trong đời sống thường ngày, dầu ở địa vị nào có rất nhiều người không sáng suốt, vẫn cố gắng đi tìm mình trên con đường đức tin. Nên cho dẫu nhiệt thành đến mấy cũng chỉ dừng lại ở bậc đạo đức là cao.
Những người sống cho mình, cho thế gian như thế, họ sẽ nhận được rất ít phúc lành Chúa nói qua bài Hiến Chương Nước Trời.
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.”
Tâm hồn nghèo khó: Một tâm hồn biết bằng lòng sống cảnh nghèo, vâng theo ý Chúa, sẵn sàng đón lấy những gian nan khốn khó của cảnh nghèo Chúa quan phòng xảy đến với mình. Có như vậy mới được chúc phúc.
Chúa Giê-su dạy con người, nếu Chúa quan phòng cho phải nghèo, thì hãy vui nhận cuộc sống nghèo với những khó khăn: một cuộc sống vất vả, nhọc nhằn, thiếu thốn, khổ sở; và vui nhận cả những gian truân, mất mát, cơ cực cuộc sống. Như vậy mới có được phần thưởng vui hưởng hạnh phúc và vinh quang Nước Trời. Nhưng không giữ lời Chúa trong tâm hồn, hầu hết ai cũng muốn sống giàu sang, sung sướng, thảnh thơi, nhàn hạ! Do đó đánh mất mối phúc nghèo mà không hay biết.
Lời dạy bảo của Chúa Giê-su đi ngược dòng đời, trái hẳn với tính tự nhiên của con người. Cho nên người tín hữu phải chiến đấu với bản thân, vui lòng đón nhận gian truân, đau khổ, sỉ nhục mới có thể “sống nghèo” theo bậc sống của mình.
Thật phúc thay cho người luôn giữ được đức khó nghèo trong cuộc sống và trong tâm hồn
“Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.”
– Hiền lành: Hiền từ và nhân lành: Rất hiền hòa và giàu lòng thương người.
– Đất Hứa (nghĩa đen): Đất đai làm gia nghiệp ở đời này.
Nghĩa bóng: Nước Thiên Chúa, cõi vinh phúc vĩnh hằng.
Trong thời nay, với tình trạng hoang tàn ân sủng, đây là mối phúc với số đông tín hữu rất khó thực hiện. Vì con người tự nhiên vốn dễ bực tức, giận dữ, nóng nảy, bẳn gắt, giàu tự ái, tự ti… thì sao hiền lành được? Chưa nói đến nghĩa hiền lành cao sâu, chỉ nói đến ứng xử tự nhiên giữa người với người đã thấy khó hiền lành. Tức là không giận dữ, không kiêu ngạo, không lớn lối, cả quyền, bỏ ý riêng để sống hòa thuận với người chung quanh… đã rất khó. Thêm vào đó, phải hiền lành nhẫn nại với chính mình khi đối mặt với tội lỗi hay sự yếu đuối của bản thân. Hiền lành đón nhận mọi điều trái ý Chúa quan phòng, càng khó hơn nữa.
Hiền lành khi bình yên, lúc hợp ý, gặp chuyện hiền hòa, thì tương đối dễ. Nhưng hiền lành đến ngoan ngùy đón nhận ý Chúa, đón nhận người chống nghịch hay ghét bỏ mình trong ôn hòa yêu thương, càng khó hơn. Bởi khi đối mặt với việc trái ý, với kẻ nghịch, với hoàn cảnh thật đau thương, nghiệt ngã hoặc sai lầm, mới thật sự cọ xát đến tầng sâu của linh hồn. Có trải qua những cuộc chiến tâm linh như thế, mới có cơ hội nhận ra tính chất “không hiền lành” nơi phận người của mỗi chúng ta. Ít nhiều chúng ta sẽ thấy sự phản ứng tiêu cực ngay trong nội tâm, dù chỉ lóe lên rồi bị dập tắt ngay bởi ý thức. Thì bản chất thánh của chúng ta vẫn còn lợn cợn bởi tự ái, còn chống cưỡng ý Chúa, do cảm thấy mình quá đau khổ rồi v.v…
Hiền lành đích thực không nằm ở hành động thể hiện mà ngay trong nội tâm. Một sự hiền lành phong phú lòng nhẫn nhục, từ ái và thật lòng hân hoan đón nhận thánh ý Chúa dù bối cảnh cuộc sống có nghiệt ngã đến thế nào, có gây đau khổ ra sao đi nữa. Thì linh hồn vẫn ngọt ngào, dịu dàng vâng theo ý Chúa. Bên ngoài, không có khuynh hướng trả thù, ghen ghét, không muốn làm hại hay làm tổn thương ai, dù vô tình. Không muốn có bất cứ ai phải đau khổ, phải hổ nhục, chịu thiệt thòi vì mình. Hiền lành đến giàu lòng trắc ẩn, chiều sâu lòng thương xót mở rộng đến sẵn sàng dâng hiến bản thân mình vì yêu thương đồng loại, yêu thương thọ vật Chúa dựng nên. Nó được thể hiện ra bởi một bản chất con người đã đượm nhuần ơn thánh, ảnh hưởng sâu sắc tinh thần của Phúc Âm.
Sự hiền lành của mối phúc thứ hai, chẳng khác nào một loài hoa đẹp và cao quý chỉ nở trên đất đầy phù sa khiêm hạ và bác ái.
“Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.”
– Sầu khổ: buồn sâu trong lòng và xâu xé tâm hồn bởi cảm xúc gian nan cơ cực vì muôn sự trần ai.
– Thiên Chúa ủi an: Thiên Chúa xoa dịu nỗi đau, nâng đỡ vượt qua khổ sầu hay ban ơn bù đắp…
Phải chăng Thiên Chúa không quan tâm đến nguồn gốc gây ra đau khổ phiền sầu mà người thế phải chịu, khi ban ơn an ủi cho một ai đó? Có thể nói cách chung là như vậy, Thiên Chúa không quan tâm đến nguyên nhân gây ra đau khổ cho một người. Chân lý nói lên: có người sầu khổ Thiên Chúa sẽ ủi an. Ví dụ, do nghịch cảnh làm cho họ phải sầu khổ, hay do lỗi của người khác đem đến sầu khổ cho họ, hoặc do chính bản thân họ gây ra đau khổ cho chính mình. Bởi vì tình Cha của Thiên Chúa có lòng thương xót con người cách vô biên, nên Người luôn sẵn sàng nâng đỡ ủi an những ai phiền sầu, đau khổ, cơ cực tâm linh… Tuy vậy, sự khác biệt giữa các đối tượng sẽ cho ra mức độ an ủi, cách an ủi và thời gian an ủi của Người sẽ rất khác nhau.
Thiên Chúa an ủi linh hồn bằng nhiều cách. Có khi Ngài quan phòng làm cho nỗi sầu khổ vơi đi liền ngay hay sau đó, hoặc gia tăng sức mạnh cho linh hồn chịu đựng khổ sầu cách đẹp lòng Chúa. Nhưng có lúc Ngài lại im lặng, rồi ban cho ân huệ khác để bù đắp những sầu khổ mà linh hồn buộc phải gánh chịu để lợi ích hơn cho linh hồn. Sự bù đắp này có thể được ban cho linh hồn ở đời này hoặc đời sau.
Chỉ có một thứ sầu khổ mà Thiên Chúa không bao giờ an ủi. Đó là sầu khổ bởi thấy mình phạm tội còn ít, hay gây đau khổ cho người khác chẳng nhiều… Tức là nỗi sầu khổ tuyệt vọng của môn đệ Xa-tan ở đời này, hay của chính Anh ta và anh em ở hỏa ngục.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Mục lục
1. Phúc thay người nghèo (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hạnh phúc (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt)
3. Lựa chọn của Chúa Giêsu (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
4. Hạnh phúc khi trao ban (Lm. Jos.Tạ Duy Tuyền)
5. Chúa kêu gọi ta là kẻ nghèohèn vào NướcThiênChúa (Lm.Đaminh TrầnĐình Nhi)
6. Tuyên ngôn tâm linh (Trầm Thiên Thu)
7. Nẻo về hạnh phúc (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
8. Tám mối phúc thật (Lm. Thu Băng, CRM)
9. Chúa tôn người khiêm hạ (Lm. Minh Vận, CRM)
10. Chúa muốn con người hạnh phúc (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
11. Hạnh phúc ơi, Mi là gì? (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
12. Bàn tay Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)
13. Hạnh phúc là Tình Yêu và là Sự Sống (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
14. Sự khiêm tốn (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
15. Tin vui cho muôn người (Lm. Phạm Ngọc Ngôn)
16. Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó (Lm. Thiện Cẩm)
17. Hạnh phúc. (Lm. Nguyễn Ngọc Long)
18. Chúa là phúc thật (Lm. Phạm Quốc Hưng)
19. Phúc thật, phúc giả (Lm. Bùi Quang Tuấn)
20. Chúa Nhật 4 Thường niên_A (Lm. Antôn)
PHÚC THAY NGƯỜI NGHÈO
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta đang đón mừng xuân Canh Tý. Trong những ngày Tết cổ truyền của Dân tộc, ai cũng cầu chúc cho nhau sự thành đạt, giàu có, của cải như nước, luôn dồi dào và dư dả. Ấy vậy mà Lời Chúa hôm nay lại chúc phúc cho những người có tâm hồn nghèo khó. Phải chăng đó là một ảo tưởng, một nghịch lý giữa Đạo và đời, giữa Đức tin và cuộc sống?
Lời chúc phúc dành cho người nghèo là mối phúc đầu tiên trong Bài giảng trên núi. Theo Thánh Matthêu, đây là bài giảng khởi đầu sự sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Bài giảng khởi đầu này cũng tóm lược nội dung của giáo huấn mà Người sẽ rao giảng sau này. Bài giảng này cũng phản ánh chính con người của vị ngôn sứ thành Nagiarét, tức là người ta có thể tìm thấy nơi bản thân Người những mối phúc đã được nêu.
Đừng quên một chi tiết quan trọng trong lời giảng của Chúa, đó là “tâm hồn nghèo khó”. Nếu lời chúc phúc của Chúa Giêsu quá ngắn gọn và cô đọng, thì chúng ta có thể tìm thấy lời diễn giải thêm về ý niệm người có tâm hồn nghèo khó trong Bài đọc I trích sách Ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi Danh Đức Chúa. Số dân Israel còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng chúng không còn phỉnh gạt”. Dưới ngòi bút của Isaia, người nghèo đích thực là người cậy dựa phó thác vào Chúa và sống công chính ngay lành đối với tha nhân. Ông cũng tiên báo, những ai thực thi công chính, được gọi là những người nghèo của Thiên Chúa, sẽ làm thành số dân còn sót lại, tức là những người trung thành với Chúa cho đến cùng, là thành phần ưu tuyển của dân riêng. Qua đó, chúng ta thấy giáo huấn Chúa dạy chúng ta: những người nghèo theo nghĩa trên đây sẽ là những người được thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.
Nếu Bài giảng trên núi khởi đầu với lời chúc phúc cho người có tâm hồn nghèo khó, thì có thể nói, bảy lời chúc phúc kế tiếp cũng diễn giải những “người nghèo” được hiểu ở nhiều khía cạnh khác nhau. Quả vậy, người nghèo là người chọn Chúa làm gia nghiệp. Một khi chọn Chúa làm gia nghiệp, họ sẽ cố gắng để sống hiền lành. Họ sẽ than khóc thân phận thụ tạo còn nhiều giới hạn của mình để canh tân bản thân; họ sẽ mong ước được nên công chính; họ sẽ biết cảm thương trước nỗi thống khổ của đồng loại; họ sẽ kết nối tình huynh đệ giữa con người với nhau; họ sẽ cố gắng sống cuộc đời thanh sạch để nên hoàn thiện và họ sẽ sẵn sàng chấp nhận đau khổ vì sống công chính. Như thế, mối phúc “nghèo” là nền tảng cho các mối phúc khác. Đó cũng là điều kiện căn bản để người tín hữu có thể nên hoàn thiện như lời mời gọi của Chúa: “Các con hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Một người nghèo sẽ hoàn toàn cậy dựa vào Thiên Chúa và coi Ngài như đích điểm của đời mình, phó thác nơi sự dẫn dắt của Ngài, là Cha nhân hậu và yêu thương.
Như đã nói ở trên, Đức Giêsu không chỉ chúc phúc bằng những lời nói suông. Chính Người đã đạt được những phúc lành trong những lời Người giảng dạy. Trên cây thập giá, Người đã trở nên người nghèo nhất trong số những người nghèo. Người đã đau khổ với người đau khổ, để giúp họ biết cười vui trong niềm phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha. Cũng trên cây thập giá, Người đã hòa giải muôn loài với Chúa Cha, để dẫn đưa con người tới bến bờ của hạnh phúc. Chính Người đã chịu bách hại cách bất công vì Chân lý và để diễn tả tình thương vô bờ của Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Chúa Giêsu là LỜI CHÚC PHÚC vĩ đại nhất của Thiên Chúa cho nhân loại. Người là mẫu gương cho hết thảy mọi người chúng ta.
Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được hạnh phúc khi là người Công giáo? Có khá nhiều người tín hữu sống Đạo theo thói quen. Việc tham dự Thánh lễ và các bí tích không thực sự đem lại cho họ niềm vui, vì họ chỉ làm chiếu lệ, hời hợt bên ngoài. Nếu chúng ta không cảm thấy hạnh phúc khi thực hành sống Đạo thì làm sao có thể thuyết phục người khác theo Đạo của chúng ta được. Tám mối phúc thật là những gợi ý cụ thể để chúng ta nên thánh. Tám mối phúc là tám ngả đường, cùng dẫn chúng ta đến gặp Thiên Chúa Tình Yêu. Ước chi những anh chị em không cùng tôn giáo nói về chúng ta: “Thật hạnh phúc khi được làm người Công giáo!”.
Trong những Chúa nhật đầu của mùa Thường niên, qua Phụng vụ Lời Chúa, Giáo Hội mời gọi chúng ta cất bước theo Chúa Giêsu bằng việc chuyên tâm thực hiện những điều Người chúc phúc. Chúng ta gọi những lời chúc phúc này là “Tám mối phúc thật”, tức là hạnh phúc lâu bền, có sức cảm hóa cá nhân mỗi người và góp phần lan tỏa sự thánh thiện trong thế giới hôm nay. Giữa một xã hội bát nháo điên đảo và đầy bạo lực, những ai trung thành tìm kiếm Chúa sẽ được gọi là những người khôn ngoan và họ sẽ đạt tới hạnh phúc thật.
HẠNH PHÚC
Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt
Trong những ngày đầu xuân, chúng ta thường mơ ước hạnh phúc và chúc nhau hạnh phúc. Tìm hạnh phúc ở đâu? Ai chỉ cho biết con đường dẫn đến hạnh phúc? Đó là hai câu hỏi của mọi người. Điều ít ai ngờ là đó chính là hai câu hỏi do hai thánh vịnh đã đặt ra từ lâu lắm rồi.
Trong thâm tâm, ai cũng đi tìm hạnh phúc. Người nông dân vất vả cày cấy cũng như người học sinh cặm cụi học hành, tất cả đều đang đi tìm hạnh phúc. Nhiều người vướng vào ma túy cũng vì nghĩ rằng ma túy sẽ mang lại hạnh phúc. Ngay cả người đi ăn cướp cũng đi tìm hạnh phúc: người ấy nghĩ rằng những gì cướp được sẽ mang lại cho mình hạnh phúc. Có người làm đơn xin vào tù: người ấy nghĩ rằng vào tù ít là cũng hạnh phúc hơn cuộc sống đang có. Thậm chí có người tìm đến cái chết để thoát cuộc sống bất hạnh: người ấy không tìm được hạnh phúc nên không còn thiết sống nữa.
Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc? (Tv 15,2). Tác giả thánh vịnh 15 hẳn là sống giữa những người chưa biết Thiên Chúa. Họ thờ các ngẫu tượng, mong các vị thần đem lại cho họ hạnh phúc. Nhưng tác giả ghi nhận: bản thân từng “sùng mộ” những ngẫu tượng; “thiên hạ tới tấp chạy theo” các ngẫu tượng; trong khi ấy, các ngẫu tượng “vẫn gia tăng tàn phá”. Giờ đây, tác giả nghiệm ra chỉ một mình Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc thật cho con người: Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống; trước thánh nhan, ôi vui sướng tràn trề; ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi. Con người thời nay không chạy theo các tượng bằng gỗ đá, nhưng vẫn tôn thờ các thần tượng thể thao, ca nhạc, điện ảnh, tiền bạc, danh vọng, quyền lực… Nhưng càng ngày những người biết thức tỉnh càng ý thức con người không chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn có nhu cầu văn hóa và nhu cầu tâm linh nữa. Các thứ thần tượng ấy chỉ đem lại thỏa mãn hời hợt và mau qua. Thánh Âutinh viết: “Chúa đã dựng nên con cho Chúa, nên con khắc khoải cho tới khi tìm được an nghĩ trong Chúa.” Câu hỏi đặt ra cho tôi hôm nay là tôi có tìm được hạnh phúc nơi Thiên Chúa chưa. Có thể tôi vẫn “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt?” Sau những loanh quanh và mỏi mệt, xin cho tôi chia sẻ xác tín của tác giả thánh vịnh: Ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc?
Biết bao kẻ nói rằng: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4,7). Chúa Giêsu là một con người hạnh phúc và Chúa chỉ cho ta những con đường để đạt tới hạnh phúc. Điều khó là chúng ta thường muốn tìm những thứ hạnh phúc dễ dãi, trong khi Chúa chỉ cho chúng ta đâu là hạnh phúc sâu xa và bền vững. Khi sống những mối phúc thật, trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội, chúng ta sẽ nghiệm ra thế nào là hạnh phúc thật và ai là người chỉ cho chúng ta thấy hạnh phúc. Và qua chính cuộc sống hạnh phúc của mình, chúng ta trả lời cho thắc mắc của biết bao người về hạnh phúc.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ cho chúng con thấy đâu là hạnh phúc, và Chúa đã theo con đường ấy đến cùng. Xin giải thoát chúng con khỏi những thần tượng thời nay và bước theo Chúa để tìm được hạnh phúc thật cho bản thân cũng như cho bao anh chị em khác.
.
LỰA CHỌN CỦA CHÚA GIÊSU
Tgm. Ngô Quang Kiệt
Địa lý nước Do Thái chia làm ba miền. Miền Nam được gọi là Giuđêa. Miền Trung là Samaria. Miền Bắc là Galilêa. Thủ đô Giêrusalem thuộc về miền Nam. Đây là trung tâm chính trị và tôn giáo. Vua Hêrôđê đóng đô ở Giêrusalem. Đền thờ Giêrusalem là trái tim của dân tộc Do Thái. Hằng năm người ở mọi miền tuốn về Giêrusalem dự lễ. Đây cũng là nơi quy tụ quyền lực tôn giáo. Có dinh thầy cả thượng phẩm. Có các luật sĩ, biệt phái, văn nhân. Người ở Giuđêa coi Giêrusalem là đền thờ duy nhất, đạo ở Giuđêa là chính thống. Họ tẩy chay người ở Samaria, coi Samaria là ngoại đạo vì người ở Samaria xây cất đền thờ riêng trên núi Garidim. Người ở Giuđêa không bao giờ đi lại tiếp xúc với người Samaria. Còn miền Galilêa ở phía Bắc, tuy không có đền thờ đối nghịch với Giuđêa, nhưng bị Giuđêa khinh miệt vì đó là nơi pha tạp đủ mọi sắc dân, là đất của dân ngoại.
Khởi đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã không chọn rao giảng tại Giêrusalem. Bởi vì Giêrusalem là vùng toàn tòng theo đạo, nhưng lại kiêu căng hợm mình, loại trừ người khác. Khi mới sinh ra, Chúa Giêsu đã phải chạy trốn bạo vương Hêrôđê. Hôm nay Hêrôđê con ông lại ra lệnh giết thánh Gioan Baotixita chỉ để thỏa mãn ước vọng ngông cuồng của một phụ nữ. Chúa Giêsu đã không chọn Giêrusalem làm điểm xuất phát, bởi vì các thày thượng tế, các văn nhân, luật sĩ, biệt phái đã chai đá, luôn tìm cách bắt bẻ, chứ không biết mở rộng tâm hồn đón nhận giáo lý của Người.
Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng quê nghèo khiêm tốn, nhưng dân cư thuộc đủ mọi chủng tộc đã biết mở lòng đón nhận giáo lý của Người. Người đã chọn Galilêa vì ở đây không có loại trừ, mọi người biết đón nhận nhau, chung sống hòa thuận. Người đã chọn Galilêa vì Galilêa là vùng đất bị khinh miệt, dân cư bị gạt ra ngoài lề xã hội. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã không để giáo lý của Người bị đóng khung trong bốn bức tường đền thờ, bị giới hạn trong một khung cảnh địa lý và dành riêng cho một giai cấp. Ngay từ buổi ban đầu Chúa Giêsu đã vạch ra cho Giáo Hội một đường hướng. Đó là ra đi, ra đi không ngừng nghỉ, ra đi đến những chân trời xa lạ, ra đi đến với mọi người thuộc đủ mọi chủng tộc, ngôn ngữ, màu da. Đó là đi đến với những người bị bỏ rơi, bị khinh miệt, bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Việc lựa chọn môn đệ của Chúa Giêsu cũng rất độc đáo. Người không lựa chọn môn đệ trong đền thờ, nhưng lựa chọn môn đệ giữa chợ đời. Người không lựa chọn những kẻ nhàn hạ rảnh rang, nhưng lựa chọn những người đang tất bật làm việc. Người không chọn những người trí thức uyên thâm, thông kinh hiểu luật, nhưng lựa chọn những anh thuyền chài, đơn sơ, cục mịch. Ý định truyền giáo của Người là rất rõ ràng. Người lựa chọn những người dám ra đi, dám mạo hiểm, sẵn sàng từ bỏ, không ngần ngại, không do dự. Người lựa chọn những con người có trái tim mở rộng, biết hy sinh quên mình, không bám víu vào bất cứ một điểm tựa nào, dù là lề luật, dù là đền thờ, dù là kiến thức. Buông tất cả để chỉ nắm lấy Thiên Chúa. Bỏ tất cả để chỉ đi theo Chúa.
Những lựa chọn của Chúa Giêsu khiến tôi hiểu rằng: Người yêu thích những tâm hồn rộng mở biết sống hài hòa, biết đón nhận anh em. Người yêu thích những tâm hồn đơn sơ nhỏ bé, ưa thích sống đời khiêm nhường bình dị. Người yêu thích những tâm hồn nồng nàn yêu thương. Đó là những tâm hồn dễ dàng đón nhận và chia sẻ Tin Mừng. Đó là những thửa đất tốt cho hạt giống Tin Mừng nảy mầm, đơm bông kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở lòng con để con đón nhận được Lời Chúa và để Lời Chúa sinh nhiều bông hạt.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Chúa Giêsu có những lựa chọn khác với thường tình. Tại sao?
2) Tại sao Chúa không bắt đầu rao giảng tại thủ đô Giêrusalem, nhưng lại bắt đầu từ Galilêa, vùng đất dân ngoại?
3) Tại sao Chúa lại chọn tông đồ giữa đám thuyền chài thất học?
.
HẠNH PHÚC KHI TRAO BAN
Jos. Lm. Tạ duy Tuyền
Cuộc sống con người luôn đòi phải liên đới với nhau, vì “không ai là một hòn đảo”. Có liên đới cũng đồng nghĩa con người phải có trách nhiệm với nhau đến nỗi như ca dao tục ngữ từng nói: “một con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ”, “đồng bệnh tương lân” v.v… Không người dân Việt nào mà lại không thuộc nằm lòng những câu ca dao nói về tính cộng đồng, liên đới và đoàn kết với nhau:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Sống liên đới với tha nhân trong vui buồn sướng khổ cũng là cách chúng ta đạt được hạnh phúc Nước Trời như lời Chúa Giê-su đã nói hôm nay. Con đường hạnh phúc của người môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, ai có tấm lòng hiền hậu, ai dám chấp nhận khổ đau, ai yêu thích sự chính trực, ai thương xót đồng loại, ai giữ lòng trong sạch, và phúc cho ai biết xây dựng hoà bình.
Có một phụ nữ kể rằng chị nằm mơ, thấy mình đang bước vào một cửa hàng mới khai trương. Chị rất ngạc nhiên nhìn thấy Chúa ngồi đằng sau quầy. Chị hỏi:
- “Chúa bán gì ở đây vậy?”Chúa trả lời:
- “Mọi thứ mà lòng người ao ước”.Thú vị quá, người phụ nữ hỏi mua những thứ tốt nhất mà con người có thể ước mơ:
- “Con muốn mua sự bình an trong tâm hồn, hạnh phúc, khôn ngoan, và sự tự do khỏi mọi nỗi sợ hãi. Không chỉ cho con mà cho hết mọi người”.
- Chúa mỉm cười nói:“Chắc con chưa hiểu rồi. Ta không bán hoa quả. Ta chỉ bán hạt giống thôi”.
Hạt giống trong câu chuyện này đòi hỏi chúng ta phải chăm sóc tận tuỵ hy sinh mới có hoa trái mà thưởng thức. Hạt giống ấy được gieo vãi, trồng tỉa, chăm bón, kết quả là do sự quyết tâm và tình yêu của mỗi người. Đây chính là trách nhiệm về chính cuộc đời mình.
Trách nhiệm ở đây là nỗ lực góp phần với Chúa để làm nên cuộc sống của mình như Chúa ước mong và cũng là như mình mong ước. Điều quan trọng ở đây là trung thành, chuyên chăm, cần cù, sáng tạo, tận lực mới có ngày bội thu.
Những hạnh phúc ấy chúng ta vẫn thầy bàn bạc trong cuộc sống chung quanh. Có hạnh phúc của người mẹ vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy, phố chợ. Có hạnh phúc của những con người đang quên mình vì tha nhân, họ làm việc mà không mong đền đáp. Có hạnh phúc của những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: “Tay bưng bát muối chấm gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau”. Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có lẽ ở đời, chẳng ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.
Chúa Giê-su đã sống điều đó khi hết mình phục vụ tha nhân. Ngài rong ruổi suốt dọc dài dải đất Palestina để gieo vãi tình yêu phục vụ cho mọi phận người. Ngài đã sống cho tha nhân và vì tha nhân. Hạnh phúc của Ngài chính là được hiến dâng cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.
Con người chỉ có hạnh phúc khi trao ban tình yêu và lòng quảng đại. Thật hạnh phúc cho ai biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống tình yêu và hạnh phúc cho đời. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời. Amen
.
CHÚA KÊU GỌI TA LÀ KẺ NGHÈO HÈN
VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (Xp 2:3; 3:12-13; 1 Cr 1:26-31; Mt 5:1-12a)
Sứ mệnh của Chúa Giê-su trước tiên là kêu gọi người ta sám hối và đón nhận Tin Mừng, vì Nước Thiên Chúa đã gần kề. Nước Thiên Chúa đang mở rộng cửa cho hết mọi người không trừ ai. Tuy nhiên muốn gia nhập Nước ấy, chúng ta phải biết Thiên Chúa dựa trên những tiêu chuẩn nào để kêu gọi chúng ta. Có phải vì chúng ta là những người thông thái giàu sang? Chúng ta có địa vị xã hội? Nhất là chúng ta là những người tốt và thánh thiện, không phạm tội? Tất cả đó không phải là những điều kiện Chúa đòi hỏi chúng ta, nhưng điều kiện duy nhất là chúng ta hãy thực thi lời Chúa Giê-su kêu gọi: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Lời Chúa hôm nay đặt câu hỏi cho chúng ta: ai là những kẻ được kêu gọi vào trong Nước Thiên Chúa?
a) Đó là những người thuộc “một dân nghèo hèn và bé nhỏ” (bài đọc 1). Sau khi Ít-ra-en chia làm hai, phía bắc là nước Ít-ra-en và phía nam là nước Giu-đa, thì đời sống tôn giáo và luân lý của dân chúng đều suy đồi trước khi cả hai rơi vào tay ngoại bang và sống kiếp lưu đày. Ngôn sứ Xô-phô-ni-a xuất hiện tại Giu-đa như người Thiên Chúa sai đến để hạch tội dân chúng cùng các nhà lãnh đạo. Nhưng ngài cũng tiên báo việc Thiên Chúa sẽ “quét sạch” nước Giu-đa, mà vẫn “cho sót lại giữa Giu-đa một dân nghèo hèn và bé nhỏ”. Vậy những kẻ còn sót lại này đã làm gì để giúp họ không bị tiêu diệt? Ngôn sứ cho biết rằng trước khi xứ sở bị tiêu diệt, nếu những người này “thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa” mà “tìm kiếm Chúa, tìm sự công chính và tìm đức khiêm nhường” thì họ sẽ được Chúa bảo vệ trong ngày Giu-đa bị tàn phá. Tuy nhiên ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng tiên báo rằng sau thời lưu đày, nếu đám dân nghèo hèn và bé nhỏ này vẫn “tìm nương ẩn nơi danh Chúa, không làm chuyện tàn ác bất công, không ăn gian nói dối, miệng lưỡi không phỉnh gạt”, thì Thiên Chúa sẽ tiếp tục chăn dắt họ và cho họ được hùng cường. Với những lời hứa đầy hy vọng của Chúa từ miệng ngôn sứ Xô-phô-ni-a, chúng ta thấy Chúa đưa ra một tiêu chuẩn giản dị để tuyển chọn những ai muốn thuộc về đàn chiên Ít-ra-en Mới của Chúa: họ phải nhận biết thân phận nghèo hèn và bé nhỏ của mình mà hoàn toàn tin cậy vào danh Chúa để sống dưới sự dẫn dắt của Người. Ngôn sứ muốn ám chỉ Đấng Thiên Chúa trao cho sứ mệnh chăn dắt Ít-ra-en Mới chính là Chúa Giê-su, vị Mục Tử Nhân Lành vậy.
b) Tiêu chuẩn Thiên Chúa tuyển chọn “kẻ nghèo hèn” cũng được thánh Phao-lô khai triển trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô (bài đọc 2). Ngài phát biểu tiêu chuẩn ấy như sau: Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn. Trước hết, Phao-lô muốn giúp tín hữu Cô-rin-tô làm “phút hồi tâm” (anh em thử nghĩ lại xem!), để họ cảm tạ Chúa đã cho họ được tin kính Người và để họ luôn tự hào sống như một Ki-tô hữu chân chính. Ở Cô-rin-tô, khi họ được Chúa kêu gọi thì họ không mấy ai “là kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, là kẻ quyền thế và là người quý phái”. Tóm lại, họ thuộc thành phần nghèo hèn và bé nhỏ, như ngôn sứ Xô-phô-ni-a đã nói đến ở trên. Nhưng đường lối Thiên Chúa tuyển chọn họ khác với đường lối của loài người. Thiên Chúa chọn những kẻ khờ dại, yếu kém và hèn mạt là để hạ nhục và hủy diệt những kẻ khôn ngoan, hùng mạnh và quý phái của thế gian. Suy nghĩ về đường lối tuyển chọn ấy của Thiên Chúa, Phao-lô muốn nhắn nhủ tín hữu Cô-rin-tô đừng tự phụ, nhưng hãy khiêm nhường tin vào Chúa và sống công chính để được Người thánh hóa và cứu chuộc. Rồi ngài đề ra một “luật vàng” để họ sống theo: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Giống như những người Ít-ra-en “còn sót lại” hoặc như các tín hữu Cô-rin-tô, chúng ta đều được Chúa tuyển chọn để sống theo đường lối Người qua lề luật của Tin Mừng mà chúng ta thường gọi là “Hiến chương Nước Trời”, hay Phúc thật tám mối. Chỉ nghe qua là chúng ta nhận thấy ngay những điều Chúa Giê-su gọi là Mối Phúc đều đối nghịch với lối suy nghĩ và cách sống của người đời. Tám Mối Phúc là tám câu hỏi đặt ra cho chúng ta: Tại sao tôi phải sống với tâm hồn nghèo khó, sống hiền lành, sống với nước mắt thống hối, sống khao khát điều công chính, sống có lòng thương xót, tâm hồn phải trong sạch, phải xây dựng hòa bình và phải chấp nhận bị bách hại vì sống đàng hoàng? Chúa Giê-su đã cho chúng ta câu trả lời ở phần thứ hai của mỗi Mối Phúc: vì họ sẽ được… Tất cả những phần thưởng chúng ta sẽ được đó không chỉ là ước mong duy nhất của chúng ta sau khi chúng ta lìa trần, nhưng đó còn là những cơ hội, những tình huống, những điều kiện để chúng ta chiếu tỏa hình ảnh Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn đang sống. Đúng thế, thực hiện các Mối Phúc qua lối sống Ki-tô hữu của mình chính là cách chúng ta tôn vinh Thiên Chúa và phụng sự Người, nhờ chúng ta giúp cho những người khác nhận biết hình ảnh Chúa trong chúng ta.
Hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã kêu gọi và tuyển chọn ta là những kẻ nghèo hèn và bé nhỏ vào Nước của Người. Người còn ban cho ta một vị Mục Tử và Lãnh Đạo là Chúa Giê-su để dẫn dắt ta, dạy dỗ và giúp đỡ ta sống theo luật Tin Mừng. Nước Trời là của ta. Đất Hứa là gia nghiệp của ta. Thiên Chúa xót thương là Cha của ta. Vậy tại sao ta không vui mừng hớn hở sống Tám Mối phúc ấy?
.
TUYÊN NGÔN TÂM LINH
Trầm Thiên Thu
Khi nói đến tuyên ngôn, người ta thường nghĩ ngay tới tuyên ngôn độc lập của một quốc gia. Bài thơ tứ tuyệt “Nam Quốc Sơn Hà” được coi là tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam – không rõ tác giả, nhưng thường được coi là của Lý Thường Kiệt, sau đó có “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.
Tâm linh cũng có bản tuyên ngôn đặc biệt: Bát Phúc, tức là Tám Mối Phúc – cũng gọi là Bài Giảng Trên Núi hoặc Hiến Chương Nước Trời. Trong Cựu ước có Thập Giới – tức là Mười Điều Răn, theo hướng “tiêu cực” một chút: ĐỪNG làm điều này, CHỚ làm điều nọ, CẤM làm điều kia. Tân ước có Bát Phúc, theo hướng “tích cực” hơn: PHÚC cho ai làm điều này hoặc thực hành điều kia. Cựu ước và Tân ước “song song” với nhau, có vẻ nghịch mà vẫn thuận – không hề đối lập.
Độc lập là tình trạng không lệ thuộc ai, nghĩa là được tự do. Có tự do là có hạnh phúc. Tự do tâm linh cần thiết hơn, vì không còn lệ thuộc tội lỗi nữa. Cả Cựu ước và Tân ước đều hướng con người về Chân-Thiện-Mỹ để có được bình an và tự do đích thực. Tự do không có nghĩa là phóng túng, xả láng, mà là tự do quyết định: sống theo luật hay không theo luật. Tự do sống theo luật Chúa là tự do làm theo ý Chúa, và chính “sự tự ép mình” đó lại chính là sự tự do đích thực – tự do yêu mến.
Quả thật, “Công Lý Chúa trường tồn, Luật Chúa là Chân Lý.” (Tv 119:142) Thật tuyệt vời đối với lời xác định của Thánh Gioan Tông Đồ: “Yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.” (1 Ga 5:3-4) Những người tin theo Chúa luôn “vui thú với Luật Chúa, nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày,” (Tv 1:2) họ “thích làm theo Thánh Ý và ấp ủ Luật Chúa trong lòng.” (Tv 40:9) Như vậy là hạnh phúc, vì “kẻ yêu luật Chúa hưởng an bình thư thái, chẳng còn lo gặp chướng ngại nào.” (Tv 119:165) Hoàn toàn độc lập và tự do.
Con người như con ngựa chứng ngang bướng, thường ảo tưởng về mình nhưng lại yếu đuối và sa ngã. Sách Xô-phô-ni-a có lời hiệu triệu: “Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở, những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, anh em hãy tìm kiếm Người; hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường thì may ra anh em sẽ được che chở trong ngày thịnh nộ của Đức Chúa.” (Xp 2:3) Lời hiệu triệu này cũng chính là lời cảnh báo dành cho mỗi chúng ta ngày nay, chẳng trừ ai. Lời đó như “chiếc hàm thiếc” kiềm chế con ngựa vậy.
Là Đấng công minh và chính trực, Thiên Chúa chỉ yêu quý những ai sống khiêm nhường. Vì thế, Ngài xua đuổi những kẻ kiêu căng tự đắc, triệt hạ kẻ ngông nghênh tự phụ, như Ngài đã nói thẳng với dân Ít-ra-en: “Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ; chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh Đức Chúa. Số dân Ít-ra-en còn sót lại sẽ không làm chuyện tàn ác bất công, cũng không ăn gian nói dối và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt. Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ.” (Xp 3:12-13) Thà có ít người mà tốt lành còn hơn nhiều người mà toàn thứ dở hơi, xấu xa, độc ác, giả hình,… Kinh Thánh xác định: “Người triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng và cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt.” (G 22:29)
Thiên Chúa toàn năng và bất biến, chính Ngài “tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó,” và “giữ lòng trung tín mãi muôn đời.” (Tv 146:6) Ngài là Đấng chí công vô tư, không thiên tư tây vị bất cứ ai, yêu quý chân lý và công lý, vì thế Ngài “xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn, giải phóng những ai tù tội, và mở mắt cho kẻ mù loà.” (Tv 146:7-8a) Thật hạnh phúc cho ai nhận biết và hết lòng tôn thờ một Thiên Chúa tốt lành như vậy.
Thánh Gioan tông đồ xác định: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Vì thế, Ngài hay “mủi lòng”, luôn chạnh lòng thương những người thấp cổ bé miệng bị những kẻ ăn trên ngồi trước áp bức đủ kiểu. Mọi thời đều có lũ “đỉa người” hút máu dân lành, bóc lột tận xương tủy, áp bức tàn nhẫn mà không chút tình người. Nhưng Thiên Chúa mạnh mẽ đòi lại công lý cho họ: “Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.” (Tv 146:8b-9) Thiên Chúa toàn năng và quyền phép, không một thế lực hoặc thần lực nào địch nổi, vì Ngài “nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:10) Chắc chắn những người chịu oan ức sẽ được Ngài giải thoát kịp thời.
Vì vậy, thật diễm phúc khi được tán dương Ngài: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời.” (Lc 19:38) Tôn vinh Thiên Chúa không chỉ là niềm vinh dự mà còn là trách nhiệm của chúng ta – các thụ tạo của Ngài.
Nhưng vì là phàm nhân yếu đuối, chúng ta khó tránh khỏi những lúc xao lòng, dao động trước nghịch cảnh. Với lòng yêu thương, Thánh Phaolô nhắc nhở: “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người.” (1 Cr 1:26-29) Tự phụ hoặc tự mãn là do “cái tôi” quá lớn, loại gây ra các thứ tội. Nó không chỉ đáng ghét mà còn đáng sợ, thế nên Thánh Vịnh gia tha thiết kêu cầu: “Xin giữ cho tôi tớ Ngài khỏi kiêu ngạo, đừng để tính xấu này thống trị con.” (Tv 19:14a)
Phong cách sống của Chúa Giêsu luôn “khác người”, không giống ai, thậm chí là có vẻ “ngược đời”, theo dạng nghịch-lý-thuận. Thật vậy, cuộc đời Ngài luôn gắn liền với những mẫu tự T một cách lạ lùng: Trầm Tư (cầu nguyện), Thật Thà (chân lý), Thẳng Thắn (công lý), Tha Thứ (nhân hậu, thương xót), Trừng Trị (công minh). Thật tuyệt!
Một lần nữa, Thánh Phaolô xác định: “Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, hợp như lời đã chép rằng: AI TỰ HÀO THÌ HÃY TỰ HÀO TRONG CHÚA.” (1 Cr 1:30) Chỉ có điều đó mới là niềm hãnh diện cần thiết và đáng yêu thực sự.
Như đã nói trên đây, Cựu ước chú ý mệnh lệnh phủ định với chữ CẤM – tức là ép buộc, còn Tân ước chú trọng mệnh lệnh xác định với chữ NÊN – tức là khuyên răn. Rõ ràng Tân ước tích cực hơn Cựu ước, vì Tân ước không hề áp đặt hoặc bắt buộc, mọi người được sử dụng quyền tự do của mình mà chọn lựa và quyết định.
Qua trình thuật Mt 5:1-12, Thánh sử Mát-thêu cho biết rằng, khi thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Ngài ngồi xuống, và các môn đệ đến gần. Rồi Ngài dạy dỗ họ 8 điều khoản ngắn gọn để làm kim chỉ nam cho cuộc sống:
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Và rồi Ngài còn nói thêm: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.” (Mt 5:11-12) Lời này vừa là cách nhấn mạnh, vừa là lời giải thích, và cũng vừa là lời động viên những người bước theo Chúa. Bát Phúc cũng chính là Ánh Sáng soi đường dẫn lối cho các tín nhân trên bước đường lữ hành trần gian về Quê Trời, nếu không đi theo ánh sáng này thì chắc chắn sẽ lạc lối.
Đó là Bản Tuyên Ngôn Tâm Linh đầu tiên của nhân loại. Chắc chắn không có bản tuyên ngôn nào ngắn gọn và súc tích hơn nữa. Sau khi đọc Bản Tuyên Ngôn Nước Trời, vĩ nhân Gandhi (vị Cha già Đáng kính của dân tộc Ấn Độ và được tôn vinh như một thánh nhân) đã tuyên bố rằng Bài Giảng Trên Núi là bản tuyên ngôn hay nhất, và nhờ đó mà ông cảm thấy yêu mến Chúa Giêsu.
Lạy Thiên Chúa, nguyện xin Lời Chúa luôn là ngọn đèn soi bước đời chúng con và luôn là ánh sáng chỉ đường chúng con đi, (Tv 119:105) để nhờ đó chúng con biết tuân giữ các điều khoản mà Thầy Giêsu truyền dạy. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
NẺO VỀ HẠNH PHÚC
Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 – 762). Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế. Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao…
Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.
Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ. Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ. Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh. Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.
Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.
Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.
Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.
Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.
Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.
Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.
Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.
Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.
Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.
Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là ‘Vầng Trăng’ thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài”.
Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:
* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…
* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…
* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…
* Khao khát trở nên người công chính,
* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…
* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công…
* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…
* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm…
Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.
Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.
Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.
.
TÁM MỐI PHÚC THẬT
Lm. Thu Băng
- Hạnh phúc theo ý nghĩ loài người:
Loài người tượng hình cho việc mất hạnh phúc bằng trái tim có mũi tên xuyên qua. Và tượng hình cho hạnh phúc bằng trái tim có đôi cánh bay bổng lên cao. Trong thần thoại Việt Nam tượng trưng cho niềm hạnh phúc bằng 3 vị thần: phúc lộc thọ gọi là tam đa.
Thần thọ: râu tóc bạc phơ, tay phải chống gậy cong queo, tay trái cầm trái đào tiên thường đi với con rùa, một con vật sống dai nhất tượng trưng cho đường trường thọ.
Thần lộc: Cưỡi nai, tượng trưng cho niêm an vui thư thái, quan cách.
Thần phúc: Đi đâu cũng có mấy chú giơi theo hầu, tượng trưng cho giầu sang, phú quý. Ai muốn được hạnh phúc thì cố gắng đạp thằng bần ra khỏi cửa, giang tay mời ông phúc bước vào nhà.
Người Lamã thời Chúa Giêsu cũng không khác thời nay, họ đo lường hạnh phúc bằng giầu có vật chất, bằng khoái lạ, quyền thế, bằng thảnh thơi an nhàn, cơm bưng nước rót.
- Hạnh phúc theo Phúc Âm:
Nhưng giờ đây theo quan niệm mới, Chúa cho chúng ta một mực thuớc mới để đo giá trị qua bản hiến chương nước trời:
Ai có tinh thần nghèo khó mới chiếm được nước trời.
Ai hiền lành không hách dịch mới được người đời mến chuộng.
Ai đầy lòng trắc ẩn, cảm thương mới được an ủi.
Ai khát sống công chính mới được no thỏa.
Ai nhân từ, xót thương người ta mới được thương lại.
Ai trinh tâm mới được thấy Chúa.
Ai thuận hòa mới được làm con Chúa.
Ai vui chịu sự khó mới được nước trời.
Chúa chọn những cái người đời cho là đê hèn: nghèo là thằng bần. Thương người là ngu. Hiền là cù lần. Trinh tâm là lạc hậu. Chịu khó là ham… Để làm cho người nhận là lớn phải hổ thẹn. Điều đó đã trở thành sự thật.
Nhà triệu phú Paul Getty chết năm 1976 đã nói trước khi chết: “Cả đời tôi chẳng được hạnh phúc.” Trái lại Lazarô, người hành khất được lĩnh hạnh phúc nước trời. Ông Diogènô được mệnh danh là người hạnh phúc trên đời. Ông sống trong một cái thùng lớn, nằm đọc sách triết, vua Hy Lạp nghe danh đến thăm ông và muốn ban cho cái ông cần thiết. Hỏi tới lần thứ hai ông không thèm trả lời, vua tưởng ông không nghe thấy, vua ghé sát vào lỗ thủng hỏi lại, ông trả lời “Hạ thần muốn xin bệ hạ một điều là bệ hạ tránh ra để hạ thần có ánh sáng mà đọc sách.” Ông đã đuổi khéo nhà vua vì vua đã sa vào vòng danh lợi để mất niềm vui thảnh thơi của cuộc sống.
Cái hạnh phúc của ông là từ bỏ, gác ngoài tai danh lợi và quyền thế.
Một hôm hoàn tử Ba Tư đi săn trong rừng cho khuây khỏa nỗi buồn vỉ mất người yêu. Hoàng Tử nghe thấy tiếng hát thánh thót nơi rừng thẳm, hoàng Tử tiến lại xem thì một người cùi đang nằm hát trong đống bầy ngầy thối rữa. Hạnh phúc của người này là chấp nhận thánh ý an bài của Chúa, dù gặp lúc vui hay lúc buồn.
Cha Daniêng tông đồ người hủi. Đức cha Cassege từ bỏ ngôi vị giám mục đi sống phục vụ người miền thượng Di Linh. Trước khi chết ngài nói: “Đời tôi không được dài để phục vụ nữa”. Hạnh phúc của ngài là hy sinh, thương xót, vui chịu sự khó, thực hiện lòng trắc ẩn.
Chức phận của ông tổng thống, của ông bộ trưởng, tỉnh trưởng chưa chắc vui bằng mấy ông bà già ngày ngày cầu kinh, hy sinh với nếp sống cứu các linh hồn.
- Chúng ta có thực hiện được bản hiến chương nước trời hay không trong chức vụ hiện tại của mình?
Đây là phần trả lời của mỗi người chúng ta. Chúa không buộc chúng ta bỏ, nhưng Chúa đòi chúng ta cố gắng quan tâm. Giầu có nhưng có lòng quảng tâm. Có địa vị nhưng thực hành hiền lành không hống hách.. Sống giữa đam mê nhưng lòng trinh tâm, không tranh dành, chớp cơ hội để sống hiền hòa.
Tám mối phúc thật là đường lối mới Chúa ban để hướng dẫn chúng ta hướng lên cao. Hãy cố gắng thực hiện trong mọi lãnh vực sống.
.
CHÚA TÔN NGƯỜI KHIÊM HẠ
Lm. Minh Vận
Đang lúc thi hành việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do tay một Linh Mục bất mãn viết. Đọc xong bức thư, Đức Cha Roncalli không nói một lời, bình tĩnh, thản nhiên và vẫn yêu thương Linh Mục ấy.
Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris, rồi Hồng Y Giáo Chủ tại Venezia và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII năm 1958.
Năm ấy, vị Linh Mục viết bức thư bất mãn kia hãy còn sống. Một hôm gặp dịp Giáo Dân vùng đó tổ chức cuộc hành hương Roma để triều yết Đức Tân Giáo Hoàng, cũng là vị nguyên Tổng Giám Mục yêu kính của họ, Linh Mục ấy cũng ghi tên theo phái đoàn. Đến Roma, ngài lại xin đặc ân được tiếp kiến riêng Đức Thánh Cha. Lời thỉnh cầu được Đức Thánh Cha chấp thuận. Sau đây là câu truyện do chính Linh Mục ấy thuật lại:
“Trong lúc ở phòng đợi đến phiên được triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm qua, chắc Đức Thánh Cha cũng đã quên rồi. Nhưng rủi mà ngài còn nhớ thì sao? Mà thôi, đã lỡ xin gặp riêng, bây giờ rút lại cũng không được nữa. Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp. Hy vọng ngài nhân hậu sẽ bỏ qua và tha thứ cho tôi.
Đang lúc miên man suy nghĩ thì cánh cửa mở, Đức Ông phụ trách dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở đưa tay bắt và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo Phận và bùi ngùi nhắc đến những bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, không trừ ai, như thể xứ sở tôi là chính quê hương của Ngài vậy.
Lúc ấy tôi đang khấp khởi, vì tưởng Đức Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào. Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn Thánh Kinh và từ từ mở ra. Ngài để trước mặt tôi bức thư khốn nạn. Hồn phách lạc xiêu, tôi xấu hổ và sợ hãi quá đỗi, ước chi được độn thổ cho khuất. Có ngờ đâu mấy chục năm qua mà bức thư vẫn còn nguyên. Tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo, thì Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng sợ, Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con, Cha cũng là con người, cũng có những yếu đuối, Cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Kinh Thánh, để hằng ngày đọc vào đó mà hồi tâm kiểm điểm, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỗi có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Nghe xong, linh hồn tôi chu du phương xa lúc ấy mới trở về. Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, ôm hôn từ giã tôi. Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung vị Giáo Hoàng nhân hậu khiêm nhu đến thế”.
CHÚA TUYỂN CHỌN NGƯỜI KHIÊM HẠ
Qua bài sách tiên tri Sophonia và bài thánh thư của Thánh Phaolô gởi Giáo Đoàn Corintho hôm nay, chúng ta nhận thấy cái diễm phúc của chúng ta được Chúa tuyển chọn làm con cái Chúa, làm Bạn Tâm Phúc của Chúa Kitô, không phải vì chúng ta tốt lành xứng đáng, nhưng chính là vì chúng ta hèn mọn bất xứng. Theo giáo huấn Thánh Phaolô thì, không phải chúng ta là người khôn ngoan, quyền thế, sang trọng mà Chúa đã tuyển chọn; nhưng trái lại, chỉ vì chúng ta hèn hạ, đáng khinh chê trước mắt trần gian mà chúng ta đã được Chúa đoái thương; để không ai trong chúng ta có thể tự hào được, rồi Thánh Nhân đã kết luận: “Nếu ai muốn tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa” (xem 1 Cor 1:26-31).
Tìm hiểu Tin Mừng là cuốn lịch sử tình yêu thương của Chúa, chúng ta thấy Chúa đã chọn Đức Trinh Nữ Maria, một thôn nữ khiêm hạ thành Nazareth để làm Mẹ sinh ra Con Một Chúa và thỉnh mời Mẹ cộng tác với Ngài trong sứ mạng Cứu Thế. Rồi thiết lập Giáo Hội để tiếp tục sứ mạng Cứu Thế của Chúa, Chúa đã chọn một nhóm ngư phủ vô danh tiểu tốt, chất phác quê mùa. Cũng nhờ nhóm dân thuyền chài quê mùa đó, mà Chúa đã thi thố biết bao việc lạ lùng trên trần gian: Một Giáo Hội vĩ đại lan rộng khắp thế giới, đến nỗi không một ai, kể cả những kẻ thù nghịch, những người chống đối, thù ghét bách hại cũng phải kính nể, phải đầu hàng, như chính lời Chúa đã tiên báo cho Thánh Phêrô: “Con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, dù các quyền lực của hỏa ngục cũng không thể phá hủy được”.
Đọc lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng còn thấy, biết bao việc vĩ đại Chúa đã dùng các tôi trung con thảo khiêm nhu của Chúa thực hiện. Biết bao kẻ chống đối, phi bác, nhưng Giáo Hội vốn đứng vững. Biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ Chúa thực hiện qua những dụng cụ đơn sơ chất phác khiêm hạ, như Gioan Vianney Cha sở xứ Ars, Bernadetta thôn nữ chăn chiên, Labourée Chị Dòng khiêm tốn, ba trẻ Fatima đơn sơ bé mọn.
CHÚA BAN ƠN CHO NGƯỜI KHIÊM HẠ
Quả thật, theo lời Thánh Pherô và Giacobê Tông Đồ: “Chúa chống lại kẻ kiêu căng và ban ơn cho người khiêm hạ”, và theo lời Đức Mẹ trong kinh Ngợi Khen: “Chúa truất phế khỏi ngai vàng những người quyền thế; và tôn vinh những kẻ hèn mọn khiêm nhu”. Chính Chúa Kitô cũng đã trịnh trọng tuyên bố: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thánh Phaolô đã dám quả quyết minh bạch giáo huấn chân thật của Chúa Kitô: “Những điều mà thế gian cho là điên dại thì Chúa đã tuyển chọn, để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; những điều mà thế gian cho là hèn hạ, thì Thiên Chúa đã kén chọn để làm cho những người mạnh mẽ phải hổ ngươi; hầu cho không ai còn có thể huyênh hoang được” (xem 1 Cor. 1:26).
Do đó, theo lời tiên tri Sophonia khuyên nhủ chúng ta: “Hãy tìm Chúa, hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhu, nếu chúng ta muốn được đẹp lòng Thiên Chúa, được Chúa cứu độ và đạt tới Đích Thánh Thiện như Chúa mong muốn” (xem Soph 2:3;3:12-13).
Kết Luận
Các Thánh là những sinh viên ưu tú và thành tâm thiện chí đã tốt nghiệp nơi trường đại học của Thầy Chí Thánh, các ngài đã đạt tới bậc tối ưu trong môn học thần diệu Chúa dạy: “Các con hãy học theo gương Thầy, vì Thầy hiền dịu và khiêm nhu thật lòng” (Mt 11:29). Chính vì thế mà các Thánh tới Đích Thánh Thiện, đã làm vinh danh Chúa, đã chu toàn được sứ mạng chinh phục các linh hồn về với Chúa, đã nêu cho nhân loại những tấm gương đáng khâm phục và noi theo bắt chước.
Xin Chúa cho chúng ta được thấu hiểu giá trị đích thực bài học khiêm tốn của Chúa, được thấm nhuần tình thần cao cả này và can đảm đem ra thực hiện trong đời sống hằng ngày, để chúng ta cũng được Chúa hài lòng như Chúa đã hài lòng với Mẹ Maria và các Thánh.
.
CHÚA MUỐN CON NGƯỜI HẠNH PHÚC
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật thứ IV thường niên A năm nay trùng vào ngày Mùng Hai Tết Nguyên Đán năm 2017, thật là ý nghĩa khi chúng ta nghe lại đoạn Tin Mừng (Mt 5, 1-12a) đọc trong Thánh lễ Giao thừa, chúng ta có thể khẳng định rằng : Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc. Suy diễn này không có quá ảo tưởng, vì vào khởi đầu của Kitô giáo, các thành phần của Giáo hội cũng được gọi là “những người diễm phúc”. Thiên Chúa là Hạnh Phúc, Ngài luôn muốn chúng ta hạnh phúc, nên Ngài thi ân giáng phúc cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta không chỉ hạnh phúc tạm thời, mà còn hạnh phúc luôn mãi cả đời này và đời sau. Quả thực, người kitô nhờ Bí tích Rửa tội, được kết hiệp với Chúa Giêsu là Quả Phúc nơi cung lòng Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc, nên chúng ta hạnh phúc là lẽ đương nhiên.
Ngày đâu năm, chúng ta đã đi chúc tết nhau, ngoài bánh chưng, bánh tét, hoa đào, hoa mai… có lẽ không gì nhiều bằng “lời chúc”. Ai cũng muốn dành những lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình, người thân, bạn bè trong những ngày này và ngược lại, ai cũng muốn mình được nhận nhiều những lời chúc. Về phương diện con người, điều đầu tiên trong năm mới chúng ta cầu chúc cho nhau là bình an, hạnh phúc, vui vẻ, may mắn… người có đạo còn chúc nhau được đầy niềm vui và phúc lành của Thiên Chúa.
Về phía Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch mọi ân phúc, Ngài yêu thương con người và hằng mong muốn con người được hạnh phúc, Ngài sẵn sàng chúc phúc cho chúng ta. Ngài vui khi nhìn thấy chúng ta mạnh khoẻ, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Cha mẹ nào mà không vui khi thấy con cái mình lớn lên, khôn ngoan, khoẻ mạnh, huống chi là Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên chúng ta, không để chúng ta hư không đời, mà lại sinh ra ta cho ta được làm người…lại cho Ngôi Hai Xuống thế làm người để cứu độ, giải thoát ta khỏi mọi tội lỗi và sự dữ, cứu chúng ta khỏi án phạt đời đời. Đoạn Tin Mừng đọc trong Thánh lễ hôm nay minh chứng rõ ràng rằng, Thiên Chúa muốn, chúng ta là những người hạnh phúc (x. Mt 5, 1-10).
Hạnh phúc thật theo Chúa Giêsu phán trong Tin Mừng (Mt 5:1-12) nghe xong nhiều người không khỏi ngạc nhiên và sửng sốt, bởi vì những người mà người đời coi là khờ dại, bất hạnh và đáng thương hại theo Chúa Giêsu lại là những người có phúc. Lý do là vì họ sống tinh thần nghèo khó, mặc dù họ giàu sang, có tiền của. Sống tinh thần nghèo khó, không cậy dựa vào tiền của, nhưng phó thác vào quyền năng của Chúa. Họ còn là những người hiền lành, những người đau khổ, những người đói khát sự công chính, những người có lòng trong sạch, những người ăn ở thuận hoà và những người bị bách hại vì lẽ công chính. Đó là những người được Thiên Chúa chúc phúc.
Chúa Giêsu là hiện thận của Chúa Cha là Hạnh Phúc, Người cũng muốn chúng ta có được hạnh phúc, nên đã vạch ra cho chúng ta con đường Tám Mối Phúc Thật để tất cả chúng ta đi theo mà trở thành phúc nhân. Con đường Chúa đã đi khi còn sống thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta : Phúc cho những ai nghèo khó trong tinh thần, phúc cho những ai đau khổ, phúc cho những kẻ hiền lành, phúc cho những ai đói khát sự công chính, phúc cho những kẻ có lòng nhân từ, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai hoạt động cho hoà bình, phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính (x. Mt 5, 3-10).
Trước thềm năm mới, chúng ta hãy khẩn cầu các thánh là những người đã được xem là phúc nhân, đặc biệt xin Mẹ Maria, là ‘Đấng đầy ơn phúc’, giúp con cái Mẹ trở thành những phúc nhân trong năm mới, nhất là trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ đến muôn thủa muôn đời! Amen.
.
HẠNH PHÚC ƠI, MI LÀ GÌ?
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cái tựa đề bài viết có vẻ như là tựa đề một khúc ca, một bản tình ca. Hẳn nhiên không phải vô tình nhưng xin thú thực là có chủ ý. Kitô hữu chúng ta, nếu là người trưởng thành và được “xem là ngoan đạo” thì chắc chắn thuộc nằm lòng kinh “phúc thật tám mối”. Mẹ Giáo hội đã minh nhiên khẳng định rằng “tám mối phúc” chính là bản Hiến Chương Nước Trời”. Dưới một góc độ nào đó thì bản Hiến Chương cũng gần tương tự với bản Hiến Pháp của một quốc gia. Chúng ta dễ dàng đồng thuận với nhau về tầm quan trọng cũng như vị trí, vai trò tối thượng của bản Hiến Pháp trong việc định chế các luật lệ để điều hành các tổ chức, sinh hoạt của một đất nước. Vị trí, vai trò của bản Hiến Chương trong các tổ chức xã hội lớn bé cũng có tầm quan trọng không thể phủ nhận, cho dù trong thực tế, có thế lúc này, lúc kia, nơi này nơi nọ, việc tuân thủ không được chặt chẽ và nghiêm túc.
Một ngộ nhận thường thấy khi đề cập đến các mối phúc của Tin mừng đó là người ta dễ bị cám dỗ tìm cách giải thích, biện luận và minh chứng vì sao khó nghèo là có phúc, vì sao sầu khổ là có phúc… Trong khi đó hạnh phúc thật mà Chúa Kitô loan báo không ở cái vế đầu của câu nói mà ở vế sau. Để hiểu rõ điều này xin đan cử câu chuyện đã từng xảy ra về một ông lão nghèo hành nghề bán vé số kiếm kế sinh nhai bỗng nhiên thành tỉ phú. Một ngày kia, vé số bán không hết, ông lão mệt quá nên không đem số vé dư trả lại đại lý. Ai ngờ có trong số vé dư ấy có một cặp mười lại trúng giải độc đắc. Người ta bèn nói rằng ông lão bán vé số có phúc vì trúng số độc đắc bạc tỉ. Như thế cái được gọi là có phúc không phải ở vế “làm nghề bán vé số” hay ở vế “không trả lại số vé không bán được” mà ở nơi vế “trúng giải độc đắc bạc tỉ” kiểu như trên trời rơi xuống.
Vậy chúng ta cần khẳng định rằng hạnh phúc thật chính tình trạng được ở trong Nước Trời, được có Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa ủi an, thương xót, được nhìn thấy Thiên Chúa, được gọi là con Thiên Chúa, được Thiên Chúa ân thưởng trên trời, nghĩa là các vế thứ hai của các mối phúc. Các vế thứ nhất của các mối phúc không phải là những điều kiện để có hạnh phúc, nhưng chỉ là những tình trạng được ban phúc, những tình trạng đã đón nhận hạnh phúc được ban.
Để hiểu điều này chúng ta cần đối chiếu với Tin Mừng thánh Luca. Các nhà nghiên cứu Tin Mừng đồng thuận với nhau rằng thánh sử Luca tường thuật các dữ kiện liên quan đến các mối phúc thì sát thực tiển hơn so với Tin mừng thánh Matthêu. “Đức Giêsu ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ‘Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng…”(Lc 6,20-23).
Hạnh phúc thật là Nước Trời, là chính Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã đoái thương ban hạnh phúc ấy cho tất cả mọi người, cho cả những người mà dưới con mắt thế gian hay theo nếp nghĩ của con người là bất hạnh là kém cõi là ngu dại, là kém phận… Thực tế cho thấy khi Chúa Kitô đi rao giảng tin mừng, thì rất nhiều người vốn bị xem như là bé phận, hèn mọn đã biết mở rộng tâm hồn đón nhận ân phúc Người ban. Trái lại, có nhiều người mà thế gian cho là may mắn thì không nhận được ân phúc ấy, nói đúng hơn là họ đã chối từ hạnh phúc được ban. Thánh sử Luca sau khi tường thuật những lời chúc phúc của Chúa Kitô thì tường thật tiếp liền những lời cảnh báo về các mối họa với những người giàu có, những người đang được no nê, vui cười, đang được mọi người ca tụng (x.Lc 6,24-26).
Những hạng người này bị chúc dữ hay nói đúng hơn là cảnh báo về tại họa không phải vì họ giàu, đang được no nê hay vui cười…nhưng vì họ đã đặt hạnh phúc thật sai chỗ, sai đối tượng. Họ đã lầm tưởng rằng của cải, các hoàn cảnh thuận lợi, danh phận đời này là hạnh phúc thật. Chính vì thế họ đã khước từ Chúa Kitô, khước từ Nước Trời mà Thiên Chúa ban tặng.
Các mối phúc thật hay Bản Hiến Chương Nước Trời không chủ ý nói đến những điều kiện để có hạnh phúc nhưng là trình bày nội dung của hạnh phúc đích thật. Đó là Thiên Chúa, là Nước Trời mà Người ban tặng cho nhân loại. Hạnh phúc đích thật chính là quà tặng nhưng không của Thiên Chúa, một quà tặng vượt quá mọi khả năng chiếm hữu của con người. Con người chỉ có thể đón nhận ân phúc ấy bằng lòng tin. Thánh Tông đồ dân ngoại đã từng nhấn mạnh chân lý này trong thư gửi tín hữu giáo đoàn Galata và giáo đoàn Rôma (x.Gl 2,16.19-21; Rm 3,28-30).
Có thể nói rằng tám mối phúc như khó nghèo, sầu khổ, khát khao nên người công chính, biết xót thương người…là những cách thế biểu lộ niềm tin, những con đường sống đức tin. Và chúng ta cũng có thể nói rằng ngoài những con đường, những cách thế rõ nét ấy thì vẫn có đó muôn vàn con đường sống đức tin, muôn muôn vàn cách thế biểu lộ niềm tin. Có thể xem đây là sự giao thoa giữa tám mối phúc đã được kể. “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !”(Lc23,42). Không biết người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã đi con đường nào của bát phúc, nhưng anh ta đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu. Và anh đã được trao ban hạnh phúc đích thực là Nước Trời ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,43).
Cũng như Bản Hiến Pháp của một quốc gia vừa có tính hướng dẫn, vừa có tính quy định những thể chế, tổ chức, luật lệ của quốc gia ấy, thì Bản Hiến Chương Nước Trời khi cho biết đâu là hạnh phúc thật và con đường để có hạnh phúc thật sẽ có tính hướng dẫn và quy định các tổ chức, sinh hoạt…của đoàn tín hữu Kitô không chỉ trong tư cách cá nhân mà cả trong tư cách là đoàn dân của Thiên Chúa. Mong sao mọi tổ chức sinh hoạt của Giáo hội, mọi nghi tiết Phụng vụ, mọi luật lệ được ban hành… biết lấy Bản Hiến Chương Nước trời làm tiêu chuẩn quy chiếu. Và ước gì được một lần trong đời chúng ta không chỉ cất tiếng hát mà còn thực sự cảm nhận và xác tín lời một bài thánh ca khá quen thuộc: “vì ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc…?”
.
BÀN TAY CHÚA
Lm Vũ Đình Tường
Nhắc đến bàn tay Chúa ta liên tưởng đến bàn tay ra oai thần lực, sức mạnh vô song, làm lay chuyển sao trời, rẽ nước khiến lòng biển khô cạn hoặc ngay cả lấp biển, dời non. Hình ảnh oai hùng đó dường như vắng bóng trong cuộc đời rao giảng công khai của Đấng Cứu Thế. Nơi Ngài chúng ta gặp bàn tay thi ân, giáng phúc. Bàn tay ban ân sủng, bình an. Bàn tay mở sách thánh trong hội đường. Bàn tay vỗ về con người đau bệnh. Bàn tay vác về con chiên lạc. Bàn tay mở mắt người mù. Bàn tay dìu người què đứng dậy bước đi. Bàn tay mở tai người điếc nghe được. Bàn tay sờ nắp quan cho kẻ chết sống lại. Bàn tay tha tội cho người bắt quả tang tội ngoại tình. Bàn tay giang ra kéo Phêrô khỏi chìm dưới làn sóng biển. Bàn tay cầm bánh và cá trong tay dâng lời tạ ơn Chúa Cha trước khi phân phát thực phẩm cho đám đông. Bàn tay chắp trước ngực cầu nguyện cùng Chúa Cha sau bài giảng hay sau khi làm phép lạ. Bàn tay rẽ đám đông lên núi một mình cầu nguyện trước tiếng hoan hô, ca tụng Ngài là vua, giải thoát họ khỏi ách đô hộ. Bàn tay dâng bánh chúc tụng. Bàn tay dâng rượu thiết lập Giao Ước mới trong bữa tiệc li. Bàn tay rửa chân cho các môn đệ. Bàn tay trải dài trên thập tự mong đón nhận toàn thể nhân loại vào con tim nồng ấm.
Bàn tay xây dựng
Bàn tay Đấng Cứu thế gắn liền với việc xây dựng nước trời. Để làm gì? Để đón nhận những ai sống theo tinh thần Tám Mối Phúc Thật: sống nghèo khó, hiền lành, sầu khổ vì lẽ công chính, hay xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình, bị bách hại vì làm chứng nhân nước trời.
Tám Mối Phúc Thật nhấn mạnh đến đức nghèo khó. Nghèo khó bao gồm cả nghèo vật chất lẫn nghèo đức tin. Nhận biết mình nghèo khó nên sống phó thác, đặt trọn tin tưởng vào Chúa. Tự bản thân không có gì, thông minh, tài trí, sức khoẻ, tiền của và chức tước. Ta không làm chủ cả sự sống. Nghèo khó trong Chúa luôn sống tâm tình cảm tạ vì Chúa làm chủ mọi sự; ta chỉ là quản lí, coi sóc những gì Chúa giao phó.
Đời này từ bỏ mọi sự, giầu sang, tiền bạc lẫn chức tước bước theo Đức Kitô. Nếu Đức Kitô lại ban cho những gì trước đây họ đã từ bỏ thì giải thích sao cho thoả đáng việc từ bỏ lúc đầu để nhận lại nhiều hơn của cải vật chất sau này. Khó nghèo trong Chúa phải hiểu là có Đức Kitô là có tất cả vì nơi Ngài là nguồn sung mãn, là sức mạnh, là nguồn sống đời này và đời sau. Khó nghèo trong Chúa giúp sống đời sống khiêm nhường, hiền lành, xót thương, trong sạch, xây dựng hoà bình. Tất cả đều bắt nguồn từ ơn Chúa. Chúa đặt vào lòng người Tám Mối Phúc Thật để hướng dẫn con người sống theo đường lối Chúa. Trung thành sống Tám Mối Phúc Thật nhiều, ít, hay bất trung, phản nghịch do từng cá nhân tự quyết và chịu trách nhiệm về chọn lựa của riêng mình.
Phúc cho ai
Trong tám lần chúc phúc Đức Kitô luôn bắt đầu bằng câu: Phúc thay ai. Lời chúc phúc dành cho những ai sống Tám Mối Phúc Thật. Lời chúc thứ chín Đức Kitô nhắm đến các tông đồ, những người ngồi kề bên Chúa, từ bỏ mọi sự bước theo Đức Kitô. Lời chúc nhấn mạnh đến phần thưởng đời sau. Đời này họ bỏ mọi sự bước theo, đã thế họ còn bị bách hại, sỉ vả, vu khống đủ điều xấu xa không phải vì họ gây nên mà vì trung thành với Đức Kitô mà gặp sự khó, nên được Chúa ban ơn đặc biệt.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấy xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em trên trời thật lớn lao Mt 5,12
Các tông đồ hiểu lầm đời sống khó nghèo Đức Kitô rao giảng. Vì thế có lần các ông thắc mắc. Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy để được gì? Đức Kitô đáp:
…. Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau. (Mc 10, 29tt).
Câu trả lời trên cho thấy ai trung thành sống Tin Mừng và chân thành theo Đức Kitô sẽ chia sẻ cuộc sống của Ngài. Cuộc đời của Ngài là cho đi tình thương, sống thể hiện ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống của Đức Kitô bao gồm cả vinh quang lẫn thập giá mà Đức Kitô tự nguyện vâng phục thánh ý Chúa Cha. Chia sẻ cuộc sống cho anh chị em khác chính là thương mến mọi người như anh em cùng cha Giêsu, trong đại gia đình Chúa, trong Giáo Hội. Giầu có không phải là lắm bạc, nhiều tiền mà chính là tự do, không bị đồng tiền chi phối lối sống, cách suy nghĩ. Nghèo tiền của, giầu tình người chính là đời sống bác ái, yêu thương Đức Kitô chọn sống trong cuộc đời rao giảng công khai của Ngài. Một khi giầu bác ái, yêu thương sẽ không còn cảm thấy tiền bạc, địa vị, tiếng tăm là quan trọng nữa.
Lời chúc phúc
Khi Đức Kitô chúc phúc cho ai, Ngài không phải chỉ ban cho người đó ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm mà còn lên tiếng ca ngợi đồng thời ban ơn thiêng như phần thưởng dành riêng cho tâm hồn ngay chính. Sống công chính nhận phần thưởng hai lần.
Lần thứ nhất Chúa ban ơn bình an, sức mạnh và niềm vui nội tâm – ngay tại đời này – để người đó tiếp tục tiến bước trên con đường phục vụ, hy sinh làm chứng nhân cho Đức Kitô.
Lần thứ hai Chúa ban ơn cao trọng hơn đó là sự sống trường sinh. Phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Lời chúc phúc được thể hiện trong tương lai, trong ngày gặp lại Đức Kitô trên thiên quốc.
Hạnh phúc thay ai học sống nghèo khó vì Chúa và vì Tin Mừng.
.
HẠNH PHÚC LÀ TÌNH YÊU VÀ LÀ SỰ SỐNG
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Là con người, ai cũng mong muốn hạnh phúc và nỗ lực đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc là khát vọng ngàn đời của mỗi người. Khi con người chiều theo cơn cám dỗ của loài rắn, đó chính là lúc hạt mầm hạnh phúc không còn đủ “thiên thời địa lợi” để đơm hoa kết trái. Bất hạnh và gian dối theo về, ùa vào cuộc đời, chảy xuôi dòng lịch sử. Con người bắt đầu dệt những ước mơ, chắt chiu từng kỷ niệm, hồi tưởng về quá khứ, một quá khứ in đầy dấu chân hạnh phúc. Vậy hạnh phúc là gì giữa đa đoan và trắc trở, giữa bền vững và mong manh, giữa ích kỷ và bao dung?
- Quan niệm về hạnh phúc.
Có người cho rằng hạnh phúc là có thật nhiều tiền của, nhiều vàng bạc, lúa thóc đầy kho; hạnh phúc là quyền lực, địa vị danh vọng. Có người nghĩ hạnh phúc là có nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con thơ, ruộng vườn thẳng cánh cò bay. Có người lại quan niệm hạnh phúc là sức khoẻ, là sự bình an thư thái của tâm hồn; hạnh phúc là sự hoà hợp giữa thể xác và tâm hồn, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội, giữa cái tôi và vũ trụ bao la.
Theo truyền thống Ấn Giáo, hạnh phúc là Sukha, đó là trạng thái giống như một bánh xe mà trong đó mọi sự đều ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hoà hợp với các thành phần khác do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là Dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Tần Thuỷ Hoàng cho xây vạn lý trường thành, sai người đi tìm thuốc trường sinh bất tử để mong thoả ước mơ được hạnh phúc, được sống bất tử. Với Nhà văn Philippe Delerm, hạnh phúc là điều thật đơn giản, là tổng cộng các niềm vui nhỏ gộp lại. Năm phút nằm dài trên bãi cỏ xanh nhìn mây trời lãng đãng trôi, hớp ngụm bia ngon, thưởng thức một bản nhạc hay…đều có thể làm hưng phấn, tạo được niềm vui hạnh phúc. Kim Thánh Thán, nhà phê bình Trung Hoa đã từng có 33 phút vui tinh thần mà ông cho đó là phút giây thực sung sướng trong đời. Thú vui đó là thưởng thức thiên nhiên, dưới ánh trăng non, tay bầu rượu túi thơ, cùng bạn hữu trao đổi kinh sử văn thơ, cùng uống trà để quên đi sự huyên náo của phồn hoa, lòng thấy thanh thản (x. Quan niệm về hạnh phúc, Nội san chia sẻ, số 23).
Theo Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc: Hạnh phúc là niềm vui, khi người ta vui thì hạnh phúc, khi người ta hạnh phúc thì người ta vui. Rất đơn sơ, rất dễ hiểu. Niềm vui là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Những niềm vui làm thành cuộc đời. Niềm vui làm cho mỗi tâm hồn trở nên ấm cúng. Niềm vui chỉ thực sự có khi có tình yêu. Khi không có tình yêu thì không có niềm vui thực sự. Và đặc biệt khi có tình yêu không ngừng được tình yêu của Thiên Chúa tiếp sức thì con ngươì ta lúc nào cũng có thể rạng rỡ tươi cười, mặc dù có khó khăn mặc dù có đau khổ, gương mặt luôn biểu lộ hạnh phúc bởi vì lúc nào trái tim cũng dào dạt yêu thương. (x.Bài giảng tại Nhà thờ Hạnh Thông Tây, Lễ Thánh Gia, 125 gia đình mừng kỷ niệm hôn phối, mp3, http://tgpsaigon.org).
Đối với nhạc sĩ Trần Tiến: “Hạnh phúc quá đơn sơ, đời tôi đâu có ngờ” (Lời bài ca: Mặt trời bé con). Hạnh phúc quá đơn sơ. Chỉ có con người phức tạp hóa hạnh phúc khi mơ tưởng đứng vào hàng ngũ những kẻ giàu sang phú qúy và danh giá nhất. Cuộc chạy đua tranh dành tiền tài, danh lợi, lạc thú làm người ta bất hạnh. Tham sân si chẳng bao giờ để người ta có được một giây phút hạnh phúc thật sự.
Có muôn lối nhìn về hạnh phúc tuỳ theo quan niệm mỗi người.
- Đi tìm về hạnh phúc.
Hạnh phúc không như bông hoa có thể dễ dàng hái được ở bên đường, không giống như chiếc áo, chiếc xe đạp hay cái nhà có thể vẽ ra thành hình hài màu sắc có thể mua bán. Hạnh phúc là điều cảm thấy được trong tâm hồn, nó thuộc chiều sâu cõi lòng tuỳ thuộc thái độ sống đối với cuộc đời. Con người phải ra công chăm sóc vun trồng thì cây hạnh phúc mới đơm hoa kết trái.
Hạnh phúc chính là khát khao được sống, được hiện diện, được yêu thương. Đi tìm hạnh phúc cũng là đi tìm sự sống. Sống là tồn tại, có tồn tại mới có yêu thương, có tương quan, có sinh trưởng. Đi tìm hạnh phúc cũng như đi tìm tình yêu. Khi người ta yêu nhau, mọi sự đều trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp: “yêu nhau yêu cả đường đi; yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng; yêu nhau mấy núi cũng trèo mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Hạnh phúc là tình yêu. Tình yêu nối dài những ước mơ, ước mơ thường hướng con người về hạnh phúc.
Hạnh phúc chính là sự sống và là tình yêu. Tình yêu và sự sống như đôi cánh đưa con người bay vào khung trời hạnh phúc.
- Tám mối phúc thật.
Đức Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarêch bằng câu: “Vạn sự vô thường vạn sự thường”, nghĩa là mọi sự thay đổi không ngừng nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh lão bệnh tử, con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật và cuối cùng là phải chết. Đời là bể khổ, muốn có hạnh phúc, ra khỏi bể khổ, cần diệt lòng tham sân si. Khổ diệt lòng tham muốn mới thoát khỏi bến mê, khỏi u minh chốn hồng trần.
Đức Kitô trên “Núi Bát Phúc” đã thuyết giảng điệp ca hạnh phúc “Tám mối phúc thật”: Phúc cho ai… (Mt 5, 1-12).
Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của họ. Đức Phật coi đời là bể khổ. Đức Giêsu nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch của tâm hồn nghèo khó .
Lm Thiện Cẩm đã nhận định rằng: Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời gian, sức lực để nghiên cứu suy tư bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu. Tuy nhiên, có lẽ chẳng mấy ai hiểu chính xác nội dung ý nghĩa hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra cả Đức Phật và Đức Giêsu đều không chú ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Đức Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được cái tồn tại trong cái mất mát, thấy được sự sống trong cái chết.
Điệp ca trên núi của Chúa Giêsu đã trở thành Hiến Chương Nước Trời: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho ai hiền lành. Phúc cho ai… điệp ca vang vọng mãi ở trên núi được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho các môn đệ và cho nhân loại qua muôn thế hệ.
Tất cả Tám Mối Phúc đều có hai vế: vế thứ nhất là nhân, vế thứ hai là quả;vế thứ nhất là gieo, vế thứ hai là gặt; vế thứ nhất là mình vì người khác, vế thứ hai là người khác vì mình;vế thứ nhất là đau khổ, vế thứ hai là hạnh phúc. Các mệnh đề trong vế một phải hiểu ngầm là vì Chúa, vì tha nhân, nghèo vì tha nhân, hiền lành đau khổ vì tha nhân. Nếu không do tự nguyện vì Chúa, vì tha nhân thì sự nghèo, sự hiền lành, sự đau khổ, bách hại ta phải chịu đều là đau khổ chứ không phải là phúc đức. Chẳng hạn, mối phúc thứ nhất là nghèo vì người khác, sống nghèo cho người khác thì mới là phúc thật, còn sống nghèo để dành dụm tiền của ngày càng nhiều thì đó là trọc phú, là hà tiện chứ không phải là sống nghèo theo Tin mừng. Cái nghèo mà Đức Giêsu nói đến là nghèo vì yêu thương tha nhân. Nghèo vì cho đi vì muốn làm lợi ích cho người khác thì cái nghèo đó mới gọi là Đức Khó Nghèo. Vì thế giữa Đức Khó Nghèo và Đức Bác Ai có tương quan với nhau. Khó nghèo để bác ái, khó nghèo mà không bác ái thì trở thành hà tiện, hà tiện là một trong bảy mối tội đầu. Vì thế tâm hồn nghèo khó của Tin Mừng là tâm hồn sẵn sàng chấp nhận mất mát thời giờ, vật chất, sức lực, của cải, tài năng vì yêu thương tha nhân, vì mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Một người có tinh thần phục vụ cao, dám hy sinh cho người khác, chắc chắn người đó sẽ được mọi người quý trọng, yêu mến, được tín nhiệm, được giao những trọng trách. Một người như vậy thì Nước Trời trong lòng họ, tinh thần họ luôn bình an, hạnh phúc, tràn đầy niềm vui vì sống cho hạnh phúc của người khác.
Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy, những người ích kỷ suốt ngày chỉ nghỉ tới mình, tới hạnh phúc hay nổi đau của mình đều là những người đau khổ nhất. Còn những người có tâm hồn vị tha, chỉ nghĩ đến người khác, đến hạnh phúc và đau khổ của người khác, không còn thời giờ để nghĩ đến mình thì những người ấy luôn luôn hạnh phúc thoải mái trong tâm hồn và thành công trong cuộc đời.
Người Kitô hữu chúng ta cần tập thói quen sống vì Chúa, vì tha nhân và thường xuyên tìm đủ mọi cách để người xung quanh mình được hạnh phúc. Sống như thế không những được hạnh phúc ở đời này mà còn đời sau nữa. Đường lên thiên đàng thì nhỏ và chật hẹp,vất vả hơn đường xuống hoả ngục đầy thênh thang bóng mát. Chọn lựa theo Chúa Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.
Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người để giúp con người sống hạnh phúc. Sau khi sống lại, Người mở đường dẫn lối cho chúng ta đi về hạnh phúc viên mãn trong Thiên Chúa Tình Yêu và Sự Sống.Tin và yêu mến Chúa Giêsu là được sống hạnh phúc mỗi ngày trong niềm vui.
.
SỰ KHIÊM TỐN
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một hôm, vào ngày lễ thánh Têrêxa, một nhà Dòng kín mở cửa cho bà con thân thích vào thăm. Các tín hữu xóm làng cũng lợi dụng cơ hội để vào xem nếp sống của các nữ tu chuyên hãm mình cầu nguyện. Một trong số những người hiếu kỳ không thể hiểu được lý do của cuộc đời tu trì khắc khổ. Có ông nghĩ bụng rằng: Hẳn đây là những người nghèo khổ không có đủ cơm ăn áo mặc. Chỉ có hạng người xấu số mới có can đảm hiến thân sống khó khăn như vậy. Rồi ông lân la nói truyện với một chị nữ tu đang tuổi xuân thì. Chỉ vào một tòa nhà đồ sộ nằm phía bên kia nhà dòng, ông nói: Này chị, giá chị có được một tòa nhà giầu sang như vậy, với những lạc thú người ta đang vui hưởng trong nhà ấy, chị có thể hy sinh để chôn mình vào bốn bức tường nhà kín này được không? Chị nữ tu kia giơ tay vuốt chiếc lúp trên đầu, nhìn ra và trả lời với một nụ cười đơn sơ chân thành: Thưa ông, đó chính là nhà của tôi.
Của cải trần gian không là cùng đích của cuộc sống nhưng chỉ là phương tiện. Sự giầu có của cải chưa chắc đã mang lại sự hạnh phúc và niềm vui an lạc cho cuộc đời. Có một điều gì đó cao quí hơn gấp bội những danh vọng, tiền bạc và thú vui trần đời. Tiên tri Sôphônia đã mở cửa dẫn chúng ta vào con đường hạnh phúc: Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả những người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Thiên Chúa (Soph 2,3). Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và mọi sự Ngài sẽ ban cho. Tìm kiếm Chúa là nguồn sự khôn ngoan. Thiên Chúa là chủ tể của toàn thể vũ trụ bao la vô tận. Trong khi con người chỉ sở hữu một mảnh không gian nhỏ nhỏ và bị lệ thuộc hoàn toàn vào sự vận chuyển tự nhiên của không gian và thời gian. Thế mà có nhiều người dám tự đắc kiêu ngạo khoe khoang chối bỏ sự hiện hữu của Đấng Tạo Hóa.
Thiên Chúa tao dựng con người có xác hồn, có ý chí và tự do. Con người biết suy tưởng những sự cao siêu nhưng rất giới hạn. Càng suy, tâm trí con người càng chìm sâu vào biển cả mầu nhiệm cao siêu. Sự hiểu biết của tâm trí con người thật bé nhỏ và giới hạn trong mọi lãnh vực. Chỉ có những tâm hồn khiêm nhường biết nhận ra sự yếu đuối và mỏng dòn của mình mới có thể đào sâu ý nghĩa đích thực của sự sống. Sôphônia đã nhận biết giá trị của đức khiêm nhường. Thiên Chúa không ưa thích kẻ kiêu căng, Ngài lật đổ những người quyền thế: Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào danh Chúa (Soph 3, 12). Sự khiêm tốn không phải là sự hèn nhát và yếu đuối, nhưng là một nhân đức. Khiêm tốn là một năng lực kỳ diệu thắng mình và thắng người. Kẻ khiêm nhu có thể đối diện được với tất cả mọi trạng huống của cuộc sống. Người biết sống khiêm hạ sẽ dễ dàng thuyết phục tâm tư của người đời.
Thiên Chúa đứng về bên những người nghèo khổ, cô đơn, khiêm hạ và chân thành. Đường lối của Chúa đi ngược lại với những tham vọng của con người. Chúa Giêsu xuống thế làm người đã chọn đi con đường nghéo khó và khiêm nhượng. Thiên Chúa cao cả hạ thân xuống cùng tận của sự khó nghèo và từ đó, Thiên Chúa đưa dẫn loài người lên chức bậc làm con Chúa. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho giáo đoàn Corintô đã diễn tả: Những điều thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi (1Cor 1, 27). Sự khôn ngoan của thế gian là tìm thỏa mãn những ước mơ, đòi hỏi và tham vọng của tâm trí để đặt con người lên làm chủ mọi loài. Đã qua bao nhiêu thế hệ, sự hiểu biết về vũ trụ và sự sống cũng chỉ như giọt sương mai.
Thánh Phaolô mời gọi như lời đã chép rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa (1Cor 1, 31). Tự hào trong Chúa có nghĩa là tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa. Qua mạc khải, chúng ta học biết lẽ sống và cùng đích của con người và vạn vật. Câu truyện về Kinh Thánh: Một vị tuyên úy trên bãi chiến trường đã đến gặp một người lính trẻ bị thương đang ẩn núp dưới hầm. Vị tuyên úy hỏi: Anh muốn tôi đọc vài đoạn trong cuốn sách Kinh Thánh này không? Người thương binh nói: Tôi đang qúa khát. Tốt hơn hãy cho tôi một chút nước. Vội vàng, vị tuyên úy mang cho anh chút nước. Anh thương binh nói: Cha có thể đặt cái gì đó dưới đầu của tôi không? Tuyên úy cởi áo choàng, cuộn lại và nhẹ nhàng đặt dưới đầu của anh ta như chiếc gối. Bây giờ, cha có thể phủ trùm thân tôi vì tôi đang lạnh run. Tuyên úy cởi cả áo ngoài và đắp cho anh ta để giữ ấm. Anh thương binh nhìn thẳng vào mắt vị tuyên úy và nói: Nếu có bất cứ điều gì mà cuốn sách đó đã thúc đẩy một người thi hành giúp người khác những điều mà cha đã làm cho tôi, vậy làm ơn đọc lời Kinh Thánh, bởi vì tôi mong muốn được nghe lời đó. Kinh Thánh là lời của sự khôn ngoan. Nghe, đọc Lời Chúa và đem ra thực hành thì như người xây nhà trên đá tảng vững chắc.
Bài giảng trên núi nói về Tám Mối Phúc Thật là một lời mời gọi lội ngược dòng. Những điều Chúa Giêsu giảng dạy qua tâm từ bi phản ánh một sự khiêm nhu thật sự. Chúa chúc phúc cho nhưng tâm hồn nghèo khó, hiền lành, đau buồn, đói khát điều công chính, thương xót người, lòng trong sạch, ăn ở thuận hòa và chịu sự bách hại vì lẽ công chính, họ sẽ được no hưởng niềm vui của Nước Trời. Tám Mối phúc thật là Kim Chỉ Nam sống đạo và là các nhân đức cao qúy cần thực hành. Đường dẫn vào Nước Trời có rất nhiều nẻo. Mỗi nẻo đường đều cần có đức khiêm nhượng làm căn bản. Trong sự phấn đấu để nên trọn lành, tâm hồn chúng ta cần có sự kiên tâm, nhịn nhục và hạ mình. Chịu mất mát thua thiệt để chiến thắng. Người ta thường nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân.
Càng ở chức vụ cao, càng phải khiêm hạ phục vụ. Sự giầu có trong của cải, danh vọng và địa vị là dấu chỉ được chúc phúc. Người giầu có cần chia sẻ cho những người túng thiếu. Người giầu có của cải vật chất vẫn có thể sống tinh thần nghèo khó. Họ biết dùng của cải đời tạm này như phương tiện phục vụ. Tiền cho đi là đồng tiền có giá trị cả lượng lẫn phẩm. Chúa Giêsu phán dạy: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước trời là của họ (Mt 5, 3). Người nghèo dễ có tâm tình khiêm nhượng hơn, vì họ không cậy dựa vào chính họ. Người nghèo là người thấp cổ bé miệng dễ bị đàn áp và bóc lột, nên họ cần được sự bao vệ chở che và giúp đỡ. Chúa Giêsu cũng đã trải nghiệm đời sống trong cảnh nghèo. Sống khó nghèo là một nhân đức. Một trong ba lời khấn quan trọng của các tu sĩ dòng là lời khấn sống khó nghèo. Chúng ta biết khi buông bỏ được sự tham lam tiền của và danh vọng, cuộc sống sẽ thanh thản hơn. Các tu sĩ không giữ tiền bạc làm của riêng, nhưng chia sẻ đời sống cộng đoàn để cùng nâng đỡ lẫn nhau.
Sống nhân đức khiêm nhượng cũng đòi hỏi sự từ bỏ ý riêng của mình. Hãm bớt cái ‘tôi’ kiêu căng, tham lam và độc tài. Khi biết bước xuống là chúng ta đang tiến lên một bước. Hạ mình xuống, chúng ta không đánh mất mình, nhưng là cơ hội để nhận diện chỗ đứng của mình rõ ràng hơn. Kinh nghiệm thực tế, chẳng khi nào chúng ta sống khiêm tốn cho đủ. Đôi khi chúng ta nhận định để tự an ủi rằng: Nhìn lên tôi chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống tôi cũng còn hơn nhiều người. Biết rằng mỗi người đều có cá tính riêng biệt. Chúng ta không thể so sánh hay xếp loại vị thế. Sự khiêm nhường không cần thứ bậc trong phục vụ, nếu làm được việc gì giúp ích cho đồng loại, chúng ta cố gắng sẵn sàng.
Lạy Chúa, đôi khi chúng con muốn đến để đựơc phục vụ thay vì phục vụ tha nhân. Chúng con muốn ăn trên ngồi trốc và ra lệnh điều khiển hơn là bỏ công sức phục vụ. Xin cho chúng con học biết thái độ khiêm tốn để phục vụ tốt cho anh chị em.
.
TIN VUI CHO MUÔN NGƯỜI
Lm. Phạm Ngọc Ngôn
Hiến chương Nước Trời là một trong năm loạt bài diễn văn được Chúa Giêsu long trọng tuyên bố trên núi. Ở trên núi chứ không phải ở đồng bằng như trong Tin mừng Luca, điều đó cho thấy dụng ý thần học của thánh sử Matthêu. Thật vậy, hình ảnh này giống như Môsê ngày xưa trên núi Sinai lãnh nhận lời Giavê Thiên Chúa để ban lại cho dân Israel. Vâng, Chúa Giêsu chính là Môsê mới. Ngày hôm nay, cũng trên núi, chính Chúa Giêsu – Lời của Thiên Chúa, truyền lại cho dân Israel mới, mà các môn đệ là những đại diện, những mối phúc làm kim chỉ nam cho hết những ai mưu tìm Nước Thiên Chúa.
Nếu Tin mừng Luca nhấn mạnh đến những người nghèo thật sự, thì Thánh sử Matthêu lại nhấn mạnh đến sự khó nghèo về tinh thần hơn là sự thiếu thốn về tiền bạc, vật chất. Người khó nghèo về tinh thần không cho phép mình sinh ra kiêu căng, ỷ lại vào tiền của, nhưng luôn hướng mình đến kẻ khác và nhất là trông cậy vào Thiên Chúa. Matthêu dùng từ ngữ “nghèo khó” (to pnêumati) mang chiều kích tôn giáo như được nói đến trong Cựu ước để nói đến những người nghèo khổ khiêm cung biết chạy đến Chúa, chỉ trông cậy vào Chúa như những kẻ hành khất mà thôi.
Hai mối phúc về “hiền hoà” và “ưu phiền” được nhắc đến không phải do bản tính mà là do hoàn cảnh của xã hội hoặc tôn giáo tạo nên. Chúa Kytô là Đấng “hiền hậu và khiêm nhường”, chính vì thế Người cũng muốn chúng ta hãy noi gương của Người, sống như những người bần cùng trong xã hội để không thể “lên mặt, vênh váo” được với ai. Cũng vậy, người ưu phiền lo lắng được khuyên hãy trở nên như những người nghèo sống trong tình trạng không có niềm vui. Người nghèo lo lắng cho tình trạng sống còn của mình như thế nào thì “người nghèo của Tin mừng” cũng hãy ưu phiền lo lắng về tội lỗi và những hậu quả của nó gây ra cho mình và cho nhân loại như vậy để chỉ biết chạy đến nguồn an ủi duy nhất nơi Thiên Chúa.
Ba mối phúc tiếp theo nói đến sự chính trực, lòng xót thương và tâm hồn trong sạch được xem như những người vâng theo thánh ý Chúa, thực thi công bình bác ái trong sự đơn sơ thanh sạch. Chính trực trong sự chu toàn mọi giới luật của Thiên Chúa. Chính trực trong đời sống. Chính trực với chính mình, với tha nhân. Lòng ngay thẳng và đời sống nhân đức đưa con người đến việc thực thi lòng bác ái yêu thương cách vô vị lợi nhằm kiến tạo hoà bình cho nhân loại.
Những mối phúc kể trên chính là những giá trị Nước Thiên Chúa dành cho những ai hết lòng tuân giữ và đem ra thực hành. Tuy nhiên, những giá trị đó luôn gặp phải những chướng ngại, những đối nghịch và bách hại. Chính vì thế Chúa Giêsu muốn đưa hai mối phúc sau cùng về sự bách hại như là hiệu quả tất yếu của những con người trung thành và bước theo đường chân lý. Chấp nhận những giá trị nước Thiên Chúa nghĩa là chấp nhận việc đi ngược lại với những giá trị thông thường vốn được xem là chuẩn mực cho cuộc sống mà con người đặt ra.
Với Chúa Giêsu, việc người Kytô bị bách hại vì sống công chính, sống ngay thẳng và thực thi công bình bác ái chính là những người hoạ lại hình ảnh của mối phúc thứ nhất. Lý do là, vì muốn kiếm tìm của cải không hề hư nát cho phần rỗi mai sau mà giờ đây, họ phải gánh chịu sự đau khổ và bách hại. Như thế, người chịu bách hại vì danh Chúa Kytô cũng chính là người nghèo thật sự và phần thưởng cho họ chính là Nước Trời mai sau.
Hiến chương Nước Thiên Chúa thực chất là những tin vui mà Thiên Chúa muốn dành cho những ai sống tinh thần nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, công chính, biết xót thương, trong sạch, mưu tìm hoà bình và chịu bách hại vì danh Chúa Kytô. Ai tiếp nhận mối phúc này, chắc chắn Nước Trời sẽ là phần thưởng cho họ ngay tại thế này.
.
PHÚC THAY AI CÓ TÂM HỒN NGHÈO KHÓ
Lm. Thiện Cẩm
Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu: “Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ”, nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh, tử: Con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối phải chết. Rõ thật cuộc đời chỉ là bể khổ!
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!” (Mt 5,3)
Một người mang tiếng là bi quan yếm thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.
Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Đức Giêsu.. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Kitô, đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng; còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất (x. Mt 10,39), và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)
Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ “có tâm hồn” vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo hèn nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh.
Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất cả những đức tính trên đây là những đức tính của “người nghèo của Thiên Chúa”, của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu Người.
Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng của trăm họ làm lòng mình, “dĩ bách tánh tâm vi tâm” (ĐĐK XLIX,1).
Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần khác.
Nói tóm lại, không ai sướng khổ một mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
.
HẠNH PHÚC.
Lm. Nguyễn Ngọc Long
Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.
Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh…
Trong Phúc âm, những người được Chúa chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận “chịu vậy” cho xong?
“Phúc thay cho những ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ” (Mt 5,3). Tất cả mọi người ai cũng cần có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.
Người nghèo khó trong tâm hồn là người nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.
Dưới con mắt của mọi người, những ai lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh – Thử lòng trong đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? – Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: “Con đừng sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con” (Is 43,1). Và trong hoàn cảnh bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho cuộc sống.
Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi. Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.
Chúa chúc phúc cho những người có lòng nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3,7-8). Có thể họ bị người đời cho là khờ dại hay “ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm”. Nhưng đâu phải như thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh “dậu đổ bìm bịp leo!”, nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau “chị ngã em nâng”.
Họ là những người không tìm cách, tìm dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách hại các con (Mt 5,44).
Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch, hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: “Lấy chí nhân thay cường bạo!” làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.
Những người được Chúa chúc phúc, được Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa, sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.
Qua đời sống như thế “Danh Chúa được cả sáng và Nước Chúa trị đến”. Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.
.
CHÚA LÀ PHÚC THẬT
Lm. Phạm Quốc Hưng
“Hãy vui sướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời”.
Người Ái Nhĩ Lan có một câu nói diễn tả lòng tự hào dân tộc của họ như sau: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Ái Nhĩ Lan và những người muốn trở thành người Ái Nhĩ Lan”. Là người Việt Nam và cảm thấy tự hào về truyền thống anh hùng của Việt tộc, dĩ nhiên tôi không chấp nhận câu nói trên. Nhưng tôi cũng không dám sửa câu đó thành: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những người Việt Nam và những người muốn trở thành người Việt Nam.” Vì tôi biết có những người không muốn nhận mình là người Việt Nam dù đã sinh ra trên quê hương Việt Nam và mang trong mình dòng máu Lạc Hồng.
Dù vậy, tôi không sợ lầm khi sửa câu trên thành: “Trên thế giới chỉ có hai loại người: những con người hạnh phúc và những con người không được hay chưa được hạnh phúc”. Vì không có một người bình thường nào mà không mong mỏi khát khao hạnh phúc. Hạnh phúc viên mãn hay hạnh phúc đích thực bao giờ cũng là đối tượng tìm kiếm của trái tim nhân loại.
Nhưng làm thế nào để đạt được hạnh phúc?
Ai cũng mong muốn hạnh phúc, nhưng những quan niệm của con người về hạnh phúc, về cách thức để đạt được hạnh phúc thì thật khác nhau. Có người quan niệm hạnh phúc là có sức khỏe, nhan sắc, bạc tiền, tài năng, của cải, địa vị, học thức, và gia đình êm ấm thuận hoà. Người khác lại cho rằng hạnh phúc là được nhiều người ái mộ, làm được nhiều điều hữu ích cho xã hội, được đi vào lịch sử như những người hùng của nhân loại. Người khác nữa lại quan niệm hạnh phúc là phải từ bỏ mọi sự phiền toái của cuộc sống xã hội, sống ẩn dật như một loài thú đi hoang.
Trong Tin mừng hôm nya, Chúa Giêsu đã đưa ra những quy luật bất biến – chứ không phải một quan niệm vu vơ – để đạt đến hạnh phúc thực như con người hằng mong ước. Theo Ngài, những người hạnh phúc là
những người có tinh thần nghèo khó,
những người hiền lành,
những người ưu phiền,
những người đói khác sự công chính,
những người biết thương xót,
nhưng người tinh sạch trong lòng,
những người tác tạo hòa bình,
và những người bị bách bớ vì sự công chính.
Là Thiên Chúa và là Đấng tạo dựng nên chúng ta, Chúa Giêsu hiểu biết ta hơn là ta hiểu biết về chính mình. Ngài biết ta phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thực, nên Ngài đã chỉ cho ta biết những quy luật hạnh phúc trên. Nhưng điều này xem ra nghịch hẳn với quan niệm thông thường của con người về hạnh phúc. Nhưng đó là những chân lý không thể sai lầm.
Làm sao chúng ta biết được đây là những quy luật hạnh phúc chân thực nhất xưa nay? Vì những quy luật này đã được thể hiện nơi chính con người của Chúa Giêsu. Ngài đã sống trước khi giảng dạy chúng ta những điều ấy.
Thật vậy, nơi Chúa Giêsu chúng ta gặp thấy hiện thân của chính đức khó nghèo, chính sự hiền lành, chính sự ưu phiền, chính cơn đói khát công chính, chính lòng xót thương, chính lòng tinh sạch, chính sự hòa bình, và chính sự công chính đang bị bách bớ. Ngài là mẫu mực của tất cả những ai mà Ngài nhìn nhận là có phúc.
Nói cách khác, những quy luật trên sở dĩ gọi là những quy luật hạnh phúc bất biến vì chúng giúp người ta nên giống Chúa Giêsu và nên một với Ngài là Thiên Chúa làm người. Theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng là những phương thức giúp ta “mặc lấy Chúa Kitô” và trở nên nên “đồng hình đồng dạng” với Người. Những quy luật này giúp chúng ta noi gương Chúa Giêsu, cắm sâu chôn chặt vào Thiên Chúa như nguồn hạnh phúc duy nhất của mình và sẵn sàng thoát ly tất cả những gì không phải là Chúa. Chúng sẽ giúp chúng ta thưa cùng Chúa những lời của Thánh vịnh gia:
“Tôi thưa cùng Yavê: Chính Người là Chúa của tôi, hạnh phúc của tôi, có đâu ngoài Người…
Yavê là phần cơ nghiệp, là chén của tôi,
chính Người là Đấng nắm giữ cơ đồ cho tôi!
Giây đo phần tôi rơi nhằm nơi tuyệt mỹ,
cơ nghiệp ấy làm cho tôi sung sướng!”
(Tv 16:2 & 5-6)
Điều quan trọng ở đây là chúng ta có dám dấn thân sống theo những quy luật hạnh phúc này hay không?
Sở dĩ cuộc đời chúng ta còn buồn tẻ chán chường, còn “sà sà mặt đất”, còn chưa được thăng hoa là vì chúng ta chưa dám thực hành những điều mà miệng ta nhìn nhận là chân là thiện. Cũng chính vì thế mà ta chưa cảm nếm được sự ngọt ngào và sức mạnh của Lời Chúa. Đúng như tác giả sách Gương Chúa Giêsu nhận xét: “Sở dĩ nhiều người nghe giảng Phúc âm luôn mà vẫn không xúc động, là vì họ không có tinh thần Chúa Kitô. Muốn hiểu tỏ và nếm thử thi vị của Lời Chúa, cần phải tập sống đời sống của Chúa” (GCG Q.1 Ch. 1).
Trong quá trình phong thánh của Giáo hội, các vị á thánh là những người bắt đầu được dân chúng tôn kính nơi công cộng còn được gọi là những “chân phúc”, những con người được phúc thật, được phần thưởng thiên đàng, được sống đời đời. Lý do Giáo hội tôn phong các ngài là vì Giáo hội nhận thấy nơi các ngài là hình ảnh của chính Chúa Giêsu là Nguồn mọi sự thánh, thấy sự hiện diện của chính Chúa nơi cuộc đời các ngài. Phần phúc của các ngài cũng là phần phúc được Chúa hứa ban cho mỗi tín hữu chúng ta.
Cuối cùng rồi thì nhân loại vẫn được chia thành hai loại như những con chiên lạc được tách khỏi đám dê trong bài giảng về ngày phán xét cùng tận (Mt 25:31-46): những người được phúc thật là những người mang hình ảnh Chúa Giêsu vì đã nổ lực sống thánh thiện noi gương Người và nhưng người đã tự khước từ phúc thật đời đời vì đã chối bỏ lời mời gọi sống thánh theo gương Chúa Giêsu khi còn ở trần gian và đã đánh mất hình ảnh Thiên Chúa nơi mình bằng lối sống đắm chìm trong tội.
Với lời mời gọi của Chúa Kitô, với sự trợ giúp của Ơn Chúa, với sự thúc bách của Chúa Thánh Thần, với gương sáng và lời chuyển cầu của Mẹ Maria và chư thánh, chúng ta còn ngần ngại gì mà chưa nỗ lực sống thánh để đạt được phúc thật?
.
PHÚC THẬT, PHÚC GIẢ
Lm. Bùi Quang Tuấn
“Bài Giảng Trên Núi” hay “Hiến Chương Nước Trời” là bản tổng hợp xúc tích nhất của Tin mừng Đức Kitô. Và “Tám Mối Phút Thật” chính là nền tảng căn bản nhất của “Bài Giảng Trên Núi” đó.
Thế nhưng không tránh khỏi một câu hỏi đầy tính hiện sinh: làm sao nghèo hèn, hiền từ, ưu phiền, đói khát, bị bắt bớ…mà lại có phúc được? Phải chăng Đức Giêsu đang ru ngủ hạng bần cùng khốn khó, như Marx có lần tuyên bố: Kitô giáo biện chứng cho sự nghèo đói của nhân loại và làm lụn bại tinh thần đấu tranh vượt thoát áp bức. Phải chăng là như thế?
Dựa vào đâu để khẳng định nghèo khó, ưu phiền, đau khổ là có phúc, đang khi thực tế lại như những “vô phúc” đáng loại trừ?
Một nhà tư tưởng đã có lý khi nhận định: ấy là dựa vào con người của Đức Giêsu, vì Ngài chính là hiện thân của khó nghèo, hiền lành, lắng lo, khát khao, thương xót, tinh tuyền, hoà bình, và khốn khổ vì công chính.
Không phải bởi lâm vào tình cảnh bế tắc nên Ngài phải chịu vậy, song đây là một sự tự nguyện chọn lựa để làm nên mẫu gương ân phúc cho con người. Ví dụ, có lần ma quỉ đến nói với Đức Giêsu: “Nếu ông cúi mình bái lạy tôi thì tất cả vinh quang giàu sang của thế gian sẽ thuộc về ông”. Như vậy Chúa Giêsu có khả năng để nên giàu có, và giàu có lắm, vì được cả thế gian chứ không phải thường. Nhưng Ngài từ chối bái lạy “cha của bọn dối trá”.
Hay sau khi hóa bánh cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu được người ta tôn vinh làm vua. Khi làm vua, chắc là sẽ sung sướng và cao sang hơn người. Ấy thế mà Kinh thánh lại nói: “Ngài trốn lên núi”. Tại sao trốn? Phải chăng Đức Giêsu muốn khẳng định một điều: giá trị cao quí và cần thiết vô cùng không ở nơi của cải, cao sang, sức mạnh, chức quyền nhưng là nơi Thiên Chúa. Ai chọn lựa Thiên Chúa, ai đặt trọn niềm tin tưởng nơi Ngài chính là người có phúc nhất. Thánh vịnh đã xác nhận điều đó khi nói: “Phúc thay người đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”. Vì sao? Vì khi đặt niềm tin tưởng như thế:
“Họ như cây trồng bên suối nước,
Trổ sinh hoa trái đúng mùa
Lá cây không bao giờ tàn úa
Tất cả công việc họ làm đều thịnh đạt”.
Thịnh đạt trong mọi công việc chính là phần phúc dành cho những ai chọn Thiên Chúa làm lẽ sống và con đường ngay thẳng của Tin mừng để bước đi, dù rằng nẻo đường đó không thiếu chật hẹp, gian nan, đau khổ và rướm máu. Thế nhưng có bước theo Chúa và gắng nên giống Ngài mới là phúc thật, còn ngược lại, thì dù được xem như thành công, giàu có, hạnh phúc, an lành, người ta vẫn là những kẻ vô phúc trong thiên hạ.
Mới đây, làng điện ảnh Hollywood thường đề cập đến nữ minh tinh Demi Moore, người rất được khán giả Hoa kỳ ái mộ, và cũng từng là vợ của Bruce Willis, một tài tử danh tiếng khác.
Nổi tiếng và giàu có, nhưng Demi lại đang sống trong tình trạnh mặc cảm, lo sợ, hối hận dày vò. Số là trước khi bước chân vào nghề điện ảnh, Demi đã làm một nghề tồi bại: cho chụp hình playboy thân xác của mình.
Mặc dầu đã tốn khá nhiều tiền mua lại các phim gốc, hầu xóa bỏ dấu tích của một thời thiếu đoan trang, Demi vẫn mang trong mình nỗi bất an lo sợ. Vì hiện nay đang có dấu hiệu xuất hiện các hình ảnh xấu xa của cô trên Internet.
Demi lo cho danh dự của mình một phần, nhưng nguy hiểm hơn, cô đang sợ một ngày kia, ba đức con gái bé bỏng của cô là Rumer, Scout, và Talluah sẽ nhìn thấy các hình ảnh “không nết na” của mẹ chúng trên Internet, hoặc bị bạn bè bắt gặp và đem ra trêu chọc. Demi không muốn chứng kiến cảnh các con ngây thơ vô tội phải xấu hổ đau khổ vì mình. Cô tâm sự: “Giấc mơ lớn lao nhất của tôi là tìm mọi cách thu hồi những tấm ảnh playboy đó và ném vào một đống lửa cho cháy tiêu tan”. Demi cũng cho hay cô không kiêu hãnh chút nào khi có người khen cô đẹp vẹn toàn, bởi vì cô đã phạm một lỗi lầm rất lớn là để cho người ta chụp hình khỏa thân hầu sớm nổi danh và giàu có.
Thế đó, cứ tưởng vừa giàu sang có sang trọng, vừa xinh đẹp và được mến mộ thì hạnh phúc lắm. Nhưng sung sướng gì khi thâm tâm cứ bị dày xéo cắn rứt không nguôi.
Thử hỏi sống như thế là có phúc hay vô phúc? Thành ra có nhiều điều người ta tưởng “sướng lắm” hay “phúc lắm”, nhưng khi đạt được rồi mới thấy bức rức, hụt hẫng, dày vò, dơ nhớp… bởi vì nỗi khát khao háo hức không phải là công chính và thẳng ngay.
Như vậy, con người chỉ có phúc thật khi khao khát Thiên Chúa và sự công chính của Ngài. Con người chỉ có bình an và thoả lòng thật sự khi bước đi trên nẻo đường thập giá của Phúc âm. Và con người chỉ có thể vui cười chiến thắng khi can đảm chiến đấu và chiến thắng bao dục vọng đam mê thế trần.
Đường lên thiên đàng khi nào cũng nhỏ hẹp và vất vả hơn đường xuống hỏa ngục đầy bóng mát thênh thang. Nhưng can đảm chọn lựa bước theo Giêsu là đón nhận cho đời mình chính nguồn hạnh phúc chân thật và sự sống phong phú dồi dào.