Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 10 tháng Ba, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa đã có bài tĩnh tâm Mùa Chay thứ hai trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma.
Trong bài giảng này, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa đã thảo luận về lời kêu gọi của Thánh Phaolô về mối quan hệ cá vị của chúng ta với Chúa Kitô, và ý nghĩa của nó đối với vai trò của người giáo dân trong sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Dưới đây là những ý chính:
Phớt lờ Chúa
Đức Hồng Y Cantalamessa bắt đầu bằng cách trích dẫn những lời của Thánh Phaolô rằng “họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo”
Do đó, ngài khẳng định rằng “tội lỗi tột cùng” là “từ chối tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa.” Điều này có vẻ xa lạ đối với chúng ta, vì “Đối với chúng ta, việc không tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa dường như không phải là một tội chết người và khủng khiếp”.
Ngài giải thích rằng, để hiểu ý của Thánh Phaolô, “chúng ta cần hiểu rõ những gì ẩn giấu trong điều này: đó là sự từ chối nhìn nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, không dành cho Người sự quan tâm xứng đáng với Người. Chúng ta có thể nói, nó bao gồm việc ‘phớt lờ’ Thiên Chúa, trong đó phớt lờ không có nghĩa là ‘không biết rằng Ngài tồn tại’ mà là ‘hành động như thể Ngài không tồn tại’.
Một mối quan hệ cá vị với Chúa Giêsu
Nhưng thông điệp này của Thánh Phaolô có liên quan đến chúng ta ngày nay như thế nào?
Đức Hồng Y Cantalamessa gợi ý rằng nó không nằm quá nhiều trong chẩn đoán của Thánh Phaolô về tình hình của chúng ta cho bằng trong giải pháp đề xuất của thánh nhân. Khi nhấn mạnh đến “ơn cứu chuộc do Chúa Giêsu Kitô mang đến”, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta không chỉ canh tân luân lý, trở lại với Luật pháp Môise, như các tiên tri trong Cựu Ước thúc giục, nhưng phải quay trở lại mối quan hệ cá vị với Chúa Giêsu.
Đức Hồng Y Cantalamessa nói, đôi khi đây là một khái niệm mà người Công Giáo miễn cưỡng chấp nhận, vì họ thích nói về các mối quan hệ “giáo lý”, “bí tích” hoặc “Giáo Hội” với Chúa Kitô. Ngài lưu ý rằng trong suốt 5 thế kỷ qua, linh đạo Công Giáo và việc chăm sóc mục vụ đã xem bất kỳ cuộc nói chuyện nào về mối quan hệ cá vị với Thiên Chúa “với sự nghi ngờ”.
Ngài nhấn mạnh, cách tiếp cận này là hoàn toàn sai lầm. Thật vậy, vì không còn có thể coi là điều hiển nhiên, đức tin ngày nay phải được hiểu chủ yếu như một mối quan hệ cá vị, vì “nó không được hấp thụ như những đứa trẻ trong môi trường gia đình hoặc trường học, mà phải là kết quả của quyết định cá nhân..”
Giáo dân là những người loan báo Tin Mừng
Trong phần cuối cùng của bài giảng, Đức Hồng Y Cantalamessa chuyển sang xem xét câu hỏi làm thế nào để thắp lên “tia sáng tìm kiếm Chúa Giêsu” trong trái tim của những người khác.
Ngài nói rằng: “Trong phần lớn các trường hợp mà tôi đã biết trong đời mình, việc khám phá ra Đấng Kitô làm thay đổi cuộc sống đã xảy ra nhờ gặp gỡ một người đã trải qua ân sủng đó, bằng cách tham gia vào một cuộc tụ họp, bằng cách nghe một chứng tá. “
Ngài nói, điều này cho thấy một vai trò đặc biệt quan trọng đối với giáo dân, những người “được hòa nhập nhiều hơn vào kết cấu cuộc sống mà trong đó những hoàn cảnh đó thường xảy ra”.
Đức Hồng Y Cantalamessa kết luận, những giáo dân đã “khám phá ra ý nghĩa của việc biết một Chúa Giêsu hằng sống và mong muốn chia sẻ khám phá của họ với những người khác”, nên trở thành những tác nhân chính trong sứ mệnh truyền bá phúc âm của Giáo Hội.
Toàn văn bài tĩnh tâm Mùa Chay thứ hai của Giáo triều Rôma: Tin Mừng là quyền năng cứu rỗi của Thiên Chúa
Từ Tông huấn Evangelii Nuntiandi – hay Loan Báo Tin Mừng – của Thánh Phaolô Đệ Lục đến Tông huấn Evangelii Gaudium – hay Niềm Vui Phúc Âm – của vị đương kim Giáo Hoàng, chủ đề truyền giáo luôn là tâm điểm chú ý của Huấn quyền. Các thông điệp vĩ đại của Thánh Gioan Phaolô II đã góp phần vào việc này, cũng như việc thành lập Hội đồng Giáo hoàng về Phúc Âm Hóa do Đức Bênêđictô XVI thúc đẩy. Mối quan tâm tương tự có thể được nhìn thấy trong tiêu đề được đặt cho tông hiến cải tổ Giáo triều Praedicate Evangelium – hay Rao Giảng Tin Mừng – và trong tiêu đề “Bộ Loan báo Tin Mừng” được trao cho Thánh bộ Truyền bá Đức tin lâu đời. Mục đích tương tự hiện đang được giao cho Thượng hội đồng của Giáo Hội. Đối với điều này, tức là đối với việc rao giảng Tin Mừng, tôi muốn cống hiến bài suy niệm này.
Định nghĩa ngắn gọn và đầy đủ nhất về truyền giáo là định nghĩa có thể đọc được trong Thư Thứ Nhất của Thánh Phêrô, trong đó các Tông đồ được định nghĩa là: “những người loan báo Tin Mừng cho anh em trong Chúa Thánh Thần” (1 Pr 1:12). Định nghĩa ấy chứa đựng điều cốt yếu của việc loan báo Tin Mừng, cụ thể nội dung của nó là Tin Mừng, và phương pháp của nó là trong Chúa Thánh Thần.
Để biết từ “Phúc Âm” có nghĩa gì, cách an toàn nhất là hỏi người đầu tiên dùng từ Hy Lạp này và khiến nó trở nên phổ biến trong ngôn ngữ Kitô giáo, đó là Tông đồ Phaolô. Chúng ta may mắn được sở hữu một bài bình luận do chính tay ngài viết giải thích ý nghĩa của từ “Phúc Âm”, đó là Thư gửi tín hữu Rôma. Chủ đề của lá thư được loan báo với những lời này: “Tôi không hổ thẹn về Tin Mừng, vì đó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ mọi kẻ tin” (Rm 1:16).
Đối với sự thành công của mọi nỗ lực mới trong việc truyền giáo, điều quan trọng là phải làm rõ cốt lõi thiết yếu của việc loan báo Kitô giáo, và không ai đã nhấn mạnh điều đó tốt hơn vị Tông đồ trong ba chương đầu tiên của Thư gửi tín hữu Rôma. Tôi tin chắc rằng việc hiểu và áp dụng thông điệp của ngài vào hoàn cảnh hiện tại sẽ quyết định việc con cái Thiên Chúa sẽ được sinh ra từ những nỗ lực của chúng ta hay liệu chúng ta buộc phải lặp lại những gì tiên tri Isaia đã than thở:
“Chúng con đã mang thai, đã quằn quại, nhưng chỉ sinh ra gió: chúng con chẳng giải thoát được thế gian, cũng chẳng sinh sản thêm dân cư cho mặt đất”. (Is 26:18).
Sứ điệp của Thánh Tông đồ trong ba chương đầu của Bức Thư này có thể được tóm tắt trong hai điểm: thứ nhất, tình trạng của con người trước mặt Thiên Chúa là gì sau tội lỗi; và thứ hai, làm thế nào một người thoát khỏi nó, nghĩa là làm thế nào một người được cứu bởi đức tin và trở thành một tạo vật mới. Chúng ta hãy noi theo Thánh Tông đồ trong lối lý luận chặt chẽ của ngài. Tốt hơn, chúng ta hãy đi theo Thần Khí nói qua Người.
Ai từng đi máy bay chắc cũng từng nghe thông báo: “Hãy thắt dây an toàn vì chúng ta sắp đi vào vùng nhiễu động”. Lời cảnh báo tương tự nên được gửi đến những người sắp đọc những lời sau đây của Phaolô:
“Quả thật, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. Quả vậy, những gì người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ. Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú vật, rắn rết.” (Rm 1:18-23)
Tội lỗi cơ bản, đối tượng chính của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, được xác định, như có thể thấy, trong từ asebeia, tức là trong sự bất kính. Chính xác thì sự bất kính này bao gồm những gì? vị Tông đồ ngay lập tức giải thích, với chúng ta rằng nó bao gồm việc từ chối “tôn vinh” và “cảm tạ” Thiên Chúa. Thật kỳ lạ! Đối với chúng ta, việc không tôn vinh và tạ ơn Chúa dường như không phải là một tội lỗi chết người và khủng khiếp. Chúng ta cần hiểu những gì ẩn giấu đằng sau điều này: đó là sự từ chối nhìn nhận Thiên Chúa là Thiên Chúa, không dành cho Người sự quan tâm xứng đáng với Người. Chúng ta có thể nói, nó bao gồm việc “phớt lờ” Thiên Chúa, trong đó phớt lờ không có nghĩa là “không biết rằng Ngài tồn tại” mà là “hành động như thể Ngài không tồn tại”.
Trong Cựu Ước, chúng ta nghe Môsê kêu gọi dân chúng: “Hãy biết rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa!” (x. Đnl 7:9) và tác giả Thánh Vịnh đã tiếp nhận tiếng kêu này khi nói: “Hãy nhận biết Chúa là Thiên Chúa: Người đã dựng nên chúng ta và chúng ta thuộc về Người!” (Tv 100:3). Về cốt lõi, phạm tội là từ chối “sự công nhận” này; đó là nỗ lực của tạo vật nhằm xóa bỏ sự khác biệt vô hạn tồn tại giữa nó và Chúa, theo sáng kiến riêng của nó, gần như bằng sự kiêu ngạo. Theo cách này, tội lỗi tấn công chính gốc rễ của mọi sự; đó là “dùng sự gian ác để áp chế chân lý.” Đó là một điều gì đó nham hiểm và khủng khiếp hơn nhiều so với những gì con người có thể tưởng tượng hoặc nói ra. Nếu con người biết khi còn sống, cũng như họ sẽ biết vào lúc chết, thế nào là phủ nhận Thiên Chúa, thì họ sẽ chết vì kinh hoàng.
Chúng ta đã nghe nói rằng sự phủ nhận này đã hình thành trong việc thờ ngẫu tượng, theo đó tạo vật được tôn thờ thay vì Đấng Tạo Hóa. Trong việc thờ ngẫu tượng này, người ta không “chấp nhận” Thiên Chúa, mà tự mình tạo ra một vị thần; chính họ quyết định về Chúa chứ không phải ngược lại. Các vai trò được đảo ngược: con người trở thành thợ gốm và Chúa là bình sành mà con người nhào nặn theo ý muốn. Ngày nay, nỗ lực cổ xưa này đã mang một hình thức mới. Nó không hệ tại ở việc đặt một cái gì đó vào vị trí của Thiên Chúa – thậm chí là chính mình, nhưng ở việc bãi bỏ, một cách thuần túy và đơn giản, vai trò được biểu thị bởi từ “Thiên Chúa”. Đó là chủ nghĩa hư vô! Không có gì thay thế vào chỗ của Chúa. Nhưng không cần phải tập trung vào vấn đề này vào lúc này; nó sẽ làm gián đoạn việc lắng nghe vị Tông đồ, người thay vào đó tiếp tục lập luận chặt chẽ của mình.
Thánh Phaolô tiếp tục bản cáo trạng của mình bằng cách chỉ ra ở mức độ đạo đức những kết quả phát sinh từ việc chối bỏ Thiên Chúa. Từ đó dẫn đến sự tan rã chung về đạo đức, một “dòng chảy trầm luân” thực sự kéo nhân loại vào chỗ diệt vong. Và ở đây, vị Tông đồ đã vẽ một bức tranh ấn tượng về những tệ nạn của xã hội ngoại giáo. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất cần giữ lại từ phần này của thông điệp Thánh Phaolô không phải là danh sách các tật xấu mà ngài liệt kê, là những gì cũng được trình bày bởi các nhà đạo đức khắc kỷ thời đó. Ngay từ cái nhìn đầu tiên, điều gây bối rối là Thánh Phaolô coi tất cả những rối loạn đạo đức này không phải là nguyên nhân, mà là hậu quả của cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Công thức nêu rõ điều này được lặp lại đến ba lần:
Vì thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục vọng mà làm những điều ô uế […] Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại […] Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng (Rm 1:24,26,28).
Thiên Chúa chắc chắn không “muốn” những điều như vậy, nhưng Ngài “để mặc” chúng để làm cho con người hiểu sự phủ nhận của họ sẽ dẫn đến đâu. Thánh Augustinô viết: “Những hành động này mặc dù là hình phạt, nhưng chúng cũng là tội lỗi, bởi vì hình phạt của sự gian ác chính là sự gian ác; Chúa can thiệp để trừng phạt cái ác và từ sự trừng phạt của chính Ngài, những tội lỗi khác tràn ngập.”
Trước mặt Thiên Chúa không có sự phân biệt giữa Do Thái và Hy Lạp, giữa tín hữu và dân ngoại: “Mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 3:23). Thánh Tông đồ muốn làm sáng tỏ điểm này đến nỗi ngài dành trọn chương hai và một phần ba của Bức thư cho điều đó. Toàn thể nhân loại đang ở trong tình trạng diệt vong này, chứ không phải cá nhân này hay dân tộc kia hay cá nhân nọ.
Trong tất cả những điều này, đâu là tính thời sự của sứ điệp mà tôi đang nói tới? Nó nằm trong phương thuốc mà Tin Mừng đề nghị cho tình trạng này. Nó không bao gồm việc tham gia vào cuộc đấu tranh để cải cách đạo đức của xã hội và sửa chữa những tệ nạn của nó. Đối với Thánh Phaolô, điều đó giống như muốn nhổ một cái cây bằng cách bắt đầu ngắt bỏ những chiếc lá hoặc những cành nhô ra nhất, hoặc lo lắng về việc loại bỏ cơn sốt hơn là chữa trị căn bệnh đã gây ra nó.
Được dịch sang ngôn ngữ hiện tại, điều này có nghĩa là việc truyền giáo không bắt đầu bằng luân lý, mà bằng kerygma – hay rao giảng; bằng ngôn ngữ của Tân Ước, không phải với Lề Luật, nhưng với Tin Mừng. Và nội dung và cốt lõi của nó là gì? Thánh Phaolô có ý gì qua từ “Phúc Âm” khi ngài nói đó là “quyền năng của Thiên Chúa cho mọi kẻ tin?” Tin vào cái gì? Thưa: “Sự công chính của Thiên Chúa đã được bày tỏ!” (Rm 3:21): đây là điều mới mẻ. Không phải con người đột nhiên thay đổi cuộc sống và phong tục của họ và bắt đầu làm điều tốt. Sự kiện mới là, khi thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã hành động; Ngài phá vỡ sự im lặng; Ngài là Đấng đầu tiên mở rộng bàn tay của mình cho con người tội lỗi.
Nhưng bây giờ chúng ta hãy trực tiếp lắng nghe vị Tông đồ giải thích cho chúng ta “hành động” này của Thiên Chúa bao gồm những gì. Chúng là những từ mà chúng ta đã đọc hoặc nghe hàng trăm lần, nhưng chúng ta thích nghe đi nghe lại những giai điệu của một bản giao hưởng tuyệt vời:
“Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban cho nhưng không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Thiên Chúa đã đặt Người làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại, Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. Nhưng bây giờ, Người muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức Giêsu được nên công chính.” (Rm 3,23-26).
Tôi muốn trấn an mọi người ngay lập tức: Tôi không có ý định đưa ra một bài giảng nào khác về sự công chính hóa bởi đức tin. Có một mối nguy hiểm khi chỉ nhấn mạnh vào vấn đề này. Điều Thánh Phaolô trình bày cho chúng ta không phải là một học thuyết, mà là một sự kiện, thực ra là một con người. Chúng ta không được cứu một cách chung chung “nhờ ân sủng;” chúng ta được cứu bởi ân sủng của Chúa Giêsu Kitô; chúng ta không được công chính hóa một cách chung chung “nhờ đức tin”; nhưng chúng ta được công chính hóa nhờ đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô. Mọi thứ đã thay đổi “nhờ sự cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.” Bài bình luận xác thực về việc Giáo Hội đứng vững hay sụp đổ (articulum stantis et cadentis Ecclesiae) không phải là một học thuyết, mà là một con người.
Tôi kinh ngạc mỗi khi đọc phần này của Thư gửi tín hữu Rôma. Sau khi đã mô tả, bằng giọng điệu mà chúng ta đã nghe, về tình trạng tuyệt vọng của nhân loại, vị Tông đồ có can đảm nói rằng nó đã thay đổi triệt để vì những gì đã xảy ra vài năm trước, trong một phần ít người biết đến của Đế Quốc Rôma, bởi một người đàn ông độc thân, đã chết trên thập tự giá! Chỉ có ánh sáng rực rỡ từ Chúa Thánh Thần mới có thể mang lại cho một người can đảm để tin và công bố tin tức khó tin này, đặc biệt là vì chính người đàn ông này đã từng “nổi giận” nếu có ai dám công bố một điều như vậy trước mặt anh ta. Thầy Phó Tế Stêphanô đã phải trả giá cho sự tức giận của chính người đàn ông này.
Trong chúng ta, cú sốc được xoa dịu bởi hai mươi thế kỷ được xác nhận, nhưng chúng ta hãy nghĩ xem những lời của vị Tông đồ chắc hẳn đã nghe như thế nào đối với những người có học vào thời đó. Bản thân ngài cũng nhận thức được điều đó; vì điều này, ngài cảm thấy cần phải nói: “Tôi không hổ thẹn về Tin Mừng” (Rm 1:16). Thật vậy, người ta có thể xấu hổ về Tin Mừng. Tôi không thể hiểu làm thế nào các nhà sử học có thể thành thật tin trong một thời gian dài rằng Phaolô đã rút ra xác tín mới của mình từ các giáo phái Hy Lạp, hay từ nguồn nào khác, mà tôi không biết. Ai đã từng tưởng tượng, hoặc có thể tưởng tượng một cách nhân bản một điều như vậy?
Nhưng chúng ta hãy trở lại với ý định cụ thể của chúng ta, đó là truyền giáo. Chúng ta có thể học được gì từ lời của Thiên Chúa mà chúng ta vừa nghe? Đối với những người ngoại đạo, Thánh Phaolô không nói rằng phương thuốc cho việc thờ ngẫu tượng của họ nằm ở việc đặt câu hỏi kỹ hơn về vũ trụ để quay trở lại từ thụ tạo đến Đấng Tạo Hóa. Đối với người Do Thái, ngài không nói rằng biện pháp khắc phục nằm ở việc quay lại tuân giữ Luật Môise một cách hoàn hảo hơn. Biện pháp khắc phục không ở phía trên chúng ta hoặc đằng sau chúng ta; nó ở trước mặt chúng ta và bao gồm việc tin vào “sự cứu chuộc do Chúa Giêsu Kitô thực hiện.”
Thật ra, Thánh Phaolô không nói điều gì hoàn toàn mới. Nếu ngài là tác giả của thông điệp chưa từng có này, thì những ai nói rằng người sáng lập thực sự của Kitô giáo là Saulô thành Tắcsô, chứ không phải Chúa Giêsu thành Nagiarét, sẽ đúng. Nhưng họ đã nhầm! Thánh Phaolô không làm gì khác ngoài việc tiếp nhận lời tuyên bố khai mạc của Chúa Giêsu: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15), và thích ứng lời tuyên bố ấy với hoàn cảnh lúc bấy giờ. Trên môi miệng thánh nhân “ăn năn” không có nghĩa như trong những lời rao giảng của các tiên tri xa xưa và Thánh Gioan Tẩy Giả: Hãy trở lại, tuân giữ Luật pháp và các điều răn! Thay vào đó, nó có nghĩa là: Tiến một bước nhảy vọt; hãy vào Vương quốc đã đến một cách nhưng không giữa các ngươi! Hãy tin vào Tin Mừng! Hoán cải là tin tưởng. Thánh Thomas Aquinas đã viết: “Sự hoán cải đầu tiên hệ tại ở việc tin tưởng: Prima conversio fit per fidem”.
Tất nhiên, cả Chúa Giêsu và Phaolô đều không dừng lại ở điểm này. Khi rao giảng, Chúa Giêsu giải thích việc chào đón Nước Trời đòi hỏi điều gì và Thánh Phaolô dành toàn bộ phần thứ hai của Bức thư để liệt kê các việc phải làm, hay các nhân đức, là đặc điểm của những người đã trở thành tạo vật mới. Ngài kết thúc kerygma bằng parenesis, nghĩa là công bố về những gì Thiên Chúa đã làm cùng với việc giải thích những gì chúng ta phải làm. Điều quan trọng là thứ tự phải tuân theo trong cuộc sống và trong việc loan báo, bắt đầu từ đâu. Như Thánh Grêgôriô Cả đã nói, “người ta không đạt được đức tin bắt đầu từ các nhân đức, mà đạt được các nhân đức bắt đầu từ đức tin.” Mọi sáng kiến rao giảng Tin Mừng muốn bắt đầu bằng việc cải cách các phong tục của xã hội, mà không – hoặc trước đó – cố gắng thay đổi tâm hồn con người, cuối cùng sẽ không đạt được kết quả gì, hoặc còn làm cho tồi tệ hơn nữa, trong lĩnh vực chính trị.
Nhưng không cần phải nhấn mạnh ngay cả về điều đó vào lúc này. Thay vào đó, chúng ta phải tiếp nhận lời dạy tích cực của vị Tông đồ. Lời Chúa nói gì với một Giáo Hội – mặc dù bị tổn thương trong chính mình và bị tổn thương trước con mắt của thế giới – đang trào dâng niềm hy vọng và muốn tiếp tục, với động lực mới, sứ mạng rao giảng Tin Mừng của mình? Thánh Phaolô nói rằng cần phải bắt đầu lại từ con người của Chúa Kitô, để nói về Ngài “trong thời gian và ngoài thời gian;” không bao giờ coi diễn ngôn về Ngài là đương nhiên hoặc đã hoàn tất. Chúa Giêsu không được ở phía sau, nhưng ở trung tâm của mọi lời loan báo.
Thế giới thế tục cố gắng hết sức (và thật không may, nó đã thành công!) để giữ danh Chúa Giêsu cách biệt, hoặc bịt miệng, trong mọi diễn ngôn về Giáo Hội. Chúng ta phải làm mọi cách để danh Ngài luôn vang xa. Không dấu đằng sau, vì danh Chúa là sức mạnh và là sự sống của Giáo Hội. Mở đầu Tông Huấn Evangelii Gaudium – Niềm Vui Phúc Âm, chúng ta đọc thấy những lời này:
Tôi mời tất cả các Kitô hữu, ở khắp mọi nơi, vào chính thời điểm này, hãy làm mới cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, hoặc ít nhất là mở lòng ra để cho Người gặp gỡ họ; Tôi yêu cầu tất cả anh chị em làm điều này không ngừng nghỉ mỗi ngày. Không ai nên nghĩ rằng lời mời này không dành cho mình (EG,3).
Theo như tôi biết, đây là lần đầu tiên cụm từ “cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô” xuất hiện trong một tài liệu chính thức của Huấn Quyền. Mặc dù có vẻ đơn giản, cách diễn đạt này chứa đựng một điều mới lạ mà chúng ta phải cố gắng hiểu. Trong việc chăm sóc mục vụ và tâm linh của Công Giáo, những cách khác để quan niệm về mối quan hệ của chúng ta với Chúa Kitô đã quen thuộc trong quá khứ. Những cách ấy nói về mối quan hệ giáo lý, bao gồm việc tin vào Chúa Kitô; về mối liên hệ bí tích, về mối liên hệ Giáo Hội, với tư cách là các chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô; người ta cũng nói về một mối quan hệ thần bí hoặc phu thê dành riêng cho một số linh hồn có đặc sủng. Không có cuộc nói chuyện nào – hoặc ít nhất là không được ưa chuộng để nói về mối quan hệ cá vị, chẳng hạn như giữa tôi và bạn, mở ra cho mọi tín hữu.
Trong suốt 5 thế kỷ bỏ lại sau lưng chúng ta – được gọi một cách không thích hợp là thời kỳ “Phản Cải cách” – linh đạo Công Giáo và việc chăm sóc mục vụ đã xem xét cách thức quan niệm về ơn cứu rỗi này với sự nghi ngờ. Người ta thấy trong đó nguy cơ của chủ nghĩa chủ quan, nghĩa là coi đức tin và ơn cứu độ như một kinh nghiệm cá nhân, không có mối liên hệ thực sự với Truyền thống và với đức tin của phần còn lại của Giáo Hội. Sự gia tăng của các trào lưu và giáo phái trong thế giới Tin lành càng củng cố niềm tin này.
Giờ đây, tạ ơn Chúa, chúng ta đã bước vào một giai đoạn mới trong đó chúng ta cố gắng nhìn ra những khác biệt, không nhất thiết là sự xung đột lẫn nhau và do đó phải đấu tranh, nhưng, trong chừng mực có thể, chúng ta xem đó là sự phong phú được chia sẻ. Trong môi trường mới này, lời khuyên có “mối quan hệ cá vị với Chúa Kitô” không có gì nguy hiểm. Thật vậy, cách quan niệm về đức tin này đối với chúng ta dường như là cách duy nhất có thể thực hiện được, vì đức tin không còn được coi là điều hiển nhiên, và nó không được hấp thụ như những đứa trẻ trong môi trường gia đình hoặc trường học, mà phải là kết quả của phán đoán cá nhân. Sự thành công của một sứ vụ truyền giáo không còn có thể được đo lường bằng số lần xưng tội và số lần rước lễ được phân phát, nhưng bằng bao nhiêu người đã chuyển từ Kitô hữu trên danh nghĩa sang Kitô hữu thực sự, nghĩa là xác tín và tích cực trong cộng đoàn.
Chúng ta hãy cố gắng hiểu “cuộc gặp gỡ cá vị” nổi tiếng này với Chúa Kitô thực sự bao gồm những gì. Tôi nói nó giống như gặp trực tiếp một người sau nhiều năm quen biết họ chỉ qua một bức ảnh. Người ta có thể biết những cuốn sách về Chúa Giêsu, giáo lý, dị giáo về Chúa Giêsu và các quan niệm về Chúa Giêsu, nhưng không biết Ngài hằng sống và hiện diện. (Tôi nhấn mạnh vào hai tính từ này: một Chúa Giêsu hằng sống và một Chúa Giêsu hiện diện!). Đối với nhiều người, ngay cả những tín hữu đã chịu phép rửa tội, Chúa Giêsu là một nhân vật trong quá khứ, một nhân vật chứ không phải một người đang sống.
Sẽ giúp hiểu được sự khác biệt khi nhìn vào những gì xảy ra trong lĩnh vực con người khi bạn đi từ quen biết một người đến yêu người đó. Người ta có thể biết mọi thứ về một người phụ nữ hay một người đàn ông: tên họ, bao nhiêu tuổi, học ngành gì, gia đình ra sao… Rồi một ngày nọ, một tia lửa được thắp lên và người ta yêu người phụ nữ đó hoặc người đàn ông đó. Mọi thứ đều thay đổi. Họ muốn ở bên người ấy, có người ấy cho riêng mình, sợ làm mất lòng hoặc không xứng đáng với người ấy.
Chúng ta có thể làm gì để ngọn lửa này về con người Chúa Giêsu được thắp lên trong lòng nhiều người? Nó sẽ không được nhen nhóm trong lòng bất cứ ai lắng nghe sứ điệp Tin Mừng trừ khi nó bùng cháy nơi người công bố Tin Mừng – ít nhất như một khao khát và như một quyết tâm. Đã có và có những trường hợp ngoại lệ; lời Chúa có sức mạnh riêng và đôi khi có thể hành động, ngay cả khi được thốt ra bởi những người không sống theo lời Chúa; nhưng đó là ngoại lệ.
Để an ủi và khuyến khích những người làm việc trong lãnh vực Phúc Âm hóa một cách có tổ chức, tôi muốn nói với họ rằng không phải mọi sự đều tùy thuộc vào họ. Họ góp phần vào việc tạo ra các điều kiện để tia lửa đó bùng cháy và lan rộng, sau đó mọi sự xảy ra theo những cách bất ngờ nhất vào những khoảnh khắc không ngờ nhất. Trong phần lớn các trường hợp mà tôi đã biết trong đời mình, việc khám phá ra Chúa Kitô làm thay đổi cuộc đời đã xảy ra nhờ gặp gỡ một người đã kinh nghiệm ân sủng đó, bằng cách tham gia vào một cuộc tụ họp, bằng cách nghe một chứng tá, bằng cách kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong một khoảnh khắc đau khổ tột cùng, và – tôi không thể im lặng về điều đó, bởi vì nó cũng xảy ra với tôi – khi nhận được điều được gọi là phép rửa của Thánh Thần.
Ở đây, chúng ta thấy nhu cầu ngày càng phải dựa vào giáo dân, nam cũng như nữ, để truyền giáo. Họ được đưa vào nhiều hơn trong kết cấu cuộc sống mà những hoàn cảnh đó thường xảy ra. Cũng vì số lượng khan hiếm, hàng giáo sĩ dễ làm mục tử hơn là những kẻ đánh cá linh hồn: chăn dắt những người đến với Giáo Hội bằng lời và các bí tích dễ dàng hơn là “chèo ra chỗ nước sâu” (Lc 5:4) để thu phục những người ở xa. Giáo dân có thể đảm nhận cho chúng ta nhiệm vụ của ngư dân. Nhiều người trong số họ đã khám phá ra ý nghĩa của việc biết Chúa Giêsu hằng sống và háo hức chia sẻ khám phá của họ với những người khác.
Đối với nhiều người, các phong trào Giáo Hội phát sinh sau Công đồng là nơi họ khám phá ra điều này. Trong bài giảng Thánh Lễ Truyền Dầu vào Thứ Năm Tuần Thánh 2012, ngày Thứ Năm Tuần Thánh cuối cùng trong triều đại giáo hoàng của mình, Đức Bênêđictô XVI đã nói: “Bất cứ ai xem xét lịch sử của thời kỳ hậu công đồng đều có thể nhận ra tiến trình đổi mới thực sự, vốn thường diễn ra dưới những hình thức bất ngờ trong các phong trào sống động và gần như hữu hình hóa sức sống vô tận của Giáo Hội thánh thiện, sự hiện diện và hiệu quả của Chúa Thánh Thần.” Bên cạnh những trái tốt, một số phong trào này cũng đã sinh ra trái xấu. Chúng ta nên nhớ câu nói: “Đừng ném con trẻ ra ngoài cùng với nước tắm”.
Tôi kết thúc bằng những lời kết trong cuốn “Hành Trình Tâm Trí Đến Với Chúa” của Thánh Bonaventura vì chúng gợi ý nơi bắt đầu để nhận ra, hoặc làm mới lại, “cuộc gặp gỡ cá vị với Chúa Kitô” của chúng ta và trở thành những người loan báo can đảm về cuộc gặp gỡ này:
“Sự khôn ngoan bí nhiệm nhất này không ai biết ngoại trừ người nhận được nó; không ai nhận được nó ngoại trừ những người mong muốn nó; không ai mong muốn điều đó ngoại trừ những người được đốt cháy bên trong bởi Thánh Linh Thiên Chúa được Chúa Kitô gửi đến trái đất.”
1. Augustinô, De natura et gratia, 22,24.
2.S.Th. I-IIae, q.113, a. 4.
Source:Cantalamessa