I. NGUỒN GỐC LÒNG TÔN SÙNG TRÁI TIM VÔ NHIỄM ĐỨC MẸ
A. THÁNH KINH
* Phúc âm Thánh Luca ba lần trực tiếp nói về Trái Tim Mẹ là nền tảng chính yếu lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ:
– “Maria giữ kỹ mọi điều ấy và hằng ngày suy nghĩ trong lòng” (Lc 2:19).
– “Mẹ Ngài giữ kỹ hết các điều ấy trong lòng” (Lc 2:51).
– “Một mũi gươm sẽ đâm thâu qua lòng Bà” (Lc 2:35). Câu Phúc âm này là nền tảng chính yếu của lòng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ.
* Theo Đức Piô XII, các Giáo phụ giải thích lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ, căn cứ vào hai câu sách Diệu ca:
– “Tôi như vườn khoá chặt, là suối niêm phong” (Dc 4:12).
– “Tôi ngủ mà lòng tôi thức” (Dc 5:12).
B. LỜI CÁC THÁNH
– Thánh Giêrônimô: Không trí khôn thụ tạo nào, không trái tim thụ tạo nào, không sức lực nhân loại nào có thể biết được Trái Tim Mẹ Maria yêu mến Chúa chúng ta đến mức nào.
– Thánh Bênađô: Tình Chúa yêu thương chiếm trọn Trái Tim Mẹ Maria, đến nỗi Trái Tim Mẹ đầy tràn tình yêu, vì Thiên Chúa không làm bùng lên tình yêu trong trái tim nào khác như trong Trái Tim Rất Thánh Nữ Trinh. Và vì Mẹ thoát khỏi mọi dính bén thế tục để Mẹ lãnh nhận được ngọn lửa thánh này.
– Thánh Amađêô: Tình yêu tự nhiên đối với Chúa là Con Mẹ, và tình yêu siêu nhiên đối với Chúa là Thiên Chúa của Mẹ đều qui tụ trong Trái Tim Mẹ Maria.
– Thánh Bênađinô: Đức Nữ Trinh hiển vinh không lặp lại những tác động yêu mến như các thánh, vì trọn cuộc đời Mẹ là một tác động yêu mến liên lỉ do một đặc ân Mẹ luôn luôn yêu mến Thiên Chúa.
– Thánh Phanxicô Salêsiô: Mẹ Maria trung thành yêu mến Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối nhất và tuyệt vọng nhất, đặc biệt trên đồi Canvê. Mẹ tới một mức độ yêu mến hoàn hảo nhất, cao cả nhất. Điểm căn bản là tâm hồn Mẹ tan hòa kết hợp với Chúa và chỉ yêu mến duy một Thiên Chúa trong mọi sự và mọi nơi.
– Thánh Tôma Kempi: Chúng ta có thể tìm một nơi náu ẩn nào có bảo đảm hơn Trái Tim từ bi Mẹ Maria? Người khốn khó tìm được sự cứu giúp, kẻ ốm liệt tìm được thuốc thang, người sầu khổ tìm được sự ủi an, người xao xuyến tìm được lời khuyên răn, kẻ thất vọng tìm được sự trợ phù.
– Thánh Tôma Villanova: Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi mà ông Môisen trông thấy, là hình ảnh đích thực Trái Tim Mẹ Maria.
– Thánh Euđê: Trái tim Mẹ Maria là Trái tim Giáo hội chiến đấu, Giáo hội tẩy luyện và Giáo hội vinh thắng.
– Thánh Gioan Maria Vianney: Chúa Con có đức công bình của Người, Mẹ không có gì, chỉ có tình yêu là Trái tim của Người. Không có ơn nào từ trời xuống mà không qua tay Mẹ.
– Thánh Eymard: Ai muốn hiểu biết những bí nhiệm thẳm sâu tình yêu Thiên Chúa, và những nhân đức kín nhiệm Thiên tính Chúa Giêsu, thì phải học trong bức gương trong suốt Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria.
C. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
– Đức Piô XII: Tình Hiền Mẫu của Trái Tim Mẹ Maria gần như vô biên. Tâm hồn Mẹ đầy tình hiền ái nồng nàn nhất. Trong giờ phút bi thảm của lịch sử loài người này, chúng con phó thác và hiến dâng chúng con cho Trái Tim Vô nhiễm Mẹ.
– Đức Phaolô VI: Một lễ rất được người đạo đức thời nay yêu quí theo chiều hướng mới lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Đó là lễ Trái tim Đức Mẹ.
– Đức Gioan Phaolô II: Trái tim Mẹ Maria đã luôn luôn theo sát sự nghiệp Con mình, và cũng đập cùng một nhịp thương mến đối với tất cả những ai mà Đức Kitô đã và đang ấp ủ trong tình thương mến vô biên của Ngài.
– Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria đã mở ra khi Chúa nói: “Hỡi Bà, này là con Bà”. Một cách thiêng liêng, Trái tim Mẹ đi gặp gỡ Trái tim Con Mẹ đã mở ra khi bị lưỡi đòng của người lính đâm thâu. Trái tim Mẹ mở ra vì cùng một tình yêu thương người ta và thế giới mà Chúa Kitô đã yêu thương, đã tự hiến trên cây Thánh giá.
D. MẠC KHẢI TƯ
Mẹ Maria đã tỏ ra Trái tim Mẹ cho Thánh nữ Mechtilđê năm 1298, cho Thánh nữ Giêtruđê năm 1302, cho Thánh nữ Brigitta năm 1395, và sau đây cho Thánh Catarina Labouré năm 1830, cho cha Carôlô des Genettes năm 1836, cho nữ tu Justina Bisqueyburn năm 1840, và đặc biệt cho ba trẻ Fatima năm 1917.
- Sứ điệp đầu tiên của Mẹ
Năm 1830, Đức Mẹ hiện ra với chị Catarina Labouré, thỉnh sinh dòng Nữ Tử Bác Ái tại Paris nước Pháp để dạy làm mẫu Ảnh lạ (Miraculous Médal). Một mặt có ảnh Trái tim Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ. Cha linh hướng của chị Catarina bảo chị hỏi Đức Mẹ có chữ gì bên trên hai Trái tim. Đức Mẹ trả lời rằng không cần thiết có chữ gì, vì hai Trái tim kết hợp với nhau nói lên đầy đủ ý nghĩa. Đức Mẹ cũng hứa với chị Catarina: “Tất cả những ai đeo Ảnh lạ đã làm phép sẽ được nhiều ơn lành, nhất là nếu họ đeo ở cổ xuống ngực”.
Quả thật Đức Mẹ đã ban ơn lành cho những người đeo Ảnh lạ. Anphongsô Ratisbone luật sư và chủ nhà băng người Do thái tại Pháp vô tôn giáo. Năm 1841, ông ta qua Rôma tình cờ gặp bá tước Bussière. Bá tước khuyên ông ta đeo “Ảnh lạ” và đọc kinh “Hãy nhớ”. Ratisbone nhận lời. Năm sau bá tước lại rủ ông ta vào nhà thờ Thánh Anrê. Chiều ý bá tước, ông ta vào nhà thờ và được Đức Mẹ hiện ra, nên ông ta tin và ngày hôm sau chịu phép Thánh tẩy. Sau đó ông ta lấy tên đầy đủ là Alphongsô Maria Ratisbone, vào dòng Tên chịu chức linh mục năm 1848 rồi năm 1885 sang Palestina lập dòng chinh phục các người Do thái.
- Hãy dâng giáo xứ cho Trái tim Mẹ
Năm 1836, cha Carôlô des Genettes, chánh sở giáo xứ Đức Bà thắng trận tại Paris, là một giáo xứ khô đạo thời đó, tuy nhà thờ rất cổ kính do vua Louis XIII kiến thiết năm 1829. Một hôm đang dâng Thánh lễ, cha Carôlô nghe tiếng lạ nói: “Hãy dâng nhà thờ và giáo xứ cho Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ Maria”. Cha Carôlô thi hành ngay sứ điệp đó, thì giáo xứ dần dần được phục hồi.
- Mẹ dạy cầu xin Trái tim Mẹ
Năm 1840, Đức Mẹ hiện ra với chị Justina Bisqueyburn, Nữ tử Bác ái, tại Paris ngày lễ Sinh nhật của Mẹ. Tay phải Mẹ cầm Trái tim Người có những ngọn lửa chung quanh. Tay trái Mẹ cầm một thứ Áo Đức Bà xanh mà chỉ có một tấm. Mặt bên này có hình Đức Mẹ. Mặt bên kia là một quả tim rực cháy toả sáng hơn mặt trời và trong óng hơn thủy tinh. Quả tim có một lưỡi gươm đâm thâu. Bên trên quả tim có một Thánh giá và một hàng chữ: “Lạy Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria, xin cầu cho chúng con bây giờ và trong giờ chúng con chết”.
- Chúa Giêsu và Mẹ Maria muốn lập lòng sùng kính Trái tim Mẹ trên khắp thế giới
Hiện ra lần thứ hai ngày 13-6-1917, Mẹ nói với Lucia: “Chúa Giêsu muốn thiết lập lòng sùng kính Trái tim Vô nhiễm Mẹ trên khắp thế giới. Mẹ hứa ơn phần rỗi cho những ai có lòng sùng kính đó. Linh hồn họ sẽ được Thiên Chúa yêu thương như những bông hoa Mẹ trang hoàng ngai toà Chúa… Không bao giờ Mẹ bỏ con. Trái tim Vô nhiễm Mẹ sẽ là nơi con nương ẩn và là đường dẫn đưa con đến cùng Thiên Chúa”.
Hiện ra lần thứ ba ngày 13-7-1917, Mẹ khuyên Lucia khi hy sinh thì đọc: “‘Lạy Chúa Giêsu, con xin hy sinh vì lòng yêu mến Chúa cho các tội nhân trở lại và để đền tạ tội lỗi xúc phạm tới Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria’. Con đã xem thấy hoả ngục nhiều linh hồn tội nhân khốn nạn sa xuống đó. Để cứu họ, Thiên Chúa muốn thiết lập trên thế giới lòng sùng kính Trái tim Vô nhiễm Mẹ… Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ và rước lễ đền tạ các ngày thứ Bảy đầu tháng”.
Mẹ lại hiện ra cùng với Chúa Hài Đồng ngày 10-12-1925 với Lucia trong phòng riêng của chị tại tu viện các nữ tu Thánh Dorothy. Một tay Mẹ đặt trên vai Lucia, tay kia Mẹ cầm một quả tim quấn đầy gai. Chúa Hài Đồng nói: “Con hãy thương Trái tim Mẹ rất Thánh của con bị gai quấn quanh do những người bội bạc đâm vào mọi lúc. Và không có ai rút gai ra bằng một việc đền tạ”.
Rồi Đức Mẹ nói: “Ái nữ của Mẹ! Con hãy nhìn xem Trái tim Mẹ quấn đầy gai mà những người vô ơn hằng đâm vào bằng những sự xỉ nhục và những sự tệ bạc. Ít là con, con hãy an ủi Mẹ. Nhân danh Mẹ, con hãy loan truyền rằng Mẹ hứa sẽ đến hộ giúp trong giờ chết với những ơn cần thiết tất cả những ai trong năm thứ Bảy đầu tháng liên tiếp, xưng tội, rước lễ, đọc kinh Mân côi và cùng với Mẹ suy niệm những mầu nhiệm Mân côi có ý đền tạ Mẹ”.
Ngày 15 tháng 12 năm 1926, Chúa Hài Đồng lại hiện đến với Lucia hỏi xem Lucia đã truyền bá việc đền tạ Trái tim Vô nhiễm của Mẹ Chúa.
Năm 1929, Lucia đang cầu nguyện trong nhà nguyện tại tu viện Tuy, Mẹ lại hiện đến với Lucia và nhắc lại: “Mẹ sẽ đến xin dâng nước Nga cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ… Nếu họ nghe lời Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và sẽ có hoà bình”.
- Đức Mẹ tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ
Năm 1932, tại Beauraing phía nam nước Bỉ, Đức Mẹ hiện ra với năm trẻ em: một em trai là Albertô 11 tuổi, và bốn em gái là Fernanda 15 tuổi, Andrea 14 tuổi, và hai chị em Gilberta V 13 tuổi, Gilberta D 9 tuổi. Các em đến học trường các Sơ dòng “Christian Doctrine”, nên các em được thấy Đức Mẹ hiện ra tại vườn tu viện các Sơ gần cây táo gai. Ngày 17 tháng 12, Đức Mẹ xin xây một nhà thờ tại đây để dân chúng tới hành hương. Sau bốn ngày, Đức Mẹ nói: “Ta là Đức Nữ Trinh Vô nhiễm”. Ngày 29 tháng 12, Đức Mẹ cho các em xem thấy Trái tim Vô nhiễm của Mẹ mầu vàng sáng óng. Ngày hôm sau, Đức Mẹ cũng tỏ ra Trái tim vàng của Mẹ và nói: “Hãy cầu nguyện. Hãy cầu nguyện nhiều”. Riêng với Andrea, Mẹ nói: “Ta là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương thiên đàng. Hãy cầu nguyện luôn luôn”. Riêng với Fernanda, Đức Mẹ mở hai cánh tay tỏ ra Trái tim Mẹ chói chang và nói: “Con có yêu mến Con Ta không? Con có yêu mến Ta không?” Fernanda thưa “có”. Đức Mẹ nói tiếp: “Con hãy hy sinh cho Ta”. Đức Mẹ hiện ra với năm em tất cả 33 lần.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Thánh Anselmô, nhà thần học Eadmer, Thánh Bênađô, và nhà thần học Hugh St. Victor khởi đầu sùng kính Trái tim Đức Mẹ. Rồi Thánh Mechtilđê, Thánh Giêtruđê, Thánh Brigitta, nhất là Thánh Bênađinô là “tiến sĩ của Trái tim Mẹ”, tiếp tục phong trào sùng kính Trái tim Đức Mẹ.
Đến thế kỷ XVII, lòng sùng kính Trái tim Mẹ mới được phổ biến rộng rãi do Thánh Euđê mà Đức Thánh Piô X gọi là “sư phụ, là tiến sĩ và là tông đồ” của Phụng vụ sùng kính hai Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Năm 1648, nhiều Giám mục nước Pháp ban phép mừng lễ Trái tim Mẹ trong giáo phận các ngài ngày mồng 8 tháng 2. Năm 1674, Đức Clementê X ban phép mừng lễ đó cho Bổn mạng dòng của Thánh Euđê vào ngày 20 tháng 10. Năm 1787, Đức Piô VI ban phép các nữ tu dòng Đức Mẹ Gabrie mừng lễ “Rất Thánh Trái Tim Mẹ Maria” ngày 22 tháng 8. Năm 1799, tất cả các nhà thờ giáo phận Palermô nước Ý được mừng lễ này. Năm 1805, tất cả các giáo phận và các dòng tu muốn mừng lễ này đều được Đức Piô VII ban phép. Năm 1855, dưới triều đại Đức Piô IX, giờ kinh và Thánh lễ đã được Thánh bộ Lễ nghi chấp thuận.
Sau khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima năm 1917 ban hành mệnh lệnh “Tôn sùng Trái tim Đức Mẹ”, toàn thế giới Công giáo quay về Mẹ Fatima. Do đó, ngày mồng 8 tháng 12 năm 1942, Đức Piô XII long trọng dâng thế giới cho Trái tim Vô nhiễm Mẹ. Tháng 5 năm 1943, Đức Thánh Cha khuyến khích tín hữu Công giáo kêu cầu sự bầu cử của Rất Thánh Đức Trinh Nữ, nhất là bằng cách đọc kinh Mân côi cho thế giới được hoà bình đích thực. Ngài cũng kêu mời mọi người dâng mình cho Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ. Năm 1945, ngài chính thức thành lập lễ “Trái tim Vô nhiễm Đức Mẹ” vào ngày 22 tháng 8. Theo chiều hướng canh tân Phụng vụ, năm 1969, Đức Phaolô VI đổi lễ này vào ngày thứ Bảy sau lễ Thánh Tâm tuần Chúa nhật II sau lễ Hiện Xuống.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Lễ tôn vinh Trái tim Vô nhiễm Mẹ Maria soi động và khích lệ chúng ta:
- Chiêm ngưỡng Trái tim Mẹ vẹn tuyền thanh sạch, đầy tình yêu thương, trọn lành thánh thiện, trung thực phản ảnh ưu phẩm toàn mỹ, toàn thiện, toàn ái của Ba Ngôi Thiên Chúa, để chúng ta nhìn thẳng vào quả tim tội lỗi sắt đá của chúng ta, xin Trái tim Vô nhiễm Mẹ cải hoá quả tim chúng là với những tâm tình tốt lành thánh thiện.
- Chúc tụng Trái tim Mẹ luôn qui hướng về Chúa, luôn kết hợp mật thiết với Chúa. Và xin Mẹ dạy chúng ta đón nhận Chúa thế nào vào đời sống chúng ta. Xin Mẹ dạy chúng ta biết đói khát Chúa và biết sống chính sự sống và lời Chúa.
- Tôn vinh Trái tim Mẹ là đền thờ sống của Chúa Thánh Thần, là cung thánh của Con Thiên Chúa hằng hữu. Xin Mẹ biến đổi quả tim ô nhơ của chúng ta thành trung tâm tôn thờ cho Chúa Ba Ngôi ngự trị.
- Ngợi khen Trái tim Mẹ thẳm sâu khiêm nhượng đã đưa Mẹ vào mầu nhiệm Nhập Thể Cứu chuộc của Chúa, và vào đời sống Giáo hội. Xin Mẹ dẫn đưa chúng ta gia nhập công trình Cứu chuộc của Chúa và vào công cuộc Tông đồ của Giáo hội.
- Ca tụng Trái tim Mẹ dạt dào tình Hiền Mẫu êm ái ngọt ngào trong phẩm chức Mẹ Thiên Chúa và Mẹ toàn thể loài người chúng ta. Xin Mẹ ban cho chúng ta lòng thiết tha yêu mến Chúa, yêu mến Mẹ và đậm đà yêu thương mọi người.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Isaia 61:9-11
Đây là những lời cảm tạ trong niềm hoan lạc vui mừng vì được Đức Giavê hứa ban sự phục hồi sau thời lưu vong suy tàn: “Tôi luôn luôn vui sướng trong Đức Giavê. Hồn tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa tôi thờ”.
Lý do niềm hoan lạc này là sứ điệp hy vọng và ơn Cứu độ của Thiên Chúa kêu mời chúng ta hợp hoan với ơn Cứu chuộc của Chúa, với niềm vui trong ơn Người ban tặng cho ta. Chúng ta hãy suy niệm rằng Mẹ Maria được điểm trang phục sức và vui mừng trong sự công chính như “đất trổ sinh chồi lộc”. Hình ảnh tân lang và tân nương gợi ra hình ảnh Mẹ Maria trong biến cố Truyền tin.
Phúc âm: Luca 2:41-52
Mẹ Maria suy nghĩ trong lòng trong hai trường hợp: Dịp Chúa giáng sinh tại Bêlem (Lc 2:19) và dịp Chúa bị lạc năm 12 tuổi (Lc 2:51). Mỗi năm, Đức Mẹ và Thánh Giuse thường đi Giêrusalem dự lễ Vượt qua để giữ luật Cựu ước (x. Lc 2:22-24; 2:41) và luật đời (Lc 2:1-5). Chúa Giêsu đã được Philatô, người trộm lành và quan cai bách quân tuyên bố là vô tội (Lc 23:11-15, 41-47), và Người đã làm trọn Cựu ước (Lc 24:26-27).
Chúa Giêsu lên đền với Đức Mẹ và Thánh Giuse và bị lạc sau ba ngày các ngài mới tìm lại được. Trong Cựu ước và Tân ước, ngày thứ ba (Ga 2:1) là thời gian ơn phúc và ân huệ: núi Sinai (Xh 19:11), phục hồi (Hs 6:2-3), phục sinh và cũng tượng trưng ba ngày Giona trong bụng cá kình (Gn 1:17; Mt 12:40). Chúa Giêsu bị lạc mất ba ngày, tiên báo Chúa phải chịu khổ nạn trong ba ngày (Lc 9:22) và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Lc 24:7). Khi Đức Mẹ và Thánh Giuse tìm thấy Chúa, Chúa nói: “Tại sao cha mẹ tìm con? Cha mẹ không biết con phải ở nơi nhà Cha con sao?” (Lc 3:49). Nói câu đó, Chúa Giêsu muốn nói đến mối liên hệ mới của Nước Trời bao la hơn mối liên hệ Thánh gia Nagiarét (x. Lc 8:19-21; 11:27-28).
Đức Mẹ không hiểu. Sự chậm hiểu là tính cách của môn đệ sau khi Chúa phục sinh (x. Lc 24:11, 25, 41-45). Và Chúa sẽ lại được tìm thấy sau khi Ngài bị mai táng trên mồ (x. Lc 24:5, 23-24).
V. SỰ LIÊN HỆ GIỮA VIỆC TÔN SÙNG TRÁI TIM CHÚA GIÊSU VÀ TRÁI TIM ĐỨC MẸ
Theo niên lịch Phụng vụ, hôm qua chúng ta mừng lễ Trái tim Chúa Giêsu, thì hôm nay chúng ta mừng lễ Trái tim Đức Mẹ Maria. Chúng ta hãy tìm hiểu sự liên hệ giữa hai Trái tim cực thánh cực tịnh này như thế nào, để ta thêm lòng sốt sắng sùng kính hai Trái Tim Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria.
Trên đời này không có tình yêu nào khăng khít cho bằng tình mẫu tử. Thực vậy, ta thường hát “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Nếu tình mẹ con ở trần gian còn đằm thắm như vậy, thì tình mẫu tử của Mẹ Maria đối với Chúa Giêsu biết nói sao cho xiết được! Thánh An Phong viết rằng: “Tất cả những tình yêu của các bà mẹ thế gian cộng lại, cũng không cân nặng bằng một tình yêu của một mình Mẹ Maria đối với CON GIÊSU”
Vâng, Chúa Giêsu đã xuống thai trong cung lòng Mẹ Maria: Thịt máu Đức Mẹ đã làm nên thịt máu Chúa Giêsu, và từ lúc thụ thai, máu trong Trái Tim Đức Mẹ luôn chuyển qua Trái Tim Chúa Giêsu để nuôi dưỡng thai nhi Giêsu cho đến ngày ra chào đời sống biệt lập. Bởi đó ngay từ giây phút đầu tiên hai Trái Tim cực thánh ấy đã nên một với nhau, đã cùng yêu nhau khăng khít và cùng đập một nhịp như nhau, bởi lẽ Trái Tim Chúa Giêsu cùng bởi một gốc mà ra. Gốc ấy là thịt và máu Đức Mẹ, như lời Thánh Tiến sĩ Bênađô “ THỊT MÁU CHÚA GIÊSU LÀ THỊT MÁU MẸ MARIA”
Đem tình yêu bao la Đức Mẹ đặt vào tình yêu vô cùng của Chúa Giêsu thì ngôn ngữ loài người không thể nào diễn tả nổi sức mạnh của hai tình yêu ấy cộng lại . Do đó, chúng ta mới hiểu được đôi chút, những ngày ẩn náu trong lòng Mẹ, rồi đến những năm tháng sống dưới mái nhà Nazareth và giờ đây hai Mẹ Con sống bên nhau trên trời, thì Chúa Giêsu và Mẹ Maria yêu mến nhau tha thiết đến chừng nào! Và cũng do đó chúng ta mới nhận biết được phần nào, những nỗi buồn sầu khi Mẹ Con phải xa nhau trong lúc Chúa ra giảng đạo, nhất là những nỗi đau đớn khi hai Mẹ Con gặp nhau trên đỉnh đồi Can-ve: tại đây hai Trái Tim đều bị đâm thâu qua: Tim Mẹ bị đâm bằng thanh gươm, mà ông già Simeon đã báo từ trước, và Tim Con bị đâm thâu bằng lưỡi đòng của tên lính Rôma, khiến máu cùng nước chảy ra cho đến giọt cuối cùng.
Được Chúa Thánh Thần linh ứng, Giáo Hội hiểu rõ điều ấy hơn ai hết. Vì thế, mỗi khi nói đến Trái Tim Chúa Giêsu thì một trật cũng nhắc đến Trái Tim Đức Mẹ. Bằng chứng là khi cầu xin, chúng ta thường kêu cầu liền nhau hai câu than: “Lạy rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giêsu, thương xót chúng con. Lạy Trái Tim cực thanh cực tịnh Đức Bà Maria cầu cho chúng con”. Khi vừa thức dậy ban sáng, chúng ta dâng các lời cầu nguyện, các việc lành cũng như các hy sinh trong ngày, ta cũng nhờ Trái Tim Đức Mẹ mà dâng lên cho Thánh Tâm Chúa Giêsu. Theo truyền thống vẫn có xưa nay, gia đình nào tôn vương Trái Tim Chúa Giêsu thì một trật cũng tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ. Trong niên lịch Phụng vụ của Giáo Hội, lễ kính Thánh Tâm Chúa và lễ kính Trái Tim vô nhiễm Đức Mẹ vẫn đi liền nhau, như ta thấy hôm qua và hôm nay. Các nhà hội họa cũng thường vẽ Trái Tim Chúa Giêsu song song với Trái Tim Đức Mẹ, dưới hai biểu hiệu đau đớn giống nhau: Trái Tim Chúa Giêsu có vòng gai quấn quanh, và Trái Tim Đức Mẹ có lưỡi đòng đâm thâu. Hai Trái Tim biểu hiệu cho hai tình thương mến giữa Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và tình thương yêu của hai Mẹ Con đối với loài người chúng ta.
Ngày xưa khi sống ở trần gian, Trái Tim Chúa Giêsu và Trái Tim Mẹ Maria đã chịu đau khổ rất nhiều, nhất là trong thời Chúa chịu nạn: Con thương Mẹ, Mẹ yêu Con. Người Con mà Mẹ biết là Ngôi Hai Thiên Chúa, người Con thánh Đức vô cùng, người Con yêu trên hết mọi sự, yêu hơn chính bản thân mình, yêu với một tình yêu mà hỡi các bà mẹ, tình yêu con của các bà chỉ là những giọt nước giữa biển cả mênh mông, một tia nắng giữa vầng thái dương khổng lồ. Cho đến ngày Con lìa Mẹ ra đi chịu chết, thì tấm lòng Mẹ yêu Con lại bùng lên một nỗi nhớ thương vô bờ bến. Nhất là khi Mẹ nhìn thấy Con bị treo trên cây gỗ nhục nhã: Trái Tim Con bị đâm thâu qua, thì Trái Tim Mẹ cũng ngừng đập! Máu và nước từ Trái Tim Con chảy ra, thì những dòng lệ cũng từ mắt mẹ tuôn rơi chan hòa.
Ngày nay, Con đã sống lại và ngự trên trời. Mẹ cũng đồng hưởng vinh phúc bên cạnh toà Con: Hai Trái Tim vẫn cùng đập một nhịp yêu mến nhau vô cùng, không còn đau đớn, không còn lo âu sợ sệt cho nhau như ngày xưa.
Tuy nhiên từ trên trời nhìn xuống dương gian, Chúa Giêsu và Mẹ Maria nhận thấy, trong nhân loại là con cái Mẹ và là em Chúa Giêsu, vẫn còn những kẻ làm cho hai Trái Tim cực thánh phải buồn phiền. Vì lòng thương yêu vô cùng, Chúa Giêsu và Mẹ Maria đã thay phiên nhau xuống trần gian để nhắn nhủ, răn đe, để kêu gọi van xin loài người hãy ăn năn trở lại. Ở Paray-le-Monial bên Pháp, Chúa đã tỏ Trái Tim cho Thánh nữ Margarita và dạy làm việc đền tạ Trái Tim Chúa bằng việc tôn sùngTrái Tim, làm giờ Thánh đền tạ, rước lễ các ngày thứ sáu đầu tháng. Thì ở Fatima bên Bồ Đào Nha, Đức Mẹ hiện ra cho ba em truyền dạy loài người ăn năn đền tội, siêng năng lần hạt Mân Côi, tôn sùng Trái Tim vô nhiễm Mẹ và rước lễ đền tạ các ngày thứ bảy đầu tháng.
Thưa quý ông bà và anh chị em, trên đây tôi vừa trình bày những liên hệ giữa Trái Tim Chúa Giêsu và Trái Tim Đức Mẹ, đồng thời cũng nói lên những lý do tại sao mỗi khi tôn sùng Trái Tim rất Thánh Chúa Giêsu, chúng ta lại tôn sùng Trái Tim vô nhiễm Mẹ Maria.
Với từng ấy sợi dây huyền diệu ràng buộc, nên lòng chúng ta phải bừng cháy lửa mến Chúa và luôn luôn vấn vương tình yêu mến Mẹ trên trời. Chớ gì Trái Tim mẹ tuôn đổ chan hòa tình yêu vào cõi lòng mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta.
Đức Cha Toth kể lại câu chuyện sau đây:
Vào thời Trung cổ, Giáo Hội tổ chức Nghĩa binh Thánh giá để chiếm lại các nơi Thánh đã bị người Hồi Giáo cướp lấy. Trong đoàn viễn chinh, có một chàng thanh niên Pháp. Trước khi ra đi, bà mẹ nói với anh: Hỡi con trai yêu quý của mẹ, mẹ già yếu lắm rồi, chắc chẳng sống được bao lâu nữa, vậy mẹ trối cho con một điều, là sau khi mẹ chết, con hãy chôn trái tim mẹ ở gần Mồ Thánh Chúa Giêsu. Chỉ ít lâu sau, đoàn binh Thánh Giá trong đó có con trai bà đã lấy được khu Mồ Thánh Giá Chúa Giêsu ở Giêrusalem. Khi anh trở về nhà thì mẹ chết. Trung thành với lời mẹ trối, anh lấy trái tim mẹ ra, cất riêng trong một cái bình, rồi lại lên đường, vượt ngàn dặm băng qua Thánh địa đem theo trái tim của mẹ. Đường xa dậm thẳng, dọc đường anh dừng lại nhiều nơi. Nhưng không bao giờ rời khỏi tay trái tim của bà mẹ hiền. Một hôm anh ghé trọ nơi gia đình kia, hai ông bà hiếm hoi, chỉ có một cô con gái xinh đẹp vừa tới tuổi cập kê. Cảm mến chàng trai can đảm và hiếu thảo, ông bà ngỏ ý muốn gả cô con gái cho chàng và yêu cầu chàng ở lại làm rể, vì ông bà cũng thoáng thấy mối tình chớm nở giữa đôi bạn trẻ. Mấy ngày đêm trọ tại đó, chàng trai thao thức trằn trọc, tơ lòng bối rối: bỏ thương, vương tội! Không lẽ chôn vùi trái tim mẹ ở đây, để nghe theo tiếng con tim mình. Như thế, còn đâu là tình mẫu tử? Nhưng ôm theo trái tim mẹ, tiếp tục ra đi, để lại mối tình tuyệt vọng, biết bao giờ mới hàn gắn lại được? Sau cùng lý trí đã thắng con tim: chàng nhất quyết từ biệt nàng ra đi, ôm theo trái tim người mẹ yêu quý.
Chàng đã tới Thánh địa và chôn trái tim mẹ bên gần Mồ Thánh Chúa, như lời mẹ đã trối trước khi qua đời.
Thưa quý ông bà và anh chị em, trái tim của bà mẹ kia, phải chăng cũng là Trái Tim của Mẹ Maria trên trời: Mẹ đã trao phó Trái Tim Mẹ cho ta để giữ gìn và ôm chặt vào lòng ta, để Trái Tim đó đưa ta đến gần Chúa Giêsu Con yêu dấu của Mẹ. Ta đừng bao giờ để cho tình yêu thế gian, lòng dính bén sự đời làm cho ta đành lòng bỏ rơi Trái Tim Mẹ ra khỏi lòng trí chúng ta, chôn vùi mất tình yêu mến Mẹ trên trời. Nhưng hãy bắt chước chàng trai hiếu thảo kia cương quyết bỏ lại đàng sau tất cả quyến rũ của ma quỷ, thế gian, xác thịt, luôn luôn ôm chặt lấy TRÁI TIM VÔ NHIỄM MẸ MARIA để Mẹ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu. Amen.
VI. TRÁI TIM VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI MẸ VỚI BIẾN CỐ FATIMA
Vẫn biết Lễ Trọng Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được Giáo Hội chính thức thiết lập đầu tiên ở Balan từ năm 1765, và sau đó cho toàn thể Giáo Hội vào năm 1856, tuy nhiên, Thánh Lễ này lại được gợi ý từ mạc khải tư vào hạ bán thế kỷ 17. Thật vậy, Thánh Nữ Magarita Alacoc, nữ tu Dòng Thăm Viếng người Pháp đã được nhiều lần thị kiến thấy trái tim Chúa Giêsu trong khoảng thời gian từ năm 1673 đến 1675, Đấng đã kêu gọi rước lễ các Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, Làm Giờ Thánh vào các Ngày Thứ Năm và việc cử hành Lễ Thánh Tâm hằng năm. Tuy nhiên, không phải chỉ vì mạc khải tư mà Giáo Hội thiết lập Lễ Thánh Tâm Chúa, mà chính vì Thánh Tâm Chúa cũng như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa có một nền tảng mạc khải trong Thánh Kinh. Trước hết, Thánh Tâm Chúa bắt nguồn từ mạc khải Thánh Kinh ở chỗ, nếu trái tim là biểu hiệu cho yêu thương, thì tình yêu Thiên Chúa được bộc lộ hết cỡ nơi việc Chúa Kitô tự hiến mạng sống mình làm giá chuộc chung nhân loại và thánh hóa riêng Giáo Hội trên thập giá của Người, bởi thế, mạc khải tình yêu vô cùng tuyệt hảo xót thương của Thiên Chúa đã được tỏ ra cho loài người thấy, khi máu cùng nước chảy ra từ cạnh sườn mở ra theo lưỡi đòng đâm vào thi thể của Chúa Giêsu tử giá (xem Jn 19:34). Thứ đến, lòng tôn sùng Thánh Tâm cũng được bắt nguồn từ Thánh Kinh nữa, ở chỗ Thánh Gioan Tông Đồ, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu, dựa đầu vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly để có thể nghe được những gì sâu kín nơi Người liên quan đến người môn đệ bội phản Thày (xem Jn 13:23). Giáo Hội đã tiếp tục lòng tôn sùng Thánh Tâm này, điển hình nhất là việc Đức Thánh Cha Lêô XIII đã hiến dâng toàn thể loài người cho Thánh Tâm Chúa Giêsu lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội năm 1899.
Sở dĩ Giáo Hội sắp xếp Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa là vì vai trò Đồng Công Cứu Chuộc của Mẹ. Đó là lý do chúng ta thấy Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại sự kiện “đừng kề bên thập giá Chúa Giêsu có mẹ Người” (19:25). Như Thánh Tâm Chúa và lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được bắt nguồn từ Mạc Khải Thần Linh thế nào, thì Trái Tim Mẹ và lòng sùng kính Trái Tim Mẹ cũng có nền tảng trong Thánh Kinh Tân Ước như vậy. Trước hết, nếu trái tim liên quan đến Chúa Giêsu là biểu hiệu cho tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại thế nào, thì trái tim liên quan đến Mẹ Maria cũng biểu hiệu cho lòng tin của Mẹ đối với Thiên Chúa như vậy, một lòng tin có tác dụng cứu giúp loài ngưòi. Đúng thế, Thánh Luca đã hai lần nhắc đến trái tim Mẹ Maria liên quan đến lòng tin của Mẹ, một ở biến cố mục đồng đến viếng thăm hài nhi Giêsu trong máng cỏ, và một ở biến cố Mẹ tìm được thiếu nhi Giêsu Con Mẹ trong đền thờ như sau: “Maria giữ tất cả những điều ấy mà suy niệm trong lòng” (2:19, 51). Và lòng tin của Mẹ đối với Thiên Chúa đã có tác dụng cứu giúp loài người, như Thánh Gioan thuật lại biến cố nước lã hóa thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana, qua lời Mẹ hết sức tin tưởng cầu thay nguyện giúp (2:3, 5). Về lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ, hay việc noi gương bắt chước lòng tin của Mẹ cũng thế, chúng ta thấy gương của nhóm phục dịch trong tiệc cưới Cana, dù không biết Mẹ là ai, song đã tỏ lòng tin tưởng nơi Mẹ, ở chỗ, tin tưởng vào Chúa, bằng cách ngoan ngoãn nghe lời Mẹ nhắn nhủ để làm theo ý Chúa (2:7). Có thể nói, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho các môn đệ, chẳng những do lòng Mẹ tin tưởng cầu thay nguyện giúp mà còn do cả lòng tin tưởng tôn sùng của nhóm người này đối với Mẹ của Người nữa.
Đó là về nguồn gốc Trái Tim Mẹ và lòng sùng kính Trái Tim Mẹ theo Thánh Kinh. Còn về Lễ Trái Tim Mẹ, trước Công Đồng Chung Vaticanô II, lễ này được Giáo Hội kính vào ngày 22/8 hằng năm, nhưng sau Công Đồng, lễ này được chuyển vào ngay sau Lễ Thánh Tâm. Theo lịch sử phụng vụ, Lễ Trái Tim Mẹ được Thánh Gioan Êuđê từ năm 1646 đã vận động Giáo Hội để thiết lập. Tuy nhiên, sau khi hiến dâng cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria lần đầu tiên vào ngày 31/10/1942, tức sau 25 năm Mẹ hiện ra ở Fatima, để kỷ niệm biến cố này, Đức Thánh Cha Piô XII mới thiết lập Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày 4/5/1944. Như thế, tuy Trái Tim Mẹ Maria cũng có nền tảng trong Thánh Kinh như trên vừa đề cập đến, Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, như Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng được gợi ý từ mạc khải tư, mạc khải Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917.
Thật vậy, Đức Mẹ đã tỏ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ra cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy lần đầu tiên trong lịch sử loài người vào ngày 13/6/1917, một Trái Tim bị quấn quanh bằng một vòng gai. Thế rồi, vào ngày 13/7/1917, Đức Mẹ đã tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ hai cho các em biết rằng: “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, và “Mẹ sẽ đến để xin hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”. Đức Mẹ đã thực sự trở lại với chị Lucia ngày 13/6/1929, với lời lẽ như sau: “Đã đến lúc Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hợp cùng với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Ngài hứa sẽ cứu Nước Nga bằng cách này”. Chính vì việc hiến dâng Nước Nga liên quan đến Đức Thánh Cha và vận mệnh thế giới, do đó, ngày 24/10/1940, chị Lucia đã phải viết một bức thư đệ trình lên Đức Thánh Cha Piô XII về ý muốn và cách thức Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Thế rồi, như lịch sử cho chúng ta thấy, ý định và cách thức Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria trên thế giới vào thế kỷ 20, bằng việc Giáo Hội hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, đã hoàn toàn được thực hiện, đúng như lời Mẹ tiên báo ở đoạn kết phần thứ hai của Bí Mật Fatima, đó là “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ có một thời gian hòa bình”.
Ngày 18/5/1939, chị Lucia đã viết cho Cha Ganzalvez thế này: “Cách đây không bao lâu, con có hỏi Chúa Giêsu là tại sao Người không làm cho Nước Nga trở lại mà không cần Đức Thánh Cha phải hiến dâng như thế?”, rồi chị tiết lộ, Chúa đã thầm cho chị biết là “Vì Cha muốn toàn thể Giáo Hội nhận biết rằng việc hiến dâng này là một cuộc vinh thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, nhờ đó, Giáo Hội đặt việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bên cạnh lòng tôn sùng Thánh Tâm của Cha”. Như thế, việc Giáo Hội cử hành Lễ Trọng Kính Thánh Tâm Chúa và Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria vào hai ngày liền nhau, Thứ Sáu và Thứ Bảy tới đây, rất hợp với cả Mạc Khải Thần Linh và mạc khải thời đại vậy.
Tóm lại, kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo chiều hướng canh tân phụng vụ, Giáo Hội đã đặt hai lễ Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sát nhau, trong tuần sau Lễ Mình Máu Thánh Chúa. Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, một lễ được Chị Lucia đệ trình với Đức Thánh Cha Piô XII trong thư đề ngày 24/10/1940 xin ngài cho cả Giáo Hội hoàn vũ mừng kính và đã được chấp nhận và được kính vào ngày nhất định trong năm là 22/8. Đúng thế, sắc lệnh của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944 cho biết như sau: “để ghi nhớ cuộc hiến dâng này, (ở đây sắc lệnh muốn nói tới cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được Đức Thánh Cha Piô XII đã thực hiện ngày 31/10/1942 theo cùng thư đệ trình của Chị Lucia), Ngài đã quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu, với bậc lễ hạng nhì…”.
Vấn đề được đặt ra ở đây không phải là tại sao Giáo Hội mừng hai Lễ Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngay sát nhau, vì tín hữu Công Giáo chúng ta quá hiểu là hai Trái Tim này không thể nào tách biệt nhau, mà là ở chỗ hai Trái Tim Chúa Mẹ này liên hệ mật thiết với nhau như thế nào hay ở chỗ nào. Mối liên hệ sâu xa bất khả phân ly giữa hai Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria là ở chỗ, nếu Thánh Tâm Chúa Giêsu là biệu hiện cho Mạc Khải Thần Linh, mạc khải về Tình Yêu Thương vô cùng nhân hậu của Cha trên trời đối với loài người tạo vật tội nhân vô cùng khốn nạn đáng thương, thì Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là biểu hiện cho Đức Tin Tuân Phục của nhân loại trước Mạc Khải Thần Linh ấy, một đức tin tuân phục được thể hiện trong việc mau mắn đáp ứng một cách trọn vẹn và trọn hảo Tình Yêu của Thiên Chúa. Đó là lý do tinh thần tuân phục của Mẹ trong biến cố Truyền Tin khi Mẹ thưa Fiat và ca vịnh Magnificat Mẹ Ngợi Khen Long Thương Xót Chúa trong biến cố viếng thăm bao giờ cũng đi với nhau. Xin Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế bằng tinh thần tôi tớ Xin Vâng và tâm tình Ngợi Khen cảm tạ Chúa của Mẹ
Tổng hợp http://tinmung.net