2. Linh mục Công Giáo số một của năm 2019 theo tờ Catholic Herald – Cha George Kuforiji
Trước những biểu hiện bất thường xảy ra tại đây, năm 2017, Đức Ông Charles Lienert, đã nghỉ hưu nhiều năm, nhưng được Tòa Giám Mục yêu cầu về coi sóc tạm thời giáo xứ này nhưng ngài bó tay không thể giải quyết được các vấn đề.
Tháng 7 năm 2018, Đức Tổng Giám Mục Alexander King Sample của tổng giáo phận Portland, bổ nhiệm Cha George Kuforiji, là người Nigeria di dân sang Hoa Kỳ vừa được thụ phong linh mục vào năm 2015, về làm Cha Sở chính thức tại đây.
Sau khi đến giáo xứ, Cha George Kuforiji đã cương quyết yêu cầu chỉ sử dụng các bản văn Phụng Vụ được Giáo hội phê chuẩn trong Thánh lễ. Trước đó, các bản văn Phụng Vụ đề cập đến Thiên Chúa qua các đại danh từ “He”, “Lord”, “King”, đã bị các phụ nữ này sửa đổi thành các thuật ngữ trung lập về giới tính. Ngài cũng cấm việc đọc “kinh rất lạ” sau kinh Tin Kính.
Bùng nổ đã xảy ra sau khi Cha George Kuforiji soạn ra các dây stola, và các áo lễ có những “rainbow” để chuẩn bị quăng vào sọt rác.
Trong Thánh Lễ ngày 30 tháng Sáu (Chúa Nhật thứ 13 Mùa Thường Niên), sau kinh Tin Kính, các phụ nữ này bắt đầu đọc “kinh rất lạ” bất chấp sự phản đối của linh mục chủ tế. Đến khi Cha George Kuforiji bắt đầu truyền phép, họ giơ cao các biểu ngữ. Một người đàn bà hét toáng lên: “Chúng ta đang đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, tiếng gọi của tình yêu, Chúa Giêsu của sự bao gồm”. Ý muốn nói bao gồm người đồng tính.
Họ la hét làm gián đoạn Thánh Lễ. Cha George Kuforiji rất bình tĩnh. Ngài nói chuyện nhẹ nhàng với họ để Thánh Lễ có thể được tiếp tục. Nhưng một người phụ nữ chống nạnh hét vào mặt ngài: “Ông mà cũng có thể trở thành linh mục được à?”. Cha George Kuforiji nhẹ nhàng hỏi lại: “Chị không có lòng kính sợ Chúa sao?”
Một người phụ nữ còn chạy lên cung thánh, tố cáo cả Đức Tổng Giám Mục và Cha George đã “lạm dụng” giáo dân khi thay đổi Phụng Vụ mà không hỏi ý kiến họ.
Sau khi quậy phá khiến thánh lễ không thể được hoàn tất, các phụ nữ này còn dùng các phương tiện truyền thông địa phương như tờ The Oregonian, một nhật báo tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ, và đưa lên các mạng xã hội các video clips buộc Đức Tổng Giám Mục Sample điều Cha George Kuforiji đi nơi khác nếu không các phụ nữ này còn tiếp tục “quậy cho đến cùng”. Sau khi video này được phát tán rộng rãi, trong tuần qua tổng giáo phận Portland, Oregon đã ra một thông cáo bày tỏ sự ủng hộ hoàn toàn đối với Cha George và nỗi buồn của tổng giáo phận trước hành động bất kính đối với Phụng Vụ thánh.
Trong số các phản ứng trên các phương tiện truyền thông Công Giáo và các mạng xã hội trước vụ này, rất nhiều phản ứng rất gay gắt. Nhiều người cho rằng nếu Cha George là một người da trắng, các phụ nữ luôn mồm nói mình là những người yêu thương này, có lẽ đã không dám mắng vào mặt ngài như vậy.
Trong số các phản ứng ôn tồn, điềm đạm hơn, có bài “Thank God for courageous priests like Fr George Kuforiji” đăng trên tờ Catholic Herald ngày 16 tháng Tám, của Giáo sư Chad C. Pecknold, giảng dạy Thần học Hệ thống tại Catholic University of America ở Washington DC.
Tạ ơn Chúa vì những linh mục can đảm như Cha George Kuforiji
Khi xuất hiện các giáo xứ cực đoan như giáo xứ Thánh Phanxicô ở Portland, các giám mục và linh mục phải hành động dứt khoát
Mục sư Tin Lành Luther và cũng là một nhà hài hước Hans Fiene gần đây đã nhận xét rằng “những người Tin Lành khó chịu nhất trên thế giới là những người Công Giáo cấp tiến thời bùng nổ dân số sau thế chiến thứ hai.”
Nhận xét, vừa hài hước vừa chân thực này, đã được đưa ra sau một đoạn video về cuộc biểu tình ngày 30 tháng Sáu trong một Thánh lễ được tổ chức tại nhà thờ Thánh Phanxicô ở Portland, Oregon. Thánh lễ thưa thớt với hầu hết những người tham dự là những người lớn tuổi cấp tiến, tức giận với tân linh mục người Nigeria của họ, Cha George Kuforiji, vì ngài đã liên tục đưa ra các cải cách Phụng Vụ nhằm khôi phục các thánh lễ cho phù hợp với đức tin Công Giáo.
Hầu hết những người biểu tình là những người phụ nữ. Họ đã quát vào mặt vị linh mục hiền lành, đến từ châu Phi, vì ngài đã bãi bỏ phần bổ sung của họ sau khi đọc kinh Tin Kính, và vì ngài đã gỡ bỏ các băng rôn đầy mầu sắc chính trị họ treo phía trước giáo xứ. Kết luận mà “những người Công Giáo cấp tiến thời bùng nổ dân số” đã rút ra là Cha George ắt phải là một kẻ chống lại tình yêu! “Chúng ta đang đi theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, tiếng gọi của tình yêu,” một người phụ nữ đã hô vang. “Chúa Giêsu của sự bao gồm. Chúa Giêsu của sự phản kháng chống chính quyền vì khi chúng ta chống lại luật pháp, chúng ta ở trong Thần Khí Chúa.” Một người phụ nữ khác hét lên “Amen!”
Một trong những người biểu tình đã hỏi Cha George: “Ông mà cũng có thể trở thành linh mục được à?” với ý muốn nói ngài không có tình yêu đối với người đồng tính và không thẩm quyền thay đổi thói quen thờ phượng của họ. Bà ta khẳng định thẩm quyền của mình: “Tôi đã ở đây hơn 15 năm. Ông chỉ mới ở đây có một năm thôi.”
Không có một chút hàm ý nào nại đến thẩm quyền của giáo sĩ, Cha George chỉ đơn giản hỏi ngược lại “Chị không có lòng kính sợ Chúa sao?” Người phụ nữ quay lưng bỏ đi trước câu hỏi này, và đó thật là một điều đáng tiếc vì đó mới là điều quan trọng duy nhất.
Một trong những người biểu tình khăng khăng cho rằng Cha George và Đức Tổng Giám Mục Sample đã “lạm dụng” họ thông qua những cải cách này mà không hỏi ý kiến của họ xem họ có mong muốn như thế không. Tuy nhiên, điều đã rõ ràng là “sự tham gia của giáo dân” vào Thánh lễ tự nó đã trở thành “việc điều khiển” Thánh lễ theo ý họ, đến mức có thể nói rằng nhiều giáo dân là những người đang lạm dụng, thao túng Phụng Vụ cho phù hợp với các nghị trình phụng tự cấp tiến của họ. Thay vào đó, cha George đã nhắm đến việc khôi phục Phụng Vụ của giáo xứ cho phù hợp với các chuẩn mực do Giáo hội thiết lập.
Cuộc biểu tình kết thúc với việc các giáo dân hát bài hát tiêu biểu cho kỷ nguyên dân quyền, “We Shall Overcome”, nối thành một vòng tay chống lại vị linh mục da đen của họ. Những người biểu tình quả đã mù quáng đến độ nực cười.
Rất may, Cha George nhận được sự hỗ trợ đầy đủ của Đức Tổng Giám Mục Sample. Sau khi video biểu tình này lan truyền rộng rãi, Tòa Giám Mục đã đưa ra một tuyên bố ủng hộ vị linh mục Phi châu, nói rằng “tổng giáo phận rất hạnh phúc khi được làm việc với Cha George Kuforiji, Cha sở của Giáo xứ Thánh Phanxicô, để phục hoạt giáo xứ hầu có thể phục vụ tốt hơn dân số ngày càng tăng trong khu vực cũng như cho các thế hệ Công Giáo tương lai ở Portland.”
Mối quan tâm đối với “các thế hệ tương lai”, là một lời quở trách nhẹ nhàng đối với một thế hệ Woodstock dường như không thể hình dung được bất kỳ tương lai nào không phù hợp với tầm nhìn ương ngạnh và hoài cổ của họ. Khi giáo dân có lòng tôn kính đối với một cuộc diễu hành đồng tính hơn là cuộc rước kiệu tuyệt vời trong đó chính Chúa ngự đến trong Thánh lễ, thì cần phải có các biện pháp khẩn cấp.
Một số người cho rằng Cha George đã tiến quá nhanh. Con người là sinh vật của thói quen, và vì thế ngài nên tiến chậm hơn để hoán cải trái tim và tâm trí của họ cho phù hợp với Giáo hội. Có một sự thật nhất định trong sự thận trọng này. Tôi không phản đối chủ nghĩa “tiệm tiến” trong việc hình thành một giáo xứ sốt sắng hơn. Đôi khi phải mất một hoặc hai năm để chuẩn bị một giáo xứ cho việc làm một hàng rào cung thánh [trước vẫn dùng để giáo dân quỳ rước lễ – chú thích của người dịch], hoặc cho việc biết im lặng trong nhà thờ. Nhưng những Giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội không bao giờ chọn một cách tiếp cận “tiệm tiến” khi đối mặt với dị giáo thể hiện nơi sự bất kính trong Phụng Vụ, và khi xuất hiện các giáo xứ cực đoan như giáo xứ Thánh Phanxicô ở Portland, các giám mục và linh mục phải hành động dứt khoát để bảo vệ các Thánh lễ chống lại sự lạm dụng các tập quán địa phương. Như Chesterton nói, một số thói quen phải được nghiền nát dưới chân.
Cảm ơn Chúa vì chứng tá can đảm và trung thành của Đức Tổng Giám Mục Sample và Cha George. Câu hỏi Cha George hỏi đàn chiên của chính mình phải trở thành một câu hỏi cấp bách hơn bao giờ hết đối với mỗi chúng ta: “Bạn không có lòng kính sợ Chúa sao?”
Nếu thánh ý Chúa cho các linh mục châu Phi có thể thường xuyên hỏi chúng ta câu hỏi này, thì tôi nói rằng Giáo hội Phi châu có thể sớm qua mặt Giáo Hội tại Mỹ châu.
Source:Catholic Herald
1. Người Công Giáo số một của năm 2019 theo tờ Catholic Herald – Cô Melissa Villalobos
Cô Melissa Villalobos, 42 tuổi, cư ngụ tại Chicago, đã được tờ Catholic Herald chọn là người Công Giáo số một của năm 2019. Khi bị xuất huyết nghiêm trọng đe dọa đến tính mạng, điều đầu tiên cô nghĩ đến không phải là an nguy của chính bản thân mình nhưng là an toàn của các con. Cô là người có đời sống cầu nguyện và quảng đại đón nhận hồng ân con cái. Vì thế, cô đã nhận được phép lạ dẫn đến án tuyên thánh cho Đức Hồng Y John Henry Newman.
Sáng Chúa Nhật vừa qua, 13 tháng 10, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên phong Chân Phước Hồng Y John Newman là thánh và ngài sẽ được kêu cầu như thế bởi các tín hữu.
Phép lạ dẫn đến án tuyên thánh này liên quan đến một phụ nữ trẻ tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa tại Chicago. Năm 2013, cô rơi vào một tình cảnh đáng âu lo khi bác sĩ báo cho cô biết cái thai của cô có vấn đề rất nghiêm trọng đến tính mạng.
Cô Melissa Villalobos, 42 tuổi, cư ngụ tại Chicago, là người đã nhận được phép lạ này đã kể lại câu chuyện này như sau.
Câu chuyện xảy ra khi tôi mang thai vào cuối tháng 4 năm 2013, và tôi bắt đầu bị chảy máu trong thai kỳ vào khoảng tháng Năm. Trước tiên và dĩ nhiên tôi coi đó là một dấu hiệu xấu nên tôi đã đi khám bác sĩ và bác sĩ đã siêu âm và phát hiện ra rằng nhau thai đã bị tách ra một phần từ thành tử cung và nó đã bị rách. Vì thế, có một lỗ lớn khiến máu thoát ra ngoài. Đáng lẽ, nó phải ở lại trong nhau thai và nuôi dưỡng con tôi. Một tin xấu là không có cách nào để khắc phục điều này bởi vì bạn không thể phẫu thuật trong thời gian thai kỳ và em bé còn quá nhỏ để loại bỏ bất kỳ phần nào ở tử cung và cũng không thể đưa em bé ra vì em bé không thể sống sót nếu chúng tôi phải đưa bé ra ngoài. Thêm vào đó không có thuốc nào có thể uống để điều trị.
Vì thế đó là một tình huống tuyệt vọng theo nghĩa là không có gì chúng ta có thể làm để sửa chữa vấn đề. Tôi được chẩn đoán sẽ sinh cháu bé vào tháng Giêng, mà lúc ấy chỉ mới là tháng Năm, vì vậy tôi đã tự hỏi làm sao tôi có để vượt qua được phần còn lại của thai kỳ.
Vào ngày 10 tháng Năm, hôm đó là ngày thứ Sáu, tình trạng chảy máu trở nên tồi tệ hơn rất nhiều và tôi đã được hướng dẫn để đi đến phòng cấp cứu nếu nó trở nên quá tệ. Nếu không đi tôi có thể chết vì mất máu. Vì thế, ngày hôm đó tôi đã đi đến phòng cấp cứu và tôi đã thở phào nhẹ nhõm khi biết rằng nhịp đập của Gemma vẫn còn tích tắc trong tôi vì tôi e rằng việc chảy máu có thể khiến tôi mất đi Gemma. Đó là những tin tức tốt lành trong lần khám bệnh đó nhưng tin xấu là tôi rơi vào tình chảy máu rất nghiêm trọng và một lần nữa chúng ta không thể làm bất cứ điều gì để khắc phục.
Bác sĩ của tôi đã gọi cho tôi qua điện thoại di động, và với một giọng nói rất nặng nề ông ta nói với tôi rằng điều duy nhất tôi có thể làm là nghỉ ngơi nghiêm nhặt trên giường, tuyệt đối không thể rời khỏi giường. Nếu tôi di chuyển, tôi có khả năng bị sảy thai. Theo dự đoán của ông, em bé có thể sống sót và nhiều khả năng cháu sẽ sinh non. Trong những ngày chập chùng những nỗi buồn và đau đớn này, những đứa con của tôi đã giúp tôi rất nhiều. Chúng không biết chuyện gì xảy ra với tôi, hai vợ chồng tôi không muốn làm chúng sợ, nhưng dù thế nào chúng cũng biết tôi không được khỏe. Tôi nhớ đã nhận được một cú gọi từ cô y tá ở văn phòng bác sĩ. Cô ấy muốn chắc chắn rằng tôi nằm trên giường và không ra khỏi giường và tôi nhớ khi tôi đang nói chuyện điện thoại với cô ấy, tôi thấy bốn đứa con của tôi chạy quanh trong nhà, và nghĩ rằng nếu cô ấy có thể nhìn thấy cảnh này thì cô biết tôi khó lòng tuân theo lời dặn của cô. Tôi cũng không nói với cô rằng chồng tôi sẽ phải ra đi vì công việc bắt buộc vào sáng thứ Tư cho đến thứ Sáu. Trong hai ngày đó tôi không biết làm thế nào tôi sẽ vượt qua điều này. Đêm trước khi anh ấy đi, chúng tôi đã nói chuyện với nhau và anh ấy hỏi tôi:
“Em có muốn anh đánh thức em dậy vào buổi sáng trước khi anh đi không vì anh cần phải đi thật sớm.”
Ý thức được tình trạng của mình, tôi trả lời là khi đi nếu thấy tôi đang ngủ thì đừng đánh thức tôi dậy. Vì thế, khi tôi thức giấc vào sáng thứ Tư 15 tháng 5 thì anh ấy đã ra khỏi nhà. Khi tôi tỉnh giấc, tôi kinh hoàng nhận ra mình đang nằm trên một vũng máu rất đáng sợ bởi vì bác sĩ đã bảo tôi phải nghỉ ngơi nghiêm ngặt trên giường nhưng tôi đã không tuân thủ những lời dặn dò này. Tôi lo không biết còn chảy máu đến mức nào. Và trong tình cảnh này, tôi không biết phải làm sao khi chồng tôi đã ở trên máy bay.
Tôi nghĩ điều tôi cần làm trước tiên là chuẩn bị cho bọn trẻ ăn sáng và bảo vệ cho chúng được an toàn và ăn uống đầy đủ. Trước khi tôi đương đầu với tình huống này, tốt nhất là có thể sắp đặt để bọn trẻ giúp đỡ nhau và ngồi vào chỗ của chúng. Sau đó, tôi nói với chúng rằng tôi cần lên tầng trên, xin đừng rời khỏi chỗ ngồi. Tôi rất lo lắng nếu chúng chạy nhảy và bị thương thì tôi không thể giúp chúng. Vào lúc này tôi không thể nâng một đứa trẻ lên. Tất nhiên, một người mẹ phải nâng một đứa trẻ dậy, bất kể điều gì, nhưng ngay lúc đó tôi sẽ làm tổn thương đứa con chưa chào đời của tôi và bản thân tôi. Tôi không muốn đứa nào bị thương, tôi cũng không muốn bất cứ đứa nào lẻn lên trên tầng trên và thấy tôi chảy máu quá nhiều. Tôi không muốn làm chúng sợ. Vì vậy, tôi năn nỉ chúng đừng đứng dậy ra khỏi chỗ ngồi ngay cả khi đã ăn sáng xong.
Tôi để chúng ngồi đó và đi vào phòng ngủ và vào phòng tắm của tôi và tôi đóng cả hai lần cửa vì không muốn chúng lên lầu và cũng không muốn chúng có thể lẻn vào phòng tôi và nhìn thấy một vũng máu khi tôi đang trong phòng tắm.
Nhưng khi bước vào phòng tắm thì tôi lâm vào tình trạng kiệt sức và bây giờ máu chảy thậm chí còn tồi tệ hơn khi tôi đến phòng cấp cứu vào ngày thứ Sáu tuần trước. Tôi quỵ xuống nằm trên sàn nhà và tôi nghĩ tôi cần phải gọi 911 ngay bây giờ nếu không tôi có thể chết. Tôi nhận ra khi tôi đang nằm trên sàn nhà trong phòng tắm tôi không có điện thoại di động bên mình. Tôi không thể tin được là tôi không có nó bên mình trong lúc nguy hiểm này và lúc đó tôi không biết tôi đã để nó ở đâu. Tôi nghĩ có lẽ tôi cần phải hét lên để bọn trẻ đi lên tầng trên giúp tôi lấy điện thoại, nhưng tôi nhận ra rằng trước đó tôi đã đóng kín cả hai cánh cửa đó rồi. Tôi có hét lên thì chúng cũng chẳng nghe và bất cứ sự gắng sức nào có lẽ sẽ còn làm chảy máu nhiều hơn. Điều tôi lo nhất vào thời điểm đó là tôi không biết liệu nhau thai có bị đứt như một sợi chỉ không, vì vậy tôi nghĩ an toàn hơn hết là tôi đừng hét lên.
Tóm lại, tình cảnh tôi lúc đó là tôi không có điện thoại và tôi không thể hét lên và tôi nghĩ chắc chắn tôi vắng mặt lâu như thế có lẽ một trong những đứa trẻ sẽ lang thang lên lầu để xem chuyện gì xảy ra nhưng tầng dưới hoàn toàn im lặng. Tôi muốn nói là nó hoàn toàn im lặng không thể nghe thấy bất cứ tiếng động nào. Lúc ấy, tôi thậm chí còn lo lắng hơn nữa vì sợ chúng đã ra khỏi nhà hay chúng bị thương vì làm cái gì đó. Nhưng tôi cũng không thể kiểm tra vì trong lúc này tôi đang mất nhiều máu. Tôi không biết tôi còn bao nhiêu thời gian nữa nhưng tôi tưởng tượng mình còn rất ít thời gian nếu cứ tiếp tục bị chảy máu với tốc độ này. Trong lúc hoảng loạn tôi nói: “Xin Đức Hồng Y Newman cứu con, xin làm cho máu ngừng chảy.” Tôi mới nói xong thì nó dừng lại ngay lập tức. Nó chảy rất nhanh nhưng đã dừng lại một cách đột ngột. Tôi thấy khoẻ hẳn trong người đến mức có thể đứng dậy và tôi nhìn xung quanh và tôi nói “Hồng Y Newman ơi có phải ngài đã làm ngừng chảy máu không?” Tôi biết ngài đã làm nhưng đó là những gì tôi nói đầy bỡ ngỡ. Ngay sau đó, tôi ngửi thấy mùi hoa hồng tràn ngập không khí phòng tắm và tôi hít vào thật sâu. Tôi nói lời cảm ơn Đức Hồng Y Newman và tôi nghĩ rằng tôi phải kiểm tra các con tôi nên tôi bước xuống cầu thang, tôi mở cả hai cánh cửa và tôi chạy xuống cầu thang vì tôi biết Hồng Y Newman đã chữa khỏi cho tôi và tôi biết tôi vẫn ổn và Gemma vẫn ổn. Tôi đi vào bếp và tôi thấy bốn đứa con tôi vẫn ngồi yên ở bàn, tất cả chúng tôi đều ổn.
Tôi đã có một cái hẹn với bác sĩ vào lúc 3 giờ. Khi tôi đến nơi, các bác sĩ đã siêu âm nhiều lần mặt họ lộ vẻ ngạc nhiên. Điều đầu tiên bác sĩ nói với tôi là em bé trông hoàn hảo về mọi phương diện và ông rất vui cũng như rất kinh ngạc không biết điều gì đã xảy ra.
Hồng Y Newman đã chữa lành mọi thứ, Gemma sinh thiếu tháng lẽ ra phải nhỏ nhưng cháu được 8 cân rưỡi là một trọng lượng rất khỏe mạnh hơn trung bình khi được hạ sinh vào ngày 27 tháng 12. Tôi tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn và tôi không thể tin rằng chính tôi đã nhận được phép lạ nhờ lời cầu bầu của ngài. Bạn biết từ khi Đức Hồng Y Newman qua đời vào năm 1890 đến nay đã gần 130 năm sau và tôi mừng được là một phần trong tiến trình phong thánh cho ngài.
Tôi nhớ lại một vài điều ngài đã viết: Chúa đã tạo ra tôi để thực hiện một số sứ vụ nhất định và tôi cảm thấy như tôi là một mắt xích trong một chuỗi những sự kiện kéo dài hàng mấy trăm năm. Thật tuyệt vời để loan báo cho nhiều người biết rằng một người bình thường như tôi đã có thể được chữa khỏi một cách kỳ diệu bởi một người có một năng lực trí tuệ siêu phàm với một hương thơm thánh thiện như vậy.