https://youtu.be/72TF5LNORRM
1. Con số các nhà truyền giáo bị giết trong năm 2017 rất đáng quan ngại
Trong những năm vừa qua, thế giới chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của chủ nghĩa cực đoan Hồi Giáo. Tuy nhiên, oái oăm thay, số các nhà truyền giáo bị giết nhiều nhất không phải là ở các quốc gia có đa số dân theo Hồi Giáo hoặc ở các quốc gia Châu Á, nhưng chính là tại Mỹ châu Latinh nơi có một đa số rõ rệt dân chúng là người Công Giáo. Điều này không chỉ xảy ra trong năm nay 2017, nhưng là một thực tại liên tục trong suốt 8 năm vừa qua. Thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc đã đưa ra nhận xét cay đắng như trên trong bản phúc trình về con số các nhân viên mục vụ của Giáo Hội Công Giáo bị thảm sát trong năm 2017 sắp kết thúc.
Trong năm 2017, 23 nhân viên mục vụ của Giáo Hội Công Giáo đã bị giết trên toàn thế giới, trong đó có 13 linh mục, 1 sư huynh, 1 nữ tu, và 8 giáo dân truyền giáo.
Phân bố theo lãnh thổ, đây là năm thứ 8 liên tiếp Mỹ Châu Latinh (Mễ Tây Cơ, Trung Mỹ và Nam Mỹ) là nơi có số lượng lớn các nhân viên chăm sóc mục vụ bị giết chết với con số lên đến 11 vị trong đó có 8 linh mục, 1 sư huynh và 2 giáo dân truyền giáo. Kế đến là Phi Châu, nơi có 10 nhân viên chăm sóc mục vụ bị giết gồm 4 linh mục, 1 nữ tu, và 5 giáo dân truyền giáo. Tại Á châu, 1 linh mục, và 1 giáo dân truyền giáo đã bị giết. Cả hai đều bị giết tại Phi Luật Tân, là quốc gia duy nhất tại châu Á nơi đa số dân theo Công Giáo
Nếu chúng ta xét riêng từng quốc gia, thì trong năm 2017, Nigeria dẫn đầu với 5 nhân viên chăm sóc mục vụ bị giết, tiếp đến là Mễ Tây Cơ có 4 vị, Colombia và Phi Luật Tân mỗi nước có hai vị.
Với 4 linh mục bị giết, Mễ Tây Cơ tiếp tục là quốc gia nguy hiểm nhất trên thế giới đối với các linh mục. Theo nhận định của của Cha Omar Sotelo, là Giám đốc Trung tâm Truyền thông Đa phương tiện Mễ Tây Cơ, “Bạo lực chống lại hàng giáo phẩm đã tăng lên trong những năm gần đây mà không thấy có những hành động cụ thể nào để ngăn chặn nó. Dân chúng luôn phải đối mặt với những tội ác, chúng ta biết rõ điều đó, nhưng bây giờ trên hết, chức tư tế đã trở thành một chức vụ nguy hiểm; trong chín năm qua, Mễ Tây Cơ là nước có nhiều linh mục bị giết nhất trên thế giới.”
Báo cáo của Fides cũng đề cập đến một giám mục bị giết tại giáo phận Bafia của Cameroon. Xác Đức Cha Jean-Marie Benoit Bala được tìm thấy trong dòng sông Sanaga vào ngày 2 tháng Sáu. Cơ quan tư pháp của Cameroon quyết liệt cho rằng Đức Cha tự tử, trong khi Hội Đồng Giám Mục kiên trì lặp lại rằng Đức Cha không tự sát, nhưng “đã bị sát hại tàn bạo” trước khi bị ném xuống giòng sông đang chảy xiết.
2. Bối cảnh Hội Nghị: “Đương đầu với bạo lực nhân danh tôn giáo”
Tháng 10 năm 2016, quân Iraq mở cuộc tấn công vào vùng bình nguyên Ninivê. Đầu tháng Giêng 2017, bọn khủng bố Hồi Giáo IS bị vây chặt trong thành Mosul. Những biến chuyển ấy khiến nhiều người lạc quan tin rằng làn sóng bách hại các Kitô hữu trên thế giới sẽ phải chậm lại. Nhưng không, tổ chức Open Doors vừa công bố một báo cáo cho thấy 3,066 Kitô hữu đã bị giết vì niềm tin Kitô của mình trong năm ngoái 2017, nhiều gấp hai lần năm 2016.
Tất cả 11 nước vẫn thường được xem là bạc đãi các Kitô hữu nhất giờ đây đều được coi là những nơi bách hại dã man hơn bao giờ hết trong 26 năm theo dõi của Open Doors. Dựa trên các dữ liệu về năm lĩnh vực của cuộc sống – cuộc sống riêng tư, gia đình, cộng đồng, quốc gia và Giáo Hội, Open Doors khẳng định rằng trên toàn thế giới có đến 50 quốc gia nơi sự bách hại các tín hữu Kitô đã lên đến mức cực đoan một cách đáng báo động.
Bắc Triều Tiên vẫn giữ vị trí số một trong việc khủng bố các Kitô hữu, theo sau là Afghanistan và Somalia, nơi mà các Kitô hữu thường xuyên phải gánh chịu những hình thái bạo lực của người Hồi giáo.
Báo cáo mới nhất của Open Doors nêu bật những mức độ bức hại chưa từng thấy ở Ai Cập, là nơi năm ngoái có hơn 200 Kitô hữu bị đuổi ra khỏi nhà và 128 người bị giết vì đức tin của họ. Ai Cập là nơi sinh sống của cộng đồng Coptic lớn nhất ở Trung Đông, phần lớn là người theo Chính Thống Giáo. Trong ngày Giáng sinh vừa qua, các Kitô hữu đã tham dự các nghi lễ cùng với những người lính giữa các hàng rào an ninh nghiêm nhặt. Lễ Phục Sinh năm ngoái hai vụ đánh bom nhà thờ đã giết chết 49 người.
Theo những tác giả của báo cáo này, việc bọn khủng bố Hồi giáo bị đẩy lùi khỏi Iraq và Syria đã góp phần làm gia tăng mức độ bạo lực ở các nước xung quanh.
Cựu Giám đốc điều hành của Open Doors tại Vương quốc Anh và Ái Nhĩ Lan là bà Lisa Pearce nói: “Kitô hữu ở Ai Cập đang phải đối mặt với một sự phân biệt và đe dọa nặng nề, nhưng họ quyết liệt không chối bỏ niềm tin của mình. Chúng ta những người sống ở Anh và Ái Nhĩ Lan khó tưởng tượng hết nổi những khía cạnh đau thương mà họ phải gánh chịu.”
Bà nói rằng các hình thức phân biệt đối xử bao gồm việc không có việc làm, bị từ chối giấy phép quy hoạch gia cư và là mục tiêu của các cuộc tấn công khi họ đi nhà thờ.
Danh sách của Open Doors cũng nhấn mạnh đến trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, là nước trong ba năm gần đây đã tăng đều đặn lên đến hạng 31 trong năm nay.
Các khu vực đáng quan tâm khác là chủ nghĩa cực đoan Hindu ở Ấn Độ và Nepal, cũng như xu hướng bách hại đang nổi lên ở Đông Nam Á, được thúc đẩy bởi chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo ở Malaysia.
Theo báo cáo, cuộc bách hại tiếp tục gia tăng trên khắp châu Phi, với Sudan, Somalia, Eritrea và Libya là những quốc gia trong số 11 nước tồi tệ nhất.
3. Đức Hồng Y Vinko Puljić /vin-kô pu-líc/: 10,000 người Công Giáo di tản khỏi Bosnia mỗi năm vì bị kỳ thị
Bosnia và Herzegovina /bốt-nhi-a héc-sê-gô-vi-na/ đã từ lâu không được nhắc đến trên báo chí. Chính thức, cuộc nội chiến tàn bạo ở Nam Tư cũ đã kết thúc với Hiệp định Dayton năm 1995. Tuy nhiên, những vết thương của chiến tranh vẫn còn tiếp tục rỉ máu – đặc biệt là trong sự phân biệt đối xử đối với người Công Giáo. Khi cuộc xung đột đang diễn ra, ít nhất nửa triệu người Công Giáo đã bị xua đuổi khỏi quốc gia này.
Đức Hồng Y Vinko Puljic, là tổng giám mục Vrhbosna /vơ-bốts-nia/, đã lại báo động về số phận của người Công Giáo trong nước, phần lớn là người Croatia /krô-tsi-a/. Khoảng 10,000 người Công Giáo đang phải di tản ra nước ngoài mỗi năm.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, Đức Hồng Y cho biết như sau:
Thưa Đức Hồng Y, xin ngài cho biết khái quát về tình hình hiện tại của người Công Giáo ở Bosnia và Herzegovina
Trong chiến tranh và ngay sau đó, hầu hết người Công Giáo bị trục xuất khỏi nhà cửa của họ và có rất nhiều những vụ phá hoại và cướp bóc đã xảy ra. Sau chiến tranh, họ không nhận được sự hỗ trợ về mặt chính trị hay tài chính để quay trở lại. Các điều khoản của hiệp định Dayton đã không được thực hiện trong thực tế, và những người phải chịu đựng nhiều nhất là những người Công Giáo Croatia /krô-tsi-a/thiểu số. Họ gặp nhiều khó khăn để bảo vệ các quyền cơ bản của mình. Hiện nay tình trạng mất an ninh ngày càng đáng báo động, một số người Công Giáo Croatia đã phải rời khỏi đất nước vì lý do này. Họ quan tâm đến tương lai của con cái họ.
Điều gì làm họ hoảng sợ nhất, thưa Đức Hồng Y?
Không có quyền bình đẳng đối với họ trong những miền mà người Công Giáo là thiểu số so với đa số dân là người Hồi giáo hay Chính thống Serbia. Phân biệt đối xử được thể hiện rõ rệt trong các điều khoản chính trị và hành chính, nhất là ở nơi làm việc. Chúng tôi rất âu lo cho tương lai. Nếu không có người Croatia ở đó, thì người Công Giáo càng ít đi rất nhiều.
Đức Hồng Y có thấy bất kỳ dấu hiệu tích cực nào không?
Giáo hội ở Bosnia và Herzegovina đang cố gắng hoạt động như thể mọi thứ đều bình thường; chúng tôi đang cố gắng mang lại cảm giác tự tin và hy vọng cho tương lai. Điều này đang được thực hiện thông qua công việc mục vụ và bác ái của chúng tôi và cũng thông qua hệ thống trường học của chúng tôi. Chúng ta phải là muối đất trong tình huống bi thảm này và tiếp tục đứng thẳng lên trong các vấn đề về nhân quyền.
Các Kitô hữu đóng góp như thế nào để vượt qua những hậu quả của chiến tranh, thưa Đức Hồng Y?
Chúng tôi cho rằng thật là một ân sủng lớn lao để được sống đức tin của mình. Chúng tôi kín múc hy vọng và sức mạnh từ lời cầu nguyện cộng đồng và cá nhân. Thánh Lễ Chúa Nhật và các cuộc hành hương của chúng tôi là một nguồn sức mạnh quan trọng. Chúa Giêsu đã đến với chúng ta trong thực tại của con người, và do đó chúng ta nên trải nghiệm Giáng sinh trong mọi chiều kích thực tại của nó. Trước Hài Nhi Giêsu, chúng ta được kêu gọi để minh chứng rằng tình yêu của Thiên Chúa là nguồn vui đích thực của chúng ta. Vì tất cả chúng ta đều là những thụ tạo được Chúa yêu thương.
Cũng giống như Thiên Chúa đã đến và sống giữa chúng ta, Emmanuel là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, vì vậy chúng ta cũng phải gần gũi với nhau và gần gũi với Chúa hơn. Tôi thiết nghĩ chúng ta phải chữa lành các vết thương bằng cách tha thứ cho nhau và phó thác mọi sự cho sự quan phòng và tình yêu của Thiên Chúa.
4. Tuyên bố của Đức Cha Jacques Benoit-Gonin về phép lạ thứ 70 tại Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức
Một giám mục Pháp tuyên bố hôm Chúa Nhật 11 tháng 2 rằng Giáo Hội chính thức công nhận là phép lạ việc phục hồi không thể giải thích được về mặt Y khoa của một nữ tu bị liệt kinh niên đã nhiều năm.
Nữ tu Bernadette Moriau, sau nhiều năm bị liệt nặng, đã được chữa lành một cách “đột ngột, tức khắc, hoàn toàn và khỏi hẳn từ đó đến nay”. Đức Cha Jacques Benoit-Gonin, là Giám mục Giáo phận Beauvais đã tuyên bố như trên trong thánh lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức và cũng là ngày Quốc Tế Bệnh Nhân tại Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức. Đây là phép lạ thứ 70 xảy ra ở Lộ Đức nhờ lời cầu bầu của Đức Trinh Nữ Maria.
Phép lạ này đã xảy ra gần 10 năm trước sau khi sơ Bernadette Moriau tham dự một buổi lễ sức dầu cho các bệnh nhân tại Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức ở miền Nam nước Pháp.
Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức là nơi Đức Mẹ đã hiện ra cách đây 160 năm với một cô gái 14 tuổi, được coi là một nơi linh thánh vì nhiều bệnh nhân đã được khỏi bệnh cách kỳ diệu. Nước chảy từ suối trong hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra có quyền năng chữa lành và hàng triệu người hành hương đến viếng thánh địa này mỗi năm.
Phép lạ xảy ra đối với sơ Moriau đã trải qua nhiều cuộc nghiên cứu và thử nghiệm rộng rãi của Ủy ban Y tế Quốc tế Lourdes trước khi Giáo Hội đưa ra quyết định cuối cùng liệu đó có phải là một phép lạ hay không.
Sơ Moriau đã phải trải qua 4 lần giải phẩu cột sống từ năm 1968 đến năm 1975 và đã bị tuyên bố là bại liệt hoàn toàn vào năm 1980. Một chân sơ bị xoắn vĩnh viễn, buộc sơ phải đeo nẹp và dùng xe lăn. Sơ cho biết đã phải dùng những liều morphine rất cao để giảm đau.
Người nữ tu giờ đây đã 79 tuổi nói: “Tôi chưa bao dám cầu xin một phép lạ,” khi kể lại cuộc hành hương vào tháng 7 năm 2008 của sơ đến Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức.
Sơ nói trong một video được đăng trên trang web của giáo phận Beauvais rằng sau khi trở về nhà dòng của mình ở gần thành phố Beauvais và đang khi cầu nguyện trong nhà nguyện “Tôi cảm thấy một luồng sinh lực mạnh mẽ chạy khắp cơ thể mình, một sự thư giãn, ấm áp … Tôi về phòng của mình, và ở đó có một giọng nói với tôi “tháo nẹp con ra đi”, “Thật kinh ngạc, tôi có thể đi đứng như thường”
Sơ Moriau cho biết thêm ngay lập tức sơ quăng hết tất cả cả dụng cụ trợ giúp, từ cái nẹp sắt, đến cái xe lăn và cả những ống morphine – và đi bộ 5km một vài ngày sau đó.
Trong thông cáo của giáo phận Beauvais, Đức Cha Jacques Benoit-Gonin cho biết chi tiết như sau : “Chiều ngày 11/07/2008, khi sơ Moriau đang chầu Thánh Thể, sơ đã trải qua một khoảnh khắc ngoại thường khi hiệp thông với Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức và với cuộc hành hương mà sơ mới thực hiện. Khi sơ trở về phòng mình, sơ cảm thấy được thúc đẩy bỏ hết các bộ phận trợ giúp trên người mình: các máy móc y khoa và tắt cả máy kích thích thần kinh… Ngay lập tức sơ bắt đầu bước đi mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào, hoàn toàn độc lập. Sơ đã gọi các sơ cùng dòng đến chứng kiến và các sơ đó đã nhận thấy sự thay đổi.”
Đức Cha Jacques Benoit-Gonin nói sự thay đổi “đột ngột, tức khắc, hoàn toàn và khỏi hẳn từ đó đến nay” đã khiến ngài nhận ra đây có thể là một phép lạ. Ủy ban Y khoa Lourdes sau nhiều cuộc nghiên cứu đã khẳng định rằng những thay đổi này không thể giải thích được “trong tình trạng hiện tại của kiến thức khoa học của chúng ta”
Phép lạ trước đây ở Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức, tức là phép lạ thứ 69, đã được tuyên bố vào năm 2013. Một phụ nữ Ý đến thăm Lộ Đức năm 1989, bị cao huyết áp nghiêm trọng và nhiều vấn đề khác đã được chữa lành hoàn toàn.
Không phải mọi phép lạ đều được công bố tại Lộ Đức. Một nữ tu người Pháp, là sơ Marie Simon-Pierre, được tuyên bố là đã khỏi bệnh Parkinson sau khi cầu nguyện cùng cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Phép lạ này được công bố tại Vatican trong tiến trình tuyên thánh cho vị Giáo Hoàng Ba Lan vào năm 2014.
Ít nhất 7200 trường hợp khỏi bệnh đã được Ủy ban Y khoa Lourdes ghi nhận, đến nay Giáo Hội chỉ mới công nhận 70 phép lạ.
5. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 nói trong tâm tư tôi đang hành hương về Nhà.
Trong một lá thư gửi tiến sĩ Massimo Franco, một ký giả của tờ báo Ý Corriere della Sera, nghĩa là Người Ðưa Tin Chiều, Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô thứ 16 đã trả lời cho nhiều độc giả của tờ báo muốn biết về tình trạng sức khỏe của ngài.
Thư của Đức Bênêđíctô thứ 16 gửi cho Tiến sĩ Massimo Franco được gửi từ đan viện Mẹ Giáo hội ở nội thành Vatican và đã đến trụ sở báo ở Roma vào sáng ngày 06 tháng 02 vừa qua.
Trong thư Đức Bênêđíctô thứ 16 viết:
Tiến sĩ Franco thân mến,
Tôi cảm động khi nhiều độc giả của quý báo muốn biết về những ngày cuối đời tôi diễn ra thế nào. Tôi chỉ có thể nói về điều này là, khi sức khỏe thể lý đang dần suy giảm đi, thì trong nội tâm, tôi đang trong cuộc hành hương tiến về Nhà.
Thật là một ân phúc đối với tôi, trong đoạn đường cuối này, có khi hơi mệt mỏi, được bao bọc bởi một tình yêu và lòng tốt mà tôi không bao giờ có thể tưởng tượng được.
Theo nghĩa này, tôi xem câu hỏi của các độc giả của quý báo như là một sự đồng hành. Vì điều này, tôi không thể làm gì hơn là cám ơn và về phần tôi, tôi đoan chắc là cầu nguyện cho tất cả các bạn.
Trân trọng kính chào.
Bênêđíctô thứ 16
6. Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức KHÔNG tán thành việc chúc lành cho các cặp đồng tính
Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức kêu gọi các linh mục chăm sóc mục vụ tốt hơn cho những người Công Giáo đồng tính, nhưng ngài nói: “Tôi nghĩ điều đó không đúng” khi được hỏi liệu ngài có thể tưởng tượng ra một ngày nào đó Giáo Hội Công Giáo sẽ có một nghi thức để chúc lành cho các cặp đồng tính.
Đức Hồng Y Reinhard Marx của tổng giáo phận Munich và Freising, kiêm chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, đã đưa ra nhận định trên trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh vào ngày 3 tháng Hai vừa qua.
Các phương tiện truyền thông Công Giáo Đức đã giải thích các nhận xét của Đức Hồng Y như một bước chống lại đề xuất của Đức Cha Franz-Josef Bode, là Giám mục giáo phận Osnabruck. Tháng Giêng vừa qua, Đức Cha Bode nói Giáo Hội Công Giáo nên tranh luận về khả thể hình thành một buổi lễ chúc phúc trong nhà thờ cho các cặp đồng tính người Công Giáo.
Tuy nhiên, có lẽ vì trở ngại ngôn ngữ, nên một số phương tiện truyền thông tiếng Anh và các blog đã giận dữ trước lời nhận xét của Hồng Y Marx, và cho rằng Đức Hồng Y Marx “tán thành” các buổi lễ chúc phúc như thế.
Căng thẳng dâng cao đến mức Đức Cha Charles J. Chaput, là Tổng Giám mục của Philadelphia lên tiếng kêu gọi các giám mục trên thế giới hãy lên tiếng minh định quan điểm của các ngài trước một viễn ảnh nguy hiểm cho đức tin như vậy.
Đức Tổng Giám Mục Chaput nói, “bất cứ nghi lễ chúc phúc nào như thế” sẽ là một sự hợp tác với một hành động vô luân, bất kể mức độ chân thành của những người muốn được chúc lành vì điều đó gây ra những nhầm lẫn và lừa dối các tín hữu, và sẽ làm tổn thương sự hiệp nhất của Hội thánh chúng ta. Chúng ta không thể lờ đi hoặc im lặng trước vấn đề này”.
Giáo Hội Công Giáo khẳng định hôn nhân chỉ có thể là giữa một người nam và một người nữ. Giáo Hội cũng dạy rằng mặc dù những người đồng tính đáng được tôn trọng và chăm sóc về tinh thần, nhưng hành vi tính dục đồng giới là một tội lỗi nghiêm trọng.
Trong cuộc phỏng vấn với Đức Hồng Y Marx, người phỏng vấn nói rằng nhiều người tin rằng Giáo Hội nên chúc phúc cho các kết hiệp đồng tính, phong chức phó tế cho phụ nữ và kết thúc sự độc thân linh mục trong Giáo Hội Latinh.
Theo bản dịch sang tiếng Anh do Hội Đồng Giám mục Đức vừa đưa ra nằm kết thúc vụ tranh luận sóng gió này, Đức Hồng Y Marx nói ngài không tin rằng những thay đổi này là những gì Giáo Hội cần nhất hiện nay. “Thay vào đó, câu hỏi đặt ra là làm thế nào Giáo Hội có thể đáp ứng được những thách thức do những hoàn cảnh mới của cuộc sống ngày nay, cũng như những hiểu biết mới trong công việc mục vụ, và việc chăm sóc mục vụ”.
Đức Hồng Y nói tiếp rằng theo giáo huấn và gương mẫu của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về việc chăm sóc mục vụ, “chúng ta phải xem xét tình hình của mỗi cá nhân, lịch sử cuộc đời, tiểu sử của họ, những khó khăn người ấy phải trải qua, những hy vọng phát sinh, những mối quan hệ của người ấy. Chúng ta phải nghiêm túc hơn và phải cố gắng hơn trong việc tháp tùng với mọi người trong hoàn cảnh sống của họ.”
Ngài nói thêm là những điều này cũng đúng trong việc mục vụ dành cho những người đồng tính luyến ái: “Chúng ta phải gần gũi về phương diện mục vụ với những người cần chăm sóc và cũng muốn được chăm sóc. Và chúng ta cũng phải khuyến khích các linh mục và các nhân viên mục vụ khích lệ mọi người trong những tình huống cụ thể. Tôi không thấy có vấn đề gì ở đây. Một vấn đề hoàn toàn khác là làm thế nào để được thực hiện trong bầu khí công cộng và theo đúng phụng vụ. Đây là những điều bạn phải cẩn thận và phải suy nghĩ một cách chín chắn”
Mặc dù loại trừ khả năng có thể đưa ra các “giải pháp chung” chẳng hạn như một nghi thức công cộng, Đức Hồng Y Marx nói, “điều đó không có nghĩa là không có gì xảy ra, nhưng tôi thực sự phải dành lại cho các mục tử tại chỗ trong việc đồng hành cùng các cá nhân với sự chăm sóc mục vụ. Trong lãnh vực này bạn có thể thảo luận các vấn đề, như hiện đang được thảo luận, và xem xét: Chẳng hạn như các nhân viên mục vụ nên đương đầu với vấn đề này như thế nào? Tuy nhiên, tôi thực sự muốn nhấn mạnh đến việc dành lại vấn đề này cho các linh mục tại chỗ và các cá nhân cụ thể, và xin đừng đòi hỏi bất kỳ những quy tắc nào nữa – Có những điều không thể điều chỉnh được.”
Người phát ngôn của Hội đồng Giám mục cho hay Đức Hồng Y không muốn được phỏng vấn thêm.
7. Kinh cầu Đức Bà cứu các nữ tu Damascus thoát chết trong gang tấc
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Những hình ảnh quý vị và anh chị em đang xem thấy đây được thu hình vào ngày Chúa Nhật Giáng Sinh 25 tháng 12 năm 2016 khi tổng thống Syria là ông Bashar Al-Assad, cùng với vợ và các con đến thăm một ngôi làng Kitô giáo lâu đời tại Saydnaya, một vùng ven ở phía Bắc thủ đô Damascus.
Đây là những thời khắc thanh bình nhất của vùng này. Chẳng may, là trong vòng chỉ mới hơn một năm tình hình đã xấu đi rất nhanh.
Cuộc chiến tại Syria đã trở nên tồi tệ hơn bao giờ trong suốt 7 năm qua. Từ đầu năm nay, chiến sự chung quanh thủ đô Damascus đã bùng lên dữ dội. Chẳng hạn như tại quận Đông Ghouta, nơi phiến quân dùng làm cứ điểm bắn hoả tiễn vào thủ đô Damascus, máy bay Nga và Syria đã ném bom vào cả thường dân vô tội trong một cố gắng đẩy lùi các cuộc tấn công của các nhóm phiến quân. Tính cho đến ngày 23 tháng Hai vừa qua, Liên Hiệp Quốc ước tính ít nhất đã có 541 thường dân vô tội bị thiệt mạng và hàng trăm người khác bị thương.
Trong báo cáo đưa ra hôm 8 tháng Hai, Caritas Syria cho biết: “Hơn 200 quả đạn pháo đã rơi vào các khu phố phía đông của Damascus, khiến 28 người chết và 90 người bị thương. Các cuộc tấn công vẫn đang tiếp diễn”
Tổ Chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, trong báo cáo hôm 22 tháng Hai cho biết thêm như sau: “Đạn pháo rơi dữ dội vào tu viện của nữ tu Annie Demerjian. Bà và những người khác trong tu viện đã thoát chết trong gang tấc. Quả bích kích pháo rơi trúng chỗ trú ẩn cùa họ nhưng không nổ.”
Nữ tu Annie nói: “Hôm qua, tức là ngày 21 tháng Hai, cảnh tượng ở đây giống như địa ngục. Hoả tiễn rơi xuống như mưa. Người bị thương nằm la liệt. Các sinh viên đang trốn trong tu viện và các nữ tu chúng tôi khiêng họ xuống hầm trong khi không ngớt đọc kinh cầu Đức Bà. Một trái hỏa tiễn rơi đúng vào căn hầm chúng tôi. May mắn, nó không nổ. Nó nổ có lẽ chúng tôi chết hết. Thật đúng là Đức Bà phù hộ các tín hữu.”
Cha Andrzej Halemba thành viên Caritas địa phương nói với tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ:
“Bạo động đang gia tăng vì các nhóm liên quan đến al-Qaida muốn chiếm một căn cứ quân sự then chốt ở vùng này. Căn cứ này, được gọi là ‘Căn cứ ô tô’, chứa nhiều binh lính, quân xa cũng như các kho vũ khí lớn.”
“Hãy cầu nguyện cho chúng tôi ở Syria”, cha Andrzej Halemba nói.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Cuộc chiến tại Syria trong những ngày này vẫn đang hết sức ác liệt. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các anh chị em trong đức tin của chúng ta.
Ðức Bà yên ủi kẻ âu lo. Cầu cho chúng con.
Ðức Bà phù hộ các giáo hữu. Cầu cho chúng con.
8. Công bố Tông Huấn Gaudete et Exsultate
Tông huấn Gaudete et Exsultate (Mừng rỡ Hân hoan) của Đức Thánh Cha Phanxicô về “ơn gọi thánh thiện trong thế giới hiện đại” đã được công bố vào sáng ngày thứ Hai 9 tháng Tư.
Tài liệu này đã được Đức Tổng Giám Mục Angelo De Donatis, Giám quản Giáo phận Roma trình bày tại một cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh.
Tham dự cùng Đức Tổng Giám Mục còn có nhà báo Gianni Valente, một người Ý làm việc cho Fides, cơ quan thông tấn xã Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, và Paola Bignardi, một nhà giáo dục và là cựu Chủ tịch Tổ chức Công Giáo Tiến Hành Italia.
Tựa đề của lời Tông huấn là cụm từ được sử dụng trong Phúc Âm Matthêu chương 5 câu 12, phần cuối của Tám Mối Phúc Thật “Anh em hãy mừng rỡ hân hoan, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.”
Đức Thánh Cha Phanxicô, năm nay 81 tuổi, đã công bố trước đó hai Tông huấn, cả hai đều đưa ra những suy tư từ các cuộc họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục. “Evangelii Gaudium” (Niềm vui Phúc Âm), được công bố vào năm 2013, tập trung vào việc công bố Tin Mừng trong thế giới hiện đại và bao gồm các đề xuất từ Thượng Hội đồng Giám mục 2012 về phúc âm hóa mới. Tông huấn “Amoris Laetitia” (Niềm vui Yêu thương), được công bố năm 2016 và tập trung vào việc mục vụ gia đình. Tông huấn này bao gồm các đề xuất thảo luận trong các phiên họp của Thượng Hội đồng Giám mục vào năm 2014 và 2015.
9. Sau đại họa cộng sản, dân số Chính Thống Giáo tăng gấp đôi
Theo lịch sử, sự hiện diện của Chính Thống Giáo tại Trung và Đông Âu đã bắt đầu vào thế kỷ thứ 9, nhờ các nỗ lực truyền giáo cuả các thừa sai đến từ thủ đô Constantinople của đế chế Byzantine (nay là Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ). Chính Thống Giáo được truyền đầu tiên đến Bảo Gia Lợi, Serbia và Moravia (nay là một phần của Cộng hòa Tiệp), và sau đó, bắt đầu từ thế kỷ thứ 10, được truyền sang Nga.
Sau cuộc Đại Ly Giáo vào năm 1054, hoạt động truyền giáo của các thừa sai Chính Thống Giáo được mở rộng khắp Đế chế Nga từ những năm 1300 đến những năm 1800.
Chẳng may là trong thế kỷ qua, nhiều vùng rộng lớn tại và Đông Âu và toàn bộ nước Nga rơi vào sự thống trị của cộng sản. Dân số Chính Thống Giáo sụt giảm đáng kể. Tuy nhiên, từ sau khi cộng sản sụp đổ tại Đông Âu và tại Nga dân số Chính Thống Giáo trên toàn thế giới đã tăng hơn gấp đôi và bây giờ đứng ở mức gần 260 triệu người. Riêng ở Nga, đã có hơn 100 triệu người xưng mình là tín hữu Chính Thống Giáo, một sự hồi sinh rất mạnh sau sự sụp đổ của Liên Xô.
Mặc dù có sự gia tăng số lượng tuyệt đối, tỷ lệ tương đối các Kitô hữu Chính thống so với Công Giáo và các hệ phái Kitô đã giảm mạnh do sự tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều trong số những người theo đạo Tin Lành, và người Công Giáo. Ngày nay, chỉ có 12% Kitô hữu trên toàn thế giới là Chính thống, so với 20% cách đây một thế kỷ. Và 4% tổng dân số toàn cầu là Chính thống, so với ước tính 7% vào trước khi xảy ra cuộc Cách Mạng Bolshevik tại Nga.
Sự phân bố địa lý của Chính thống giáo cũng khác với các truyền thống Kitô giáo khác trong thế kỷ 21. Năm 1910 – ngay trước khi xảy ra các sự kiện gây ra Chiến tranh thế giới thứ nhất, cuộc cách mạng Bolshevik ở Nga, và sự tan rã của một số đế quốc châu Âu – tất cả ba chi nhánh chủ yếu của Kitô giáo (Chính thống, Công Giáo và Tin Lành) đều chủ yếu tập trung ở châu Âu. Nhưng sau đó, người Công Giáo và Tin lành đã mở rộng ra bên ngoài lục địa này, trong khi Chính Thống Giáo vẫn tập trung chủ yếu ở châu Âu. Ngày nay, 77% các tín hữu Chính Thống sống ở châu Âu. Ngược lại, chỉ có 24% người Công Giáo và 12% người Tin lành hiện đang sống ở châu Âu.
Trong khi Chính thống giáo lan truyền trên khắp lục địa Á-Âu, các nhà truyền giáo Tin Lành và Công Giáo từ Tây Âu đi ra các châu lục khác, qua Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan và Anh, và những nước khác nữa, mang Kitô giáo phương Tây (Công Giáo và đạo Tin Lành) đến vùng cận Sahara Châu Phi, Đông Á và Châu Mỹ – những vùng mà trong thế kỷ 20 có sự tăng dân số nhanh hơn nhiều so với châu Âu.
Ngày nay, cộng đoàn Chính Thống Giáo lớn nhất bên ngoài Đông Âu là ở Ethiopia với khoảng 36 triệu tín hữu, chiếm gần 14% tổng dân số Chính thống trên toàn thế giới.
10. Phản ứng tại Pháp về lời kêu gọi của tổng thống Macron hàn gắn các quan hệ giữa Giáo Hội và nhà nước
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tham dự một cuộc họp của Hội đồng Giám mục Pháp (CEF) tại trường đại học Bernardins ở Paris, vào ngày 9 tháng 4 năm 2018. Diễn biến này gây ngạc nhiên cho nhiều người. Đó là một vấn đề nhạy cảm trong một xứ sở nơi tôn giáo và nhà nước đã bị luật pháp tách biệt vào năm 1905. Bên cạnh đó, giờ đây Pháp cũng là nơi sinh sống của cộng đồng Hồi giáo và Do Thái lớn nhất châu Âu.
Ông Macron còn đi xa hơn thế khi kêu gọi có các mối quan hệ mạnh mẽ hơn giữa nhà nước và Giáo Hội Công Giáo.
Tổng thống nhận xét rằng việc ông có mặt giữa các Giám Mục tự nó đã là một thành tựu quan trọng vì “chúng ta chia sẻ cảm giác rằng mối liên hệ giữa Giáo hội và Nhà nước đã bị hư hại, rằng đã đến lúc chúng ta, cả các vị và tôi, đều muốn sửa chữa điều đó”.
Lớn lên trong một gia đình chẳng theo tôn giáo nào, Macron đã tự mình xin được chịu phép Rửa Tội để gia nhập Giáo Hội Công Giáo khi lên 12 tuổi.
Lời kêu gọi của tổng thống đã được các đối thủ chính trị đón nhận một cách hằn học. Jean-Luc Melenchon, ứng cử viên tổng thống thất cử trong cuộc đua vào tháng Năm 2017 nói:
“Chúng ta mất ba thế kỷ nội chiến và đấu tranh để có được như ngày hôm nay, hoàn toàn không có lý do gì để vặn ngược đồng hồ quay trở lại… vì một ý tưởng bất chợt như thế của tổng thống”
Cựu Thủ tướng Manuel Valls và lãnh đạo Đảng Xã hội Olivier Faure nói rằng việc tách biệt giữa Giáo Hội và nhà nước phải là một trụ cột chính trị, ở một đất nước mà các công chức bị cấm không được đeo mạng che mặt Hồi giáo và những trang phục khác có ý nghĩa tôn giáo.
Chính phủ của tổng thống Macron hiện đang vất vả tìm cách xác định lại các quy chế và vai trò của Hồi Giáo là tôn giáo lớn thứ hai tại Pháp, sau một loạt các cuộc tấn công của các chiến binh Hồi giáo giết chết khoảng 240 người kể từ đầu năm 2015.
Các nhà lãnh đạo Công Giáo không coi nặng và chẳng kỳ vọng gì nhiều nơi các phát biểu của tổng thống Macron. Các ngài không nghĩ rằng một sớm một chiều các ngài có thể gây ảnh hưởng lên các quyết định của chính phủ.
Đức Hồng Y Georges Pontier, người đã gặp tổng thống vào tối thứ Hai, nói với đài truyền hình CNews rằng ông hiểu những nhận xét của tổng thống không có gì khác hơn là một lời mời gọi tham dự vào các cuộc đối thoại cởi mở hơn.
Ngài nói: “Một số người tưởng tượng Giáo Hội Công Giáo muốn áp đặt quyền hạn của mình trên tư duy của mọi người, và hơn thế nữa, nhưng điều đó không đúng”.
11. Các tổ chức phò sinh hoan nghênh quyết định của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bỏ quyền phá thai khỏi các nhân quyền
Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã loại bỏ một phần nói về “quyền sinh sản” trong báo cáo nhân quyền thế giới hàng năm của mình và thay thế nó bằng các số liệu thống kê nói lên “sự ép buộc trong kiểm soát dân số”.
Báo cáo quốc gia năm 2017 về thực tiễn nhân quyền, được công bố tuần trước, đưa ra các thông tin về phá thai cưỡng bức, buộc triệt đường sinh sản và “các biện pháp kiểm soát dân số cưỡng chế khác”.
Mục này trước đây dưới thời Obama được gọi mục về “quyền sinh sản” mà trong thực chất là quyền phá thai, ngừa thai nhằm áp lực các quốc gia kém mở mang phải áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa trong sinh sản.
Ông Michael Kozak phát ngôn viên Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động cho biết sự thay đổi này là “không làm giảm các quyền của người phụ nữ” mà đúng hơn là “ngừng sử dụng một thuật ngữ có nhiều ý nghĩa khác nhau.”
Các nhóm phò sinh đã hoan nghênh sự thay đổi này. Lila Rose of Live Action cho biết: “Quyền sinh sản ‘từ lâu đã là một thứ lộng ngôn xảo ngữ nhằm hủy hoại cuộc sống con người trong bụng mẹ.”
“Một cụm từ có vẻ như trao quyền cho người phụ nữ nhưng thực chất là buộc họ giết những đức con chưa chào đời.”
12. Tranh luận về vấn đề cho người Tin Lành rước lễ: Đức Thánh Cha khuyên các Giám Mục Đức tìm kiếm một sự đồng tâm nhất trí
Một nhóm các Giám mục Đức đã gặp nhau tại Vatican để có một cuộc thảo luận về đề xuất mục vụ liên quan đến việc cho phép người phối ngẫu Tin Lành của một người Công Giáo được Rước Lễ.
Trong cuộc họp diễn ra tại Vatican hôm thứ Năm 3 tháng 5, các quan chức cao cấp của Vatican và các thành viên của Hội Đồng Giám mục Đức đã tổ chức một cuộc thảo luận về một đề cương hướng dẫn mục vụ được Hội đồng Giám mục Đức công bố vào tháng Hai. Hội đồng Giám mục Đức vào thời điểm đó đã chuẩn y việc thảo ra các hướng dẫn, có khả năng mở rộng sự cho phép người phối ngẫu Tin Lành của một người Công Giáo được Rước Lễ.
Theo một tuyên bố từ Văn phòng báo chí Tòa Thánh, được phát hành sau khi cuộc gặp gỡ xảy ra, cuộc họp đã diễn ra trong một “bầu không khí thân ái và huynh đệ.”
Các Giám mục Đức đã được Đức Thánh Cha Phanxicô gọi đến Rôma sau khi “một số đáng kể” các Giám mục bày tỏ sự chống đối của họ đối với các hướng dẫn được đề xuất. Bảy Giám mục các giáo phận tại Đức đã lên tiếng kêu gọi Bộ Giáo lý Đức tin, Hội đồng Giáo hoàng Cổ vũ Hiệp nhất Kitô giáo, và Hội đồng Giáo hoàng về giải thích các văn bản luật làm sáng tỏ việc này.
Trong cuộc đối thoại, diễn ra bằng tiếng Đức, Đức Tổng Giám Mục Luis Ladaria, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin giải thích rằng Đức Thánh Cha Phanxicô “đánh giá cao sự dấn thân đại kết của các Giám mục Đức” và yêu cầu các ngài tìm kiếm “một dàn xếp có thể đồng tâm nhất trí với nhau được”.
Tuyên bố của phòng báo chí Tòa Thánh nói rằng trong cuộc họp, nhiều quan điểm khác nhau đã được thảo luận, liên quan đến, chẳng hạn như, việc mở rộng sự cho phép Rước Lễ này liên quan thế nào đến Đức tin và việc chăm sóc mục vụ; sự liên quan đối với Giáo Hội phổ quát; và các khía cạnh pháp lý khác nhau của vấn đề. “Đức Tổng Giám Mục Ladaria sẽ thông báo cho Đức Thánh Cha về nội dung của buổi thảo luận”. Tuyên bố của Phòng Báo Chí Tòa Thánh nói.
Cuộc họp hôm thứ Năm đã diễn ra tại trụ sở của Bộ Giáo Lý Đức Tin. Các giám mục Đức sau đây đã có mặt trong cuộc thảo luận: Đức Hồng Y Reinhard Marx, Tổng Giám mục Munich và Freising và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Đức; Đức Hồng Y Rainer Maria Woelki, Tổng giám mục Köln; Đức Giám Mục Felix Genn của Münster; Đức Giám Mục Karl Heinz Wiesemann, là Giám mục giáo phận Speyer và là chủ tịch ủy ban giáo lý của Hội Đồng Giám Mục Đức; Đức Giám Mục Rudolf Voderholzer, Giám mục Regensburg và là phó chủ tịch ủy ban giáo lý; Đức Giám Mục Gerhard Feige, Giám mục giáo phận Magdeburg và là chủ tịch Ủy ban Hội nghị đại kết Kitô Giáo; và Cha Hans Langendorfer, linh mục dòng Tên, thư ký Hội đồng Giám mục Đức.
Về phía Tòa Thánh, ngoài Đức Tổng Giám Mục Ladaria, còn có Đức Hồng Y Kurt Koch, Chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ vũ Hiệp Nhất Kitô Giáo; Đức cha Markus Graulich, Tổng thư ký của Hội đồng Giáo hoàng về giải thích các văn bản lập pháp; và Cha Hermann Geissler, người đứng đầu văn phòng Bộ Giáo Lý Đức Tin.
13. Tất cả các Giám Mục Chí Lợi từ chức
ào lúc bế mạc cuộc họp 3 ngày với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tất cả các Giám Mục Chí Lợi đều yêu cầu các nạn nhân của vụ tai tiếng lạm dụng tính dục ở quốc gia này tha thứ và đệ đơn từ chức lên Đức Giáo Hoàng.
Trong một tuyên bố ngày 18 tháng 5, các Giám Mục đã cảm ơn Đức Giáo Hoàng Phanxicô về “sự lắng nghe hiền phụ và sự sửa sai trong tình huynh đệ” và cầu xin sự tha thứ cho những nỗi đau gây ra cho các nạn nhân, cho Đức Giáo Hoàng, dân Chúa và quốc gia vì “những thiếu sót và sai lầm nghiêm trọng” của các ngài.
Bản tuyên bố đã được đọc cho giới báo chí nghe bằng tiếng Tây Ban Nha bởi Đức Giám Mục Juan Ignacio González của San Bernardo, một thành viên của ủy ban quốc gia Chí Lợi về bảo vệ trẻ vị thành niên; và sau đó bằng tiếng Ý bởi Đức Giám Mục Fernando Ramos, Giám Mục Phụ Tá Santiago và là thư ký của Hội Đồng Giám Mục Chí Lợi.
Trong bản tuyên bố, các Giám Mục cũng cảm ơn Đức Tổng Giám Mục Charles Scicluna người Malta và Đức Ông Jordi Bertomeu, người Tây Ban Nha, về cuộc điều tra sâu rộng liên quan đến cuộc khủng hoảng mà hai vị đã thực hiện hồi đầu năm nay.
Các Giám Mục cũng cảm ơn các nạn nhân vì “sự bền đỗ và lòng can đảm của họ, bất chấp những khó khăn rất lớn về phương diện cá nhân, tinh thần, xã hội và gia đình mà họ phải đối mặt,” nhiều lần giữa sự hiểu lầm và tấn công từ chính cộng đồng giáo hội của họ.
Các Giám Mục cũng cầu mong sự giúp đỡ của các nạn nhân để Giáo Hội tại Chí Lợi vượt qua tình trạng khó khăn hiện nay và nói rằng vào cuối phiên họp sau cùng với Đức Thánh Cha vào ngày 17 tháng Năm, mỗi Giám Mục đang tại chức đã trình lên Đức Thánh Cha thư từ chức của các ngài và chờ quyết định của Đức Thánh Cha.
Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí, Đức Cha González cho biết bây giờ các Giám Mục sẽ trở lại giáo phận của các ngài và sẽ tiếp tục công việc như thường lệ cho đến khi nhận được chỉ thị của Đức Giáo Hoàng. Ngài sẽ bác bỏ việc từ chức này, hay chấp nhận ngay lập tức, hoặc giải quyết đơn này khi có thể bổ nhiệm được một Giám Mục khác.
Trong cuộc họp từ ngày 15 đến 17 tháng 5 giữa Đức Thánh Cha và các Giám Mục Chí Lợi, có 32 vị là Giám Mục đương chức và 2 vị đã về hưu. Các ngài đã được chính Đức Thánh Cha Phanxicô triệu tập vào tháng trước sau cuộc điều tra của Đức Tổng Giám Mục Scicluna và Đức Ông Bertomeu về tai tiếng lạm dụng tính dục tại Chí Lợi, dẫn đến một báo cáo dài 2,300 trang.
14. Đức Hồng Y Brandmüller nói những ai kêu gọi phong chức linh mục cho phụ nữ là “lạc giáo” và “tuyệt thông” với Giáo Hội
Những người thúc đẩy việc phong chức linh mục cho phụ nữ “có đủ các yếu tố của tội lạc giáo” và đương nhiên tuyệt thông với Giáo Hội, Đức Hồng Y Walter Brandmüller đã nói như trên khi bình luận về những nhận xét gần đây của một chính trị gia người Đức.
Đức Hồng Y Brandmüller, một trong bốn vị Hồng Y “dubia”, đã chỉ trích mạnh mẽ Annegret Kramp-Karrenbauer, Tổng thư ký Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Đức, sau khi bà này kêu gọi Giáo Hội Công Giáo phong chức linh mục cho phụ nữ.
Kramp-Karrenbauer, là người được coi là dẫn đầu trong danh sách các ứng viên thay thế cho thủ tướng Angela Merkel, đã nói trong một cuộc phỏng vấn với Die Zeit rằng: “Điều rất rõ ràng: phụ nữ phải nắm giữ các vị trí lãnh đạo trong Giáo hội.”
Bà nói thêm rằng bà muốn thấy có các nữ linh mục, nhưng hiện tại Giáo hội nên tập trung vào “mục tiêu thực tế hơn, là phong chức phó tế cho phụ nữ”.
Tuy nhiên, Đức Hồng Y Brandmüller cho biết ý tưởng phong chức thánh cho nữ giới đã bị Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II loại trừ một cách dứt khoát, và vì thế bất cứ ai khăng khăng thúc đẩy ý tưởng này đã “rời bỏ nền tảng của đức tin Công Giáo” và “có đủ các yếu tố lạc giáo, và hệ quả là, tuyệt thông với Giáo Hội”
Đức Hồng Y nói thêm rằng Giáo hội không phải là một “tổ chức trần thế”, nhưng sống theo “các hình thức, cấu trúc và luật lệ được trao ban cho mình bởi người Sáng lập Chí thánh mà không ai có quyền lực để thay đổi – cả các giáo hoàng lẫn các công đồng cũng không thể thay đổi.”
Đức Hồng Y nhận xét rằng thật “đáng kinh ngạc” khi thấy tại Đức người ta vẫn cứ nằng nặc tranh cãi về các chủ đề nhất định “luôn luôn giống nhau: nữ linh mục, tình trạng độc thân cuả các linh mục, cho người Tin Lành được rước lễ, cho người ly dị và tái hôn được rước lễ. Mới gần đây lại có thêm chuyện ‘đồng ý’ với cái gọi là hôn nhân đồng tính”
Mới đây, Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier cũng tham gia vào cuộc tranh luận về giáo lý, kêu gọi Giáo Hội Công Giáo “chia sẻ” việc rước lễ với người Tin Lành.
15. Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin khẳng định Giáo Hội không thể phong chức linh mục cho phụ nữ. Đó là chung cuộc, miễn bàn cãi.
Chỉ có người nam mới có thể được lãnh nhận chức tư tế là một sự thật, và là một phần của đức tin Công Giáo và điều này sẽ không bao giờ có thể thay đổi được, Đức Hồng Y tân cử Luis Ladaria, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin, đã khẳng định như trên.
“Ngày càng có những mối lo nghiêm trọng khi chứng kiến ở một số nước vẫn có những tiếng nói nghi ngờ bản chất chung cuộc của giáo huấn này”, Đức Hồng Y viết như trên hôm 29 tháng 5 trên tờ Quan Sát Viên Rôma.
Thánh Gioan Phaolô II, khi xác nhận giáo huấn và thực hành liên tục của Giáo Hội, đã chính thức tuyên bố vào năm 1994 rằng “Giáo Hội không có thẩm quyền để phong chức linh mục cho phụ nữ và phán quyết này được tất cả tín hữu của Giáo Hội tuân giữ một cách chung cuộc.”
Đức Hồng Y Ladaria cho biết một số người tiếp tục đặt vấn đề về tính bất khả ngộ trong lời tuyên bố của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được nêu trong tài liệu “Ordatio Sacerdotalis” vì “văn kiện này không được xác định là ‘ex cathedra “ nghĩa là chưa chính thức, và long trọng tuyên bố là không thể sai lầm được. Lập luận này nói rằng “một quyết định sau đó của một giáo hoàng hoặc một công đồng trong tương lai có thể phủ nhận văn kiện đó.”
Nhưng, Đức Hồng Y tân cử cảnh cáo rằng: “gieo những nghi ngờ này là tạo ra sự nhầm lẫn nghiêm trọng giữa các tín hữu không chỉ về bí tích truyền chức thánh như một phần của hiến chế thánh thiện của Giáo Hội, nhưng còn làm cho người ta hoang mang về cách thức mà các thẩm quyền huấn giáo có thể dạy các giáo huấn Công Giáo một cách không thể sai lầm được.”
Đức Tân Hồng Y giải thích như sau:
Giáo huấn của Giáo Hội không thể sai lầm khi được tuyên bố long trọng bởi một công đồng hay bởi một giáo hoàng khi tuyên bố “ex cathedra”. Đó là trường hợp của các học thuyết mới. Một giáo huấn cũng được công nhận là không thể sai lầm khi đã từng được “thẩm quyền giáo huấn địa phương và hoàn vũ của các giám mục loan truyền khắp thế giới, trong sự hiệp thông giữa các ngài với nhau và với Đức Giáo Hoàng, các giáo huấn Công Giáo được công bố như thế được tuân giữ một cách chung cuộc.”
Đó là những gì Thánh Giáo Hoàng đã làm, Đức Hồng Y Ladaria viết. “Ngài không tuyên bố giáo điều mới, nhưng với thẩm quyền ban cho ngài trong tư cách là người kế nhiệm của Thánh Phêrô, ngài chính thức xác nhận và xác quyết rõ ràng – để đánh tan bất kỳ nghi ngờ nào – về điều mà thẩm quyền giáo huấn địa phương và hoàn vũ của các giám mục đã coi là thuộc về kho tàng đức tin trong suốt lịch sử của Giáo Hội.”
“Chúa Kitô đã có ý ban bí tích này cho 12 Tông Đồ – tất cả đều là nam giới – là những vị đến lượt mình truyền lại cho những người nam khác. Giáo hội luôn thấy mình phải ràng buộc với quyết định này của Chúa, trong đó loại trừ khả năng chức tư tế có thể được ban một cách hợp lệ cho phụ nữ.”
Đức Hồng Y Ladaria nhấn mạnh rằng để đáp lại những câu hỏi liên quan đến chủ đề này Bộ Giáo Lý Đức Tin “đã liên tục lặp lại rằng đây là một sự thật thuộc về kho tàng đức tin.”
Ứng viên cho chức tư tế phải là một người nam. Điều này thuộc về “bản chất của bí tích này” và không thể thay đổi vì bí tích truyền chức thánh được thiết định bởi chính Chúa Kitô.
Sự kiện phụ nữ không thể được thụ phong linh mục, không ngụ ý “tùng phục, nhưng nên hiểu là một sự phong phú hóa lẫn nhau.”
Vai trò cao quý của Đức Maria trong Giáo Hội, mặc dù Mẹ không phải là một trong 12 tông đồ, cho thấy tầm quan trọng của cả nữ tính lẫn nam tính trong Giáo Hội. Một thách thức đối với văn hóa hiện đại là phải “cố gắng hiểu được ý nghĩa và sự tốt lành trong sự khác biệt giữa nam và nữ.”
Đức Hồng Y Ladaria ghi nhận rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đã tái khẳng định giáo huấn theo đó chức tư tế chỉ dành cho người nam.
Trong tông huấn “Niềm vui của Phúc Âm” được công bố vào năm 2013, Đức Thánh Cha viết: “Việc dành riêng chức tư tế cho nam giới, như một dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Kitô, Đấng đã tự hiến trong bí tích Thánh Thể, không phải là một vấn đề mở ngỏ cho các cuộc thảo luận.”
Và, khi trả lời câu hỏi của một phóng viên trong chuyến đi Thụy Điển vào năm 2016, Đức Thánh Cha đã nói: “Về khả thể phong chức cho phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo, lời cuối cùng, rõ ràng đã được đưa ra bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và điều này vẫn còn hiệu lực.”
16. Đức Thánh Cha cử thanh tra tông toà đến Medjugorje
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm một vị thanh tra tông tòa tại Medjugorje, đó là vị tổng giám mục Ba Lan mà ban đầu đã được Đức Thánh Cha đã gửi đến thị trấn này với tư cách là đặc sứ của ngài để nghiên cứu các nhu cầu mục vụ của các tín hữu địa phương và hàng ngàn người hành hương đổ về nơi được cho là đã có những cuộc hiện ra của Đức Maria.
Đức Giáo Hoàng đã bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Henryk Hoser, vị tổng giám mục đã nghỉ hưu của Warsaw-Praga, Ba Lan, là thanh tra tông tòa đến Medjugorje, Bosnia-Herzegovina, trong một nhiệm kỳ vô hạn định. Tòa Thánh đã cho biết như trên hôm 31 tháng Năm.
Thông báo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh cho biết: “Sứ mạng của vị thanh tra tông tòa là nhằm mục đích đảm bảo một sự tháp tùng ổn định và liên tục cho cộng đồng giáo xứ Medjugorje và cho các tín hữu hành hương tại đó, là những người có những nhu cầu cần được chú ý đặc biệt”.
Ông Greg Burke, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, nói với các nhà báo rằng Đức Tổng Giám Mục Hoser “sẽ thường trú tại Medjugorje” và nhiệm vụ của ngài không liên quan đến việc điều tra tính xác thực của các cuộc hiện ra đã được báo cáo.
Sứ mệnh của Đức Tổng Giám Mục Hoser “thuần túy là mục vụ và không liên quan đến tín lý”, ông Burke nói.
Tháng 2 năm 2017, vị Tổng Giám Mục Ba Lan đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm đặc sứ của ngài để nghiên cứu tình hình mục vụ ở Medjugorje.
Tại một cuộc họp báo sau chuyến viếng thăm đầu tiên của mình, Đức Tổng Giám Mục Hoser nói rằng mặc dù ngài không có thẩm quyền hoặc chuyên môn để thảo luận về tính xác thực của các tuyên bố cho là Đức Mẹ đã hiện ra tại Medjugorje, ngài nhận thấy rõ ràng là “có bầu khí thiêng liêng đặc biệt” ở Medjugorje.
“Phép lạ lớn nhất của Medjugorje là việc xưng tội” của hàng trăm người mỗi ngày, Đức Tổng Giám Mục Hoser nói với các phóng viên vào tháng Tư năm 2017.
Năm 1981, sáu người trẻ tuyên bố rằng Đức Maria đã hiện ra với họ. Một số trong số sáu người nói rằng Đức Maria vẫn hiện ra với họ và đưa ra các sứ điệp mỗi ngày, trong khi những người khác nói rằng họ chỉ nhìn thấy Đức Mẹ mỗi năm một lần.
Đức Thánh Cha Phanxicô thừa nhận rằng những người hành hương đến Medjugorje xứng đáng được chăm sóc và hỗ trợ về tinh thần, nhưng ngài cũng bày tỏ nghi ngờ về những tuyên bố cho rằng Đức Maria vẫn hiện ra với các thị nhân và đưa ra các sứ điệp mỗi ngày.
17. Bắc Hàn từng mời Đức Gioan Phaolô II sang thăm, và làm nhà thờ giả để gạt Tòa Thánh
Một cuốn hồi ký của Thae Yong-ho, nhân vật số 2 tại Đại sứ quán Bắc Triều Tiên ở London và bây giờ là một nhà tranh đấu chống chế độ, đã bán được 50,000 bản chỉ trong 10 ngày.
Cuốn sách phơi bày những khía cạnh của chế độ mà Thae chứng kiến tận mắt, rất phong phú với những sự kiện bất ngờ về một chế độ kín như bưng mà người ta chỉ có thể đoán mò qua các giai thoại, tin đồn và những hình thái suy luận có lý.
Một khía cạnh thú vị là mối quan hệ của Bắc Triều Tiên với tôn giáo. Trong số những đề tài được Thae thuật lại, là câu chuyện Bắc Triều Tiên đã xây dựng một nhà thờ giả ở Bình Nhưỡng.
Năm 1991, cùng với sự sụp đổ của khối cộng sản tại Đông Âu, Bắc Triều Tiên rơi vào tình trạng kiệt quệ kinh tế đến mức nạn đói xảy ra ở nhiều nơi. Trong một cố gắng thoát khỏi sự cô lập quốc tế, Bắc Triều Tiên muốn mời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sang thăm nước này. Vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã từng thăm Nam Hàn đến 2 lần vào tháng 5, 1984 và tháng 10, 1989.
Khi Vatican yêu cầu Bắc Triều Tiên trưng ra bằng chứng về sự hiện của người Công Giáo, chế độ cộng sản này xây dựng cấp tốc một nhà thờ giả gọi là nhà thờ “chánh tòa Bình Nhưỡng”. Các hàng ghế trong nhà thờ đầy chật những người cộng sản cực đoan.
Thae thuật lại rằng theo thời gian, một số người đóng giả để quay phim đã thực sự bắt đầu tìm hiểu Kitô giáo.
Thae cho biết thêm: “Bắc Triều Tiên rất quyết liệt với tôn giáo. Ở các nước cộng sản châu Âu, nhà nước thắt chặt quyền tự do tôn giáo, nhưng họ không phá hủy các nhà thờ. Thậm chí có những nơi thờ phượng vẫn còn được hoạt động ít nhiều. Nhưng tại Bắc Triều Tiên, cộng sản đã phá hủy tất cả các nơi thờ phượng và đổ thừa cho máy bay ném bom của Mỹ. Các nhà lãnh đạo từ Kim Nhật Thành trở xuống đều muốn người ta đừng tôn thờ thần nào khác ngoài những vị thần là Kim Nhật Thành và con cháu của hắn. Hiến pháp bảo đảm quyền tự do tôn giáo, nhưng Đảng Công nhân nói rằng chỉ có giáo lý của các lãnh tụ nhà họ Kim mới là những lời hướng dẫn thực sự.”
Chính vì thế, khi muốn chứng minh với Tòa Thánh sự hiện hữu của người Công Giáo, họ phải cấp tốc làm nhà thờ giả.
Tuy nhiên, có lẽ các thủ thuật này không qua mặt được vị Giáo Hoàng Ba Lan là người đã từng phải sống trong một chế độ cộng sản. Một chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng đã không xảy ra.
Các quan sát viên quốc tế cho rằng cái khó khăn lớn nhất của Kim Jong Un hiện nay là tình trạng kinh tế kiệt quệ vì bị cô lập, và nỗi lo sợ bị Trung Quốc lật đổ nhằm có một ảnh hưởng sâu đậm hơn tại Bắc Triều Tiên. Chính vì thế, trong năm 2017, Kim Jong Un lời qua tiếng lại với tổng thống Mỹ Donald Trump, kể cả với những đe dọa chiến tranh hạt nhân. Tất cả các động thái này đều nhằm kích thích mong muốn thương thảo của đối phương, và tối hậu là thoát ra được tình trạng cô lập như hiện nay.
18. Công Giáo Bồ Đào Nha thở phào nhẹ nhõm: Quốc Hội bác bỏ tất cả 4 dự luật đòi hợp pháp hoá trợ tử
Quốc Hội Bồ Đào Nha đã bác bỏ việc hợp pháp hoá trợ tử trong một cuộc bỏ phiếu căng thẳng vào tối thứ Ba 29 tháng 5.
Bốn dự luật đã được đề xuất nhằm hợp pháp hoá an tử và trợ tử, do Đảng Con người -Súc vật -Thiên nhiên, Đảng Xanh, Khối Tả phái và Đảng Xã hội đang cầm quyền đưa ra.
Một tuần trước khi cuộc bỏ phiếu tại Quốc Hội diễn ra, các nhà vận động ủng hộ việc hợp pháp hoá trợ tử xem ra thắng thế, nhưng đảng Cộng sản đã gây ngạc nhiên cho nhiều người khi tuyên bố sẽ biểu quyết chống lại các dự luật này.
Bốn dự luật đã bị bác bỏ khi đảng Bình dân, đảng Cộng sản, và đa số các thành viên trong đảng Dân chủ xã hội cùng bỏ phiếu chống. Một số thành viên trong đảng Xã hội đang cầm quyền cũng bỏ phiếu chống, hoặc bỏ phiếu trắng.
Đức Hồng Y Manuel Clemente, Thượng Phụ Lisbon, hoan nghênh quyết định này và nói rằng việc bác bỏ việc hợp pháp hoá trợ tử này nên được tiến xa hơn với các đầu tư lớn hơn trong việc chăm sóc y tế cuối đời. Trong hai năm qua, dịch vụ y tế quốc gia chỉ mở ra 14 giường cho bệnh nhân cần chăm sóc về cuối đời, và mạng lưới quốc gia chăm sóc cho người già còn quá nghèo nàn.
Theo Đức Thượng Phụ, “dự án vĩ đại trước mắt chúng ta là hoạt động cho phẩm giá con người trong suốt các giai đoạn tồn tại của cuộc sống, nhất là cho những người đang ở trong một tình huống bấp bênh hơn, hoặc cần đến sự đồng hành của chúng ta, như một xã hội và như một nhà nước” .
Đức Hồng Y tân cử António Marto, Giám mục của giáo phận Leiria-Fátimanói “Quốc hội đã thể hiện lẽ phải và quyết định theo niềm tin của đa số dân chúng về một vấn đề ‘quá tinh tế và phức tạp đến mức vượt xa ý thức hệ đảng phái’”.
Các giám mục và nhiều nhân vật trong Giáo Hội đã không ngừng lên tiếng về chủ đề này trong nhiều tuần và vài tháng trước cuộc bỏ phiếu. Các ngài cũng được nhiều người trong xã hội tham gia, bao gồm cả chủ tịch hiện nay của hiệp hội bác sĩ cũng như tất cả những người tiền nhiệm còn sống của ông. Hội đồng Đạo đức Quốc gia cũng đã lên tiếng chống lại việc hợp pháp hoá trợ tử.
19. Các “giám mục” Hoa Lục thông qua kế hoạch 5 năm “Trung Quốc hoá” Giáo Hội Công Giáo
Hiệp hội Công Giáo yêu nước Trung Quốc và cái gọi là Hội đồng Giám mục Trung Quốc đã phát động “Kế hoạch ngũ niên Trung Quốc hoá Giáo Hội Công Giáo tại Trung Hoa”. Kế hoạch đã được chấp thuận thông qua một cuộc biểu quyết giơ tay trong cuộc họp phối hợp lần thứ tư của hai tổ chức này, được tổ chức vào tuần trước. Cho đến nay, cả hai tổ chức này đều không được Toà Thánh công nhận.
Trong bài phát biểu của mình, Yu Bo, vụ phó tôn giáo vụ nhà nước Trung Quốc, giải thích rằng “Cuộc họp chung lần thứ 4 này là nhằm thực hiện sâu xa hơn tinh thần của Đại hội Đảng Cộng sản Toàn quốc lần thứ 19 diễn ra hồi tháng 10/2017 và tinh thần của Hội nghị toàn quốc về công tác tôn giáo vào tháng 4 năm 2016, trong đó tập trung vào việc hình thành một kế hoạch ngũ niên nhằm Trung Quốc hoá Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa”.
Trung Quốc hoá các tôn giáo và đặc biệt là Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa là một chủ đề liên tục kể từ năm 2015, khi Đại đế Tập Cận Bình chủ trì một cuộc họp của Mặt trận Tổ quốc (tức là cơ quan giám sát tất cả các thực thể không trực tiếp mang danh cộng sản của Trung Quốc).
Các mục tiêu cụ thể trong kế hoạch Trung Quốc hoá các tôn giáo bao gồm ba điểm sau, gọi là ba tự cường:
a) Thứ nhất là tăng cường đồng hóa văn hóa Trung Quốc vào các biểu hiện tôn giáo, loại bỏ các “ảnh hưởng từ nước ngoài”.
b) Thứ hai là “sự độc lập khỏi ảnh hưởng của nước ngoài”. Đối với Công Giáo điều này có nghĩa là tiến đến việc tấn phong Giám Mục mà không cần sự chuẩn y của Tòa Thánh.
c) Thứ ba là trung thành và tuân theo các chỉ dẫn của Đảng bởi vì Đảng có chức trách “hướng dẫn” các tôn giáo và phải “giữ vững vai trò lãnh đạo trong tất cả các hoạt động tôn giáo”.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ South China Morning Post vào ngày 18 tháng Năm, Đức Tổng Giám Mục Gioan Hùng Sơn Xuyên, Tổng Giám mục Đài Bắc, nói rằng trong một cuộc gặp gỡ với ngài, Đức Thánh Cha Phanxicô cả quyết với ngài rằng Tòa Thánh sẽ không thỏa hiệp đối với các nguyên tắc Công Giáo trong các cuộc đàm phán và rằng quyền bổ nhiệm các giám mục chắc chắn vẫn phải còn trong tay của Đức Giáo Hoàng.
Kế hoạch “Trung Quốc hóa” cũng liên quan đến các hệ phái Tin Lành và đã được thông qua vào tháng Tư năm ngoái. Nhiều tin đồn lan truyền rằng Đảng Cộng sản đang muốn “viết lại Kinh Thánh”.
Theo các học giả Tin Lành, ý tưởng này là tào lao, nhưng các Kitô hữu nên chú ý đến những nỗ lực của Trung Quốc nhằm diễn dịch lại Kinh Thánh, như đã từng xảy ra trong quá khứ khi cán bộ cộng sản, và cả các chức sắc tôn giáo bị cộng sản mua chuộc cố gắng diễn dịch lại thông điệp Tin Mừng qua lăng kính của các tư tưởng cộng sản.
20. Khuynh hướng tôn giáo đầy bi quan của giới trẻ Âu Châu
Dựa trên khảo sát xã hội tại châu Âu, Stephen Bullivant vừa công bố một báo cáo ngắn gọn có tựa đề “Thanh niên châu Âu và Tôn Giáo”, để hỗ trợ cho các cuộc thảo luận của Thượng Hội Đồng Giám Mục về thanh niên vào tháng Mười tới đây.
Báo cáo này trình bày khuynh hướng tôn giáo của thanh niên trong độ tuổi từ 16 đến 29. Việc tham dự các việc thờ phượng và các hoạt động tôn giáo ở hầu hết các quốc gia châu Âu được ghi nhấp là rất thấp.
Tại Cộng hòa Tiệp, 91 phần trăm thanh niên tuyên bố không theo bất cứ tôn giáo cụ thể nào, 80 phần trăm chưa bao giờ cầu nguyện một lần nào trong đời, và 70 phần trăm chưa bao giờ tham dự bất kỳ nghi lễ tôn giáo.
Cộng hòa Tiệp có thể là một trường hợp cực đoan, nhưng các con số thống kê rất thấp cũng được tìm thấy tại Anh, Hà Lan, và Thụy Điển.
Tại Anh, nơi Anh Giáo được xem là quốc giáo, chỉ có 7 phần trăm số người được hỏi tự nhận mình là tín hữu Anh giáo, so với 10 phần trăm xác định mình là người Công Giáo và 6% nói mình là người Hồi giáo.
Những người thuộc vào loại “Không bao giờ cầu nguyện” là một con số nổi bật. Dân số “Không bao giờ cầu nguyện” bao gồm một đa số đáng kể các thanh niên ở Pháp, Tây Ban Nha, Bỉ, và Hung Gia Lợi.
Tuy nhiên, các con số thống kế của Bullivant cũng không hoàn toàn là bi quan. Ông nhận thấy niềm tin Kitô giáo và việc thực hành tôn giáo vẫn phát triển mạnh ở các nước như Ba Lan, Lithuania , Ái Nhĩ Lan và Bồ Đào Nha — nhưng xu hướng vô thần xem ra là hiển nhiên.
Bullivant nhận xét rằng “Kitô giáo như một mặc định, như một chuẩn mực, đã biến mất, và có lẽ sẽ biến mất luôn ít nhất là trong một trăm năm tiếp theo ….Mặc định mới nhất trong xã hội châu Âu sẽ là không có tôn giáo,và các tín hữu sẽ thấy mình bơi ngược dòng”
21. Tân thủ tướng Tây Ban Nha là một thách đố cam go cho Giáo Hội Công Giáo
Những ngày tháng êm đềm dưới thời thủ tướng Mariano Rajoy đã trôi qua. Thời kỳ 6 năm này không chỉ được đánh dấu bởi sự chấm dứt những tấn kích vào các học thuyết xã hội Công Giáo dữ dội như thời gian dưới thời thủ tướng cánh tả José Luis Rodríguez Zapatero của đảng Công nhân Xã hội; mà còn được ghi dấu bởi những kỷ niệm đẹp.
Một trong những kỷ niệm đẹp chưa phai mờ trong tâm trí những người Công Giáo theo dõi sát thời cuộc là thông cáo hôm 27 tháng Ba, 2018 của bà Maria Dolores Cospedal, Bộ Trưởng Quốc Phòng Tây Ban Nha ra lệnh cho tất cả các cơ quan của Bộ Quốc phòng nước này, các doanh trại quân đội và các cơ sở khác của lực lượng vũ trang tại quốc nội và hải ngoại treo cờ rũ trong Tuần Thánh để tưởng niệm Chúa chịu chết.
Điều vô cùng không may là vào ngày 24 tháng 5 vừa qua, các quan tòa tại Tòa Thượng Thẩm và Ngoại Thường Tây Ban Nha đưa ra phán quyết hàng chục thành viên trong đảng Nhân Dân của thủ tướng Mariano Rajoy dính líu vào vụ tham ô tài chính lớn nhất trong lịch sử Tây Ban Nha hiện đại với số tiền lên đến 120 triệu Euro. Thương gia Francisco Correa Sánchez đã hối lộ cho các quan chức trong đảng cầm quyền để có được những hợp đồng béo bở và được trốn thuế.
Ngày 31 tháng 5, Pedro Sánchez chủ tịch đảng Công nhân Xã hội, đưa ra tuyên bố bất tín nhiệm đảng cầm quyền. Một ngày sau, hôm 1 tháng Sáu, vua Felipe bổ nhiệm ông này làm thủ tướng thay thế cho thủ tướng Mariano Rajoy.
Ngày 2 tháng Sáu, Pedro Sánchez, một người tự hào mình là người vô thần, tuyên thệ trước mặt nhà vua. Ông ta yêu cầu dẹp bỏ Thánh Giá và Thánh Kinh trên bàn. Pedro Sánchez là thủ tướng đầu tiên trong lịch sử của Tây Ban Nha hiện đại đã tuyên thệ không có Thánh Kinh hay Thánh Giá.
Thấy trước những ngày tháng đen tối trước mắt không một Giám Mục nào trong tất cả 70 giáo phận và tổng giáo phận của Tây Ban Nha đưa ra một lời chúc mừng cá nhân đến tân thủ tướng như vẫn thường xảy ra.
Tuyên bố duy nhất và ngắn ngủi đến từ Đức Hồng Y Ricardo Blázquez của Valladolid, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Tây Ban Nha, chúc mừng Sánchez nhân danh chung các Giám Mục và bảo đảm với ông lời cầu nguyện “Xin Thiên Chúa ban cho ông ánh sáng và sức mạnh để phục vụ cho sự thịnh vượng chung, đoàn kết, thịnh vượng và gắn kết xã hội của đất nước chúng ta.”
Những bóng mây u ám dưới thời thủ tướng José Luis Rodríguez Zapatero của đảng Công nhân Xã hội đang lũ lượt kéo về.
22. Các Giám Mục Ý bỏ phiếu sửa lại bản dịch Kinh Lạy Cha
Các Giám Mục Ý đã thông qua một bản dịch mới những lời cầu nguyện trong thánh lễ, bao gồm những sửa đổi trong Kinh Vinh Danh và Kinh Lạy Cha. Các ngài cũng thông qua quyết định hình thành một văn phòng quốc gia dành riêng cho việc giúp các giáo phận trong việc bảo vệ trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương.
Phiên họp khoáng đại của Hội Đồng Giám Mục Ý đã diễn ra từ 12 đến 15 tháng 11 tại phòng họp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới của Vatican. Các Giám Mục Ý đã phê chuẩn bản dịch của ấn bản thứ ba sách lễ Rôma, là sách lễ được sử dụng trong các Thánh Lễ, trong đó bao gồm những thay đổi đối với văn bản của Kinh Lạy Cha và Kinh Vinh Danh.
Bản dịch cũ của Kinh Lạy Cha kết thúc với lời cầu “non ci indurre in tentazione” (“xin đừng dẫn đưa chúng con vào chước cám dỗ”) nay được đổi lại “non abbandonarci alla tentazione” (“xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”)
Năm 2002, các Giám Mục Ý đã phê chuẩn cách dịch “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” khi các ngài phê duyệt bản dịch Kinh Thánh được đọc trong Phụng Vụ.
Bản dịch cũ của Kinh Vinh Danh bắt đầu với câu “Gloria a Dio nell’alto dei cieli e pace in terra agli uomini di buona volontà.” (“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người thiện tâm”) , được sửa thành “Gloria a Dio nell’alto dei cieli e pace in terra agli uomini amati dal Signore.” (“Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời và bình an dưới thế cho người Chúa thương”).
Bản dịch mới sang tiếng Ý của sách lễ Rôma còn phải được Vatican chấp thuận.
Các giám mục cũng đã phê duyệt hai đề xuất được thực hiện bởi ủy ban bảo vệ trẻ vị thành niên và người lớn dễ bị tổn thương.
Đề xuất thứ nhất là hình thành tại Hội Đồng Giám Mục Ý một văn phòng “dịch vụ quốc gia” dành riêng cho việc bảo vệ. Văn phòng sẽ có các đạo luật, tiêu chuẩn và ban thư ký thường trực là anh chị em giáo dân, các linh mục, tu sĩ và các chuyên gia nhằm giúp các giám mục trên toàn quốc.
Đề xuất thứ hai là chọn từ mỗi giáo phận một hay nhiều đại diện tham dự các khóa học được tổ chức ở các miền với sự giúp đỡ của Trung Tâm Bảo Vệ Trẻ Em của Đại Học Giáo Hoàng Grêgôriô.
23. Venice được chiếu sáng bằng ánh đèn đỏ để nêu bật tình cảnh bị bách hại của các tín hữu Kitô
Để bày tỏ tình đoàn kết với các Kitô hữu bị bách hại, trong đó có Asia Bibi, một phụ nữ Pakistan gần đây đã được tha bổng sau 8 năm tù oan vì bị vu cáo tội báng bổ Mumhammad, thành phố Venice đã được chiếu sáng bằng ánh sáng đỏ trong đêm thứ Ba 20 tháng 11.
Trong một thông điệp ủng hộ sáng kiến này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói sự kiện “sẽ thu hút sự chú ý của tất cả mọi người đến vấn đề nghiêm trọng về sự phân biệt đối xử mà các Kitô hữu phải chịu đựng ở nhiều nơi trên thế giới.”
“Có những quốc gia nơi một tôn giáo được áp đặt, ở những nơi đó, các môn đệ của Chúa Giêsu phải chịu một sự đàn áp bạo lực hoặc chế giễu văn hóa có hệ thống”, ngài nói.
Bắt đầu từ tối ngày 20 tháng 11, tám tòa nhà lịch sử của Venice, cũng như Cầu Rialto và Nhà thờ Santa Maria della Salute, được thắp sáng bằng ánh đèn màu đỏ để thu hút sự chú ý của công luận về hoàn cảnh bi thảm của các Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới.
Tối 20/11, những người trẻ tại Tổng Giáo Phận Venice đã thực hiện một cuộc hành hương đi bộ qua thành phố để cầu nguyện cho các Kitô hữu bị bách hại.
Sự kiện này, được tài trợ bởi tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, sau một sáng kiến tương tự vào tháng Hai, tại Đấu trường Côlôsêô ở Rôma.
Vào năm 2017, tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ cũng vận động thành công việc chiếu sáng bằng đèn đỏ tại tòa nhà Quốc hội Anh ở Luân Đôn, Nhà thờ Thánh Tâm ở Paris và nhà thờ chính tòa Manila, Phi Luật Tân. Năm trước nữa, Đài phun nước Trevi nổi tiếng ở Rôma cũng đã được thắp sáng bằng đèn đỏ.
Từ ngày 21 đến 28 tháng 11 năm nay, các địa danh chính khác ở các thành phố Montreal, Toronto, Paris, Barcelona, London, Sydney và Washington, DC cũng sẽ được chiếu sáng màu đỏ trong một vài buổi tối.
Sáng kiến năm nay, được tổ chức với sự kết hợp của thành phố Venice và Đức Thượng Phụ Francesco Moraglia của Venice, nhằm thu hút sự chú ý một cách đặc biệt vào tình cảnh của chị Asia Bibi người Pakistan.
Năm 2009, Bibi bị buộc tội đưa ra những nhận xét phỉ báng tiên tri Hồi giáo Muhammad sau một cuộc tranh luận bắt nguồn từ một ly nước. Bibi đang thu hoạch quả dâu với các công nhân nông trại khác khi được yêu cầu đi lấy nước từ giếng.
Một người nhìn thấy cô uống nước từ một cái ly mà trước đó đã được những người Hồi giáo sử dụng. Người ấy nói với Bibi rằng một Kitô hữu không thể sử dụng chung một ly nước với người Hồi Giáo, vì Kitô hữu là người ô uế. Một cuộc cãi vã xảy ra sau đó, và năm ngày sau đó người ta báo cáo với một giáo sĩ Hồi giáo rằng Bibi đã phỉ báng Muhammad. Bibi và gia đình cô là những Kitô hữu duy nhất trong khu vực, và đã phải đối mặt với những áp lực buộc cải đạo sang Hồi giáo.
Cô bị kết tội phạm tội phạm thượng vào năm 2010, và bị kết án tử hình bằng cách treo cổ. Cô kháng cáo ngay lập tức. Tòa án Tối cao Lahore đã y án vào năm 2014, sau đó cô đã kháng cáo lên Tòa án Tối cao của Pakistan. Tòa án tối cao đã đồng ý nghe kháng cáo của cô vào năm 2015 nhưng khất lần hẹn nữa cho đến nay mới xử.
Kể từ khi bị bắt giữ, Bibi đã nhận được sự hỗ trợ từ nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới kêu gọi trả tự do ngay lập tức cho cô, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 và Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vào năm 2015, Đức Phanxicô đã tiếp chồng và con gái cô và cầu nguyện cho cô.
Từ ngày 31 tháng 10, sau khi Tối Cao Pháp Viện Pakistan tuyên bố tha bổng cho Asia Bibi, đến nay, những người cuồng tín với gậy gộc, dao và mã tấu trong tay lang thang khắp các đường đường phố. Họ đốt xe hơi, phá phách tài sản công cộng và đánh đấm túi bụi các công dân bình thường, trong khi gào lên “Bàn giao ngay tên báng bổ Asia Bibi cho chúng tôi.”
24. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang reo rắc lòng thù hận các tín hữu Kitô tại nhiều nơi trên thế giới
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan phải chịu trách nhiệm cho sự gia tăng bạo lực và những mối đe dọa khác chống lại các nhóm tôn giáo thiểu số – và phương Tây vẫn đang thất bại không chuyển dịch được những lời lo ngại của họ thành những hành động cụ thể. Tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ đã cho biết như trên trong báo cáo mới nhất được công bố hôm 21 tháng 11.
Đánh giá tất cả 196 quốc gia trên toàn cầu, Báo cáo Tự do Tôn giáo Thế giới năm 2018 đã kết luận rằng “chủ nghĩa dân tộc cực đoan” bởi cả chính phủ lẫn các tổ chức phi chính phủ đã không ngừng gieo rắc sự thù hận chống lại các các nhóm tôn giáo thiểu số ở các nước bao gồm cả các cường quốc hàng đầu trong khu vực như Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan và Miến Điện.
Báo cáo, được công bố hai năm một lần, phát hiện rằng nạn “mù chữ tôn giáo”, thể hiện cả trong giới truyền thông; và sự thiếu ý chí hành động chính trị ở phương Tây đã làm trầm trọng thêm vấn đề. Hậu quả là nhiều nhóm tôn giáo thiểu số đang phải chịu đựng những bách hại nghiêm trọng trước một “bức màn thờ ơ” của thế giới.
Báo cáo cho biết: “Hầu hết các chính phủ phương Tây đã thất bại trong việc cung cấp những hỗ trợ khẩn cấp cần thiết cho các nhóm tôn giáo thiểu số, đặc biệt là các cộng đồng di tản vì bị bách hại đức tin đang muốn trở về cố hương”.
Báo cáo nhấn mạnh rằng hầu hết các chính phủ đã thất bại trong việc cung cấp cho các nhóm tôn giáo thiểu số tị nạn vì bị bách hại đức tin sự giúp đỡ mà chính những người tị nạn này đã yêu cầu, để họ có thể trở về miền bắc Iraq và những nơi khác sau khi bọn khủng bố Hồi Giáo IS và các nhóm dân quân khác bị đánh bật ra khỏi quê hương của họ.
Cuộc điều tra của tổ chức bác ái Công Giáo Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ phát hiện rằng truyền thông về Hồi giáo đã tập trung hoàn toàn vào cuộc chiến chống lại bọn khủng bố Hồi Giáo IS và các nhóm liên kết với chúng trong khi bỏ qua không đề cập đến sự lan truyền không ngừng của các trào lưu Hồi giáo cực đoan trong các miền của Phi Châu, Trung Đông và Á Châu.
Báo cáo của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ nhận định rằng động lực chính đằng sau sự tăng trưởng của Hồi Giáo cực đoan là cuộc đụng độ ngày càng tăng và ngày càng quyết liệt giữa hai nhánh Hồi Giáo Sunni và Shiite /ʃiːaɪt/.
Báo cáo cho biết trong giai đoạn 25 tháng vừa qua, tình hình của các nhóm tôn giáo thiểu số đã bi đát hơn ở 18 trong tổng số 38 quốc gia được xếp loại là có những vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo.
Sự bất khoan dung đang xấu đi đối với các nhóm tôn giáo thiểu số. Thật vậy, lần đầu tiên trong lịch sử 19 năm của báo cáo này, hai quốc gia mới là Nga và Kyrgyzstan đã được đặt trong danh mục các quốc gia “phân biệt đối xử”.
Báo cáo nói thêm rằng trong một số trường hợp, chẳng hạn như tại Saudi Arabia và Bắc Triều Tiên, tình hình đã quá tồi tệ đến mức tột đỉnh.
Báo cáo cũng nhấn mạnh sự gia tăng các cuộc tấn công cực đoan của các chiến binh Hồi Giáo cực đoan chống lại các mục tiêu ở phương Tây. Theo nhận định của tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ sự nguy hiểm từ những kẻ khủng bố như vậy là “hoàn vũ, sắp xảy ra và thời sự hơn bao giờ”.
Báo cáo Tự do Tôn giáo Thế giới năm 2018 cũng nhấn mạnh sự tăng trưởng của chủ nghĩa bài Hồi giáo và bài Do Thái Giáo ở phương Tây.
Tóm tắt những phát hiện chính của báo cáo, John Pontifex, tổng biên tập, cho biết: “Chủ nghĩa dân tộc cực đoan – bởi các chính phủ độc tài hoặc các nhóm cực đoan bạo lực – có nghĩa là nhiều nhóm tôn giáo thiểu số cảm thấy như họ là những người ngoài hành tinh ở đất nước của chính họ. Họ là những mục tiêu dễ dàng trong một kỷ nguyên mới của sự thiếu hiểu biết và không khoan dung.”
“Đúng vậy, có một số dân tộc như những người Hồi giáo Rohingya, mà hoàn cảnh của họ đã nhận được sự chú ý ở phương Tây, nhưng rất nhiều người khác – chẳng hạn như Kitô hữu ở Nigeria, người Hồi Giáo Ahmadis ở Pakistan và người theo đạo Baha’is ở Iran – cảm thấy bị bỏ rơi bởi phương Tây, nơi tự do tôn giáo đã trượt xuống rất xa trong bảng xếp hạng các nhân quyền quan yếu.”