Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
Năm 2022
NL: TÔI MUỐN HÁT
ĐC: NGÀY LẠI NGÀY
DL: CON XIN TIẾN DÂNG
HL: ĐIỀU RĂN MỚI
KL: SẮC HOA DÂNG MẸ
Năm 2019
NL: NHỮNG KẺ TÌM CHÚA
ĐC: NGÀY LẠI NGÀY
HALL: Chúa phán: “Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.”
DL: CON MUỐN DÂNG
HL: HƯỚNG ĐẾN THA NHÂN
KL: SẮC HOA DÂNG MẸ
Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35
31 Khi Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giê-su nói : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
33a “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.”
1. Văn minh tình thương – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
3. Hãy yêu như chính Thầy – Jos.Vinc. Ngọc Biển
5. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
1. Văn minh tình thương – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Hỡi các con bé nhỏ, Ta chỉ còn ở với các ngươi một ít nữa… Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu thương nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau”(Ga 13:33a-35).
Một câu nhắn nhủ biến thành một lệnh truyền, với bốn lần tiếng gọi yêu thương được nhắc đến, phải là một tâm tình quan yếu được ôm ấp qua bao tháng năm, nay được thổ lộ vì e rằng ngày giờ đã tận.
Một linh mục nhận xét: những gì được trăn trối trong giây phút cuối đời là những tâm tư sâu kín, tha thiết, và chân thành nhất của một con người. Những đứa con thảo hiếu, những môn đệ trung tín, hay các bạn bè tâm giao, không thể không ghi lòng và thi hành những lời nói sau cùng của người thân yêu sắp ra đi.
Đức Giêsu, trước tử nạn, ngay trong buổi biệt ly, đã thố lộ với các môn đệ nỗi niềm sâu kín nhất mà Ngài đã dành trót cuộc đời để phát hoạ và dẫn lối con người: Hãy yêu thương nhau.
Yêu thương chính là dấu chỉ thuộc về Đức Kitô. Mỗi tôn giáo đều có một số hình ảnh tiêu biểu giúp nhận diện tôn giáo mình. Ví dụ, với người Hồi giáo là việc cầu nguyện năm lần mỗi ngày. Với người Ấn giáo là hãm mình phạt xác và kiêng thịt bò. Với anh em Phật giáo có thể là diệt dục hay chay trường. Nhưng riêng những người tin Chúa Kitô, dấu tỏ mình theo Ngài phải là dấu yêu thương.
Yêu thương chính là Đạo Giêsu. Người có Đạo phải là người biết yêu thương. Ai sống yêu thương là đang bước đi trên lối đường của Đạo. Khi chân thành thực thi bác ái, người có Đạo phô diễn rõ nét chân dung vị Sư Phụ của mình: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (Ga 13:35).
Nhưng lòng yêu mến đó không chỉ dừng lại trên căn bản của cảm xúc, đam mê, hay ích lợi riêng tư. Vì yêu như thế chỉ là yêu như tôi muốn chứ không phải yêu như Chúa muốn. Điều mà Đức Giêsu trăn trối trong bữa tiệc ly là hãy yêu nhau như Ngài đã yêu thương. Yêu đến hy sinh, phục vụ, và quảng đại thứ tha như Ngài đã làm gương.
Kể là chuyện bất thường khi đường đường là một bậc thầy mà lại quì xuống rửa chân cho môn đệ. Đây hẳn là một hành động quên mình phục vụ tha nhân. Đức Giêsu muốn dùng chính hành động này để dạy bảo: “Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13:34). Thế ra quên mình phục vụ tha nhân là dấu chỉ của tình yêu mà Đức Kitô mong muốn.
Yêu như Đức Kitô đã yêu còn là việc hy sinh tự hiến. William Barclay đã diễn tả trong một bài viết: “Nếu tình yêu là Thập giá thì Chúa Giêsu cũng sẵn sàng tiến tới đó. Lắm khi người ta lầm tưởng tình yêu là những thứ gì hạnh phúc. Phải, đích cùng sẽ là thế. Nhưng tình yêu cũng thường mang lại đau thương và đòi hỏi khổ giá”. Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu tiến lên khổ giá để mang lại hạnh phúc và sự sống cho con người.
Yêu như Đức Kitô đã yêu cũng còn đòi hỏi một tấm lòng quảng đại tha thứ. Từ trên thập giá, trong nỗi đau đớn tận cùng, trước bao tiếng la hét cuồng dại, cứ tưởng Đức Giêsu sẽ căm giận và ngăm đe một hình phạt tàn khốc. Thế nhưng người ta lại chỉ nghe được lời khẩn nài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34). Lại nữa, với những môn đệ đã từng bỏ rơi hay chối từ Ngài trong lúc cần kíp, Ngài cũng không chấp nhất. Đúng là không có lầm lỗi nào mà tình yêu của Đức Kitô không vươn tới và bao trùm.
Như vậy, để trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi phải thường xuyên tự vấn mình có đang sống yêu thương như Tin Mừng đòi hỏi chăng? Tình yêu của tôi có chứa đựng một cân lượng nào của phục vụ, hy sinh, hay tha thứ không? Nếu không thì dấu chỉ tôi có Đạo hẳn còn mờ mịt lắm thay! Chắc hẳn biến cố sau đây cũng đáng cho ta ghi nhận khi nói đến yêu thương như Đức Kitô:
Căn nhà của Frank Turner, trong thành phố Dallas bị phóng hoả. Một vài câu nói mang tính chất kỳ thị được viết trên cánh cửa ga-ra. Thiệt hại vật chất vượt quá 50 ngàn đô la. Những tổn thương tinh thần cũng không nhỏ lắm. Thế nhưng lời tâm sự của anh Frank đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng: “Là con người, tự nhiên nghĩ đến việc trả thù. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng không phải mọi người da trắng đều xấu, cũng như không phải tất cả mọi người da đen đều tồi… Nếu tôi trả thù thì không chừng tôi lại xúc phạm đến các người lành. Điều tôi mong ước bây giờ là được Thiên Chúa dẫn lối đưa đường.” Frank nhìn nhận rằng chính niềm tin đã giúp anh tránh được thù hận.
Được biết Frank đang tu học để trở thành một thừa tác viên trong hội thánh Thanh Tẩy. Điều này đã khiến anh cương quyết hơn trong việc tha thứ và không nghĩ đến báo thù. Sự kiện bị đốt nhà và những tâm tình của Frank đã được báo chí địa phương Dallas nói đến.
Không biết sau này anh ta có trở thành một thừa tác viên để phục vụ hội thánh của mình không, nhưng tinh thần và thái độ hy sinh tha thứ, không gây hận thù tang thương cho bất cứ ai-vì anh tin vào Đức Giêsu- đã trở nên dấu chứng hùng hồn cho tình yêu và sự hiện hữu của Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Có nhiều người tự cho mình là văn minh ưu chủng, đồng thời khinh miệt và huỷ diệt kẻ khác-không chỉ thể xác nhưng còn cả trí tuệ, không chỉ là sự sống thể lý nhưng còn cả phương diện tâm linh. Như thế là phản văn minh. Vì như một tác giả nhận định: “Loài người đã vượt qua những chặng đường văn minh: từ văn minh của lửa, của thời đồ đá, đồ đồng, đến văn minh nông nghiệp, công nghiệp, tin học. Thế nhưng chóp đỉnh của tất cả mọi nền văn minh mà con người đang không ngừng vươn tới từng ngày là văn minh tình yêu. Ai biết yêu thương, người ấy mới thật sự là người văn minh, có văn hoá thật, và là người có sự sống sung mãn.”
Có yêu thương là có sự sống. Càng thương yêu sự sống càng phong phú tràn đầy.
Trước khi bước lên thập giá như một dấu chỉ yêu thương tột đỉnh, Đức Giêsu đã truyền đạt cho con người nền văn minh tình yêu-văn minh sự sống. Nhưng thử hỏi hiện nay tôi đang đạt đến thứ văn minh nào? Đồ đá hay đồ đồng? Sự sống hay sự chết? Tha thứ hay hận thù? Trấn áp hay phục vụ?
Để đạt được cao điểm của văn minh, điều tôi phải thực thi là nhắm thẳng vào Đức Kitô mà tiến bước.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32) và lệnh truyền mới của Đức Giêsu cho Hội Thánh (Ga 13,33a.34-35).
- Lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32)
Giuđa bắt đầu thực hiện âm mưu nộp Đức Giêsu. Khi Giuđa đã đi rồi, Đức Giêsu giải thích bản chất của những thực tại đang diễn ra. Nhìn bề ngoài, Người đang đi vào một cuộc thất bại kinh khủng, nhưng thực chất, cái chết của Người chính là một cuộc bày tỏ vinh quang và tình yêu ở mức tròn đầy: “Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thực hiện chương trình của Thiên Chúa, Con Người diễn tả tình yêu và vinh quang của Người ở mức độ cao nhất và trọn vẹn nhất. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Với tất cả tự do, Đức Giêsu phó nộp mình trong tay kẻ dữ và đón nhận cái chết thảm khốc, vì yêu mến và để cứu độ thế gian. Cái chết của Người, quả thực, chính là bằng chứng lớn lao và vĩ đại nhất của tình yêu mà Thiên Chúa dành cho loài người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chính theo nghĩa đó, “Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31).
“Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,32). Cần đọc lời này của Đức Giêsu trong liên hệ với Ga 12,28: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”.
Tình yêu mà Đức Giêsu bộc lộ trong cuộc thương khó và cái chết của Người, tình yêu đã được thi thố đến mức tận cùng qua hình ảnh máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, tình yêu ấy sẽ đổ tràn vinh quang của Thiên Chúa nơi chúng ta. Và “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Đó chính là cách Thiên Chúa tôn vinh Con Một của Người nơi chính mình. Nói cách khác, chính khi Đức Giêsu sống thân phận hạt lúa bị thối rữa trong lòng đất, lại là lúc xảy đến cuộc Thiên Chúa tôn vinh Người bằng cách đổ tràn trên nhân loại tất cả ơn nghĩa và sự thật: “Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24).
Như thế, ở tận cùng của sự ô nhục của thập giá lại là cuộc tôn vinh tuyệt vời của Con Thiên Chúa, cuộc tôn vinh vì tình yêu và ơn cứu độ dành cho thế gian. Nơi tận cùng của cái chết bi thảm lại là điểm khởi đầu của sự sống mới mẻ và viên mãn, bởi vì, nơi sự chết mà Đức Giêsu đang đi vào, “Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,31-32).
- Căn tính của cộng đoàn Hội Thánh – cộng đoàn Mêsia (Ga 13,33a.34-35)
Chính trong tư thế của Đấng được Thiên Chúa tôn vinh đó, Đức Giêsu nói những lời từ biệt các đồ đệ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,33a.34-35).
Đức Giêsu sắp rời khỏi thế gian, nhưng các đồ đệ của Người vẫn còn ở trong thế gian (Ga 13,1; 17,11). Đức Giêsu thiết lập họ thành cộng đoàn và ban cho họ căn tính riêng biệt của những con người thuộc về cộng đoàn đó. Trước đây, các đồ đệ đã biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia (1,41.45.49); và bây giờ, các ông sẽ biết đâu là đặc tính quan trọng bậc nhất của cộng đoàn Mêsia: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34a).
Khi nói “điều răn mới”, Đức Giêsu có ý đặt điều răn này đối lập với luật cũ. Luật Môsê được thay thế bằng lệnh truyền tràn đầy ân sủng và sự thật của Đức Giêsu. Sự khác biệt giữa hai giao ước được xác định. “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1,17). “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,31.34). Vinh quang của Thiên Chúa là sự dẫy tràn ân sủng và sự thật (Ga 1,14), nên đòi hỏi dành cho những người được đưa vào vinh quang ấy cũng phải là tình yêu và chân lý, bởi vì “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).
Điều đáng chú ý: trong điều răn mới, Đức Giêsu không hề đòi hỏi các đồ đệ phải làm gì cho chính Người hoặc cho Thiên Chúa, mà chỉ đòi hỏi các đồ đệ yêu thương nhau. Thiên Chúa không tập trung chú ý của Người về chính bản thân mình. Tình yêu của Người là tình yêu năng động hướng đến toàn thể vũ trụ và nhân loại. Tình yêu của Người là tình yêu hiến tặng cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Khuôn mẫu và tiêu chuẩn của tình yêu mà các đồ đệ phải thi thố là chính Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34b).
Đức Giêsu đã từng mời gọi các đồ đệ đồng hóa với Người trong sự sống và trong cái chết của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53). Bây giờ, Người xác định rằng các hành động của Người chính là khuôn mẫu cho cách sống của các độ đệ: điều răn mới chính yếu hệ tại ở chỗ các đồ đệ yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ vậy. Đức Giêsu là tiêu chuẩn, là thước đo, là khuôn mẫu, là lý tưởng và là cùng đích tối hậu của tình yêu thương.
Có thể lấy hai hành động mà Đức Giêsu vừa thực hiện làm điểm quy chiếu giúp giải thích thế nào là yêu thương nhau “như Thầy yêu anh em”: sự kiện Đức Giêsu rửa chân cho các đồ đệ (Ga 13, 1-20) và thái độ của Người đối với Giuđa, kẻ nộp Người (Ga 13,21-32). Bằng việc rửa chân cho các đồ đệ, Đức Giêsu cho thấy điểm quan trọng trong tình yêu là đón nhận người khác và đặt mình trong tư thế phục vụ người khác bằng cách đem lại cho họ phẩm giá và sự tự do nhờ tình yêu mến. Cách hành xử của Đức Giêsu đối với Giuđa cho thấy tình yêu đó không được giới hạn vào một loại đối tượng nào và không được loại trừ bất cứ ai, nhưng luôn luôn hết mực tôn trọng tự do của người khác một cách đúng đắn.
Lệnh truyền mới của Đức Giêsu được ban cho những người thuộc về Người, tức là những kẻ được Thiên Chúa sinh ra nhờ Thánh Thần (Ga 1,13: “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”; 3,5-6: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí; cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí”). Do Thiên Chúa sinh ra, những người đó đã đón nhận quyền trở nên con cái Thiên Chúa (Ga 1,12), và họ sẽ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa khi họ yêu thương như chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã yêu thương: chính Người là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).
Tình yêu thương giữa các đồ đệ với nhau phải là một thực tại có thể thấy được và có thể được mọi người nhận biết. Vì thế, tình yêu ấy cần phải được diễn tả bằng những hành động thực tế, như Đức Giêsu đã thực hiện. Và đây sẽ là một dấu hiệu đánh dấu dung mạo và phản ánh căn tính của cộng đoàn. Sự kiện các đồ đệ thuộc về Tôn Sư chí thánh (“anh em là môn đệ của Thầy”) không phải là một điều lý thuyết, mà là một thực tại cụ thể được diễn tả trong thực tế của cuộc sống tràn đầy yêu thương. Cộng đoàn các đồ đệ của Chúa Giêsu sẽ không “đánh dấu” mình bằng những lý thuyết khôn ngoan độc đáo, cũng không phải bằng những bài diễn thuyết hùng hồn, cũng chẳng phải bằng những lời giảng khuyên tốt lành, cũng không phải bằng những tư tưởng cao xa về Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội Thánh thể hiện mình trong khả năng yêu thương đến tận cùng và trong việc xây dựng một xã hội mới của tình yêu thương đến tận cùng ấy. Và đó chính là điều làm cho Chúa Cha được nhận biết giữa thế gian.
Thay cho hòm bia của giao ước cũ, Đức Giêsu muốn thiết lập một không gian và nơi chốn yêu thương trong giao ước mới. Thế gian sẽ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính tình yêu thương mà các độ đệ của Đức Giêsu thi thố giữa thế gian. Không phải những cơ cấu hoàn chỉnh, không phải những cuộc lễ tưng bừng hay những thứ khác tương tự, sẽ là dấu hiệu để thế gian nhận biết các độ đệ của Đức Giêsu, mà là tình yêu thương như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Đó là tiêu chuẩn duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập để “đánh dấu” dung mạo của cộng đoàn Mêsia.
Khi thiết lập tiêu chí duy nhất để cộng đoàn Hội Thánh được nhận biết giữa thế gian như thế, Đức Giêsu đã loại trừ tất cả những tiêu chí khác. Căn tính của Hội Thánh không được đặt nền trên luật lệ hay phụng tự. Tình yêu thương tha nhân là bằng chứng duy nhất của sự hiện diện đích thực của tình yêu của Thiên Chúa nơi con người. Hội Thánh là mầu nhiệm tình yêu ấy giữa thế gian. Các thành phần của Hội Thánh hiệp thông với nhau trong tình yêu ấy, và cùng nhau làm chứng cho Chúa Kitô bằng cách thực thi tình yêu ấy.
3. Hãy yêu như chính Thầy – Jos.Vinc. Ngọc Biển
Đọc lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam thuở ban đầu, chúng ta thấy cha ông chúng ta sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Vì thế, những người ngoài Công giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa, mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”.
- Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu giữa Chúa Cha và loài người
Từ lúc xuống thế, nhập thể để ở với loài người, Đức Giêsu đã sống và đem “Đạo Yêu” đến trần gian. Ngài đã diễn tả nó qua hành động và lối sống của Ngài để làm toát lên khuôn mặt của một Thiên Chúa hết lòng yêu thương con người. Tình yêu ấy được bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng bằng việc chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Quả thật: Vì yêu, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8).
Vì yêu, Đức Giêsu đã chấp nhận sinh ra nơi máng cỏ bò lừa giữa đêm đông lạnh giá. Chấp nhận bị phiêu bạt nơi đất khách quê người vì vua Hêrôđê bạo chúa tìm cách bắt bớ. Khiêm tốn vâng lời cha mẹ của Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria.
Vì yêu, Đức Giêsu đã hạ mình để Gioan làm phép rửa thống hối cho Ngài, mặc dù Ngài vô tội; đã ăn chay suốt 40 đêm ngày để làm gương cho mỗi chúng ta; đã rao giảng Tin Mừng khắp đó đây để cho mọi người được ơn cứu độ; luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Ngài đã “chạnh lòng thương” đến đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt; đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều; đã chữa lành những người ốm đau tật nguyền; đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; đã làm ơn cho kẻ hại mình; đã yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ.
Vì yêu, Đức Giêsu đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Vì yêu, Ngài đã chấp nhận bị môn đệ thân tín bán đứng, bị Phêrô chối là không biết mình và bị người đời khinh khi nhục mạ. Cuối cùng, đã đón nhận chính cái chết để cứu chuộc loài người.
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); hãy yêu như Thầy: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).
“Hãy yêu thương nhau” là gia tài, là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Lời trăng trối này thật thiêng liêng trong một không gian thánh giữa lúc thầy trò chuẩn bị ly biệt:”Hỡi anh em là những người bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em ít lâu nữa thôi”, vì thế, “anh em hãy yêu thương nhau”.
- Tại sao lại phải yêu thương nhau?
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau vượt qua được thử thách khi thấy cảnh Thầy của mình bị bắt, bị trói, bị đánh đập và bị giết chết trần trụi trên thập giá.
Có yêu thương nhau thì mới đón nhận nhau là anh em và không tranh dành chỗ cao thấp trong cuộc đời khi không còn Thầy hiện diện ở giữa nữa.
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau loan truyền và làm chứng về Thầy cho người khác.
Có yêu thương nhau thì mới đến được với người nghèo, người khổ đau, bệnh tật để an ủi họ. Mới dám cùng nhau chấp nhận cái chết để minh chứng cho mọi người biết mình đã tin vào Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Yêu nhau và dám chết cho nhau thì mới là người đáng tin và mọi người mới biết mình tin vào ai. Ngược lại, chỉ yêu nhau trong những lúc vui vẻ, thành công thì chỉ là một thứ tình yêu đầu môi chóp lưỡi.
Lời trăng trối của Đức Giêsu không chỉ là “hãy yêu thương nhau”, mà còn đi một bước xa hơn và mới hơn nữa là “hãy yêu như chính Thầy”. Yêu nhau là tình bằng hữu, nhưng chết cho nhau là một tình yêu cao cả. Yêu như Thầy là dám chết cho người mình yêu. Yêu như Thầy là một tình yêu bằng cả cuộc đời: từ lời nói, hành động và cái chết luôn thống nhất với nhau.
Nếu yêu thương nhau là cốt lõi của Tin Mừng, thì chết cho nhau là đỉnh cao của tình yêu ấy. Khi yêu nhau, ta làm toát lên vẻ đẹp của mình, khơi gợi cho con người niềm hy vọng và xác tín mạnh mẽ vào Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Và như thế, “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Khi yêu như thế, ta cũng được ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Bởi vì, “Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16).
Yêu thương là yếu tính của Đạo chúng ta. Cha ông chúng ta đã sống và làm chứng cho những giá trị cao quý ấy bằng cả mạng sống của mình để minh chứng niềm tin vào Đấng đã yêu và chết cho mình trước. Đấng ấy là chính Đức Giêsu. Hoa trái của các ngài đã toả lan và lưu truyền nơi Giáo Hội. Còn chúng ta, chúng ta đã thực hiện Lời Chúa dạy về đức yêu thương như thế nào? Xin để lại nơi suy nghĩ của mỗi chúng ta trước mặt Chúa…
Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những huy hiệu hay những bộ đồng phục để người ta nhận ra thành viên của tổ chức ấy, hoặc để các thành viên trong tổ chức đó nhận ra nhau. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe, CG không dùng những hình thức bên ngoài để người ta nhận ra ai là môn đệ Chúa, nhưng dấu hiệu để chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Chúa đó là phải có lòng yêu thương.
Có lẽ khi nói đến hai chữ “yêu thương” ai trong chúng ta cũng đều hiểu và cảm nhận được ngay. Vì con người không thể sống nếu không biết yêu thương. Ngay khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong lương tâm của mỗi người khả năng yêu thương. Nhờ đó con người có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau. Chính vì hai chữ “yêu thương” nó quan trọng như thế cho nên khi CG sắp bước vào cuộc khổ nạn, CG đã để lại cho các môn đệ lời trăn trói sau cùng, đó là: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là như thế nào?
Tâm lý tự nhiên, chúng ta thường yêu thương những người trong gia đình, trong huyết tộc, hay yêu thương những người thương ta, làm ơn cho ta. Nhưng CG yêu thương tất cả mọi người, từ những em bé, những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những kẻ làm hại Ngài, giết chết Ngài. Tình yêu đó đã làm cho Ngài không ngại khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không ngại rửa chân cho Giuđa kẻ sắp phản bội Ngài. Ngay cả lúc trên thập giá, khi còn chút hơi mọn, thay vì Ngài trách mắn những kẻ làm khổ mình nhưng Ngài lại “xin Chúa Cha tha cho họ”. Ngài không nhìn họ là kẻ thù nhưng Ngài thấy nơi họ là những con người cần được thương xót.
Khi yêu thương chúng ta, Chúa không so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào. Ngài cho tất cả, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta được hạnh phúc. Ngài cũng muốn chúng ta là môn đệ của Ngài cũng phải biết yêu thương tất cả mọi người như vậy.
Nhìn vào đứa con người ta có thể nhận ra cha mẹ của chúng, qua nét mặt, lời nói. Cũng thế, Chúa Giêsu sẽ được nhiều người nhận biết khi chúng ta là những môn đệ của Chúa biết phác hoạ lại chân dung của Thầy bằng một đời sống biết yêu thương.
Mẹ Têrêxa Calculta đã dùng chính cuộc đời của mình để yêu thương và giúp đỡ người nghèo. Một lần nọ, mẹ đưa về nhà dòng một ông lão bị bỏ rơi trên đường phố, mình đầy ghẻ chóc. Sau một thời gian được mẹ săn sóc, ông xin được rửa tội. Mẹ mới hỏi: tại sao ông muốn được rửa tội. Ông trả lời: vì tôi thấy tình thương của Chúa dành cho tôi qua sự săn sóc của mẹ. Chính cách sống yêu thương của Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho nhiều người tin vào Chúa mà còn làm cho cả thế giới thấy được tinh thần yêu thương của kitô giáo.
Làm sao chúng ta có thể nói với anh chị em lương dân đạo công giáo là đạo của tình yêu, Thiên Chúa chúng ta thờ, Ngài yêu thương hết mọi người mà chính bản thân, gia đình của chúng ta lại không yêu thương, không giúp đỡ nhau.
Tuy nhiên, nói yêu thương thì rất dễ nhưng để yêu thương như Chúa yêu không phải là chuyện dễ chút nào. Bởi vì đã gọi là yêu thương thì phải chấp nhận hy sinh: hy sinh tiền của, sức khoẻ, thời giờ, nhất là khi phải yêu thương những người chúng ta không thích, những người làm khổ chúng ta. Tự sức chúng ta thật khó để thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa nhưng chúng ta sẽ làm được nếu dựa vào Chúa, noi gương Chúa. Nhờ kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ tập nhận ra Chúa qua anh chị em. Bởi vì Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Xã hội ngày hôm nay, người ta có thể mua được nhiều thứ bằng tiền, nhưng cái đang rất cần để mang lại hạnh phúc là yêu thương thì lại càng ít được quan tâm. Chính vì sự vắng bóng tình yêu nên cuộc sống của con người càng trở nên khô cằn. Biết bao gia đình tan vỡ, con cái chống lại cha mẹ, vợ chồng ly tán, anh chị em bất hoà cũng chỉ vì thiếu vắng tình yêu.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta, biết can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Bằng một đời sống biết quan tâm và giúp đỡ nhau, không chỉ là cơm áo gạo tiền, nhưng một lời nói tốt, một lời cầu nguyện, một sự thông cảm tha thứ đó cho nhau đó cũng là chúng ta đang thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa, đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa.
5. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
– lời (23): Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos) có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.
– Thánh Thần … Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho…) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho…
– sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại” không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại” song đối với nhau.
– bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.
– nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy ra [1].
– Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?
Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”. “Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
- Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
- Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải “giữ các lời Người” (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
- Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
- Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.
——————————————–
[1] M. Zerwick, Biblical Greek *313.Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người “ra đi”: đó là di chúc tinh thần của Ngài.
Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói
Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự… như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.
Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết những gì’ cần phải diễn tả… lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau thương như thế.
Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm… chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài… để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ “không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết tình kết nghĩa.
Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.
Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai phó từ: giờ đây… sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của “các vật chưa hoàn tất”), và những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương lai! “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau này.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.
Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp bước sâu vào “nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của “kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính “Đấng chịu đóng đinh” đã được tôn vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? “Không có tình yêu nào lớn hơn” (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.
Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?
Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi
Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của Thầy…”
Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại, cụ thể… nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (1 Ga 4,12).
Vâng, tình yêu đích thực là một “sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu thực là thế! Nếu thực là “Thiên Chúa đã chết”, thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết”. Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi “tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, “tình yêu bản thân” hay “tình yêu kẻ khác”? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: “Tôi thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó… nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:
-Éros: Yêu mình… đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến huỷ hoại họ.
-Agapé: Yêu tha nhân… đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Chỉ một từ “như” đơn giản… nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.
Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là “hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương” (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.
Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: “Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa”. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.
Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự “khác biệt” của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, “kẻ khác” đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!
Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.
Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau
Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
- Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.
- Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
- Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.
Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là “thể thức” thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng “Thời gian cuối cùng”, mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân ” và trao ban “giới răn mới quan trọng” như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn”. Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra”. Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: “Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện” có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.
Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà “mọi người” có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh Thể sẽ “dẫn” chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục vụ”.
CHÚA NHẬT V PHỤC SINH, NĂM C
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Cv 14,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35
MỤC LỤC
- Điều răn mới – ViKiNi
- Yêu thương
- Giới luật yêu thương
- Yêu thương anh em
- Yêu thương như Thầy đã yêu thương
- Yêu thương nhau – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
- Yêu thương
- Tôi là môn đệ của ai?
- Như Thầy đã yêu
- Yêu thương như Thầy yêu
- Giáo Hội chia sẻ tình thương – Cố Lm Hồng Phúc
- Suy niệm của Lm. GB. Hiếu
- Giới luật yêu thương
- Chúa Nhật 5 Phục Sinh
- Yêu như Chúa yêu
- Vinh quang thập giá
- Để nhận ra người môn đệ chân chính
- Yêu thương và giúp đỡ
- Điều răn mới
- Dấu chỉ môn đệ Chúa Kitô
- Yêu người như Chúa
- Chúa Nhật 5 Phục Sinh
- Yêu như Thầy yêu
- Hãy gieo yêu thương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
- Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
- Yêu như Thầy đã yêu
- Yêu người
- Giới răn yêu thương – R. Veritas
- Sức mạnh
- Yêu thương nhau
- Môn đệ
- Lời trăn trối yêu thương
- Giới răn yêu thương
- Luật cũ nghĩa mới
- Ai là gương mẫu của chúng ta? – Achille Degeest
- Vương quốc tình yêu – Lm. Anmai
- Giới luật yêu thương
- Suy niệm của Lm Phaolô Cao Thế Bình
- Chúa Nhật 5 Phục Sinh
- Qua yêu thương, mọi sự trở nên mới
- Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
- Ai yêu thương đều là Kitô hữu
- Đặc điểm của đức ái
- Yêu như Chúa đã yêu
- Tình yêu, Điều Răn mới
- Tôn vinh – Lm. Vũ Đình Tường
- Giới răn yêu thương – Flor McCarthy
- Giới luật yêu thương
- Di chúc của Đức Giêsu
- Điều răn mới
- Yêu âm thầm
- Luật yêu thương
- Chúa Nhật 5 Phục Sinh
- Yêu thương
- Yêu như Thầy yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
- Tình thương
- Yêu thương
- Văn minh tình thương – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
- Anh em hãy yêu thương nhau
- Điều răn mới
- Suy Niệm của JKN
- Yêu
- Hãy yêu như chính Thầy – Jos.Vinc. Ngọc Biển
- Hãy yêu thương nhau
- Người môn đệ đích thực
- Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
- Chú giải của Noel Quesson
- Suy niệm của nhóm Nha Trang
- Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Người ta cho rằng: yêu thương phát xuất từ con tim. Người ta còn nói: Tình yêu xưa như trái đất, nghĩa là tình yêu có từ khi có trái đất hay trái đất xưa bao nhiêu thì tình yêu lâu đời bấy nhiêu. Như thế, tình yêu cũ kỹ lắm rồi! Ở đấy, Đức Giêsu không nói đến thời gian có tình yêu. Người chỉ nói phải đổi mới tình yêu.
Tình yêu đã bị hủ hoá, tha hóa vì nó chứa quá nhiều các thứ trần tục, nó bị ô nhiễm bởi tội tổ tông, làm mất giá trị cao quý của con người siêu việt là con Thiên Chúa.
Nó nghiền những thứ: nghiền rượu, nghiền thuốc, nghiền ma túy, mê tiền, mê của, say đắm tình dục xác thịt. Nó bị lôi cuốn, đắm chìm, nô lệ cho những thứ đồ vật. Nó bị sai khiến bởi vật chất, vật chất đã làm chủ con người. Nó hạ giá con người xuống dưới hàng vô tri vô giác. Trong khi đó giá trị con người hơn: “Được lời lãi cả thế gian mất mạng sống mình nào được ích gì?”
Dầu yêu người khác như chính mình, như yêu quê hương, yêu tổ chức, yêu đồng bào, yêu nhân loại, thường được diễn tả bằng những câu ca dao như:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương.
Người chung một nước phải thương nhau cùng”
Ngay thời kỳ Vua Nghiêu, Vua Thuấn đã đề cao:
“Tứ hải giai huyng đệ”: Bốn bể đều là anh em.
“Lấy dân làm gốc”: Dân là quý, xã hội là thứ yếu.
Hay câu: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”: Mình không muốn cho mình, thì đừng làm cho người. Luật Cựu Ước cũng dậy: “Ngươi sẽ không báo oán, không căm thù với con cái dân ngươi, nhưng ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình” (Lev. 19, 18). Tất cả những điều hô hào như thế đều là điều răn cũ, vì một là ta yêu đồ vật thì giá trị con người của ta bị đánh giá bằng đồ vật, hai là ta yêu người thì ta ngang hàng với người mà thôi.
Đồ vật và loài người chỉ có giá trị tạm thời, chóng tàn. Còn Đức Giêsu, Người ban cho ta điều răn mới là để nâng cao con người lên bậc con Thiên Chúa, một giá trị siêu việt trường tồn vinh quang. Cho nên, Người kêu gọi: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Yêu như Thầy yêu anh em: Thầy là Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, sống hòa mình với mọi người, nhất là những người đau khổ. Thầy là Đấng Cứu thế, đến phục vụ và cứu chữa những người bệnh tật, tội lỗi, trộm cướp và quỷ ám. Thầy là Đấng thượng phẩm đời đời, đến hiến mạng sống chịu chết làm lễ vật hy sinh tế lễ giao hoà loài người với Thiên Chúa. Thầy là Đấng hằng sống đã sống lại, để cho người ta được sống đời đời. Thầy là Con Thiên Chúa để cho con người được làm con Thiên Chúa vinh phúc muôn đời. Đó là tình yêu của Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau như vậy. Chính vì hiểu như thế, Thánh Augustinô đã giải thích: “Sau khi lột bỏ con người cũ, nó mặc cho ta con người mới… Kẻ vâng theo giới răn mới này được canh tân, không phải nhờ một thứ tình yêu nào, nhưng chỉ nhờ tình yêu mà Chúa đã phân biệt với tình yêu xác thịt khi Người nói thêm rằng: “Như Thầy đã yêu chúng con”. Tình yêu ấy đổi mới chúng ta, những kẻ hát khúc ca mới. Tình yêu ấy đã canh tân tất cả những người công chính ngày xưa, các thánh tổ phụ, các tiên tri thời trước, cũng như đã đổi mới các dân tộc và toàn thể nhân loại sống rải rác khắp mặt địa cầu. Nó đang kết hợp lại thành một dân mới, làm thành thân thể người bạn trăm năm mới của con Thiên Chúa (Bài đọc II, thứ năm sau Chúa nhật hai Phục sinh: Kinh nguyện).
Hội Thánh là bạn trăm năm của Đức Kitô đặt lệnh truyền điều răn mới này vào những ngày Đức Kitô chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và đang chuẩn bị khải hoàn về trời.
Trong hoàn cảnh này, điều răn mới có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là trong những lúc càng nhiều nguy biến, gặp nhiều âm mưu hãm hại, càng phải triệt để thương yêu nhau để chiến thắng đau khổ, chiến thắng sự chết thì mới được khải hoàn về trời với Đức Kitô Phục sinh vinh hiển.
Thương yêu nhau là dấu chắc chắn chiến thắng. Chúng ta chiến thắng không phải bằng tiêu diệt kẻ thù, mà bằng làm cho kẻ thù được trở về với tình yêu của Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em có lòng thương yêu nhau”. Họ nhận biết chúng ta là môn đệ Chúa tức là họ đã nhận biết Chúa, nhận biết tình yêu cứu độ của Chúa. Họ phục thiẹn, tất nhiên họ đã trở về với Thiên Chúa rồi đó.
Họ trở về với Thiên Chúa là ta đã làm Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Kitô, làm Thiên Chúa được tôn vinh chính là thực hiện công cuộc cứu thế của Đức Giêsu.
Khi chúng ta thực hiện điều răn mới của Chúa, chúng ta sẽ được, như Thánh Gioan, thấy trời cũ đất cũ biến thành trời mới đất mới, thấy thành Giêrusalem cũ biến thành Giêrusalem mới, thấy mọi người mọi nơi, như đồi Canvê biến thành nơi sáng láng vinh hiển như núi Tabor, sẽ thấy mọi nơi mọi lúc có Thiên Chúa ở cùng nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, sẽ không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất! (Bài đọc II)
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim sắt đá của con nên trái tim thương yêu, thông cảm. Xin đổi mới con tim thịt máu xác phàm nên trái tim giống Thánh Tâm chan hoà tình thương yêu Chúa, để con biết thực thi điều răn mới của Chúa và làm cho thế giới khô cằn trở thành Nước Trời xanh tốt phì nhiêu.
Nếu kiểm điểm lại đời sống, xét mình về những lời nói, những cử chỉ và những việc làm đối với những người chung quanh, chúng ta sẽ thấy mình đã sai lỗi rất nhiều giới luật yêu thương của Chúa. Tôi nghĩ rằng Lời Chúa phán: Ngươi phải yêu thương anh em như chính mình ngươi, sẽ bao gồm tất cả và chi phối mọi liên hệ giữa người với người. Nếu chúng ta hiểu thấu đức bác ái và cố gắng thực hiện, chúng ta sẽ trở nên những người lịch sự, tế nhị và dễ thương.
Yêu thương anh em, nhiều người trong chúng ta cho rằng, lệnh truyền này có tính cách giáo điều, mang nặng tính chất đạo đức, không còn gây được những ấn tượng mạnh mẽ. Trong khi đó, cuộc sống thì biến đổi từng ngày và từng giờ. Người ta chú trọng đến những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Những lời nói tuyên truyền. Tất cả làm thành như một lớp sơn, phết trên thanh gỗ mục. Trong khi đó tinh thần bác ái, tinh thần yêu thương vẫn cứ bị quên lãng, và không có một chỗ đứng quan trọng nào trong sinh hoạt thường ngày.
Bên Phi châu, có những bộ lạc, khi gặp nhau người ta chào nhau bằng câu: Tôi nhìn thấy bạn. Câu nói này đối với chúng ta không mang một ý nghĩa gì đặc sắc, nhưng nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy được cả một quan niệm sống của dân bản xứ. Tôi nhìn thấy bạn, có nghĩa là tôi không tập trung cái nhìn ích kỷ trên bản thân tôi, tôi không coi tôi như là cái rốn của vũ trụ, nhưng tôi nhìn thấy bạn, với tất cả địa vị và giá trị của bạn.
Tôn trọng người khác, có lẽ đó là điều mà hiện nay chúng ta còn thiếu sót rất nhiều. Người khác không phải là một hòn đảo để cho tôi thám hiểm, cũng không phải là một trái chanh cho tôi vắt kiệt. Người khác là anh em của tôi, là hình ảnh của Thiên Chúa. Dù họ có xấu xa và tệ bạc đến đâu chăng nữa thì họ cũng đã được cứu chuộc bằng Máu Thánh Đức Kitô, thuộc về gia đình Thiên Chúa cũng như tôi. Trong gia đình này, Thiên Chúa là Cha và chúng ta là anh em với nhau. Nếu nhìn người khác như thế, chúng ta sẽ trở nên người Kitô hữu trưởng thành và sống đạo.
Một người ngoại quốc bước xuống xe điện. Ông ta hỏi thăm về địa chỉ với người mà ông ta gặp đầu tiên. Người ấy đã chỉ vẽ cặn kẽ rồi lại đi theo và xách hành lý cho ông ta tới tận địa chỉ mà ông ta định đến. Tò mò, ông ta bèn hỏi người ấy: Tại sao ông lại làm cho tôi như thế, đang khi tôi chỉ là một kẻ xa lạ. Rất đơn sơ và thành thật, người kia đã trả lời: Vì tôi là người Kitô hữu.
Là người Kitô hữu, chúng ta hãy yêu thương người khác trong Đức Kitô và vì Đức Kitô. Hãy yêu thương người khác, vì tất cả đều là anh em, đều có chung một Cha là Thiên Chúa ở trên trời.
Thày ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.
Thiên Chúa là Tình yêu, mà con người được dựng nên giống hình ảnh Ngài, vì thế tự bản chất con người đã là tình yêu và trong trái tim của họ bao giờ cũng leo loét một ngọn lửa thương yêu. Thực vậy, chúng ta có thể xác quyết:
– Con người được dựng nên là để yêu thương.
Mục đích của cuộc sống không phải là lao động mà chính là yêu thương. Bởi đó, có người đã bảo:
– Yêu hay là chết.
Hẳn chúng ta còn nhớ ngày kia một tiến sĩ luật đã hỏi Chúa Giêsu:
– Thưa Ngài, giới răn nào là giới răn quan trọng nhất.
Và Chúa đã trả lời:
– Giới răn quan trọng nhất, đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình. Hai giới răn này gồm tóm mọi lề luật và lời các tiên tri.
Nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: hai giới răn này không đặt trọng tâm vào trí khôn, nhưng vào con tim. Hai giới răn này thật quan trọng vì từ chúng xuất phát ra mọi giới răn khác và chi phối toàn bộ cuộc sống đạo đức, luân lý và xã hội của chúng ta. Tất cả lề luật được gồm tóm trong bốn chữ vắn gọn, đó là MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Hay chỉ trong hai chữ mà thôi, đó là YÊU THƯƠNG, như lời thánh Augustinô đã nói:
– Hãy yêu rồi làm điều mình muốn.
Và Chúa Giêsu trong lời trăn trối sau cùng trước khi ra đi chịu chết cũng đã nói:
– Thày ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau…Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con hãy yêu thương nhau.
Thế nhưng, con người thời nay lại không hiểu rằng tình yêu chính là mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Thử nhìn vào chương trình học vấn của mọi quốc gia, chúng ta sẽ thấy những chương trình ấy chú trọng đến chữ hiểu và chữ nhớ hơn là chữ yêu. Những chương trình ấy cố gắng sản xuất ra những chuyên viên, chứ không phải ra những người biết sống cuộc đời mình một cách trọn vẹn. Vì thế, chúng ta có thể chạy đến các lớp học, giật lấy những cuốn vở và nói với các em nhỏ rằng:
– Mục đích của đời sống không phải là học biết nhưng là yêu thương. Học để hiểu biết là điều cần thiết và tốt đẹp, tuy nhiên điếu cần thiết và tốt đẹp hơn, đó là học để yêu thương.
Trước hết, hãy tập yêu thích thiên nhiên: những bông hoa tươi thắm, những cánh chim tung bay, những làn gió nhẹ, những tiếng mưa rơi…Rồi từ đó khám phá ra sự hiện diện đầy quyền năng và yêu thương của Thiên Chúa.
Tiếp đến, hãy tập yêu thương anh em. Đừng làm hại ai nhưng sẵn sàng giúp đỡ mọi người, kể cả những kẻ thù địch, nhất là những người đau khổ và kém may mắn. Chính những hành động bác ái này mới thực sự có được một giá trị to lớn trước mặt Chúa.
Sau cùng, hãy tập yêu kính Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ rằng: sở dĩ chúng ta có là vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Đừng chần chừ, nhưng phải bắt đầu ngay từ ngày hôm nay bởi vì Đức Kitô đã chết vì chúng ta và cửa trời đang mở rộng để chờ đón chúng ta.
Tình yêu sẽ làm cho cuộc đời thêm ý vị và đáng sống. Chẳng hạn người mẹ vì yêu thương đã thức bao nhieu đêm dài bên cạnh chiếc nôi để chăm sóc cho đứa con đau yếu. Chẳng hạn người cha vì yêu thương đã chấp nhận những công việc nặng nhọc để đem lại chén cơm manh áo nuôi sống gia đình. Chẳng hạn các tu sĩ vì yêu thương đã từ bỏ một nếp sống tiện nghi để ra đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh mà giúp đỡ các bệnh nhân và những người xấu số.
Và như vậy, tình yêu đã trở thành một cái gì quí giá nhất như lời thánh Phaolô đã dạy:
– Nếu tôi nói được mọi thứ tiếng của loài người…mà không có đức ái, thì tôi cũng chỉ là não bạt ầm vang mà thôi.
Hơn thế nữa, chúng ta không sống cô độc lẻ loi như một pháo đài biệt lập, hay như một hòn đảo giữa biển khơi. Trái lại, chúng ta sống là sống với, sống cùng. Đúng thế, chúng ta sống với thiên nhiên, sống với người khác và sống với Thiên Chúa. Sợi giây liên kết chúng ta lại với thiên nhiên, với người khác và với Thiên Chúa chính là tình yêu. Tình yêu đã tạo thành một chiếc cầu nối kết con người với thiên nhiên, với nhau và với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ gắn bó với cái chúng ta yêu thích, chứ không phải với cái chúng ta hiểu biết.
Tình yêu đã nối kết con người lại với nhau, cũng như mối kêt con người lại với Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta phải mến Chúa và yêu người.
Điều sai lầm tệ hại nhất của nền văn minh hiện tại là đã quá chú trọng đến việc phát triển trí tuệ, mà sao lãng việc phát triển con tim. Cái ưu tiên trong con người chúng ta phải là tình yêu.
Chính vì thế, thánh Gioan đã không định nghĩa Thiên Chúa là hiểu biết, là lao động…nhưng đã định nghĩa Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi đó, khi yêu thương, chúng ta trở nên giống Thiên Chúa. Khi yêu thương, chúng ta ở trong Thiên Chúa.
Thế nhưng, yêu thương là cho đi. Cho đi như Chúa Giêsu đã thực hiện trên thập giá. Cho đi tới giọt máu cuối cùng. Công bằng thì có giới hạn, còn yêu thương thì chẳng bao giờ có giới hạn. Chúng ta cứ phải yêu mãi, yêu hoài. Vì chính tình yêu sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống và sẽ chứ rỗi bản thân chúng ta.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau khắc ghi tư tưởng sau đây của thánh Gioan Thánh giá:
– Khi cuộc sống này chấm dứt, chúng ta sẽ bị xét xử theo những hành động bác ái và chính tình yêu sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.
Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha ông chúng ta thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở đối với mọi người trong xã hội. Vậy giới luật của Chúa có điều chi mới mẻ?
Dựa vào những lời tâm sự cuối cùng của Chúa, chúng ta có thể tìm thấy được những nét độc đáo của tình thương yêu trong Kitô giáo. Nét độc đáo thứ nhất đó là hãy yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, cái khuôn mẫu lý tưởng, cái thước được dùng để đo tình yêu thương của chúng ta, không còn là mối liên hệ máu mủ, cũng không còn là chính bản thân của mình nữa, nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta như lời Ngài đã nói: Không ai có tình yêu cao quý hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Chỗ khác Ngài cũng bảo: Ta là mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành thì hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Tình yêu ấy không bị giới hạn, không bị ngăn cách nhưng được dành cho hết mọi người.
Bên cạnh thập giá Đức Kitô không ai là không có chỗ của mình, kể cả những kẻ tội lỗi, đĩ điếm và trộm cướp. Ngài không huỷ diệt một khả năng nào để vươn lên. Đứa con hoang đàng cũng có chỗ trong nhà cha mình. Người trộm cắp cũng được mời gọi tham dự tiệc cước và người phụ nữ nhẹ dạ cũng có thể hôn chân Ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ và thương xót đối với mọi người, không trừ một ai. Tình yêu thương vô bờ ấy phải trở nên mẫu mực để chúng ta noi theo: Hãy yêu thương như như Thầy đã yêu thương các con.
Nét độc đáo thứ hai đó là tình yêu thương phải trở nên dấu chỉ của những người thuộc về Chúa. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Thực vậy, Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ của mình phải thông thái như các tiến sĩ luật, cũng không bắt họ phải sống gò bó nhiệm nhặt như nhóm biệt phái. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi nơi các ông đó là tình yêu thương.
Ngay từ đầu các tín hữu đã thực sự sống tình bác ái yêu thương để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh và trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, các tâm hồn ở mọi nơi và trong mọi lúc, vẫn nhận ra Thiên Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của những người tin Chúa, được biểu lộ bằng hành động bác ái yêu thương.
Trong cuộc sống hằng ngày không phải chúng ta không biết rằng thương yêu là đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng, thương yêu là giới luật mới của Chúa Giêsu, thương yêu là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, từ chỗ hiểu đến chỗ làm luôn luôn có một khoảng cách. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho người khác. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình thương ấy trong một phạm vi hạn hẹp nào đó. Chúng ta vẫn thích tính toán cộng trừ để tình thương không làm chúng ta bị thiệt thòi mà trái lại còn đem đến những lợi ích riêng tư. Chúng ta vẫn muốn dựa vào màu cờ, sắc áo hay danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chúng ta không dám chứng tỏ bằng những hành đông yêu thương và hy sinh mạng sống của mình. Quan hệ của chúng ta còn quá vụ lợi.
5. Yêu thương như Thầy đã yêu thương
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Bài Tin Mừng hôm nay là lời cáo biệt Đức Giêsu nói cho các môn đệ thân yêu trước khi Người ra đi chịu chết, đồng thời cũng là những lời trăn trối thâm tình nhất. Chính trong bối cảnh cụ thể và lịch sử đó mà ‘điều răn mới’ trở thành đặc biệt quan trọng và sâu sắc.
Không hiểu sao: mãi cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa hết dị ứng với chữ ‘giới răn’ (commandments). Một từ vựng khác là ‘thập điều’ (Decalogue) xem ra nhẹ nhàng hơn nếu xét theo nguyên ngữ. Đối với người công giáo, cũng không biết từ bao giờ, từ ngữ ‘giới răn’ đã trở thành phổ biến và quen tai. “Điều răn’ có nghĩa là: một qui đinh, một điều buộc phải làm hay cấm không được làm, phát xuất từ một thẩm quyền tối thượng. Đã là điều răn, thì mọi người ai đều ‘phải’ tuân giữ. Người Việt Nam quen với khái niệm: ‘lời răn bảo’ (nên, hãy), với nội dung nhẹ nhàng và khích lệ hơn. Tôi thiết nghĩ là con người đương đại (đặc biệt giới trẻ hôm nay) cũng chuộng nhẹ nhàng khuyên nhủ hơn là răn đe. Hơn nữa, trong các ‘điều răn’ thì, luật buộc phải yêu thương lại có vẻ bất hợp lý hơn hết! Tình yêu không thể bó buộc! vì nó dựa trên tự do và nhận thức; không một ai, kể cả Thiên Chúa, có thể bắt buộc người khác phải yêu mình. Là chúa tể, Ngài chỉ có quyền bắt mọi tạo vật phải thờ lạy, phải kính sợ mình mà thôi! Thế thì ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”.
Trước hết hãy nhớ rằng: các thính giả của Đức Giêsu trong cái giờ phút biệt ly đó là các môn đệ; mà các ông đều là những người Do Thái gốc (xem Ga 1:47). Các Pha-ri-sêu vẫn thường nói tới ‘điều răn’ (xem Mt 22:34-40), vậy thì việc Đức Giêsu đề cập tới một ‘điều răn mới’ là hoàn toàn hữu hiệu để lôi cuốn đám thính giả Do Thái lắng nghe Người. Chắc hẳn các môn đệ đã khá quen thuộc với các đoạn chương 20, câu 2-17 trong sách Xuất Hành, hoặc chương 5 câu 6-21 sách Đệ Nhị Luật. Các đoạn văn này đều đặt ‘10 giới răn ’ dựa trên thẩm quyền tối thượng của Đức Chúa Gia-vê, Đấng đã giải thoát dân khỏi ách nô lệ bên Ai-Cập và dẫn đưa họ vào đất hứa. Mười điều răn hay thập giới có thể được coi như các điều khoản của giao ước dân Do Thái ký kết với Gia-vê, Đấng giải phóng họ. Tự nó, thập giới là những qui luật rất nhân bản và hợp lý, kể cả ba khoản đầu trực tiếp liên quan tới Đức Chúa, tuy nhiên ta không thể khảng định thập giới đích thực là luật yêu thương! Đúng hơn, đó là luật công bằng, luật sòng phẳng, luật ràng buộc do cam kết của một khế ước giữa hai bên ký kết với nhau. Ngay cả ‘yêu tha nhân như yêu chính mình’ cũng chỉ xuất phát từ đòi hỏi công bằng của Cựu ước: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:40); chính Đức Giêsu đã khảng định như vậy.
Trong bối cảnh đó thì “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” mới là ‘điều răn’ hoàn toàn mới mẻ, vì nó vượt xa những đòi hỏi công bằng sòng phẳng của một giao kèo xã hội. Nền tảng và nguyên lý của ‘hãy yêu thương này’ chính là con người Đức Giêsu Ki-tô, Đấng đã hiến mình chịu chết trên thập giá… để thực hiện cuộc giải phóng và lập một vương quốc thứ tha. Đó chính là ‘điều răn’ căn bản của giao ước mới, nói theo lối diễn tả của của người Do Thái. Nó phát xuất từ sự khám phá ra, hay nhận thức được: sự trung thành tuyệt đối của một Thiên Chúa cứu độ, nhân ái và giầu lòng xót thương, để rồi tự đáy lòng mỗi người nẩy sinh và phát triển một tình yêu đáp trả quảng đại. Chính vì điều này mà, và trong tâm tình sâu đậm nhất của cuộc tiễn biệt, Đức Giêsu mới chính thức công bố ‘điều răn’ này! Sắp tới đây, các môn đệ sẽ tận mắt chứng kiến tình yêu này bắt đầu trở thành hiện thực: các ông sẽ được chứng kiến một Thiên Chúa yêu đến cùng, yêu tới độ “sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” trên Thập Giá (1 Ga 4:10).
Nếu thế thì đây không còn phải là một ‘điều răn’ chính hiệu nữa, có nghĩa là không phải là một điều gì áp đặt từ bên ngoài. Tình yêu mời gọi tình yêu! Những ai đã chứng kiến tình yêu Thập Giá, đã cảm nghiệm thấy “tình yêu đó là như thế này…” (1 Ga 4:8-11) thì việc ‘buộc’ hay ‘phải’ yêu thương anh em mình chỉ còn là một cách nói. Thực ra chẳng có buộc gì cả: nếu anh biết Thiên Chúa trong Đức Giêsu Ki-tô hiến mình trên thập giá cho anh và biết cách thâm sâu, thì việc yêu người anh em lỗi phạm sẽ là một đòi hỏi nội tại, một công việc của cõi lòng. Ngược lại, nếu anh thấy mình chưa thể yêu thương người anh em, thì đơn giản là vì anh chưa thật sự thấu hiểu Thập Giá, nơi Thiên Chúa đã yêu và hiến mình cho anh bất chấp con người anh đầy tội lỗi. Gioan đã muốn diễn tả như thế trong các chương 4 và 5 của lá thư thứ nhất: hoặc biết về tình yêu xót thương của Thiên Chúa hoặc không thể yêu tha nhân: vì nếu thấu hiểu được lòng Chúa nhân ái xót thương, thì chúng ta ‘phải’, như một định luật hoàn toàn lô-gích hay đúng hơn một chuyển động tất nhiên của cõi lòng, yêu mọi người anh em của mình thôi, cho dầu họ có bất toàn tới mấy. Yêu thương tha thứ cho kẻ thù nghịch sẽ mãi mãi là điều không thể, là một nghịch lý của niềm tin, bao lâu Thập Giá chưa được chúng ta giương cao trong đời sống.
Do đó, nếu tôi chưa thấy mình có thể yêu mến hoặc tha thức cho cận nhân, thì tôi biết đâu là nguyên nhân rồi đó!
Lạy Chúa từ nhân, nếu con chưa thể yêu các anh em con, thì đơn giản là vì con chưa hiểu thấu và cảm nghiệm được: ‘Chúa yêu thương và hiến mình vì con’ tới mức độ nào. Xin cho con biết chiêm ngắm Thập Giá, nhất là khi cử hành Thánh Lễ, để con ngày càng vào sâu hơn trong tình yêu xót thương của Chúa. Chỉ qua cách đó, phải, qua cách duy nhất đó, con mới có thể trở nên một Linh Mục đích thực, biết yêu mến và tự hiến cho đoàn chiên và các anh em con ‘như Chúa đã yêu thương’. Xin hãy giúp con đạt được điều này trong công tác mục vụ hàng ngày của con. Amen.
6. Yêu thương nhau – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Một vị giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Ngài hỏi: Bằng dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo? Không có tiếng trả lời. Rõ ràng, không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị giám mục lặp lại câu hỏi. Và ngài lặp lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu Thánh giá có ý nhắc nhớ cho các người dự tòng một câu trả lời chính xác. Bất chợt một ứng viên trả lời: Đó là tình yêu. Vị giám mục rất ngạc nhiên! Khi sắp mở miệng nói “sai”, ngài bỗng kịp thời ngậm miệng lại. Thánh giá biểu lộ tình yêu. Dấu chỉ của tình yêu là Thánh giá. Đạo Công giáo là đạo của bác ái yêu thương.
Yêu thương nhau như Thầy yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa đã sai chính Con Một yêu dấu xuống thế để cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu đã bày tỏ tình yêu Thiên Chúa một cách cụ thể trong đời sống. Tình yêu của Chúa trải rộng trong mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài đã dùng mọi cách gần gũi nhất để tỏ lòng yêu thương. Chúa sinh ra nơi máng cỏ nghèo hèn, chịu chung số phận với những người kiều cư khách lạ, sinh sống nơi làng quê nghèo và hoạt động cách bình dị âm thầm. Chúa Giêsu hoà chung những sinh hoạt hằng ngày với mọi người, đến nỗi người đồng hương chẳng nhận ra Chúa là ai. Họ nghĩ Chúa chỉ là con bác thợ mộc Giuse và mẹ là bà Maria. Thiên Chúa ẩn mình một cách thật khiêm hạ.
Chúa Giêsu đã kiên nhẫn đợi chờ trong thời gian và không gian để thi hành sứ mệnh. Ngài đã hoàn tất mọi lời tiên tri loan báo về Ngài. Chúa đã chịu mọi khổ nhục và chịu chết treo trên cây Thánh giá. Chúa đã sống lại. Mọi uy quyền trên trời dưới đất được trao ban trong tay Ngài. Mọi tư tưởng, lời nói, hành động của Chúa Giêsu là lời nói hành động của Thiên Chúa làm Người. Lời của Ngài là Tin Mừng cứu độ. Trước khi rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu đã ưu ái ban truyền cho các Tông đồ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Yêu thương nhau như Thầy yêu chúng con. Một điều răn căn cốt tóm gọm lời dạy của Chúa.
Chúa yêu thương trong mọi cử chỉ, ngôn ngữ và hành động. Những cử chỉ thân thương đối với người nghèo, kẻ bệnh tật, người phung cùi, khuyết tật, kẻ câm điếc, đui mù, quỷ ám và người đau khổ. Những bài giảng nói về đức yêu thương, yêu Chúa yêu người. Yêu thương anh chị em và yêu cả kẻ thù. Lời giảng của Chúa được cụ thể hoá qua các hành động Chúa đã thực hiện. Chúa đã tỏ lòng xót thương người tội lỗi lầm lạc và tha thứ cho những kẻ đã chống đối, nhạo cười và phản bội giết Chúa. Chúa đã chấp nhận mọi xỉ vả nhục nhã chỉ vì yêu. Kìa người ta khạc nhổ vào mặt Chúa. Chúng ta có thể chấp nhận một hành động bị khinh bỉ như thế không? Có khi nào chúng ta bị người ta khạc nhổ vào mặt chưa? Thật gớm!
Chúa Giêsu đã hiến dâng tất cả chỉ vì yêu. Chúa yêu chúng ta vô điều kiện. Chúa yêu chúng ta trước. Chúa mời gọi chúng ta học theo Chúa. Chỉ qua tình yêu, mọi người nhận biết chúng ta là Kitô hữu: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Chúng ta hãy tập sống yêu thương từ trong nôi ấm của gia đình trước. Khi hạt giống tình yêu nẩy mầm trong tâm, hoa trái tình yêu sẽ tỏa lan hương thơm ra những người chung quanh. Tất cả hoa trái yêu thương của ngày mai đều ẩn tàng trong những hạt giống tốt được gieo ngày hôm nay. Khi gieo trồng tình yêu thì sớm muộn gì cũng sẽ trổ sinh hoa trái yêu thương. Trong cuộc sống giao tế hằng ngày với tha nhân, chúng ta sẽ hái những gì chúng ta đã gieo. Như một đóa hoa tươi đẹp dần bị héo úa nhưng luôn để lại những hạt giống tốt trên mặt đất.
Nếu trái tim bị khô cằn và đóng khung, chúng ta khó có thể mở cửa đón nhận và cho đi tình yêu. Hạt giống tình yêu phải được vun tưới, chăm bón và tạo cơ hội để triển nở. Khi tình yêu được hòa trộn trong việc làm thì tình yêu sẽ thăng hoa. Và chính chúng ta là người đầu tiên được hưởng nếm hạnh phúc của tình yêu. Chúng ta biết rằng hạnh phúc nhất của cuộc sống này là tin chắc rằng chúng ta đang được yêu thương. Chúa yêu, cha mẹ yêu, vợ chồng yêu, con cái yêu, anh chị em và bằng hữu yêu. Chúng ta vui hưởng hạnh phúc ngay trên đường đi, chứ không phải tìm hạnh phúc ở cuối đường. Thực hành giới răn yêu thương là cốt lõi đưa dẫn chúng ta đến tình yêu và hạnh phúc thật.
Các Tông đồ với trái tim yêu thương đầy nhiệt huyết đã bước vào đời. Các ngài rao truyền tình yêu thập giá và tình yêu hiến dâng của Chúa Kitô. Các ngài gắn bó mật thiết với Chúa và với nhau để củng cố niềm tin yêu. Sách Tông đồ Công vụ tiếp tục ghi lại sứ vụ của các Tông đồ: Hai ông củng cố tinh thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa” (Cv 14,22). Để được chung hưởng hạnh phúc, chúng ta phải trải qua nhiều gian nan thử thách. Thánh giá là biểu tượng của tình yêu và thánh giá cũng là biểu tượng của sự hy sinh. Tình yêu không có hy sinh là tình yêu giả dối. Hy sinh mà không có tình yêu là hy sinh thừa thãi. Tình yêu và hy sinh như đồng tiền hai mặt luôn gắn kết với nhau trọn vẹn.
Bước đầu, cơ cấu tổ chức đời sống của các Kitô hữu đã được hình thành nơi các cộng đoàn. Là một tổ chức tâm linh, các Tông đồ nêu gương ăn chay cầu nguyện và phó thác niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Cậy trông vào ơn thiêng để kiên trì sống đạo, giữ đạo và hành đạo. “Trong mỗi Hội Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin” (Cv 14,23). Các thành viên của các cộng đồng nhỏ đã liên kết với nhau trong yêu thương và chia sẻ đời sống bác ái nâng đỡ và phụ giúp nhau sống niềm tin. Giáo Hội của Chúa đã hình thành qua dấu chỉ của sự yêu thương.
Cuộc lữ hành của Giáo Hội trần thế sẽ dẫn dắt mọi người đến Nước Trời, thành thánh Giêrusalem mới. Thánh Gioan khai mở hình ảnh về sự viên mãn: “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng không còn nữa” (Kh 21,1). Vũ trụ này sẽ qua đi. Chúng ta hiện hữu trong thời gian và không gian. Chúng ta khó có thể tưởng tượng sự thay đổi một trời mới và đất mới thế nào. Kinh nghiệm trong cuộc sống cho chúng ta biết, mọi sự trong vũ trụ đều đang thay đổi. Sự thay đổi rất tiệm tiến về sinh thái. Hằng năm, chúng ta chứng kiến biết bao nhiêu sự thay đổi ngay trước mắt. Chính chúng ta cũng đang thay đổi cả nội tâm đến ngoại hình. Sự thay đổi làm cho chúng ta nhận biết rằng cuộc sống là vô thường. Chúng ta đừng bám víu vào những giá trị mau qua chóng hết nhưng hướng đến một kết cục hằng hữu đời đời. Đó là Thiên Chúa của tình yêu.
Thiên Chúa bao dung và nhân ái. Thiên Chúa chậm bất bình và đầy ân sủng. Chúng ta đặt niềm tin yêu vào Thiên Chúa, Ngài sẽ giải thoát chúng ta: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Đây là niềm hy vọng tuyết đối cho những ai đặt niềm tin nơi Chúa. Hạnh phúc tuyệt vời là chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương. Sống từng giây hạnh phúc, cuộc đời chúng ta sẽ no hưởng hạnh phúc. Khi yêu thương thật lòng, chúng ta sẽ cảm nghiệm được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Lạy Chúa, Chúa là suối nguồn tình yêu, xin tràn đổ tình yêu trong tâm hồn để chúng con được no thỏa. Xin cho chúng con biết đón nhận và cho đi tình yêu như dòng suối mãi tuôn chảy.
Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, tình yêu vốn là một đề tài được khai thác nhiều nhất. Nào sách báo và phim ảnh; nào âm nhạc và tuồng kịch; nào truyền thanh và truyền hình…tất cả đều nói đến tình yêu. Tuy nhiên, nhiều khi tình yêu lại được nhìn từ một góc cạnh lệch lạc và què quặt, khiến cho tình yêu ngày hôm nay như đang đi trên bờ một vực thẳm với những sa đoạ trong nếp sống, những suy đồi trong luân lý và những đổ vỡ trong hôn nhân.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã đến và Ngài đã xác định cho chúng ta một lập trường rõ rệt, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu chân thành dành cho Ngài cũng như dành cho tha nhân: Các con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình.
Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy: mặc dù tình yêu đang bị thui chột và tàn úa đi rất nhiều, nhưng không phải là không còn những tình yêu chân thành vá tốt đẹp. Tình yêu không chết, nhưng nó phát triển một cách âm thầm, không ồn ào, không rùm beng quảng cáo.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn còn có những người vì yêu thương mà hết năm này qua năm khác, hy sinh cả cuộc đời để chăm sóc cho những kẻ ốm đau. Ngày hôm nay vẫn còn có những người dâng hiến bản thân để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.
Ngày hôm nay vẫn còn có những ông chồng, mặc dù đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, vẫn trung thành với người vợ bệnh tật và vẫn luôn chịu khó làm lụng để chăm sóc cho đàn con thơ dại. Ngày hôm nay vẫn còn những người vợ ân cần lo lắng cho chồng, cho con, mặc dù người chồng thì độc ác và con cái thì ngang bướng ngỗ nghịch.
Vậy đâu là suối nguồn mang lại sức mạnh nâng đỡ cho những tình yêu yêu cao đẹp ấy? Câu trả lời duy nhất, đó là sức mạnh và vẻ cao đẹp của tình yêu chỉ có thể xuất phát từ nơi Thiên Chúa, từ nơi Đức Kitô mà thôi.
Đúng thế, tình yêu cũng có cái gia phả, cũng có cái gốc gác và cội nguồn của nó. Nó xuất từ nơi Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch mọi thương yêu, như lời thánh Gioan Tông Đồ đã xác quyết: Thiên Chúa là tình yêu. Rồi từ đó, vũ trụ vạn vật và nhất là con người đều là những dấu chỉ, những biểu hiện của một tình yêu bao la mà Ngài đã thực hiện mà thôi.
Hơn thế nữa, mặc dù biết trước con người sẽ phản bội, quay lưng chống lại Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương và đi bước trước đến với chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ và thập giá, như lời thánh Gioan Tông đồ cũng đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào danh Con Một Ngài thì sẽ được sống. Chính vì thế, Ngài có quyền đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu thương chân thành, bởi vì tình yêu chỉ có thể được đáp trả bằng tình yêu mà thôi.
Đồng thời Đức Kitô cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu tuyệt vời nhất: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Đúng thế, Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nhờ đó chúng ta được xoá bỏ bản án của tội nguyên tổ, lấy lại địa vị làm con cái Chúa. Kể từ nay, chúng ta là anh em một nhà vì có chung cùng một người cha là Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài đã truyền dạy: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Đồng thời, nhờ tình bác ái yêu thương đối với anh em, mà chúng ta trở nên người môn đệ đích thực của Chúa: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Như vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, đó là giới luật yêu thương. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta nơi những người anh em. Ngài hẹn gặp chúng ta nơi những kẻ bất hạnh và khổ đau, như lời Ngài đã phán: Tất cả những gì các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất, là các con đã làm cho chính Ta vậy. Thế nhưng, liệu chúng ta có thực sự tìm gặp Chúa nơi những người anh em của mình hay không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Kết thúc đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay, Chúa Giêsu đã “bỏ nhỏ” với các môn đệ yêu dấu của mình một câu rất ngắn gọn: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”.
“Môn đệ của Thầy” là gì? “Môn” tức là cửa (“cửa” ở đây được hiểu là cửa trường); “đệ” là em. Như thế, “môn đệ” nghĩa là người học trò được coi như em. Môn đệ của Thầy Giêsu nghĩa là người được học dưới mái trường Giêsu và được Chúa Giêsu coi như là em của Ngài. Được làm em của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là được làm con của Chúa Cha trên trời, được đồng thừa tự với Đức Kitô. Đây quả là một niềm vinh dự lớn lao. Vinh dự quá đi vì một thụ tạo thấp hèn lại được làm người học trò của Giêsu Vị Thầy Chí Thánh, và hơn thế còn được Ngài coi như người anh em của Ngài nữa!
Ở đời, nếu được thụ huấn với một giáo sư, tiến sĩ nào đó danh tiếng lẫy lừng, có lẽ ta sẽ tự hào lắm lắm, và nếu được làm anh em kết nghĩa với một nhân vật nào đó có quyền cao chức trọng nữa, ta lại càng tự hào và càng hãnh diện nhiều hơn. Vậy lẽ nào ta lại không hãnh diện, không tự hào khi được làm người môn đệ của Đức Giêsu Kitô, tức là được làm người học trò và làm người em của Ngài.
Đâu là “dấu” để người ta nhận ra mình là môn đệ của Đức Giêsu? Chắc chắn không phải là bộ đồng phục ta mặc trên người, không phải là chiếc khăn ta quàng trên cổ, cũng không phải là cái huy hiệu ta đeo trên ngực… mà đó chính là tình yêu thương ta có đối với anh em đồng loại: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau”. Có điều, yêu thương thì ai lại không biết; tất cả các nhà hiền triết đều mời gọi đệ tử mình sống yêu thương. Vậy yêu thương mà Chúa Giêsu mời gọi ở đây là yêu thương như thế nào?
Thưa là yêu thương “như” Chúa đã yêu thương. Đây là nét mới trong lời gọi mời yêu thương. “Mới” vì yêu thương ở đây không phải là yêu thương chung chung, nhưng là “yêu như Chúa đã yêu”! Cũng phải thôi, “làm môn đệ” của ai thì phải nỗ lực để trở nên giống người đó. Mà nét đặc trưng nơi Thầy Giêsu Chí Thánh không gì khác là tình yêu thương. Chính vì thế trở nên giống Thầy mình cũng có nghĩa là yêu thương như Thầy mình đã yêu.
Ở đây, Chúa Giêsu không còn lấy bất cứ thứ gì khác để làm điểm quy chiếu cho tình yêu, mà là lấy chính tình yêu của Ngài: “Yêu như Thầy”. Sách Đệ Nhị Luật dạy rằng hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Tin Mừng Thánh Mathêu đi xa hơn một chút, khi trích lại lời sách Lêvi: “Đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu mọi người như yêu chính mình” (Mt 22,39). “Như yêu chính mình” nghĩa là lấy bản thân mình làm điểm quy chiếu cho tình yêu đối với tha nhân. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy, một tình yêu ngoài Chúa, một tình yêu không lấy Chúa làm trọng tâm, thì dù có tốt, dù có lấy bản thân làm quy chiếu, vẫn không hoàn hảo được. Chỉ khi biết yêu như Chúa yêu thì tình yêu mới đạt tới mức trọn hảo. Vậy thì “yêu như Chúa yêu” nghĩa là gì?
“Yêu như Chúa yêu” nghĩa là chấp nhận cúi xuống rửa chân cho anh em, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là tự nguyện hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và trao ban như “bạn hữu thân tình”. “Yêu như Chúa yêu” nghĩa là sẵn sàng “yêu cho đến cùng”, “yêu cho đến chết và chết trên Thập Giá”.
Yêu như thế quả là không dễ chút nào. Yêu người “như yêu chính mình” đã khó. “Yêu như Chúa yêu” còn khó gấp bội. Nó như một thách thức lớn đối với bản tính nhân loại bất toàn của ta. Yêu thương những kẻ yêu thương ta thì không nói làm gì, dễ quá! “Yêu như Chúa yêu” ở đây còn bao hàm cả việc yêu thương ngay những kẻ thù của ta. Tức là phải cầu nguyện, phải chúc phúc, phải làm ơn cho họ nữa.
Rõ ràng, đây không phải là điều dễ, nếu không muốn nói là rất khó. Nhưng khó không có nghĩa là không thể thực hiện được. Nhiều anh chị em của chúng ta đã thực hiện được điều khó ấy một cách anh dũng, thực hiện đến nơi đến chốn, nhờ được thấm nhuần lời Chúa dạy. Và họ đã và đang là những môn đệ chân chính, môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Tôi đang làm môn đệ của ai? Câu trả lời tuỳ thuộc vào việc ta đang sống yêu thương hay chối từ sống yêu thương.
Nếu tôi từ chối sống yêu thương cũng có nghĩa là tôi đang từ chối làm môn đệ của Đức Kitô. Và một khi không còn làm môn đệ của Đức Kitô nữa, rất có thể tôi sẽ tự nguyện đầu quân làm môn đệ cho những thứ “thần” khác.
Tôi có thể là môn đệ của “Al Kaeda”, khi tôi thường xuyên “khủng bố” anh chị em mình. Khủng bố không phải bằng việc đánh bom tự sát, hay bằng các thứ vũ khí này kia, nhưng có thể khủng bố bằng những ánh mắt “mang hình thù viên đạn”; khủng bố bằng những lời nói chua cay gắt gỏng, cộc cằn thô lỗ; hoặc khủng bố bằng những thái độ coi thường khinh khi người khác.
Tôi có thể là môn đệ của thần tài, thần Mamon khi tôi coi trọng của cải vật chất hơn anh em và sẵn sàng ăn thua đủ với anh em khi mình bị thiệt thòi mất mát đôi chút. Có người chỉ vì một mét đất mà đưa anh em ra toà, có người chỉ vì một con gà con vịt mà vác dao vác rựa tới nhà anh em láng giềng của mình để thanh toán. Có người chỉ vì một khoản nợ chưa kịp trả đã thuê giang hồ, thuê xã hội đen tới trấn áp và siết hết đồ đạc trong nhà người khác.
Tôi có thể là môn đệ của “thần lưu linh”, khi sáng xỉn chiều say; bày đủ cớ để uống, để nhậu; uống mọi nơi, nhậu mọi lúc. Mỗi khi uống vào là lời ra, uống vào là gây sự. Gây sự với bà con lối xóm, gây sự với vợ con, với anh chị em trong gia đình; thậm chí còn đập phá đồ đạc, rồi đánh vợ đánh con, khiến cho gia đình lúc nào cũng lục đục, căng thẳng và ngột ngạt như một hoả lò.
Tôi có thể là môn đệ của “thần đỏ đen”, khi sẵn sàng sát phạt anh chị em và vô tâm làm cho anh chị em mình đau khổ, gia đình xào xáo, thậm chí là ly tán. Hết số đề lại đến cá độ, hết cá độ lại sang bài cào hay tiến lên… Đồ đạc trong nhà cứ thế mà đội nón ra đi không một lời giã biệt; vợ con, cha mẹ người thân vì thế mà cũng tê dại cả nhà.
Tôi cũng có thể là môn đệ của của “thần sắc dục”, khi tôi bất trung phản bội với người bạn đời của mình – vợ con, chồng con lăng nhăng, để rồi tự huỷ hoại thanh danh của mình và gia đình mình,…
Tắt một lời, khi không còn là môn đệ của Đức Kitô nữa mà là môn đệ của các thứ “tà thần” trên thì hậu quả tất yếu sẽ là bất hạnh và đau khổ triền miên.
Chớ gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta luôn biết ý thức rằng được làm môn đệ của Chúa Kitô là một niềm vinh dự và niềm hạnh phúc lớn lao; nhưng đồng thời cũng là một bổn phận nặng nề, bổn phận phải sống yêu thương, yêu thương anh em nhiều hơn. Tất nhiên, khi yêu thương anh em nhiều hơn thì cuộc sống này sẽ phảng phất hương hoa thiên đàng nhiều hơn. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Wiliam Oscar Wilde đã viết về một huyền thoại tình yêu: “Hoạ mi và bông hồng đỏ”.
Một sớm mùa hè, con hoạ mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ:”Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Hoạ mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu một bông hồng màu đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa mất thôi. Hoạ mi không chịu nổi dằn vặt bi thương của chàng. Hoạ mi phải ra tay giúp đỡ.Hoạ mi khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:
– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?
– Hoạ mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Hoạ mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng dậu.
– Chị hồng ơi, có phép mầu nào làm nở cho em một bông hồng đỏ chăng?
– Hoạ mi ơi, đời cần hoa chi cho thương đau?
– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình
– Được, những phép mầu cần phải có máu đỏ.
– Bằng mọi giá chị ạ.
– Bằng giá sinh mạng?
– Kể cả sinh mạng em.
– Hoạ mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu đỏ cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông hồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Hoạ mi đã hót say mê đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng bên cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm nở tươi.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong dạ hội. Điều lạ lùng nhất và cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo cô gái một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.
Hoạ mi yêu người, đã lấy máu và sinh mạng đổi lấy bông hồng. Người thiếu nữ nhận bông hồng giả để chối từ một tình yêu chân thật.
Câu chuyện là một huyền thoại, chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. Tình yêu chân thật phải được trả bằng một giá rất đắt. Chúa Giêsu đã trả giá cho tình yêu chân thật bằng cái chết trên thập giá.
Hoạ mi đã cất tiếng hót bi thương trước khi chết vì muốn hiến tặng đoá hồng tươi thắm nở. Chúa Giêsu trước khi chịu khổ nạn,chịu chết đã để lại cho các môn đệ những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài.”Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chỉ thị này bao hàm mọi chỉ thị khác.
Chữ “như” ở đây thật quan trọng. Chúa Giêsu đã so sánh: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em.
Như Cha đã yêu mến Thầy. Chúa Giêsu đã nhiều lần nói về tình yêu của Chúa Cha dành cho Ngài ( x.Ga 3,35;5,20;17,24). Chúa Cha cũng nhiều lần xác nhận điều này(x Mt 3,17;17,5). Tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con là tình yêu chia sẽ và trao ban.Tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha là tình yêu tôn kính và vâng phục. Chúa Con yêu các môn đệ như tình yêu Chúa Cha đối với Ngài.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết trong thông điệp “Sự Rạng Ngời Chân Lý”: Chữ như này đòi hỏi phải bắt chước Chúa Giêsu, nơi tình yêu của Người mà việc rửa chân cho các môn đệ là một dấu chỉ cụ thể. Chữ như cũng chỉ mức độ mà Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ và các môn đệ cũng phải yêu thương nhau bằng mức độ ấy” (số 20).
Yêu “như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào?
Thầy chấp nhận cái chết thập hình để chuộc tội nhân loại: “Không có tình thương nào cao hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”.
“Thầy không coi anh em là tôi tớ, nhưng Thầy coi anh em là bạn hữu của Thầy”. Ngài là Thầy, là Chúa.Các môn đệ là người, là đệ tử. Nếu Chúa muốn coi các ông là tôi tớ cũng được; nhưng không vậy,Chúa đã coi họ là bạn hữu ngang hàng với Ngài. Bạn hữu tri âm tri kỷ nên “tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy,Thầy đã cho anh em biết”.
Cả cuộc đời của Chúa đã sống tình yêu nhập thể và hiến dâng cho tất cả mọi người.Chúa không để ai về tay không khi đến với Ngài. Kẻ mù được sáng, người què đi được, kẻ điếc nghe được, người câm nói được, những kẻ tội lỗi và những cô gái điếm tìm được ơn thứ tha…
Tình yêu của Chúa Giêsu cao đẹp quá, quý giá vô ngần. “Anh em hãy yêu như Thầy đã yêu”. Lời này quả thật là quá khó đối với con người! Vẫn biết rằng con người chẳng bao giờ yêu nhau tới mức “như Thầy đã yêu”, nhưng lời mời gọi của Chúa vẫn luôn giục giã chúng ta hướng theo đường Chúa đã đi, lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn cho mọi hành động, làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi suy nghĩ, lời nói việc làm của chúng ta. Vì thế,Thánh Gioan khuyên rằng: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.
Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: “Vạn sự đã do tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về tình yêu và đi vào trong tình yêu” ( R.Tagore).
Nhưng đâu là những dấu hiệu để nhận ra là chúng ta yêu thương nhau? Tình yêu không phải là cái gì trừu tượng, nên rất dễ nhận ra. Yêu thương nhau là luôn nghĩ tới nhau. Những người yêu thương nhau thường nghĩ tới nhau; yêu nhau nhiều thì nghĩ tới nhau nhiều, nghĩ tới mà trong lòng cảm thấy vui sướng.
Yêu nhau nên thích gặp nhau. Những người kitô hữu yêu nhau, thì rất thích tụ họp, thích gặp gỡ nhau. Và thường họ tụ họp nhau vào ngày Chúa Nhật, trước hết là để cùng nhau cử hành thánh lễ, sau là để gặp nhau trò chuyện, hàn huyên, giải trí với nhau, chia sẻ tâm tình với nhau. Yêu nhau nên ước muốn điều lành cho nhau. Mong cho nhau được sự may mắn, được thăng tiến, được làm ăn thành đạt, được sức khoẻ dồi dào, được có lòng đạo đức, được mãn nguyện theo ý muốn tốt lành. Và chính vì thế mà những người yêu nhau thường cầu nguyện cho nhau, xin Chúa yêu thương, an ủi, cứu giúp, phù hộ bạn mình.
Yêu nhau nên làm những điều lành cho nhau: có thể đó là sự giúp đỡ khi túng thiếu hay ốm đau, sự chăm sóc sức khoẻ, đời sống tâm linh của nhau, là sự chia sẻ của cải vật chất và tinh thần cho nhau. Giúp nhau củng cố và giáo dục đức tin, giúp hoà giải với nhau, giúp nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, giúp nhau thành đạt trong công ăn việc làm. Dấu hiệu rõ nhất của tình yêu là sự hy sinh cho nhau: hy sinh thì giờ, sức khoẻ, tiền bạc, và thậm chí cả sự sống vì nhau.
Điều cao quý nhất mà chúng ta nên làm cho nhau là mang Chúa đến cho nhau, vì mỗi người kitô hữu khi đã chịu phép rửa đều là đền thờ của Thiên Chúa, trong đó có Chúa Thánh Thần cư ngụ. Điều tốt nhất mà những có đạo có thể làm là mang đến cho nhau Chúa Thánh Thần là Niềm vui ở trong Thiên Chúa và là Nguồn vui của chúng ta. Thánh Thần làm cho chúng ta gắn bó mật thiết với Thiên Chúa và nên một với nhau.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con tập sống yêu thương “như Thầy đã yêu” khi thực thi lời Chúa dạy ” Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là làm cho cho chính Ta”.
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đó là lệnh truyền, lời trăn trối, là di chúc của Chúa Giêsu. Đó là điều đảm bảo sự sống đời đời cho chúng ta là môn đệ bước theo Ngài.
Thật vậy, trong bữa tiệc ly, trước khi đi vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã để lại cho các Tông đồ và cho tất cả những người đi theo Chúa lời tâm huyết: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Đây còn là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!
Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ và là dấu chỉ cho mọi người nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.
Yêu thương nhau, đâu phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy. Người ta từng nói: bốn biển là anh em (tứ hải giai huynh đệ) hay Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.
Đối với Kitô giáo, yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu. Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em máu mủ”, cũng không còn là “bản thân mình” nữa nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã bằng chứng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo léo khi so sánh: “Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga15, 13). Hẳn thật đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh vào thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi con người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.
Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt Phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải “yêu thương anh em”, yêu thương người khác “như chính Ngài đã yêu thương” mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.
Chính tình yêu thương vô vị lợi, bao dung này sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ của Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn của các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.
Trong cuộc sống hàng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến cuộc sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu tha nhân trong mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay danh xưng để chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta đối với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì: “người ta cứ dấu này mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”.
“Như thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”.
Vậy, ai không yêu thương nhau, người ây không xứng là người kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.
Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục sống đức tin, làm chứng về đức tin mà mình lãnh nhận từ khi lãnh bí tích Rửa Tội, đó là bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoàng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, vị Mục Tử Tối cao đã hy sinh tính mạng vì yêu thương chúng con. Chúa yêu chúng con và Chúa muốn chúng con hạnh phúc, được hạnh phúc đời đời với Chúa ngay khi còn sống ở đời này, xin cho chúng con biết sống đức tin chính là giữ lời Ngài truyền dạy, đó là yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng con. Amen.
11. Giáo Hội chia sẻ tình thương – Cố Lm Hồng Phúc
GIOAN phác họa bối cảnh của bài Phúc Âm hôm nay: căn nhà Tiệc ly nơi Chúa và các môn đệ dùng bữa cuối cùng. Bầu khí ngột ngạt vì Giuđa con người phản Thầy bán Chúa còn ở đó. Sau khi bị Thầy tế nhị vạch mặt, Giuđa đứng dậy bỏ ra. “Trời đã tối!” Chúa Giêsu như trút được khối nặng; tình thương không còn bị dày vò bởi phản bội, Ngài kêu lên: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển với Người”.
Giờ Ngài đã đến. Cả cuộc đời của Chúa đều hướng vọng về giờ này.
Giờ đau thương nhưng cũng là giờ vinh hiển. Giờ tử nạn nhưng cũng là giờ sống lại. Mầu nhiệm Thánh giá và mầu nhiệm khải hoàn vẫn gắn liền với nhau, mà chúng ta cùng tuyên xưng trong mỗi thánh lễ: “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi, con tuyên xưng Ngài đã sống lại, con mong đợi Ngài lại đến”.
Trong giờ quan trọng đó, giờ gặp gỡ để biệt ly: “Thầy chỉ còn ở với con ít nữa thôi”, Chúa Giêsu đã bộc lộ tâm hồn và ban cho các môn đệ luật Bác ái thương yêu.
Đây không phải chỉ là một răn giới chung như trong Cựu ước, mà là một lời di chúc: Giáo hội của Ngài phải là một Giáo hội chia sẻ Tình Thương.
Trong đêm Thứ Năm Thánh này, Ngài muốn rằng các môn đệ phải sống tinh thần tập thể mà mối giây liên lạc khăng khít là tình bác ái yêu thương như Ngài đã thương yêu họ. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con hãy yêu thương nhau”.
Mối tình ấy phản ảnh tình yêu Thiên Chúa, bắt nguồn từ Tình Yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con và tuôn chảy vào chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Càng sống mật thiết với Chúa thì càng biết thương yêu anh em, nhất là những người nghèo khổ.
Mẹ Têrêxa, Ấn độ nói với các tập sinh: “Chúng con đã được rước Chúa trong Thánh Thể, bây giờ hãy đi sờ đụng Chúa trong người nghèo khổ. Chúng ta là những người chiêm nghiệm trong hoạt động. Chúa không đòi chúng ta phải thành công, nhưng phải chung thành, yêu mến” (Messagère de l’Amour de Dieu – Edouard Le Joly).
Đức Bác ái không phải là một lời khuyên mà là một lệnh truyền, hơn nữa là một điều răn mới: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là hãy yêu thương nhau. Như Thầy đã yêu thương các con thì các con cũng hãy yêu thương nhau”. Chúa còn thêm rằng đây là một dấu chỉ: “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau”.
YÊU THƯƠNG anh em là sống tinh túy của Đạo. Có thể rằng trong vài đạo giáo có sự đọc kinh nhiều hơn đạo ta, như Hồi giáo với 5 lần kinh nguyện trong ngày hướng về La Mecca. Có thể có đạo giáo với sự hãm mình phạt xác, diệt dục nhiều hơn ta như Ấn-độ giáo. Nhưng cái đặc điểm Đạo thánh ta phải là Tình Yêu, “nhờ dấu ấy, người ta mới biết chúng con là đồ đệ Thầy”. Giáo hữu tiên khởi đã hiểu và đã thực thi bác ái đến độ mọi người chung quanh đều kêu lên: “Kìa xem họ thương yêu nhau”.
Ngày nay, những người chung quanh ta, những “dân ngoại” của thời đại có quan niệm về chúng ta như vậy không
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng con.
NHẬP LỄ
Có thể nói: Trong cuộc sống, Tình Yêu vừa là Cùng Đích vừa là Động Lực thúc đẩy con người. Tình Yêu vừa chiếm vị trí quan trọng trong tương giao với người khác, vừa là cách hoà hợp cho con người hạnh phúc trong Thiên Chúa.
– Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban cho chúng con đức tin / tin nhận Chúa trong cuộc đời chúng con. (Xin Chúa thương xót…)
– Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã đổi mới mọi sự, dọn sẵn trời mới đất mới cho chúng con. (Xin Chúa Kitô thương xót…)
– Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa muốn kiện toàn tình yêu chúng con nên giống Tình Yêu của Chúa. (Xin Chúa thương xót…)
GIẢNG
Nói theo Thánh Gioan: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8b) thì Tình Yêu đã có cùng với Thiên Chúa. Chính từ Tình Yêu của Thiên Chúa và con người được chia sẻ Tình Yêu ấy, nên Tình Yêu cùng đồng hành và đi vào cuộc sống con người. Ông Ađam được Thiên Chúa ban cho quyền làm chủ mọi loài Thiên Chúa đã dựng nên. Thiên Chúa dẫn chúng đến với ông Ađam, để hễ ông đặt tên cho nó là gì thì nó là thế. Nhưng ông Ađam vẫn “không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2,20b), đến nỗi Thiên Chúa phải “lấy cái xương sườn” của ông, để tạo sinh bà Evà và dẫn bà đến với ông. Cho đến giây phút này, ông Ađam mới reo vui lên: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (2,23a). Tình Yêu đã làm cho cuộc sống gia đình có hương vị. Một thi sĩ viết: “Yêu chẳng phải là chương trình định sẵn, nhưng là phút giây làm sáng cả lòng ta” (De Belloy, câu 23, Danh ngôn Tình Yêu, Nxb Đồng Nai 1995). Không có Tình Yêu, cuộc đời quả là bóng tối. Bởi thế, người Á Đông cũng đã nói: “Tứ hải giai huynh đệ” -bốn bể cùng là anh em, hay “Thương người như thể thương thân”, luật Dothái nói: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19,18b).
Nếu Tình Yêu là vấn đề muôn thuở và mọi người đều được dạy dỗ phải yêu thương, thì tại sao hôm nay Chúa Giêsu lại tuyên bố với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34a)? Tình Yêu Chúa Giêsu mới ở điểm nào? Phải đọc thêm câu nói của Chúa, chúng ta mới có thể thấy được tính chất đó: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (13,34b). Người ta nói “tứ hải giai huynh đệ”, nhưng dường như người ta chỉ xem như anh em những ai theo phe cánh, ủng hộ ý kiến, cách làm ăn của họ; cùng lắm, vì người đó là đồng hương, đồng liêu, đồng môn… y như người Do thái chỉ xem là anh em những ai đồng tộc, đồng tôn giáo; cho nên mới có yêu nhau “như chính mình”, “thương người như thể thương thân”. Nghĩa là tình yêu được ban ra, nhưng thực chất vẫn là quy về chính mình: “bánh ích đi, bánh quy lại”. Như vậy, tính chất mới mẻ trong Tình Yêu của Chúa Giêsu không quy về mẫu mực tình ruột thịt hay bản thân mình, nhưng quy về mẫu gương của chính Chúa -“như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cả cuộc đời Chúa Giêsu đã không ngừng trao ban Tình Yêu. Người yêu thương cho đến cùng: “Không ai có Tình Thương lớn hơn Tình Thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (15,13). Người ta có thể chết vì người lành, không ai dám chết vì người tội lỗi. Thế mà Chúa Giêsu đã chết cho mọi người, mà mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa! Chúa Giêsu yêu thương là để thể hiện Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, một Tình Yêu phổ quát, vô vị lợi; một Tình Yêu làm dấu chứng sống động Thiên Chúa đang hiện diện. Bởi đó, Chúa Giêsu cũng mong ước các môn đệ của Người thể hiện Tình Yêu sao cho người khác cảm nhận được Thiên Chúa đang hiện diện bên họ và nhờ đó: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng thương nhau” (13,35). Như thế tính chất Tình Yêu nơi Chúa Giêsu không chỉ là nhu cầu đáp ứng tình cảm thụ ơn “có qua có lại mới toại lòng nhau”, nhưng còn là cách thế để Thiên Chúa bày tỏ quyền năng hiện diện của Người. Con người được Thiên Chúa sinh ra để sống cho Thiên Chúa và sống quy về Thiên Chúa. Nói cách khác: Con người được tạo dựng trong Tình Yêu của Thiên Chúa và được hướng dẫn sống trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc đích thật và tuyệt đối của con người.
Thế nhưng, trong thực tế, cuộc sống không đơn giản! Nhiều khi ngay trong gia đình -nghĩa là giữa những người thân ruột thịt- Tình Yêu vẫn vắng bóng! Tình Yêu vẫn chưa là dấu chứng Thiên Chúa hiện diện! Chúng ta vẫn lấy lẽ “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”, người ta đối xử với tôi thế nào, tôi sẽ đối xử lại như vậy, “mắt đền mắt, răng đền răng”. Quan hệ cư xử của chúng ta còn mang nặng tính vụ lợi, hơn thua vật chất, chẳng những đã không nói lên được niềm tin vào Thiên Chúa, trái lại còn là lối sống phản chứng, khiến người khác tránh xa Thiên Chúa! Như thế không phải là phá Đạo, là chối Đạo sao?
“Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Đó không chỉ là lời khuyên của Chúa Giêsu với các môn đệ nữa, nhưng còn là lý tưởng mục đích cuộc sống chúng ta; bởi vì chỉ có sống Tình Yêu như Chúa Giêsu là phổ quát, là vô vị lợi, chúng ta mới tìm được và đạt được hạnh phúc đích thật cho chính mình.
Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Thiên Chúa. Xin Người đổ tràn Tình Yêu của Người xuống lòng chúng con, giúp chúng con sống điều răn Yêu Thương mới của Chúa Giêsu cho xứng danh môn đệ Chúa hơn.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Ðề: Giới luật yêu thương
Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không yêu thương.
Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.
Gợi ý sám hối
Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.
Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.
Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.
III. Lời Chúa
Bài đọc I (Cv 14,21-27)
Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không chỉ lo rao giảng Tin Mừng cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là “tái truyền giáo”.
Tái truyền giáo của hai vị gồm: (1) Củng cố tinh thần kitô hữu; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.
Tin Mừng (Ga 13,31-35)
Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý:
Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: “Chúng con hãy yêu thương nhau… Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau”.
Bài đọc II (Kh 21,1-5)
Thị kiến về thành Giêrusalem mới:
Thành này từ trời xuống
Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại
Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.
Gợi ý giảng
* 1. Yêu thương kiểu mới
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới?
Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.
Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:
Chi tiết thứ nhất là câu “Khi Giuđa đi rồi”: Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao? Có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau:
là làm hòa với những kẻ ghét mình
là cầu nguyện cho kẻ ghét mình
là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
* 2. Như thầy đã yêu (Ga 13,31-33a. 34-35)
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ:
– Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy?
Chị đáp:
– Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa?
– Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao?
– Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
***
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như “Bạn hữu thân tình”.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là “Yêu cho đến cùng”, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu “Như Thầy đã yêu”.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám quên mình, “bắt chước” Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng “mức độ” như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu “Như Thầy đã yêu” không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
***
Lạy Chúa. nếu đồng phục của người Ki tô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc)
* 3. Yêu thương người ruột thịt
Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên, đó là chính những người ruột thịt.
Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này: “Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật não nề!” Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày!
Khi còn nhỏ, anh chị em ruộït thịt một nhà sống với ngay thật là thân thiết yêu thương: ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ chung… Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng, gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng: “Người mà tôi thù ghét nhất, đó là… chị tôi!”. Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng, có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là: Ganh ghét và thụ động.
Thứ nhất: ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét: Cain đã ganh với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn, hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn… khiến tôi bực bội khó chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này: bởi vì chúng ta đều biết ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.
Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm… Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà, mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng ta cần lưu ý: là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự nự, gây chuyện nhiều nhất.
Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột thịt bất hoà với nhau: một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau? Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục ngữ ta có câu “Chị ngã em nâng”. Đó là những anh chị em thương yêu nhau thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì “Chị ngã, em dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí!
Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào?
– Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì cần gì nâng đỡ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.
– Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại. Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi, đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than: “Lúc này tôi hoàn toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi”. Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét: Ít có người đã tự tử vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn. Tự tử phần hồn là gì? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.
Một vị thánh đã nói “Yêu thương phải bắt đầu từ những người thân rồi mới lan xa tới những người khác”. Những người thân mà chúng ta đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.
* 4. “Cứ dấu này mà người ta nhận biết…”
Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác.
Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi:
– Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá!
Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại:
– Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm…
– Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.
– Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.
Ông chủ giải thích:
– Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra dược trái nào cả!
Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.
Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau!
Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói: “Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla”. Mẹ Têrêsa đáp: “Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa” (FM)
* 5. Sức mạnh của yêu thương
Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói: những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại: người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy đã giúp họ sống.
Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta, giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.
Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết: “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống”.
Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.
Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu? Tự do không bị trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính là sống.
Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết: lúc sắp chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền… Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những người yêu họ. (FM)
* 6. Những loại tình yêu
Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm.
Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại:
Thứ nhất là tình yêu vụ lợi: ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.
Thứ hai là tình yêu lãng mạn: chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.
Thứ ba là tình yêu “dân chủ”, dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta.
Thứ tư là tình yêu nhân bản: đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể: tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.
Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong “được người yêu” hơn là “yêu người”. Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ… Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta “yêu người” thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta.
Có 3 tình trạng yêu thương: (1) Không yêu và không được yêu: tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này; (2) Yêu mà không được yêu lại: tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất; (3) Yêu và được yêu: đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu:”Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con”.
Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)
* 7. Chuyện minh họa
Có hai anh em nhà kia: người anh tên Stephen 12 tuổi có một chân què; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì đủ hai chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy. Stephen chẳng chút do dự ước ngay: “Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ”. Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi:
– Bà làm gì thế?
Phù thuỷ đáp:
– Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.
– Không thể được.
– Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.
Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ: “Tôi không muốn có đôi chân lành lặn nữa.”
Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.
Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, di chúc của Chúa Giêsu gồm tóm trong một câu: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Với quyết tâm sống theo điều răn mới của Chúa, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin:
Hội thánh có một bí quyết hết sức hữu hiệu để phản đối sự độc ác của con người / đó là bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết cố gắng tận dụng bí quyết này trong đời sống chứng nhân của mình.
Hiện nay / chiến tranh / hận thù / khủng bố / kỳ thị chủng tộc / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Thánh thần Tình yêu tác động đến lòng trí con người hôm nay / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
Lòng bác ái thì nhẫn nhục / hiền hậu / không ghen tương / không vênh vang / không tự đắc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu / biết sống theo lời dạy của thánh Phaolô tông đồ.
Lòng bác ái tha thứ tất cả / tin tưởng tất cả / hy vọng tất cả / chịu đựng tất cả / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cố gắng thực hiện lời khuyên nhủ của vị tông đồ dân ngoại.
Chủ tế: Lạy Chúa, thánh Phaolô đã dạy chúng con: Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật. Vậy xin Chúa thương ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn vẹn điều răn mến Chúa yêu người. Chúng con cầu xin
Trong Thánh Lễ
– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là con của cùng một Cha trên trời. Chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta biết yêu thương nhau như những người anh chị em ruột thịt.
VII. Giải tán
Anh chị em hãy ghi nhớ lời Chúa dạy hôm nay: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”.
(Suy niệm của Lm Trọng Hương)
Hạt giống
Đoạn Tin Mừng này là một phần của bữa tiệc ly. Có 3 chi tiết đáng lưu ý:
Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự khi được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
Trước lúc bước vào con đường thập giá, Đức Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài: “Chúng con hãy yêu thương nhau… Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau”.
Nẩy mầm
Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thi hành ý muốn Chúa Cha. Do tình yêu, người ta cũng lấy làm vinh dự được chiều ý người mình yêu. Thánh Phaolô nói “Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô”. Các tông đồ sau khi bị bắt nhốt trong tù và bị đánh đòn, đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Nếu ta không lấy làm vinh dự làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa, đó là dấu ta chưa yêu Chúa.
“Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau”: Yêu thương nhau là điều răn của Chúa. Chúng ta yêu thương nhau là tâm huyết của Chúa. Như thế, khi chúng ta không yêu thương nhau thì không phải là chúng ta chỉ lỗi phạm đến nhau mà là xúc phạm đến chính Chúa, xúc phạm đến điều quan trọng nhất trong Đạo Chúa.
“Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau”: Tại sao người ta không tin vào Giáo Hội? Tại sao người ta không đánh giá cao cộng đoàn của chúng ta? Đức Giêsu đã trả lời trước từ lâu rồi: tại vì chúng ta không yêu thương nhau.
Một bề trên tu viện công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy mã lạp sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông:
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình.” Và ông giải thích: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài.”
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích “Món quà giáng sinh”)
(Tổng Hợp từ R. Veritas)
Tình yêu là một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời buổi kim tiền hôm nay. Tình yêu là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện ở mọi nơi, mọi ngõ ngách của cuộc sống. Tình yêu xuất hiện trên báo chí và sách vở, trên phim ảnh và mọi ngành nghệ thuật. Những bài tình ca, những cuốn phim nói về tình yêu. Những cuốn sách, những vần thơ được viết ra để ca ngợi tình yêu… Tất cả đã thu hút con người về với tình yêu. Có vẻ như tình yêu hiện diện ở khắp mọi nơi và chi phối đời sống của mọi con người.
***
Bạn thân mến! Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tình yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13:34)
“Yêu thương nhau” không những là một lời khuyên mà còn là một lệnh truyền của Chúa Giêsu, là đặc điểm của những người theo Chúa, là sứ mệnh của mỗi người Kitô.
“Yêu thương nhau” là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, yêu những người xem ra có lợi cho mình, yêu theo bản tính ích kỷ của mình. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải yêu nhau như Chúa đã yêu.
“Yêu như Chúa yêu” là phải hy sinh quên mình, phải khiêm nhường phục vụ anh em. Yêu như Chúa yêu là phải yêu cả những người bé nhỏ nghèo hèn, yêu cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa.
“Yêu như Chúa yêu” là phải không ngừng tha thứ, không ngừng làm hoà với nhau.
“Yêu như Chúa yêu” là sự sống của Giáo Hội, là nét cao đẹp của người Kitô. Nét cao đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét cao đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến với Chúa.
“Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga.13:35). Không còn nhầm lẫn nào nữa. Muốn làm môn đệ Chúa Giêsu, ta phải yêu như Chúa yêu. Tình yêu của Đức Giêsu không phải tự Ngài nghĩ ra, không phải phát xuất từ chính Ngài, nhưng bắt nguồn từ Chúa Cha: “Như Cha đã yêu mến Thày thế nào, Thày cũng yêu mến anh em như thế”. (Ga.15:9).
***
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.
Một lời hết sức tự nhiên trong lời từ giã là phải nói về sự ra đi của mình. Chúa Giêsu đã làm như thế đối với các môn đệ của mình. Tuy nhiên Chúa báo trước cuộc đi xa này bằng từ ngữ rất khó hiểu đối với các môn đệ: Ngài sẽ được “vinh hiển” và cũng làm vinh hiển Cha qua cái chết và sự sống lại. Ngài tỏ bày vinh quang theo bốn phương diện:
1) Vinh quang của Chúa Giêsu đã đến, vinh quang đó là thập giá.
Sự căng thẳng đã qua đi, mọi nghi ngờ còn lại đều được cất đi. Giuđa đã ra đi và thập giá chắc chắn phải đến. Vinh quang của Chúa Giêsu là thập giá. Ở đây chúng ta đang đối diện với thực tế của cuộc đời. Vinh quang rạng rỡ nhất trong đời sống là vinh quang đến từ sự hy sinh.
Có hai thanh niên rất yêu thích hội hoạ. Họ kết thân với nhau, vừa làm việc, vừa học vẽ. Một thời gian sau, không có đủ tiền cho cả hai cùng học. Họ quyết định một người lao động để nuôi người kia học cho tới khi thành tài, rồi đến lượt người này đi học. An-béc-sơ học trước, qua bao năm tháng miệt mài, khổ công, An-béc-sơ trở thành một hoạ sĩ nổi danh và anh đem bán những bức tranh lấy tiền nuôi bạn học vẽ, nhưng dầu đã cố gắng hết sức, anh bạn của An-béc-sơ không sao vẽ nổi. Đôi bàn tay anh lao động đã trở nên thô cứng, không thể điều khiển bút vẽ được nữa. Khi biết sự thật ấy, An-béc-sơ khóc, ôm bạn nói: “Đôi bàn tay chai sần của anh đã giúp phần vào những bức vẽ của tôi. Nếu không có đôi bàn tay anh, những bức tranh này không bao giờ thành hình cả”. Hãy cho phép tôi hoạ lại đôi bàn tay của anh”.
Bức tranh ấy, với một đôi bàn tay lao động, đã trở thành tác phẩm nổi tiếng của nền hội hoạ thế giới, hiện nay đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở Mỹ.
Trong y học, người ta không nhớ những thầy thuốc làm giàu do nghề nghiệp, nhưng nhớ những người đã hy sinh mạng sống để chữa lành nỗi đau đớn của con người. Tại một hội nghị chuyên đề về bệnh cùi được tổ chức tại Cairô, thủ đô Ai Cập, có một y sĩ trẻ người thành Alexandria được người ta để ý, anh chăm chú nghe các bài thuyết trình của các chuyên gia, nhưng có một điều lạ là anh luôn ngồi tách rời với đám đông, trong một góc nhỏ. Không ai biết anh dùng bữa ở đâu. Anh cũng không giao thiệp với bất cứ một thành viên nào của hội nghị. Vào phiên họp cuối cùng anh lên tiếng. Khi anh tóm kết bài tham luận, một sự im lặng như chết bao trùm cả phòng họp; nhiều người bật tiếng khóc. Anh nói gì? Anh tuyên bố rằng anh đã tự nguyện để nhiễm bệnh cùi, để có thể tự anh quan sát diễn biến của cái bệnh kinh khủng này. Anh cho thấy những vết trắng và nâu ở cánh tay anh, một triệu chứng không thể chối cãi của sự nhiễm trùng, và rồi anh mô tả tất cả những gì anh đã cảm thấy, cùng hiệu quả tất cả các thuốc anh đã dùng. Anh biết rằng anh không thể tránh được cái chết từ từ và đau đớn, nhưng anh sẵn sàng chịu đựng tất cả để giúp phần vào sự tiến bộ của khoa học, hầu đẩy lui những hiểm nguy cho các người mắc bệnh. Loài người chỉ biết cúi đầu khâm phục trước sự hy sinh của những người tự nguyện chấp nhận cái chết để cứu đồng loại.
Trong mọi cuộc chiến tranh, vinh quang tuyệt đỉnh không thuộc về những người sống sót mà thuộc về những người đã bỏ thây nơi chiến trường. Bài học đơn giản của lịch sử là những người chịu hy sinh lớn thì nhận được vinh quang cao cả. Nhân loại quên đi những người thành công nhưng chẳng bao giờ quên ơn những người dám hy sinh. Họ bước đi trong các vết chân của Chúa Kitô.
“Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì người lương thiện, thế mà Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi”(Rm 5,6-8).
2) Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa được tôn vinh
Chính sự vâng phục của Chúa Giêsu đem lại vinh quang cho Thiên Chúa. Chỉ có một cách để chứng minh lòng kính yêu, ngưỡng mộ và tin cậy một lãnh tụ là vâng phục vị lãnh tụ ấy, vâng phục cho đến cuối cùng, dầu phải nếm mùi đắng cay. Cách thế duy nhất để một người con có thể đem lại vinh dự cho cha mẹ ấy là vâng phục cha mẹ. Chúa Giêsu đã đem vinh quang tối cao cho Thiên Chúa, vì Ngài tuyệt đối vâng lời Thiên Chúa, dầu phải đi đến Núi Sọ.
3) Trong Chúa Giêsu, Chúa Cha tự tôn vinh chính Ngài.
Có một tư tưởng lạ lùng, ấy là vinh quang tối cao của Thiên Chúa lại do sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu. Chẳng có vinh quang nào như vinh quang của việc được yêu thương. Nếu Thiên Chúa cứ giữ sự xa cách, uy nghiêm, bình thản, không xúc động trước bất cứ sự sầu khổ, đau đớn nào thì người ta có thể sợ hãi Ngài, có thể chiêm ngưỡng Ngài, nhưng họ sẽ chẳng bao giờ yêu mến Ngài. Định luật hy sinh không chỉ là một định luật của thời gian, nhưng là của cả trời và đất. Chính trong sự nhập thể và thập giá của Chúa Giêsu, vinh quang tối cao của Thiên Chúa được tỏ ra. Chúa Giêsu là vinh hiển của Thiên Chúa. Vinh hiển của Thiên Chúa không biểu lộ trong sự nghiền nát con người, xô đẩy họ xuống địa vị thấp hèn, nhưng còn biểu lộ trong sự phục vụ, thương yêu con người, và chết thay cho con người. Vinh hiển của Chúa không phải là vinh hiển của quyền lực đánh đổ, nhưng là vinh hiển của tình yêu chịu khổ.
4) Thiên Chúa sẽ tôn vinh Chúa Giêsu.
Đây là một mặt khác của vấn đề. Hiện giờ thập giá là vinh quang của Chúa Giêsu, nhưng kế đến còn nhiều hơn thế nữa, sự phục sinh, sự thăng thiên, sự toàn thắng vẻ vang cuối cùng của Chúa Cứu Thế là điều Tân Ước muốn nói tới khi đề cập đến việc trở lại trong vinh quang của Ngài. Tại thập giá, Chúa Giêsu được vinh quang riêng cho Ngài, nhưng sẽ đến ngày, một ngày chắc chắn, lúc vinh quang của Chúa Giêsu được tỏ bày cho thế giới và toàn thể vũ trụ. Sự tôn cao Chúa Giêsu phải tiếp theo sự sỉ nhục Ngài đã chịu, việc Ngài lên ngôi phải theo sau việc Ngài chịu đóng đinh. Chiếc mũ gai phải biến thành vương miện vinh hiển. Chiến dịch là chiến dịch của thập giá, nhưng nhà Vua sẽ bước vào chiến thắng khải hoàn mà cả thế gian đều trông thấy.
17. Để nhận ra người môn đệ chân chính
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trong giờ hấp hối, khi sắp từ giã những người thân yêu nhất để vĩnh viễn ra đi sang thế giới khác, người hấp hối cố tranh thủ chút thời gian vắn vỏi còn lại và dành chút hơi tàn để căn dặn người thân yêu những điều mà họ cho là quan trọng nhất.
Chúa Giêsu cũng thế. Khi sắp từ giã các môn đệ để chịu khổ nạn và chịu chết, Chúa Giêsu trao cho họ những lời tâm huyết sau cùng: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau…”
Chúa Giêsu không muốn các môn đệ Ngài yêu thương nhau hời hợt bề ngoài, nhưng muốn họ yêu thương theo một mức độ lớn lao, nên nói thêm: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Rồi Đức Giêsu nhấn mạnh: “Người ta sẽ căn cứ vào dấu hiệu nầy để nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em thương mến nhau.”
Như thế, nếu kẻ nào không thương mến tha nhân, thì người đó chưa phải là môn đệ thật của Chúa Giêsu, mà chỉ là người môn đệ giả.
Trên thị trường ngày nay, có vô số đồ giả: vàng giả, tiền giả, thuốc giả, hàng giả xen lẫn với hàng thật. Đối với phần đông dân chúng, thì việc phân biệt đâu là hàng thật, đâu là giả quả là điều rất khó khăn.
Trong đạo thánh Chúa cũng vậy. Có nhiều Kitô hữu giả trà trộn giữa các Kitô hữu thật, muốn phân biệt ai giả ai thật, cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nên Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta dấu hiệu phân biệt rất chính xác. Dấu hiệu đó là lòng yêu thương. Ngài dạy: “người ta cứ dấu nầy mà nhận biết các con là môn đệ thật của Thầy, là các con yêu thương nhau.” Nếu có ai đó xưng mình là môn đệ Chúa Giêsu mà không tôn trọng, không yêu thương người khác, thì chắc chắn người đó là môn đệ giả.
* * *
Có người chiêm bao thấy mình từ giã cõi trần tiến đến cửa thiên đàng. Được biết thánh Phê-rô canh cửa thiên đàng rất nghiêm ngặt, xét hỏi kỹ càng trước khi cho vào cửa, nên anh ta mang theo đầy đủ những giấy tờ cần thiết.
Trước hết, anh ta xuất trình chứng thư rửa tội, có chữ ký của cha sở và dấu đỏ của giáo xứ, nắm chắc hy vọng rằng với chứng thư nầy thì thánh Phê-rô sẽ mở cửa thiên đàng cho anh ngay. Nào ngờ, thánh nhân lại lắc đầu từ chối. Thế là anh ta lại xuất trình thêm chứng thư thêm sức, rồi chứng thư hôn phối, cả sổ gia đình công giáo nữa. Vậy mà thánh Phê-rô vẫn khước từ.
“Ngài còn đòi gì nữa? Con còn cả tràng chuỗi đây, cả cuốn sách kinh hôm mai đây. Bấy nhiêu không đủ chứng tỏ con là người môn đệ Chúa Giêsu sao?”
Thánh Phê-rô trả lời: “Con phải mang phù hiệu của người Kitô hữu.”
“Phù hiệu nào nữa, thưa Ngài?”
“Thế con không nhớ lời Thầy chí thánh phán dạy sao: “người ta chỉ căn cứ vào dấu hiệu (phù hiệu) nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con có lòng thương mến nhau. Chưa có lòng thương mến nhau thì con chỉ là Kitô hữu giả hiệu.”
Qua dụ ngôn phán xét chung, Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy. Trong ngày ấy, muôn dân sẽ được tập họp lại và Chúa sai thiên thần tách biệt họ thành hai. Người lành đứng bên phải còn kẻ dữ bên trái. Bấy giờ Đức Vua sẽ phán với những kẻ bên phải rằng: “Nào những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi từ thuở tạo thiên lập địa” vì… các người đã thương mến chăm sóc các anh em bé nhỏ của Ta.
Rồi Chúa quay sang lên án những người bên trái: “Quân bị nguyền rủa kia! Hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó”… vì các ngươi đã không yêu thương chăm sóc các anh em bé mọn của Ta. (Mt 25, 31-46)
Dưới ánh sáng của Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy xem xét lại bản thân mình. Biết đâu ngay cả bản thân tôi cũng là môn đệ giả của Chúa Giêsu mà tôi không hề hay biết!
Hãy rà soát lại xem mình đã tôn trọng, chân thành yêu thương và phục vụ những anh chị em chung quanh chưa? Nếu chưa thì chúng ta vẫn còn là những Kitô hữu giả hiệu, chúng ta không thuộc vào số những người môn đệ chân chính và vương quốc thiên đàng không có chỗ cho chúng ta.
Thày truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Một bác nông dân nghèo túng ngồi trước cửa nhà và than thở vì không biết phải tìm đâu ra tiền để nuôi sống gia đình. Đang lúc rầu rĩ như vậy, thì có một người lạ mặt đi qua, trên tay cầm một con ngỗng. Người khách lạ trao con ngỗng cho bác và nói: bác hãy chăm sóc con ngỗng này, nó sẽ đền đáp cho bác gấp bội. Nói xong người khách lạ bỏ đi. Bác nông dân mang con ngỗng vào nhà và cho nó ăn uống đầy đủ. Bác cũng làm cho nó một cái chuồng nho nhỏ và xinh xinh.
Sáng hôm sau, vừa thức dạy, bác liền đến thăm con ngỗng. Bác nhìn vào trong chuồng và thấy một quả trứng vàng. Bác nhặt lấy quả trứng rồi đem đi bán. Liên tiếp trong một tuần lễ, ngày nào bác cũng nhặt được một quả trứng vàng. Không bao lâu, bác đã mua sắm đầy đủ những thứ cần thiết cho gia đình. Đồng thời bác cũng chăm sóc cho con ngỗng một cách chu đáo.
Thế nhưng, càng có tiền thì lòng tham của bác càng gia tăng. Bác không muốn ngày nào cũng phải đi nhặt quả trứng vàng nữa. Bác muốn tức khắc tất cả kho tàng chứa đựng ở trong bụng con ngỗng. Nghĩ thế cho nên bác mới giết con vật, mổ bụng nó ra, nhưng hỡi ôi, con vật thì đã chết và trong bụng nó cũng chẳng có lấy một quả trứng vàng nào. Giữa lúc bác đang buồn nản và tuyệt vọng, thì người khách lạ xuất hiện. Nhìn thấy cảnh tượng trên, người ấy bèn nói: Tôi đã bảo với bác rằng, nếu bác chịu khó chăm sóc cho con ngỗng của tôi, thì nó sẽ đền đáp gấp bội cho bác. Bây giờ bác đã giết nó thì bác sẽ mất đi tất cả.
Trong một bài hát mang tựa đề: Hãy hy sinh để được thêm một ngày trên cõi phúc, có lời ca như sau: Đừng làm lơ khi băng qua đường giữa lúc người nghèo khổ đang cầu xin được giúp đỡ. Hãy lắng nghe lời khẩn khoản của một bà già nghèo đói. Bởi vì giúp cho bà là bạn sẽ được sống thêm một ngày trên cõi phúc.
Một bản nhạc khác cũng đã nhấn mạnh đến tình yêu thương như sau: Cha ông chúng ta đã dạy chúng ta thế nào là sống bác ái, là sống chia sẻ, nhưng có ai trong chúng ta đã nhớ thực hiện những điều dạy bảo ấy.
Câu chuyện và những bài hát trên làm cho chúng ta nhớ tới hoạt cảnh của ngày phán xét, ngày ấy chúng ta sẽ bị Chúa tra hỏi về điều gì nếu không phải là về những hành động bác ái chúng ta đã làm hay đã không làm cho người khác. Rồi từ đó, số phận đời đời của chúng ta sẽ được ấn định. Vì thế, cốt lõi của cuộc sống là tình bác ái, việc cần phải làm ngay là thực thi giới luật yêu thương, như lời Chúa Giêsu đã nói với chúng ta qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Thày truyền cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau.
Bộ đồng phục của người Kytô hữu đâu có phải là màu áo này màu áo nọ, đâu có phải là những hình thức đạo đức bên ngoài, mà là tình bác ái: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thày, là các con yêu thương nhau. Trở lại với câu chuyện lúc ban đầu: con ngỗng chỉ đẻ được quả trứng vàng, nếu nó được chăm sóc. Còn nếu giết nó đi, loại trừ nó đi, thì nó sẽ trả lại cho chúng ta sự nghèo túng và cô đơn. Đối với người khác cũng vậy, như mộ bài hát đã diễn tả: Kẻ thù ta đâu có phải là người, giết người đi thì ta ở với ai. Nói cách khác, những chăm sóc và giúp đỡ anh em sẽ đem lại cho chúng ta những quả trứng vàng trong ngày sau hết.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Gandhi được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ. Ông say mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi. Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời thích đáng cho những xung đột giữa các giai cấp ở Ấn. Một ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ. Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông nên đến dự lễ ở một nhà thờ khác dành cho người da đen. Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.
Có thể chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi chỉ vì có sự phân biệt màu da nơi nhà thờ.
Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi, họ sống tinh thần Đức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”
Lời trăn trối của Đức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức nhối.
Ở đây Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài, nhưng Ngài đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau.
Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, mới vì Ngài đòi họ phải yêu nhau như Ngài đã yêu họ.
Vấn đề cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.
Trước khi công bố điều răn mới này, Đức Giêsu đã rửa chân cho môn đệ, trong đó có Giuđa. Ngài cúi xuống bên chân Giuđa để bày tỏ một tình yêu. Sau đó Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như đưa ra một vẫy gọi thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26)
Nhưng vô ích, Giuđa không đổi ý. Anh vẫn ra đi để làm điều mình muốn (x. Ga 13,31). Đức Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình. Ngài sẽ yêu đến cùng bằng việc hiến mạng trên thập giá.
Đức Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau.
Nếu ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta, thì ta cũng chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.
Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn… Nhưng theo Đức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của nhóm môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại…
Giữa các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào. Nếu không vượt qua được những hàng rào dị biệt này thì coi như việc truyền giáo bị đổ vỡ.
Tiếc thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu khác màu da, khác văn hoá, khác quan điểm chính trị… Có bất đồng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở Nga, giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen. Đến bao giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy Cha, mừng chung với nhau lễ Phục Sinh trong một ngày, cử hành chung với nhau một phụng vụ.
Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu. Ước gì thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi mời mọi người đặt chân tới.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương lẫn nhau? Có những dấu hiệu nào để nhận ra tình yêu thương đó?
Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, cộng đoàn của bạn có làm chứng đủ về tình yêu thương nhau trước mặt mọi người chưa?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian.
Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng và thiện chí của nhau.
Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi.
Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.
Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt.
Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Là Kitô hữu, bình thường ai cũng muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa trong Hội Thánh. Dĩ nhiên vẫn có đó những Kitô hữu không muốn kẻ khác nhận biết mình là con cái Chúa. Với xã hội rộng lớn, bản thân không nắm rõ. Tuy nhiên ngay trong chính mãnh đất thân yêu Việt Nam này thì đã từng có nhiều người e ngại kẻ khác biết mình là Kitô hữu. Sợ bị thua thiệt về đường công danh, lợi lộc hay học vấn mà nhiều người đã ghi vào lý lịch ba chữ “không tôn giáo”. Ngay cả đến hôm nay, trong các lớp học cấp ba, cao đẳng, đại học, khi mà một số thầy cô còn dè bỉu Công giáo qua các bài học về thuyết tiến hóa, về sự hình thành tôn giáo… Các thầy cô thường lấy chuyện Kinh thánh Ađam – Evà ra mà diễu cợt. Tôi đã nghe nhiều em học sinh, sinh viên thú nhận rằng những lúc ấy các em dường như không muốn ai biết mình là Công giáo. Nhiều thầy cô có thể vì thiếu hiểu biết hay vì cố tình xuyên tạc nên đã có những lời giảng dạy mang tính phê bình chỉ trích tôn giáo, cách riêng Công giáo. Rất nhiều em học sinh, sinh viên viên vì chưa hiểu biết giáo lý, nhất là Thánh Kinh nên có thái độ tự ti là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên bài viết này không trực tiếp đề cập đến cái thực tế đang tồn tại ấy. Xin được mạn bàn về cái dấu chỉ mà Chúa Giêsu nói đến trong đoạn văn Tin mừng Gioan 13,33-35. Dấu ấy là “các con yêu thương nhau”. Yêu thuơng nhau thì cũng có ba bảy đuờng yêu thương. Không phải hễ yêu thương nhau là ta đã là môn đệ Chúa Kitô. Để đích thực là môn đệ của Người thì ta phải “yêu thương nhau như Người yêu thương ta” (x.Ga 15,12). Đây mới chính là dấu chỉ chính danh, chính hiệu.
Vậy thế nào là yêu thương nhau như Chúa Kiô yêu thương ta? Chúng ta vốn quen tai với những dẫn giải rằng phải yêu thương cho đến cùng, phải hiến dâng mạng sống vì người mình yêu, phải cúi xuống rửa chân cho nhau tức là hầu hạ nhau… Rồi phải yêu thương không chỉ người dễ thương mà còn cả những người dễ ghét, những người bắt bớ hoặc đang làm hại chúng ta. Yêu thương nhau như Chúa yêu là giang tay đón nhận cả người phản bội mình làm bạn hữu…Những dẫn giải trên không sai nếu không muốn khẳng định là rất đúng. Tuy nhiên, bản thân vẫn thấy còn lấn cấn chút gì đó trong thực hành.
Thế nào là yêu đến cùng đây? Không lẽ ta phải dùng chính cái chết của mình để minh chứng. Quả thật đã và đang có nhiều người sống yêu thương đến cùng như vậy. Thế nhưng ngoài các Thánh Tử Đạo thì có mấy ai chấp nhận chết vì yêu thương, chưa kể chết cho người tội lỗi. Cúi xuống để hầu hạ nhau ư? Vẫn có đó nhiều người xưng mình là tôi tớ, là đầy tớ mà đâu có chịu cúi xuống. Dù vậy, có ai dám to gan nói họ chưa phải là môn đệ của Chúa. Giang tay ra đón nhận nhau cả những khi họ là người công chính lẫn khi họ là người bất nhân, tàn ác, quả là không mấy dễ dàng. Và tính chất vị tha của tình yêu trong những cách thế ấy hình như chưa mấy rõ nét.
Yêu thương ai là nỗ lực làm cho người mình yêu phát triển và nên tốt đẹp hơn cả mình.
Một trong những cách thế yêu nhau như Chúa yêu ta mà Tin Mừng gợi ý, đó là làm cho người mình yêu được phát triển và gặt hái thành quả hơn cả mình. “không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại…” (Ga 15,16). “Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa…” (Ga 14,12).
Quả thật sau khi Chúa Giêsu về trời và Thánh Thần được ban xuống thì các Tông đồ đã làm được nhiều sự lạ cả thể hơn cả Thầy chí thánh. Các Ngài cũng chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ, phục sinh kẻ chết, rao giảng Tin Mừng mà kết quả xem ra khả quan hơn Thầy khi Thầy còn tại thế. Xưa những ai đụng đến gấu áo của Thầy thì được chữa lành mọi bệnh tật thì nay chỉ cần bóng Phêrô phủ trên ai thì họ đều được chữa lành. (x.Cv 5,15-16).
Chúng ta có thể đã cúi xuống hầu hạ một ai đó nhưng muốn họ hơn cả mình thì còn phải xét lại. Chúng ta có thể đã tận lực tận tâm lo cho một ai đó về thể chất hay tinh thần nhưng với ý hướng là muốn cho họ vượt qua mình thì cũng hơi khó. Một anh chị em dân tộc thiểu số thẳng thắn thú nhận rằng: con có thể giúp cho người xóm giềng làm ăn kinh tế nhưng muốn cho họ giàu hơn con thì con không muốn. Các em thiếu nhi cũng tự nhận rằng bày cho bạn làm toán thì được nhưng không muốn bạn ấy học giỏi hơn mình. Và chính bản thân tôi, một linh mục chính xứ đang có linh mục phó xứ và thầy phó tế phụ giúp, đã nhiều lần tôi hướng dẫn các ngài trong lãnh vực mục vụ và cách thế giảng dạy, tuy nhiên thử hỏi mình có thực tâm muốn thầy sáu hay cha phó có uy tín trước mặt bà con giáo dân hơn mình không. Một câu hỏi thật khó trả lời.
Không phải đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, không phải giữ luật tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, không phải siêng năng lãnh nhận các Bí tích, không phải chuyên chăm đọc kinh, lần hạt… là những dấu chỉ minh chứng ta là môn đệ Chúa Kitô. Những điều ấy tuy là cần nhưng không đủ. Bởi chưng vẫn đó nhiều người đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tham dự Thánh lễ Chúa Nhật đều đặn, thường xuyên lãnh nhận các Bí tích hay siêng năng lần chuổi kính Đức Mẹ mà vẫn sống “không ra người có đạo”, nói theo kiểu cách bình dân. Tất thảy chỉ vì một lẽ này: người ta sẽ nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau, yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con.
Yêu ai mà muốn người mình yêu nên tốt đẹp và phát triển hơn cả mình, đúng là một trong những dấu chỉ minh chứng đó là một tình yêu vị tha, một tình yêu vô vị lợi. Và chắc chắn đó là một trong những cách thế yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu.
Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.
Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.
Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.
Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.
Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.
Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.
Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.
Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?
Anh chị em thân mến.
Trong thời buổi kinh tế thị trường, vấn đề quảng cáo đang là một vấn đề hết sức cần thiết. Từ những phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí. Trên đường đi, nơi nào có thể được là chúng ta nhìn thấy những biễn quảng cáo. Cuối cùng trên sản phẩm, với những nhãn hiệu và những dòng chữ ca ngợi hiệu năng của sản phẩm. Có những sản phẩm còn có dòng chữ: đề phòng giã mạo. Không biết đó có phải là hàng chính phẩm hay không, nhưng vẫn có dòng chữ như thế. Người tiêu dùng bị lẫn lộn trong những thứ giã và thật, vì nhìn vào nhãn hiệu, có khi phân biệt được, có khi đành phải chịu thua, chừng nào đụng đến thực tế thì đành ôm hận.
“Để mọi người nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau.”
Chúa Giêsu cho những môn đệ của Ngài mang một nhãn hiệu, để mọi người nhìn thấy là hàng chính phẩm, là môn đệ thật: đó là Yêu thương. Tình yêu thương không thể giã tạo được. Cũng không phải chỉ là cái mã bên ngoài. Nhưng là cái từ bên trong tâm hồn đã có, mới thể hiện ra bên ngoài cho mọi người nhìn thấy. Tình yêu thương cũng không phải để cho mọi người nhìn thấy mà thôi, nhưng còn là một giới răn, một mệnh lệnh.
Yêu thương như Thầy yêu. Thầy yêu thương không tính toán, cho đi không cần đòi lại, cho đi cả mạng sống vì người mình yêu. Nhãn hiệu Thầy ban như một dấu ấn, ai không mang được nhãn hiệu thì chỉ còn cách ra đi trong đêm tối như Giuda đã ra đi, chính vì ông ra đi nên không nghe được mệnh lệnh và giới răn mà Thầy đã truyền.
“Mọi người nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con yêu thương nhau.” Lời nói đó Chúa Giêsu cũng nói với từng người trong chúng ta, là những người của thời đại ngày hôm nay, những người đang ngồi trong nhà thờ, đang lắng nghe. Chúa Giêsu cũng cho mỗi người một nhãn hiệu người môn đệ, một nhãn hiệu thật sự có chất lượng từ bên trong mới bộc phát ra ngoài, chứ không phải là thứ hàng không chất lượng.
Mỗi người trong chúng ta thử nhìn lại chính mình xem, với nhãn hiệu người Công Giáo, người Môn Đệ Chúa Giêsu mà chúng ta được mang, có đúng với phẩm chất của con người hiện tại của mình không? Hay chúng ta chỉ là cái thùng trống rỗng, có mã bên ngoài, nhưng thực chất bên trong thì hòan toàn trái lại. Không lẽ giống như Giuda, chúng ta đã ra đi trong giờ phút quyết định, giờ phút mà mệnh lệnh Yêu Thương được ban hành, chúng ta không thể lắng nghe, vì bận với những toan tính riêng tư.
Mọi người nhìn vào chúng ta, nhìn thấy cách sống, những lời nói, thái độ đối xử và những toan tính, họ có thể nói được: Đó là nhãn hiệu của tình yêu, đó là người môn đệ của Chúa Giêsu không?
Nếu chúng ta biết dùng tình yêu, để nói lên những lời chân thật phát xuất từ con tim biết yêu thương.
Nếu chúng ta biết bỏ đi những tranh chấp, những đố kỵ chỉ vì một chút tự ái, để biết bỏ đi những hành vi không tốt đẹp, những tham lam bất chính, những cơn phẩn nộ không đúng chỗ vì con tim yêu thương thật sự.
Nếu chúng ta nhìn thấy được nhu cầu của anh em chung quanh đang cần: một cái nhìn yêu thương thông cảm, một nụ cười khích lệ, một câu nói động viên, một hành động giúp đở phát xuất từ con tim chân chính.
Với tất cả những chữ Nếu đó mà chúng ta thực hành được, đó là chúng ta đã mang nhãn hiệu của người môn đệ, nhãn hiệu yêu thương.
Và nếu tại sao chúng ta đã mang nhãn hiệu yêu thương mà chúng ta còn tìm cách để hạ bệ nhau, chiếm đoạt của nhau, chiếm giữ những điều không phải của mình. Nếu đã mang nhãn hiệu yêu thương, sao còn tìm cách để hại nhau bằng những lời nói, những hành động và cả những mưu mô toan tính. Như vậy là chúng ta đã đi con đường của Giuda, đã ra đi trong giờ phút quang trọng, ra đi trong đêm tối, không biết lắng nghe. Như vậy chúng ta chỉ là một thứ hàng không chất lượng, không đúng với nhãn hiệu bên ngoài. Như vậy, chúng ta là giã tạo, giã hình hay sao?
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người được xứng đáng là người môn đệ thật sự của Chúa, được thể hiện bằng chính cuộc sống của lòng yêu thương chân thành.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu). Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa. Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế. Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò. Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng. Các nhà chú giải vẫn gọi đó là ‘diễn từ biệt ly’. Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau. Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Điều răn mới.
Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người. Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh”. Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức. Tinh thần ‘Tứ hải giai huynh đệ’ của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế. Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ? và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới? Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.
Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).
Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức. Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm. Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương. Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu:“ Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em”. Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.
Kinh nghiệm của Thánh Gioan.
Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ ‘người môn đệ được Chúa yêu mến’. Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái. Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận. Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận. Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu. Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài. “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu”. “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương”. “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau”… Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16). Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.
Yêu như Thầy đã yêu.
Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá? Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương. Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo. Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày. Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu”. Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ. Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.
Kết luận
Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người. Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu”. Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước. Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào? Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc. Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp… Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong”.
Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn. ‘Hãy yêu như Thầy đã yêu’ là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.
24. Hãy gieo yêu thương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tục ngữ có câu “có gieo có gặt” nhưng thành quả gặt hái tùy thuộc vào loại giống mà chúng ta gieo trồng. Vì “gieo gì gặt ấy”. Gieo yêu thương sẽ gặt trong hân hoan và hạnh phúc. Gieo bất công và hận thù sẽ có ngày “gậy ông đập lưng ông”. Đó chính là quy luật của cuộc sống. Quy luật của tạo hoá luôn đòi sự công bằng cho con người trong cõi nhân sinh.
Có một người đàn ông cao niên, nhưng lại rất giầu có. Ông trao ban gia tài cho đứa con trai duy nhất, chỉ mong được sống an nhàn tuổi già bên con cháu cho đến hết cuộc đời. Thế nhưng, người con dâu lại không muốn bố chồng ở mãi trong nhà nên bảo chồng phải đưa bố đi nơi khác ở. Người con không muốn mất tình cảm với vợ, nên đã quyết định đưa cha vào viện dưỡng lão, nơi rẻ tiền nhất.
Một tuần sau đó, hai cha con đi bộ đến nơi mà người cha sẽ ở. Đi dược một lúc bỗng nhiên người cha già bật khóc. Lương tâm người con không chịu nỗi, anh nghẹn ngào nói lời xin lỗi cha già. Sau một vài phút, người cha bị hắt hủi nghẹn ngào nói: “con ơi, cha không khóc vì con đưa cha vào nhà dưỡng lão dành cho những người già nua tàn tạ. Cha khóc vì nhớ lại cách đây bốn mươi năm, Cha cũng bước đi trên lối này với ông nội của con, và cũng đưa ông nội con vào viện dưỡng lão tồi tàn này. Cha chỉ gieo gì gặt ấy thôi”.
Thực vậy, “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Những gì chúng ta nhận được từ trong cuộc đời này hôm nay và mai sau, hoàn toàn tùy thuộc vào những điều chúng ta đã gieo vãi, vun trồng.
Cùng một môi trường nhưng có người có nhiều bạn bè, và ngược lại có người lại rất nhiều kẻ thù. Có người được yêu thương, giúp đỡ. Có người chỉ nhận được sự khinh bỉ, dửng dưng xem thường. Có người được hàng xóm làng giềng bao bọc. Có người bị anh em loại trừ. Tại sao lại có nghịch lý như vậy? Thưa, đó không phải là nghịch lý mà là lẽ công bằng mà nói theo ngôn ngữ nhà Phật là “quả báo”, là hậu quả do chính chúng ta đã gieo trồng trong cuộc sống của chúng ta.
Hôm nay Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy ra đi gieo vãi yêu thương. Chúa cầu mong chúng ta sẽ sinh hoa kết trái. Chính Chúa đã gieo vào lòng chúng ta hạt giống yêu thương. Chúng ta được lớn lên trong tình thương của Chúa. Chúng ta được sống trong sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa. Chúa còn tuyển chọn chúng ta nên bạn hữu của Chúa. Chúa còn làm tất cả để chúng ta được hạnh phúc. Chúa đã quên cả chính mình để chúng ta được sống. Chúng ta đã lãnh nhận tình yêu thương của Chúa. Dù rằng chúng ta chẳng có công lênh gì. Dù rằng chúng ta không xứng đáng. Thế mà Chúa vẫn cho chúng ta được ở mãi trong tình yêu của Chúa. Chúa chỉ cầu mong chúng ta: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu là tiếp tục gieo vãi hạt giống yêu thương của Chúa đến cho muôn người. Hãy thực hành tình yêu của Chúa cho anh chị em chung quanh chúng ta.
Nhưng có mấy ai đã thực sự sống yêu thương mà không có toan tính, hay pha chút kỷ ích nhỏ nhoen? Có mấy ai đã yêu tha nhân như chính mình? Có mấy ai đã vì bạn hữu mà dám quên mình? Có lẽ có, nhưng rất ít.
Nhìn lại những gì đang diễn ra nơi các gia đình, nơi xứ đạo và trên thế giới, dường như những nghĩa cử yêu thương đang thiếu dần, mà thay vào đó là sự ích kỷ bởi chỉ lo cho bản thân. Nét nổi trội của xã hội hôm nay không phải là những nghĩa cử yêu thương cao đẹp mà là bạo lực từ gia đình đến học đường. Ở nơi đâu cũng có bạo lực. Thành phần nào cũng có thể là nạn nhân của bạo lực. Có mấy ai đã tự vấn lương tâm để xem mình đã sống yêu thương cho anh chị em mình như thế nào hay chưa? Có mấy ai đã dám nói lời xin lỗi với gia đình, với cộng đoàn, vì mình mà gia đình, cộng đoàn đang có những xào xáo, bất đồng ý kiến, đố kỵ, ghen tương? Có mấy ai đã thực sự dấn thân xây dựng hoà bình khởi đầu bằng những nghĩa cử bao dung, độ lương với tha nhân?
Nhân loại hôm nay, rất biết ơn những con người biết xây dựng hoà bình từ yêu thương. Năm 1963, tại Washington, 200,000 người lắng nghe Martin Luther King, vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hòa bình nói chuyện:”Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nuớc mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao…”. Ước mơ của ông đã thành hiện thực khi mà cả dân tộc Mỹ chọn một người da đen lên vị trí số 1 của nước Mỹ, đó chính là đương kim tổng thống Barach Obama.
Ước gì mỗi người chúng ta cũng gieo vãi những niềm mơ ước của yêu thương, của tình hiệp nhất cho anh em của mình. Ước gì những ước mơ hoà bình phải được thực hiện ngay từ chính bản thân mỗi người chúng ta khi chúng ta biết nói những lời yêu thương, biết sống trong tình yêu thương tha thứ và vì tha. Xin Chúa giúp chúng ta luôn học bài học yêu thương của Chúa để biết đem ra thực hành trong cuộc sống thường ngày, ngõ hầu góp phần kiến tạo niềm an vui và hạnh phúc cho trần thế hôm nay. Amen.
25. Như Thầy đã yêu – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ:
– Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy?
Chị đáp:
– Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa?
– Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao?
– Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
***
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như “Bạn hữu thân tình”.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là “Yêu cho đến cùng”, yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu “Như Thầy đã yêu”.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám quên mình, “bắt chước” Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu “Như Thầy đã yêu” khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng “mức độ” như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu “Như Thầy đã yêu” không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu “Như Thầy đã yêu” chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
***
Lạy Chúa. nếu đồng phục của người Ki tô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13,34)
Trong bộ phim La Strada của Fredorico Fellini được trình chiếu 1954, khán giả thường nhắc lại một cảnh gây ấn tượng: một anh hề đang nói chuyện với 1 thiếu nữ. Cô nàng tỏ ra mệt mỏi vì phải cố gắng thương yêu những người không thể yêu và cũng chẳng đáng yêu, và nàng không muốn liên hệ với họ nữa. Khi (cuộc gặp gỡ sắp kết thúc) thiếu nữ định ra về, anh hề nói với nàng: Nếu em không yêu những người ấy thì ai sẽ yêu họ.
Lời anh hề nói với cô thiếu nữ làm tôi liên hệ với lời Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con hãy yêu”. Đó cũng là lời Chúa Giêsu muốn nói với từng người chúng ta.
Chúa muốn chúng ta yêu thương tha nhân, nhưng thực tế chúng ta đã yêu thương tới mức độ nào? Có sẵn sàng yêu những người chúng ta không thích? Những người không ưa chúng ta, những kẻ nghịch thù có ý muốn làm hại chúng ta?
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 35)
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy yêu thương nhau và Ngài là mẫu gương sống động cho chúng ta noi theo. Ngài đã từ trời xuống thế, đi tìm kiếm kẻ tội lỗi để cứu giúp. Dù tội là chống lại Thiên Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu lại đi tìm kẻ đang chống lại Ngài và chịu vác thập giá để đền thay tội lỗi cho tội nhân, chuộc họ khỏi đau khổ đời đời. Chính Chúa Giêsu biết Giuđa sẽ phản bội nhưng Ngài vẫn thương yêu Giuđa, nhận ông làm người thân cận của mình, nhưng Giuđa đã không màng đến tình cảm đó, không biết hối cải, sửa mình. Giuđa là đại diện cho những Kitô hữu không vâng giữ lời Chúa, cứng lòng trước những lời nhắc bảo của các mục tử và muốn sống xa đàn, không theo ý của chủ chiên.
Tuy nhiên, có một điều Giuđa không ngờ là cho dù ông có yêu mến Chúa Giêsu hay không thì Chúa vẫn thực hiện được kế họach ngàn đời của Ngài là cứu vớt các linh hồn. Thiên Chúa khôn ngoan, quyền phép và đầy tình yêu thương muốn chúng ta cộng tác vào công trình lớn lao của Ngài. Đó là một vinh dự, là hồng phúc cho con người. Nhưng nếu có ai muốn chống lại kế họach của Thiên Chúa, muốn phá hại công trình của Người thì vô phúc cho kẻ đó, còn chương trình Ngài vẫn không bế tắc.
Chính lúc Giuđa nộp Ngài, chính lúc Ngài bị trói hết chân tay trên thập giá, lại là lúc nhân lọai được ơn cứu rỗi, là lúc Ngài được tôn vinh.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta noi gương Ngài, dùng tình yêu hóa giải hận thù, dùng sự hy sinh giúp đỡ thật tình đáp lại thái độ hằn thù, chua chát của kẻ ghét mình.
Khi yêu thương, chúng ta trở nên giống Thầy Chí Thánh và được gọi là con cái sự sáng, là con Chúa Trời. Và chắc chắn chúng ta sẽ được phần thưởng, được hưởng gia tài của người con Chúa.
Nếu chúng ta không biết yêu thương và tha thứ, chúng ta sẽ không có niềm hy vọng, như Giuđa bởi cứng lòng mà chết đau đớn trong tuyệt vọng, không biết trông cậy vào lòng nhân từ Chúa, không biết chạy đến Chúa với lòng khiêm nhu, sám hối để được Chúa nhân hậu thứ tha.
Ngày hôm nay, ai trong chúng ta cũng biết rõ giới răn Chúa Giêsu đã trối lại cho các môn đệ: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em (Ga 13, 34); nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?(Mt 5, 46) Đối với người Công Giáo thì không được coi ai là kẻ thù, nhưng luôn cầu nguyện và mong điều tốt lành cho mọi người, mong cho chân lý, công bằng, bác ái đươc thực thi. Ước gì chúng ta biết sống triệt để giới luật yêu thương Chúa Giêsu đã truyền để xứng đáng là con cái Thiên Chúa. Amen.
Có hai người bạn đi vào tham quan bên trong một tiệm bán đồ nữ trang. Khi đã chiêm ngắm nhiều viên đá quí, họ để ý và lấy làm lạ là có một viên ngọc sần sùi, không óng ánh bóng loáng như những viên ngọc khác. Vì thế, một người bạn lên tiếng bình phẩm: “Nếu viên đá này không có vẻ gì quí cả, tại làm sao người ta lại trưng bày nó ra đây?”. Nghe vậy người chủ tiệm kim hoàn bèn cầm lấy viên ngọc và nắm chặt trong lòng bàn tay mình. Một lát sau viên đá mờ đục không bóng loáng đó, trở nên lấp lánh muôn màu sắc hết sức kỳ diệu. Thấy lạ, một người bạn hỏi ông chủ tiệm: “Làm sao mà kỳ là vậy?”. Người chủ trả lời: ‘’Đây là viên ngọc mắt mèo, được mệnh danh là viên đá thiện cảm, nghĩa là nó cần có đụng chạm với hơi nóng ấm của bàn tay, tức khắc nó sẽ phát ra những tia sáng óng ánh muôn màu sắc là thế”.
Có lẽ, không ai trong chúng ta đã từng thấy tận mắt thứ ngọc kỳ lạ trên, nhưng cách thức phát quang của nó vừa bí ẩn vừa mang ý nghĩa rất hay khi so sánh với cung các cư xử của con người với nhau. Thật vậy, ở đời mọi người chung quanh chúng ta, nhất là những anh em nghèo khổ, hẩm hiu, bị bỏ rơi, bị khinh thường như viên đá mắt mèo, nếu có hơi nóng của bàn tay thương yêu chúng ta sưởi ấm: đó là một lời nói ngọt ngào thân ái, một nụ cười dễ thương, một cái nhìn trìu mến thông cảm và một tí trợ giúp vật chất thì cuộc đời của họ, ánh mắt của họ sẽ bừng sáng lên đầy tươi vui biết ơn.
Đây là một việc làm bình thường trong cuộc sống chung giữa người với người, nhưng lại là một điều kiện căn bản của đời sống đạo đức làm người. Vì điều luật yêu thương nhau là một điều luật quan trọng đến nỗi không những luân thường đạo lý của bất cứ xã hội, dân tộc nào cũng truyền dạy, mà nhất là giáo lý của bất cứ đạo nào cũng đều lấy nó làm căn cốt để xây dựng và rao giảng đạo. Chẳng hạn đạo Lão thì dạy hiền hòa vô vi, đạo Khổng thì dạy sống quân tử, độ lượng, trừ tiểu nhân nhỏ nhen, đạo Nho thì dạy nhân ái biết điều, đạo Phật thì dạy chúng sinh luôn từ bi hỉ xả, còn đạo Công giáo thì dạy công bằng bác ái…
Như thế đã đủ cho chúng ta thấy rằng luân thường đạo lý nói chung và giáo lý các tôn giáo nói riêng đều lấy thương yêu nhau làm căn bản sinh hoạt vì nó cần thiết cho đời sống chung và giúp con người thu tâm dưỡng tính, an hòa vui sống. Nhưng khi đề cập đến lòng yêu thương nhau của đạo hay đời thường được nhấn mạnh như là một sự cần thiết cho đời sống nhân bản ở trần thế hơn là một yếu tố của đời sống vĩnh hằng.
Do đó, việc yêu thương nhau trong đạo Công giáo không những chỉ là một đòi hỏi bức thiết của đạo lý nhân bản ở đời làm hay không tùy ý, mà còn là một điều kiện tiên quyết, một trách nhiệm bổn phận, một điều luật bó buộc phải thi hành cho bằng được. Chính vì thế, Chúa mới truyền dạy cho các Tông đồ và cả chúng ta rằng luật yêu thương nhau là một điều răn mới. Nó mới không phải vì xưa nay chưa có nó, nhưng nó mới là vì giờ đây nó được Chúa mặc cho những ý nghĩa mới mà con người chưa bao giờ nghĩ tới.
Trước hết, luật yêu thương trở nên mới mẻ, khác với quan niệm thông thường xưa nay, là vì đối với những ai tin theo Chúa nó thành một đòi hỏi thiết yếu, một điều kiện quan trọng để được đón nhận vào Nước trời. Như thế, luật yêu thương của đạo Công giáo không chỉ là một biểu lột tình cảm, một giá trị đạo đức nhân bản, mà còn mang ý nghĩa siêu nhiên, giá trị cứu rỗi đời đời. Do đó, người Công giáo chúng ta khi sống đạo ở đời đừng cố tình theo quan điểm lầm lẫn cho rằng bác sĩ thương người là một đòi hỏi không bắt buộc, chẳng quan trọng mấy, trái lại phải thâm tín rằng bác ái yêu thương, dù khó khăn đến đâu, cũng cần cố sức thực hiện cho bằng được vì nó liên quan chặt chẽ đến phần rỗi của mỗi người. Tránh né hay bất cần nó là nắm chắc mất phần rỗi.
Thứ đến, luật yêu thương mới mẻ vì không phải khi thực hiện nó cốt để được an thân, đỡ phiền phức hay để thỏa mãn lòng khoe khoang mà người ta thương người khác, trái lại khi yêu thương nhau như lời Chúa dạy thì phải lấy tinh thần khiêm tốn, tế nhị làm gốc và coi việc phục vụ hết mình làm tiêu chuẩn. Vì nếu khi ta thực hiện bác ái mà có tính toán, đặt điều kiện giới hạn, khoe mẻ thì nó chẳng khác chi bao việc tầm thường khác. Còn bác ái thương người thật tình thì bao giờ cũng giấu mặt ẩn mình càng nhiều càng tốt và hết lòng làm đến nơi đến chốn cho dù phải hy sinh cả tính mạng.
Bác ái thương người quan trọng như thế và đã được nhắc bảo không biết bao nhiêu lần trong đời, tại sao chúng ta lại ít quan tâm? Và nếu có thực hiện, tại sao chúng ta cảm thấy ngại ngùng khó khăn? Phải chăng chúng ta cứ cố tình sống giả điếc làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa và nỗi khổ của anh em?
28. Giới răn yêu thương – R. Veritas.
Ngày nay, nếu có ai ghé thăm Tientina Alba, một làng nằm ở phía bắc Rumani, đều trông thấy bên ngoài làng có một gò đất lớn, bên trên cắm một cây Thánh Giá thật to. Đó là nấm mồ tập thể của 5,000 tín hữu Công giáo thuộc Giáo hội Đông phương nước Rumani đã bị quân xâm lược sát hại vào buổi sáng ngày lễ Phục Sinh ngày 1/04/1941.
Tientina Alba trong tiếng Rumani có nghĩa là “Suối trắng”. Nhưng vào một buổi sáng cách đây hơn nửa thế kỷ nó đã trở thành một con suối máu của 5,000 người Công giáo chết vì Chúa Kitô. Quân xâm lược đã triệt để thi hành chính sách tiêu diệt tôn giáo. Người dân Rumani sống tại vùng này đều thuộc Giáo hội Công giáo Đông phương, nên đó là một chướng ngại lớn đối với đường lối xâm lăng diệt chủng này.
Anh chị em thân mến!
Biến cố thương đau trên đây trong lịch sử Giáo hội Rumani giúp chúng ta hiểu được phần nào sứ điệp của Tin Mừng Chúa Nhật V Phục Sinh hôm nay. Đó là điều giúp chúng ta có thể bước vào cuộc sống Phục Sinh vinh quang trên thành thánh Giêrusalem thiên quốc. Người Kitô hữu cũng phải đi theo con đường của Chúa Giêsu Kitô bước đi trên con đường tăm tối của bắt bớ, khổ đau và cái chết.
Thành thánh Giêrusalem thiên quốc như đã diễn tả trong chương 21 của sách Khải Huyền là một kinh thành kỳ lạ, nó là điểm thành toàn của lịch sử cứu độ cứu độ sau khi vượt thắng tất cả mọi lực lượng lịch sử xã hội tiêu cực và chiến thắng kinh thành thế tục gian ác tội lỗi của trần gian này. Sau khi chiến thắng kinh thành Babylon hiện thân của mọi quyền lực chính trị, ý thức hệ và kinh tế trần gian bắt bớ chống đối Giáo hội, sau khi đánh tan mọi lực lượng sự dữ do ma quỉ chỉ huy, cộng đoàn Kitô hữu hân hoan khải hoàn bước vào kinh thành thiên quốc. Họ bước vào trời mới đất mới, nơi không còn khóc than, khổ đau, chết chóc, buồn thương và mệt nhọc nữa.
Bởi vì, thế giới cũ đã qua rồi và mọi sự đã được đổi mới. Giờ đây, họ được sự hiện diện rạng ngời của Thiên Chúa, Đấng ở cùng chúng tôi. Nhưng trước đó, con đường của Giáo Hội lữ hành là con đường khổ nạn của Chúa Giêsu.
Trong khung cảnh thân tình của bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ lời tâm huyết. Sau khi Giuđa, kẻ phản bội Ngài rời khỏi nhà Tiệc Ly để đi vào đêm tối mịt mù. Đêm tối của tâm hồn và cuộc đời Giuđa và đêm tối của thế giới.
Qua đó, Chúa Giêsu mới thổ lộ cho các tông đồ biết rõ hơn con đường dẫn Ngài tới chỗ vinh quang, đó là con đường của Thập Giá. Chính khi bị treo khổ nhục trên Thập Giá, cũng là chính lúc Chúa Giêsu được tôn vinh và thành toàn chương trình cứu độ trần gian của Ngài.
Như vậy, những khổ hình Thập Giá thay vì dấu chỉ của hình phạt, thì nó lại trở thành dấu tích yêu thương cao vời nhất mà Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã dành cho con người. Do đó, chỉ những ai sống yêu thương mới hiểu được cái logic ngược đời ấy của Thập Giá. Đồng thời đây cũng là kiểu cách hành động của Thiên Chúa.
Giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu trăn trối lại cho các tông đồ và cho cộng đoàn Giáo hội thật mới mẻ, vì nó diễn tả thái độ dấn thân tuyệt đối và trọn vẹn mà Chúa Giêsu đã ký kết với loài người bằng chính máu của Ngài. Tình yêu thương ấy là tình yêu thương hai chiều bình đẳng giữa các tín hữu. Bởi vì trong cộng đoàn ai cũng cần yêu thương và được yêu thương. Nhưng từ nay không còn chuyện yêu người như yêu mình nữa, mà yêu người như chính Thầy đã yêu chúng con, nghĩa là Kitô hữu phải yêu thương nhau với cùng cường độ trong cùng tâm tình và kiểu cách của Chúa Giêsu là tận hiến vô biên và trọn vẹn. Tình yêu thương của Chúa Giêsu là suối nguồn, mẫu mực và linh hồn tình yêu thương của Kitô hữu. Và sau cùng, tình yêu ấy là căn cước, là chứng tích sống động giúp nhận ra ai là thành viên thực sự thuộc cộng đoàn Giáo Hội của Chúa Giêsu Kitô.
Trong chương 14 sách Tông đồ Công vụ, thánh Phaolô cũng chỉ cho chúng ta con đường chắc chắn giúp tiến về kinh thành Giêrusalem. Đó là noi gương Chúa Giêsu can đảm tiến bước trên con đường Thập Giá của lòng tin.
Phần thứ hai của sách Tông đồ Công vụ, các chương 13-28 nêu bật sự truyền giáo của thánh Phaolô. Các trình thuật cho chúng ta thấy ba nhân tố thần học song song quan trọng sau đây:
Gương mặt của Saolô lòng đầy hận thù, hăng hái tìm cách bắt hại và bỏ tù tất cả những ai tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu và gương mặt của một Phaolô không ngừng thôi thúc Kitô hữu vững vàng trong lòng tin và kiên trì chịu đựng mọi bắt bớ gian lao thử thách vì Chúa Giêsu Kitô.
Kinh nghiệm cuộc gặp gỡ đổi đời với Chúa Kitô Phục Sinh đã khiến cho Phaolô xác tín rằng con đường duy nhất giúp hiện thực ơn gọi làm người toàn vẹn là bước theo Chúa Giêsu Kitô và sống Tin Mừng của Ngài, cho dù có phải trả giá đắt đỏ bằng chính sự sống của mình đi nữa.
Nhân tố thần học song song thứ hai là kinh nghiệm đau khổ mà thánh Phaolô phải chịu vì Thập Giá Chúa Kitô và kinh nghiệm bách hại mà cộng đoàn Kitô phải sống. Phaolô đã lâm cảnh lao đao lận đận, ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng của Ngài. Và Kitô hữu trong cộng đoàn tiên khởi thời đó cũng như trong các thế hệ sau này khắp nơi trên thế giới đều phải sống kinh nghiệm Thập Giá như thầy mình là Chúa Giêsu Kitô.
Chỉ khi biết phám phá ra cái logic lạ lùng ngược đời ấy, con người và thế giới mới tìm được thế quân bình hạnh phúc trọn vẹn thời khai nguyên vũ trụ và mới thực hiện được chương trình sống mà Thiên Chúa muốn.
Nói cách khác, con đường dẫn đến cuộc sống giờ đây là con đường dẫn tới Thập Giá và khổ đau mà Kitô hữu cần phải chấp nhận mỗi ngày trong tâm tình của Chúa Giêsu Kitô, để sinh vào cuộc sống và thế giới này, để mở mắt nhìn thấy cha mẹ, người thân, mặt trời, trăng sao, thú vật và hoa cỏ xinh tươi. Đứa bé nào cũng phải xé lòng mẹ và khóc tiếng chào đời. Nó chào đời và đời chào đón nó bằng tiếng khóc pha trộn nỗi vui mừng và niềm hy vọng.
Mấu điểm thần học song song thứ ba được nêu bật trong phần 2 của sách Tông Đồ Công Vụ là cái song song giữa kiểu cách mà Thiên Chúa hướng dẫn cuộc sống của thánh Phaolô với kiểu cách Thiên Chúa hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu, Giáo hội và thân mình mầu nhiệm của Ngài.
Trên con đường cuộc sống lòng tin, chúng ta tất cả đều cần đến người hướng đạo có nhiều kinh nghiệm chỉ bảo, khuyên nhủ và khuyến khích. Thánh Phaolô đã được Annania chỉ bảo, giảng giải và hướng dẫn trên con đường cuộc sống mới do Chúa Kitô Phục Sinh chỉ vẽ cho ông. Giờ đây thánh nhân chọn lựa các linh mục, các vị hữu trách có nhiệm vụ hướng dẫn cộng đoàn Kitô hữu. Đó là những vị bô lão. Bô lão ở đây không ám chỉ sự già dặn của tuổi tác cho bằng sự già dặn kinh nghiệm trong cuộc sống lòng tin, lòng tin cậy trông và lòng mến.
Vị linh mục, người lãnh đạo tinh thần của cộng đoàn già dặn về tuổi tác là một phần thứ yếu, nhưng phải già dặn về kinh nghiệm sống thân tình với Thiên Chúa và thông hiểu giáo huấn Tin Mừng của Chúa cũng như giáo huấn của Giáo hội, đó là điều thiết yếu mà linh mục cần phải có. Chúng ta hiểu tại sao trước khi trao cho Phêrô trọng trách hướng dẫn Giáo Hội, Chúa Giêsu đã ba lần hỏi xem ông có yêu mến Ngài hơn những người này không? Chính tình yêu là linh hồn của công tác rao giảng nước Chúa và là hộ chiếu giúp tín hữu được bước vào kinh thành hạnh phúc. Nó là một tình yêu trọn vẹn trong mọi chiều kích thần học cũng như xã hội ở đời này cũng như trong cuộc đời mai sau. Amen.
Cụ Giáp ốm nặng đã mấy hôm nay. Cụ không ăn uống gì mà chỉ nằm rên hư hử. Cụ bà và các con mời cha xứ đến để ông lãnh các bí tích bệnh nhân. Nhưng vừa trông thấy cha xứ vào phòng, ông ngồi nhỏm dậy giơ tay chỉ ra cửa, ra dấu mời cha xứ ra về. Hôm sau cha phó đến, cũng cùng chung số phận. Cụ Giáp không phải là người xấu! nhưng cụ chỉ hơi khô đạo thôi. Thấy bệnh tình mỗi ngày mỗi trầm trọng, người nhà chở cụ vào nhà thương “ Saint Paul”, do các sơ dòng thánh Phaolô trông coi. Hằng ngày, cụ Giáp thấy các nữ tu dịu hiền, tận tình chăm sóc ông và các bệnh nhân khác, từ sáng sớm cho tới canh khuya, chẳng hề quản giờ giấc. Tuy bận rộn với các công việc nặng nhọc và vất vả, nhưng lúc nào các nữ tu cũng tươi cười và ăn nói từ tốn, nhỏ nhẹ.
Một hôm, cụ Giáp nhắn người nhà đến mời cha xứ vào để ông xưng tội và lãnh các bí tích bệnh nhân. Sau khi ban bí tích cho ông, cha xứ hỏi cho biết điều gì xảy ra khiến ông đổi thái độ, thì cụ Giáp trả lời: “Thưa cha, trong mấy tuần nằm đây, con có nhiều giờ suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, và hằng ngày quan sát thái độ yêu thương xả kỷ của các nữ tu, con nhận ra được sự hiện diện và tình yêu thương của Chúa”. Nói đến đây cụ Giáp giơ tay quệt hai giòng lệ lăn trên gò má nhăn nheo…
Trong Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu nhắn nhủ mỗi người chúng ta sống giới luật yêu thương của Chúa: Yêu thương nhau như chính Ngài đã yêu thương chúng ta, nghĩa là đến độ dám liều cả mạng sống mình vì người khác. Yêu thương còn là dấu chỉ chúng ta là môn đệ Chúa: “ Cứ dấu này người ta biết chúng con là môn đệ Thầy: chúng con hãy yêu thương nhau”.
Trong thế giới nhiều bạo lực, bất công, hận thù và đấu tranh máu lửa như thế giới ngày nay, yêu thương là khí cụ duy nhất có sức mạnh biến cải tấm lòng và đổi mới bộ mặt cuộc sống con người. Như thế, chính những cử chỉ, lời nói và tâm tình yêu thương mỗi ngày, chúng ta sẽ làm chứng cho tin mừng yêu thương của Chúa một cách hữu hiệu, và xây dựng một mảnh trời mới, đất mới, ngay trong lòng cuộc sống trần gian.
Mùa Phục Sinh mời gọi tín hữu sống cuộc sống mới, cuộc sống mang nặng tình thương của Thiên Chúa trong quả tim bằng thịt với khả năng nhỏ bé của chúng ta.
Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Bài tin mừng hôm nay trích từ chương XIII của phúc âm thánh Gioan, nhắc lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa tiệc ly trước khi Ngài chịu khổ nạn, và sau khi Giuđa kẻ phản bội Chúa đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài.
Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ rằng: “ Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Và điều quan trọng là chúng ta có thi hành lệnh truyền này hay không? Từ đó nảy sinh những hậu quả nghiêm trọng, đó là hậu quả của sự sống và sự chết.
Thánh Gioan tông đồ nơi thơ thứ nhất có đoạn: “Nếu chúng ta yêu thương anh em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh em thì ở trong sự chết, vì phàm ai ghét anh em mình đều là kẻ sát nhân”. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu Ước. Quan niệm của luật cũ là: “Yêu thương anh em như chính mình ngươi”, được Chúa Giêsu đổi lại trong luật mới là: “ Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như vậy tình yêu mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chuẩn nhưng phải phát xuất từ chính Thiên Chúa, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy. Giới răn mới của Chúa được đồng hóa với tình yêu của Thiên Chúa như lời kinh thánh đã chép: “ Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà ghét anh em mình thì là kẻ nói dối, vì ai yêu mến Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình”. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của con cái Thiên Chúa, làm cho chúng ta thuộc về Chúa, trở nên môn đệ Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con hãy yêu thương nhau”
Giữa những bài giáo lý mà chúng ta đã học từ nhỏ, những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta đều hiểu được như vậy và nói được: “ Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta”. Nhưng nếu chúng ta sống thực với những điều này mới là việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ: “ Các con hãy nên trọn lành như Cha chúng con trên trời là Đấng trọn lành”. “ Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Ngài từ giã các tông đồ, trước khi Ngài hoàn tất sứ mệnh cứu rỗi là chấp nhận chết trên thập tự. Và Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống của mình để minh thức tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa Cha và với mỗi người chúng ta.
Chúng ta không không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy, nhưng chính nhưng hy sinh nhỏ nhặt hằng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm để chúng ta có thể sống tình thương thực sự, sống cách thiết thực đối với anh chị em, chúng ta có thể phục vụ anh chị em trong những công việc nhỏ nhặt hằng ngày, những điều đó không ai trông thấy, những điều đó chúng ta cần thực hiện hằng ngày để tôn vinh Thiên Chúa.
Trong dịp nói chuyện với một người vô thần, anh này thốt lên: “ Nếu những người Côn Giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sực tốt đẹp và có thể chúng tôi cũng sẽ tin theo”.
Thông thường khi vào một nhà nào, nếu thấy có treo ảnh tượng Chúa, ta nghĩ ngay rằng đây là một gia đình Công Giáo. Khi đến một nơi xa lạ, nếu thấy bóng giáo đường ta cũng nghĩ ngay rằng ở đây có người Công Giáo. Nhưng khi thiết lập hội thánh, khi quy tụ những con người thành cộng đoàn môn đệ của mình, Chúa Giêsu không bảo: “ Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con đeo ảnh tượng trên mình, là các con treo ảnh tượng trong nhà, là các con xây dựng những giáo đường…” Trái lại, Người đã bảo: “ Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau”.
Như vậy, ở đâu có giáo đường, có treo ảnh tượng Chúa mà không có tình yêu thương thì sẽ không có những môn đệ đích của Chúa. Còn ở đâu có tình yêu thương thì dù không có giáo đường, không treo ảnh tượng trên mình hay trong nhà thì ở đó vẫn có những người môn đệ Chúa Kitô.
Điều răn yêu thương đã có từ rất lâu trong Cựu Ước, nhưng Chúa Giêsu lại gọi đó là điều răn mới: “ Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã thương yêu anh em”. Nếu yêu thương là điều răn đã có từ lâu trong Cựu Ước mà Chúa Giêsu lại bảo đó là điều răn mới thì mới ở chỗ nào?
– Mới ở chỗ Chúa Giêsu mở rộng đối tượng cần được yêu thương: Trong Cựu Ước, luật chỉ buộc phải yêu thương những người đồng đạo, đồng chủng hay đồng nghiệp. Còn Chúa Giêsu lại muốn các môn đệ của Người yêu thương tất cả mọi người không trừ ai, kể cả kẻ thù.
– Mới ở chỗ Chúa Giêsu liên kết việc yêu Chúa và yêu người thành một điều răn duy nhất không thể tách biệt. Chỉ yêu Chúa mà không yêu người hay chỉ yêu người mà không yêu Chúa là không yêu thương ai hết. Thánh Gioan đã diễn tã điều này như sau: “ Căn cứ vào điều này chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa, đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài”. Người cũng bảo: “ Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghé anh em mình, tì người ấy là kẻ nói dối”. Chúa Giêsu còn cho thấy trong dụ ngôn “ Cuộc phán xét chung” rằng: yêu hay ghét anh em là yêu hay ghét chính Thiên Chúa.
– Mới ở chỗ là phải yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương. Trong Cựu Ước chỉ đòi buộc người ta yêu thương anh em như yêu thương chính mình. Còn Chúa Giêsu lại muốn người ta yêu thương nhau như chính Người đã yêu thương.
Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là thế nào?
– Là yêu đến quên mình: Thường thì tình yêu của ta dành cho tha nhân luôn hàm chứa một chút gì đó là vị kỷ. Ta yêu người này vì họ làm ơn cho ta. Ta yêu người kia vì họ mang lại lợi nhuận vật chất hay tinh thần cho ta…Còn khi yêu ta, Chúa không bao giờ nghĩ tới Người mà chỉ nghĩ đến ta. Người hy sinh hạnh phúc của chính Người để lo cho hạnh phúc của ta.
– Là yêu cho đến cùng: Khi yêu ta, Chúa không tính toán, so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào, không định mức độ để yêu thương. Người không tiếc rẻ điều gì với ta, không giữ lại chút gì cho riêng mình. Người cho tất cả, hy sinh tất cả vì ta, kẻ cả mạng sống. Thánh Gioan đã viết: “Trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian và Người yêu thương họ đến cùng”.
Chúa Giêsu đã yêu thương như thế đó. Cõ lẽ ta sẽ bất lực để yêu thương như Người. Chính vì thế, lời kêu gọi yêu thương cũng là lời nhắc nhở ta cầu xin ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Bởi Người là Đấng sẽ để vào lòng ta tình yêu của Thiên Chúa để ta có thể yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương.
Có thể nói bất cứ trong một gia đình nào khi người cha hay mẹ sắp lìa bỏ trần gian này, các ngài đều mong mỏi đàn con, đàn cháu của mình còn ở lại trần gian biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Dù trong lúc các ngài chỉ nói thều thào trong hơi thở yếu ớt các ngài vẫn cố gắng để thốt lên những lời ấy.
Ðoạn Tin mừng Giáo hội cho chúng ta suy niệm trong Chúa nhật hôm nay nằm trong bối cảnh trước khi Chúa Giêsu lìa bỏ trần gian này mà về cùng Chúa Cha. Có lẽ, Người cũng không an tâm mấy khi nhìn thấy các Tông đồ vẫn còn nhiễm những tư tưởng của người thế gian. Các ông theo Chúa nhưng vẫn còn ham muốn chút quyền lợi cho cá nhân mình.
Một lần kia hai người con ông Dêbêđê vì muốn chiếm địa vị quan trọng bên cạnh Chúa Giêsu nên đã xin với Người: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10, 37). Cũng vì lời xin này mà các Tông đồ bất bình với nhau (Mc 10, 41). Nếu các ông thật sự yêu thương nhau theo kiểu có phúc cùng hưởng có họa cùng chia thì chắc điều này không thể xảy ra.
Vì vậy, trong bối cảnh này Chúa Giêsu đã nhắn nhủ với các ông: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Mc 13, 34 – 35)
Ðiều răn mới này Chúa Giêsu kêu mời các Tông đồ và mỗi người chúng ta hãy biết thi hành trong cuộc sống. Hơn nữa, đã nói đến điều răn thì đó là điều bắt buộc chứ không phải muốn làm thì làm, muốn không thì không. Và đây chính là nét độc đáo của người môn đệ Chúa Giêsu.
Mỗi người chúng ta được kêu mời trở nên Chúa Kitô cho nhau. Nghĩa là vì yêu thương nhau và chúng ta trở nên tôi tớ cho nhau trong việc phục vụ. Ðiều này được biểu lộ rõ nét trong đời sống gia đình. Vợ chồng là Chúa Kitô của nhau vì yêu thương nhau. Cha mẹ trở nên Chúa Kitô cho con cái.
Cha mẹ sẽ an lòng nhắm mắt ra đi nếu đàn con đàn cháu biết yêu thương phục vụ nhau. Cũng thế, Chúa Giêsu cũng sẽ rất vui khi thấy chúng ta biết tích cực mỗi ngày trở thành Chúa Kitô cho nhau trong việc phục vụ. Xin Chúa Giêsu Phục sinh tiếp tục đồng hành và ban thêm sức mạnh để chúng ta thực hiện trọn vẹn lời trăn trối đầy yêu thương này.
(Trích trong ‘Một Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Thánh Gioan đã mở ra một tương lai tươi đẹp cho toàn thể nhân loại. Trong bài đọc thứ hai được trích từ chương áp cuối của sách Khải Huyền, tức chương 21,2-5, sẽ có một trời mới, đất mới, một thành thánh Giêrusalem mới, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng họ. Người sẽ lau sạch nước mắt của họ, nhưng trong thời lữ hành tại thế, các tín hữu cũng như toàn thể Hội Thánh phải chịu nhiều gian lao thử thách. Bài đọc một thuật lại cuộc viếng thăm của hai tông đồ Phaolô và Barnaba tại các giáo đoàn Listra, Ticonio và Antiokia. Hai vị tông đồ khuyên nhủ các tín hữu giữ vững đức tin mặc dù những gian lao thử thách: “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa”.
Tâm điểm của Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh năm C, chính là giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu ban bố và trăn trối cho các môn đệ trước khi Người ra đi chịu chết: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Giới luật yêu thương của Cựu Ước: “Ngươi không được để lòng ghét anh em. Ngươi không được trả thù, không được oán hận. Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình” (Lêvi 19,17-18). Giới luật đó đã được Chúa Giêsu hoàn tất và ban bố như luật tối thượng của giao ước mới, của luật mới: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất, còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình. Tất cả luật Môisen và các sách Ngôn Sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22,37-40).
Luật yêu thương này là cốt tủy của đạo Chúa và cũng là nền tảng của mối liên hệ giữa con người với Thiên Chúa cũng như giữa con người với nhau. Mến Chúa yêu người đi song đôi với nhau. Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu tha nhân và tình yêu tha nhân là thước đo tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa là mẫu mực để tình yêu con người trở nên hoàn thiện. Chính Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước để mỗi người noi theo: Tình yêu cốt tủy ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa nhưng chính Ngài đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4,10-11).
Yêu thương bằng cả con tim và bằng hy sinh cả mạng sống chứ không phải chỉ yêu thương bằng môi miệng. Tình yêu bao giờ cũng minh chứng bằng việc làm, bằng hành động. Luật yêu thương còn là điểm nòng cốt để chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu. Đây cũng là dấu chỉ để người khác nhận ra chúng ta là người Kitô. Và đây cũng là chứng tá của các môn đệ Kitô cho thế giới đầy bất hoà hôm nay. “Mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy ở điểm này, là các con có lòng yêu thương nhau”.
Lời Chúa Chúa Nhật thứ 5 Phục Sinh mời gọi mỗi tín hữu Chúa Kitô, những người môn đệ của Chúa hôm nay hãy xây dựng trời mới, đất mới, bằng chính lòng tin sắt đá và tình yêu tinh ròng. Hãy kiểm điểm lại cách ăn nết ở của mình, xem đã nhập tâm giới luật yêu thương của Chúa đến đâu. Bao lâu còn bất hoà chưa sẵn lòng tha thứ, còn để bụng thù oán, bấy lâu mình chưa phải là môn đệ của Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin giúp mỗi người chúng con thực thi giới răn yêu thương. Xin đổ tràn tình yêu của Chúa xuống trên chúng con để chúng con có thể yêu mến Chúa và yêu thương anh em thật lòng trong mọi hoàn cảnh.
“Đây là giới răn của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”.
“Anh em đừng để mắc nợ ai điều gì ngoài món nợ tình thương” (Rm 13,18). Tình thương giữa người với người không bao giờ là một đề tài xa lạ hay lỗi thời từ ngàn xưa cho đến thời nay. Bao lâu và ở bất cứ nời nào có con người hiện diện thì ở đó cần có tình yêu. Điều ấy như một điều tất phải có để con người có thể tồn tại và phát triển. Tất cả văn hoá của các dân tộc, giáo huấn của các tiền nhân dù là công giáo hay ngoài công giáo đều không thể thiếu giáo luật yêu thương. Bởi đó không chỉ là điều lệ tự nhiên của con người mà còn là giáo huấn của trời, của Chúa. Và Đức Giêsu đã cho giới luật yêu thương ấy một ý nghĩa tuyệt vời hơn nữa. “Cứ dấu này mà người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 35).
Chúa Giêsu xuống thế làm người, người ta đã nghĩ rằng Ngài sẽ dạy những giáo lý cao siêu huyền bí, cho con người thực hành những chuyện cao vời hơn chính tầng mây để đạt được cuộc sống vĩnh cữu. Thế mà thực tế lại hoàn toàn trái ngược. Ngài lại dạy một giáo lý hết sức quen thuộc mà ai cũng đã biết rõ, thuộc nằm lòng từ thuở còn trong nôi. Hãy yêu thương nhau. Đó thực ra là điều Thiên Chúa đã phú bẩm trong lương tâm tất cả nhân loại này. “Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” dạy về điều gì thì ai ai cũng hiểu. Ngay bên Trung Hoa với một nền văn hoá đậm bản sắc Phong kiến thì cũng không thiếu những luật lệ như Kiêm Ái của Mặc tử. Yêu người như yêu mình, yêu bằng hành động cụ thể. Đức Phật bên Ấn Độ thì dạy phải có lòng từ bi. Và cũng với lòng từ bi ấy mà Ngài đã lên đường tìm cho đồng bào mình con đường đến hạnh phúc. Như thế, cho đến khi giáo lý yêu thương của Đức Giêsu ra đời thì điều ấy đã được nói đến rất lâu rồi. Đến Đức Giêsu cũng không dạy điều gì khác hơn. Có khác là Ngài đã dám thí mạng sống mình cho người mình yêu (Ga 15,13). Tức là giá trị và ý nghĩa của hành vi yêu thương ấy. Một tình yêu nhưng không và hiến dâng.
Bài học yêu thương ai cũng nhớ, cũng thuộc, cũng có thể trình bày rõ ràng, rành mạch. Nhưng xem ra nhân loại này vẫn còn đầy dẫy những đau thương và thách đố do chính con người tạo ra cho đồng loại mình. Nguyên nhân chính là bởi con người đã không thể yêu như Chúa yêu. Vì khi làm như thế, con người sẽ bị mất mát, bị đau thương và có khi phải chết nữa. Con người mở rộng trí khôn để đón nhận giáo huấn nhưng lại đóng cửa trái tim và bàn tay nên giáo huấn ấy không thành hiện thực. Lịch sử loài người cho thấy con người ngày càng tách biệt nhau. Nếu Thời công xã nguyên thuỷ con người sống thành “bầy đàn”, mọi sự là của chung, thì thời hiện đại “mạnh ai nấy sống”. Rồi khi con người tiến dần đến thềm văn minh thì cũng là lúc con người tiến dần đến ranh giới của chia cắt. Phân chia quốc gia, lãnh thổ, dân tộc, gia đình, rồi đến sự phân chi tài sản, giàu nghèo, thân phận. Đó là số phận của cái gọi là văn minh hiện đại. Tình yêu như mờ nhạt dưới bảo táp của giá cả, của miếng ăn, áo mặc, danh dự, uy quyền. Ai dám “liều yêu” thì coi như kẻ lập dị, không biết thời thế. Đức Giêsu đến để làm sống lại nền văn minh tình thương ấy. Ngài đã tự huỷ, bỏ mình để gắn kết, để hiệp thông. Ngài đã làm gương cho chúng ta về một đời sống yêu thương trọn hảo. “Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Khi sống giới luật yêu thương thì không những chúng ta đã hoàn thành cái nhiệm vụ của con người với con người mà chúng ta còn được cứu độ. “Phúc cho ai biết thương xót thì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót” (Mt 5,7). Lẽ ra chúng ta không được cái phần thưởng ấy vì đó là nhiệm vụ chúng ta phải làm, phải thực hiện. Nhưng Thiên Chúa đã cho hành vi tự nhiên ấy một phần thưởng thì quả thật hành vi ấy phải rất cao trọng và lớn lao. Khi yêu thương thì chúng ta chu toàn lề luật của Thiên Chúa (x. Rm 13,18).
Người ta thích nói về tình yêu nhưng ngại sống cho tình yêu. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau, biết dám vì người khác mà hy sinh bản thân mình để chúng con cũng xứng đáng được gọi là môn đệ của Chúa.
35. Ai là gương mẫu của chúng ta? – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Giuđa đi khỏi, bầu khí phòng tiệc trở lại đầm ấm. Chúa đối thoại thân thiết với các môn đệ. Người nói ra những điều Người đang suy nghĩ. Sắp tới giờ Người được tôn vinh. Lời nói Chúa phát xuất từ thâm tâm và muốn động tới thâm tâm các môn đệ. Đối với Chúa, tôn vinh nghĩa là, sau khi hoàn tất sứ mạng, Người sẽ tỏ rõ phẩm vị của Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Chịu khổ nạn và sống lại, hành vi tuyệt đỉnh ấy của sứ mạng đang tiến đến gần, do đó có câu: Thiên Chúa sắp tôn vinh Con Người. Mầu nhiệm sự sống qua cõi chết, vinh quang qua ô nhục và sống lại, sắp hoàn tất. Mầu nhiệm đã kết thúc ở sự biểu dương đời sống Thiên Chúa trong Con Người, không những vì được Thiên Chúa thêm sức sống, mà chính vì Người là Con Thiên Chúa. Từ ngữ các con bé nhỏ Chúa dùng để nói với các môn đệ biểu lộ niềm thương mến của một người Cha. Chúa nghĩ đến nỗi buồn sầu sắp tới của các môn đệ, nỗi hoang mang của họ trước cuộc Thương Khó. Chúa dạy họ hãy sát cánh đương đầu với thử thách, và lệnh truyền của Người là thương yêu nhau bằng một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Chúng ta nêu hai câu hỏi:
1) Lệnh truyền của Chúa mới lạ ở điểm nào?
Trong Cựu Ước đã có huấn lệnh thương yêu tha nhân như chính mình (Lêvi 19,18). Lề Luật tuy không minh thị đặt người ngoại chủng ra ngoài, nhưng trực tiếp nhắm vào những thành phần khác trong dân Chúa, coi họ là tha nhân. Mặt khác, sự giải thích của người đồng thời với Đức Giêsu về huấn lệnh trên, nói đúng ra, nặng phần tiêu cực, người ta phải tránh gây thiệt hại cho tha nhân để khỏi bị tha nhân ăn miếng trả miếng. Đức Giêsu nhắc lại huấn lệnh, trả lại cho huấn lệnh giá trị tích cực. Người đi a hơn Lề Luật, dạy người ta phải thương yêu cả những kẻ thù nghịch. Và điểm hoàn toàn mới lạ, chính là gương Đức Giêsu sắp nêu cao về tình yêu của Người bằng cách chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chính những kẻ giết Người. Gương mẫu ấy phải soi sáng tình yêu của người Kitô hữu.
2) Lện truyền của Chúa thực hiện theo cách nào?
Lời đáp nằm trong chỉ dẫn: như Ta đã thương yêu các con. Tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại phát xuất từ đâu? Như Cha đã yêu Ta, Ta cũng đã yêu các con (15,9). Tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại bắt nguồn từ Chúa Cha. Tình yêu của chúng ta đối với tha nhân bắt nguồn từ Chúa Kitô, và chung cục bắt nguồn từ Thiên Chúa. Người ta chỉ thật sự thương yêu nếu tình yêu phát xuất từ nguồn mạch. Giả sử nguồn mạch bị giới hạn, ví dụ nguồn mạch là trái tim con người cho dẫu trong sạch chăng nữa, tình yêu tất bị giới hạn. Nếu nguồn mạch là Thiên Chúa, là trái tim Đức Kitô, thì tình yêu trở nên bất tận. Hơn nữa, trong Đức Kitô không một tình yêu nào làm giảm tình yêu khác. Nếu tình yêu của chúng ta phát xuất từ Thánh Tâm Chúa, tình yêu ấy có thể biểu hiện như một thực tại thần hoá, nghĩa là dẫn đưa con người đến đích của niềm khát vọng.
36. Vương quốc tình yêu – Lm. Anmai.
Lịch sử nhân loại đã mở đầu bằng sáng tạo thì sẽ kết thúc bằng tái tạo (sáng tạo mới).
Người ta vẫn thường dùng chữ tận thế để diễn tả sự tan vỡ của lịch sử và vũ trụ vật chất. Sự tan vỡ, sự tận thế là điểm tất yếu để cho thế giới mới xuất hiện. Tận thế, theo cách nói, cách diễn đạt của con người chính là giây phút quặn đau để chấm dứt cõi tạm và đưa vào con người vào cuộc sống mới (Rm 8, 21.22; 2 P 3, 10.13; Kh 21, 1.5)
Gioan đã được “ơn” để thấy vũ trụ thời cánh chung. Trời cũ đất cũ đã qua đi. Cách riêng, biển là nơi ủ ấp những sự dữ cũng sẽ không còn nữa. Một trời mới đất mới sẽ xuất hiện để thay cho trời cũ đất cũ. Một Giêrusalem mới tự trời cũng sẽ xuống và chỉnh tề như một tân nương. Hội Thánh mới là dân Thiên Chúa sẽ xuất hiện đó là mỗi người chúng ta. Tất cả trong tư thế sẵn sàng để đón chờ đức lang quân. Người đến đó chính là Thiên Chúa và Thiên Chúa ở cùng họ. Với tình thương, Thiên Chúa sẽ lau khô giọt lệ trên khuôn mặt của họ. Chúa sẽ khử trừ sự chết. Thiên Chúa phán: này Ta làm mới mọi sự.
Thế giới mới, cuộc sống mới mà Thiên Chúa hứa này hoàn tất mọi lời hứa và công trình của Ngài. Ơn cứu độ đã hứa, đã chuẩn bị một thời gian thật dài trong lịch sử nay hoàn thành. Chúa Giêsu là thủ lãnh của vạn vật tập họp tất cả trong Ngài và Ngài trong tư cách là con trao lại Thiên Chúa Cha để như lời Chúa Giêsu nói là tất cả mọi sự là của Cha.
Thế giới mới này đã được hoàn tất và sẽ phục hồi tất cả những gì đã mất, đã hư hỏng để công trình cứu độ của Thiên Chúa hoàn thành. Thế giới mới này không chỉ phục hồi tình trạng nguyên khởi của nhân loại mà còn tiến xa hơn, đạt tới viên mãn hơn. Tất cả cái xấu bị loại bỏ. Cái bất toàn được cải thiện và nâng cao. Cái tốt do lòng tin – cậy – mến được giữ lại làm chất liệu để xây dựng trời mới đất mới.
Niềm tin để xây dựng trời mới đất mới được Phaolô và Banaba nhắc nhở cho mọi người.
Phaolô và Banaba đi rao giảng Tin mừng. Khởi đầu từ Antiôkia là nơi Thánh Thần “thổi hơi” cho các ông và mời gọi các ông đi rao giảng. Các ông đã đi từ thành này sang thành khác, đảo nọ sang đảo kia với biết bao nhiêu khó khăn vất vả, lo lắng, sỉ nhục và thậm chí còn bị cầm tù. Thế nhưng vượt trên tất cả những khó khăn ấy lại là niềm vui vì danh Chúa và cứu độ các linh hồn. Lòng các ông dần dần thay đổi. Các ông yêu những người các ông được sai đến như Chúa Giêsu đã yêu các ông. Các ông đã thực thi giới răn mới nhận được từ Chúa. Vì thực thi như vậy, những ai tiếp xúc, những ai gặp gỡ nhìn thấy nơi các ông hình ảnh của Chúa Giêsu.
Cuộc đời của các tông đồ quả là cuộc đời đầy gian nan khốn khổ ấy vậy mà các ông lại để giờ khích lệ và khuyên nhủ người ta giữ vững đức tin “Chúng ta phải chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” Các môn đệ có lẽ phần nào giống như Thầy của mình trong bàn Tiệc Ly. Dù biết phải đón nhận đau khổ, đón nhận cái chết trên thập giá nhưng lại bảo các môn đệ giữ vững niềm tin. Các môn đệ mời gọi con người ta đi theo con đường hẹp, đi theo con đường thập giá.
Đó là niềm tin. Niềm hy vọng thì qua thánh Gioan tông đồ, chúng ta được mời gọi để chờ đợi cái ngày trời mới đất mới đến. Trời mới đất mới mà Gioan thấy cũng chỉ là trong viễn tượng và là viễn tượng của lòng tin. Nếu không hy vọng vào trời mới đất mới đến thì sẽ nản lòng và cứ mãi bám vào cái cũ, bám vào cái trời cũ đất cũ mà con người đang sống. Để có một niềm hy vọng vào lời của Gioan không phải là chuyện đơn giản.
Thêm một bậc nữa để sống trong trời mới đất mới đó là tình yêu, đó là lòng mến. Tình yêu và lòng mến đó ngày hôm nay Chúa Giêsu đã trình bày hết sức rõ ràng trong Tin mừng theo Thánh Gioan
Chúa Giêsu biết trước cái ngày mà Ngài phải ra đi nhưng rồi Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (1 Ga 4,12).
Vâng, tình yêu đích thực là một “sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Chúa Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Chúa Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu thực là thế! Nếu thực là “Thiên Chúa đã chết”, thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết”. Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi “tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, “tình yêu bản thân” hay “tình yêu kẻ khác”? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi chúng ta nói: “Tôi thích bánh bía Sóc Trăng!”… chúng ta có thích nó thực sự hay chúng ta sử dụng nó nhằm thoả mãn cho lợi ích của chúng ta? Khi chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta có yêu họ theo cách đó… nghĩa là chỉ vì chúng ta hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:
– Éros: Yêu mình… đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến hủy hoại họ.
– Agapé: Yêu tha nhân… đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.
Chúa Giêsu nói: như Thầy đã yêu thương anh em, anh em hãy thương nhau. Với một từ “như” hết sức đơn giản… nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.
Yêu như Chúa Giêsu yêu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Chúa Giêsu vừa làm. Yêu như Chúa Giêsu yêu! Đó là “hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương” (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sắp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.
Chúa Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: “Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa”. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.
Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự “khác biệt” của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Chúa Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, “kẻ khác” đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!
Đối với Chúa Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Chúa Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Chúa Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.
Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: “là anh em có lòng yêu thương nhau”.
Vỏn vẹn với 3 dòng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
Đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.
Đó là gương mẫu của Chúa Giêsu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Sau cùng, đó là dấu chỉ Chúa Giêsu: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.
Như vậy, Chúa Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là “thể thức” thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng “Thời gian cuối cùng”, mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân ” và trao ban “giới răn mới quan trọng” như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình, của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn”. Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Chúa Giêsu nói: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra”. Còn theo Gioan, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện” có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Chúa Giêsu không chỉ là Thánh lễ. “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.
Chúa Giêsu từ vương quốc Tình Yêu đến và Ngài lại trở về vương quốc Tình Yêu. Ngài đã mở đường bằng Tình Yêu và những ai yêu thật sự như Chúa Giêsu yêu sẽ có một chỗ trong vương quốc Tình Yêu ấy.
Muốn có chỗ trong trời mới đất mới hay vương quốc Tình Yêu của Chúa Giêsu thì ngay trong cái cõi tạm, ngay trong cái trời cũ đất cũ này con người phải sống niềm tin, niềm hy vọng và đặc biệt tình yêu mà Chúa Giêsu đã sống.
(Lễ Thiếu nhi)
Chúng ta đang sống trong tuần 5 mùa phục sinh. Bây giờ con xin hỏi các em thiếu nhi:
Chúng ta vừa nghe đọc bài Tin Mừng Chúa Giêsu theo thánh nào? Thưa thánh Gioan. Thầy xin hỏi các em câu thứ 2:
Thánh Gioan đã định nghĩa Thiên Chúa là gì? Thưa: “Thiên Chúa là Tình yêu”.
Bài Tin Mừng thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe nằm trong bối cảnh những lời giã biệt của Chúa Giêsu trước khi Ngài bước vào cuộc thương khó.
Chúng ta cũng đặc nghi vấn:tại sao Hội Thánh lại chọn bài Tin Mừng này, khi chúng ta đang sống trong những ngày hoan lạc Phục Sinh? Xin thưa rằng: chúng ta đang sống trong giai đoạn cuối của mùa Phục Sinh. Lúc này là thời gian cuối cùng mà Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện với các tông đồ, vì Ngài sắp về trời vinh hiển.
Giáo Hội muốn cho chúng ta nghe lại những lời giã biệt của Chúa Giêsu, vì những lời đó như là lời trăn trối, là lệnh truyền của Chúa cho các môn đệ và cho mọi người chúng ta.Lệnh truyền này như một điều răn mới truyền lại cho chúng ta.Vậy thầy xin hỏi tiếp các em thiếu nhi:
Điều Răn mới mà Chúa Giêsu ban cho các tông đồ cũng như cho chúng ta là điều gì? Thưa là điều luật yêu thương: “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Thật vậy, dấu hiệu nhận biết chúng ta là người con Chúa là chúng ta biết yêu thương nhau. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ và cho chúng ta điều đó: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau”.Nhiều người không cùng đạo với chúng ta cũng rất thán phục chúng ta, khi họ thấy chúng ta biết sống đoàn kết yêu thương nhau, yêu thương mọi người. Qua đời sống tốt lành, đời sống yêu thương đó, họ sẽ có thiện cảm với chúng ta với đạo của chúng ta.
Các em thiếu nhi thân mến, Chúa cũng mời gọi các em sống tình yêu thương của Chúa ngay trong gia đình qua việc biết sống ngoan hiền, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, anh chị em. Các em cũng thể hiện tình yêu thương đó tại những nơi công cộng, nơi học đường, nơi trường lớp của các em bằng cách kính trọng, lễ phép với những người lớn tuổi, với thầy cô giáo. Các em cố gắng học tập tốt, biết yêu thương giúp đỡ mọi người, đối xử tốt với bạn bè.
Khi các em sống gương mẫu, hiền hòa như vậy, các em đang sống đúng ý Chúa, các em đang thể hiện tình yêu thương của Chúa cho mọi người. Chúng ta luôn tâm niệm rằng: khẩu hiệu của người Công Giáo của chúng ta là biết yêu thương nhau.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống yêu thương mọi người như Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
38. Suy niệm của Lm Phaolô Cao Thế Bình
Kính thưa qúi ông bà anh chị em, thỉnh thoảng ta xem trên truyền hình hay băng DVD về những lễ như: lễ đăng quang của Đức Giáo Hoàng, hay lễ phong vương của vua chúa ngày xưa, mà ngày nay gọi là: lễ nhận chức tổng thống. Tất cả những người được phong vương, phong chức ấy đều hiểu theo nghĩa “Được tôn vinh”. Nghĩa là ngày hân hoan vui mừng vì được tôn lên, được đạt đến đích điểm của quyền cao chức trọng. Và để được sự tôn vinh đó người ta cũng phải trải qua bao lao nhọc, khó khăn, vất vả bởi học hành, bởi dày công tập luyện.
Hôm nay trong bài Tin Mừng của Thánh Gioan cũng nói tới việc ‘tôn vinh’. “Đức Giêsu nói: Giờ đây, Con Người được tôn vinh”. Nhưng việc Đức Giêsu được tôn vinh là qua sự đau khổ, đớn đau bởi: bị phản bội, bị bắt bớ, sĩ nhục, vu oan, cáo vạ, bị đánh đập và bị giết chết một cách ô nhục trên thánh giá. Một sự tôn vinh khác hẳn con người nhân loại được tôn vinh. Sự tôn vinh của Chúa Giê-su là tôn vinh của một Vị Thiên Chúa, mà Chúa Cha được tôn vinh nơi Chúa Giêsu, đồng thời Chúa Giêsu cũng được tôn vinh. Giờ phút Chúa Giê-su được tôn vinh là giờ phút mà Giuđa phản bội bỏ ra đi khỏi phòng hội, cử toạ là Thầy Chí Thánh Giêsu cùng với 11 trò còn lại.
Giờ phút từ giã trần thế, nhất là từ giã những người yêu qúi để đi cho đến cùng của yêu thương, trong bầu khí liêng thiêng và hệ trọng như thế, nên lời căn dặn cũng ở tầm mức không những quan trọng mà còn tha thiết, mong mỏi mọi người thực hành đến nỗi nó trở thành điều răn, lệnh truyền; lệnh truyền mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Chính vì điều này mà: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: Là anh em có lòng yêu thương nhau”. ( Ga 13, 34-35).
Điều răn mới ở chổ nào? Đó là: “Yêu như Thầy đã yêu thương anh em”. Khác với giới luật yêu thương cũ: “Yêu thương người ta như chính mình ngươi”. Yêu thương như thế cũng là tốt lắm rồi; vì ai cũng yêu mình, và nếu yêu mình thế nào để yêu người khác được như vậy, qủa là một cuộc cách mạng lớn lắm rồi, thế giới cũng đổi thay lắm rồi; thế mà điều răn Chúa đưa ra còn vượt xa hơn nhiều: vì lấy Thầy Chí Thánh làm chuẩn mực vì: “Anh em gọi Ta là ‘Thầy’ là ‘Chúa’, quả thật là vậy, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 13). Đây là điều mới không ai tưởng tượng nổi, một vị Thiên Chúa quyền năng cao cả mà cúi mình xuống phục vụ các môn đệ của mình, kể cả kẻ phản bội mình nữa, Chúa cúi mình xuống phục vụ như một đầy tớ phục vụ ông chủ. Quả thật cuộc đời của Chúa Giê-su là hy sinh phục vụ, phục vụ quên mình, phục vụ bằng liều mình chết bởi tình yêu, với tình yêu và cho tình yêu. Tình yêu (Agapé); tình yêu tuyệt hảo đó là: yêu và yêu cho đến cùng, yêu cho đến nỗi chấp nhận cái chết không những cho người dễ thương, dễ yêu mà còn cho kẻ thù nghịch, bội phản, chống đối mình nữa.
Một tình yêu tuyệt vời, một tình yêu trọn vẹn, một tình yêu mang lại sự sống đời đời nên: tình yêu này trở nên lệnh truyền, trở nên điều răn mới. Và khi đã trở thành lệnh truyền và điều răn thì không phải là chuyện (giỡn chơi), nên dù muốn, dù không thì ai ai cũng phải thực thi, phải tuân giữ, nếu không thì cuộc sống con người đau khổ, cay đắng và trầm luân. Chính vì thế mà Chúa phải đưa ra lệnh truyền; vì Chúa muốn thông chia cuộc sống hạnh phúc và sự sống đời đời cho con người qua sự yêu thương nhau, và chỉ có yêu thương nhau mà thôi; bởi vì khi con người sống ngược lại với sự yêu thương thì con người sẽ loại trừ nhau, thanh toán nhau, và đủ bao thảm hoạ đau thương xẩy ra như chúng ta đang chứng kiến ngày hôm nay; từ cá nhân, gia đình, đến đoàn thể, cộng đoàn, giáo xứ, xã hội, thế giới, đâu đâu cũng có cảnh đau thương xẩy ra và không chừng nhiều người trong chúng ta đang ngồi đây là nạn nhân, là những người đang sống trong cảnh địa ngục trần gian, bởi vì ở đó vắng bóng tình yêu.
Vậy thì, hơn bao giờ hết; từ cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ, thế giới muốn có sự hòa bình, muốn có sự bình an đích thực, sống niềm vui và hạnh phúc thì phải tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giê-su: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thầy truyền cho các con một điều răn mới là: các con hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34). Đây như một định luật không có gì có thể thay thế được, cho dù nhân loại đang cố gắng lấy tiền bạc, tiện nghi, giải trí này, giải trí kia để trám lấp cho tình yêu, và càng sai lầm khi nghỉ rằng những thứ đó thay thế cho tình yêu đích thực, nhưng than ôi! Đó chỉ là những sự chắp vá nhất thời, để rồi sau đó là một sự trống vắng, chán chường, ghê tởm đáng sợ, bởi những đau thương này chồng chất lên đau thương khác không bao giờ dừng lại.
Và giờ đây, hỡi bạn! tôi mời bạn, kể cả tôi nữa, chúng ta hãy yêu thương nhau, cho dù bạn là ai đi chăng nữa. Bạn không phải là người Ki-tô hữu ư? Bạn hãy yêu người khác như chính bạn. Bạn và tôi là những người Ki-tô hữu ư? Chúng ta lại càng phải vượt xa hơn nữa bởi một tình yêu vị tha; yêu như Đức Ki-tô đã yêu và đang mời gọi bạn và tôi bước theo con đường tình yêu đó, có như thế mới cứu vãn được thế giới đang bị băng giá vì thiếu vắng tình yêu sưởi ấm. Và khi chúng ta có được một tình yêu đích thực thì tình yêu đó sẽ dạy cho chúng ta có trăm phương, ngàn cách để làm cho người khác được những sự tốt đẹp. Và đây là lời của thánh Augustino: “Bạn hãy yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm”.
Lạy Chúa, xin tạo cho chúng con một quả tim mới; một quả tim biết yêu thương nhau, yêu như Chúa đã yêu thương chúng con và truyền dạy chúng con. Amen. Halleluia.
Trước khi một ai đó sắp chết, họ thường gọi người thân lại để trăn trối những điều quan trọng. Cũng vậy, khi biết mình sắp đi vào cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu quy tụ các môn đệ lại bên bàn tiệc ly để trao lại một lời trăn trối đầy tâm huyết: ” Các con hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương các con”. Để thực hiện Lời trối của Chúa Giêsu: “hãy yêu thương nhau như chính Thầy đã yêu thương”, trước tiên, chúng ta hãy tìm hiểu xem Chúa Giêsu đã yêu môn đệ của Ngài như thế nào? Cứ mỗi Chúa Nhật, OBACE đến nhà thờ dự lễ, chúng ta được nghe đọc Phúc âm. Phúc âm chính là những lời ghi lại những hành động yêu thương của Chúa Giêsu dành cho nhân loại, và cách riêng là dành cho các môn đệ của Ngài. Hành động yêu thương ấy thể hiện cách cụ thể qua việc: Chúa Giêsu tin tưởng chọn gọi các môn đệ, tận tình hướng dẫn dạy dỗ cho các ông nhiều điều, đồng hành cảm thông chia sẻ với các ông những vui buồn, khó khăn trong cuộc sống. Tình yêu của Chúa Giêsu dành cho các môn đệ còn được diễn tả một cách ấn tượng và cảm động qua việc Chúa Giêsu hạ mình rửa chân cho từng người môn đệ trong buổi tiệc ly. Hành động hạ mình này như là một sứ điệp tóm kết ý nghĩa của tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ từ xưa đến nay: “hy sinh phục vụ vì yêu”.
Trong cuộc sống đời thường xung quanh con, con nhận ra có một tấm gương hy sinh phục vụ giống Chúa: “Gần nhà con có một người bác, con quen gọi là bác út. Bác Uùt vào tuổi 45, có được 8 người con. Đùng một cái, vợ bể nợ bỏ xứ đi xa. Từ đó, mỗi ngày, bác phải đi làm thuê đóng thùng suốt lúa cho người ta, lãnh 7000 đồng mỗi ngày mua gạo nuôi con. Ngày thường, nhà ăn cực ăn khổ lắm. Đến Chúa Nhật, bác út dành ít tiền mua miếng thịt heo kho cho các con ăn. Trong bữa ăn, bác chỉ ăn toàn là nước thịt với rau, còn thịt thì nhường cho con. Mấy đứa con hỏi, sao cha không ăn thịt đi? Bác trả lời: bên chỗ làm, ba ăn sung sướng lắm, tụi con đừng lo, cứ ăn đi. Mỗi khi trong gia đình có thức ăn ngon, bác đều nhường hết cho con. Sau này, các con đã khôn lớn, trong một lần dạy con, bác mới nói thiệt: thật ra, chỗ làm của cha ăn uống cũng kham khổ lắm nhưng vì cha thấy các con còn nhỏ, cần phải ăn nhiều để lớn, để có sức học, mà gia đình mình lại nghèo nên cha phải nhường cho tụi con ăn.“
Không chỉ có người cha trong câu chuyện, mà con biết rằng trong OBACE đây, cũng có rất nhiều người có cách yêu giống như Chúa: yêu bằng hy sinh phục vụ. Trước tiên là các ông chồng. Các ông là trụ cột trong gia đình, con nhận thấy việc hy sinh của các ông là cố gắng đổ mồ hôi, vất vả kiếm đồng tiền để lo cái ăn, cái mặc trong gia đình. Hay hơn nữa, con nghe nói có một số ông hy sinh cả việc uống rượu, cờ bạc để tiết kiệm tiền cho con ăn học, cho vợ sắm sửa quần áo mới. Có những ông rành tâm lý hơn, đi làm về mệt lắm, mà còn xuống bếp phụ vợ nấu nồi cơm, lặt bó rau, để tìm kiếm nụ cười trên khuôn mặt vợ, để tạo thêm bầu khí đầm ấm trong gia đình. Còn các bà, các chị thì việc hy sinh cũng chẳng kém. Sáng sớm đã phải thức dậy nấu cơm nước cho chồng con ăn, quét dọn nhà cửa, khệ nệ bưng thao đồ đi giặt, rồi còn phải đưa con cái đi học. Ban ngày, để san sẻ gánh nặng với chồng, chị còn tìm một việc gì đó để làm kiếm thêm vài chục ngàn. Có nhiều người vợ khác vì kinh tế gia đình khó khăn, dù chân yếu tay mềm mà cũng vất vả đi làm như chồng để cùng chồng xây dựng tương lai gia đình. Chưa kể những khó nhọc chất trên vai các chị khi con bệnh, con đau, khi gặp phải người chồng không biết lo, lại quen cờ bạc, rượu chè, gặp phải người mẹ chồng không biết cảm thông, tối ngày cứ để ý đến những chuyện vụn vặt để bắt lỗi, để chì chiết làm khổ dâu con.
Vợ chồng hy sinh cho nhau, hy sinh cho con để xây dựng hạnh phúc gia đình là điều đáng khen. Nhưng đáng mừng hơn nữa, có nhiều đôi vợ chồng công giáo còn quảng đại hơn, biết hy sinh cho bà con lối xóm. Hễ nghe làng xóm có hữu sự, đám ma, đám cưới, đám dỗ, thì sắp xếp người trong gia đình đến tiếp giúp. Mỗi tuần, hai vợ chồng làm lương cũng đâu có bao nhiêu, vậy mà một tuần lễ dám bỏ tiền ra mua một chục kg gạo, mấy chai nước mắm, 50g bột ngọt để cho gia đình nghèo trong xóm. Vợ chồng đồng lòng với nhau trong rất nhiều việc, nhưng đáng trân trọng nhất ở đây là anh chị biết tâm đầu ý hợp trong việc hy sinh phục vụ người nghèo. Đó là những việc làm rất hay thể hiện tình người với nhau và cũng là một hành động truyền giáo thiết thực nhất trong hoàn cảnh xã hội hôm nay.
Con vừa mới kể những tấm gương hy sinh phục vụ thiết thực trong đời sống gia đình, trong tương quan xóm làng. Con thiết nghĩ đây cũng là dịp thuận tiện để mỗi người trong chúng ta nhìn lại đời sống đạo của mình, tôi có biết hy sinh phục vụ cho người khác chưa hay tôi luôn là gánh nặng để người ta phải hy sinh. Thay cho lời kết, nguyện xin Đức Kitô Phục sinh ban cho chúng ta có được cách yêu giống Chúa, để từ đó, mỗi người chúng ta biết quảng đại hy sinh cho nhau bằng những việc cụ thể trong đời sống hằng ngày, hầu xây dựng hạnh phúc trần thế trong hiện tại và hướng đến thiên đàng vĩnh cửu mai sau. Amen.
40. Qua yêu thương, mọi sự trở nên mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ)
Theo Tin Mừng Máccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu phục sinh cho đến khi các ngài được chính Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho: “Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Magdala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Ngài mà nay đang buồn bã khóc lóc. Nghe bà nói Ngài đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin. Sau đó Ngài tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này. Sau cùng, Người tỏ mình cho chính nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc.16, 9-14).
Đức Giêsu đã phục sinh. Từ biến cố này, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các tông đồ nhận biết Đức Giêsu không chỉ là một con người, một tiên tri, một vị Kitô vua (Mc.8, 27), nhưng còn là Đấng vô cùng đặc biệt: Ngài là Đấng ngự bên hữu Thiên Chúa (Mc.14, 62), ngang hàng với Thiên Chúa, là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), có trước Abraham (Ga.8, 57-58), có quyền tha tội (Mc.2, 5.7). Những trích dẫn này giả sử người đọc đều biết cái nhìn của các sách tin mừng về chân tướng của Đức Giêsu, là cái nhìn về Đức Giêsu dưới ánh sáng Phục Sinh. Khi Đức Giêsu nói những điều trên, các tông đồ đã không hiểu; nhưng một khi Đức Giêsu phục sinh, với ơn Thánh Thần, các tông đồ nhớ lại những lời của Đức Giêsu, và lúc đó họ hiểu lời Đức Giêsu đã nói với họ.
Tác giả tin mừng Gioan, sau một thời gian dài suy gẫm, đã nhận ra Lời hằng ở nơi Thiên Chúa từ đời đời (Ga.1, 1), và Lời đã nhập thể (Ga.1, 14). Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên Ngài có trước Abraham. Những suy tư về Ba Ngôi sau này, có cùng quan niệm của Gioan về Lời hằng có và nhập thể. Vào thời điểm của tin mừng Gioan và trước đó, chưa có từ ngữ Ba Ngôi, nhưng tin mừng Matthêu cũng đã nhắc đến Cha, Con, và Thánh Thần: “vậy anh em hãy đi làm muôn dân thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Thần” (Mt.28, 19).
Một điều quan trọng cần hiểu, là tương quan giữa Cha, Con, và Thánh Thần. Đức Giêsu ý thức “Cha trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28); có những điều “chẳng có ai biết, kể cả Con Người, chỉ có Cha biết thôi” (Mc.13, 32). Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng ý thức “nếu các ông không tin rằng Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết” (Ga.8, 24), đồng thời cũng nhận ra mọi người phải tôn vinh Ngài: “để ai nấy đều tôn vinh người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga.5, 23). Đức Giêsu luôn được phân biệt với Thiên Chúa Cha, ngay cả khi Ngài nói: “Ta và Cha là một” (Ga.10, 30).
Các nhà thần học hiểu rằng, cách nói như thể Đức Giêsu kém Thiên Chúa Cha là nói theo nhiệm cục cứu độ, chứ thật sự ba ngôi đều ngang bằng nhau và là một trong tất cả. Nói trong nhãn quan nhiệm cục cứu độ, Chúa Cha là nguyên ủy và cùng đích mọi sự, Chúa Con thực hiện công trình cứu độ, và Thánh Thần thánh hóa và hoàn tất những gì Chúa Con đã khởi đầu. Con người và công trình cứu độ con người, là điều vô cùng kỳ diệu Thiên Chúa đã và đang làm trong dòng lịch sử. Khi cứu độ con người, Thiên Chúa, qua những sáng kiến để cứu độ con người, cho con người biết Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào.
Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài sống và hành xử, chính là Thiên Chúa sống và hành xử. Đức Giêsu đã yêu thương con người, phản ánh Thiên Chúa yêu thương con người. Đây chính là con đường giúp con người hạnh phúc. Trước khi chịu khổ hình, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga.13, 34-35). Yêu thương tha nhân như chính mình (Mc.12, 31) đã là một điều khó, thế mà Đức Giêsu còn dạy: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Đức Giêsu đã yêu thương con người đến chết, đến hiến mạng sống cho con người. Yêu như Chúa yêu, đó là huấn lệnh của Đức Giêsu cho các môn đệ của Ngài.
Yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em. Đây là điều rất khó, nhưng nó làm con người được hạnh phúc thật. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài là Đấng chỉ biết yêu thương, làm tất cả vì yêu thương. Thiên Chúa yêu thương con người ngay lúc con người còn là tội nhân, Ngài thông cảm với những yếu đuối của con người, Ngài biết tại sao họ lại hành xử và phản ứng như vậy, nên Ngài thông cảm và tha thứ cho họ. Để chúng ta có cùng cách hành xử của Thiên Chúa, có con tim giống như Chúa, bao dung nhân hậu giống như Chúa, mình cũng cần có cái nhìn giống như Chúa; có như vậy, mình mới có thể yêu thương, tha thứ cho tha nhân.
Thù hận, tìm cách trả thù, chỉ làm cho con người khổ sở bất hạnh. Ngay cả khi người ta xúc phạm đến mình, nếu mình tha thứ, mình sẽ sống an bình và hạnh phúc hơn. Yêu thương, là cung cách hành xử của Thiên Chúa, là vương đạo, là Thiên Chúa đạo. Thiên đàng, là nơi người ta yêu thương, quan tâm đến nhau, và như vậy con người hạnh phúc. Không có con đường hạnh phúc nào khác ngoài con đường yêu thương. Yêu thương cả kẻ thù ghét mình, vì nếu mình không yêu thương mình không được hạnh phúc thật
Làm sao để người ta có cung cách hành xử của Thiên Chúa? Làm sao để người ta có cái nhìn về người khác như Thiên Chúa nhìn họ? Làm sao để có thể yêu thương tha thứ và khoan dung đối với người khác như Thiên Chúa đối với họ? Cầu nguyện, chiêm ngắm Đức Giêsu hành xử, đối xử với tha nhân, đối xử với những người ghét Ngài, chúng ta sẽ dần dần trở nên giống như Đức Giêsu, sẽ trở nên giống Thiên Chúa.
Với Đức Giêsu và Thánh Thần, Thiên Chúa đang làm mới tất cả. Khi đón nhận tin mừng Phục Sinh, người ta được biến đổi. Người ta có cái nhìn mới về Thiên Chúa và về vũ trụ này. Một khi sống như Đức Giêsu chỉ dạy: yêu thương như Ngài yêu thương, thì Kitô hữu làm cho thế giới này dễ thương và đáng yêu đáng sống hơn. Thiên Chúa đang làm mới mọi sự, trong và nhờ Đức Giêsu Kitô.
41. Trời mới đất mới – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa là Đấng luôn mới, Ngài luôn có những chương trình và sáng kiến tuyệt vời để can thiệp và cứu độ con người trong những tình huống khác nhau. Ngài vẫn tiếp tục làm mới tất cả và đặc biệt con người. “Này đây Ta làm mới tất cả”
“Trăng bao nhiêu tuổi trăng già?
Núi bao nhiêu tuổi, vẫn là núi non!”
Một đồ vật, cũ theo thời gian. Một cái máy, không làm cái gì “mới” vì người ta biết cái gì sẽ xảy ra. Làm một cách “máy móc”, nghĩa là người ta có thể biết những hành động tiếp sau.
Con vật không có tự do, thế nên người ta có thể kiểm soát và chi phối chúng, bắt chúng làm theo ý người ta; chẳng hạn những con vật được dùng để làm xiếc. Khi một người nô lệ tiền bạc, người khác có thể dùng tiền bạc để chi phối hay điều khiển họ. Một người ham sắc, có thể bị điều khiển bởi người nữ. Chuyện Bao Tự- Kỷ vương là một thí dụ. Những người như vậy, tuy tự do mà chẳng tự do. Ai mà không thể cưỡng lại điều gì, e rằng người đó không còn tự do nữa.
Con người luôn luôn mới vì con người luôn tự do. Con người, có thể thay đổi. Đổi thành tuyệt hơn hoặc tệ hơn. Tốt hơn và tuyệt hơn, không phải là chuyện “đã qua”, nhưng luôn là chuyện “hiện tại”. Vấn đề không là “quá khứ tôi tốt”, nhưng chính yếu là “lúc này tôi có tốt không?” Vấn đề không là “hôm qua nó xấu”, nhưng chính yếu là “bây giờ người đó thế nào?” Con người, luôn luôn có thể mới. Không ai biết được! Những lần trước, họ như vậy, nhưng không có nghĩa họ như vậy lần này. 999 lần trước, họ như vậy, nhưng lần này, có thể họ khác. Con người có thể mới, con người luôn luôn có thể mới.
Con người có tự do, không ai bắt họ “đổi” được. Cha mẹ, anh em, những người thân, muốn điều tốt cho họ, thế nhưng tất cả đều bất lực. “May ra Thiên Chúa có thể làm gì được chăng!” Thiên Chúa có thể làm được, nhưng Ngài lại cho con người “tự do”, nên dường như Ngài cũng “bất lực”!
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể biến đổi con người mà con người vẫn tự do. Thiên Chúa có thể làm điều đó, vì Ngài yêu con người vô cùng. Ngài có cách làm con người biến đổi. Dường như chỉ Thiên Chúa mới có thể làm con người biến đổi, vì “dường như” chỉ Thiên Chúa mới yêu thương “ai đó” vô cùng! Tình yêu có sức biến đổi con người mà con người vẫn tự do.
Thiên Chúa vẫn đang làm mới tất cả, qua Đức Yêsu chết và phục sinh.
Yêu nhau như Thầy yêu anh em
“Thầy để lại cho anh em một giới răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau. Như Thầy yêu thương anh em, anh em hãy yêu thương nhau. Cứ dấu này mà người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau”.
Luật Cựu Ước dạy: “yêu thương tha nhân như chính mình” (Lv.19, 18). Chúa Yêsu dạy: “yêu thương tha nhân như chính Chúa yêu thương chúng ta”. Chúa đã yêu thương chúng ta đến độ Ngài sẵn sàng chết để chúng ta được sống, và Ngài mời gọi mỗi người hãy yêu thương người khác như Ngài yêu họ.
Yêu thương người khác như chính mình, đã là một điều khó; phương chi bây giờ Ngài mời gọi yêu thương đến hiến mạng sống cho tha nhân. Ai dám nói yêu thương là điều dễ? Yêu, phải hy sinh quên mình, và làm tất cả những gì là tốt lành cho người mình yêu.
Dấu chỉ để nhận ra một người là môn đệ Chúa, không là “được rửa tội”, không là “có đi lễ Chúa Nhật”, cũng không là “mặc áo dòng”, mà là “yêu thương nhau”! Không yêu thương nhau mà nhận mình là người theo Chúa, là phản chứng. Không yêu thương mà nói mình biết Thiên Chúa, là nói dối; vì “ai yêu thương thì biết Thiên Chúa; ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga.4, 7-8). Cái biết ở đây, không là biết nói “như con vẹt”, nhưng là biết bằng hành động, bằng con tim, bằng cảm nhận.
Thiên Chúa đang làm mới tất cả qua những trung gian
Thánh Thần Thiên Chúa đã dùng các Kitô hữu sai gởi Phao-lô và Barnaba đi rao giảng Tin Mừng. Thiên Chúa đã dùng Phao-lô và Barnaba để rao giảng và củng cố đức tin của các tín hữu.
Thiên Chúa vẫn đang dùng những con người hôm nay, những Ki-tô hữu, để làm con người đương thời tin vào Tin Mừng, tin vào Thiên Chúa, tin vào con người. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa con người và Thiên Chúa qua các chứng nhân rao giảng Tin Mừng, qua thừa tác viên bí tích hoà giải. Thiên Chúa đang làm mới tương quan giữa người với người qua việc làm con người tin vào nhau, khi Thiên Chúa làm cho con người biến đổi, khi Thiên Chúa làm cho con người tin vào Thiên Chúa để có thể tin vào nhau.
Thiên Chúa vẫn đang làm mới con người, trái đất này, vũ trụ này qua những trung gian và phương tiện khác nhau. Khi tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, chúng ta trở thành con người mới, tạo vật mới.
Tạ ơn Chúa, và cám ơn tất cả mọi người- những trung gian của Chúa cho tôi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
Bạn có thấy ai chán nản và tuyệt vọng không? Đâu là nguyên do làm con người tuyệt vọng?
Con người luôn có thể không trung tín, vậy tại sao con người có thể tin vào nhau? (chẳng hạn vợ chồng, bạn bè)
Bạn có kinh nghiệm được Thiên Chúa dùng như trung gian để làm mới ai đó không? Nếu được xin bạn chia sẻ.
42. Ai yêu thương đều là Kitô hữu
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêsa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình thương yêu.
Người đàn bàn đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêsa bằng một giọng thều thào: “Tại sao bà lại làm như thế?”
Mẹ Têrêsa trả lời:
– “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”.
Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.
– Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!
– Tôi rất yêu mến bà, Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.
– Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!
Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêsa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…
Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta – “Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta” – Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!
Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.
Nhưng, thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô giáo mới giảng dạy. Văn hoá Á Đông đã từng nêu châm ngôi: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn biển là anh em. Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.
Vậy thì giới răn yêu thương của Kitô giáo có đem đến cái gì mới mẻ hơn chăng?
Chỉ dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, chúng ta đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của tình yêu Kitô giáo. Đó là yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu.
Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em máu mủ”, cũng không còn là “bản thân mình” nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: “Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.
Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.
Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.
Thưa anh chị em,
Trong cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta cũng vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, có thể là linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một anh chị em trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục: người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.
Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
Cách đây chưa lâu, tôi được mời tham dự vào một buổi bàn cãi về vấn đề “Hiệp nhất các giáo phái kitô giáo ly khai”, do một số các gia đình tổ chức. Buổi bàn cãi rất sôi nổi, và tôi còn nhớ ý kiến của một người phụ nữ đầy vẻ nóng nảy, nhìn về hướng tôi với những lời phát biểu như sau: “Các nhà thần học các ngài thật sự là những cái gông kìm hãm trên con đường tiến về sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. Với vô số các lý thuyết của mình, các ngài đã làm cho Kitô giáo trở nên quá phức tạp và mù mịt, đến nỗi – do chấp nhất vào các hệ thống và tư tưởng thần học trừu tượng – chính các ngài cũng không còn nhìn thấy được chân lý đơn sơ của Kitô giáo nữa! Vâng, thật ra trọn vẹn niềm tin Kitô giáo chỉ có thể tóm tắt trong một câu hết sức đơn giản: Con người cần phải yêu mến Thiên Chúa và tha nhân như chính mình. Chính trên nền tảng này, chính trên giáo huấn rõ ràng và quan trọng này, sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu phải được thể hiện. Thế tại sao sự việc lại trở nên quá phức tạp như thế?”
Và sau khi người phụ nữ vừa chấm dứt lời phát biểu của mình thì một tràng pháo tay tưởng thưởng của hầu hết mọi người hiện diện đồng loạt nổi lên! Và tất cả mọi con mắt trong phòng đều căng thẳng và tò mò đổ dồn về phía tôi, như chờ nghe sự tự bênh vực và bào chữa của tôi trước một lời phê bình quá thẳng thừng như thế! Và sự việc thiết tưởng không hề đơn giản chút nào! Chính Ðức Giêsu cũng đã phát biểu những lời phê bình thẳng thắn như thế đối với các vị kinh sư và các nhà thần học ngày xưa, vào thời của Người, là những người cũng vì tự giam mình trong đủ các thứ luật lệ và giáo điều rườm rà nên không còn phân biệt và khám phá ra được đâu là điều chủ yếu và cao trọng nhất trong tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nữa! Vì thế, ngoài dự đoán của mọi người có mặt hôm đó, tôi đã tán đồng ý kiến của người phụ nữ đó: Bà ta có lý! Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể phủ nhận được những sự khác biệt và những rào cản quan trọng – nhiều khi khó lòng vượt qua – giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, cũng như giữa các kitô hữu.
Vâng, đức ái thực sự là trọng điểm có tính cách quyết định của Kitô giáo, là sự hoàn tất mọi lề luật! Nhưng phải chăng đó là một điều đặc biệt? Phải chăng giới luật đức ái – nhiều hay ít – không phải là nền tảng cho mọi tôn giáo? Phải chăng chỉ Kitô giáo mới có thể sở hữu danh từ và giới luật đó cho một mình mà thôi? Phải chăng chúng ta không tìm gặp giáo lý nền tảng đó trong Hồi Giáo, Phật Giáo và trong các tôn giáo lớn khác trên thế giới? Mặc dù trong thực hành, mỗi tôn giáo áp dụng giới luật từ bi bác ái mỗi khác, theo nhân sinh quan và vũ trụ quan của tôn giáo đó, nhưng trên nguyên tắc, đã là một tôn giáo thì tôn giáo nào cũng đều luôn luôn nhắm tới đức ái để hành đạo.
Phải chăng là một thái độ mang vẻ trịnh thượng khi chúng ta nghe đọc trong bài Tin Mừng hôm nay những lời: “Thầy ban cho các con một giới răn mới”? Và đâu là điều mới mẻ trong giới răn này? Phải chăng danh từ “mới mẻ” ở đây được hiểu là: vì chúng ta thường hay quên giới luật nền tảng đó, nên cần phải luôn nhắc nhở lại?
Chiếc chìa khóa để hiểu được ý nghĩa bài Tin Mừng nằm ở phần hai của câu nói mà chúng ta đang bàn tới: “…, như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34). Ðức Giêsu ban cho chúng ta một chuẩn độ mới, khi Người nói về đức ái, cũng như Người muốn cho người ta phải hiểu đức ái là gì, đó chính là Người: “Thiên Chúa là tình yêu!”
Và ý nghĩa sâu xa là ở chỗ: Chính lúc Ðức Giêsu ban cho các môn đệ giới luật đức ái, thì Giu-đa Ít-ca-ri-ốt rời phòng Tiệc Ly ra đi, bấy giờ định mệnh của Ðức Giêsu đã được quyết định, bấy giờ nhân loại đã sẵn sàng phản bội, bắt trói, kết án, hành hạ và giết hại Người, và – như tất cả chúng ta đều biết – không vì bất cứ lý do một tội phạm nào, nhưng chỉ vì tình yêu xã kỷ và triệt để của Người đối với nhân loại. Cuộc khổ nạn thập giá của Ðức Giêsu đã mặc khải cho thấy đâu là tình yêu đích thực và đâu là tình yêu và tính cách nhân bản tạm thời hạn hẹp!
“Các con hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con!” Ðó là giới luật đức ái của Ðức Kitô. Nhưng để biết được các hành động và chính cuộc sống chúng ta còn cách xa với giới luật đó như thế nào, thì người ta có thể đọc thấy được qua thái độ dửng dưng và xa lạ của chúng ta trước cuộc sống đầy bác ái của bao vị thánh nhân, như: Phan-xi-cô As-si-si, Ma-xi-mi-li-an Kol-bê hay Mẹ Tê-rê-xa Cal-cut-ta, v.v…Ðức tin Kitô giáo của các ngài đối với chúng ta xem ra thái quá, hơi sôi nổi, không bình thường. Nhưng thực ra sự thật lại ngược lại: Ðức ái triệt để của các vị thánh nhân vạch trần quan điểm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân là: còn thiếu thốn hạn hẹp, chưa dứt khoát và chưa thành tâm!
Tất cả chúng ta đều biết rõ là cuộc sống và cách cư xử của chúng ta, những kitô hữu bình thường, hãy còn cách xa với chuẩn độ về đức ái mà chính Ðức Giêsu đã thiết đặt bằng chính sự sống và cái chết của mình. Vâng, chẳng những còn cách xa, nhưng trong thực tế, cái chuẩn độ về một đức ái triệt để như thế hầu như chỉ là một điều lý tưởng, nếu không nói là một ảo tưởng, khi so sánh với thái độ sống cụ thể của con người!
Mặc dầu thế, ở đây khi nhìn vào con người cụ thể người kitô hữu, tôi xin mượn phép định nghĩa rằng: Người kitô hữu là một người luôn nỗ lực vươn tới cái ảo tưởng về tình yêu đó. Theo ý nghĩa này, có lẽ ở đây câu nói của cố tổng thống Do-thái, David Ben Gurion (1886-1973), được áp dụng cho chúng ta, những kitô hữu: “Ai không có ảo tưởng, thì không phải là một người thực tế!”. Amen.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Có con là điều tuyệt vời nhất đối với nhiều phụ nữ. Tuy nhiên, để đứa con chào đời khỏe mạnh, người mẹ đã phải chịu đựng và vượt quá rất nhiều khó khăn thử thách, thậm chí hy sinh cả mạng sống của mình. Tất cả những điều đó đã xảy ra với một bà mẹ Mỹ, người gần như bị chết ngay trên bàn đẻ, nhưng được chính đứa con sơ sinh của mình cứu sống kỳ diệu một tuần sau đó.
Cặp vợ chồng Shelly và Jeremy Cawley đã vô cùng hạnh phúc chờ đón đứa con gái đầu lòng của họ – Rylan – chào đời. Giống như bất kỳ gia đình trẻ nào khác, trước đó, họ đã đi mua sắm rất nhiều quần áo và đồ dùng trẻ em, cũng như trang trí nhà cửa để chuẩn bị đón chào thành viên mới.
“Tôi nhớ rất rõ mình nằm trên một cái cáng và được đưa đến phòng mổ. Tôi đã khóc và nói với các bác sĩ rằng, tôi rất sợ mình sẽ không tỉnh dậy sau ca mổ đẻ. Điều kỳ dị là, những lo lắng của tôi đã trở thành hiện thực”, bà mẹ trẻ Shelly kể lại những gì mình đã trải qua. Trong ca mổ đẻ cấp cứu sau đó, bé Rylan đã chào đời an toàn và khỏe mạnh. Song, mẹ của em bị một cục máu đông lớn làm tắc nghẹn các động mạch chính, khiến cô rơi vào trạng thái hôn mê ngay trên bàn mổ. Các bác sĩ phát hiện, hai buồng phổi Shelly ứ đọng rất nhiều dịch, gây khó khăn trong việc cung cấp oxy cho não và làm giảm huyết áp của cô. Sản phụ trẻ được cho dùng máy hô hấp nhân tạo để duy trì sự sống, trong khi các bác sĩ tìm mọi cách cứu sống cô.
Sau một tuần hôn mê, chẳng còn mấy hy vọng sống dành cho Shelly. Trong một nỗ lực cuối cùng, trước khi chính thức tuyên bố bà mẹ trẻ đã chết, các bác sĩ đã thực hiện một hành động được cho là mang tính trực giác nhiều hơn khoa học. Họ đặt bé Rylan lên trên ngực Shelly, để hai mẹ con chạm vào da của nhau lần đầu tiên và kích thích để đứa con khóc bên bầu vú mẹ.
Và điều kỳ diệu thực sự đã xảy ra. Shelly bắt đầu bộc lộ các dấu hiệu sự sống. Trước sự kinh ngạc và vui sướng của mọi người, bà mẹ trẻ dần hồi sinh từ cõi chết và hiện đã hồi phục hoàn toàn.
“Tôi nghĩ đây là điều rất đáng kinh ngạc. Một đứa trẻ vô cùng non nớt (mới 1 tuần tuổi) lại có thể mang đến ảnh hưởng lớn đến như vậy. Trong lúc vô vọng, các bác sĩ gần như đã không thể làm được gì, nhưng con bé (Rylan) lại có thể… Tiếng khóc của con có thể đã tiếp cho tôi sinh lực để chiến đấu giành giật sự sống”, Shelly bộc bạch. Cô và chồng đã viết một cuốn sách về câu chuyện kỳ lạ của mình với hy vọng sẽ tạo nên cảm hướng cho những người khác vững niềm hy vọng trong cuộc sống. (Tuấn Anh, Bé một tuần tuổi cứu mẹ thoát chết kỳ diệu, theo Diply, USA Today)
Chính cháu bé Rylan bất ngờ đánh thức tình mẫu tử kỳ diệu, đã cải tử hoàn sinh cho mẹ Shelly. Một dấu chỉ của tình yêu tuyệt vời. Tình yêu nhân trần tuy còn bất toàn, hạn hẹp, mong manh vẫn là thần dược cứu sống. Tuy nhiên,“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15) Tình Chúa cao siêu, tuyệt diệu, vô biên, vượt trội hơn cả mối tình mẫu tử, còn thương ban cho con người được ân hưởng phúc trường sinh.
Yêu như chính mình
Trong chương 19 sách Lêvi, nêu ra chỉ thị về luân lý, những điều cấm đoán, nhưng nổi bật một điều khẳng định:”Ngươi không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại (tha nhân) như chính mình.”(Lv 19, 18) Tuy nhiên tình yêu quy chiếu bản thân làm tiêu chuẩn, thường mỏng dòn, thiếu hoàn hảo, khó trường tồn, vì con người vốn yếu đuối, mong manh, dễ thay đổi, mau lung lạc theo thời gian và không gian.
Tình yêu con người bất cập, vì thường lệ thuộc vào tâm trạng bất an, hay bất thường do hoàn cảnh, môi trường tác động, nên dễ dàng biến chuyển, phai màu, thay đổi, sáng nắng chiều mưa.“Yêu nhau chưa ráo mồ hôi, chưa tan buổi chợ, đã rời nhau ra!” (Ca dao)
Tình yêu con người bất hạnh, vì thói bái vật, thực dụng, tôn thờ tiền tài, danh vọng, chức tước, quyền lực. Những ảo ảnh phù phiếm không bao giờ đủ, không bao giờ thoả mãn bản năng thú tính và dục vọng bất tận.“Hồi nào nhắn xuống nhắn lên. Bây giờ em đứng một bên anh không nhìn.” (Ca dao)
Tình yêu con người bất hảo, vì lòng vụ lợi ngăn cản, vây hãm, áp đảo, chế ngự. Muốn được phản hồi, mong được đáp lại, ước được đền ơn đáp nghĩa, thích được trân trọng, quý mến, ái mộ. “Trách người quân tử bạc tình. Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao!” (Ca dao)
Tình yêu con người còn bất toàn, vì bị hạn chế bởi vị kỷ. Muốn chiếm hữu, hưởng thụ, lạm dụng, tham lam, vơ vét, tích luỹ vào cái tôi bần tiện, bon chen, hẹp hòi, ganh tương, dối trá, tị hiềm. “Có chả em tình phụ xôi. Có cam phụ quýt, có người phụ ta.” (Ca dao)
Yêu như Chúa đã yêu
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13, 34) Chúa Giêsu trao cho nhân loại Điều Răn Mới: Anh em hãy yêu thương nhau không như Lề Luật cũ đã ấn định: như chính mình, mà như Thầy đã yêu thương anh em. Đó chính là tình yêu phục vụ, khoan dung, hiến tế.
Xả kỷ, bỏ mình, khiêm tốn, cúi mình, quỳ xuống, hầu hạ rửa chân cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn công khai biểu lộ và nêu gương sáng ngời tình yêu phục vụ.“Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.”(Ga 13, 14-15) Không phải chỉ là một gợi ý, mong ước đơn thuần, nhưng chính là một mệnh lệnh rất cấp bách, minh bạch, rõ ràng và thực tế dành cho những ai muốn đi theo Người.
Với môn đệ Giuđa phản bội, Đức Giêsu hết lòng khoan dung, tha thứ, từ ái, nhẹ nhàng, thân thương nhắc nhủ hồi tâm, cảnh tỉnh trước mặt các đồng môn.”Thật, Thầy bảo thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.”(Ga 13, 21) Nhưng ông Giuđa chẳng hề tỏ ra động lòng, nghĩ lại, trở về. Xót xa, đau buồn, nhẫn nhục, Người đành công khai, thẳng thắn cho mọi người biết đó là ai.”Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy… Giuđa, kẻ nộp Người cũng hỏi: “Rápbi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: “Chính anh nói đó!” Nhưng lòng chai dạ đá, Giuđa cứ cố chấp, tiếp tục lún sâu vào tội ác. Người đành tế nhị, ý tứ nhắc riêng:”Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13, 27) Dẫu vậy, Người vẫn tỏ ra tiếc thương, không cứu vãn nổi người môn đệ bạc nghĩa, phụ tình.” Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26, 23-25)
Với ông Phêrô sẽ xúc phạm thô bạo, Người cũng bình thản tỏ lòng rộng lượng, ưu ái, ân tình, chua xót cảnh báo:”Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy, anh đã chối Thầy ba lần.”(Ga 13, 38)
Khi kẻ thủ ác vừa rời bàn tiệc, Đức Giêsu liền công bố cuộc khổ nạn bắt đầu khởi sự. Người sắp trở nên Con Chiên hiến tế, chuộc tội cho toàn thể nhân loại. Trung thành vâng lời Đức Chúa Cha, Người chịu khổ nhục, chịu đóng đinh, chịu chết trên thập giá. Đó chính là thời điểm Người được tôn vinh trọn vẹn qua Tình Yêu hiến tế “Khi Giuđa đi rồi, Ðức Giêsu nói: “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người, Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.” (Ga 13, 31-32)
Yêu là dấu chỉ Kitô hữu
Lời trăn trối cuối vô cùng thấm thía và cảm động của Đức Giêsu đến nay vẫn còn mãi vang vọng trên thế gian:“Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35) Yêu thương tha nhân như Người để làm chứng nhân sống động cho Đức Kitô. Nhưng yêu như Thầy Giêsu đã yêu chẳng phải dễ dàng thực hành, vì chẳng phải yêu trong chốc lát, tuỳ hứng, tuỳ tiện, mà phải yêu suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng, thật là một thách đố ngặt nghèo cho tất cả Kitô hữu. Hoàn toàn bất khả thi, nếu không có Đức Chúa Thánh Thần yêu thương, ban thêm sức mạnh tình yêu, lửa mến, niềm tin, đức cậy.
“Đừng để tháng ngày làm cho quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu ngày càng mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: tình yêu Chúa đổ vào quả tim con.” (Đường Hy Vọng, số 178)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh xin giúp chúng con biết bỏ mình, từ bỏ bản thân, khiêm nhu, hiền lành, khoan dung, thứ tha yêu thương phục vụ tha nhân, nhiệt thành sống cho tha nhân. Sẵn sàng chịu hao mòn, chịu tan biến, để bừng lên ngọn lửa mến sưởi ấm tha nhân, đang cơ cực vì thế gian băng giá, lạnh lùng, vô tình.
Kính xin Mẹ Maria luôn cầu bầu, nhắc nhở, răn dạy chúng con biết thiệt sự yêu thương, bác ái, chia sẻ, giúp đỡ mọi người, nhất là những người khốn khổ, đang bị bỏ rơi, khinh miệt, bên lề xã hội, để thế gian nhận ra chúng con chính là môn đệ của Chúa. Amen.
(Suy niệm của AM. Trần Bình An)
Tháng 3 năm 1930, Lm Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp về nhận họ đạo Tắc Sậy. Trong những năm làm cha sở, ngài quan hệ, giúp đỡ, thành lập nhiều họ đạo vùng phụ cận như: Bà Ðốc, Cam Bô, An Hải, Ðầu Sấu, Chủ Chí, Khúc Tréo, Ðồng Gò, Rạch Rắn.
Hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương năm 1945-1946, chiến tranh loạn lạc, bà con dân chúng di tản, Cha Bề Trên điạ phận Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và cả người Pháp cũng gọi ngài lánh mặt, khi nào tình hình yên ổn thì trở về họ đạo, nhưng ngài trả lời: “Tôi sống giữa đoàn chiên và nếu có chết cũng giữa đoàn chiên. Tôi không đi đâu hết.”
Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm luá của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung.
Ngài mất trong khi thi hành nhiệm vụ chủ chăn. Xác ngài được vớt lên từ một cái ao của ông giáo Sự, với vết chém sau ót ngang mang tai và thân xác trần trụi như Chúa Giêsu trên thập giá.
Thi hài ngài được chôn cất trong phòng thánh nhà thờ Khúc Tréo. Ðến năm 1969, hài cốt ngài được di dời về nhà thờ Tắc Sậy, nhiệm sở của ngài thi hành chức vụ chủ chăn trong 16 năm. Ngôi nhà mồ của ngài hiện nay, được trùng tu và khánh thành ngày 4-6-1989. Ngài là Cha sở thứ nhì của họ đạo Tắc Sậy. (Lm Nguyển Ngọc Tỏ, Tiểu sử Lm Fx Trương Bửu Diệp)
Trích thuật Tin Mừng thánh Gioan hôm nay loan báo Chúa Giêsu ban cho các môn đệ một Điểu Răn Mới. ”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Gioan 13, 34 -35). Điểm quan trọng nhất là“anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”
Trong Kinh Thánh tiếng Hy Lạp có tất cả bốn chữ để diễn tả tình yêu: eros là tình yêu trai gái; philio là tình yêu giữa bạn bè; storge, tình yêu giữa anh chị em trong gia đình; và agape, là tình yêu trọn vẹn và vô điều kiện.
Tình Yêu agape được Chúa Giêsu đề cập đến khi hỏi ông Phêrô: “Này anh Simon con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?“ (Ga 21, 15). Như vậy Tình Yêu agape trọn vẹn siêu việt trong Điều Răn Mới phải rất đặc biệt.
Yêu một chiều
Tình yêu thông thường như eros, philio, storge thì luôn luôn đòi hỏi hai chiều, âm hưởng giữa hai đối tượng. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Có đáp ứng lại với nhau, mới phát sinh tình cảm yêu thương. Nhưng Tình Yêu agape trái lại, chỉ duy nhất một chiều, không cần điều kiện vì, do hay nếu, không mong chờ đền đáp, dù rất mong muốn.
Vì là một chiều, Tình Yêu agape mới có thể vươn xa, ra khỏi bản ngã, cái tôi đáng ghét, ra bên ngoài mối thân thích, họ hàng, bạn bè quen thuộc, đến với kẻ xa lạ, thậm chỉ đến với cả địch thù, chống báng, đối đầu, bất cộng đái thiên.
“Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6, 27-28)
Không những yêu thương kẻ thù, mà còn chúc lành và cầu nguyện cho kẻ thù nữa. Hoặc cho vay, mà chẳng mong đển trả, khác chi cho không biếu không, nói tắt là Tình Yêu agape trao tặng vô điều kiện.
“Anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Ðấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Lc 6, 35)
Yêu là chết đi
Nếu không dẹp đi những cản trở vị kỷ, thì không thể chân thành yêu thương người khác được. Những toan tính vụ lợi cá nhân ngăn chận bước chân thân tình đến với tha nhân. Lòng tự phụ, kiêu căng, sĩ diện, so đo, đố kỵ, tham lam, ác độc, chỉ hoàn toàn phủ nhận, hạ bệ, chà đạp tha nhân, thay vì đón tiếp vào vòng tay nhân ái. Do vậy, cần chết đi cách sống cũ ích kỷ, bất nhân, từ tâm tưởng, lời nói và hành động, nếu muốn yêu thương theo Chúa Giêsu.
“Những ai thuộc về Đức Kitô thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.” (Gl 5, 24)
Cha Phanxicô Xaviê Trưởng Bửu Diệp đã mạnh dạn ra đi theo Chúa, gắn bó với sứ vụ mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho Tình Yêu agape trọn vẹn viên mãn.
Yêu là sống cho
Chết đi những thói hư tật xấu, những đam mê phù phiếm, những ham muốn xác thịt, để Tình Yêu agape có thể phục vụ tha nhân trong sự khiêm hạ và thân tình. Như thế Tình Yêu agape sống cho tha nhân, cũng như sống cho Chúa, chứ không còn ràng buộc vào sống cho mình, mưu cầu hạnh phúc bản thân.
“Chúng ta có sống là sống theo Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy dù sống dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa.” (Rm 14, 8)
Với Tình Yêu agape trọn vẹn của Chúa, sống cho tha nhân trong tinh thần khiêm tốn, biết quên mình phục vụ, như Chúa từng khiêm hạ, quỳ xuống rửa chân các môn đệ.
“Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2, 20) Thánh Phaolô đã xác tín mạnh mẽ như thế trong Thư gửi tín hữu Galat.
Các thánh càng già thì quả tim họ càng trẻ. (Đường Hy Vọng, 177)
Đừng để tháng ngày làm quả tim già nua. Hãy yêu thương với một tình yêu mãnh liệt, mới mẻ, trong trắng hơn: Tình yêu Chúa đổ vào quả tim con. (Đường Hy Vọng, 178)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, xin cho con noi gương Chúa, biết khiêm hạ, bỏ mình và phục vụ trong Tình Yêu dâng hiến trọn vẹn.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con nuôi dưỡng Tình Yêu agape trọn vẹn của Chúa, để con biết tha thứ, quên hết hằn thù, chúc phúc và cầu nguyện cho những người ám hại con. Amen.
46. Tôn vinh – Lm. Vũ Đình Tường
Hy sinh lớn, tôn vinh lớn; hy sinh nhỏ, tôn vinh nhỏ. Tôn vinh lớn nhất, cao trọng nhất, trọn vẹn nhất là thí mạng sống cho người mình yêu như Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha xuống thế để thực hiện trọn vẹn ý Chúa Cha.
Ta đến không phải để làm theo ý Ta mà làm theo ý Đấng đã sai ta (Gn 6,38)
Đức Kitô thể hiện ý đó bằng con đường khổ nạn, con đường thập giá, con đường bị chính môn đệ mình bán rẻ, chối bỏ, phân tán và lẩn trốn sau cửa then cài vì sợ.
Không có tình yêu nào cao quí hơn mối tình chết cho người mình yêu (Gn 15,13)
Đức Kitô yêu mến Chúa Cha đến nỗi – thể hiện ý Cha – chết trên thập tự, ban ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài chấp nhận hy sinh với í chí sắt son, quyết tâm vượt qua tất cả mọi chướng ngại, rào cản, vực sâu. Không gì ngăn cản, lay chuyển, tình yêu Ngài dành cho Cha. Ý Ngài đã quyết và Ngài quyết tâm thực hiện tốt đẹp, trọn vẹn điều mình đã quyết. Ngài chấp nhận mọi đau khổ rùng rợn, hành hạ thân xác.
Họ thay nhau nguyền rủa, xỉ nhục, vu vạ, cáo gian; Ngài đứng lặng câm, ngán ngẫm lời thề gian, làm chứng dối của người không tôn trọng sự thật. Nghe những lời đó tinh thần ngài đau khổ đến chết được nhưng Ngài không hề đối chất.
Linh hồn Thầy đau buồn đến nỗi chết (Mt 26,38)
Nhìn những cánh tay dâng lên nắm chặt hung hăng thét ‘giết nó đi’, giết nó đi’ khiến Ngài liên tưởng đến tính bồng bọt, háo thắng của con người. Kẻ chống đống Ngài nghĩ giết chết thì còn chi để nói, để sợ. Họ đã lầm và lầm lớn. Chính lúc Ngài chết đi lại là lúc thức tỉnh lương tâm người lính gác dưới chân thập tự khi anh ta tuyên xưng,
Người này quả thật là con Thiên Chúa (Mt 27,54)
Kẻ mưu toan đóng đinh giết Đức Kitô, ngày họ mất an; đêm mất ngủ, lo lắng vì tin Ngài sống lại từ cõi chết. Tổ chức họp kín liên miên. Tìm cách dậy lính phao tin dối trá. Họ chạy cửa trước, luồn cửa sau, lo đủ tiền đút lót. Ban hành lệnh lạc, ra sức đối phó, bịt miệng dân chúng đồn thổi tin Đức Kitô Phục Sinh. Họ đóng đinh diệt khẩu không ngờ có hàng triệu triệu môi miệng ngày đêm cao rao, ca tụng Đấng bị diệt khẩu. Đấng một thời rao giảng giờ đây trở thành Đấng được mọi thế hệ rao giảng.
Vui mừng
Đức Kitô vui mừng khi thấy giờ hiến tế đến gần. Giờ Ngài từ lâu mong đợi. Không phải Ngài ham chết, sợ sống hay coi thường sự sống. Vì yêu quí sự sống nên Ngài tự hiến để ban sự sống trường sinh cho toàn dân. Qua đó Ngài tôn vinh Chúa Cha.
Con Người được tôn vinh. Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người. (Gn13,31)
Hoa trái của tôn vinh
Cái chết và sự Phục Sinh của Ngài mang lại hoa trái đầu tiên để tôn vinh Chúa Cha. Lịch sử nhân loại từ trước tới nay và từ nay về sau, sẽ không còn tôn vinh nào cao quí, tuyệt vời hơn tôn vinh Đức Kitô dành cho Chúa Cha. Tôn vinh cao cả vô song Ngài thể hiện trên thập tự. Tự hiến giọt máu cuối cùng trong tim diễn tả tình yêu tuyệt vời dành cho Cha.
Thứ đến là hoa quả ơn cứu độ Đức Kitô ban cho con người. Những ai tin vào Ngài nhận sự sống trường sinh.
Hoa quả cho vũ trụ là toàn thể vũ trụ được đổi mới nhờ cái chết và sự Phục Sinh của Ngài. Thánh Gioan (Kh 21,1) nhìn thấy trời mới, đất mới mở ra cho toàn dân. Đức Kitô Phục Sinh Vinh Hiển luôn ở với dân Ngài. Một dân được tuyển chọn bằng máu của con Chiên hiến tế là chính Đức Kitô chịu đóng đinh, ban ơn cứu độ cho những ai tin, sống tinh thần Tin Mừng. Lời loan báo xưa của thiên sứ thể hiện,
Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta trong thành vua Đavít. (Luca 2,10)
Các phụ nữ ra thăm mộ từ sáng sớm nghe thiên sứ loan báo, Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói (Mat 28,6).
Đổi mới
Trong Cựu Ước Yavê Thiên Chúa đổi mới qua trận lụt Đại Hồng Thuỷ. Chỉ ít người ngay lành sống sót.
Đức Kitô hiến tế để đổi mới, không phải huỷ diệt mà là đổi mới. Vẫn trời cũ, đất cũ, vũ trụ cũ, con người cũ. Đổi mới đến cho những ai chấp nhận ơn Cứu Độ Đức Kitô ban. Ơn cứu độ thay đổi con người từ nội tâm đến lối sống. Trong tinh thần đổi mới đó người ta sống với nhau bằng yêu thương. Cư xử với nhau bằng bác ái. Thông cảm cho nhau bằng thứ tha và giao hoà. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là Anh em có lòng yêu thương nhau c.35.
47. Giới răn yêu thương – Flor McCarthy
Suy Niệm 1. ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC
(Trích trong ‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được sống còn. Người ta sống nhờ những gì mà người ta cho đi.
Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, người yêu là điều sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục của tính ích kỷ.
Brian Keenan trải qua bốn năm bị giữ làm con tin ở Li-băng. Sau đó, ông đã viết:
“Chỉ khi chúng ta vượt qua chính mình để cứu mạng, hiểu biết và sau cùng khắc phục nỗi đau của người khác mà chúng ta trở thành chúng ta trọn vẹn. Chúng ta trở nên cởi mở và phong phú khi nhận ra nỗi đau của người khác và tiến đến cảm nhận và cưu mang”.
Tình yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng lực sẽ được ban cho bạn, ở đâu có tình yêu lớn, ở đó luôn có phép lạ. “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung cấp đam mê cho đời sống của chúng ta. Nó là sự liên kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác” (Elizabeth Kubler-Ross).
Khi bước vào nhà tù, Oscar Wilde nói: “Bằng mọi giá, tôi phải giữ gìn tình yêu thương trong lòng tôi. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu thương thì linh hồn của tôi sẽ ra sao?”.
Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời sống phong phú và hiệu quả. Mục đích của đời sống là gì nếu không phải là yêu thương? “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học toả sáng tình yêu thương” (William Blake). Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của đời sống.
Một bác sĩ, được chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn.
Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết. Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người –cả kẻ cho lẫn người nhận.
Suy Niệm 2. SỰ PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG
Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp của con người, và cả những động lực liên kết đàng sau mỗi việc chúng ta làm. Ít nhất có năm loại yêu thương.
Loại thứ nhất là yêu thương vụ lợi. Chúng ta yêu thương người khác bởi vì họ có ích cho chúng ta. Nhưng như thế giống với tình ích kỷ hơn là tình yêu. Tôi muốn có một vật nào đó của bạn, nhưng tôi không muốn có bạn.
Loại thứ hai là yêu thương lãng mạn. Đó là loại tình cảm hướng chúng ta về người khác bởi vì niềm vui thích mà người khác đem lại cho chúng ta. Chúng ta say mê người khác. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta tưởng rằng mình yêu người khác, nhưng thật ra, chúng ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu này không kéo dài, đó là lý do làm cho một số các cuộc hôn nhân thất bại.
Loại thứ ba yêu thương có tính chất dân chủ, đặt trên nền tảng bình đẳng theo luật pháp. Chúng ta tôn trọng những người khác vì họ là những công dân. Chúng ta thừa nhận tự do của họ để ngược lại, tự do của chúng ta cũng được thừa nhận. Lý do chúng ta góp phần vào điều tốt cho người khác là niềm hy vọng được đáp lại bằng điều tốt.
Loại thứ tư là yêu thương nhân bản. Đó là tình yêu dành cho nhân loại nói chung. Nhược điểm của nó là một tình yêu trừu tượng không có gì cụ thể: “Tôi yêu nhân loại, nhưng tôi không thể dính dáng gì với họ”.
Loại thứ năm là tình yêu Kitô giáo, tóm tắt trong giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Ở đây chúng ta đang nói về tình yêu thương vô vị lợi, yêu thương cả khi chúng ta không được gì trong tình yêu ấy. Tình yêu ấy vẫn luôn tồn tại cho dù bị thù ghét và bách hại. Nó không phải là một nhiệt tình đột biến, nhưng là một quan hệ bền vững. Nó biểu lộ trong việc phục vụ, yêu mến và hy sinh bản thân. Loại yêu thương này chỉ có thể hoàn thành với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.
Người ta nói rằng nếu bạn làm một công nghiệp tốt, nhưng có một hậu ý không nói ra thì tốt hơn không làm. Nhưng việc bác ái là ngoại lệ duy nhất. Cho dù người ta làm việc bác ái với một lý do không rõ ràng thì nó vẫn là một hành động tốt và đem lại lợi ích cho người khác, lý do của bạn không có gì quan trọng. Ngoài ra, việc tính ích kỷ và lòng quảng đại cùng có mặt trong chúng ta làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện càng được đáng khen. Nó đến từ một cuộc tranh đấu.
Người ta thường xem vấn đề yêu thương là được yêu thương hơn là trở thành một con người yêu thương. Vì thế, mọi nỗ lực của người ta là làm cho mình dễ thương, khả ái bằng việc đạt đến sự thành công, có vẻ đẹp mê hồn, có quyền lực hoặc giàu có… Và như thế sau cùng họ không có tình yêu thương, bởi lẽ họ được yêu thương không phải vì chính họ mà vị sự vật họ có, hoặc sự nghiệp họ đã hoàn thành. Nhưng nếu họ trở thành một con người yêu thương, họ có thể được yêu vì chính họ. Và sau cùng, mọi người chúng ta muốn được yêu vì chính mình. Những ai không được yêu thì tìm cách cho người ta ngưỡng mộ mình.
Có ba tình trạng: (1) Không yêu thương và không được yêu thương, điều này xem ra giống hoả ngục trần gian. (2) Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại –dù đây là điều đau khổ nhưng vẫn tốt hơn tình trạng đầu tiên. (3) Yêu thương và được yêu thương –đây là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng: “Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em!”.
Yêu thương biểu lộ điều tốt nhật trong con người đang yêu. Người ta sống trong sự tốt lành nhất và rực rỡ nhất khi yêu. Họ giống như một ngọn đèn toả sáng. Tình yêu là một chọn lựa chớ không phải là một cảm nhận. Nhưng từ chối yêu thương là bắt đầu chết. Điều tệ hại nhất là sự dửng dưng lạnh giá.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC:
Một ông nọ người Hy Lạp, năm mươi tuổi đã chết trong một nhà tế bần ở New York. Ông đã có một đời sống tốt lành, theo lời ông nói. Ông đã muốn có lại một đời sống tốt đẹp, muốn vui vẻ bỏ bớt tiền bạc và sức khoẻ để thực hiện điều ấy ở Mỹ, chỉ cần ông có thể có lại vợ con, gia đình và có lại tình yêu thương ngày nào. Tình yêu đã là một điều quan trọng trong đời sống. Chính tình yêu đã giữ cho mọi sự vật, ở bên nhau và đem lại ý nghĩa cho đời sống.
Hôm trước ngày ông mất, ông đã nhắn lại cho những thành viên của gia đình mà theo lời ông hay gây gổ và xung khắc nhau. Ông nói với họ một cách nghiêm trang rằng họ phải học yêu thương nhau, phải cố gắng nhiều hơn để sống yêu thương. Yêu thương là tất cả, tất cả. Họ phải tin vào điều đó, vì đó là lời nói của người sắp chết.
Đức Giêsu đã nói những lời tương tự cho các bạn hữu của Người trong đêm trước khi Người chết. Người đã cho họ một sứ điệp đơn giản, rõ ràng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Người ta kể câu chuyện về một cậu bé mười hai tuổi tên Stephen. Cậu bị què vì bệnh viêm tuỷ xám. Cậu có một em trai Mark, mười tuổi. Như những đứa con trai khác, chúng thường đánh nhau, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn đối xử tốt với nhau. Thỉnh thoảng Stephen ganh tỵ với em mình có đôi chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia, nó nằm mơ thấy mình ở trong rừng sâu và huyền bí. Ở đó, nó đến một hang động tối đen. Giữa hang động một ngọn lửa cháy sáng. Kế đó, từ bóng tối một người mặc áo choàng dài bước ra. Ông ta nói với Stephen, ông là thần của khu rừng và để thưởng cho người nào tìm ra hang động, người ấy sẽ có một lời ước được thực hiện –chỉ một lời ước thôi cho dù là ước muốn điều gì.
Stephen không cần nhiều thời gian để suy nghĩ. “Tôi muốn có một đôi chân khoẻ mạnh” nó nói. Lúc đó, ông thần bỏ áo choàng ra và trước khi Stephen hiểu được ý nghĩa, nó thấy mình nằm lại trên giường. Em nó nằm ngủ ở giường bên cạnh với những tiếng thở đều đều. Ông thần giở cái chăn ra khỏi đôi chân của Mark.
“Ông định làm gì?” Stephen hỏi.
“Tôi sẽ bắt đầu cuộc phẫu thuật” Ông thần nói.
“Cuộc phẫu thuật gì?”.
“Chuyển đổi. Khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, cậu sẽ có đôi chân của Mark còn nó sẽ có đôi chân của cậu. Nhưng đừng lo. Không ai biết được đâu, người ta sẽ nghĩ rằng mọi việc vẫn như cũ”.
“Tôi không bao giờ nghĩ mọi việc vẫn như thế” Stephen nói.
“Cậu chắc không mong tôi lôi đôi chân khoẻ từ trong không khí ra đó chứ?”.
Nhưng Stephen ở trong tình trạng xúc động mạnh. Một hình ảnh loé ra trong tâm trí cậu. Cậu thấy chính mình tự do chạy nhảy còn phía sau cậu, em Mark của cậu kéo lê đôi chân của nó. Cậu không thể làm điều đó cho đứa em trai của mình. “Tôi không muốn điều đó” cậu hét to.
Khi nghe tiếng hét, ông Thần già tức giận bỏ đi. Stephen vui mừng khi nhìn lại mình. Sáng hôm sau, cậu thức dậy và nhìn sang em cậu. Nhớ lại giấc mộng, cậu mỉm cười. Từ ngày đó trở đi cậu không bao giờ cảm thấy ganh tỵ với em cậu và yêu thương nó hơn bao giờ hết.
Stephen muốn sống hạnh phúc nhưng không phải bằng cái giá là gây ra đau khổ cho em trai cậu. Hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong tình yêu vô vị lợi. Yêu thương là đặt người khác đừng trước mình.
Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những tâm sự cuối cùng cho các môn đệ. Ngài đã trăn trối cho các ông, cũng như cho chúng ta một sứ điệp quan trọng mà mỗi người phải đem ra thực hành trong cuộc sống. Ngài nói:
– Các con thân mến, Thầy chỉ còn ở với các con một thời gian ngắn nữa mà thôi, nên Thầy ban cho các con một điều răn mới, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.
Như chúng ta đã biết: giới răn thứ nhất đó là lòng kính mến đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là tình yêu thương đối với anh em.
Thế nhưng, nếu kiểm điểm lại cuộc sống, chúng ta thấy mình đã thực hiện hai giới răn ấy như thế nào? Bởi vì tất cả đều xuất phát từ lòng mến Chúa và tình yêu người. Tất cả mọi lời khuyên nhủ và ngăn cấm cũng chỉ là kết quả đương nhiên của hai giới răn ấy mà thôi.
Đúng thế, nếu chúng ta thực sự yêu thương anh em, hẳn chúng ta sẽ không còn thù oán và ghen tương, hẳn chúng ta sẽ sẽ không còn nói hành và nói xấu, hẳn chúng ta sẽ không còn gian tham và bất công. Trái lại, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều cố gắng chia sẻ và giúp đỡ họ. Trong chiều hướng đó, chúng ta mới hiểu được lời nói sâu xa của thánh Augustinô:
– Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu và hãy làm điều mình muốn.
Sở dĩ như vậy, vì tất cả những hành động xuất phát từ tình yêu thương đều có giá trị riêng của chúng.
Không phải chỉ trong ngày sau hết chúng ta mới bị xét xử về tình yêu thương, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ tình yêu thương đã trở thành dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Không có tình yêu, thì mọi hành động chỉ là tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải nhấn mạnh:
– Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Như vậy, tình yêu thương vừa là một điểm đặc sắc nhất của người Kitô hữu, vừa là một bảo chứng chắc chắn nhất cho niềm hạnh phúc đời đời.
Thực vậy, hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa phán trong ngày phán xét. Với những người lành, Ngài bảo:
– Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đời đời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ muôn ngàn thuở trước, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống, Khi ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.
Vậy lúc này đây, chúng ta đang thuộc về nhóm người nào: nhóm người lành hay nhóm kẻ dữ? Nhóm chiên hay nhóm dê? Nhóm ở bên phải hay nhóm ở bên trái? Nhóm được chúc lành hay nhóm bị chúc dữ? Nhóm được ân thưởng hay nhóm bị trừng phạt?
Từ đó, hẳn chúng ta đã nhận ra điều gì cần phải làm ngay? Đó là tình yêu thương. Điều ấy tuy dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng,bởi vì nó sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, yêu thương bằng miệng lưỡi, bằng lời nói mà thôi chưa đủ, điều quan trọng và cần thiết, đó là phải biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những việc làm cụ thể.
Bác tài xế của Đức Thánh Cha Phaolô VI kể lại rằng:
Có một cụ già chẳng may bị mất một con lừa. Cụ ta bèn viết thư xin Đức Thánh Cha giúp đỡ, lúc bấy giờ ngài mới chỉ là một vị Tổng Giám Mục. Sau khi biết được giá mua của một con lừa, ngài liền gửi số tiền ấy cho cụ già.
Là một vị Hồng Y, bận rộn nhiều công chuyện lớn lao, thế mà ngài vẫn không quên những nhu cầu nhỏ bé cần phải giúp đỡ cho những kẻ bất hạnh. Chính vì những hành động nhỏ bé này mà người ta xác định được tình yêu thương chân thành của người Kitô hữu. Một linh mục ở Milan cũng đã nhận xét: Tôi thường thấy đức Hồng Y quỳ gối chăm sóc cho những người nghèo túng và bệnh tật.
Với chúng ta cũng vậy, Hãy biểu lộ tình yêu thương của chúng ta đối với những người chung quanh bằng những việc làm cụ thể, bởi vì chính những việc làm cụ thể này sẽ là như một tấm vé để chúng ta được đón nhận vào Nước Trời.
Điều răn mới: Như Thầy đã yêu, anh em hãy yêu thương nhau.
Khi Giuđa đi rồi: Đức Giêsu đã bảo: Anh làm gì thì làm mau đi. Là đi nộp Người. (c.23)
Con Người được tôn vinh: Đức Giêsu sắp hoàn tất. Người chịu nộp dể làm trọn ý Cha. Sự thương khó và thập giá đang ở trước mặt, rất gần. Con Người được tôn vinh: không phải bằng sự thương khó và thập giá. Đau khổ và sự chết là đáng sợ vô cùng. Không tôn vinh đau khổ và sự chết. Nhưng đau khổ và sự chết để hoàn tất hành trình tự hạ tự hủy để thực hiện một sự vâng phục tuyệt đối như ý Cha thì sẽ được thưởng công là tôn vinh. Không muốn nhưng làm theo ý Cha thì Cha thưởng. Hoàn toàn theo ý Cha thì Cha thưởng hoàn toàn. Nếu có phần ý riêng thì sẽ bớt phần đó ra.
Và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người: Lần đầu tiên Thiên Chúa được vâng phục trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Đức Giêsu đại bại để Thiên Chúa đại thắng. Từ đầu đến giờ Thiên Chúa toàn là thua vì loài người không vâng phục. Giờ đây, bắt đầu một khởi nguyên mới với một nhân loại biết vâng phục theo gưong Đức Giêsu. Deus vincit! Thiên Chúa chiến thắng!
Nếu Thiên Chúa được tôn vinh, Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi chính mình và ngay lập tức Thiên Chúa sẽ tôn vinh Nguời: Là ngay lập tức,không chờ đợi chút nào hết, cho Người Phục Sinh vinh quang và đặt Người làm Chúa và Đấng Cứu Độ.
Nhưng đỉnh của công cuộc nầy là YÊU THƯƠNG. Đức Giêsu chịu tất cả vì yêu thương và chỉ vì yêu thương: Yêu thuơng Cha và yêu thương con người. Yêu thương Cha vì ‘ý Cha muốn thế’. Yêu thương con người là để mở ra cho loài người con đường cứu độ, con đường sự sống và sống đời đời. Con đường sự sống đời đời cho con ngưòi là” như Thầy đã yêu, anh em hãy yêu thương nhau”. Tất cả mọi việc làm và lời dạy của Đức Giêsu tóm lại trong di chúc nầy. Và đây là dấu hiệu phân biệt của người môn đệ. Mt đã viết mệnh lệnh cuối cùng là: Hãy đi làm cho muôn dân trở thành môn đệ. (Mt.28,19). Và ‘các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung’….(Cv, 3,44).
Yêu nhau như Thầy là ‘mới’. Người đã hy sinh phục vụ đến hiến mạng sống để cho chúng ta tấm gương ‘như Thầy’.
Xưng mình là tín hữu, là môn đệ, mỗi người hãy tự vấn:
Trong gia đình có đạo, trong họ đạo người ta có thấy dấu chứng yêu thương không? Người ta có nhận ra chúng ta là môn đệ không? Hay chỉ nghe phàn nàn: có đạo mà dữ quá, chưởi quá! Tệ hơn: tu mà vậy! Có đạo mà vậy thì con cần gì có đạo!
Mẹ Têrêsa Calcutta làm việc bác ái mà không cần giảng đạo. Người ta thấy Chúa qua việc yêu thương bà làm. Làm như Thầy thì người ta sẽ thấy Thầy. Hãy làm chứng bằng những việc yêu thương như Thầy đã yêu thương. Chúng ta hãy quyết tâm thực hiện di chúc của Chúa Giêsu. Alleluia.
Bài Phúc âm của Chúa nhật V Phục sinh hôm nay ghi lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly, trước khi Chúa chịu tử nạn và sau khi Giuđa đã bỏ bàn tiệc đi ra thực hiện ý đồ phản bội Chúa.
“Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con hãy thương yêu nhau”. Yêu thương là một lệnh truyền phải thi hành chứ không phải là một lời khuyên hay một sự kêu mời muốn làm hay không cũng được: “Đây là lệnh truyền của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Nếu chúng ta yêu thương anh chị em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh chị em mình thì ở trong sự chết. Vì phàm ai ghét anh chị em thì là kẻ sát nhân mà đã là kẻ sát nhân thì không có sự sống đời đời.
Yêu thương nhau là một giới răn mới, bởi vì Đức Kitô đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước: “Ngươi phải yêu thương anh chị em như chính mình ngươi” bằng cách gắn liền nó với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, Ngài đã mặc cho nó một bản tính siêu việt mới là chính tình yêu của Ngài: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như Thầy đã yêu thương các con là điều răn mới mà Đức Kitô thêm vào luật cũ của Cựu ước. Nói con phải yêu thương anh chị em như chính mình con, nơi thánh Gioan 12,34 Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như vậy, tình yêu thương này không còn phát xuất từ chính chúng ta nữa, nhưng là phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng mến phát xuất từ Thiên Chúa như thư I của thánh Gioan 4,7 diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy”.
Tình thương của chúng ta đối với anh chị em là tham dự vào tình thương của chính Thiên Chúa đối với chúng ta. Cũng chính vì vậy giới răn yêu thương mới này được đồng hoá bởi tình yêu mến mà chúng ta có đối với Chúa. Yêu thương anh chị em và mến Thiên Chúa là một, và ai không yêu thương anh chị em thì cũng không mến Chúa. Nếu ai nói tôi mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình thì là kẻ nói dối.
Chính vì thế mà yêu thương là dấu chỉ chúng ta là những người thuộc về Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Chỉ khi nào ta hiểu và sống thực sự điều này thì mới là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng đây là việc khó, chúng ta cần phải cố gắng hằng ngày: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt chúng con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.
Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước là “Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình” (Lv 19,18) thành: ” Yêu thương nhau như Ta yêu thương chúng con”. “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương thau như Thầy yêu thương các con “
Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chủ, mà tình yêu luôn hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Giới răn mới của Chúa được đồng hoá với tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta, một tình yêu khiêm hạ, chấp nhận hy sinh vì người khác. Như thế, nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu thương anh em mình. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của những người thuộc về Chúa, là môn đệ Chúa. “Với dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”.
Nói lên những lời nầy, chắc rằng mỗi người chúng ta đều có thể nói được như vậy và mỗi người chúng ta cũng có thể hiểu được như vậy. Với những bài giáo lý mà chúng ta đã học được từ nhỏ, với những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua trong xứ đạo, chắc chắn mỗi người chúng ta hiểu được như vậy và nói được như vậy. Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng ta, nhưng sống thực được những điều này mới là một việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ hằng ngày. “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là đấng trọn lành “. “Chúng con hãy làm những việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt lành đó mà ngợi khen Cha chúng con, Đấng tốt lành ở trên trời “. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa từ giã các ngài, trước khi Chúa thực hiện một hành động yêu thương cuối cùng cùng, tuyệt đỉnh của tình yêu là chết trên thánh giá.
Chúa Giêsu đã khuyên dạy các môn đệ: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương thau như Thầy đã yêu thương các con”.Là môn đệ Chúa chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người nhìn thấy. Nhưng những hy sinh nhỏ nhặt hàng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm, để chúng ta có thể sống tình thương thật sự thiết thực đối với anh chị em, có thể phục vụ anh chị em trong những việc nhỏ nhặt hàng ngày. Những điều đó không ai trông thấy, nhưng chính những việc làm đó là những điều rất cần thiết để tôn vinh Thiên Chúa.Hơn nữa, nếu chúng ta sống điều chúng ta tin, nếu chúng ta sống điều chúng ta nói. Và hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta có thể nói: Chúa dạy mình yêu thương Chúa và yêu thương anh em như chính Chúa đã làm gương. Vậy thì chúng ta sẽ cố gắng sống hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chỉ em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi mọi người đều thấy Chúa qua hành động của mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, xin cho con có trái tim biết yêu thương để mọi việc con làm đều quy về tình yêu Chúa và mưu ích cho anh em. Amen.
Yêu thương là “chuyện cũ”, Luật Cựu Ước cũng đã từng nói: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”. Thế tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Thầy ban cho các con một giới răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”? Cái mới trong giới luật yêu thương mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta và muốn chúng ta đem vào thực hành trong đời sống gì? Đó chính là hãy yêu thương nhau “như Thầy đã yêu”!
Đại văn hào Victo Hugo đã nói: ” Thế giới không có người biết yêu thì mặt trời sẽ tắt”. Quả thật, yêu và được yêu là nhu cầu căn bản và cần thiết nhất của con người trong mọi thời đại.
Thế nào là người biết yêu? Đây là một câu hỏi xem ra không cần thiết nhưng kỳ thực lại rất quan trọng. Bởi lẽ, tình yêu đích thực là tình yêu không vị kỷ. Người biết yêu là người biết mag lại hạnh phúc cho người mình yêu.
Sau khi chiếc tàu Titanic lộng lẫy và kiêu sa chìm xuống lòng đại đương, một tờ báo xuất bản ở Anh đã đăng kề nhau hai bức ảnh minh hoạ có nội dung như sau:
Trong bức ảnh thứ nhất, người ta thấy chiếc tàu chạm vào tảng băng, bên dưới có dòng chữ: “Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên nhiên”.
Còn bức ảnh thứ hai, người ta lại thấy có một người đàn ông nhường chiếc phao cấp cứu của mình cho một người đàn bà đang bế con trên tay. Lần này, bức ảnh chú thích bằng dòng chữ: “Sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người”.
Sức mạnh và sự vĩ đại đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay chế ngự thiên nhiên, mà chính là khả năng chế ngự bản thân, vượt thắng sự ích kỷ. Khi thắng vượt được sự ích kỷ nơi bản thân của mình rồi, con người sẽ trở nên vĩ đại vì biết hướng đến tha nhân. Khi đó, họ đã biết cách yêu và trở thành người biết yêu!
Yêu đúng cách là “yêu như Chúa yêu”. Đó là một tình yêu “cúi mình xuống rửa chân cho môn đệ”, một tình yêu “mở con đường sống cho người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình”, một tình yêu tha thứ cho người môn đệ thân tín chối mình, một tình yêu tha bổng cho tên trộm có lòng hối cải năn năn, một tình yêu tha thứ cho kẻ hành khổ mình… Nước của Chúa là Vương quốc của tình yêu. Con người sống trong vương quốc này phải là những con người biết yêu “như Thầy đã yêu”. Con người chúng ta được Chúa cứu chuộc để trở thành những con người biết yêu thương nhau. Mẫu số chung của những người mang danh Kitô hữu là Tình yêu: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là mộn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Bộ y phục để chúng ta mặc vào dự tiệc Nước Trời là tình yêu. Món quà mà Chàng Rể mong chờ ta mang đến tặng Ngài cũng chính là tình yêu: “Ta muốn lòng nhân cứ không cần hy lễ”.
Chúa đã ban cho chúng ta một kho tàng vô tận là con tim và tấm lòng yêu mến. Vì thế, chúng ta hãy cố gắng phát huy và sử dụng nó cho thật tốt và thật hữu hiệu để nó trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện cho chúng ta. Chúng ta có thể nghèo về vật chất, về địa vị và danh vọng trong xã hội. Nhưng đừng để cho mình nghèo nàn và thiếu thốn về tình yêu. Thắng vượt tính ích kỷ và vụ lợi, con người sẽ trở nên giàu có về tình yêu. Gandhi đã nói: “Sức mạnh vĩ đại nhất mà nhân loại có trong tay chính là tình yêu”.
Hãy yêu thương thật nhiều để trở thành con cái của Thiên Chúa Tình yêu và thuộc về Vương quốc của tình yêu.
Bài Phúc Âm hôm nay trích từ chương 13 của thánh Gioan, trích những lời từ biệt của Chúa Giêsu cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn và sau khi Giuđa phản bội Chúa, đã bỏ bàn tiệc đi thực hiện ý đồ phản bội Ngài. Chúa Giêsu đã căn dặn các đồ đệ: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Yêu thương nhau là một điều răn mới, bởi vì Chúa Giêsu đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu Ước là “Ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình” (Lêvi 19,18) thành: “Yêu thương nhau như Ta yêu thương chúng con”. “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”. Như vậy, tình yêu thương mà chúng ta có với nhau không phải là một tình yêu lấy cái tôi làm chủ, mà là tình yêu chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Giới răn mới của Chúa được đồng hoá với tình yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta và tình yêu thương của Thiên Chúa. Như thế, nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình thì là kẻ nói dối. Ai yêu mến Chúa thì cũng yêu thương anh em mình. Chính vì thế mà yêu thương trở thành dấu chỉ của những người thuộc về Chúa, là môn đệ Chúa. Với dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau.
Chúng ta đã học giáo lý từ nhỏ, với những lời giảng dạy mà chúng ta đã nghe qua, chắc chắn mỗi người chúng ta hiểu được như vậy. Chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu chúng ta, nhưng sống thực được những điều này mới là một việc khó, cần phải cố gắng liên lỉ hằng ngày. “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành”. “Chúng con hãy làm những việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt lành đó mà ngợi khen Cha chúng con, Đấng tốt lành ở trên trời”. Đó là lời giảng dạy của Chúa cho các môn đệ trước khi Chúa từ giã các ngài, trước khi Chúa thực hiện một hành động yêu thương cuối cùng là chết trên thánh giá. Và Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, Chúa đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng một hành động cao cả là hy sinh chính mạng sống của Chúa, để chứng tỏ tình yêu thương tột cùng của Chúa đối với Thiên Chúa Cha và đối với mỗi người chúng ta. Vì thế, trước khi từ giã các môn đồ Chúa Giêsu đã khuyên: “Bây giờ Con Người được vinh hiển và Thiên Chúa được vinh hiển nơi Con Người”. Thiên Chúa Cha được vinh hiển qua hành động hy sinh vì tình yêu của Chúa Giêsu và Chúa Giêsu muốn cho chúng ta cũng được sống như thế để làm vinh hiển Thiên Chúa, sống giới răn yêu thương. Liền sau đó, Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Chúng ta không thể mơ ước chết một cách rình rang, chết một cách long trọng để mọi người khác nhìn thấy. Nhưng những hy sinh nhỏ nhặt hàng ngày không ai nhìn thấy trong âm thầm, để chúng ta có thể sống tình thương thật sự thiết thực đối với anh chị em, có thể phục vụ anh chị em trong những việc nhỏ nhặt hàng ngày bằng tình bác ái, chia sẻ âm thầm. Những điều đó không ai trông thấy, nhưng vì những điều đó mà chúng ta cần thực hiện hằng ngày để tôn vinh Thiên Chúa. Trong dịp nói chuyện với một người ngoại giáo thì anh này đã nói: “Nếu những người công giáo sống đức tin của mình, sống những gì mà mình nói thì thật là một điều hết sức tốt đẹp, có thế chúng tôi cũng sẽ tin theo”. Câu nói này nói lên trách nhiệm của chúng ta. Nếu chúng ta sống điều chúng ta tin, nếu chúng ta sống điều chúng ta nói. Và hôm nay, chắc chắn mỗi người chúng ta có thể nói: Chúa dạy mình yêu thương Chúa và yêu thương anh em như chính Chúa đã làm gương. Vậy thì chúng ta sẽ cố gắng sống hằng ngày trong cuộc sống của mình để làm vinh danh Chúa, để cho anh chị em xung quanh nhìn thấy những việc tốt, việc phục vụ mà chúng ta thực hiện, để rồi họ được hướng dẫn tin nhận Chúa là Cha và tin Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế duy nhất, và gia nhập cùng với chúng ta trong một cộng đoàn duy nhất là Giáo Hội của Chúa, cộng đoàn của những người tin Chúa đã thương anh chị em, cộng đoàn của những người sống tốt lành, sống tử tế để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho xã hội.
Trong tinh thần tham dự Phụng vụ hôm nay, chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người biết sống yêu thương nhau, biết nghĩ đến nhau, biết yêu thương nhau, chia sẻ và phục vụ bằng tình yêu thương.
Xin Chúa chúc lành cho chúng con. Amen.
Tình yêu là gì? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều khao khát không? Điều chắc chắn rằng mỗi chúng ta ai cũng muốn yêu và được yêu. Vì thế, tình yêu trở nên một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời bây giờ, nó là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện trên sách vở, báo chí, phim ảnh, mọi ngành nghệ thuật những bản tình ca, tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Con người hôm nay đã dùng chính sức mạnh để triệt tiêu lẫn nhau thay vì phải dùng chính nó để kiến tạo nên hoà bình và yêu thương.
Sức mạnh đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay đàn áp kẻ khác để chứng tỏ quyền lực của một kẻ mạnh trên một kẻ yếu, mà chính là trong khả năng có thể chế ngự được chính mình, vượt thắng sự ích kỷ để hiến mình cho tha nhân. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã thể hiện qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài. Chúa Giêsu đã chứng tỏ sức mạnh vô biên của tình yêu. Vì thế, Ngài mới có thể để lại cho chúng ta một điều răn mới như một lời di chúc: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Yêu thương nhau là điều răn mới của Chúa Giêsu. Tại sao mới? Mới ở chỗ nào? Từ ngàn xưa, văn hoá Á Đông từng nêu câu châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em) và đạo lý cha ông cũng răn dạy: “Thương người như thể thương thân”. Luật Cựu ước cũng thừa nhận luật tự nhiên đó khi dạy: “phải yêu người thân cận như chính mình”. Người thân cận ở đây đối với người Do thái chỉ là anh em bà con ruột thịt không phải là tất cả mọi người. Điều răn này đối với Kitô hữu hôm nay vẫn là điều quan trọng nhất mà họ phải giữ khi sống với tha nhân. Nhưng với Chúa Giêsu, “yêu thương nhau” là điều răn mới, nó mới bởi vì:
Trước hết, đối tượng của tình yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai kể cả kẻ thù nữa, không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói và tôn giáo. Đó là nét đặc thù của điều răn này. Tiếp theo, nó còn mới ở chỗ có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn, tiêu chuẩn của tình yêu thương là chính tình yêu của Thiên Chúa. Luật Cựu ước dạy: “Hãy yêu người thân cận như chính mình” tức là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Còn Chúa Giêsu dạy phải yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, tức là phải lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn, làm kiểu mẫu cho tình yêu của chúng ta. Ngài yêu ta đến nỗi tự ý nộp mình chịu chết vì ta. Sau hết, điều răn này được coi là mới, vì nó gắn liền với giao ước mới, giao ước đã được thiết lập trong Máu Đức Giêsu. Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá, nhưng được ghi vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Chúa Thánh Thần. Như vậy, điều răn “yêu thương” chỉ thực sự là mới khi mỗi Kitô hữu phải yêu thương người như Chúa yêu.
Sự thật yêu người như chính mình đã khó, nhưng yêu người như Chúa yêu lại càng khó hơn. Vì thế khoảng cách vẫn còn đó từ chỗ biết đến chỗ sống. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân – người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như vậy. Yêu người chỉ vì người đó xinh đẹp, dễ thương để cuối cùng cũng chỉ là tình yêu vụ lợi, chiếm đoạt cho riêng mình. Một tình yêu như thế thì không thể bước qua được mọi cản trở của tình yêu: vong ân, báo oán nhưng có thể vượt qua nếu yêu bằng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa.
Gandhi, một vị cha già của dân tộc An Độ đã vĩnh viễn nằm xuống sau nhát gươm của một thanh niên quá khích, vì anh ta không thể chấp nhận sự kiện vị cha già ấy bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả những người Hồi giáo. Hàng triệu người An Độ than khóc, để tang vì dân tộc đã mất đi một con người vĩ đại, trường kỳ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không hề dùng đến khí giới của bạo động và hận thù.
Cũng thế, mẹ Têrêxa đã dùng chính khí giới của tình thương để cho những người không nhà không cửa, những mảnh đời đang hấp hối nơi đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người. Vì sống yêu thương, mẹ Têrêxa đã cảm nhận được cõi thẳm sâu niềm khao khát được yêu thương của người bất hạnh. Mẹ kể “Khi ở Luân Đôn, tôi có dịp đến thăm những người vô gia cư mà các nữ tu của chúng tôi săn sóc tại một trung tâm phân phát thức ăn. Một người đàn ông nọ, mà nơi cư trú là một thùng giấy cứng, cầm lấy tay tôi rồi nói: “Đã lâu lắm rồi tôi mới cảm nhận được hơi ấm của một bàn tay”. Mẹ nói tiếp, yêu thương không phải là thương hại. Điều quan trọng không phải là tiền, của cải, mà hãy đưa bàn tay ra ngồi bên cạnh họ, tiếp xúc diện đối diện.
Những mẫu gương trên đây là những phản ảnh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu đi bước trước, hoàn toàn phục vụ trong khiêm tốn và chịu chết cho người mình yêu của Đức Giêsu. Vì thế bác ái đích thực chỉ có một kiểu mẫu chính là Ngài: mỗi Kitô hữu hãy sống cho tình yêu đó: Yêu thương như Chúa yêu thương. Nếu có ai trong chúng ta đang nhiệt tình trong các công việc từ thiện, phân phát cho đi một cái gì, hăng say hoạt động rao giảng hoặc đảm nhận việc này, việc khác… điều đó rất tốt nhưng chúng chỉ có ý nghĩa đích thực và bác ái Kitô giáo khi chúng ta làm chỉ vì yêu thương mà thôi, chứ không vì những gì có thể nhận lại, thi hành mọi việc phải làm với lòng tự nguyện, bằng một tinh thần hy sinh và lòng quảng đại vì những va chạm, bất đồng ý kiến là điều không thể tránh khỏi: mọi thành kiến, hận thù và lòng ganh tị là những thứ cản trở cho tinh thần hợp tác trong cộng đoàn giáo xứ, gia đình, đoàn thể… Đồng thời làm phân hoá, đổ vỡ tình yêu thương và bác ái đối với nhau.
Hãy tha thứ cho nhau vì những thiếu sót hạn chế nơi mỗi người là điều kiện để có thể đến gần nhau hơn, sống hiệp nhất vì Chúa đã yêu ta qua mầu nhiệm Nhập thể, sống quên mình quan tâm đến tha nhân vì Đức Kitô đã hiến mình cho nhân loại và phải trở nên sức sống cho người khác sẵn sàng phục vụ vì Chúa đã yêu ta qua Bí tích Thánh Thể.
Tóm lại: Điều răn mới của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu thương nhau như Ngài yêu thương”. Quả thật, một tình yêu có ranh giới là yêu thương không có ranh giới, nghĩa là không chỉ cho đồng bào ruột thịt, mà là cho mọi người hết thảy.
Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trọn vẹn điều răn yêu thương. Điều đó sẽ trở nên dấu chỉ cho một tình yêu Kitô giáo đích thực.
55. Yêu như Thầy yêu – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa nhật thứ V Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội (Tin Mừng cho cả 3 năm A, B, C) mời gọi chúng ta đọc và suy niệm về những điều răn của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô truyền ban trước khi Ngài đi về Trời. Quả thật: nếu chúng ta muốn về Trời với Đức Kitô như lời hứa (Ga 14, 2), người kitô hữu cần phải thực hành trong đời sống “Điều răn mới” (Năm C), tất cả những “Chân lý” (Năm A). Và khi mỗi chúng ta áp dụng cách triệt để Tình Yêu và Bác Ái vào đời sống thường ngày, chúng ta sẽ mang lại nhiều hoa quả, trở thành “Vườn nho đích thực” (Năm B). Lúc đó mọi người sẽ cùng nhau: Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện bao kỳ công; Người mặc khải đức công chính của Người, cho muôn dân được thấy.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
– Tđcv 6, 1-7: Họ chọn 72 người đầy Thánh Thần
– Tv 33, 1: Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con
– 1 Pr 2, 4- 9: Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả
– Ga 14, 1-12: Thầy là Đường, là sự thật và là sự sống
* Bài đọc Phụng vụ năm B
– Tđcv 9, 26-31: Ngài thuật lại cho các ông biết trên đường đã thấy Chúa thế nào.
– Tv 22, 26: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời tôi ca ngợi vang lên trong đại hội
– 1 Ga 3, 1-2: Đây là giới răn của Người: là chúng ta phải tin và yêu thương nhau
– Ga 15, 1-8: Ai ở trong Thầy, và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều hoa trái
* Bài đọc Phụng vụ năm C
– Tđcv 14, 12-27: Cuộc hành trình của Phaolô và Barnaba
– Tv 145, 8: Lạy Chúa, lạy Chúa thiên binh, tôi sẽ chúc tụng danh Chúa đến muôn đời.
– Kh 21, 1-5: Thiên Chúa đổi mới mọi sự
– Ga 13, 31-35: Điều răn mới
Chúng ta tự hỏi, phải chăng chúng ta dùng những tình cảm tự nhiên để yêu nhau như bạn bè yêu nhau, cha mẹ yêu thương con cái và ngược lại, đồng lớp đồng niên yêu nhau, nam nữ yêu nhau là khác với tình yêu Đức Kitô đã yêu chúng ta sao mà Đức Giêsu còn dạy chúng ta phải: Yêu như Thầy đã yêu anh em?
Vậy, “yêu như Thầy đã yêu” là yêu như thế nào, có gì mới mẻ chăng? Xem ra chữ “như” có chất chứa hy sinh khi yêu, có nét mới mẻ và đáng sợ, vì chính chữ này làm nên nét đặc trưng của Kitô giáo. Thánh Augustinô viết: khi nói “Yêu như Thầy đã yêu anh em” là Đức Giêsu nói đến tình yêu của mình đối với các môn đệ với hy sinh và tha thiết: “Không ai có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình”. Chết vì bạn hữu là hành vi lớn nhất của tình yêu. Đức Giêsu đã yêu các môn đệ nói riêng, và con người nói chung bằng tình yêu hiến mạng. Nay Ngài đòi buộc các môn đệ, cụ thể là chúng ta phải yêu nhau đến mức đó. Tình yêu mà Đức Giêsu yêu chúng ta phát xuất từ Chúa Cha: “Như Cha đa yêu Thầy thế nào, Thầy cũng yêu anh em như vậy”. Như vậy là có một nguồn suối tình yêu chảy tràn từ Chúa Cha đến Đức Giêsu, và tiếp tục chảy tràn xuống các môn đệ, dòng suối ấy không ngững chảy trên chúng ta, nếu chúng ta giữ lại, tình yêu đó sẽ trở nên ao tù nhơ nhớp, nên chúng ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu mến Thiên Chúa hết lòng để đáp lại tình yêu Chúa. Sermons sur l’évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). “Thầy ban cho các con một điều răn mới” là thế đấy.
Thánh Augustinô nói tiếp: “Yêu như Thầy đã yêu anh em», khác với lòng mến tự nhiêu thuần túy. Bởi: “Các bộ phận vì ích chung mà đùm bọc lấy nhau. Cho nên một bộ phận phải đau, thì hết các bộ phận đau chung; một bộ phận được vinh, thì hết các bộ phận vinh chung!” (1Co 12,25-26). Thật vậy, ai nghe điều răn này, hay đúng hơn là ai tuân giữ lời này, họ sẽ được biến đổi trở nên đồng thừa tự với Đức Kitô. Họ yêu thương nhau không đơn giản với bản tính tự nhiêu, nhưng vì họ là “thần” (Jn 10,35) nên tất cả họ yêu nhau và “họ là con Đấng Tối Cao» (Lc 6,35). Họ yêu thương nhau là vì họ được Đức Kitô yêu thương. Sermons sur l’évangile de Jean, no 65 (trad. cf bréviaire 4e jeu. de Pâques). Tình yêu vì Chúa.
Chúng ta thấy, cuộc sống cần tình yêu, nhân loại cần tình yêu, mỗi người sống trong cuộc đời này đều cần tình yêu và rất cần tình yêu. Có thể nói, tình yêu là lẽ sống, là niềm hạnh phúc, là sự bình an của tất cả mọi người không trừ ai. Nên có bao nhiêu tiểu thuyết là có bấy nhiêu chuyện tình. Có bao nhiều phim truyện, tiểu phẩm, bài hát là bấy nhiêu cách diễn tả tình yêu. Người ta khai thác tình yêu trên mọi lĩnh vực: thơ ca, hò vè, quảng cáo.v.v…
Sống ở trên đời có trăm bẩy loại tình yêu, tôi xin tạm liệt kê. Chúng ta tự hỏi, tại sao cha mẹ lại yêu con cái và con cái lại yêu cha mẹ. Thưa là vì ông bà ấy là người sinh ra chúng, chúng là con của ông bà đó. Đây là tình yêu huyết tộc. Ngày nay phú quí sinh lễ nghĩa, đay đó chúng ta gặp những buổi hội ngộ đồng niên, đồng lớp, đồng ngũ, đó là thứ tình đồng niên, bạn bè cùng lớp cùng tuổi mến thương nhau. Một loại tình yêu lấn át mọi thứ tình yêu, khi nói đến người ta nghĩ ngay đến nó, nhất là những người trẻ, đó là tình yêu nam nữ. Đây là tình yêu đơn phương, vì con người yêu nhau. Tình yêu đôi lứa, tình yêu bạn bè, tình yêu đồng đội, tình yêu của anh chị em một nhà… tình yêu của cha mẹ với con cái. Tất cả những tình yêu đó đều cao đẹp, đều phù hợp ý Chúa.
Một thứ tình yêu cao thượng mà Chúa dạy chúng ta là tình yêu vì Chúa. Kinh Kính Mến chúng ta vẫn đọc: “…vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy”. Như thế, tình yêu của chúng ta không còn giới hạn bởi huyết tộc, bạn bè quen biết, mà mở rộng tới hết mọi người, tôi yêu họ vì Chúa yêu tôi và truyền dạy tôi.
Yêu thương là điều Chúa dạy, hơn nữa đó là lệnh truyền của Chúa: “Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau”, vì thế không ai có quyền từ chối yêu thương, càng không có quyền thù nghịch anh chị em mình. Có yêu nhau thật lòng, người ta mới có thể sống cho nhau, chết vì nhau. Thử tưởng tượng, một thế giới không có tình yêu, không ai yêu ai, thì thế giới sẽ kinh khủng biết chừng nào. Bởi đi tới đâu, ta cũng chỉ thấy thù hận, bạo động, diệt chủng… Hãy yêu thương, hãy trao tặng cho nhau tình yêu thật lòng để cuộc đời đáng yêu và đáng sống. Tình yêu sẽ làm cho cả người đang yêu lẫn người được yêu bình an và hạnh phúc. Hãy yêu thương nhau như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta. Amen.
Tất cả chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần Thánh, quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều quí giá. Những lời này được coi là những lời trăn trối đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn đệ: Ngài yêu thương họ lắm, Ngài yêu thương họ vô cùng, và Ngài bảo họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là điều răn mới? Mới ở chỗ nào và mới như thế nào?
Tình yêu thương thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi đây là điều răn mới? Đúng thế, khi bắt đầu có con người là có tình yêu thương, và cũng từ đó bắt đầu có lời dạy: hãy yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu ước cũng dạy yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất Cựu ước. Ngài đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là điều răn mới, trước hết, vì là điều răn của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người. Và Chúa còn đưa ra một lý do mới nữa, đó là tiêu chuẩn hay kiểu mẫu yêu thương. Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Còn Chúa Giêsu dạy: phải yêu thương nhau như chình Ngài đã yêu thương chúng ta. Cách Ngài yêu thương vượt hẳn tiêu chuẩn của Cựu ước, Ngài yêu thương chúng ta hơn chính Ngài. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta, và tình yêu thương của Ngài là động lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa đã hiến mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải hiến mạng sống mình vì anh em. Nếu Chúa vốn là Thiên Chúa nhưng đã không dành cho mình chức trọng quyền cao mà đã hiến thân làm người để phục vụ loài người, thì họ cũng phải biết quên mình phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và là Chúa mà còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là Chúa sau Phục sinh phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ. Họ phải sống như Ngài đã sống, phải yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài là qui luật hành động của người môn đệ. Vì vậy, “yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là yêu vì đã được Chúa yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Trọn cuộc đời Ngài, từ khi làm người cho đến khi chết trên thập giá, là yêu thương. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người môn đệ sẽ nối bước theo Thầy trên chính con đường Thầy đã đi và vạch ra cho họ thấy. Khi Chúa Giêsu còn sống trên trần thế thì không cần có dấu chỉ mới nhận ra được ai là môn đệ của Ngài. Chỉ cần thấy họ nghe và đi theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào mà những người không tin có thể nhận ra họ là người môn đệ của Chúa? Theo thánh Gioan, chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là lối sống được xây dựng trên tình yêu huynh đệ, một tình yêu thực sự bằng việc làm chứ không phải nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng đoàn Kitô hữu nếu muốn được nhận ra là một cộng đoàn của Chúa, thì phải chứng minh bằng đời sống thấm nhuần tình yêu thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể thay thế dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề luật hay những biểu thức đức tin. Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy: họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông Tetulianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng: “Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”. Những người ở ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha Gaspar d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Thăng Long, Việt Nam chúng ta sau năm năm truyền giáo đầu tiên như sau: “Giáo hữu ở đây có chừng hơn một ngàn. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người ngoại ở chung quanh, vì không biết gọi tên đạo mới là gì, nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi họ là “Những người theo đạo yêu nhau”. Là con cháu của thế hệ Kitô hữu theo đạo yêu nhau ấy, chúng ta hãy tự hỏi: những người chung quanh hôm nay nhìn vào cách sống của chúng ta họ có nhận ra chúng ta là những người theo “đạo yêu nhau” không? Thiết tưởng không có gì phản chứng hơn trước mặt mọi người, khi các Kitô hữu bất hoà, chia rẽ nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất có thể người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng, siêng năng đi lễ và cầu nguyện, nhưng lại không có sự hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó đã và đang xảy ra nơi mỗi người chúng ta, gia đình chúng ta và cộng đoàn chúng ta chăng? Thiên Chúa là tình yêu, đạo Thiên Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm nay cũng phải tiếp tục làm chứng cho mọi người thấy đạo Thiên Chúa là đạo yêu nhau. Trong những năm gần đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương đó là bổn phận cấp bách của người kitô hữu hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.
(Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đã đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ái ân. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexander ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexander là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Goretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới. Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới? Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất. Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Có vài chi tiết trong bài Phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:
Chi tiết thứ nhất là câu “Khi Giuđa đi rồi”: Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa. Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexander là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexander chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thoả mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexander. Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao? Có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài Phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau là làm hoà với những kẻ ghét mình, là cầu nguyện cho kẻ ghét mình, là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.
58. Văn minh tình thương – Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Hỡi các con bé nhỏ, Ta chỉ còn ở với các ngươi một ít nữa… Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: là hãy yêu thương nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau. Chính điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ Ta: ấy là nếu các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau”(Ga 13:33a-35).
Một câu nhắn nhủ biến thành một lệnh truyền, với bốn lần tiếng gọi yêu thương được nhắc đến, phải là một tâm tình quan yếu được ôm ấp qua bao tháng năm, nay được thổ lộ vì e rằng ngày giờ đã tận.
Một linh mục nhận xét: những gì được trăn trối trong giây phút cuối đời là những tâm tư sâu kín, tha thiết, và chân thành nhất của một con người. Những đứa con thảo hiếu, những môn đệ trung tín, hay các bạn bè tâm giao, không thể không ghi lòng và thi hành những lời nói sau cùng của người thân yêu sắp ra đi.
Đức Giêsu, trước tử nạn, ngay trong buổi biệt ly, đã thố lộ với các môn đệ nỗi niềm sâu kín nhất mà Ngài đã dành trót cuộc đời để phát hoạ và dẫn lối con người: Hãy yêu thương nhau.
Yêu thương chính là dấu chỉ thuộc về Đức Kitô. Mỗi tôn giáo đều có một số hình ảnh tiêu biểu giúp nhận diện tôn giáo mình. Ví dụ, với người Hồi giáo là việc cầu nguyện năm lần mỗi ngày. Với người Ấn giáo là hãm mình phạt xác và kiêng thịt bò. Với anh em Phật giáo có thể là diệt dục hay chay trường. Nhưng riêng những người tin Chúa Kitô, dấu tỏ mình theo Ngài phải là dấu yêu thương.
Yêu thương chính là Đạo Giêsu. Người có Đạo phải là người biết yêu thương. Ai sống yêu thương là đang bước đi trên lối đường của Đạo. Khi chân thành thực thi bác ái, người có Đạo phô diễn rõ nét chân dung vị Sư Phụ của mình: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (Ga 13:35).
Nhưng lòng yêu mến đó không chỉ dừng lại trên căn bản của cảm xúc, đam mê, hay ích lợi riêng tư. Vì yêu như thế chỉ là yêu như tôi muốn chứ không phải yêu như Chúa muốn. Điều mà Đức Giêsu trăn trối trong bữa tiệc ly là hãy yêu nhau như Ngài đã yêu thương. Yêu đến hy sinh, phục vụ, và quảng đại thứ tha như Ngài đã làm gương.
Kể là chuyện bất thường khi đường đường là một bậc thầy mà lại quì xuống rửa chân cho môn đệ. Đây hẳn là một hành động quên mình phục vụ tha nhân. Đức Giêsu muốn dùng chính hành động này để dạy bảo: “Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (Ga 13:34). Thế ra quên mình phục vụ tha nhân là dấu chỉ của tình yêu mà Đức Kitô mong muốn.
Yêu như Đức Kitô đã yêu còn là việc hy sinh tự hiến. William Barclay đã diễn tả trong một bài viết: “Nếu tình yêu là Thập giá thì Chúa Giêsu cũng sẵn sàng tiến tới đó. Lắm khi người ta lầm tưởng tình yêu là những thứ gì hạnh phúc. Phải, đích cùng sẽ là thế. Nhưng tình yêu cũng thường mang lại đau thương và đòi hỏi khổ giá”. Tình yêu đã thúc đẩy Đức Giêsu tiến lên khổ giá để mang lại hạnh phúc và sự sống cho con người.
Yêu như Đức Kitô đã yêu cũng còn đòi hỏi một tấm lòng quảng đại tha thứ. Từ trên thập giá, trong nỗi đau đớn tận cùng, trước bao tiếng la hét cuồng dại, cứ tưởng Đức Giêsu sẽ căm giận và ngăm đe một hình phạt tàn khốc. Thế nhưng người ta lại chỉ nghe được lời khẩn nài: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” (Lc 23:34). Lại nữa, với những môn đệ đã từng bỏ rơi hay chối từ Ngài trong lúc cần kíp, Ngài cũng không chấp nhất. Đúng là không có lầm lỗi nào mà tình yêu của Đức Kitô không vươn tới và bao trùm.
Như vậy, để trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô, tôi phải thường xuyên tự vấn mình có đang sống yêu thương như Tin Mừng đòi hỏi chăng? Tình yêu của tôi có chứa đựng một cân lượng nào của phục vụ, hy sinh, hay tha thứ không? Nếu không thì dấu chỉ tôi có Đạo hẳn còn mờ mịt lắm thay! Chắc hẳn biến cố sau đây cũng đáng cho ta ghi nhận khi nói đến yêu thương như Đức Kitô:
Căn nhà của Frank Turner, trong thành phố Dallas bị phóng hoả. Một vài câu nói mang tính chất kỳ thị được viết trên cánh cửa ga-ra. Thiệt hại vật chất vượt quá 50 ngàn đô la. Những tổn thương tinh thần cũng không nhỏ lắm. Thế nhưng lời tâm sự của anh Frank đã làm cho nhiều người ngỡ ngàng: “Là con người, tự nhiên nghĩ đến việc trả thù. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng không phải mọi người da trắng đều xấu, cũng như không phải tất cả mọi người da đen đều tồi… Nếu tôi trả thù thì không chừng tôi lại xúc phạm đến các người lành. Điều tôi mong ước bây giờ là được Thiên Chúa dẫn lối đưa đường.” Frank nhìn nhận rằng chính niềm tin đã giúp anh tránh được thù hận.
Được biết Frank đang tu học để trở thành một thừa tác viên trong hội thánh Thanh Tẩy. Điều này đã khiến anh cương quyết hơn trong việc tha thứ và không nghĩ đến báo thù. Sự kiện bị đốt nhà và những tâm tình của Frank đã được báo chí địa phương Dallas nói đến.
Không biết sau này anh ta có trở thành một thừa tác viên để phục vụ hội thánh của mình không, nhưng tinh thần và thái độ hy sinh tha thứ, không gây hận thù tang thương cho bất cứ ai-vì anh tin vào Đức Giêsu- đã trở nên dấu chứng hùng hồn cho tình yêu và sự hiện hữu của Đức Kitô giữa lòng cuộc đời.
Có nhiều người tự cho mình là văn minh ưu chủng, đồng thời khinh miệt và huỷ diệt kẻ khác-không chỉ thể xác nhưng còn cả trí tuệ, không chỉ là sự sống thể lý nhưng còn cả phương diện tâm linh. Như thế là phản văn minh. Vì như một tác giả nhận định: “Loài người đã vượt qua những chặng đường văn minh: từ văn minh của lửa, của thời đồ đá, đồ đồng, đến văn minh nông nghiệp, công nghiệp, tin học. Thế nhưng chóp đỉnh của tất cả mọi nền văn minh mà con người đang không ngừng vươn tới từng ngày là văn minh tình yêu. Ai biết yêu thương, người ấy mới thật sự là người văn minh, có văn hoá thật, và là người có sự sống sung mãn.”
Có yêu thương là có sự sống. Càng thương yêu sự sống càng phong phú tràn đầy.
Trước khi bước lên thập giá như một dấu chỉ yêu thương tột đỉnh, Đức Giêsu đã truyền đạt cho con người nền văn minh tình yêu-văn minh sự sống. Nhưng thử hỏi hiện nay tôi đang đạt đến thứ văn minh nào? Đồ đá hay đồ đồng? Sự sống hay sự chết? Tha thứ hay hận thù? Trấn áp hay phục vụ?
Để đạt được cao điểm của văn minh, điều tôi phải thực thi là nhắm thẳng vào Đức Kitô mà tiến bước.
59. Anh em hãy yêu thương nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay gồm hai phần: lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32) và lệnh truyền mới của Đức Giêsu cho Hội Thánh (Ga 13,33a.34-35).
Lời giải thích của Đức Giêsu về cuộc Vượt Qua của Người (Ga 13,31-32)
Giuđa bắt đầu thực hiện âm mưu nộp Đức Giêsu. Khi Giuđa đã đi rồi, Đức Giêsu giải thích bản chất của những thực tại đang diễn ra. Nhìn bề ngoài, Người đang đi vào một cuộc thất bại kinh khủng, nhưng thực chất, cái chết của Người chính là một cuộc bày tỏ vinh quang và tình yêu ở mức tròn đầy: “Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31). Thực hiện chương trình của Thiên Chúa, Con Người diễn tả tình yêu và vinh quang của Người ở mức độ cao nhất và trọn vẹn nhất. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Với tất cả tự do, Đức Giêsu phó nộp mình trong tay kẻ dữ và đón nhận cái chết thảm khốc, vì yêu mến và để cứu độ thế gian. Cái chết của Người, quả thực, chính là bằng chứng lớn lao và vĩ đại nhất của tình yêu mà Thiên Chúa dành cho loài người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chính theo nghĩa đó, “Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13,31).
“Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,32). Cần đọc lời này của Đức Giêsu trong liên hệ với Ga 12,28: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.” Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”.
Tình yêu mà Đức Giêsu bộc lộ trong cuộc thương khó và cái chết của Người, tình yêu đã được thi thố đến mức tận cùng qua hình ảnh máu và nước chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, tình yêu ấy sẽ đổ tràn vinh quang của Thiên Chúa nơi chúng ta. Và “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16). Đó chính là cách Thiên Chúa tôn vinh Con Một của Người nơi chính mình. Nói cách khác, chính khi Đức Giêsu sống thân phận hạt lúa bị thối rữa trong lòng đất, lại là lúc xảy đến cuộc Thiên Chúa tôn vinh Người bằng cách đổ tràn trên nhân loại tất cả ơn nghĩa và sự thật: “Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24).
Như thế, ở tận cùng của sự ô nhục của thập giá lại là cuộc tôn vinh tuyệt vời của Con Thiên Chúa, cuộc tôn vinh vì tình yêu và ơn cứu độ dành cho thế gian. Nơi tận cùng của cái chết bi thảm lại là điểm khởi đầu của sự sống mới mẻ và viên mãn, bởi vì, nơi sự chết mà Đức Giêsu đang đi vào, “Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13,31-32).
Căn tính của cộng đoàn Hội Thánh – cộng đoàn Mêsia (Ga 13,33a.34-35)
Chính trong tư thế của Đấng được Thiên Chúa tôn vinh đó, Đức Giêsu nói những lời từ biệt các đồ đệ: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,33a.34-35).
Đức Giêsu sắp rời khỏi thế gian, nhưng các đồ đệ của Người vẫn còn ở trong thế gian (Ga 13,1; 17,11). Đức Giêsu thiết lập họ thành cộng đoàn và ban cho họ căn tính riêng biệt của những con người thuộc về cộng đoàn đó. Trước đây, các đồ đệ đã biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia (1,41.45.49); và bây giờ, các ông sẽ biết đâu là đặc tính quan trọng bậc nhất của cộng đoàn Mêsia: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34a).
Khi nói “điều răn mới”, Đức Giêsu có ý đặt điều răn này đối lập với luật cũ. Luật Môsê được thay thế bằng lệnh truyền tràn đầy ân sủng và sự thật của Đức Giêsu. Sự khác biệt giữa hai giao ước được xác định. “Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Môsê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giêsu Kitô mà có” (Ga 1,17). “Đấng từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người. Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,31.34). Vinh quang của Thiên Chúa là sự dẫy tràn ân sủng và sự thật (Ga 1,14), nên đòi hỏi dành cho những người được đưa vào vinh quang ấy cũng phải là tình yêu và chân lý, bởi vì “từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).
Điều đáng chú ý: trong điều răn mới, Đức Giêsu không hề đòi hỏi các đồ đệ phải làm gì cho chính Người hoặc cho Thiên Chúa, mà chỉ đòi hỏi các đồ đệ yêu thương nhau. Thiên Chúa không tập trung chú ý của Người về chính bản thân mình. Tình yêu của Người là tình yêu năng động hướng đến toàn thể vũ trụ và nhân loại. Tình yêu của Người là tình yêu hiến tặng cho nhân loại: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Khuôn mẫu và tiêu chuẩn của tình yêu mà các đồ đệ phải thi thố là chính Đức Giêsu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34b).
Đức Giêsu đã từng mời gọi các đồ đệ đồng hóa với Người trong sự sống và trong cái chết của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53). Bây giờ, Người xác định rằng các hành động của Người chính là khuôn mẫu cho cách sống của các độ đệ: điều răn mới chính yếu hệ tại ở chỗ các đồ đệ yêu thương nhau như Người đã yêu thương họ vậy. Đức Giêsu là tiêu chuẩn, là thước đo, là khuôn mẫu, là lý tưởng và là cùng đích tối hậu của tình yêu thương.
Có thể lấy hai hành động mà Đức Giêsu vừa thực hiện làm điểm quy chiếu giúp giải thích thế nào là yêu thương nhau “như Thầy yêu anh em”: sự kiện Đức Giêsu rửa chân cho các đồ đệ (Ga 13, 1-20) và thái độ của Người đối với Giuđa, kẻ nộp Người (Ga 13,21-32). Bằng việc rửa chân cho các đồ đệ, Đức Giêsu cho thấy điểm quan trọng trong tình yêu là đón nhận người khác và đặt mình trong tư thế phục vụ người khác bằng cách đem lại cho họ phẩm giá và sự tự do nhờ tình yêu mến. Cách hành xử của Đức Giêsu đối với Giuđa cho thấy tình yêu đó không được giới hạn vào một loại đối tượng nào và không được loại trừ bất cứ ai, nhưng luôn luôn hết mực tôn trọng tự do của người khác một cách đúng đắn.
Lệnh truyền mới của Đức Giêsu được ban cho những người thuộc về Người, tức là những kẻ được Thiên Chúa sinh ra nhờ Thánh Thần (Ga 1,13: “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa”; 3,5-6: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí; cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí”). Do Thiên Chúa sinh ra, những người đó đã đón nhận quyền trở nên con cái Thiên Chúa (Ga 1,12), và họ sẽ thực sự trở nên con cái Thiên Chúa khi họ yêu thương như chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã yêu thương: chính Người là con đường, là sự thật và là sự sống (Ga 14,6).
Tình yêu thương giữa các đồ đệ với nhau phải là một thực tại có thể thấy được và có thể được mọi người nhận biết. Vì thế, tình yêu ấy cần phải được diễn tả bằng những hành động thực tế, như Đức Giêsu đã thực hiện. Và đây sẽ là một dấu hiệu đánh dấu dung mạo và phản ánh căn tính của cộng đoàn. Sự kiện các đồ đệ thuộc về Tôn Sư chí thánh (“anh em là môn đệ của Thầy”) không phải là một điều lý thuyết, mà là một thực tại cụ thể được diễn tả trong thực tế của cuộc sống tràn đầy yêu thương. Cộng đoàn các đồ đệ của Chúa Giêsu sẽ không “đánh dấu” mình bằng những lý thuyết khôn ngoan độc đáo, cũng không phải bằng những bài diễn thuyết hùng hồn, cũng chẳng phải bằng những lời giảng khuyên tốt lành, cũng không phải bằng những tư tưởng cao xa về Thiên Chúa. Cộng đoàn Hội Thánh thể hiện mình trong khả năng yêu thương đến tận cùng và trong việc xây dựng một xã hội mới của tình yêu thương đến tận cùng ấy. Và đó chính là điều làm cho Chúa Cha được nhận biết giữa thế gian.
Thay cho hòm bia của giao ước cũ, Đức Giêsu muốn thiết lập một không gian và nơi chốn yêu thương trong giao ước mới. Thế gian sẽ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính tình yêu thương mà các độ đệ của Đức Giêsu thi thố giữa thế gian. Không phải những cơ cấu hoàn chỉnh, không phải những cuộc lễ tưng bừng hay những thứ khác tương tự, sẽ là dấu hiệu để thế gian nhận biết các độ đệ của Đức Giêsu, mà là tình yêu thương như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Đó là tiêu chuẩn duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập để “đánh dấu” dung mạo của cộng đoàn Mêsia.
Khi thiết lập tiêu chí duy nhất để cộng đoàn Hội Thánh được nhận biết giữa thế gian như thế, Đức Giêsu đã loại trừ tất cả những tiêu chí khác. Căn tính của Hội Thánh không được đặt nền trên luật lệ hay phụng tự. Tình yêu thương tha nhân là bằng chứng duy nhất của sự hiện diện đích thực của tình yêu của Thiên Chúa nơi con người. Hội Thánh là mầu nhiệm tình yêu ấy giữa thế gian. Các thành phần của Hội Thánh hiệp thông với nhau trong tình yêu ấy, và cùng nhau làm chứng cho Chúa Kitô bằng cách thực thi tình yêu ấy.
Chúa phán: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em…” (Gn 13, 34)
Ngày 16.08.1987, một chuyến máy bay của Mỹ bị rơi ngay sau khi vừa cất cánh gần phi trường Detroit. Có 155 người thiệt mạng; một người duy nhất sống sót là một bé gái tên Cêcilia, 4 tuổi. Em sống sót được chính là nhờ sự hi sinh của mẹ em, bà Paula Chican. Khi máy bay đang rơi, bà đã lấy thân mình cuộn tròn lấy em bé, che chở cho em khỏi tai nạn. Đây là một hành động nói lên tình yêu vô cùng cao quý! Bài Tin Mừng chúa nhật hôm nay cũng muốn trình bày cho chúng ta chính đề tài: điều răn mới của Đức Kitô: Hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương…
Trước hết có mấy điều cần chú thích:
* điều răn mới: Luật yêu thương này đã có trong Cựu Ước (Lv 19, 18); luật cũng dạy: yêu đồng loại như chính mình. Tuy nhiên, sau này, nhất là thời Chúa Giêsu, người ta đã bóp méo lề luật đó theo ý mình, cho dễ giữ…Chúa Giêsu đã giải thích rộng điều răn mới này trong ch. 15, 1-17. Chính Chúa đã trở thành mẫu gương sáng ngời cho một Tình Yêu chân thành, Tình yêu hiến tế qua cái chết của Ngài trên Thập giá.
* dấu chỉ là môn đệ của Chúa: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh: Tín hiệu cho mọi người nhận biết ai là môn đệ Chúa Kitô: đó là Tình Yêu. Yêu như Chúa, yêu đến mức sẵn sàng tha thứ cho chính kẻ thù. Từ căn bản điểm này, người ta gọi Kitô giáo là đạo yêu thương…
Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa nói với các môn đệ: các con hãy yêu thương nhau… Mới nghe qua, các ông nghĩ yêu thương nhau có gì là khó, nhất là vì cùng là môn đệ Chúa thì làm sao người ta phải từ chối mà không yêu thương nhau. Chúa lại nói tiếp: hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương…. Rồi Chúa còn nói mạnh hơn: đây là lệnh truyền của Thầy: hãy yêu thương nhau… Chúa còn gọi đó là điều răn mới. Lúc đó các môn đệ rất mù mờ về chuyện này; chỉ sau khi Thánh Thần ngự xuống, các ông mới hiểu rõ mà thôi…
Có thể nói, ngày hôm nay chúng ta hiểu rõ điều răn yêu thương này hơn thời của Chúa Giêsu; nhưng liệu chúng ta có yêu thương hay sống luật yêu thương như Chúa không? Thầy ban cho các con một điều răn mới. Đó là lệnh truyền, không phải là một lời đề nghị. Vậy yêu thương không phải là hành động của tình cảm mà là của ý chí. Có người nói với tôi: thưa cha, cha có cách nào làm cho con đừng nghĩ xấu, đừng oán ghét chồng con không? Tôi trả lời: tôi không có cách nào cả…Nhưng chúng ta nên xem lại: chúng ta có nghĩ rằng mình phải yêu thương chồng mình vì Chúa dạy, vì là lệnh truyền của Chúa, dù chồng mình chẳng đáng ưa chút nào không?
Điểm thứ 2: Hãy yêu thương như Thầy yêu thương, bằng một tình yêu hi sinh,tha thứ vô điều kiện: Lạy Cha xin tha cho chúng, vì chúng không biết… Trở lại câu chuyện người chồng không đáng thương chút nào cả. Khi người chồng lầm lỗi chị nọ có sẵn sàng tha thứ? khi người chiống đáng ghét chi có sẵn sàng yêu thương? Những lúc đó chúng ta hãy nhìn Thiên Chúa Ngài là mẫu gương yêu thương, tha thứ
Gợi ý sống và chia sẻ:
Chúa Giêsu yêu nhân loại chúng ta bằng tình yêu hi sinh, tha thứ vô điều kiện, vì thế Người là mẫu gương sáng ngời về yêu thương tha thứ. Ta có sẵn sàng yêu thương tha nhân như Chúa yêu thương ta không?
Câu hỏi gợi ý:
Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giêsu lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là một sự kiện duy nhất không?
Tại sao khi Đức Giêsu được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người? Có gì tương tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi Đức Giêsu không?
Tại sao sự yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có phải là dấu chứng không?
Suy tư gợi ý:
Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Giêsu và qua Đức Giêsu
a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giêsu nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.
Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì.
Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v… đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giêsu: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt 7,13-14).
b) Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người là một
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giêsu và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giêsu), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giêsu và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giêsu và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giêsu. Có thể nói Đức Giêsu, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.
Đức Giêsu chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giêsu, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.
Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giêsu, thì ta có thể nói được như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giêsu đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta
Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự huỷ cái tôi của mình đi. Đức Giêsu đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.
Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.
Chính vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ… chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng hành động – mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà thôi (xem Rm 2,12-24).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.
Cách đây khá lâu tôi có xem trên Tivi có đoạn quảng cáo thứ gì mà loạn xà ngầu rượt đuổi lung tung, sau đó mọi người trong phòng cùng nâng bia Tiger lên chúc mừng. Tôi thấy lạ lắm nhưng cũng chẳng thèm để ý đến bao nhiêu vì là quảng cáo mà. Nhưng mới đây đọc báo Tuổi trẻ lại nhận ra những cảnh quảng cáo này nhưng được dựng lại trên báo. Thì ra đơn giản là bọn xấu muốn tấn công anh Max một người trọng hội bia Tiger. Anh Max chạy lòng vòng thành phố New York sau đó anh vào một cái phòng trong đó mọi người có thích một dấu và họ nhận ra ai dấu hiệu đó là “tín đồ” của bia Tiger. Sau cùng là câu Slogan nổi lên “Tiger rạng danh trên toàn thế giới”.
Tôi không phải là nhân viên của bia Tiger để quảng cáo cho loại bia này nhưng với dấu thích trên tay làm cho tôi liên tưởng đến công việc của Phêrô nơi cửa thiên đàng như chúng ta thường nói. Muốn vào nước thiên đàng chắc chắn phải có một dấu hiệu nào đó để chứng tỏ mình là công dân của nước Chúa. Dấu hiệu đó không thể là gì khác ngoài dấu chỉ yêu thương. Và vơí dấu này người ta biết mình là ” tín đồ ” của nước Chúa. Nhưng yêu thương là yêu thương như thế nào? Bài Tin Mừng mà Phụng vụ cho đọc hôm nay cho thấy lý tưởng của tình yêu thương chính là tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. ” Giờ đây Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người nếu Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình “. Tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu rộng mở, trao hiến trọn vẹn hết cho nhau. Thiên Chúa phải là Thiên Chúa Ba Ngôi bởi nếu một Ngôi hay hai Ngôi thì là tình yêu khép kín, vị kỷ. Trong tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi mở rộng để Thiên Chúa tác thành trời đất và thông chuyển tình yêu của Thiên Chúa cho mọi loài. Trong cuộc sống dương thế của Chúa Giêsu chúng ta có thể thấy được sự hiệp nhất trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Giêsu khi làm phép lạhoá bánh ra nhiều cho năm ngàn người ăn thánh Gioan ghi lại như thế này “Ngài cầm lấy bánh dâng lời tạ ơn rồi phân phát…” ta thấy Ngài không xin nhưng Ngài thực hiện theo ý Cha và Ngài tạ ơn Cha.
Còn chúng ta, chúng ta được Chúa Giêsu dạy hãy yêu thương nhau. Nhưng tại sao ở đây Chúa Giêsu lại nói “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”. Mới là mới ở chỗ nào? Mới là cách quy chiếu mới, cách thể hiện mới. Trong Cựu Ước đã có dạy yêu thương nhưng quy chiếu về chính mình “hãy yêu thương tha nhân như chính mình”. Còn hôm nay Chúa Giêsu dạy “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Rõ ràng có một chuẩn mực mới. Yêu như Chúa yêu là yêu hết tình, yêu đến độ hy sinh tính mạng cho người mình yêu. Ở đây có hai phía chủ thể yêu và người được yêu. Chúng ta là người được Chúa yêu và theo như thánh Phaolô nói Người yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân, chúng ta chẳng có đáng yêu chút nào mà Chúa lại yêu hết tình, yêu hết mình vì chúng ta. Cho nên tình yêu thật không hệ tại nơi người được yêu có đáng yêu hay không, có đáp lại tình yêu hay không mà khi yêu là yêu trọn vẹn như nhà tư tưởng, mục sư Steve Goodier nói như thế này trong cuốn sách Đơn Thuốc Bình An Cho Tâm Hồn “Tình yêu đích thực không đòi hỏi người kia yêu mình như mình đã yêu”. Trong tình yêu nam nữ chắc anh chị em cũng đã có lần kinh qua kinh nghiệm này. Yêu là yêu thế thôi, không thể chỉ cho người khác biết rằng tôi yêu em hay tôi yêu anh vì cái gì mà là trọn vẹn, cái gì nơi người yêu của mình cũng đáng yêu. Yêu như Chúa yêu là yêu thật, yêu có sự hao mòn đi nơi chính mình. Nếu chưa có từ bỏ, chưa mất mát, chưa hy sinh thì thường khi là chưa phải là yêu thương thật. Nhìn vào các gia đình ta có thể dể dàng nhận ra điều này. Cha mẹ sẳn sàng hy sinh ăn đầu tôm xương cá để cho con được ăn miếng ngon, cha mẹ sẳn sàng mặc áo vá, áo cũ để cho con cái có được những bộ đồ đúng mốt nhưng với sự hy sinh đó cha mẹ chúng ta không cảm thấy đó là sự mất mát, không cảm thấy thiệt thòi nhưng đó là một điều phải làm, nên làm và hạnh phúc vì được hy sinh cho con. Chỉ vì cha mẹ yêu con. Rộng lớn hơn một chút, trong xã hội của chúng ta cũng có rất nhiều người đã thể hiện tình yêu một cách vô vị lợi. Ví dụ như chị Huỳnh Tiểu Hương mà cách nay khá lâu trong chương trình gặp gỡ cuối tuần của đài Thành Phố Hồ Chí Minh mà tôi có dịp được xem. Chị là một đứa bé bị bỏ rơi, bị bán cho các động mại dâm ở những nơi người ta đào vàng, rồi chị trốn thoát trở thành trẻ em đường phố…may mắn thay số phận cho chị được khá lên và hiện nay chị đang nuôi dưỡng hơn 200 em bị bỏ rơi khuyết tật. Với sức khoẻ của chị như hiện nay chị đang bị bệnh ung thư chẳng biết công việc của chị rồi sẽ ra sao! Chị có hai câu nói làm tôi cảm phục và nhớ mãi. Đó là chị nói có những đêm chị trằn trọc chị như có linh cảm như có bé nào đó bị bỏ rơi và như có một sức mạnh vô hình thúc đẩy chị phải thức dậy để mang bé đó vào nhà thì chị mới yên lòng cho dù trời đêm mưa gió. Khi chị Quỳnh Hương dẫn chương trình hỏi “Nếu có một ai đó muốn mua hay xin các con của chị thì chi có cho hay bán không?”. Chị trả lời rất dứt khoát “Không, không, không tất cả là con của tôi, tôi nuôi chúng đến khi nào tôi chết thì thôi…”. Còn nhiều còn nhiều những tấm gương trong cuộc sống đã yêu, đã sống hy sinh vì yêu.
Người Kitô hữu chúng ta được tạo dựng và được cứu độ trong tình yêu của Thiên Chúa, lại được mời gọi sống điều răn yêu thương, cho nên có thể nói được yêu thương là căn tính, là bản chất của người Kitô hữu. Điều này đòi buộc mỗi người chúng ta phải luôn tự hỏi mình xem mình đã sống và đã thực hành điều răn Chúa dạy như thế nào. Tình yêu của người Kitô hữu chúng ta không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên nhưng phải là tiếp nối của tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu siêu vượt trên những cảm xúc tự nhiên. Tình yêu đó mang một khả năng biết mở rộng vòng tay, mở rộng con tim để đến với mọi người kể cả những người không có thiện cảm đối với chúng ta. Yêu là nhận ra Chúa nơi tha nhân. Yêu vì họ cũng là con của Chúa như chúng ta, không yêu thương thì không còn là Kitô hữu. Càng biết yêu thương, dám yêu, yêu không loại trừ là càng ngày càng trở nên những người Kitô hữu đích thực.
Ước gì mỗi người chúng ta thích được chữ yêu thương nơi tâm hồn chúng tađể chúng ta được trở nên những tín đồ trung thành của Thiên Chúa tình yêu.
63. Hãy yêu như chính Thầy – Jos.Vinc. Ngọc Biển
Đọc lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam thuở ban đầu, chúng ta thấy cha ông chúng ta sống hết lòng yêu thương và đoàn kết với nhau. Các ngài đã lấy Chúa làm trung tâm, làm điểm tựa cho mọi hoạt động. Lấy tinh thần bác ái, yêu thương làm nên bản chất của mình. Vì thế, những người ngoài Công giáo thời đó không biết tiền nhân của chúng ta theo đạo gì mà lại sống những giá trị cao đẹp như vậy, nên họ nói với nhau: những người này họ sống “Đạo Yêu Nhau”.
Tại sao các tín hữu lại có lối sống như thế? Lối sống đó bắt nguồn từ đâu? Thưa, mọi giá trị và ưu phẩm đó khởi đi từ một Đấng đã sống và dạy cho con người bài học “yêu thương”.
Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu giữa Chúa Cha và loài người
Từ lúc xuống thế, nhập thể để ở với loài người, Đức Giêsu đã sống và đem “Đạo Yêu” đến trần gian. Ngài đã diễn tả nó qua hành động và lối sống của Ngài để làm toát lên khuôn mặt của một Thiên Chúa hết lòng yêu thương con người. Tình yêu ấy được bắt nguồn từ Thiên Chúa Cha: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Đến lượt Đức Giêsu, Ngài cũng sống triệt để sứ mạng đó khi yêu và yêu đến cùng bằng việc chết trên thập giá để hiến mạng vì người mình yêu: “Không có mối tình nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15,13).
Quả thật: Vì yêu, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Pl 2,6-8).
Vì yêu, Đức Giêsu đã chấp nhận sinh ra nơi máng cỏ bò lừa giữa đêm đông lạnh giá. Chấp nhận bị phiêu bạt nơi đất khách quê người vì vua Hêrôđê bạo chúa tìm cách bắt bớ. Khiêm tốn vâng lời cha mẹ của Ngài là Thánh Giuse và Mẹ Maria.
Vì yêu, Đức Giêsu đã hạ mình để Gioan làm phép rửa thống hối cho Ngài, mặc dù Ngài vô tội; đã ăn chay suốt 40 đêm ngày để làm gương cho mỗi chúng ta; đã rao giảng Tin Mừng khắp đó đây để cho mọi người được ơn cứu độ; luôn cảm thông với người tội lỗi, nâng đỡ kẻ yếu đuối, vỗ về người thất vọng. Ngài đã “chạnh lòng thương” đến đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt; đã nuôi sống họ bằng phép lạ hóa bánh ra nhiều; đã chữa lành những người ốm đau tật nguyền; đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ; đã làm ơn cho kẻ hại mình; đã yêu luôn cả kẻ thù và sẵn sàng tha thứ cho họ.
Vì yêu, Đức Giêsu đã trao ban chính mình Ngài cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể và ở lại mọi ngày với loài người cho đến tận thế. Vì yêu, Ngài đã chấp nhận bị môn đệ thân tín bán đứng, bị Phêrô chối là không biết mình và bị người đời khinh khi nhục mạ. Cuối cùng, đã đón nhận chính cái chết để cứu chuộc loài người.
Như vậy, cả cuộc đời của Đức Giêsu đã sống và chết vì yêu. Qua đó, Ngài cũng dạy cho các môn đệ bài học về tình yêu: “Đây là Điều Răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12); hãy yêu như Thầy: “Không có tình yêu nào quý hơn tình yêu của người hiến mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).
“Hãy yêu thương nhau” là gia tài, là di chúc của Đức Giêsu dành cho các môn đệ khi sắp lên đường chịu chết. Lời trăng trối này thật thiêng liêng trong một không gian thánh giữa lúc thầy trò chuẩn bị ly biệt:”Hỡi anh em là những người bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em ít lâu nữa thôi”, vì thế, “anh em hãy yêu thương nhau”.
Tại sao lại phải yêu thương nhau?
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau vượt qua được thử thách khi thấy cảnh Thầy của mình bị bắt, bị trói, bị đánh đập và bị giết chết trần trụi trên thập giá.
Có yêu thương nhau thì mới đón nhận nhau là anh em và không tranh dành chỗ cao thấp trong cuộc đời khi không còn Thầy hiện diện ở giữa nữa.
Có yêu thương nhau thì mới cùng nhau loan truyền và làm chứng về Thầy cho người khác.
Có yêu thương nhau thì mới đến được với người nghèo, người khổ đau, bệnh tật để an ủi họ. Mới dám cùng nhau chấp nhận cái chết để minh chứng cho mọi người biết mình đã tin vào Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.
Yêu nhau và dám chết cho nhau thì mới là người đáng tin và mọi người mới biết mình tin vào ai. Ngược lại, chỉ yêu nhau trong những lúc vui vẻ, thành công thì chỉ là một thứ tình yêu đầu môi chóp lưỡi.
Lời trăng trối của Đức Giêsu không chỉ là “hãy yêu thương nhau”, mà còn đi một bước xa hơn và mới hơn nữa là “hãy yêu như chính Thầy”. Yêu nhau là tình bằng hữu, nhưng chết cho nhau là một tình yêu cao cả. Yêu như Thầy là dám chết cho người mình yêu. Yêu như Thầy là một tình yêu bằng cả cuộc đời: từ lời nói, hành động và cái chết luôn thống nhất với nhau.
Nếu yêu thương nhau là cốt lõi của Tin Mừng, thì chết cho nhau là đỉnh cao của tình yêu ấy. Khi yêu nhau, ta làm toát lên vẻ đẹp của mình, khơi gợi cho con người niềm hy vọng và xác tín mạnh mẽ vào Đấng đã yêu thương chúng ta trước. Và như thế, “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Khi yêu như thế, ta cũng được ở lại trong Chúa và Chúa ở trong ta. Bởi vì, “Thiên Chúa là Tình Yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,16).
Yêu thương là yếu tính của Đạo chúng ta. Cha ông chúng ta đã sống và làm chứng cho những giá trị cao quý ấy bằng cả mạng sống của mình để minh chứng niềm tin vào Đấng đã yêu và chết cho mình trước. Đấng ấy là chính Đức Giêsu. Hoa trái của các ngài đã toả lan và lưu truyền nơi Giáo Hội. Còn chúng ta, chúng ta đã thực hiện Lời Chúa dạy về đức yêu thương như thế nào? Xin để lại nơi suy nghĩ của mỗi chúng ta trước mặt Chúa…
Thỉnh thoảng có những người giáo dân nhờ tôi đánh máy di chúc, thường thì trong di chúc đều có lời căn dặn đại khái: “Má (cha…) mong muốn anh chị em chúng con hoà thuận thương yêu nhau…”. Cách nào đó, những bậc cha mẹ nầy đã thấm nhuần được tinh thần của Đức Giêsu. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, trong bầu khi dùng buổi tiệc cuối cùng với các môn đệ, trước lúc bước vào con đường khổ nạn, Đức Giêsu đã trối cho các môn đệ, cũng là cho mỗi người chúng ta nữa về giới luật yêu thương. Người nói rõ rằng: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”(Ga 13,34).
Giới luật yêu thương Chúa ban có gì mới? Thực ra lời dạy yêu thương nhau đã có từ xưa, có thể nói từ khi con người xuất hiện. Chúng ta vẫn nghe nói: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em), hay ” thương người như thể thương thân”, hay “bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy là khác giống nhưng chung một giàn”… Ngay trong Cựu Uớc cũng đã dạy rất rõ:”Hãy yêu đồng loại như chính mình…” (Lêvi 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân nầy, ta tạm gọi là kiểu cũ, so với lời dạy và gương sống của Đức Giêsu, ta tạm gọi là kiểu mới, thì còn nhiều hạn chế, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó qua một vài điểm so sánh:
– Yêu tha nhân theo kiểu cũ, mà ta thường đối với nhau, đó là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Đành rằng yêu người khác như bản thân mình là rất quý, nhưng vì lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn nên làm sao tránh khỏi những vị kỷ, bất ổn, mà chúng ta sẽ bàn tiếp ở những điểm sau. Còn yêu thương theo kiểu mới, thì yêu như chính Chúa yêu thương chúng ta, cho nên những bất ổn đó sẽ được khắc phục.
– Yêu tha nhân theo kiểu cũ, do lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn, cho nên sẽ giới hạn về đối tượng. Người Do thái xưa được dạy chỉ phải yêu: đồng đạo, đồng chủng, đồng hương… chứ không phải yêu thương tất cả mọi người. Cho dù xã hội ngày nay rất tiến bộ, nhưng tình yêu tha nhân theo kiểu cũ vần còn tồn tại, ta vẫn còn nghe những cụm từ “không đội trời chung với kẻ thù”, “đối với kẻ địch thì phải khôn ngoan, cương quyết…”! Còn yêu thương theo kiểu mới đó là yêu thương hết mọi người, dù kẻ làm khó dễ, thù nghịch với ta (x. Mt 5,43-48).
– Yêu tha nhân theo kiểu cũ, chúng ta còn dễ thấy ở mục đích yêu thương: yêu thương người khác vì mình. Sống hiền hoà với tha nhân để tránh gây thù oán, để được yên ổn. Cũng có thể yêu thương người khác vì người đó đem lại cho ta lợi lộc, hoặc thoả mãn ước muốn nào đó của ta… Còn yêu thương theo kiểu mới, đó là yêu thương vì lợi ích của người được yêu thương, chẳng hạn Thiên Chúa vì yêu thương muôn loài nên Ngài đã tạo dựng và luôn chăm sóc cho muôn loài, đặc biệt là loài người. Đức Giêsu vì yêu thương ta nên sẵn lòng chịu nạn chịu chết vì ta.
– Yêu tha nhân theo kiểu cũ do lấy mình làm điểm quy chiếu, nên hay có sự thay đổi trong yêu thương. Vừa lòng thì còn quý mến, hết vừa lòng thì thôi. Lòng dạ con người thay đổi nào ai có thể lường? Còn yêu thương theo kiểu mới do Chúa dạy đó là tình yêu không thay đổi, cho dù đối tượng có trở nên bất trung, bất xứng. Ngay trong Cựu Ước cũng đã nói lên điều đó:”Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 118; 136), dù dân Do thái có trung thành với Thiên Chúa hay không!? Nơi Đức Giêsu, một điển hình rõ nét, Người vẫn một mực yêu thương Phêrô, Giuđa dù các ông có phản bội Chúa hay chưa! Người cũng đối với mọi người chúng ta như thế.
Đức Giêsu đã dạy, đã sống và muốn chúng ta cũng hãy đối xử với nhau: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Nhưng sống yêu thương nhau như Chúa dạy thực ra không phải dễ, do chúng ta thường có khuynh hướng quy về cái tôi vị kỷ của mình. Chính thánh Phaolô đã từng thốt lên:”Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tối ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,15). Do quy về cái tôi, nên chúng ta hay có thái độ so bì, ganh tỵ ngay cả những người thân thương ruột thịt của mình, nhiều khi với lý do rất đơn giản như: nó đẹp hơn tôi, nó giàu hơn tôi, nó được cha mẹ quan tâm hơn tôi, được hưởng gia tài nhiều hơn tôi… nên tôi ghét! Do quy hướng về mình, nên ta thường muốn được cái lợi, được hưởng thụ, được phục vụ mà ít quan tâm đến lợi ích của người khác, ít quan tâm phục vụ, hy sinh cho người khác. Nếu sống mà như thế thì làm sao ta có thể yêu thương như Chúa được. Đức Giêsu, Đấng đến không để được phục vụ mà để phục vụ. Vậy trong tinh thần bác ái, phục vụ người khác theo gương Đức Giêsu, chúng ta có thể bớt so bì, ganh tỵ… để dễ yêu mến người khác hơn.
Chúa dạy chúng ta yêu thương mọi người, không giới hạn đối tượng, nhưng Chúa cũng lưu tâm các môn đệ của Chúa, các Kitô hữu, cách đặc biệt về giới luật nầy: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Nếu anh em trong một nhà, nếu các Kitô hữu không yêu thương nhau thì làm sao mà có thể yêu thương những người khác được? Vậy hãy cố gắng thực hiện giới luật yêu thương quan trọng nầy nơi gia đình, cộng đoàn, nơi làm việc, xóm làng…
Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm của mình: Tại sao người ta không xin gia nhập Giáo Hội, không đánh giá cao bản thân, gia đình, đoàn thể, xóm giáo, họ đạo chúng ta? Chắc do nhiều nguyên nhân, nhưng thiết nghĩ, một trong những nguyên nhân chính yếu đó là do chúng ta sống thiếu yêu thương nhau! Nếu đúng như vậy, mọi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện lệnh truyền của Chúa:”Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”, đó là phương cách sống chứng nhân cho Đức Kitô cách hữu hiệu.
Ngày hôm nay, các tổ chức, các công ty-xí nghiệp họ thường có những huy hiệu hay những bộ đồng phục để người ta nhận ra thành viên của tổ chức ấy, hoặc để các thành viên trong tổ chức đó nhận ra nhau. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe, CG không dùng những hình thức bên ngoài để người ta nhận ra ai là môn đệ Chúa, nhưng dấu hiệu để chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Chúa đó là phải có lòng yêu thương.
Có lẽ khi nói đến hai chữ “yêu thương” ai trong chúng ta cũng đều hiểu và cảm nhận được ngay. Vì con người không thể sống nếu không biết yêu thương. Ngay khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để trong lương tâm của mỗi người khả năng yêu thương. Nhờ đó con người có thể yêu mến Thiên Chúa và yêu thương nhau. Chính vì hai chữ “yêu thương” nó quan trọng như thế cho nên khi CG sắp bước vào cuộc khổ nạn, CG đã để lại cho các môn đệ lời trăn trói sau cùng, đó là: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Nhưng yêu thương như Chúa yêu thương là như thế nào?
Tâm lý tự nhiên, chúng ta thường yêu thương những người trong gia đình, trong huyết tộc, hay yêu thương những người thương ta, làm ơn cho ta. Nhưng CG yêu thương tất cả mọi người, từ những em bé, những kẻ tội lỗi, những người bị xã hội ruồng bỏ, và cả những kẻ làm hại Ngài, giết chết Ngài. Tình yêu đó đã làm cho Ngài không ngại khi cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài không ngại rửa chân cho Giuđa kẻ sắp phản bội Ngài. Ngay cả lúc trên thập giá, khi còn chút hơi mọn, thay vì Ngài trách mắn những kẻ làm khổ mình nhưng Ngài lại “xin Chúa Cha tha cho họ”. Ngài không nhìn họ là kẻ thù nhưng Ngài thấy nơi họ là những con người cần được thương xót.
Khi yêu thương chúng ta, Chúa không so đo hơn thiệt, không đặt bất cứ điều kiện nào. Ngài cho tất cả, hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để ta được hạnh phúc. Ngài cũng muốn chúng ta là môn đệ của Ngài cũng phải biết yêu thương tất cả mọi người như vậy.
Nhìn vào đứa con người ta có thể nhận ra cha mẹ của chúng, qua nét mặt, lời nói. Cũng thế, Chúa Giêsu sẽ được nhiều người nhận biết khi chúng ta là những môn đệ của Chúa biết phác hoạ lại chân dung của Thầy bằng một đời sống biết yêu thương.
Mẹ Têrêxa Calculta đã dùng chính cuộc đời của mình để yêu thương và giúp đỡ người nghèo. Một lần nọ, mẹ đưa về nhà dòng một ông lão bị bỏ rơi trên đường phố, mình đầy ghẻ chóc. Sau một thời gian được mẹ săn sóc, ông xin được rửa tội. Mẹ mới hỏi: tại sao ông muốn được rửa tội. Ông trả lời: vì tôi thấy tình thương của Chúa dành cho tôi qua sự săn sóc của mẹ. Chính cách sống yêu thương của Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho nhiều người tin vào Chúa mà còn làm cho cả thế giới thấy được tinh thần yêu thương của kitô giáo.
Làm sao chúng ta có thể nói với anh chị em lương dân đạo công giáo là đạo của tình yêu, Thiên Chúa chúng ta thờ, Ngài yêu thương hết mọi người mà chính bản thân, gia đình của chúng ta lại không yêu thương, không giúp đỡ nhau.
Tuy nhiên, nói yêu thương thì rất dễ nhưng để yêu thương như Chúa yêu không phải là chuyện dễ chút nào. Bởi vì đã gọi là yêu thương thì phải chấp nhận hy sinh: hy sinh tiền của, sức khoẻ, thời giờ, nhất là khi phải yêu thương những người chúng ta không thích, những người làm khổ chúng ta. Tự sức chúng ta thật khó để thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa nhưng chúng ta sẽ làm được nếu dựa vào Chúa, noi gương Chúa. Nhờ kết hợp với Chúa qua đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ tập nhận ra Chúa qua anh chị em. Bởi vì Chúa Giêsu đã đồng hoá Ngài nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ, bất hạnh.
Xã hội ngày hôm nay, người ta có thể mua được nhiều thứ bằng tiền, nhưng cái đang rất cần để mang lại hạnh phúc là yêu thương thì lại càng ít được quan tâm. Chính vì sự vắng bóng tình yêu nên cuộc sống của con người càng trở nên khô cằn. Biết bao gia đình tan vỡ, con cái chống lại cha mẹ, vợ chồng ly tán, anh chị em bất hoà cũng chỉ vì thiếu vắng tình yêu.
Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng cầu xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta, biết can đảm thực thi lệnh truyền yêu thương của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Bằng một đời sống biết quan tâm và giúp đỡ nhau, không chỉ là cơm áo gạo tiền, nhưng một lời nói tốt, một lời cầu nguyện, một sự thông cảm tha thứ đó cho nhau đó cũng là chúng ta đang thực hiện lệnh truyền yêu thương của Chúa, đó là chúng ta đang làm chứng cho Chúa.
66. Đức Giêsu luôn luôn hiện diện
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
Sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho các Kitô hữu là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này thuộc về Phần II của TM IV (“Sách về Giờ của Đức Giêsu”) và ở trong “Diễn từ cáo biệt thứ nhất” (13,31-14,31): Đức Giêsu nói những lời này sau khi đã rửa chân cho các môn đệ (13,1-20) và loan báo Giuđa phản bội (13,21-30). Người mời gọi các môn đệ đừng hoang mang trước viễn tượng Người ra đi (14,1): Chúa Cha sẽ cử đến một Đấng Bảo Trợ khác để trợ giúp các ông, đó là Thánh Thần (14,16-17). Còn chính Người thì sẽ trở lại với các ông; thế gian không thấy Người, nhưng những ai tin vào Người thì thấy được Đấng ấy (14,18-21). Giuđa đã diễn tả sự kinh ngạc của tất cả các môn đệ: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” (14,22). Ông mơ một cuộc tỏ mình cụ thể, khả giác, của Đức Giêsu; ông chưa hiểu là biến cố Đức Giêsu và Thánh Thần ngự đến chỉ có thể nhận biết trong đức tin.
Thoạt nhìn, dường như câu trả lời của Đức Giêsu (c. 23) không liên hệ đến câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuđa. Thực ra, câu trả lời đã đi thẳng vào câu hỏi, bởi vì Đức Giêsu loan báo sự hiển lộ mầu nhiệm của Người và lý do khiến thế gian không thấy được sự hiển lộ này.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (14,23-24);
2) Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (14,25-26);
3) Đức Giêsu ban bình an và ra đi (14,27-29).
3.- Vài điểm chú giải
– lời (23): Đối với một người Sê-mít, “lời” (logos) có tính cụ thể; “lời” diễn tả hữu thể thâm sâu, chính bản thân con người.
– Thánh Thần… Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều (26): Từ ngữ “Thánh Thần” (to pneuma to hagion) ở trung tính; vậy mà chủ ngữ “Đấng đó” (ekeinos) thay cho “Thánh Thần” (to pneuma to hagion, ho…) lại ở nam tính. Khi viết như thế, tác giả muốn cho thấy rằng Thần Khí còn hơn là một xu hướng hay là một ảnh hưởng; Người là một nhân vật, một Đấng. Có thể nói ekeinos ở nam tính vì thay cho paraklêtos, nhưng gần hơn, vẫn là thay cho to pneuma to hagion, ho…
– sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm anh em nhớ lại (26): Bultmann có lý khi cho rằng, “dạy” và “làm nhớ lại” không phải là hai chức năng khác nhau của Thánh Thần, nhưng là hai phương diện của cùng một chức năng. Như thế, “dạy anh em” và “làm anh em nhớ lại” song đối với nhau.
– bình an (27): Khi ra đi, Đức Giêsu nói shalôm (bình an) với các môn đệ. Nhưng đây không phải là lời chào thông thường, mà là ân ban cứu độ. Đây không phải chỉ là tình trạng không có chiến tranh, hay là chấm dứt sự căng thẳng về tâm lý, hay là một cảm giác thư thái. Theo ngôn ngữ Ga, “bình an”, “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui” là những từ mang nghĩa ẩn dụ để diễn tả các phương diện khác nhau của ân huệ lớn lao mà Đức Giêsu đã mang từ Chúa Cha đến cho con người. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” là một cách khác để nói “Tôi ban cho chúng sự sống đời đời” (10,28). “Bình an của Thầy” ở đây cũng giống như “niềm vui của Thầy” ở 15,11 và 17,13.
– nếu anh em yêu mến Thầy (ei êgapate, 28): Động từ ở thì vị hoàn (imperfect) để nói về một điều kiện “không có thật”, chưa xảy ra [1].
– Chúa Cha cao trọng hơn Thầy (28): Câu này đã là đề tài cho nhiều cuộc tranh luận về Kitô học và về Ba Ngôi. Phái Ariô đã dựa vào câu này để biện minh cho Kitô học của họ, và do đó, để chống lại thần tính của Đức Giêsu. Đã có hai cách giải thích cổ điển: (1) Một nhóm Giáo Phụ (Origiênê, Téctulianô, Athanasiô, Hilariô, Êpiphanê, Grêgôriô Nadien, Gioan Đamát) cho rằng bản văn diễn tả sự phân biệt giữa Chúa Con và Chúa Cha: Con được nhiệm sinh trong khi Cha thì không. Tuy nhiên, cách giải thích này phát xuất từ suy tư tín lý về Kinh Thánh sau này chứ không dựa trên chú giải câu văn. Cho rằng tác giả Ga đã giới thiệu Đức Giêsu nói với các môn đệ về quan hệ nội tại giữa Ba Ngôi là sai niên đại. (2) Một nhóm Giáo Phụ khác (Xyrilô Alêxandria, Ambrôsiô, Âutinh) đã giải thích rằng trong tư cách là con người, Chúa Con Nhập Thể kém hơn Chúa Cha. Lối giải thích này thoạt tiên có vẻ có lý hơn lối giải thích trước, nhưng vẫn nhằm phân biệt các bản tính nơi Đức Giêsu. Và đây là điều không chắc là Ga đã nghĩ tới. Không lẽ Ga lại nghĩ đến một sự phân biệt giữa Đức Giêsu nói như con người và Đức Giêsu nói như Thiên Chúa? Nhất là một cách phân biệt như thế có phù hợp chăng trong Diễn từ cuối cùng, vì ở đây hơn ở bất cứ nơi nào khác, Đức Giêsu, Đấng đang nói, siêu việt lên trên cả thời gian lẫn không gian?
Khi đã bỏ ra ngoài sự can thiệp của khoa tín lý hình thức của thời sau này, chúng ta thấy rất có thể chìa khóa nằm ở 13,16: “Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi”. “Cha quan trọng hơn tôi” nghĩa là quan trọng hơn những gì anh em đã thấy nơi tôi. Đức Giêsu chỉ quan trọng do chỗ Người là Đấng “mạc khải” Chúa Cha. Sự phân biệt được đưa vào không đối lập bản tính nhân loại với bản tính thần linh trong Đức Kitô (theo cách giải thích truyền thống), mà là đối lập “cách giới thiệu bản thân Người trong hình thức nhân loại” (trong phẩm cách Mêsia) với ý nghĩa tròn đầy của bản thân Người trong tư cách là Thiên Chúa, đó là mạc khải Chúa Cha. Vậy vấn đề là nhận biết Chúa Cha nơi Đức Giêsu. Khi các môn đệ đã đạt được tới đó, sẽ không còn vấn đề thấp hơn hay cao hơn, bởi vì Chúa Cha và Người chỉ là một.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Chúa Cha đến (cùng với Đức Giêsu) (23-24)
Đức Giêsu khẳng định rằng người nào yêu mến Người, thì phải “giữ lời” Người, nghĩa là gắn bó với lời loan báo của Người và nhận biết bằng đức tin những gì Người đã yêu cầu (x. 14,15.21.23), và đáp lại bằng trọn cuộc đời dấn thân thực tế và quảng đại. Khi ấy, họ sẽ được đón tiếp Chúa Cha. Đối với Đức Giêsu, bằng chứng cho thấy Người liên kết với Chúa Cha là những việc Người làm (x. 14,10-11). Trong Cựu Ước, dân Israel đi tới chỗ biết Thiên Chúa của họ do họ thấy Ngài che chở kẻ nhỏ bé nhất, yếu đuối nhất, những ngoại kiều, trẻ mồ côi, và các quả phụ. Nếu Đức Giêsu đang làm những việc tương tự, điều đó có nghĩa là Thiên Chúa đang ở trong Người và Người đang ở trong Thiên Chúa.
Không những các môn đệ đầu tiên, mà bất cứ ai tin vào Người và yêu thương Người, liên kết với Người theo cách này (“giữ lời”), thì đều sẵn sàng đón Chúa Cha và Chúa Con khi các Đấng đến; các Đấng sẽ cư ngụ nơi người ấy và sẽ ở lại bền bỉ với người ấy. Người đã liên tục nhắc lại: “Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (16,32; x. 8,29). Điều này đúng cho bất cứ ai yêu thương Đức Giêsu: người ấy không phải cô độc, không bị lạc lõng và bỏ rơi; dù không hữu hình, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên người ấy.
* Chúa Cha sai phái Đấng Bảo Trợ đến giảng dạy (25-26)
Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa là Thánh Thần sẽ đến (x. 14,16-17); Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần theo lời Đức Giêsu thỉnh cầu. Đức Giêsu để lại cho các môn đệ lời của Người, sứ điệp của Người. Đây sẽ mãi là những yếu tố đưa các môn đệ đến với Người. Nhưng các môn đệ sẽ không phải dựa vào sức riêng mà hiểu lời Người: họ sẽ được Chúa Thánh Thần trợ giúp. Sự hỗ trợ hữu hiệu của Thánh Thần sẽ được biểu lộ rõ ràng trong việc dạy cho họ hiểu lời của Đức Giêsu. Thánh Thần sẽ không đưa đến một giáo huấn mới: thật ra toàn thể mạc khải đã được ban nơi Đức Giêsu. Tất cả hoạt động của Thánh Thần sẽ là quy về những gì Đức Giêsu đã nói và giải thích cho các môn đệ. Được Thánh Thần dạy dỗ, các ông sẽ có thể đi theo sát hơn nữa lời của Đức Giêsu và được chuẩn bị đi vào hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con.
* Đức Giêsu ban bình an và ra đi (27-29)
Đức Giêsu không để các môn đệ phải mồ côi (x. 14,18), nghĩa là bỏ rơi các ông, mặc cho các ông sợ hãi, không được hỗ trợ nâng đỡ. Người từ giã và ban sự bình an của Người cho các ông. Người từ giã các môn đệ nhưng ban một sự bình an, một sự đảm bảo và một sự che chở chỉ có thể phát xuất từ Người. Sự bình an này không phải chỉ là một lời nói (một lời chào), cũng không phải là sự bình an mà thế gian ban tặng: một sự bình an giả trá, một sự bình an được đặt trên sự chuyên chế, bạo động và bất công. Sự bình an Đức Giêsu ban chính là ơn cứu độ, là “sự thật”, “ánh sáng”, “sự sống”, “niềm vui”, dựa trên việc loan báo do Người thực hiện, dựa trên sự hiệp thông với Chúa Cha và với Chúa Con và dựa trên sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Sự hiệp thông ấy đưa lại sự an toàn và che chở. Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đe dọa chúng ta và đứng lên chống lại chúng ta?
Khi đi chịu chết, thật ra Đức Giêsu trở về nhà Cha (x. 13,1); như thế Người đã đạt được mục tiêu của hành trình trần thế của Người. Đối với Người, không có niềm vui nào to lớn hơn là sự hiệp thông trọn vẹn với Cha. Điều này hẳn cũng phải có giá trị cho các môn đệ Người. Sự thông hiệp với Cha và với Con, một sự hiệp thông được ban cho họ ngay từ bây giờ, là nền tảng cho sự bình an của họ. Sự hiệp thông trọn vẹn của Con với Cha, vì là mục tiêu Đức Giêsu đã đạt, là nền tảng chắc chắn nhất cho niềm vui của họ.
+ Kết luận
Mọi sự tùy thuộc vào việc nhìn các sự việc một cách đúng đắn. Nhìn từ bên ngoài, cái chết của Đức Giêsu dường như là tai họa và sự đổ vỡ tan tành thành mây khói. Nhưng ai tuân giữ lời của Người, thì đã không mất sự an toàn do cái chết của Người, mà lại còn được củng cố trong niềm tin vào Người và trong niềm vui vì chiến thắng của Người. Đức Giêsu làm cho chúng ta tất cả những điều này xuyên qua hoạt động của Thánh Thần: chính Thánh Thần sẽ dẫn dắt chúng ta, dạy bảo và nhắc chúng ta nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói.
5.- Gợi ý suy niệm
Sự hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cất đi mọi mối bận tâm, sợ hãi và lo lắng bất an, nhất là khi ta sống sự hiệp thông ấy trong đức tin. Bởi vì chỉ Đức Giêsu mới giúp chúng ta đi vào hiệp thông với Chúa Cha, thì cũng chỉ Người mới có thể ban cho chúng ta sự bình an này. Người tín hữu phải luôn luôn biết rằng, ngay cả khi họ bị cái chết dằn vặt, Đức Giêsu và Chúa Cha vẫn ở bên họ, chứ không bao giờ bỏ rơi họ trong tình cảnh khốn quẫn. Sự hiệp thông với Đức Giêsu và với Chúa Cha không chỉ bắt đầu khi chúng ta được tiếp đón vào nhà Cha (14,2-3), nhưng là một thực tại đã có bây giờ và sẽ hoàn tất với cuộc hưởng kiến vinh quang.
Ngược với việc tuân giữ những luật lệ chi li cách tỉ mỉ và máy móc, không quan hệ gì với con tim của người tín hữu, Đức Giêsu đặt các tương quan của Người với các môn đệ trên nền tảng là các dây liên kết riêng tư trong tình yêu. Muốn thấy Đức Giêsu, muốn sống nhờ Người và với Người, người tín hữu phải “giữ các lời Người” (c. 24). Sự sống này, như Đức Giêsu xác định, lại chính là sự sống của Người và cũng là sự sống mà Người nhận từ Chúa Cha, nhưng cũng có chung với Chúa Cha.
Các Kitô hữu hôm nay cũng phải vui mừng cho chính mình: sự kiện Đức Giêsu đã đạt tới mục tiêu là đảm bảo cho họ là họ cũng sẽ đạt tới đó, Người sẽ đón họ vào trong cuộc sống vinh phúc của Người.
Cái chết của Đức Giêsu rất có thể có vẻ là chiến thắng của ông hoàng của thế gian này và của các quyền lực bóng tối, là sự khải hoàn của các đối thủ của Người. Nhưng Đức Giêsu không hề bị áp đảo bởi một quyền lực bên ngoài, chống lại ý muốn của Người. Người đã tự ý nhận lấy cái chết của Người, bởi vì Cha đã định đoạt như thế cho Người. Cái chết của Người là một dấu chỉ về tình yêu của Người đối với Cha.
——————————————–
[1] M. Zerwick, Biblical Greek *313.Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người “ra đi”: đó là di chúc tinh thần của Ngài.
Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói
Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự… như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.
Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết những gì’ cần phải diễn tả… lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau thương như thế.
Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm… chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài… để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ “không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết tình kết nghĩa.
Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.
Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai phó từ: giờ đây… sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của “các vật chưa hoàn tất”), và những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương lai! “Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau này.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.
Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp bước sâu vào “nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của “kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính “Đấng chịu đóng đinh” đã được tôn vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? “Không có tình yêu nào lớn hơn” (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.
Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?
Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.
Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi
Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của Thầy…”
Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại, cụ thể… nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.
Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: “Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta” (1 Ga 4,12).
Vâng, tình yêu đích thực là một “sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ”. Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31-46).
Nếu thực là thế! Nếu thực là “Thiên Chúa đã chết”, thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết”. Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi “tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, “tình yêu bản thân” hay “tình yêu kẻ khác”? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: “Tôi thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó… nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:
-Éros: Yêu mình… đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến huỷ hoại họ.
-Agapé: Yêu tha nhân… đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.
Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Chỉ một từ “như” đơn giản… nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.
Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là “hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương” (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.
Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: “Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa”. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.
Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự “khác biệt” của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, “kẻ khác” đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!
Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.
Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau
Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới”.
Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: “Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: “Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu…”.
Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là “thể thức” thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng “Thời gian cuối cùng”, mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân ” và trao ban “giới răn mới quan trọng” như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn”. Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra”. Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: “Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện” có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau”.
Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà “mọi người” có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh Thể sẽ “dẫn” chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục vụ”.
68. Suy niệm của nhóm Nha Trang
“Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.
BÀI TIN MỪNG
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn được trích trong bài Từ Biệt của Chúa Giêsu, nói về việc Chúa Giêsu ban cho các môn đệ giới luật mới, luật yêu thương nhau.
SUY NIỆM:
“Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc”:
Có lẽ Giuđa ra khỏi phòng tiệc sau lúc rửa chân và trước lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chính lúc này Chúa Giêsu mới có thể nói một cách cởi mở về số phận của Người và đồng thời trăn trối những điều quan trọng cho các môn đệ.
“Bây giờ Con Người được vinh hiển”:
“Bây giờ” diễn tả ý nghĩa vào chính lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Chính hành vi Giuđa bước ra khỏi phòng tiệc là cử chỉ nói lên việc Giuđa quyết định phản nộp Thầy mình, chính lúc đó Chúa Giêsu coi như là khởi sự cuộc khổ nạn của Người.
“Con người được vinh hiển”: Chúa Giêsu coi việc Người chịu chết trên Thánh Giá như một chiến thắng: chiến thắng Satan. Và vì vậy Người cho biết Người sẽ bước lên Thập giá trong tư thế một kẻ chinh phục (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Và như vậy, cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một sự chuẩn bị, “Bây giờ” mới là lúc bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.
“Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:
Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách “Vâng lời cho đến chết và chết trên cây Thập giá” (Ga 4,34; 17,4).
“Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:
Nếu Chúa Giêsu làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cái chết của Người trên Thập giá, thì đáp lại, Chúa Cha sẽ ban cho Người vinh hiển sau khi Người chịu nạn chịu chết, bằng cách cho bản tính loài người chịu đau khổ của Người được thông phần vinh quang rực rỡ bản tính của Thiên Chúa.
“Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con …”:
Vì sắp phải lìa xa các môn đệ, nên Chúa Giêsu đã tỏ ra cho các ông biết cuộc biệt ly tạm thời này bằng những lời lẽ rất thân thiết.
Kiểu nói “các con yêu quý” diễn tả một tâm tình thắm thiết đầy tình thương yêu của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Người.
“Thầy ban cho các con điều răn mới …”:
Đây là ý muốn của Chúa Giêsu tỏ bày cho các môn đệ trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu nói những lời này trong tư thế của một sư phụ nói lời trăn trối trước khi ra đi (Mt 24, 45-51) và trong tư thế một Người Cha hằng lo lắng bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp từ giã. Nếu các môn đệ thực hiện thì luật yêu thương này sẽ đền bù cho các ông sự mất mát không còn được thấy Thầy cách khả giác nữa và làm cho các ông xứng đáng gặp lại Người.
“Điều răn mới”: Chúa Giêsu muốn so sánh với luật tự nhiên mà Môisen đã thừa nhận khi dạy phải yêu thương tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân theo luật này có tính cách tiêu cực vì chỉ nhằm tránh những gì có thể gây ra thù oán hoặc nếu có hành động tích cực thì lại mang tính cách vụ lợi: làm cho tha nhân những điều mình muốn thôi. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần sửa lại luật này cho hoàn hảo hơn: “Xưa … nhưng nay Ta bảo …” (Mt 7,12; 19,9; 22,39-40).
“Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”:
Với luật mới này, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi hỏi của tình bác ái huynh đệ: yêu tha nhân như chính mình chưa đủ, người môn đệ cần phải yêu thương tha nhân như chính Đức Kitô đã thương yêu họ, mà tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng ta là ân cần, tận tâm, vô vị lợi (Ga 13,13-16; 15,16-19; Rm 15,13). Người đã hiến thân mình cho nhân loại đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính điều này mà Ta nhận ra được lòng yêu mến: Là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng mình vì chúng ta, nên ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1 Ga 3,16).
“Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy”:
Bác ái của người môn đệ Chúa Giêsu theo luật mới này phải có tính cách cụ thể, rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ của Chúa Giêsu ngay cả đối với những người chưa biết gì về Ki-tô Giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 20,21).
Luật yêu tha nhân theo kiểu Chúa Giêsu đã yêu nhân loại là luật riêng của Chúa, nên cứ dấu đó mà người ta nhận ra môn đệ chân chính của Người. Và như vậy, tình yêu tha nhân được truyền dạy chỉ có thể được thực hiện giữa những người tin vào Chúa Giêsu Ki-tô. Đó là tính cách mới mẻ của luật mới này.
III. ÁP DỤNG:
Ap dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta về luật yêu thương nhau và đồng thời và đồng thời cũng gây cho chúng ta ý thức về bổn phận phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng với danh nghĩa người Ki-tô hữu, môn đệ của Chúa Kitô.
Áp dụng thực hành:
Nghe lời Chúa phán:
1/ Bây giờ con Người được vinh hiển: Chúa Giêsu được vinh hiển nhờ chiến thắng Satan bằng Thập Giá qua những hy sinh, hãm mình và chết đi cho tội lỗi trong đời sống hằng ngày.
2/ Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người: Chúa Giêsu làm vinh danh Thiên Chúa Cha bằng sự vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Chúa muốn mời gọi chúng ta noi theo người làm vinh danh Thiên Chúa bằng cách vâng theo ý Chúa trong mọi việc mình làm, tức là làm mọi việc và chịu đựng mọi sự vì lòng mến Chúa.
3/ Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình.
càng làm vinh danh Chúa, càng được công phúc trước mặt Chúa và càng được hy vọng vinh hiển với Chúa trong Nước-Trời.
4/ “thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”. Mỗi lần chúng ta đọc lời này là mỗi lần Chúa nhắc chúng ta nhớ lại luật yêu thương nhau, nhưng sự yêu thương của chúng ta vẫn còn tính cách ích kỷ vì chỉ yêu theo sở thích và được mối lợi cho riêng mình. vì thế Chúa bảo ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, một tình yêu hướng tha và vô vị lợi.
Cần chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời Chúa Cứu Thế để khám phá ra cách thể Chúa yêu thương chúng ta và nhờ đó chúng ta biết yêu thương nhau cũng theo cách thể như vậy.
5/ Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau. Muốn nhập đoàn quân nào phải đeo phù hiệu binh chủng đó. gia nhập đoàn quân của Chúa Kitô thì phải đeo phù hiệu của Chúa. phù hiệu của Chúa Kitô là yêu thương nhau.
Đồng phục của người Ki-tô hữu là bác ái.
69. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
“ĐIỀU RĂN MỚI” (Ga 13,31-33a.34-35)
Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa Giêsu nói: “Bây giờ con người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Thốt lên những lời tuyên bố buồn bã về một người trong nhóm 12 sẽ phản bội, câu nói ấy, đối với các tông đồ, vang lên như một bài ca khải hoàn. “Bây giờ” là lúc cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và satan, mà Giuda là dụng cụ (x.13,37), vừa thực sự bùng nổ qua việc tên phản bội quyết tâm ra đi thi hành dự tính của mình; “bây giờ” là lúc Chúa Giêsu đối diện với “giờ” của Ngài, Giờ mà vì đó Ngài đã đến trong thế gian và không ai có quyền cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn (7,30; 8,20; 12, 23-27; 13,1; Dt 10,3-7; Lc 13,3-33). Cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một chuẩn bị, “bây giờ” mới bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.
Nghĩ đến ơn cứu rỗi loài người và vinh quang Cha Ngài (3,15.17; 8,49-50; 10,10; 12,47), tâm hồn Chúa Giêsu cảm thấy hài lòng đến nỗi – coi cuộc khổ nạn như một thoáng qua và Thập giá như chiếc ngai vàng. Ngài đã nhiều lần chơi chữ khi dùng từ ngữ: giương cao” (exalter, hupsoun) vừa có ý nghĩa “nâng lên” (élever) và “tôn vinh” (glorifier), để cho thấy Ngài sẽ bước lên thập giá chúng ta tư thế một kẻ chinh phục (3,14; 8,28; 12,32-34; 12,23.24). Ngài thâm tín sẽ tìm thấy sự sống trong cái chết và vinh quang trong ô nhục đến nỗi nói về sự vinh hiển của Ngài như là một điều gì đã hoàn tất: “Con người sẽ được tôn vinh ”. Thì quá khứ này, để diễn tả một việc sẽ xảy ra, có thể giải thích dễ dàng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của Đức Kitô vào hiệu quả chương trình của Chúa Cha hơn là nhờ các hậu kết bất khả kháng gây ra do việc Giuda phản bội.
Có lẽ đừng nghĩ đến các chứng tá Chúa Cha đã ban cho Con Ngài thì đặt trong viễn cảnh đó thì câu nói đến việc Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách chu toàn bổn phận khi còn sống (4,34; 17,4), bằng việc mạc khải Chúa Cha (17,6) và vinh quang của Người (2,11; 11,4.40; 17,4), qua lời nói (1,18; 3,32-34; 5,24.38.47; 6,45.63; 7,16; 8,38.40-47.55…) và hành động (3,21; 5,19-20.30.36; 8,28; 9,3.4; 10,25.32.37.38; 14,10-11; 15,24). Nhưng chữ “bây giờ” bắt đầu câu 31 cho thấy một cái gì mới mẻ vừa khởi phát với việc Giuda bội phản: cuộc khổ nạn – phục sinh của Chúa Giêsu được xem như sự tôn vinh tuyệt hảo nhất, và sự tôn vinh tột bực này một cách nào đó đã được chiêm ngắm trong ý nghĩa thần học của nó. Như thể đã được thực hiện trong mầm mống qua việc phản bội của Giuda. Để xác quyết điều này, chỉ cần nhớ lại chứng tá Chúa Cha vài ngày trước đó: “Ta đã tôn vinh danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh danh Ta nữa” (12,28). Trong trường hợp này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh; hiển nhiên đây là lời tiên báo trực tiếp vào cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu và vinh quang Ngài sắp lãnh nhận (12,23-25).
Chính Chúa Giêsu ở đây đã có ý tự xưng là “Con Người”. Mặc dù vẫn có nghĩa thiên sai như trong các phúc âm tước hiệu này dưới ngòi bút của Gioan, mang một ý nghĩa chính xác hơn. Trong mười đoản văn mà chúng ta gặp nó luôn luôn trên miệng Đức Kitô, tước hiệu “Con Người” đã ám chỉ đến vinh quang đang chờ đợi Ngôi lời nhập thể, để đáp lại việc Ngài hạ cố làm thân phận con người, dù là con người tuyệt hảo hơn hết. Và trong 4 lần, tước hiệu này trực tiếp ám chỉ đến sự vinh hiển nhờ thập giá (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,54.63; 8,28; 12,23; 13,31).
Nếu Đức Kitô đã được tôn vinh, chính là vì “Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Mọi việc con người phụng sự Thiên Chúa sẽ trở lại với con người dưới dạng thức vinh quang. Đó là luật, luật này trước tiên liên hệ đến Đức Kitô, và vì thế “Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Ngài (Đức Kitô) trong chính mình Người (Thiên Chúa)”. Nghĩa là gì? Nghĩa là Ngài sẽ ban vinh quang thuộc về Ngài, khi đón nhận Ngài “trong chính Người”. Con Người sẽ được thông phần vào các đặc quyền của sự sống thần linh, các đặc quyền mà Ngài sẽ nhắc tới trong lời nguyện: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha trước khi có thế gian” (17,4-5). Ở đây có sự đối chiếu giữa tình trạng của Đức Kitô lúc còn ở “dưới đất” và tình trạng “trên trời” mà Ngài xin cho được. Từ đó ta hiểu tại sao nói “Con Người” và “Thiên Chúa” thay vì nói Con và Cha. Đúng ra Chúa Con đã bao giờ mất vinh quang đã có ở Chúa Cha ngay trước khi tạo dựng vũ trụ; nhưng nhờ sự vinh hiển mà Đức Kitô đạt được cho nhân tính mình, Thiên Chúa đã nâng con người lên chính Ngai của Thiên Chúa. Chính đấy là nơi mà từ nay các tín hữu đầy lòng tin và đạo đức sẽ tìm đến gặp Ngài. Chính từ đó mà Ngài đã mạc khải cho vị tử đạo tiên khởi của Ngài. Vị này nói khi chết: “Tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,56).
Khi loan báo “Thiên Chúa sắp tôn vinh Ngài”, Chúa Giêsu ám chỉ đến chứng tá hùng hồn Chúa Cha ban cho Ngài khi cho Ngài phục sinh từ cõi chết. Ngoài ra, việc phục sinh này đối với Ngài chỉ là bước đầu tiên trong cuộc sống hiển vinh mà cuộc khổ nạn sắp đưa Ngài vào.
Trước khi từ giã các môn đệ, Đức Kitô đã cho họ biết ý muốn tối thượng của Ngài: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (c.34). Ngài nói trong tư thế một sư phụ trăn trối những lời cuối cùng trước khi ra đi (x.Mt 24,45.51), và trong tư thế một người cha hằng lo bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp giã từ. Nếu được chấp hành tốt, điều răn này sẽ đền bù cho các môn đệ, trong mức độ có thể, sự mất mát không còn thấy Thầy cách khả giác, và sẽ làm họ xứng đáng gặp lại Ngài. Giới luật bác ái huynh đệ mà ở đây Chúa Giêsu gọi là giới luật “mới” ít lúc nữa sẽ được Ngài gọi là “giới luật của Ngài” (15,12).
Chính nhờ giới luật mới, nên Đức Kitô mới có thể tuyên bố là của Ngài. Luật tự nhiên dạy đừng làm cho ai điều ta không muốn họ làm cho mình. Luật Môisen đã thừa nhận khoản luật tự nhiên đó, khi dạy phải yêu tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng đối với ai người Do thái, tha nhân là anh em, đồng bào, bạn hữu mà họ cần phải sống an hoà với, không thì sẽ bất an khi cùng đi đường. Luật trực tiếp liên hệ đến người Do thái, nhưng không gạt bỏ ngoại kiều (Mt 5,43. Trong các điều kiện trên, tình yêu tha nhân có tính cách tiêu cực nhiều: tránh tất cả những gì có thể gây thù oán, báo phục. Nếu tình yêu được thể hiện cách tích cực bằng hành động, thì cũng không kém vụ lợi; tựu trung, qui tắc là yêu chính bản thân mình. Chính giáo sĩ Hiller, nhà luân lý Do thái nhân bản nhất đã hiểu như thế: “Điều chi ngươi ghét, ngươi chớ làm cho tha nhân. Chính đó là tất cả lề luật, các điều khác chỉ là lời chú giải” (Chabbath, f.31).
Để xác quyết, Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc lại luật căn bản của mọi tương giao xã hội (Mt 7,12; 19,19; 22,39-40), nhưng Ngài đã vượt qua luật đó, hay ít ra, đã đưa nó về lại nội dung ban đầu, khi tố giác lối chú giải hẹp hòi và cứng nhắc mà các thày ký lục đã đề ra (Mt 5,43). Không phải chỉ yêu thương bạn hữu, mà còn phải muốn điều lành cho mọi người, kể cả kẻ thù mình; bằng không, không phải là Kitô hữu (Mt 5,46-48).
Với “giới luật mới”, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi buộc của tình bác ái huynh đệ; yêu tha nhân như chính mình chưa đủ người kitô hữu phải yêu tha nhân như Đức Kitô đã yêu họ (c.34). Mà tình yêu Đức Kitô đối với chúng ta là ân cần, vô vụ lợi, tận tâm (Ga 13,13-16; 15,16.19; Rm 15,13). Ngài đã hiến mình cho loài người đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính do điều này mà ta nhận ra được lòng yêu mến: là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng vì chúng ta; nên ta cũng thí mạng vì anh em mình” (1Ga 3,16).
Giao ước mới đã được đóng ấn với máu của tác giả giao ước (1Co 11,25). Điều trong trình thuật rửa chân trước đó được giới thiệu như một việc “phục vụ”, ở đây được gọi là “tình yêu”; nhưng tựu trung chỉ có một vấn đề: hiến thân hoàn toàn, không hạn chế. Tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu thần linh, không chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài yêu chúng ta như là tạo vật và Con Thiên Chúa (Ga 17,6.9.10); nhưng còn vì Ngài mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài: “Như Cha yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi” (Ga 15,9). Nói tóm lại có nghĩa là: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã yêu thương các ngươi, cho đến hy sinh mạng sống; hãy yêu thương nhau như chính Thiên Chúa đã yêu Ta”.
Một khi được hiểu và thực hành như vậy, tình bác ái huynh đệ phải tạo ra giữa loài người mối hiệp nhất theo gương Thiên Chúa: “Để hết thảy chúng được nên một, cũng như, Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Mà Đấng cầu nguyện như thế cũng đã nói: “Cha và Ta là một” (10,30).
Ngoài ra, Đức Kitô của Thánh Gioan ở đây không dạy điều gì khác các điều chúng ta đã học trong các phúc âm nhất lãm. Bài diễn từ trên núi tóm tắt toàn bộ lý tưởng Kitô hữu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Đoạn này cũng nói yêu kẻ thù là dấu chỉ phân biệt người Kitô hữu (Mt 5,46-48). Để yêu người như Chúa Giêsu muốn, phải yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì thế vị tôn sư đã đặt tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân một cách nào đó ngang hàng với nhau (Mt 22,39). Gioan và Phaolô, hai môn đệ Ngài, đã nhất trí dạy rằng: người yêu tha nhân là giữ trọn lề luật (1Ga 2,7-11; 3,10-11.14-16; Rm 13,9-10).
“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra là các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (c.35). Bác ái giữa người Kitô hữu với nhau phải hiện thực và rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ Chúa Giêsu, ngay cả đến những người không biết gì về Kitô giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 4,02-21). Tình yêu được truyền dạy ở đây chỉ có thể được hiện hữu giữa những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Một lần nữa, giới luật là giới luật “mới”.
Lịch sử Giáo hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo nhất về câu nói đó. Luật bác ái đã được hiểu rất sớm và đã phát sinh ra nhiều hoa quả xây dựng mà Chúa mong chờ. Tác giả sách công vụ đã nói lên đặc điểm của nhóm Kitô hữu đầu tiên: “Các kẻ tin hết thảy đều coi mọi sự như của chung” (Cv 2,44). Theo chứng từ của Tertullien, người ta đã nói về họ: “Hãy xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào” (Apolog.39; Pl 1,53a). Sau này, những người ở ngoài sẽ gọi họ là Kitô hữu, còn họ vẫn gọi nhau là “anh em” (Cv 11,26.29). Họ ý thức việc họ được bác ái liên kết, đến nỗi đã dùng chữ “Agapê” (tình yêu) để đặt tên cho bữa ăn chung, được đó họ ăn và uống Mình, Máu Chúa (Giuda 12; Ignatiô, thơ gởi tín hữu Rm 7).
KẾT LUẬN
Trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã ban luật sống mới cho môn đệ mình. Đây là một luật mới vì đặt cơ sở trên một biến cố mới, bất ngờ và điên đảo: cái chết của Chúa, và vì trong cộng đoàn nhân loại không có chi tương tự như thế. Do đó, luật sống này là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ vừa thành lập: “chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đệ Ta”. Và các chứng tá trong Giáo hội sơ khai chứng nhận rằng luật tình yêu này, thực sự đã được chấp hành tốt.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Sau khi Giuda ra đi, Chúa Giêsu liền công bố, như thể cuộc ra đi của Giuda là dấu hiệu của một điều gì quan trọng: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Hãy biết rằng, trong thánh kinh, vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của một người nào đó không cùng ngôn ngữ như trong ngôn ngữ chúng ta. Trong ngôn ngữ chúng ta, vinh quang có nghĩa: nổi danh, đắc nhân tâm và được tiếng tốt. Trong Thánh kinh, vinh quang chỉ phẩm cách, thế lực, ảnh hưởng hiện diện và quyền năng của nhân vật. Với ý nghĩ đó, vinh quang cao cả, cơ sở của mọi vinh quang khác, chỉ thuộc về Thiên Chúa, Đấng thông ban vinh quang như ý Ngài muốn. Trong mức độ thực hiện chương trình Thiên Chúa, mỗi người nhận được giá trị và thế lực, và lớn lên trong vinh quang.
Việc tìm hiểu các tự nguyện đó giúp chúng ta quán triệt ý nghĩa các lời nói của Đức Kitô. Chúa Giêsu đã được tôn vinh. Ngài chấp nhận điều Giuda phải làm. Từ đó, Ngài được vinh hiển, vì hoàn toàn chấp nhận cuộc Vượt qua bằng cái chết. Việc Ngài vâng phục thánh ý Chúa Cha làm cho Ngài được “vinh quang” và nói lên việc Người nhiệt tâm yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời khi minh chứng mức độ tình yêu Ngài đối với loài người bằng việc trao ban Chúa Con, Chúa Cha cũng “đã được tôn vinh” trong con người Chúa Giêsu.
Việc phúc âm và phụng vụ nhấn mạnh đến tính cách mới mẻ của luật bác ái huynh đệ đòi buộc chúng ta xét mình xem chúng ta thực thi Luật đó đến mức nào và bằng cách nào. Nó giả thiết đức ái này tiếp nối tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta (“như thày đã yêu mến các con”) và tiếp nối tình yêu chúng ta đối với Chúa Giêsu (vì chính trong điều đó mà người ta nhận ra các con là môn đệ Thày…). Lòng thương cảm tự nhiên khác xa tình yêu anh em siêu nhiên mà chúng ta phải có. Yêu thương họ vì họ (trong môi trường và điều kiện sống họ đang sống) không ngăn cản việc yêu thương họ trong Thiên Chúa và trong Đức Kitô. Và ngược lại, yêu thương họ như thế không giảm bớt lòng kính trọng và tình cảm tự nhiên. Yêu cách siêu nhiên không có nghĩa là yêu cách nhạt nhẽo, hững hờ, “để được Chúa thưởng”. Nhưng là yêu người khác hết lòng, không phải vì họ dễ thương, xinh đẹp, tốt lành… nhưng là vì họ là chi thể quí giá của Chúa Giêsu, là công dân Gierusalem thiên quốc. Vì các đặc điểm trên có giá trị cho mọi người, nên phải yêu mọi người với tình yêu siêu nhiên.
Trong thế giới ích kỷ, bạo tàn, ham mê tiền bạc, bóc lột nghèo, người Kitô hữu phải làm sáng rực như ánh lửa, tình yêu họ đối với tha nhân, niềm cảm thông với người cùng khổ, lòng dịu và tha thứ cho kẻ nghịch thù. Nếu làm như vậy, Kitô hữu sẽ nổi bật lên giữa bao người khác. Một khi cảm nghiệm cách cụ thể tình yêu đó, thiên hạ sẽ nhận ra người Kitô hữu là môn đệ đích thật của Đức Kitô, sức nóng của tình yêu, họ sẽ được đưa dẫn về với Đức Kitô. Chỉ tình yêu mới có thể xây dựng đô thành huynh đệ loài người hằng mơ ước.