1. Chính Thống Giáo Nga đang gấp rút chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ giữa Đức Thánh Cha và Thượng Phụ Kirill

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô của Rôma đang nói về chủ đề Ukraine theo một cách rất cân bằng bởi vì ngài nhận thức được không chỉ lịch sử hiện tại của cuộc xung đột mà còn cả tiền sử của nó, trở lại với các sự kiện vào năm 2014”, Tổng Giám Mục Hilarion của Volokolamsk đã đưa ra lập trường trên trong chương trình Giáo hội và Thế giới.

Tổng Giám Mục Hilarion, chủ tịch Ủy ban Đối Ngoại Thánh Công Đồng Mạc Tư Khoa, cho biết ông đang trực tiếp tham gia vào việc chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra giữa Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng phụ Kirill vào năm 2022, nhưng ngày và địa điểm chính xác của cuộc gặp vẫn đang được tìm hiểu.

“Trong tình hình chính trị phức tạp hiện nay, cần phải xem xét rất kỹ lưỡng không chỉ các vấn đề liên quan đến phần quan trọng của cuộc họp giữa Đức Giáo Hoàng và Đức Thượng phụ, mà còn các vấn đề liên quan đến an ninh, giao thông và hậu cần”, Tổng Giám Mục Hilarion giải thích.

Ban đầu, cuộc gặp giữa những người đứng đầu Giáo Hội Chính thống Nga và Giáo Hội Công Giáo Rôma đã được lên kế hoạch diễn ra ở nơi các tín hữu Kitô cần được hỗ trợ. Do đó, Trung Đông được coi là một trong những địa điểm ưu tiên cho cuộc họp này, Tổng Giám Mục Hilarion nói.

Nhiều quan sát viên cho rằng Đức Thánh Cha Phanxicô không nên gặp gỡ Thượng Phụ Kirill. Sau khi Nga xâm lược Ukraine, Đức Thánh Cha Phanxicô đã có cuộc gặp gỡ trực tuyến với Thượng Phụ Kirill trong cố gắng thuyết phục Thượng Phụ Kirill khuyên Putin nên rút quân khỏi Ukraine. Ông ta đã làm ngược lại khi cung cấp vỏ bọc thần học cho cuộc xâm lược Ukraine của Putin.

Thật vậy, trong một hành động báng bổ không thể tưởng tượng nổi, hôm 13 tháng Ba, Thượng Phụ Kirill đã trao ảnh Đức Mẹ cho tướng Nga và cầu xin Đức Mẹ cho quân Nga mau thắng.

Gần đây, tại Nhà thờ Chính của Lực lượng Vũ trang được trang hoàng lộng lẫy được khai trương cách đây hai năm ở Kubinka, ngoại ô Mạc Tư Khoa, Thượng phụ Kirill nói với một nhóm quân nhân và nữ quân nhân rằng Nga là một quốc gia “yêu chuộng hòa bình” và đã phải hứng chịu nhiều thiệt hại do chiến tranh.

“Chúng tôi tuyệt đối không gây chiến hay làm bất cứ điều gì có thể gây tổn hại cho người khác”, Thượng Phụ Kirill, một đồng minh thân cận của Tổng thống Vladimir Putin nói.

“Nhưng chúng ta đã được nuôi dưỡng trong suốt lịch sử của mình để yêu quê hương đất nước. Và chúng ta sẽ sẵn sàng bảo vệ nó, vì chỉ có người Nga mới có thể bảo vệ đất nước của mình”.

Sự ủng hộ của ông đối với cuộc can thiệp quân sự, trong đó hàng nghìn binh sĩ và dân thường Ukraine đã thiệt mạng, đã khiến một số người trong Giáo Hội Chính thống giáo trong nước cũng như các nhà thờ ở nước ngoài có liên hệ với Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa tức giận.

Lời tuyên bố của Thượng Phụ Kirill cho rằng Nga là quốc gia “yêu chuộng hòa bình” diễn ra trong bối cảnh thế giới bàng hoàng trước vụ thảm sát kinh hoàng ở thị trấn Bucha do quân Nga gây ra. Xác người nằm la liệt trên đường phố, tay bị trói giật ra sau và họ bị bắn đằng sau ót. Ít nhất 410 thi thể đã được tìm thấy. Nhiều người bị xô xuống hố chôn tập thể. Nhiều phụ nữ chết trần truồng chứng tỏ họ đã bị hiếp dâm trước khi bị giết chết.


Source:Russian Orthodox

2. Những ngộ nhận đối với lập trường của Đức Thánh Cha về chiến tranh tại Ukraine

Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục lên án sự tàn ác của chiến tranh ở mọi nơi, và cổ võ sự đối thoại, tha thứ, hòa giải và đạt đến một nền hòa bình đích thực, đặc biệt giữa hai dân tộc Nga và Ukraine, mặc dù lập trường của ngài gặp sự chống đối của nhiều người, kể cả một số trong hàng ngũ Công Giáo.

Trước và sau khi chiến tranh Ukraine bùng nổ với cuộc tấn công của Nga vào lãnh thổ Ukraine từ ngày 24 tháng 2, Đức Thánh Cha đã nhiều lần lên tiếng, chưa có cuộc chiến nào từ trước đến nay ngài lên tiếng nhiều như vậy.

Vấn đề không nêu đích danh Putin và Nga

Những lần lên án của Đức Thánh Cha đối với chiến tranh tại Ukraine ban đầu còn nhẹ nhàng, nhưng với thời gian, sự lên án này ngày càng mạnh mẽ. Ngài phê bình “những kẻ gây nên chiến tranh”, lên án sự vi phạm công pháp quốc tế, tố giác sự đàn áp dân chúng bằng bom đạn và sợ hãi, và gọi Ukraine là một “nước tử đạo”. Ngài bác bỏ việc sử dụng kiểu nói mà Nga sử dụng, là “cuộc hành quân đặc biệt” để chỉ cuộc xâm lăng Ukraine, và gọi đích danh đó là chiến tranh. Đức Thánh Cha nói: “Tại Ukraine, máu và nước mắt chảy thành sông”. Đó không phải chỉ là “cuộc hành quân”, nhưng là một cuộc chiến tranh gieo rắc chết chóc, tàn phá và lầm than.

Nhưng lập trường với ngôn ngữ “ngoại giao” như thế bị một số báo chí mạnh mẽ phê bình. Họ muốn Đức Thánh Cha tố giác và đích danh lên án Nga và Putin. Một bài xã luận của trang mạng Sismografo viết: “Sự ngoan cố không thể hiểu nổi như thế của Đức Giáo Hoàng không phải là điều tốt. Các quyền của con người, của các dân tộc, quốc gia, bị lâm nguy ở đây… Đức Giáo Hoàng cần phải công khai nêu đích danh tổng thống Nga Vladimir Putin như một kẻ gây hấn, tấn công, và kêu gọi cả Thượng Phụ Kirill, Giáo Chủ Chính thống Nga, là người ủng hộ chính sách của Putin, hãy thay đổi lập trường sai trái ấy”.

Trên các mạng xã hội, nhiều người tung tin giả rằng Putin có tài khoản kếch xù trong ngân hàng Vatican vì thế, Đức Thánh Cha không dám nói động đến Putin và nước Nga.

Nhưng cũng có nhiều người bênh vực lập trường của Đức Thánh Cha Phanxicô và ngành ngoại giao của Tòa Thánh trong vấn đề này.

Đức Tổng Giám Mục Claudio Gugerotti, Sứ thần Tòa Thánh tại London, từng là Sứ thần tại Belarus và Ukraine, giải thích rằng “trong việc trung gian, chúng ta cần rất thẳng thắn và loại bỏ những tội lỗi của con người. Chiến tranh ở Ukraine là điều kinh khủng và tuyệt đối không thể chấp nhận được. Nhưng đồng thời vai trò của Giáo Hội cũng là một “nhịp cầu tình thương và tôn trọng”, luôn tránh rơi vào những lời hùng biện. “Mục đích của Tòa Thánh luôn luôn là một khả thể cuối cùng khi mọi khả thể khác đã chấm dứt. Nếu bạn nói một lời loại bỏ thì khả thể ấy không còn nữa. Đức Giáo Hoàng và ngành ngoại giao Tòa Thánh luôn chứng tỏ rằng dù điều gì xảy ra đi nữa, các vị luôn tôn trọng mọi đối tác như một con người. Đó là điều kiện tiên quyết để có thể có một vai trò trong cuộc làm trung gian. Nếu phía thứ ba tuyệt đối loại bỏ một phía kia, coi họ là quái vật, thì người ấy không chấp nhận tham gia cuộc thương thảo vì cảm thấy không được chấp nhận.”

Victor Gaetan, tác giả cuốn sách “Những nhà ngoại giao của Thiên Chúa” (God’s Diplomats) xuất bản năm ngoái (2021) về ngành ngoại giao Tòa Thánh, viết rằng “Bạn luôn luôn phải dành chỗ cho cuộc nói chuyện kế tiếp, cuộc đối thoại sau này”. Và Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng “Tòa Thánh sẵn sàng làm tất cả những gì có thể để phục vụ hòa bình”.

Vụ hai phụ nữ Nga và Ukraine cùng vác Thánh Giá

Gần đây nhất là những phản đối và phê bình mạnh mẽ việc Đức Thánh Cha chấp thuận cho hai nữ y tá Ukraine và Nga, bạn với nhau ở Roma, được mời cùng vác Thánh Giá trong chặng thứ 13 của Đàng Thánh Giá trọng thể ngài cử hành tại Hí trường Colosseo ở Roma vào tối Thứ Sáu Tuần Thánh 15/4. Đó là Irina người Ukraine, xuất thân từ thành Bucha gần Kiev, và Albnina, người Nga từ thủ đô Mạc Tư Khoa.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho Đài Vatican, Albina nói: “Tôi cầu nguyện cho Ukraine. Tôi cầu nguyện cho thân nhân họ hàng tôi và cầu cho những kinh hoàng này sớm chấm dứt. Thế giới đang cần hòa bình và tình thương. Hai dân tộc anh em này sẽ chứng tỏ điều đó.”

Còn Irina nói: “Cuộc chiến tranh hiện nay đang tàn phá điều mà các dân tộc chúng tôi đã xây dựng với bao nhiêu hy sinh. Chị bạn tôi đây người Nga cảm thấy có lỗi và xin lỗi tôi, nhưng tôi trấn an chị ấy rằng chị không có lỗi gì cả trong những vụ này”.

Phản ứng chống đối

Đại sứ Ukraine cạnh Tòa Thánh, ông Andrij Jurasz, phản đối Tòa Thánh và nói rằng: không nên tổ chức kinh nguyện như thế như một phương thế hòa giải, hòa giải phải diễn ra sau đó: “Sự hòa giải đến sau, khi sự gây hấn tấn công chấm dứt. Khi người Ukraine không những có thể cứu mạng sống của mình nhưng cả tự do nữa. Và dĩ nhiên, chúng ta biết rằng hòa giải diễn ra khi những kẻ tấn công nhìn nhận tội của họ và xin lỗi”.

Cả Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Schevchuk, Giáo Chủ Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, cũng nhận định rằng sự kiện một phụ nữ Ukraine và một phụ nữ Nga cùng vác thánh giá là điều không thích hợp và mơ hồ trong lúc này và thậm chí có tính chất xúc phạm. Văn bản và những cử chỉ trong chặng thứ 13 của đàng Thánh Giá này không thể hiểu nổi, nhất là trong lúc chờ đợi cuộc tấn công thứ hai đẫm máu hơn của các lực lượng Nga chống lại các thành thị và làng mạc của chúng tôi. Những cử chỉ hòa giải giữa các dân tộc chỉ có thể khi chiến tranh chấm dứt và những kẻ phạm tội ác chống lại nhân loại sẽ bị kết án theo công lý”.

Không có phản ứng chính thức nào từ phía Đức Thánh Cha hay Tòa Thánh, nhưng Đức Tổng Giám Mục Visbaldas Kulbokas, Sứ thần Tòa Thánh tại Ukraine, cho biết đã chuyển về Vatican các phản ứng trong dư luận Ukraine về vụ này. Tòa Thánh đã biết các phản ứng từ phía Ukraine. Các ký giả tại Vatican đang trả lời phản ứng của người Ukraine, và nhấn mạnh rằng kinh nguyện này không phải là một hành vi chính trị. Dưới thập giá của Chúa Giêsu, tốt và xấu, kẻ tấn công và nạn nhân, đều có. Lúc đó, cũng là một kinh nguyện của Chúa Giêsu cho mỗi người: Ngăn chặn kẻ tấn công và thúc đẩy họ phải hòa giải. Cứu Ukraine, cứu các sinh mạng, các gia đình, trẻ em, tự do, cứu vãn các đền thờ, cứu dân Ukraine.

Đức Tổng Giám Mục Sứ Thần Visvaldas cũng kêu gọi mọi người hãy nhìn kinh nguyện này không phải về phương diện chính trị, nhưng dưới khía cạnh cầu nguyện, xin Chúa ban ơn tha thứ trong tâm hồn chúng ta.

Tuy không có phản ứng chính thức từ Vatican, nhưng cha Antonio Spadaro, dòng Tên, Chủ nhiệm tạp chí “Civiltà Cattolica” (Văn minh Công Giáo), của dòng Tên ở Ý, giải thích rằng: “Đức Thánh Cha Phanxicô là một vị mục tử chứ không phải là một nhà chính trị. Ngài hành động theo tinh thần Tin Mừng là hòa giải, kể cả không có hy vọng hữu hình trong cuộc chiến tranh gây hấn mà ngài gọi là ‘Một tội phạm thánh’. Vì thế ngài đã thánh hiến Ukraine cùng với nước Nga cho Trái Tim Đức Mẹ. Hai phụ nữ, Albina và Irina, Thứ Sáu Tuần Thánh cùng vác Thánh Giá. Họ không nói lời nào. Không nói lời xin lỗi hay những điều khác. Không nói gì cả. Đó là một dấu chỉ ngôn sứ giữa tối tăm dầy đặc. Và đó là một lời khẩn cầu Thiên Chúa, xin Chúa ban ơn hòa giải”.

Cha Spadaro nhận định rằng “Sự hiện diện của họ chung với nhau là một kinh nguyện gây thắc mắc để xin một ơn mà chỉ mình Chúa có thể ban. Lời ngôn sứ được ghi khắc trong tâm hồn và nơi bóng đen của lịch sử. Lời cầu xin đối với tín hữu ngày nay vẫn còn: trong tình trạng ngày nay “yêu thương kẻ thù” có nghĩa là gì? Đây là trọng tâm của Tin Mừng. Và Đức Giáo Hoàng là mục tử hoàn vũ. Đối với ngài vẫn có giá trị điều ngài viết trong một dòng tweet: “Chúa không phân chia chúng ta thành những người xấu và người tốt, bạn hữu và kẻ thù. Đối với Chúa, tất cả chúng ta là những người con được yêu mến”. Đó thực là một điều kinh khủng và khó được chấp nhận. Nhưng đó là Tin Mừng của Chúa Kitô.”

3. Cựu giám mục Anh giáo đã trở thành linh mục Công Giáo được Đức Giáo Hoàng Phanxicô phong tước “Đức ông”

Cha Michael Nazir-Ali, một cựu giám mục Anh giáo, giờ đây có thể được gọi một cách kính trọng với danh xưng “Đức ông”. Chỉ bảy tháng sau khi trở thành một người Công Giáo, vị linh mục, được biết đến với công việc thúc đẩy đối thoại liên tôn, đã nhận được danh hiệu “Đức Ông” từ Đức Thánh Cha Phanxicô vào tuần trước.

Danh hiệu “Đức Ông” trong Giáo Hội Công Giáo là tước hiệu danh dự, được trao cho một linh mục được Đức Giáo Hoàng công nhận có những thành tích nổi bật trong việc phục vụ Giáo hội.

Đức Ông Nazir-Ali là chủ tịch của OXTRAD, Trung tâm Đào tạo, Nghiên cứu, Vận động và Đối thoại của Oxford, hoạt động để đào tạo các Kitô hữu tham gia đối thoại ở các khu vực trên thế giới nơi họ phải đối mặt với sự đàn áp. Theo trang web của họ, OXTRAD nhằm mục đích đáp ứng “ thách thức ngày càng tăng của chủ nghĩa cực đoan tôn giáo quốc tế, chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa thế tục ý thức hệ mà các nhà lãnh đạo Kitô giáo và các Giáo Hội mà họ lãnh đạo ngày nay phải đối mặt.”

Đức Ông Nazir-Ali từng là một giám mục Anh giáo nổi tiếng, và từng được coi là có tiềm năng trở thành Tổng Giám Mục Canterbury, tức là Giáo Chủ Anh Giáo.

Vị cựu giám mục của Rochester, Anh, đã bỏ hết tất cả các chức tước trong Anh Giáo để trở thành một giáo dân bình thường trong giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham.

Đức Ông Nazir-Ali được thụ phong linh mục Công Giáo vào cuối tháng 10 trong lễ phong chức tại giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham, được Đức Bênêđíctô XVI thành lập vào năm 2011 cho các nhóm Anh giáo gia nhập Công Giáo nhưng vẫn muốn bảo tồn các yếu tố trong Phụng Vụ của họ.

Giải thích về quyết định cải đạo của mình, cựu Giám Mục Nazir-Ali nói: “Tôi tin rằng mong muốn của người Anh giáo tuân theo giáo huấn của các thánh tông đồ, các giáo phụ và công đồng hiện có thể được duy trì tốt nhất trong giáo hạt tòng nhân Đức Mẹ Walsingham.”

Đối với nhiều người Anh Giáo, hôn nhân đồng tính, việc phong chức cho phụ nữ, chấp nhận cho ly hôn vượt quá tâm lý có thể chịu đựng được của họ. Vì thế, họ bỏ sang Công Giáo. Oái oăm là các Giám Mục tại Đức đang hô hào ngược lại.

Đức Ông Nazir-Ali sinh năm 1949 tại Karachi, Pakistan và theo học tại các trường Công Giáo. Vị cựu Giám Mục Anh Giáo có cả nền tảng gia đình Kitô và Hồi giáo, đồng thời có quốc tịch Anh và Pakistan.

Ngài được phong chức giáo sĩ Anh giáo năm 1976, làm việc tại Karachi và Lahore. Ngài trở thành cha sở nhà thờ chính tòa Anh giáo Lahore và được tấn phong giám mục tiên khởi của giáo phận Anh Giáo Raiwind ở Tây Punjab.

Năm 1994, ngài được bổ nhiệm làm giám mục Anh giáo của giáo phận Rochester, bao gồm các khu vực của Medway, phía bắc và phía tây Kent, và các quận Bromley và Bexley của London.


Source:Aleteia