1. Hàng nghìn người tham gia cuộc tuần hành Phò Sinh ở Berlin
Khoảng 4.000 người đã tham gia cuộc tuần hành phò sinh ở thủ đô của Đức vào hôm thứ Bảy để ủng hộ quyền được sống cho tất cả mọi người từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên.
“Giống như mọi năm, sự kiện diễn ra yên bình và vui vẻ đối với những người tham gia,” nhà tổ chức, Hiệp hội Liên bang về Quyền được sống, cho biết, theo một báo cáo của CNA Deutsch, đối tác tin tức tiếng Đức của CNA.
Đức Cha Rudolf Voderholzer của Regensburg nói rằng ngài tham gia hàng năm sự kiện này chỉ đơn giản là để lên tiếng bảo vệ quyền của trẻ sơ sinh.
“Đây không chỉ là vấn đề đối với những người trong chúng ta là các tín hữu Kitô,” vị Giám Mục Bavaria nói hôm 17 tháng 9. Ngài mô tả quyền sống là một quyền hiến định và một điều tốt đẹp đáng được bảo vệ bởi tất cả mọi người, không chỉ những người Công Giáo.
Một lễ kỷ niệm đại kết đã diễn ra tiếp sau cuộc tuần hành qua trung tâm Berlin. Cử hành này được chủ tọa bởi Tổng Giám Mục Chính thống giáo Hy Lạp của Đức, Emmanuel Sfiatkos, và Đức Cha Thomas Maria Renz, Giám Mục Phụ Tá Giáo phận Rottenburg-Stuttgart.
Các buổi biểu diễn âm nhạc tại Cổng Brandenburg và nhiều bài phát biểu là một phần của chương trình. Nghị sĩ Hubert Hüppe của Liên minh Dân chủ Kitô giáo đã đề cập đến nhiều mối đe dọa khác nhau đối với những người trước và sau khi sinh, bao gồm các hình thức chẩn đoán trước khi sinh có chọn lọc và hợp pháp hóa hỗ trợ tự tử.
“Quyền sống là quyền cơ bản quan trọng nhất,” chính trị gia nói. “Nếu bạn không có điều đó, bạn không còn gì cả.”
Nữ hộ sinh Sarah Göbel nhấn mạnh rằng hầu hết phụ nữ bị áp lực và cân nhắc phá thai đều muốn có con nhưng lại bị căng thẳng quá mức. Phụ nữ cần sự đồng hành nhạy cảm “để họ có thể phát triển tiềm năng to lớn của mình,” Göbel nói.
March for Life tiếp theo ở Berlin sẽ diễn ra vào ngày 23 tháng 9 năm 2023.
Source:Catholic News Agency
2. Một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh cao 9.75m được đặt ở Nagasaki
Bức tượng này được dành để tưởng nhớ hàng nghìn người đã chết vào thế kỷ 17 trong Cuộc nổi dậy Shimabara.
Nhà điêu khắc 80 tuổi người Nhật Bản Eiji Oyamatsu đã gần hoàn thành một bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng gỗ cao gần 10m. Hình ảnh mà ông bắt đầu khắc cách đây 40 năm, được dành để tưởng nhớ hàng nghìn người đã chết vào thế kỷ 17 trong cuộc nổi dậy Shimabara – một liên minh của các kiếm sĩ địa phương và nông dân Công Giáo, những người đã chống lại các chính sách không được lòng dân của Mạc phủ Tokugawa, bao gồm cả việc đàn áp Kitô giáo; và hậu quả là cuộc đàn áp các tín hữu Kitô ở Nagasaki. Các lực lượng Mạc phủ đã chiếm Nagasaki, nơi lúc bấy giờ là trung tâm chính của Kitô giáo Nhật Bản. Các kiếm sĩ địa phương, hay samurai, trong trường hợp này được gọi là các ronin, là những kiếm sĩ lang thang. Họ rơi vào tình trạng lang thang sau khi chủ của họ bị thất sủng, hay bị triều đình giết chết.
Bồ Đào Nha và Nhật Bản bắt đầu giao thương vào năm 1543, người Bồ Đào Nha là những người Âu Châu đầu tiên đến quần đảo này. Thời kỳ giao thương đầu tiên này thường được gọi là Thời kỳ Thương mại Nanban, trong đó cảng Nagasaki, thông qua sáng kiến của tu sĩ Dòng Tên nổi tiếng Gaspar Vilela và lãnh chúa phong kiến Nhật Bản Omura Sumitada, là người đã chuyển sang Kitô giáo, đã được nhượng lại cho Dòng Tên. Là cảng duy nhất của Nhật Bản mở cửa cho thương mại nước ngoài, Nagasaki trở thành trung tâm của Công Giáo Nhật Bản.
Khi Tokugawa chiến đấu với cuộc nổi dậy Shimabara, nhiều khu vực hiện nay là Nagasaki và Kumamoto đã bị tàn phá. Các tín hữu Kitô và nông dân Nhật Bản không còn nơi ẩn náu nào khác ngoài việc tử thủ trong lâu đài Hara, để cố gắng đối đầu với quân đội do Mạc phủ gửi đến. Theo ước tính, hơn 30.000 phiến quân đã bị giết ở đó. Phần còn lại của lâu đài Hara nằm ở Minami-Shimabara, ở Nagasaki, nơi các tình nguyện viên quyết định xây dựng một cơ sở cho tác phẩm điêu khắc của Oyamatsu.
Bản thân là một người Công Giáo, Oyamatsu đã đến thăm những gì còn lại của lâu đài Hara vào khoảng năm 1971. Theo The Asahi Shimbun, ông đã “nghẹn ngào trước sự vắng mặt của các đài tưởng niệm hoặc các cơ sở tương tự khác tại địa điểm này”. Mười năm sau, khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm Nhật Bản (bao gồm cả Nagasaki trong hành trình của mình), Oyamatsu quyết định làm bức tượng khổng lồ của Đức Trinh nữ Maria như một đài tưởng niệm.
Oyamatsu khẳng định sẽ hoạt động một mình trong dự án, từ chối mọi lời đề nghị hỗ trợ hoặc tài trợ: “Tôi muốn xem mình có thể đi được bao xa với khả năng của chính mình. Một người leo núi sẽ không có nhiều niềm vui nếu anh ta đi trực thăng lên đỉnh núi, phải không? “
Oyamatsu đặt tên cho bức tượng của mình là “Đức Maria Kannon của lâu đài Hara”. Kannon là vị thần từ bi của Phật Giáo. Trong thế kỷ 17, các tín hữu Công Giáo Nhật Bản vẽ hình Đức Mẹ tương tự như thần Kannon của Phật Giáo để có thể giữ trong nhà mà không sợ quan quân bắt bớ.
Source:Aleteia
3. Hội Thoại trừ tà số 206: Tôi có phải là người nhạy cảm về tâm linh không?
Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Chat #206: Am I a Spiritual Sensitive?”, nghĩa là “Hội Thoại trừ tà số 206: Tôi có phải là người nhạy cảm về tâm linh không?”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.
Một linh mục đến với tôi và có vẻ hơi lo lắng, nói: “Khi tôi đứng gần những người bị quỷ ám, tôi có thể cảm thấy một sự hiện diện của ma quỷ. Ở những nơi tối tăm, tôi cảm nhận được sự hiện diện của ma quỷ. Đó là một cảm giác đau đớn, đặc biệt là ở bụng và đầu của tôi. Có chuyện gì với tôi vậy? Tôi có bị ma nhập không?” Tôi đáp lại, “Thế cha đã có những cảm giác này bao lâu rồi?” Vị linh mục trả lời, “Kể từ khi còn nhỏ, nhưng bây giờ những cảm giác ấy rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn.”
Trong những tuần gần đây, một số người đã nói với tôi rằng họ có những trải nghiệm tâm linh tương tự và họ tự hỏi liệu họ có cần một lễ trừ tà hay không. Họ thường khá lo lắng và sợ hãi. Họ nghĩ, “Có gì sai với tôi khi tôi cảm thấy sự hiện diện của ma quỷ?”
Chúng tôi nhận thấy rằng sự nhạy cảm với các thực tại tâm linh, đặc biệt là sự hiện diện của ma quỷ, có thể đến từ bốn nguồn có thể:
Thứ nhất. Nó có thể là một đặc sủng tự nhiên mà người đó có thể sử dụng cho việc tốt hay xấu. Chúng có thể di truyền trong gia đình. Một số người đến từ một hàng dài tổ tiên là những phù thủy hoặc những người có liên quan đến các thế lực tối tăm. Họ sử dụng những hiểu biết tâm linh tự nhiên của mình để thực hành các hình thức như bói toán, là điều mà Kinh thánh và đức tin của chúng ta cấm. Những người khác sử dụng những đặc sủng này phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa và có thể làm điều tốt cho người khác.
Thứ hai. Nó có thể là kết quả của một ân sủng Thần thánh đặc biệt. Một số người nhận thức sâu sắc về sự hiện diện của ma quỷ, và đôi khi cả sự hiện diện của các thiên thần, bởi vì Chúa đã ban cho họ một ân sủng đặc biệt để làm điều đó. Họ phải dùng ân sủng này để giúp đỡ người khác. Họ có thể là một trợ giúp tuyệt vời trong mục vụ trừ tà.
Thứ ba. Nó có thể là kết quả của sự hiện diện của ma quỷ trong cuộc sống của người đó. Bị chiếm hữu có thể mở ra một con mắt thứ ba huyền bí và nó khiến họ có ý thức về thế giới siêu tự nhiên. Những người bị chiếm hữu nhận thức được ma quỷ thông qua sự kết hợp của ma quỷ và ý thức con người của chính họ. Hoặc người đó có thể bị ma quỷ lừa dối khi nghĩ rằng những lời nói bóng gió của ma quỷ vào tâm trí người đó đến từ Thiên Chúa.
Thứ tư. Đối với một số người, nó có thể chỉ đơn giản là sản phẩm của trí tưởng tượng hoạt động quá mức của họ. Họ thường mô tả những nhận thức huyền ảo không phải là điển hình của thế giới thiên thần. “Món quà” của họ thực sự có thể là kết quả của một loại lòng tự ái về tinh thần.
Tôi đã trò chuyện với vị linh mục và có vẻ như ngài không có ma quỷ hiện diện trong người. Hơn nữa, ngài sống một đời sống nhân đức và là một linh mục vững chắc. Vì vậy, tôi nói với cha ấy, “Mặc dù chúng ta chỉ mới trò chuyện trong một thời gian ngắn, nhưng ấn tượng của tôi là cha có thể có một sự nhạy cảm về tâm linh, đó là một điều tốt. Nếu cha có thể tìm được một vị linh hướng hiểu biết để hỗ trợ cha, thì sự nhạy cảm này của cha có thể được phát triển và giúp cha trong sứ vụ linh mục của mình”. Ngài nhẹ nhõm và ra đi trong thanh thản.
Như Lời Kinh Thánh khuyên chúng ta: “Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không,vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.” (1Ga 4: 1).
Source:Catholic Exorcism