Thổ Ngữ Của Tiếng Huế

Nếu cả nhà đã có cao hứng đọc bài “Bún Bò Huế” thì nay có thể tìm hiểu thêm về “Giọng Huế” rùi sau đó có thể là “Thơ Huế” và cả “Gái Huế”…
Các chàng trai nào muốn lấy vợ gốc Huế chính cống, e phải đọc kỹ bài ni để lấy điểm 10 nhé

Người Việt Nam có câu tục ngữ “Đất lề quê thói” làm cho người ta không muốn thay đổi tiếng nói của mình, nhưng ngay tại Huế, kinh đô nhà Nguyễn, nơi có nhiều người từ nơi khác, người Quảng Nam như ông Phạm Phú Thứ, người Bắc như ông Phan Đình Phùng quê ở Hà Tĩnh, như Bà Huyện Thanh Quan một thời gian lâu dài làm cung trung giáo tập, người Nam như Phan Thanh Giản, người Nam bộ đầu tiên đỗ khoa thi tiến sĩ, đến làm quan sinh sống thì tiếng nói của người dân ở các miền có lẽ nào không có ảnh hưởng ít nhiều đến tiếng nói của người Huế hay sao?

Nhiều người đến Huế làm quan nhưng vẫn cứ giữ tiếng nói nơi quê nhà họ. Có thể đó là tính “cục bộ”, là giữ tiếng nói làng quê mình vì yêu quê hương, nếu thay đổi thì sẽ “lạc lỏng” khi trở lại quê nhà, v.v… Đến Huế năm mười sáu tuổi, tôi bị người Huế chê không những chỉ vì là “dân đất sét”, mà còn vì tôi dùng nhiều tiếng nhà quê khác nữa. Thay vì gọi là “côông” thì tôi gọi là “cò ke”; “sợi cao su”, trong nam gọi là “cọng thun(g)” thì tôi gọi là “chạc địu”. Vào Nam làm việc, tôi tập nói tiếng Nam kẻo không thì sợ đồng bào trong Nam cho rằng tôi là người… ngoại quốc.
Ở Trị Thiên, khi về miền quê, nên nói cái “trôốc” thay vì cái “đầu”, “trôốc cúi” thay vì “đầu gối”. Nói thế đồng bào dễ hiểu hơn, khỏi cần… thông dịch viên. Nhưng khi nói chuyện với người Huế thì phải trở lại với cái “đầu”, “đầu gối” không thì sẽ bị chê là “dân nhà quê”. Mấy cô gái Huế chắc chẳng chịu lấy một anh chồng xổ toàn một thứ tiếng “Cơm nể để trữa cươi…” dù làm tới “giáo sư Trường Lụt” (Luật) như một người quen của tôi.

Người Huế ít có cái tự hào một cách khoe khoang như thế cho nên không mấy khi người Huế họ dùng chữ “ta”. Họ không nói là “Huế ta” mà nói là “Huế mình”. Nói với người trong Nam, tôi nói theo cách Huế là “ngoài tui” hay “ngoài tôi”, chỉ danh Huế thì nói là “Huế tui” hay “Huế tôi”. Nói với bạn bè Huế thì tôi nói là “Huế mình” hay “ngoài mình”.
Có gì khác giữa ta và mình?
Có chứ! Cứ so sánh:

“Một mảnh tình riêng TA với TA”
của Bà Huyện Thanh Quan với
“Một MÌNH MÌNH biết, một MÌNH MÌNH hay”

trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc sẽ thấy sự khác biệt giữa TA với MÌNH. MÌNH khiêm nhường hơn, âu yếm hơn (như Mình ơi! Của Diệu Hương), thân thiết hơn, nhẹ nhàng hơn, và chơn chất hơn.

Khi bàn tới tiếng Huế, người ta thường quanh quẩn với “mô tê răng rứa” với “hí” hay “hỉ”. Tiếng Huế, nhứt là tiếng Huế của mấy bà mấy cô nhẹ nhàng và dễ mến hơn, “mặn mà có duyên” hơn dù khi họ mắng nhau: “Đồ tinh le”, “quỷ sứ” hay đồ “Con Yêu Bánh Nậm” như tên một tác phẩm của Trần Kiêm Đoàn. Ngay trong tác phẩm nầy của Trần Kiêm Đoàn người ta gặp không ít tiếng Huế như thế: “tinh le”, “tinh đèo đèo”, “đồ yêu”, “đồ quỷ”, “hổ ngươi”, “ôốc dôộc” “trổ trời mà lên”, “ác nhơn thất đức” “làm bộ làm tịch”, “làm tàng”, “giựt le”, “tội tình chi rứa?”, “thiệt là ngụy”, “hiện ngụy” v.v…

Người Huế ít khi nói “nhìn”. Họ gọi là “ngó” (Ngó chi tui đồ cỏ dại hoa hèn). Nếu có một anh con trai nào đó, hay nhìn lén hay nhìn lâu một cô gái Huế. Cô ta thấy “ốốc dộộc” và “làm đày” mà nói: “Nợ nần chi ai mà ngó dữ rứa?”
Có lẽ một số người còn nhớ bài thơ “Huế Chi Lạ Rứa” sau đây của một cô nữ sinh Đệ Tam Đồng Khánh hồi cuối thập niên 1950:

Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc
Ngó chi tui đồ cỏ dại hoa hèn
Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
Tui mơ ước có bao giờ tuyệt đích
Tui van xin răng mà cứ làm ngơ
Rồi ngói tui chi lạ rứa hững hờ
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch

(“Chi Lạ Rứa?” Tác giả?)

Khi yêu ai, họ ít khi dùng chữ “yêu”. Có lẽ từ thập niên 50, “văn minh” hơn, người ta mới nói “Anh yêu em” hay “Em yêu anh” hay “Hai người yêu nhau”. Trước đó, họ gọi là “thương”. “Anh thương em” hoặc ngược lại. Chẳng hạn như trong câu ca dao:

Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương anh em cũng muốn vô
Sợ truông Nhà Hồ, sợ phá Tam giang.
Phá Tam giang ngày rày đã cạn…

Con gái Huế có tên khá đặc biệt. Ngoài tên các loài hoa, như Mai, Lan, Cúc, Trúc, với một chữ đệm ở trước khá hay, một số đông có chữ đệm “Diệu” ở phía trước như Diệu Trâm, Diệu Mai, Diệu Trúc, Diệu Lan, Diệu Trang, v.v… Ôi thôi! Rất nhiều Diệu. Diệu thường đi với tên của các loài hoa, loài ngọc, có khi cả với trái cây như chị em Diệu Trà, Diệu Lê (một thời nổi tiếng đẹp ở Huế) nhưng chẳng bao giờ thấy Diệu Lựu, Diệu Chanh, Diệu Bưởi. Tên Lựu thì có thể có Bạch Lựu (Tôi chưa từng thấy hoa hay trái lựu màu trắng, thường hoa màu đỏ nên có khi gọi là lửa lựu như câu Kiều “Bên hè lửa lựu lập lòe đơm bông”) hoặc Thạch Lựu, cũng một người đẹp nổi tiếng của Huế.
Tiếng đệm là Diệu cho thấy ảnh hưởng Phật giáo trong việc đặt tên, dù từ chùa Diệu Đế bên kia bên kia sông đào Hàng Bè hay Tứ Diệu Đế trong kinh Phật.

Người Huế rất thường hay nói lái để đùa. Trong Nam hiện tượng đó không phổ biến như Huế.

Cũng có khi họ dùng chữ có hai nghĩa như câu “Ai vô trong nội nhớ hoài”. “Trong” và “nội” cùng một nghĩa, một tiếng là nôm (trong), một là tiếng Hán Việt (nội). “Nhớ”, và “hoài” cũng cùng một nghĩa. “Nhớ” là tiếng Nôm, “hoài” là tiếng Hán-Việt. Câu nầy có nghĩa là có ai đó, một người yêu chẳng hạn, bị “đưa vô Nội” tức là vào trong Đại Nội, cấm thành, nơi vua và hoàng gia ở, khiến người ở ngoài nầy nhớ mãi, nhớ hoài. Ở Huế có thành ngữ “Đưa con vô Nội” là đưa con gái vào làm cung phi, phi tần trong Đại Nội. Người vào đó cũng giống như con gái vào dòng tu kín bên đạo Thiên Chúa, không được ra khỏi Đại Nội và khó gặp lại cha mẹ, bà con. Từ nghĩa đen đó, câu nầy biến thành nghĩa bóng như “Dắt trâu vô rú” là trâu đi mất. Cho bạn mượn tiền, không bao giờ bạn trả lại, coi như mất, giống như “Đưa con vô Nội” hay “Dắt trâu vô rú” vậy

Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản “tê mô răng rứa” như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều. Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu.
Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng:

“Tau noái với mi ri nì,en còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, en chộ tau phới ló ngoài cươi, en kêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba… en đẩn. Mi quai chướng khôn?”

Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy: “Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh làm chuyện ấy… Mày coi có kỳ không?”.
Chữ “đẩn,” ngoài ý nghĩa như trên, còn có nghĩa như “ăn:” “Đẩn cho bưa rồi đi nghể.” (Ăn cho no rồi đi ngắm gái). “Đẩn” cũng có nghĩa là “đánh đòn:”

“Đẩn cho hắn một chặp!” (Đục cho hắn một hồi!) Chữ “đẩn” còn được phong dao Huế ghi lại:
“Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu.”

Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có… thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà… đả thông cho được: “Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui” – (Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá. Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui). Khó hiểu chưa?!

Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài. Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn:
– “Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!” (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai).

Độc chưa? O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp… tha hương may ra mới có được tấm chồng. Chữ rượn gần đồng nghĩa với câu “con ngựa Thượng Tứ,” câu này cũng độc không kém. Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế. Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó đĩ lắm, nhưng thâm thuý hơn nhiều.

– “Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại!” (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại).

Chữ “lưa” cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế:

“Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi.”
Này lại (mua lại): tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại. Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm.

– “Đập chắc lỗ đầu, vại máu!” (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)

– “Thương bọ mạ để mô? Để côi trốt!” Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa: “Thương bố mẹ để đâu? Để trên đầu!” Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán.
– “Tra trắn rứa mà còn ở lỗ!” (Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng). “Ở lỗ” cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!”

– “Lên côi độn mà coi” (Lên trên đồi mà xem…) Chữ coi về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác .

– “Mự đừng có làm đày!” (Mợ đừng có lắm lời, thày lay). Riêng chữ “cụ mự” thường là dùng cho “cậu mợ.” Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ “ôn” hay ông. Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí ” ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan:
“Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng.”

– “Chộ chưa? Nỏ chộ!” (Thấy chưa? Không thấy!) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào !

“Hắn mô rồi? Nỏ biết!” Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu! Tục ngữ Huế: “Có vỏ mà nỏ có ruột.”

– “Khóc lảy đảy, không biết ốt dột!” (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!)
– “En dòm tui, tui dị òm!” (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá!) Chữ “òm” người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: “Ngon không? Dở òm!”

– “O nớ răng mà không biết hổ ngươi!” (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ!) Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ. Cũng như “xấu hổ, thẹn, mắc cỡ” thì “ốt dột, dị và hổ ngươi” có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng.

– “Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn!” (Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới).
– “Mời ôn mệ thời cơm” (Mời ông bà dùng cơm).

– “Mệ tra rồi mệ chướng” (Bà ấy già nên sinh tật). Chữ “chướng,” người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua.

– “Ăn bụ cua cho hết đái mế” (Ăn vú cua cho hết đái dầm). Chữ “bụ” cũng dành cho người và các loài có vú khác. “Bụ mạ” là vú mẹ, “bọp bụ” là bóp “v…”
– “Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn!” (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn!). “Dễ sợ”, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa “thấy mà ghê!” hoặc “khủng khiếp quá!”, mà còn có nghĩa, thí dụ:

“Con nớ đẹp dễ sợ!” (Con bé đó đẹp quá trời!).

– “Răng mà cú tráu rứa tê?” (Sao mà cộc cằn quá vậy?) Chữ “cú tráu” nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa .
Huế nói trại

Nói trại là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp “nói khác đi, nói cách khác.” Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển. Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn.

– “Con tâu tắng ăn ngoài bụi te” tức là “con trâu trắng ăn ngoài bụi tre”.
“Tời tong tẻo, nước tong veo” (Trời trong trẻo, nước trong veo).

– Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói trại thành “gi” – già (nhà): “Giớ già giớ vợ ở già” (Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!)

– Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành “th”: “Ăn thung mặc thướng” (Ăn sung mặc sướng), hoặc “Thầy gòn” là Sài gòn, hoặc nữa: “Noái năng thòng phẳng” (Nói cho sòng phẳng, rõ ràng).

– Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay “ng:” “Con thằng lằng chép miệng thở thang!” (Con thằn lằn chép miệng thở than!)

– Những chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa:” “Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ” (Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy!) Hoặc nữa: “Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai” (Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi).

– Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói trại thành âm “u:” “Thúi trong thúi ra” (Thối từ trong ra ngoài). “Túi lửa tắt đèn” (Tối lửa tắt đèn).

– “Nậy rồi mà mũi rãi thò lò!” (Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng!) Chữ “thò lò” cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
“Học trò thò lò mũi xanh
Cầm cái bánh đúc chạy quanh nhà thầy!”

– “Vô rú mà đốn săng” (Vào rừng mà đẵn gỗ). “Săng” cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp rất “văn hóa” của Huế:

Bên Nữ:

“Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
Trai nam nhân chàng mà đối đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời.”

Nghĩa là: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành (Thành) than (Thang). Cái kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Văn, Võ Thành, Thang là những vị vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu.

Bên Nam:

“Trâu ăn giữa vạc ló lỗ
Đã ngụy chưa tề!
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa?”

Nghĩa là: Con trâu (Trâu) ăn giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy, Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn. Còn hai người có “tào khang” với nhau được hay không là chuyện… của họ

– “En trên rầm thượng bổ xuống, nằm đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương!” (Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương!) Đến đây thì kẻ hèn này hơi kẹt. “Rầm thượng” là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà
– “Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời!” (Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời!) Chữ “chặm” cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải… bỏ chày luôn:

“Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu!” (Mặt mày một… đống, ai chịu cho nổi!) Chữ “thấu” cũng có nghĩa là tới: “Kêu trời không thấu” (Kêu không tới trời;) “Vô thấu trong Thầy gòn” (Vô tuốt trong Sài gòn).

– “Mả cha cái thằng vô hậu (Tiên sư cái thằng đoảng). “Mả cha mi” là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với “mồ cha mày.” Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác.

– “Ăn trầu cơi thiếc” (Ăn trầu (để) trong hộp, quả bằng thiếc). Cái “cơi thiếc” cũng đã đi vào tục ngữ Huế: “Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc.”

– “Đi xe hay đi chưn xuống rứa?” (Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy?)

– “Túi thùi thui, có chộ chi mô!” (Tối quá, không thấy gì hết!)

– “Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió!” (Cạn túi rồi mà còn làm bảnh, làm sang!)

– “Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè” (Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh)). Tục ngữ Huế:
“Ăn lưng đoại, làm đoại lưng” (Ăn lưng bát cơm, làm muốn gãy lưng!)

Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non, rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế.

– “Bữa ni đi kéo ghế” (Hôm nay đi ăn nhà hàng). Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa. Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào bàn. Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế…
Huế làm đày làm láo, Huế nói chữ

Vâng, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa… “làm đày làm láo,” tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài. Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì “tụng” mới phê! Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.

– Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm. Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ:
“Cái con nớ, lanh cha lanh chanh!”

Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm, tức mấy bà chị chồng mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: “Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè!” (Sao mà nó vô phép quá vậy!”

– Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh: xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt).

Bởi, “cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn!” (Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể!) Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: “Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai!”

Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả “mô-ran” cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng dao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình:

“Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa. Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình. Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan!”

Cái thông điệp cho thằng em trai thì:
“Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép . Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho được?!”

Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình:

“Đó, mi thấy đó. Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn. Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ!”

Lời kết

Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ. Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ giớ, cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều. Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ.

Tổng hợp tạp pí lù NET

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *