Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
Bài đọc 1: St 1,1 – 2,2
Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp !
Bài trích sách Sáng thế.
Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.
Thiên Chúa phán : “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ nhất.
Thiên Chúa phán : “Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với nước.” Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm với nước phía trên. Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi vòm đó là “trời”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ hai.
Thiên Chúa phán : “Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ ra.” Liền có như vậy. Thiên Chúa gọi chỗ cạn là “đất”, khối nước tụ lại là “biển”. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống.” Liền có như vậy. Đất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại, và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ ba.
Thiên Chúa phán : “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn : vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm ; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ tư.
Thiên Chúa phán : “Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” Thiên Chúa sáng tạo các thuỷ quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp. Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy biển ; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ năm.
Thiên Chúa phán : “Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại : gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại.” Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại, và loài bò sát dưới đất tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
Thiên Chúa phán : “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.”
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ : “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” Thiên Chúa phán : “Đây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. Còn đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực.” Liền có như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp ! Qua một buổi chiều và một buổi sáng : đó là ngày thứ sáu.
Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất. Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.
Đáp ca
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !
Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả !
Áo Ngài mặc : toàn oai phong lẫm liệt,acẩm bào Ngài khoác : muôn vạn ánh hào quang.
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
Chúa lập địa cầu trên nền vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn đời !Áo vực thẳm choàng lên trái đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non cao.
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
Chúa khơi nguồn : suối tuôn thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co.Bên dòng suối, chim trời làm tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.aNgài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng.
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng !
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan,
những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.cChúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi !
Đ. Lạy Chúa, xin gửi Thần Khí tới
và Ngài sẽ đổi mới mặt đất này.
Bài đọc 2: St 22,1-18
Tổ phụ Áp-ra-ham dâng lễ tế.
Bài trích sách Sáng thế.
Hồi đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông : “Áp-ra-ham !” Ông thưa : “Dạ, con đây !” Người phán : “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho.”
Sáng hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa. Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ : “Các anh ở lại đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia ; chúng tôi làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở lại với các anh.”
Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. I-xa-ác thưa với cha là ông Áp-ra-ham : “Cha !” Ông Áp-ra-ham đáp : “Cha đây con !” Cậu nói : “Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu ?” Ông Áp-ra-ham đáp : “Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ.” Rồi cả hai cùng đi.
Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông : “Áp-ra-ham ! Áp-ra-ham !” Ông thưa : “Dạ, con đây !” Người nói : “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó ! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa : đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc !” Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là “Đức Chúa sẽ liệu.” Bởi đó, bây giờ có câu : “Trên núi Đức Chúa sẽ liệu.”
Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa và nói : “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề : bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì của địch. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta.”
Đáp ca
Đ. Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con ;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.Con luôn nhớ có Ngài trước mặt,
được Ngài ở bên, chẳng nao núng bao giờ.
Đ. Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ, và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.
Đ. Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống :
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi !
Đ. Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài, con đang ẩn náu.
Bài đọc 3: Xh 14,15 – 15,1a (bắt buộc)
Con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn.
Bài trích sách Xuất hành.
Khi ấy, con cái Ít-ra-en thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng, thì kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Đức Chúa. Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Có gì mà phải kêu cứu Ta ? Hãy bảo con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Đức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy.”
Thiên sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đàng sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Đức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, và con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Quân Ai-cập đuổi theo ; toàn thể chiến mã, chiến xa và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en. Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Đức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập, Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. Người làm cho chiến xa kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau : “Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Đức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập để giúp họ.” Đức Chúa phán với ông Mô-sê : “Hãy giơ tay trên mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của chúng.” Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ, vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Đức Chúa xô ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào lòng biển. Không một tên nào sống sót. Còn con cái Ít-ra-en đã đi giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập phơi thây trên bờ biển. Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người.
Bấy giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Đức Chúa bài ca sau đây. Họ ca rằng :
Đáp ca
Đ. Nào ta hát mừng Chúa,
Đấng cao cả uy hùng.
Tôi xin hát mừng Chúa,
Đấng cao cả uy hùng :
Kỵ binh cùng chiến mã,
Người xô xuống đại dương.Chúa là sức mạnh tôi,
là Đấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
Người là Chúa tôi thờ,
xin dâng lời vinh chúc,
Người là Chúa tổ tiên,
xin mừng câu tán tụng.
Đ. Nào ta hát mừng Chúa,
Đấng cao cả uy hùng.
Người là trang chiến binh,
danh Người là “Đức Chúa !”Xa mã Pha-ra-ô,
Người xô xuống lòng biển,
tướng dũng với binh hùng
chết chìm trong Biển Sậy.
Đ. Nào ta hát mừng Chúa,
Đấng cao cả uy hùng.
Vực thẳm vùi lấp chúng,
chúng chìm xuống nước sâu
chẳng khác nào hòn đá.Lạy Chúa, tay hữu Ngài
đã biểu dương sức mạnh.
Tay hữu Ngài, lạy Chúa,
đã nghiền nát địch quân.
Đ. Nào ta hát mừng Chúa,
Đấng cao cả uy hùng.
Ngài cho dân tiến vào,
định cư họ trên núi,
núi gia nghiệp của Ngài.
Lạy Chúa, chính nơi đây
Ngài chọn làm chỗ ở,
đây cũng là đền thánh
tự tay Ngài lập nên.Chúa là vua hiển trị
đến muôn thuở muôn đời.
Đ. Nào ta hát mừng Chúa,
Đấng cao cả uy hùng.
Bài đọc 4: Is 54,5-14
Vì Đấng chuộc ngươi về vẫn trọn tình vẹn nghĩa, nên Người lại xót thương.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
Đức Chúa phán với thành Giê-ru-sa-lem :
Đấng cùng ngươi sánh duyên cầm sắt
chính là Đấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là Đức Chúa các đạo binh ;
Đấng chuộc ngươi về, chính là Đức Thánh của Ít-ra-en,
tước hiệu Người là Thiên Chúa toàn cõi đất.
Phải, Đức Chúa đã gọi ngươi về,
như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm thần sầu muộn.
“Người vợ cưới lúc thanh xuân, ai mà rẫy cho đành ?”,
Thiên Chúa ngươi phán như vậy.
Trong một thời gian ngắn, Ta đã ruồng bỏ ngươi,
nhưng vì lòng thương xót vô bờ, Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.
Lúc lửa giận bừng bừng,
Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn ngươi,
nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta lại chạnh lòng thương xót,
Đức Chúa, Đấng cứu chuộc ngươi, phán như vậy.
Ta cũng sẽ làm như thời Nô-ê : lúc đó, Ta đã thề rằng
hồng thuỷ sẽ không tràn ngập mặt đất nữa,
cũng vậy, nay Ta thề
sẽ không còn nổi giận và hăm doạ ngươi đâu.
Núi có dời có đổi, đồi có chuyển có lay,
tình nghĩa của Ta đối với ngươi vẫn không thay đổi,
giao ước hoà bình của Ta cũng chẳng chuyển lay,
Đức Chúa là Đấng thương xót ngươi phán như vậy.
Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm bảy nổi, không người ủi an !
Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm màu tô điểm,
nền móng ngươi, Ta đặt trên lam ngọc,
lỗ châu mai tường thành, Ta xây bằng hồng ngọc,
các cửa thành ngươi, bằng pha lê,
tường trong luỹ ngoài, toàn đá quý.
Con cái ngươi, Đức Chúa đều dạy dỗ,
chúng sẽ được vui hưởng thái bình.
Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là đức công chính ;
ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không còn phải sợ chi,
sẽ thoát khỏi kinh hoàng,
vì kinh hoàng sẽ không đến gần ngươi nữa.
Đáp ca
Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo cười con.Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên,
tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.
Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa,
cảm tạ thánh danh Người.Người nổi giận, giận trong giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò reo.
Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con,
lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ.aKhúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu.bLạy Chúa là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.
Đ. Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài,
vì đã thương cứu vớt.
Bài đọc 5: Is 55,1-11
Hãy đến với Ta, thì các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
Đức Chúa phán như sau :
Đến cả đi, hỡi những người đang khát, nước đã sẵn đây !
Dù không có tiền bạc, cứ đến mua mà dùng ;
đến mua rượu mua sữa, không phải trả đồng nào.
Sao lại phí tiền bạc vào của không nuôi sống,
tốn công lao vất vả vào thứ chẳng làm cho chắc dạ no lòng ?
Hãy chăm chú nghe Ta, thì các ngươi sẽ được ăn ngon,
được thưởng thức cao lương mỹ vị.
Hãy lắng tai và đến với Ta,
hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao ước vĩnh cửu,
để trọn bề nhân nghĩa với Đa-vít.
Này, Ta đã đặt Đa-vít làm nhân chứng cho các dân,
làm thủ lãnh chỉ huy các nước.
Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân tộc ngươi không quen biết ;
một dân tộc không quen biết ngươi sẽ chạy đến với ngươi,
vì Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, vì Đức Thánh của Ít-ra-en
đã làm cho ngươi được vinh hiển.
Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.
Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa -và Người sẽ xót thương-,
về với Thiên Chúa chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ.
Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta
– sấm ngôn của Đức Chúa.
Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.
Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời
không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,
sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
Đáp ca
Đ. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
Đây chính là Thiên Chúa cứu độ tôi,
tôi tin tưởng và không còn sợ hãi,
bởi vì Chúa là sức mạnh tôi,
là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi.Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
Đ. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
Hãy tạ ơn Chúa, cầu khẩn danh Người,
vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân,
và nhắc nhở : danh Người siêu việt.
Đ. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
Đàn ca lên mừng Chúa,
vì Người đã thực hiện bao kỳ công ;
điều đó, phải cho cả địa cầu được biết.Dân Xi-on, hãy mừng rỡ reo hò,
vì giữa ngươi, Đức Thánh của Ít-ra-en quả thật là vĩ đại !
Đ. Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu độ.
Bài đọc 6: Br 3,9-15.32 – 4,4
Hãy dõi theo ánh sáng của Chúa mà tiến bước về chốn huy hoàng.
Bài trích sách ngôn sứ Ba-rúc.
Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en,
những mệnh lệnh tặng ban sự sống,
hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan.
Vì đâu, Ít-ra-en hỡi, vì đâu
ngươi phải nương thân trên đất thù địch,
phải mòn hao nơi xứ lạ quê người ?
Vì đâu ngươi bị nhiễm uế giữa đám thây ma,
phải nằm chung với những người ở trong âm phủ ?
Âu cũng vì ngươi đã bỏ Nguồn Mạch Khôn Ngoan.
Nếu ngươi cứ bước đi theo đường Đức Chúa,
hẳn muôn đời ngươi đã được an vui.
Hãy học cho biết đâu là khôn ngoan,
đâu là sức mạnh, đâu là thông hiểu,
đâu là trường thọ và sự sống,
đâu là ánh sáng soi con mắt, và đâu là bình an.
Nhưng ai tìm thấy nơi cự ngụ,
và vào được kho tàng của đức khôn ngoan ?
Chỉ mình Đấng Toàn Tri mới biết đức khôn ngoan,
chỉ có trí tuệ Người mới thông suốt được.
Người đã thiết lập cõi đất cho bền vững muôn đời,
đã cho thú vật tràn đầy mặt đất.
Người sai ánh sáng, ánh sáng liền đi ;
gọi ánh sáng lại, ánh sáng run rẩy vâng lời.
Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị trí mình, tưng bừng chiếu sáng.
Người gọi chúng, chúng thưa : Có mặt,
và hân hoan chiếu sáng mừng Đấng tạo nên mình.
Chính Người là Thiên Chúa chúng ta,
chẳng có ai sánh được như Người.
Mọi nẻo đường đưa tới hiểu biết, Người đều tinh thông,
chính Người đã vạch ra cho Gia-cóp, tôi trung của Người,
cho Ít-ra-en, kẻ Người yêu quý.
Rồi đức khôn ngoan xuất hiện trên mặt đất
và đã sống giữa loài người.
Đức khôn ngoan
là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật,
Luật tồn tại cho đến muôn đời.
Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống ;
còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết.
Hỡi Gia-cóp, hãy quay trở về đón nhận Lề Luật,
hãy dõi theo ánh sáng của Lề Luật
mà tiến bước về chốn huy hoàng !
Vinh quang của ngươi, chớ nhường cho người khác,
đặc ân của ngươi, đừng trao cho dân ngoại.
Hỡi Ít-ra-en, chúng ta có phúc dường nào,
vì được biết những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa !
Đáp ca
Đ. Lạy Chúa, Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện,
bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc,
cho người dại nên khôn.
Đ. Lạy Chúa, Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng,
làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch,
cho đôi mắt rạng ngời.
Đ. Lạy Chúa, Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng,
tồn tại đến muôn đời.
Quyết định Chúa phù hợp chân lý,
hết thảy đều công minh.
Đ. Lạy Chúa, Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Thật quý báu hơn vàng,
hơn vàng y muôn lượng,
ngọt ngào hơn mật ong,
hơn mật ong nguyên chất.
Đ. Lạy Chúa, Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời.
Bài đọc 7: Ed 36,16-17a.18-28
Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi, và ban tặng các ngươi một quả tim mới.
Bài trích sách ngôn sứ Ê-dê-ki-en.
Bấy giờ, có lời Đức Chúa phán với tôi rằng : a Hỡi con người, con cái nhà Ít-ra-en đang cư ngụ trên đất của chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng. Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng. Ta đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống và các hành vi của chúng mà xét xử. Chúng đã làm cho danh Ta bị xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng : “Đó là dân của Đức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.” Nhưng Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến. Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en : Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này : Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động, mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi đến. Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa -sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng- khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng. Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi. Rồi Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng thịt. Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thi hành. Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi.
Đáp ca
Đ. Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong
được gần Ngài, lạy Chúa.
Linh hồn con khao khát Chúa Trời,
là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến
vào bệ kiến Tôn Nhan ?
Đ. Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong
được gần Ngài, lạy Chúa.
Tôi tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng bừng.
Đ. Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong
được gần Ngài, lạy Chúa.
Xin Ngài thương sai phái
ánh sáng và chân lý của Ngài,
để soi đường dẫn lối con đi
về núi thánh, lên đền Ngài ngự.
Đ. Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong
được gần Ngài, lạy Chúa.
Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa,
tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con.
Con gảy đàn dâng câu cảm tạ,
lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ.
Đ. Như nai rừng mong mỏi
tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong
được gần Ngài, lạy Chúa.
Thánh thư: Rm 6,3-11
Một khi Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
Thưa anh em, anh em không biết rằng : khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao ? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới.
Thật vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. Chúng ta biết rằng : con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết, thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.
Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người : đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng : một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.
Đáp ca
Đ. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.Ít-ra-en hãy nói lên rằng : muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Đ. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực,
tay hữu Chúa giơ cao.Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống,
để loan báo những công việc Chúa làm.
Đ. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường.Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đ. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng: Mt 28,1-10
Người đã trỗi dậy và đi Ga-li-lê trước các ông.
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
Chiều ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. Thình lình, đất rung chuyển dữ dội : thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên ; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ : “Này các bà, các bà đừng sợ ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này : Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay.” Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
Bỗng Đức Giê-su đón gặp các bà và nói : “Chào chị em !” Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà : “Chị em đừng sợ ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó.”
Tin Mừng: Mc 16,1-8
Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh, đã trỗi dậy rồi !
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
Hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
Các bà bảo nhau : “Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây ?” Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng ; các bà hoảng sợ. Nhưng người thanh niên liền nói : “Đừng hoảng sợ ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì ! Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này ! Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.” Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.
Đêm Canh Thức Vượt Qua (30.03.2024)
Từ chiều Thứ Sáu, khi Chúa Giêsu được táng xác trong mồ, một không khí đau thương và im lặng bao trùm mọi sinh hoạt của Giáo Hội. Sự im lặng như Thiên Chúa đã lặng tiếng bốn trăm năm, kể từ sau thời ngôn sứ Malakhi cho đến khi Gioan Tiền Hô xuất hiện. Suốt thời gian ấy Thiên Chúa đã không sai một ngôn sứ nào đến với dân Do Thái. Sự thinh lặng của Thiên Chúa cùng với những cuộc chiến và sự cai trị tàn bạo của những kẻ xâm lược đã làm dân Do Thái khốn khổ, họ khao khát trông đợi đến mỏi mòn Đấng Messia. Sự mòn mỏi đợi trông ấy thể hiện nơi Thánh vịnh 22 được đọc khi tù và rúc lên báo hiệu giờ sát tế chiên vào buổi chiều ngày áp lễ Vượt qua. Năm đó, giờ đó, cũng đúng vào lúc Chúa Giêsu đang chịu khổ hình và hấp hối trên Thập giá, Người đã đọc Thánh Vịnh cũng là nói lên cảm giác cô đơn trên thập giá của Ngài lúc đó :
Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao ? (Tv 22,1).
Nhưng quân lính không hiểu nên đã chạy đi lấy dấm cho Người uống. Người đã kêu một tiếng lớn rồi tắt thở (Mc 15, 34-37).
Chúa Giêsu được những môn đệ trong bóng tối mai táng trong mộ đá. Một sự im lặng nặng nề bao trùm. Các môn đệ tản mác hoặc trốn kỹ trong nhà, cửa đóng kín.
Nhưng chưa bao giờ Thiên Chúa bất động. Chúa Giêsu đã nói : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc.” (Ga 15,17). Bốn trăm năm Thiên Chúa không sai ngôn sứ nào đến với dân Do Thái nhưng chương trình cứu độ của Ngài vẫn được tiến hành, cho đến thời điểm Chúa Giêsu lặng thinh trong mộ đá để thực hiện cuộc Vượt Qua vĩ đại của Người.
Hàng năm Giáo Hội long trọng tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu trong Tuần Thánh, mà đỉnh điểm phụng vụ là Đêm Canh Thức Vượt Qua, đêm này là mẹ của các đêm canh thức. Trong phụng vụ Đêm Canh Thức, Hội Thánh sắp xếp các bài đọc để các Kitô hữu được ôn lại lịch sử sáng tạo vũ trụ muôn loài và công trình cứu độ loài người của Thiên Chúa, để cảm nhận được các chiều kích tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người bao la, cao sâu của đến nhường nào.
Các bài đọc là phần căn bản trong Đêm Canh Thức Vượt Qua, với bảy bài thuộc Cựu ước và Hai bài thuộc Tân Ước, gồm đủ mọi cung bậc của Đức Tin và cảm súc. Nếu cảm nhận và thấm thía những bài đọc ấy thì người nghe phải ngỡ ngàng vì khám phá ra những điều mới mẻ kỳ diệu, hào hùng lẫn thiết tha êm ái mà Thiên Chúa đã dành cho mình.
Phần các bài đọc Cựu Ước tường thuật lại quá trình Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ muôn loài, Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp.
Vì con người phản nghịch cùng Thiên Chúa nên bị luận phạt. Thiên Chúa là Đấng công minh, nhưng từ bi nhân hậu, nên ngay khi ra án phạt con người thì Thiên Chúa đã hứa và có ngay kế hoạch cứu độ con người. Ngài bắt đầu kế hoạch bằng việc gọi ông Abraham đi theo Chúa với lời hứa sẽ làm cho ông trở thành Cha của một dân tộc lớn, là cha của các dân tộc và ban cho ông một miền đất trù phú.
Thiên Chúa nuôi dưỡng để dòng dõi Abraham trở thành một dân đông đúc, tạo điều kiện để họ trưởng thành, đặc biệt là giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai Cập bằng biến cố Vượt Qua thần kỳ. Thiên Chúa chăn dắt, bảo vệ, giáo dục họ thành một dân tộc, đưa họ đến miền đất Ngài đã hứa với Abraham.
Thông qua dân tộc mà Thiên Chúa đã nhận làm dân riêng là Israel, Thiên Chúa thực hiện việc cứu độ loài người bằng cái chết khổ hình Thập giá và phục sinh của Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Đêm Canh Thức Vượt Qua là phụng vụ của Kitô giáo tiếp nối truyền thống của Do Thái giáo diễn tả biến cố Thiên Chúa giải thoát Israel khỏi ách nô nệ và đưa dân lên từ Ai Cập để đến miền đất hứa. Ý nghịa với Kitô giáo là được Phục Sinh với Đức Giêsu Kitô.
Nghi thức Canh Thức Vượt Qua không chỉ chứng minh sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, mà còn có ý nghĩa là sự khởi đầu của sáng tạo mới trong Đức Kitô, là cuộc xuất hành mới, là từ sự chết đến sự sống. Chúa Kitô chịu chết để giải thoát loài người khỏi tội lỗi, và phục sinh để mở đường vào cuộc sống mới, vì Chúa Kitô Phục Sinh là nguyên lý và nguồn mạch cho sự sống lại : “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu…, như mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (1Cr 15,20-22).
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể, một Tân Ước mãi tồn tại bởi sự Phục Sinh của Người để đời đời cứu chuộc loài người.
Tham dự cử hành Đêm Canh Thức Vượt Qua là tìm về cội nguồn Tình yêu của Thiên Chúa dành cho loài người.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, Chúa đã chịu để mai táng trong mồ. Chúa thinh lặng để Phục Sinh mở đường cho loài người cùng bước vào sự sống đời đời với Chúa. Xin cho chúng con biết đóng đinh tính xác thịt của chúng con vào thánh giá, cho con người tội lỗi của chúng con được chết với Chúa để cùng được sống lại với Người trong cuộc sống mới. Amen.
Jos. NM Tưởng
Chúa nay thực đã phục sinh (08.04.2023)
Ghi nhớ:
Thiên thần lên tiếng bảo các người phụ nữ: “Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giê-su. Đấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói”. (Mt 28, 5-6)
Suy niệm:
Bạn Tuấn nói với bố:
Bố ơi, tối qua con có xem Đài truyền hình VTV 3 lúc 19g. Trong phần thời sự con có nghe một nữ xướng ngôn viên nhà Đài phát ngôn rằng: “Hôm nay, những người theo Thiên Chúa giáo, mừng lễ Chúa Giê-su được coi là đã sống lại”.
Con có thắc mắc: Tại sao họ lại dùng cụm từ “Được coi là đã sống lại”mà họ không nói: “Hôm nay là ngày lễ mừng Đức Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại hiển vinh!”. Bố trả lời:
Con ơi. Người biên tập của nhà Đài đó, họ không thể nói theo tư cách cá nhân được, mà họ phải đại diện cho một tập thể, mà tập thể ấy không có niềm tin. Vì thế họ phải nói như vậy để được duyệt mà lên sóng đấy con ạ.
Đêm nay là đêm cực thánh, Đêm toàn thể Hội Thánh canh thức mừng Mầu Nhiệm Đức Giê-su Phục sinh. Ngôi một trống là chứng cứ đầu tiên về việc Chúa đã sống lại, tiếp sau đó là Chúa đã thực sự, chính thức hiện ra với các bà khi Người nói: “Chào chị em”. Như vậy, Đức Giê-su đã hiện ra với hình hài của một con người thực sự, bởi vậy các bà đã tiến đến “ôm lấy chân, và bái lạy Người”.
Đức Giê-su xuống thế nhập thể làm người. Ngài đã chịu tất cả những gì mà thân phận của một con người phải chịu. Đó là phải chịu đau khổ và sau cùng Người cũng phải chịu chết. Thế nhưng cái chết của Người được ví như là một hạt giống, được vùi vào trong lòng đất, sẽ mục nát đi và sau đó nảy mầm rồi sinh hoa kết trái. Nếu Đức Giê-su không Phục Sinh, thì tất cả giáo lý, và những lời Người dậy bảo của Người sẽ sụp đổ. Vì như vậy Đức Giê-su cũng như bao con người bình thường khác “chết đi là hết”thế thôi! Nhưng biến cố Người sống lại đã thay đổi cả bộ mặt của thế giới này. Người sống lại có nghĩa là Người đã chiến thắng tất cả: Chiến thắng đau khổ, chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự dữ và điều quan trọng nhất là Người đã chiến thắng tử thần. Điều này khẳng định cho những ai tin tưởng vào Người là họ cũng sẽ không phải chết, (mặc dù họ có phải chết phần xác theo lẽ tự nhiên) họ sẽ nên giống Người; Sẽ sống lại để được sống muôn đời. Đức Giê-su đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25). Tất cả chúng ta ai cũng sợ chết, vì đó là tính tự nhiên của con người, nhưng đã sinh ra kiếp người thì phải theo quy luật tự nhiên: Sinh, Bệnh. Lão. Tử. Không ai có thể trốn tránh được cái chết! Nhưng cái chết về thể phần thể xác tuy có sợ đó nhưng không đáng sợ bằng cái chết của phần linh hồn. Chết về linh hồn là phải xa lìa tình thương của Thiên Chúa. Vì đã chối từ ơn cứu độ của Người với sự không tin nhận Người và sống theo tính xác thịt thế gian có nghĩa là để cho ma quỷ điều khiển mình! Để phần linh hồn mình được sống với Chúa muôn đời thì đòi hỏi chúng ta một điều kiện phải thực thi: Đó là phải tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giê-su và khi đã tin rồi thì phải thi hành những điều Người truyền dạy. Mà chỉ có hai điều cốt lõi là: Kính mến Thiên Chúa và thương yêu mọi người.
Chúa sống lại mở đường cho những ai khi sống mà tin tưởng và đồng thời thi hành các giới luật Người ban. Đây là cứu cánh và là hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Có thể ví Đức Giê-su là đầu của Hội Thánh và trong Hội Thánh chúng ta nên như thân thể Người, là thân thể nên khi đầu đi đến đâu thì các chi thể khác sẽ được đi đến đó. Đức Giê-su đang hiện hữu bên Chúa Cha trong Nước Hằng Sống thì chúng ta là thân thể của Người cũng sẽ được hưởng phúc trường sinh bên Người . Như thánh Phao-lô đã nói: “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta bất trung, Người vẫn một lòng trung tín. Nhưng nếu ta chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ ta” (2 Tm 2, 8).
Đức Giê-su là một nhân vật lich sử. Người đã được Chúa Cha sai đến trần gian, vì yêu thương nhân loại Người đã bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập giá, sau ba ngày Chúa Cha đã cho Người Phục Sinh để thông ban cho nhân loại sự sống thần linh của Người, thế nhưng xem ra ngày nay còn nhiều người cố tình chối bỏ sự thật đó, chối từ món quà vô giá mà Thiên Chúa đã tặng ban cho họ. Và như thế thì công trình cứu chuộc của Đức Giê-su sẽ trở nên vô ích vì chính họ đã chối bỏ Người.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Cha Toàn năng, Cha đã yêu thương thế gian nhiều đến nỗi đã trao ban Người Con Một cho nhân loại để nên giá cứu chuộc chúng con. Xin cho mọi người biết nhìn nhận sự thật này mà mở rộng tâm hồn mình ra để đón nhận ơn Cứu Chuộc vô giá mà Cha đã ban cho nhân loại một cách nhưng không. Lạy Cha, chúng con xin cảm tạ, ngợi khen Cha đến mãi muôn đời vì những ân huệ này.
Lạy Đức Giê-su, vì Máu Thánh Chúa đã đổ ra trên cây thập giá, xin cho tâm hồn chúng con biết khát khao Chúa, biết lắng nghe lời Chúa dạy và đem ra thực hành hầu xứng đáng được sống bên Chúa muôn đời.
Lạy Chúa Thánh Linh, xin luôn đồng hành cùng chúng con để biến đổi chúng con nên một tạo vật mới, xin ban thêm đức tin và sức mạnh cùng sự khôn ngoan để trong cuộc đời lữ hành đời này chúng con luôn biết tôn thờ Thiên Chúa và làm cho Danh Chúa được cả sáng. Amen.
Sống Lời Chúa:
Luôn sống tâm tình: Nói với Chúa và nói về Chúa.
Đaminh Trần Văn Chính.
Quên nhớ…
Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, bà bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ ông Gia-cô-bê và một số chị em khác đem theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. Họ đã cùng nhau đi ra mộ Chúa Giê-su để xức dầu cho xác thầy mình. Thì hỡi ôi, không còn thấy xác Chúa nữa. Các bà hết sức lo lắng không hiểu chuyện gì đã xảy ra với thầy mình. Có lẽ đã tận mắt chứng kiến cuộc khổ nạn, bị đóng đinh và chết nhục nhã trên thập giá; nên các các bà hết sức đau buồn, lo sợ, đâm ra hoang mang, phân vân, và “hồn phi phách tán” nên đã quên nhớ lời Chúa đã nói trước đó ở Ga-li-lê với các tông đồ rằng: Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại.
Thật vậy, Chúa Giê-su đã không còn bị giam giữ trong phần mộ – trong sự chết – Mà Ngài đã sống lại, ra khỏi mộ – hiện diện khải hoàn.
Khi nghe hai thiên thần Chúa nói: “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa nhưng đã trỗi dậy rồi” (Lc 24,5-6) thì nỗi sợ hãi của các phụ nữ đó đã vỡ òa thành niềm vui khôn tả (x. Mt 28,8) vội vã chạy về báo tin vui Chúa Sống Lại rồi cho các tông đồ nghe.
Trước cơn đại dịch Covid-19 đang hoành hành khắp toàn cầu. Con người ngày nay đã lo lắng, hoảng sợ hiều điều; các Ki-tô hữu không còn tham dự cử hành thánh lễ Cộng đồng, không được rước Chúa thật… con người ta đã mất phương hướng, nhiều người ta thán Chúa đâu rồi, sao Ngài không ra tay cứu chữa… Những điều đó sẽ còn trở nên tồi tệ hơn nữa nếu lúc này ta mất niềm tin; nếu ngay giờ phút này ta không tin Chúa đã sống lại thật.
Lạy Chúa, xin ban thêm đức Tin cho con trước những khó khăn, thách đố trong cuộc sống hôm nay. Amen.
CÁT BIỂN
Yêu đến cùng
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay dừng lại sau trình thuật chóp đỉnh của công trình cứu độ mà Đức Giêsu Kitô “Con Thiên Chúa” đã thực hiện: Đó là cuộc thương khó, Đức Giêsu hiến tế chính thân mình trên thập giá để đền thay tội lỗi của toàn thể nhân loại mà cứu chuộc và đem vào vương quốc tình yêu của Người. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm để cảm nếm lòng thương xót, tha thứ của Thiên Chúa Tình Yêu.
SUY NIỆM
Thiên Chúa là tình yêu, một tình yêu viên mãn tràn đầy và Ngài muốn chia sẻ thông ban.
Tự Thiên Chúa đã có sáng kiến tạo dựng vũ trụ cùng muôn loài vật để thông ban tình yêu của mình. Sách Kinh Thánh đã trình bày kế hoạch yêu thương đó (x Stk 1, 1 – 31 ); kể cả khi con người là thụ tạo đã bất trung, phản bội, khước từ tình yêu thương của Người (x Stk 3, 1-15 ) thì Người vẫn trung tín giữ lời giao ước.
Chương trình cứu độ con người và cho con người phục hồi phẩm giá cao quý đã bị nguyên tổ làm hư hỏng, được Thiên Chúa hoạch định và thực hiện qua các thời kỳ trình bày trong sách Kinh Thánh; Giáo hội gọi đó là Lịch sử Cứu độ.
Lịch sử Cứu độ là những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện từ sáng thế cho đến tận thế, qua những biến cố, lời nói, việc làm để ban ơn cứu độ cho loài người.
– Những kỳ công này thể hiện tình yêu thương vô lượng của Thiên Chúa tuôn đổ xuống cho nhân loại, qua việc tuyển chọn dân riêng, huấn luyện và hướng dẫn họ trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại để đưa về Nước Trời vĩnh cửu. Công trình này được Thiên Chúa chuẩn bị trong thời Cựu Ước và thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô trong thời Tân Ước.
I. THỜI CỰU ƯỚC
- Giai đoạn sáng tạo
a) Thiên Chúa tạo dựng và yêu thương con người
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cùng muôn loài muôn vật và tạo dựng con người giống hình ảnh Người để thông ban tình yêu, một tình yêu không hạn lượng.
Bằng một cách thức khác với khi tạo dựng vũ trụ và muôn loài, Thiên Chúa tạo dựng con người từ bụi đất rồi thổi hơi ban cho sự sống. Thiên Chúa tạo dựng con người và ban cho con người có một phẩm giá vô cùng cao quí, có khả năng tự biết mình, tự làm chủ chính mình và tự do, tự hiến cũng như thông hiệp với những người khác (x. GLCG 357).
b) Con người bất trung phản bội Thiên Chúa
Được dựng nên cách thánh thiêng để sống hòa hợp với Thiên Chúa và với các thụ tạo, nhưng con người đã lạm dụng tự do, làm theo ý mình, muốn bằng Thiên Chúa nên mất tin tưởng và không vâng phục Người. Hậu quả bi đát nhất đến với con người là cái chết; và từ tội đầu tiên này “Tội Nguyên tổ”, sự dữ đã lan tràn và thống trị khắp thế giới.
c) Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ
Thiên Chúa là Đấng toàn năng và trung tín, không những đã không bỏ rơi con người sau khi họ sa ngã, mà còn tìm đến với con người (x. St 3, 8 – 10); đồng thời lên án kẻ đã gây ra sự tội và Ngài còn hứa ban Đấng Cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (x St 3,15).
- Giai đoạn chuẩn bị (Thiết lập giao ước với nhân loại)
Tội lỗi của nhân loại ngày càng nặng nề, sự xúc phạm đến Thiên Chúa mỗi ngày thêm nghiêm trọng; thế nhưng, Thiên Chúa nhân hậu đã nhẫn nại chịu đựng và thiết lập các giao ước với con người để dẫn đưa con người về đường ngay nẻo chính; qua những vị đại diện là :
a) Với ông Noe (x. St 9,1-15)
Dưới thời của ông Nô-e, để thanh tẩy sự gian ác, tà vạy đang hủy hoại con người; Thiên Chúa đã dùng đại hồng thủy để rửa sạch mặt đất. Duy chỉ có gia đình ông Nô-ê là người công chính được Thiên Chúa chỉ cho cách đóng một con tàu để thoát cơn thịnh nộ của Người.
Sau cơn đại hồng thủy, Thiên Chúa ban phúc lành cho gia đình ông Nô-ê và thiết lập giao ước: “… Ta lập giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa.”
b) Với ông Áp-ra-ham (x. St 12)
Để chuẩn bị một dân tộc mới làm dân riêng của Chúa; Thiên Chúa đã chọn gọi ông Áp-ra-ham là người đã tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Thiên Chúa thiết lập giao ước với ông:
– Một dân tộc sẽ phát xuất từ Áp-ra-ham.
– Một đất nước thuộc sở hữu dân It-ra-en.
– Một phúc lành ban xuống cho dân nhờ Áp-ra-ham.
Sự cứu độ cả nhân loại bắt đầu với niềm tin của tổ phụ Áp-ra-ham.
c) Với ông Môi-sê
– Trong cuộc thần hiện tại Hô-rép, Thiên Chúa đã chọn Môi-sê làm thủ lãnh dân It-ra-en. Thiên Chúa đã mặc khải thánh danh của Ngài và thiết lập giao ước với con người. (Xh 3, 1 – 10)
– Trong biến cố vượt qua Biển Đỏ, Gia-vê Thiên Chúa đã tỏ hiện quyền năng khi giải thoát dân It-ra-en khỏi ách thống trị của người Ai Cập, giúp dân vượt qua Biển Đỏ để tiến về miền đất hứa. (Xh 14, 15 – 31). Cùng với những thử thách và thanh luyện trong hành trình về đất hứa, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân It-ra-en: “…Nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh…”(x. Xh 19, 5-6). Đây là Giao ước quan trọng nhất trong thời Cựu Ước và là giao ước Thiên Chúa ký kết với dân Ít-ra-en qua vị đại diện là ông Môi-sê trên núi Si-nai.
Giao ước Thiên Chúa ký kết với dân Ít-ra-en, có nội dung: Thiên Chúa hứa sẽ chăm sóc và hướng dẫn dân Ít-ra-en; ngược lại dân Ít-ra-en phải nhìn nhận và phụng sự một mình Ngài là Thiên Chúa duy nhất.
Ngoài ra, Thiên Chúa còn ban Mười Điều răn để làm nền tảng cho lề luật mà dân It-ra-en phải tuân giữ để tôn thờ Người.(x. Xh 29, 1-17) đồng thời Người cũng sai các ngôn sứ đến với dân, tiêu biểu như ngôn sứ I-sa-i-a, Giê-rê-mi-a, Đa-ni-en, Ê-dê-ki-en.
Mặc dầu Thiên Chúa đã thử thách và tôi luyện sự trung tín của dân trong hành trình 40 mươi năm về đất hứa, nhưng dân vẫn vi phạm giao ước. Thế nên, Thiên Chúa đã nhiều lần sai các ngôn sứ đến nhắc nhở, khiển trách và trừng phạt dân để họ trở về với Người.
Qua các biến cố, các sự kiện trong hành trình về đất hứa; Thiên Chúa rất mực khoan dung, nhân hậu, chịu đựng và tha thứ cho dân It-ra-en. Đồng thời để củng cố niềm mong đợi được giải thoát của It-ra-en, Thiên Chúa đã ban cho các dấu hiệu báo trước về Đấng Cứu Thế như:
Mạch nước tuôn trào từ tảng đá (x. Xh 17, 1-7); Con rắn đồng được treo lên (x. DS 2I, 4-9); lương thực Manna (x. Xh 16, 3-5)
II. THỜI TÂN ƯỚC (Giai đoạn thực hiện ơn cứu độ)
Để thực hiện ơn Cứu độ, Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người đó là Đức Giêsu Na-da-rét; Đức Giêsu rao giảng Nước Trời, kêu gọi con người sám hối và tin vào Tin Mừng; đồng thời Ngài mời gọi và trao sứ mệnh cho một số người cộng tác:
1. Sứ mệnh của Gio-an Tiền Hô
Thánh Gio-an Tiền Hô đã được sai đến để trực tiếp dọn đường cho Đức Ki-tô, thánh nhân là “Ngôn sứ của Đấng Tối Cao” (Lc 1,76). Ngài trổi vượt hơn tất cả mọi ngôn sứ và là vị ngôn sứ khai mạc thời kỳ Tân Ước.
2. Sứ mệnh của Đức Ma-ri-a
Để thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai sứ thần đến loan báo cho Đức trinh nữ Ma-ri-a: “ Này bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1, 31).
Chúa Thánh Thần đã chuẩn bị Đức Maria bằng ân sủng của Người. Nơi Đức Maria, Thánh Thần đã thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Nhờ và bởi Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã thụ thai và sinh hạ người Con Thiên Chúa (GLCG 723). Cuối cùng, nhờ Đức Maria, Thánh Thần đã đưa con người – vốn được Thiên Chúa yêu thương – vào trong mối hiệp thông với Đức Ki-tô.
3. Thiên Chúa nhập thể
Theo cách nói của Thánh Gio-an tông đồ: “ Ngôi Lời đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14). Con Thiên Chúa đã mang lấy bản tính nhân loại để thực hiện trong bản tính ấy việc cứu độ chúng ta. Hội Thánh gọi đó là mầu nhiệm nhập thể.(x. Pl 2, 5-8)
4. Ngôi Lời sinh hạ làm người
Tin Mừng theo thánh Lu-ca tường thuật, Sứ thần đã báo tin cho các mục đồng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (Lc 2, 11 – 12). Đó là Đức Gêsu Kitô.
a/ Cuộc đời thơ ấu của Đức Gêsu
Bao gồm một chuỗi các sự kiện liên quan đến mầu nhiệm nhập thể của Đấng Cứu Thế như : Giáng sinh, tuân giữ luật cắt bì, các nhà thông thái đến kính viếng, dâng Chúa vào đền thờ, việc chạy trốn sang Ai Cập và việc vua Hê-rô-đê tàn sát các trẻ thơ,…
b/ Cuộc đời ẩn dật của Đức Gêsu
Sau khi Hê-rô-đê băng hà, thánh Giu-se đem Chúa Giê-su trở về quê hương Na-gia-rét và sống ẩn dật ở đó trong khoảng 30 năm. Biến cố quan trọng của thời kỳ ẩn dật này là con trẻ Giê-su, năm 12 tuổi, đã ngồi đàm đạo với các thầy thông luật trong đền thờ Giê-ru-sa-lem vào dịp cùng Đức Maria và thánh Giu-se lên đền thờ dự lễ (x Lc 2, 41 )
c/ Cuộc đời công khai của Đức Gêsu
- Đức Gêsu chịu phép rửa
Đức Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai bằng phép rửa của Gio-an tiền hô ở sông Gio-đan. Với phép rửa của Gio-an, Đức Giê-su chấp nhận và khai mạc sứ mệnh của “Người tôi tớ đau khổ”. Ngài để cho mình bị kể vào số tội nhân, nhưng Ngài là “ Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Lúc Chúa Giê-su chịu phép rửa, cửa trời mở ra và nước được thánh hóa, báo trước cuộc sáng tạo mới sắp bắt đầu (GLCG 536)
- Giáo huấn đầu tiên:
Khởi đầu công khai rao giảng, Đức Ki-tô công bố Tin Mừng của Thiên Chúa: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,15)
- Đức Giê-su rao giảng Nước Thiên Chúa
Tất cả mọi người được kêu gọi gia nhập Nước Trời. Tuy thế, Nước Thiên Chúa được dành ưu tiên cho kẻ nghèo hèn, bé mọn và tội lỗi: (Lc 4,18 – Mt 11, 25 – Mc 2, 17)
d/ Hiến tế đền tội và tạ ơn
- Cuộc thương khó của Đức Giê-su Kitô
Sau ba năm giảng dạy chân lý cứu độ, Đức Giê-su bị các nhà lãnh đạo và dân It-ra-en kết án: Bị bắt, bị tra tấn và bị đóng đinh, treo trên thập giá; Đức Giê-su đã chịu chết, được mai táng trong mồ, đến ngày thứ ba Người sống lại và lên trời.
Toàn bộ cuộc sống của Đức Giê-su là một hiến lễ dâng lên Thiên Chúa Cha: bởi những đau khổ nơi tâm hồn Người đã gánh chịu khi bị người đồng hương khinh bỉ, miệt thị, khi bị người đời nhạo báng phỉ nhổ; bởi những đau đớn tột cùng nơi thân xác trong cuộc khổ nạn. Khi bị treo trên Thập giá, Người vừa là tư tế, vừa là tế đàn, vừa là của lễ hiến dâng lên Chúa Cha để cứu độ nhân loại.
e/ Vinh hiển sống lại và lên trời
+ Sống lại
– Đức Ki-tô phục sinh là một biến cố có thật với những chứng từ có giá trị lịch sử, được Tân Ước xác nhận. Trong thư Thánh Phao-lô gửi cho tín hữu Cô-rin-tô : “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
+ Lên trời
Sau khi phục sinh khoảng bốn mươi ngày, Đức Giê-su đã về trời ( Lc 24, 50-53 ). Người đã từ Thiên Chúa mà đến thì nay Người trở về cùng Thiên Chúa là Cha của Người: “….Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em”.
Ba biến cố: tử nạn, phục sinh và lên trời của Đức Giê-su không thể tách biệt nhau, mà liên kết chặt chẽ trong mầu nhiệm Vượt Qua và trở thành tâm điểm chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa như thánh Phê-rô đã minh định trước mặt dân chúng: “Đức Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, và Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội” (Cv 5, 30-31)
f/ Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi lời nhập thể đã hoàn tất công trình cứu độ:
Trong thời kỳ thực hiện ơn cứu độ, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước mới với nhân loại qua trung gian là chính Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Ngài.
Trong giao ước cũ, Thiên Chúa thường dùng máu chiên bò để ký giao ước với loài người. Còn trong giao ước mới, Thiên Chúa đã dùng chính máu Con Một Người là Đức Giê-su Ki-tô.
Tưởng niệm cuộc thương khó của Đức Giê-su Kitô trong ngày thứ ba TAM NHẬT THÁNH, chúng ta nhìn lại những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho loài người từ thời Sáng Thế…vì tội lỗi chúng ta và để cứu rỗi chúng ta. Nhờ đó cảm nếm sâu xa hơn lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người chúng ta mà tin tưởng, yêu mến ném cả cuộc đời mình vào tình yêu vô biên của Ngài..
CẦU NGUYỆN
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng hằng hữu, Cha đã chẳng nuối tiếc khi ban Con Một Ngài là Đức Giê-su Ki-tô làm giá cứu chuộc con thoát khỏi tội lỗi và những đau khổ do tội gây ra. Xin cho con biết cậy nhờ ơn Cha mà sống hiệp thông với Đức Giê-su Kitô qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Người, để con luôn xứng đáng với tình yêu độ lượng, hay thương xót của Cha.