Tin Mừng: Lc 1,26-38
✠ Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca
26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.
28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”
35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
MỤC LỤC
- Theo chân Mẹ cất tiếng xin vâng (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
- Truyền tin (Lm. Giuse Ngô Mạnh Điệp)
- Đấng đầy ơn phúc (P. Trần Đình Phan Tiến)
- Đức tuân phục (Trầm Thiên Thu)
- Cám ơn mẹ đã sinh con ra (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
- Sứ điệp vĩ đại (Trầm Thiên Thu)
- Niềm vui Kitô hữu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
- Này tôi là nữ tỳ của Chúa (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
- Hai cuộc truyền tin (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
- Xin vâng như Mẹ Maria (JB. Lê Đình Nam)
- Từ lúc Mẹ nói lời xin vâng (Huệ Minh)
- Một đời xin vâng
- Suy niệm của Đức Cha JB. Bùi Tuần
- Suy niệm của Lm. Lê Quang Uy DCCT
- Suy niệm của Sr. Tâm Năng
- Sống lời Chúa – Xin vâng
- Lễ truyền tin
- Xin vâng
- Suy Niệm của Lm. Don Bosco Trần Đức Quý
- Suy Niệm của Đan Quang Tâm
- Bông Hoa Hé Nở
***
THEO CHÂN MẸ CẤT TIẾNG XIN VÂNG
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Truyền Tin là cơ hội để chúng ta nhìn vào Nagiaret hầu cảm nhận được sự hiện diện của một trinh nữ mà muôn đời khen là có phúc (x. Lc 1, 48). Thánh Augustinô viết : ” Ngài đã chọn một người mẹ mà Ngài đã tạo dựng, Ngài đã tạo dựng người mẹ mà Ngài đã chọn “(x. Bài giảng 69, 3, 4).
Hôm nay, chúng ta cử hành mầu nhiệm cao cả tuyệt vời đã hoàn tất cách đây hơn hai ngàn năm. Sự kiện ấy diễn ra trong không gian và thời gian : ” Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nagiarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đa-vít, Trinh nữ ấy tên là Maria “(Lc 1 , 26-27 ). Tuy nhiên, để hiểu được những gì đã xảy ra tại Nagiaret hơn ngàn năm về trước, chúng ta lần dở lại Thư gửi tín hữu Do thái. Bản văn này thuật lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Con về kế hoạch đời đời của Thiên Chúa. ” Chúa đã không muốn hy tế và của lễ hiến dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác. Chúa không nhận của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội “. Nên tôi nói : “ Lạy Chúa, này tôi đến để thi hành thánh ý Chúa ” (Dt 10, 5-7). Như thế, vì vâng ý Chúa Cha, Ngôi Lời đến đã đến cư ngụ giữa chúng ta, dâng chính thân mình làm của lễ hy sinh vượt trên mọi hy lễ đã dâng trong Cựu Ước. Lễ hy sinh của Chúa Giêsu là lễ vĩnh viễn và hoàn hảo cứu chuộc thế gian.
Kế hoạch của Thiên Chúa dần dần được thể hiện trong Cựu Ước, lời tiên tri Isaia là bằng chứng : ” Vì thế chính Chúa sẽ cho các ngươi một dấu, này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ sẽ gọi là Immanuel ” (Is 7, 14). Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Khi thời gian tới hồi viên mãn như đã báo trước, những lời trên được thực hiện, ngày hôm nay chúng ta cử hành với hạnh phúc và niềm vui.
Từ Abraham đến Đức Maria
Hành trình truyền tin khởi đi từ Abraham ” cha chúng ta trong đức tin” (x. Rm 11, 12 ). Đưa chúng ta về Nagiaret, gặp Đức Maria nữ tử Sion thuộc dòng dõi Abraham. Hơn ai hết, Đức Maria là người có thể dạy cho chúng ta sống đức tin với ” Cha chúng ta.”
Abraham và Đức Maria, cả hai đều nhận được từ Thiên Chúa lời hứa tuyệt hảo. Abraham sẽ trở thành cha một cậu con trai, sinh ra một quốc gia vĩ đại. Đức Maria sẽ trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng Được Xức Dầu của Chúa. Sứ thần Gabriel nói , “Này Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai […] Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người […] và triều đại Người sẽ vô tận ” (Lc 1, 31-33) .
Lời hứa của Thiên Chúa đến với Abraham và Đức Maria thật bất ngờ, làm thay đổi cuộc sống hàng ngày và đảo lộn những trật tự bình thường của hai đấng. Lời hứa ấy là hoàn toàn khổng thể đối với Abraham và Đức Maria. Sara vợ của Abraham đã lão, Maria còn trinh nữ nên đã thưa với Thiên Thần : ” Việc đó xảy ra thế nào được, vì tôi không biết đến người nam ” (Lc 1, 34).
Lời “xin vâng” của Abraham và Đức Maria
Cả Abraham và Đức Maria đều được yêu cầu trả lời “xin vâng ” cho một điều mà từ trước tới nay chưa từng thấy thế bao giờ. Sara, người đàn bà son sẻ đầu tiên trong Kinh Thánh thụ thai bởi ân sủng quyền năng của Thiên Chúa, giống như người phụ nữ sau cùng là bà Isave. Thiên Thần Gabriel nói về Isave để trấn an Đức Maria : “Này Isave, chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già ” (Lc 1, 36).
Như Abraham, Đức Maria cũng phải bước đi trong đêm tối, tin tưởng vào Đấng đã kêu gọi Maria. Tuy nhiên, câu hỏi ” việc đó xảy ra thế nào được ? ” chứng tỏ Đức Maria đã sẵn sàng thưa ” xin vâng ” bất chấp mọi hoàn cảnh. Maria không đặt câu hỏi liệu lời hứa có được thực hiện hay không, nhưng chỉ hỏi việc đó xảy ra thế nào và đã thưa : “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1, 38). Với những lời trên, Đức Maria chứng tỏ mình là nữ tử thuộc dòng dõi Abraham đã trở thành Mẹ Chúa Kitô và Mẹ của tất cả các những người tin.
Để hiểu rõ hơn mầu nhiệm này, chúng ta nhìn lại hành trình của Abraham khi đón ba vị khách lạ vào nhà mình (x. St 18, 1-5) ông đã nhận được lời hứa. Cuộc gặp gỡ nhiệm mầu ấy báo trước buổi Truyền Tin cho Đức Maria. Sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần lôi kéo Mẹ. Nhờ lời thưa “xin vâng” của Đức Maria tại Nagiaret mà mầu nhiệm Nhập Thể hoàn tất cuộc gặp gỡ của Abraham với Thiên Chúa. Hôm nay chúng ta hát mừng người nữ ” đem vầng hồng rực rỡ xuống trần gian” ( Hymne Ave Regina Caelorum ).
Chúng ta xin gì cùng Mẹ Thiên Chúa ?
Chúng ta nhờ Mẹ xin Chúa ban thêm lòng tin cho chúng ta, để chúng ta ý thức và can đảm tuyên xưng như vẫn đọc trong Kinh Tin Kính : “Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người “.
Tại Nagiaret, Chúa Giêsu ” đã ngày càng tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” ( Lc 2 , 52 ). Chúng ta xin Thánh Gia để bảo vệ tất cả các gia đình khỏi các mối đe dọa hiện nay đang đè nặng trên các gia đình. Chúng ta phó thác cho Thánh Gia tất cả những ai đang nỗ lực bảo vệ sự sống và cổ võ việc tôn trọng phẩm giá con người. Chúng ta phó dâng cách riêng các gia đình trẻ, những đôi bạn chuẩn bị kết hôn trên thế giới cho Mẹ Maria.
Tại Nagiaret, nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai, chúng ta xin Đức Maria giúp Hội Thánh rao giảng “Tin Mừng ” khắp mọi nơi. Chúng ta xin Mẹ dạy chúng ta khiêm tốn, vâng phục và niềm vui Phúc Âm để phục vụ anh chị em.
Nhờ lời ” xin vâng ” của Mẹ lúc Truyền Tin, cánh cửa ơn cứu rỗi đã mở ra cho nhân loại. Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa và mau mắn thưa ” xin vâng ” với Chúa như Mẹ. Amen.
.
TRUYỀN TIN
Lm Giuse Ngô Mạnh Điệp
Không biết – về tốc độ đẩy tin tức đi nhanh nhất có thể – thì – ở thời điểm này – khoa học về truyền thông đã đụng trần rồi hay chưa…
Ai nghĩ sao và có thêm những cố gắng gì hơn nữa…thì không biết, nhưng bản thân người viết…thì nghĩ như thế đấy: về mặt tốc độ tin tức…thì khó có thể nhanh hơn được nữa…Những mặt khác và những tiện dụng khác…thì không dám nói, nhưng về mặt tốc độ…thì … là như thế…
Tuy nhiên “nhanh” … chưa hẳn là “tốt”…và nhanh không có nghĩa là thoát khỏi tình trạng “vấp phải đá” và “quàng phải giây” …
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây ( Ca Dao)
Thú thật mỗi buổi sáng, cái khoái của tuổi hưu là còn có thể lướt mạng, lang thang vùng này vùng khác với trăm ngàn những mẩu chuyện vui buồn ở mọi nơi và trong mọi lúc: những việc người ta làm, những điều người ta nói, những góc khuất ở đây đó…Cả đống rác rến truyền thông được quăng lên…Người viết may mắn lắm mới vớ được đôi ba mẩu chuyện đời đáng kể để làm vốn cho những bài viết của mình…Còn lại là những thứ để mà “xóa”…thế thôi…Nhưng vẫn phải lướt…vì không có gì buồn cho bằng tuổi hưu mà không có việc chi đó để mà làm…
Đừng nói đến cầu nguyện…Không ai cầu nguyện suốt cả ngày chứ đừng nói chi đến tuần, đến tháng, đến năm…
Đừng nói đến “ đọc sách”…vì cũng chẳng can đảm lắm để mà đọc ngày này qua ngày khác: nào là bệnh mắt, nào là bệnh cột sống, nào là bệnh đau đầu…
Khoái trá vẫn là chuyện lướt mạng…và khoái trá hơn nữa vẫn là chuyện còn đủ đầu óc để mà sàng, mà lọc hầu có thể gom lượm được đôi ba điều hay, điều tốt – hữu ích cho mình và có thể chia sẻ với người…
Cho nên – dù sao thì vẫn tạ ơn Thiên Chúa đã cho thế giới con người những bộ óc tìm tòi và cám ơn những sáng kiến cải thiện đời sống con người nơi những bộ óc đặc biệt – quý vị có thể là không muốn nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng chi tiết và tỷ mỷ với hàng vạn, hàng ngàn những giây nhợ li ti trong não bộ của quý vị…để quý vị suy nghĩ, thử nghiệm…và chào hàng…Bản thân người viết…thì…vẫn hết sức khâm phục sự siêu việt của Thiên Chúa qua những công trình của con người…
Thế nhưng những người sử dụng thành quả của những bộ óc kiệt suất…thì lại quá tệ…
Cả những người có đầu óc…lẫn những cô cậu trẻ người non dạ…
Người ta nói đến thứ quyền lực thứ 4 : quyền lực của truyền thông…Và khi đề cập đến quyền lực của truyền thông…thì người ta nghĩ ngay đến những “mặt trái” của thứ quyền lực này: lèo lái quần chúng cứng hay mềm theo ý mình muốn và mang lại lợi ích cho mình hay cho những người thuê mướn mình – nghĩa là ngòi bút bị bẻ cong…Bút viết thì hết thời rồi, nhưng bàn phím cũng là một thứ bút, bởi vì cũng hình thành những giòng chữ…
Lớp trẻ “tự sướng”…thì ưng chi nói nấy, nói bằng thứ ngôn ngữ mà những người ở tuổi của người viết phải mất cả giờ đoán già đoán non mới mò hết một hàng chữ viết của chúng…Và bản thân lớp trẻ “tự sướng” này cũng chẳng hiều chi về những kiểu nói, những cụm từ của thế hệ người lớn tuổi…Đã đôi ba lần người viết được yêu cầu giải thích “gấp” về những cụm từ như Hội Nhập Văn Hóa, Phúc Âm Hóa, Tân Phúc Âm Hóa, Tái Phúc Âm Hóa…để kịp đi làm bài thi…Cho thấy không mấy người trẻ hiểu gì, và không hiểu – dĩ nhiên – cũng không sống…Mong rằng các đấng bậc có trách nhiệm quan tâm hơn về phương diện này: khi người ta không hiểu được ý nghĩa của các cụm từ thì người ta cũng sẽ mù tịt về sứ điệp mà cụm từ muốn trình bày…Mà mỗi cụm từ chuyên biệt như trên – muôn rõ ràng – thì chí ít cũng ba bốn tiết học…chứ “gấp” chỉ là giải pháp vá đắp…
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây
Thật vậy, Thiên Chúa không bao giờ vội vàng trong công việc của Người, vì Người trân trọng con người…
Giáo Hội mừng Lễ Truyền Tin và giới thiệu với con người mô-típ truyền tin của Thiên Chúa thực hiện với con người vì ơn cứu rỗi và hạnh phúc của con người…Chúng ta thấy được gì qua sự kiện Truyền Tin này?
Thứ nhất: Thiên Chúa cực kỳ kiên nhẫn khi chuẩn bị một tin quan trọng vào bậc nhất cho con người chúng ta – một sự kiên nhẫn trải dài suốt lịc sử của Cựu Ước, không phải vì Thiên Chúa, nhưng là vì con người và để cho con người được chuẩn bị đủ hầu có thể đón nhận tin vui ấy…Đây cũng là bài học cho những người làm công việc truyền tin: không phải cho mình và vì mình, nhưng là cho người và vì người…nên phải cẩn trọng, phải kiên nhẫn…
Thứ hai: Thiên Chúa tuyệt vời trong thái độ trân trọng đối tượng được chọn để loan tin…Trong sự kiện là Đức Maria và – qua Đức Maria – là toàn thể nhân loại…Một cô bé chỉ khoảng độ trên dưới 16 tuổi, vô danh tiểu tốt trong một làng quê cũng chẳng có danh tiếng gì…Nhưng Thiên Chúa nhìn thấy con người ấy, Thiên Chúa nhận ra khuôn mặt của nhân loại nơi con người ấy: một khuôn mặt đẹp và đáng để được làm cho rạng rỡ hơn nữa…Thiên Chúa cũng muốn những người làm công tác truyền thông biết trân trọng đối tác mình nhắm tới và đưa ra những gì làm cho khuôn mặt nhân loại ngày càng rạng rỡ hơn…Bởi vì mỗi một con người là một tuyệt tác phẩm có một không hai của Tạo Hóa…Làm hư hoại đi thì quả thực là…không biết nói sao!!!
Thứ ba: người đưa tin là một “nhân vật” có uy tín và đáng tin cậy: trong sự kiện là sứ thần Ga-bri-el…Truyền tin thời @ là mạng…và trên mạng là những tin tức: thượng vàng hạ cám, thậm chí dẫy đầy những thứ bẩn thỉu trong ngôn ngữ cũng như hình ảnh, bẩn thỉu cả trong lãnh vực thông thường lẫn địa chính trị của phe nhóm, của chủ thuyết…Ông bạn lão thành “trà dư tửu hậu” với người viết một nhận định về những trùm quyền lực thế giới: bọn họ là những tay nghiện games không thua gì bọn trẻ!!! Nghĩa là cuộc thế sự được coi như một thứ “Game Show”… Không lạ gì mà chỉ thấy lửa khói và chém giết khắp mặt đất dễ thương này…Buồn da diết ở chỗ phần đa số con người bị coi như những “đối tượng” phải tiêu diệt…để có được bàn thắng!!!
Thứ tư: Thiên Chúa tuyệt đối trân trọng chọn lựa của con người đứng trước đề nghị của Người…Không có chuyện áp đặt…Không có chuyện cưỡng bức…Thông tin của con người khi được quăng lên một phương tiện truyền thông nào đó thì – nhiều hay ít – cũng có những “ý đồ” nhằm khuynh loát đám đông…Đấy không phải là đường lối của Thiên Chúa và không là cách “ truyền thông” của Người…Dĩ nhiên không có thứ truyền thông nào trong thế giới con người mà không nhắm một mục đính, nhưng truyền thông có lương tâm buộc chúng ta cố gắng khách quan tối đa để trân trọng “đối tượng” của mình…Không phải mèo khen mèo dài đuôi, nhưng phải nói thẳng là những người tin Chúa làm truyền thông tương đối có nhân văn…Phải chăng cũng là nhờ Tin Mừng Chúa…
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô – trong Sứ Điệp cho Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội làn thứ 50 – ngày 24/10/2016 – có nói:
“Email, tin nhắn, mạng xã hội và trò chuyện cũng có thể là những hình thức truyền thông đầy tính nhân văn. Không phải là công nghệ xác định truyền thông có xác thực hay không, mà là trái tim con người và khả năng của con người biết sử dụng một cách khôn ngoan các phương tiện sẵn có. Các mạng xã hội có thể giúp cho những mối tương quan được dễ dàng và thúc đẩy thiện ích của xã hội, nhưng chúng cũng có thể làm gia tăng sự phân cực và chia rẽ giữa các cá nhân và các nhóm. Thế giới kỹ thuật số là một quảng trường, là nơi gặp gỡ mà ở đó người ta có thể yêu thương hay gây đau thương, tham gia một cuộc thảo luận bổ ích hay ném đá nhau tàn nhẫn. Tôi cầu xin cho Năm Thánh này, khi được sống với lòng thương xót, “ giúp chúng ta cởi mở hơn trong đối thoại, để có thể hiểu biết và cảm thông nhau nhiều hơn…Mong sao Năm Thánh sẽ giải tỏa mọi thái độ khép kín và thiếu tôn trọng, cũng như loại bỏ mọi hình thức bạo lực và kỳ thị” ( Misericordiae Vultus, 23). Internet có thể giúp chúng ta trở nên những công dân tốt hơn. Việc tham gia các mạng kỹ thuật số đòi hỏi chúng ta phải có trách nhiệm đối với người thân cận của mình – dù chúng ta không nhìn thấy họ nhưng họ vẫn có thật và có một phẩm giá phải được tôn trọng…Internet có thể được sử dụng một cách khôn ngoan để xây dựng một xã hội lành mạnh và mở ra để sẻ chia.”
Và Ngài kết luận:
“Truyền thông – dù ở đâu và bằng cách nào – cũng mở ra những chân trời rộng lớn hơn cho nhiều người. Đấy là quà tặng của Thiên Chúa kèm theo một trách nhiệm lớn lao. Tôi muốn dùng từ “sự gần gũi” để nói về sức mạnh của truyền thông này. Cuộc gặp gỡ giữa truyền thông và lòng thương xót sẽ mang lại hoa trái vì nó tạo nên được sự gần gũi để chăm sóc, an ủi, chữa lành, đồng hành và chung vui với nhau. Trong một thế giới vụn vỡ, phân mảnh và phân cực, truyền thông với lòng thương xót…có nghĩa là giúp kiến tạo sự gần gũi lành mạnh, tự do và huynh đệ giữa con cái Thiên Chúa và mọi người anh chị em của chúng ta trong một gia đình nhân loại duy nhất.”
Nhân ngày lể kính sự kiện thiên sứ Ga-bri-el vâng lới Thiên Chúa đến gặp gỡ Đức Maria để thông báo và xin ý kiến Đức Maria về việc việc Thiên Chúa muốn chọn Ngài cộng tác với Thiên Chúa hầu phục hồi tình trạng nguyên tuyền cho con người qua tạo dựng mới nơi Đức Ky-tô Thương Khó – Tử Nạn – Phục Sinh, xin được chia sẻ một đôi suy nghĩ về Truyền Thông.
.
ĐẤNG ĐẦY ƠN PHÚC
- Trần Đình Phan Tiến
“Kính chào bà, đấng đầy ân phúc, Đức Chúa ở cùng bà !” . Nghe lời ấy, Đức Mẹ thật bối rối, vì trong lúc cầu nguyện, sứ thần hiện đến cùng Mẹ và thưa cùng. Thật vậy, lời chào ấy là một lời chào” trần đầy ân phúc”, bởi vì chưa có một thụ tạo nào cao quý, trọng vọng như Mẹ. Có thể nói từ cổ chí kim, vô tiền khoáng hậu, chưa có nhân vật nào được diễm phúc nhận lời chúc mừng của sứ thần như Mẹ. Vâng, chính Mẹ cũng lấy làm bối rối .Tại sao vậy, thưa quý vị ? Thưa, bởi vì, “ … Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”. Nhưng, Đức Mẹ càng ngạc nhiên hơn, vì : “ tôi không biết đến việc vợ chồng”. Vâng, chúng ta thấy sự đối đáp giữa sứ thần Gapriel và Đức Maria là một sự đối đáp rất “tự nhiên “ và chân thành. Vì , không biết đến việc vợ chồng thì làm sao sinh con ?! vâng, một sự đối đáp rất hiển nhiên, không một chút do dự. Nhưng, sứ thần đáp : “ Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” ( c 35).
Vâng , sự đối đáp giữa sứ Thần và Đức Trinh Nữ Maria đến đây được kết thúc, vì không còn gì để trao đổi nữa, sau khi sứ thần nói tiếp : “Kìa người chị họ của Trinh Nữ, người mà thiên hạ vẫn chê cười vì không có con, mà nay đã mang thai được sáu tháng. Vì, không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được.( c 36 -37)
Vâng, bởi đâu, Đức Trinh Nữ Maria đạt được điều diễm phúc như vậy? Vâng, chúng ta suy tư về Mẹ nhé !
- Thứ nhất : Đặc tính khiêm nhường thẳm sâu.
Bởi vì, Mẹ là một kiệt tác như được uốn nắn, gọt giũa, tô điểm, và trân quý nhất trong bàn tay Thiên Chúa, một thụ tạo thấp hèn, nhưng chiếm được “Thánh Ý “, nói cách khác là đẹp lòng Thiên Chúa. Đến đây chúng ta có thể hiểu được Mẹ HOÀN TOÀN không tỳ vết cả thể xác lẫm tâm hồn, Mẹ thánh khiết vẹn tuyền, mà các thánh ví như “bình pha lê” dưới ánh sáng mặt trời. tiếp đến Mẹ được Chúa Thánh Thần ban tràn ân sủng, và Ngôi Hai ngự xuống. Như vậy, cung lòng vẹn sạch không tỳ ố trước và sau khi nhận “TRUYỀN TIN “ của Mẹ thật là một “diễm phúc”, và như vậy, Giáo Hội tuyên tín Mẹ là ” ĐẤNG VÔ NHIỄM NGUYÊN TÔI” là như vậy.
- Thứ Hai : Mau mắn tín trung vào Mầu Nhiệm Truyền Tin .
Do nhận được một đăc ân trọng đại là sự khiêm nhường thẳm sâu, Đức Trinh Nữ Maria như ngập tràn ân sủng bởi Trời cao. Linh hồn và thể xác của Mẹ hoàn toàn thánh thiện như pha lê trong suốt, vì vậy, Sự thánh thiện nầy, ngày nay, như người Kitô được sạch tội trọng và được rước Chúa Giêsu Thánh Thể vậy. Và từ tận sâu thẳm tâm hồn Mẹ, Mẹ đã cất lên bài ca Ngợi Khen ( Magnificat) tuyệt vời vô song.
- Thứ ba : Đáp lại và cộng tác vào công trình Cứu Chuộc nhân loại của Thiên Chúa.
Vâng, Mẹ đã gánh vác trọng trách là Mẹ Đấng Cứu Chuộc, có nghĩa là Mẹ cưu mang và ôm trọn mầu nhiệm làm Người, đau khổ, Tử nạn và Phục Sinh của Con của Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa, vì vậy, Mẹ đã được kêu mời để trở nên một “thụ tạo” tuyệt hảo, tham dự vào công cuộc “khổ hình sinh ơn cứu độ” của Đức Kitô.
Như vậy, Mẹ mang lấy cuộc đời Chúa Cứu Thế không những phần nhân tính mà còn phần siêu nhiên của Chúa Giêsu, nếu không mầu nhiệm cứu độ không hoàn tất được. Và , những nỗi khổ đau cảu Mẹ, gọi là ”sầu bi” là những đau thương bởi cuộc đời Chúa Cứu Thế, và như thế, Mẹ được gọi là : “Người Nữ Thánh Thể”.
Vâng, Mẹ được diễm phúc vì Mẹ được đi trọn cuộc hành trình cứu độ tại thế trần của Ngôi Hai Thiên Chúa. Rõ ràng, từ giây phút nhập thể, là ngày Mẹ nhận ơn truyền tin, đến hành trình Nhập Thế, và kết thúc ngày Chúa Phục Sinh. Có thể nói, mầu nhiệm Mẹ nhận được ơn Truyền Tin , mà sứ thần gọi Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc “ không phải hiểu như thế gian, mà là đước gắn liền với mầu nhiệm Làm Người , rao giảng, Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô.
Theo đó, hành trinh thiêng liêng của Đức Mẹ, ngày mà Mẹ nhận sứ vụ cưu mnag, sinh hạ Đấng Cứu Thế, ngày mà Mẹ được gọi là diễm phúc, không phải là ngày bắt đầu hưởng “ vinh hoa phú quý”., mà ngày mang lấy “trọng trách” Thập giá, và quả thật, Mầu Nhiệm thập giá nơi Mẹ thật “ âm thầm” nhưng không kém phần đau thương. Nỗi đau của một người Mẹ có một Người Con đền thay tội lỗi nhân gian là một nỗi đau “ khôn tả” , nhưng “TRÀN ĐẦY DIỄM PHÚC”.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, Cha đã ban cho loài người ơn cứu chuộc, nhưng Cha đã kêu mời những con người cách riêng như Đức Trinh Nữ Maria, thánh Cả Giuse là người cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ của Đức Kitô. Xin Cha thương ban cho những ai tiếp bước Người được nhờ lời chuyển cầu của Ba Đấng mà ban ơn cứu độ cho chúng con, và cho chúng con xứng đáng bước theo Người./. Amen.
.
ĐỨC TUÂN PHỤC
Trầm Thiên Thu
Tuân phục là một nhân đức quan trọng,quý hơn cả lễ vật(1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), và có liên quan đức tin: có tin tưởng thì mới vâng lời. Đức Mẹ là người tuyệt đối tín thác vào Thiên Chúa nên cũng tuyệt đối tuân phục Ngài. Lễ Truyền Tin nói lên điều đó. Đức tuân phụclà một trong ba lời khấn của các tu sĩ, nhân đức này phải được dựa trên nền tảng kiên cố là đức khiêm nhường.
Mùa Chay đầy gai nhọn và đinh sắc, phủ màu tím khổ đau của Đức Kitô, nhưng lại có niềm vui khởi đầu Ơn Cứu Độ: Chúa Cha trao ban Con Một cho nhân loại. Lễ Truyền Tin là Đại Hỉ Tínkhông chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Em-ma-nu-en, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Mầu nhiệm thứ nhất Mùa Vui: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria, Giáo Hội dạy chúng ta cầu xin biếtSỐNG KHIÊM NHƯỜNG.
Thật tuyệt vời, chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui được nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!
Đối với hỉ tín thứ nhất, chúng ta có Thánh ca “Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Đối với hỉ tín thứ nhì (nhưng lớn hơn), chúng ta có Thánh ca “Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.
Chắc hẳn chẳng có bút sách hoặc văn lực nào có thể nói đầy đủ về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa, một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện “thụ thai mà còn đồng trinh”, có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét đã xác nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43). Quá đỗi nhiệm mầu và vô cùng kỳ diệu!
Từ ngàn xưa, Đức Chúa đãnóivới vua A-khát: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”(Is 7:11). Thiên Chúa cho phép xin, nhưng ông không dám xin: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Đó là cách sống đức tin và khiêm nhường, tấm gương sáng ngời để mỗi chúng ta cần phải thường xuyên “soi” mình xem dung nhan linh hồn thế nào rồi.
Ngôn sứ I-sai-a đã nghiêm túc cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14).
Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng ta, vì chúng ta vẫn có “máu nổi loạn” là làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ, tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, thấy có gì “khác thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả, thậm chí còn thêm đủ thứ “gia vị”. Biết bao người đã và đang là “nạn nhân” của những “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Tương tự, người ta chỉ mong được thấy “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính cuộc sống của những người đó chẳng thấy có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Như thế cũng chỉ là vô ích. Thậm chí có người còn nói thấy Chúa, thấy Mẹ, hoặc thấy “người lạ” nào đó, muốn người khác biết mình là “thị nhân” đấy!
Thế nhưng các “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Có thật vậy sao? Đúng như thế!Các “dấu lạ” minh nhiên về KHÔNG KHÍ để chúng ta hít thở từng giây để có thể sống, về ÁNH SÁNG, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sựở giữa chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.
Đức vâng lời là nhân đức thể hiện sự khiêm nhường. Vâng lời là lời khấn thứ nhất của các tu sĩ, sau đó mới là sống nghèo khó và khiết tịnh (có dòng còn thêm một hoặc hai lời khấn khác). Tác giả Thánh Vịnh nói: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đã mở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi, con liền thưa: ‘Này con xin đến!’. Trong sách có lời chép về con rằng: con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con” (Tv 40:7-9). Điều này được thể hiện rõ nét nơi Đức Mẹ, vì Đức Mẹ cũng là người ít nói, biết được gì thì cũng “hằng ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2:19).Quả thật, im lặng là vàng!
Với niềm vui trong lòng, tác giả Thánh Vịnh bộc bạch: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh. Đức công chính của Ngài, con chẳng giữ riêng lòng mình biết; nhưng con đã nói lên đức trung tín và ơn cứu độ của Ngài, chẳng giấu giếm chi cùng đại hội rằng Ngài thành tín và yêu thương” (Tv 40:11). Đây cũng phải là quyết định của mỗi Kitô hữu. Hành động như vậy là hợp tác với Thiên Chúa, là loan báo Tin Mừng, là truyền bá lòng sùng kính Thánh Tâm, là truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là cố gắng hoàn thiện,là đem Chúa đến với người khác để họ khả dĩ nhận biết Ngài và cũng được Ngài cứu độ.
Tuy nhiên, Thánh Phaolô cũng nói: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7). Vì vâng lời, cậu bé Sa-mu-en đã biết chân thành thân thưa: “Người là Đức Chúa. Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt”(1 Sm 3:18). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết tuân phục mà cầu nguyện như vậy hằng ngày!
Đức tuân phục cứ được lặp đi lặp lại. Thánh Phaolô dẫn chứng:“Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10:8-10). Với tinh thần tuân phục tuyệt đối, Đức Mẹ đã mau mắn nói lời “xin vâng”, vì ý Chúa chứ không vì ý riêng. Và chính Đức Kitô cũng hoàn toàn tuân phục, dù Ngài cũng có sự giằng co của nhân tính trước khi nhận “chén đắng”.
Qua trình thuật Lc 1:26-38,Thánh sử Luca cho biết: Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria. Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.Nghe lời ấy, Thôn nữ Mariarất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chị đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”.
E ngại là bản tính nhân loại, thế nên Đức Maria nhẹ nhàng thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”. Thế nhưng sứ thần quả quyết: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Chị, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Chị, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa Cô Ê-li-sa-bét, người họ hàng với Chị, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, KHÔNG CÓ GÌ LÀ KHÔNG THỂ LÀM ĐƯỢC”.
Ôi, thật tuyệt vời! Và thế là không còn nghi ngờ vàcũng chẳng ngần ngại chi ráo trọi, Đức Maria nói ngay: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1:38).Một câu nói đầy ắp sự can đảm với tầm nhìn tương lại rộng lớn.Quả thật, không dễ gì mà có thể quyết định mau mắn với đại sự như vậy. Đây là động thái quan trọng, vì nhờ Đức Mẹ vui lòng “xin vâng” mà Ngôi Hai nhập thể để bắt đầu Chương Trình Cứu Độ.
Sau khi hoàn thành sứ vụ, Tổng thần Gáp-ri-en từ biệt ra đi. Và Đức Maria bắt đầu trang đời mới với trọng trách mới và đầy gian khó.Xin hết lòng tạ ơn Thiên Chúa và tạ ơn Đức Trinh Nữ Maria. Đức Mẹ là Nhà Tạm đầu tiên bởi vì Đức Mẹ là Người-mang-Thiên-Chúa (Theotókos).Thật diễm phúc cho phàm nhân chúng ta, vì mỗi khi đón nhận Thánh Thể, chúng ta cũng trở nên Nhà Tạm của Thiên Chúa Ngôi Hai. Thật vậy, Thánh Phaolô xác nhận rằng “chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống” (2 Cr 6:16).
Lạy Thiên Chúatoàn năng,xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc sống của con trên trần gian này, mặc dù có thể trái ý con, xin giúp con luôn biết xin vâng tuyệt đối và mau mắn. Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin hướng dẫn và nâng đỡ để con vững bước theo bước Mẹ đã đi. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
.
CÁM ƠN MẸ ĐÃ SINH CON RA
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Sinh ra trong cuộc đời có nhiều điều chúng ta cần phải cám ơn. Cám ơn Thượng Đế đã cho ta làm người. Cám ơn mẹ cha đã đón nhận chúng ta. Cám ơn cuộc đời đã cho ta niềm vui. Nhưng, xem ra chúng ta ít cám ơn về món quà sự sống mà Thượng Đế và mẹ cha đã ban tặng cho chúng ta. Có mấy ai đã một lần cám ơn mẹ cha đã sinh ra chúng ta?
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, C đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không con?
– …Dạ, không Mẹ…hôm nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ. Con…con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ. Mẹ đã cho chúng ta một ngày sinh nhật thật tuyệt vời bên lòng mẹ, với tiếng khóc chào đời trong niềm vui của mọi người. Mẹ đã tặng chúng ta sự sống, tình yêu, lòng quảng đại đón nhận chúng ta làm con của mẹ. Có biết bao đứa trẻ bất hạnh đã bị mẹ từ chối cho sinh ra. Có biết bao đứa trẻ ao ước được mừng một lần sinh nhật trong cuộc đời mà không có. Thế nên, ta được sinh ra, được mừng sinh nhật đầu đời là hạnh phúc to lớn mà chính mẹ tặng ban cho chúng ta.
Thế mà, chúng ta dường như chưa bao giờ cám ơn món quà của mẹ. Chúng ta cám ơn ai đó tặng ta con búp bê, cái khăn tay, cái móc khóa mà quên cám ơn mẹ đã tặng ta cả cuộc đời. Đôi khi còn đòi hỏi nơi mẹ điều này điều kia, vì tưởng rằng đó chỉ là bổn phận của mẹ phải làm cho con, mà quên rằng có biết bao bà mẹ đã từ chối đón nhận con, từ chối hy sinh cho con.
Hôm nay lễ Mẹ Maria được sứ thần truyền tin. Phúc âm ghi lại hành trình làm mẹ của Mẹ Maria thật cao cả, tuyệt vời. Mẹ đón nhận làm Mẹ của Con Chúa Trời trong sự đơn sơ khiêm tốn. Mẹ đón nhận thiên chức làm mẹ trong cái nhìn của đức tin để vượt qua mọi sợ hãi mà sinh Con Chúa Trời làm người. Nếu không có lòng quảng đại Mẹ đã khước từ gánh nặng của bóng thập giá ngay từ lúc truyền tin. Nếu không có đức tin Mẹ sẽ không đủ can đảm đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt qua trí hiểu của con người. Mẹ Maria đã đón nhận mang trong mình một mầm sống trong niềm tín thác xin vâng.
Mẹ xin vâng dầu Mẹ chưa hiểu hết. Mẹ xin vâng dầu phải đối diện với nguy nan, vì sinh con mà không qua người đàn ông, chắc chắn theo luật Do Thái Mẹ phải chết . . . Thế nhưng, Mẹ vẫn tin vào quyền năng của Chúa sẽ bao phủ trên cuộc đời của Mẹ. Mẹ đón nhận tất cả với niềm tín thác nơi sự quan phòng của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con cám ơn Mẹ đã quảng đại đảm nhận vai trò làm Mẹ với Con Chúa Trời. Chúng con cũng cám ơn Mẹ đã quảng đại tiếp tục đón nhận chúng con làm con của Mẹ. Chúng con xin dâng hồn xác chúng con trong sự che chở, gìn giữ của Mẹ. Xin Mẹ xưa đã cưu mang, gìn giữ, nuôi nấng Con Chúa Trời thì xin Mẹ cũng che chở nâng đỡ từng cuộc đời chúng con. Và xin cho các bà mẹ trên thế gian biết vượt qua nỗi sợ hãi để sinh con ra trong cuộc đời. Xin đừng vì một chút sợ hãi của đói nghèo, của bệnh tật, của danh dự mà cướp đi sự sống của các thai nhi. Xin cho các bà mẹ luôn giầu lòng quảng đại để chấp nhận mọi đứa con theo thánh ý Chúa. Amen
.
SỨ ĐIỆP VĨ ĐẠI
Trầm Thiên Thu
Sứ điệp đa dạng và nhiều mức độ. Sứ điệp có thể vui hay buồn, bình thường hoặc quan trọng, cũng có thể là sứ mệnh, trọng trách. Lễ Truyền Tin là Sứ Điệp từ Thiên Chúa trao cho Đức Maria, là tin mừng, là hỷ tín, nhưng cũng là trách nhiệm nặng nề.
Dù sợ, nhưng khi hiểu ra vấn đề, Đức Maria đã mau mắn vui vẻ chấp nhận, không so đo, không tính toán. Từ đó, Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa bắt đầu trở nên hiện thực. Và rồi Thánh sử Gioan xác nhận: “Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, vàNgười đã cư ngụ giữa chúng ta, và chúng ta đã nhìn thấy vinh quang của Người”(Ga 1:14ab).
Trình thuật Is 7:10-14 ngắn gọn nhưng chứa một sứ điệp tuyệt vời. Ngày xưa, vua A-khát được Thiên Chúa cho phép: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Nhưng ông e ngại với lòng khiêm nhường, và ông trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa”. Sứ điệp này cảnh báo chúng ta “đừng đùa với lửa”, vì có những lần chúng ta đã từng thử thách Thiên Chúa mà chúng ta không biết hoặc tìm cách biện hộ cho mình.
Ông I-sai-a đưa ra một sứ điệp cho dân chúng với lối “hỏi–đáp” đơn giản: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en”. Đó là lời tiên báo về Đức Maria, một thôn nữ miền Na-da-rét, được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa.
Là thục nữ và được giáo dục đạo đức của Cha Mẹ – ông Gioakim và bà Anna, nên Cô Gái Trẻ Maria không chỉ thánh thiện mà còn khiêm nhường – nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Thiên Chúa ưa thích tính khiêm nhường chứ không cần thứ gì khác, như Thánh Vịnh xác nhận: “Chúa chẳng thích gì tế phẩm và lễ vật, nhưng đãmở tai con; lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa không đòi” (Tv 40:7). Cô Gái Trẻ Maria cũng luôn “xin vâng” trong mọi sự, theo cách mà Kinh Thánh đã đề cập: “Này con xin đến! Con thích làm theo thánh ý, và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy Thiên Chúa của con!” (Tv 40:8-9). Cả cuộc đời Đức Maria đã sống vuông tròn theo Thánh Ý Chúa, và cuộc đời Mẹ là “lời nói” vang ngân mãi mọi thời đại: “Đức công chính của Ngài, con loan truyền giữa lòng đại hội; lạy Chúa, Ngài từng biết: con đâu có ngậm miệng làm thinh” (Tv 40:10).
Vì khiêm nhường mà người ta mới có thể vâng lời. Hai nhân đức này là nhân đức đối nhân, không là nhân đức đối thần, nhưng vẫn có tầm quan trọng lắm, và luôn có hệ lụy với nhau theo tính liên đới. Thánh Phaolô chứng minh và đề cập đức vâng lời: “Máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10:4-7).
Thánh Phaolô tiếp tục dẫn chứng về ý muốn của Thiên Chúa Cha và đức tuân phục của Thiên Chúa Con: “Trước hết, Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễxá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. Theo ý đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giêsu Kitô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ”(Dt 10:8-10). Tương tự, phàm nhân cũng luôn yêu quý những người biết tự nguyện, chứ không miễn cưỡng.
Chúa Giêsu là Chiên Hiến Tế Thánh, vô giá, dâng một lần nhưng có hiệu lực từ hồng hoang tới tận thế. Chúng ta chỉ là phàm nhân tội lỗi, bất xứng, nhưng nếu biết khiêm nhường thì vẫn có giá trị đối với Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải dâng lễ tế nhiều lần, dâng lễ đền tội cho chính mình và cho người khác.
Thánh sử Luca cho biết về việc Sứ thần truyền tin cho Đức Maria. Sự kiện này chỉ được ghi lại trong Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 1:26-38), ba Tin Mừng kia không có. Thánh Luca cho biết: “Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Thiên Chúa sai sứthần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Maria”. Rất rõ ràng các chi tiết!
Cuộc đối thoại siêu nhiên nhưng có vẻ rất tự nhiên, như một đoạn video clip, rất sống động, rất đời thường.
Sứ thần vào nhà và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Chị”. Nghe lời ấy, Đức Maria rất bối rối vì “kỳ thí mồ” đi, chả hiểu ất giáp chi ráo trọi. Lạ thế nhỉ! Nhưng Sứ thần liền nói một hơi dài: “Này Chị Maria, xin đừng sợ, vì Chịđẹp lòng Thiên Chúa. Chị sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận”. Đức Maria vẫn thấy chưa ổn, vẫn ngại lắm, nên thưa với Sứ thần: “Mèn ơi, việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”.
Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽrợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Và để chắc cú, Sứ thần dẫn chứng cụ thể: “Này nhé, Cô Êlisabét, người họ hàng với Chị đấy, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: Cô ấy vẫn bịmang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Lạy Chúa tôi, nhẹ cả mình! Hai năm rõ mười, thế là an tâm, chả lo sợ chi nữa. Bấy giờ Đức Maria liền nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳcủa Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Lời “xin vâng” này là điều quyết định rất quan trọng để rồi “chốc ấy Ngôi Thứ Hai xuống thế làm người, và ở cùng chúng ta”.
Xin vâng là tuân phục Thánh Ý Chúa, dù biết rằng “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9), nhưng chắc chắn không là điều dễ thực hiện, mà phải nỗ lực rất nhiều và phải cậy nhờ ơn Chúa.
Xin tạ ơn Thiên Chúa, vì thương xót nhân loại mà Ngài lập Kế Hoạch Cứu Độ rất kỳ diệu. Xin cảm ơn Đức Maria, nhờ lời xin vâng của Mẹ mà chúng con diễm phúc được Chúa Giêsu đến ở cùng và chia sẻ vui buồn với chúng con, đồng thời chúng con cũng được làm con cái Mẹ.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài hành động nơi chúng con theo Thánh ÝNgài, xin giúp chúng con luôn can đảm “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong lúc gian nan khốn khó. Xin Đức Mẹ nguyện giúp cầu thay và đồng hành với chúng con, giúp chúng con kiên cường sống trọn ba đức đối thần suốt cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con. Amen.
.
NIỀM VUI KITÔ HỮU
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thiên Sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria là một cuộc đối thoại. Các nhà chú giải đã chia ra ba sườn chính về thể văn mà thánh Luca sử dụng trong cuộc đối thoại của khung cảnh Truyền Tin.
– Thể văn báo tin việc sinh hạ:
* Thiên sứ hiện ra – Phản ứng của người được thị kiến là sợ hãi – Lời loan báo về việc thụ thai và sinh hạ, đặt tên cho con trẻ, tương lai của con trẻ – Chất vấn: làm thế nào được? – Thiên sứ khẳng định điều loan báo với một dấu hiệu.
* Ví dụ: báo tin về sự sinh ra của Isaac (St 17), Samson (Tl 13, 1-23), Samuel (1Sm 1), Gioan Tẩy Giả (Lc 1, 5-25).
* Nội dung sứ điệp là loan báo về việc Thiên Chúa can thiệp lạ thường nơi một phụ nữ sinh ra một người con làm vị cứu tinh dân tộc.
– Thể văn kêu gọi vào một sứ mạng :
* Thiên sứ hiện ra – Ơn gọi sứ mạng – Giải thích và dấu hiệu – Kết luận.
* Ví dụ: Maisen (Xh 3, 1-12), Geđeon (Tl 6, 11-23)
* Thiên sứ hiện ra trực tiếp cho người được Chúa gọi.
– Thể văn giao ước, hay lập lại giao ước
Một người trung gian như Ngôn Sứ, Vua, Tư Tế trình bày ý định của Thiên Chúa và toàn dân đáp lại “Chúng tôi sẽ thực hành điều Ngài dạy” (Xh 19, 7; 24, 3-7; Er 10, 12; Nkm 5, 12).
Cả ba thể văn bổ túc cho nhau diễn tả sắc thái độc đáo có một không hai trong lịch sử qua biến cố Truyền Tin.
Để thấy được sự trang trọng, độc đáo của cuộc đối thoại Truyền Tin, cần so sánh khung cảnh truyền tin của Thiên sứ Gabriel cho ông Zacaria và cho Đức Maria.
– Về địa điểm : Thiên sứ hiện ra với Zacaria ở đền thờ Giêrusalem, trung tâm tôn giáo của Israel, giữa làn khói hương nghi ngút. Với Đức Maria, Thiên sứ đến gặp Mẹ tại Nazareth, một thôn làng chẳng mấy ai biết đến (Ga1,46; 7,41). Nazareth thuộc miền đất Galilê, gần vùng dân ngoại (Is 8, 23; Mt 4,14).
– Về nhân vật : Zacaria là tư tế thuộc giòng Abia, Isave thuộc giòng Aaron. Cả hai ông bà thuộc thành phần có địa vị xã hội. Hai ông bà tuân giữ lề luật chu đáo (Lc 1, 6). Họ tượng trưng cho người công chính theo Cựu ước. Còn Maria chỉ là một thôn nữ tầm thường, một người nghèo của Giavê.
– Đi vào nội dung đối thoại thì hoàn toàn đảo ngược
Thái độ của Thiên sứ :
* Với Zacaria : Thiên sứ coi mình như chủ nhà. Giọng nói Thiên sứ như ra lệnh, thị oai. Thiên sứ phạt Zacaria khi ông tỏ dấu nghi ngờ.
* Với Maria : Thiên sứ là khách, đi đến nhà của Maria, một làng quê hẻo lánh. Thiên sứ tỏ vẻ kính cẩn vì nhìn thấy nơi thôn nữ mộc mạc dáng vẻ oai nghi của “Đấng đầy ân sủng, Thiên Chúa ở cùng ”
– Công trạng và ân huệ
* Với Zacaria: Thiên sứ bảo rằng: Lời cầu nguyện của ông đã được Chúa chấp nhận, vợ ông sẽ thụ thai (Lc 1, 13). Như vậy tất cả đều dựa trên công trạng phúc đức của con người, đúng theo tinh thần Cựu ước.
* Với Đức Maria: Tất cả đều là Ân huệ của Chúa. Thiên sứ chào Maria là “người được Thiên Chúa yêu thương chiếu cố” (Lc 1,28). Mọi sự đều là ân huệ và tình thương của Chúa.
– Kết quả : Zacaria bị quở trách vì “không chịu tin vào Lời Chúa” (Lc 1, 20). Maria được ca ngợi vì “đã tin rằng Lời Chúa sẽ thực hiện” (Lc 1, 45. 38). Isave được cưu mang Gioan “sẽ làm lớn trước mặt Chúa ” (Lc 1, 15). Maria cưu mang “Con Đấng Tối Cao ” (Lc 1, 32), “Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Đức Maria, ta thấy rằng: công cuộc vĩ đại của Thiên Chúa là cứu chuộc nhân loại, thiết lập Nước Trời được bắt đầu một cách rất âm thầm. Một cuộc đối thoại Truyền Tin tại một làng quê, giữa Thiên Sứ với một thôn nữ chẳng mấy người biết. Chúa Giêsu đã diễn tả sự khởi đầu bé nhỏ nhưng thành quả lại lớn lao qua dụ ngôn hạt cải: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32). Thiên Chúa thường khởi sự những việc hết sức lớn lao bằng những việc hết sức bé nhỏ, với những con người cũng hết sức nhỏ bé. Như thế người ta mới thấy quyền năng của Ngài, mới thấy Ngài là một Thiên Chúa vĩ đại: “Những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” ( 1Cr 1, 27).
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Thiên Chúa chọn những ai sống đẹp lòng Ngài. Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9, 12. 16), và cũng vì Maria đẹp lòng Thiên Chúa. Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận. Thiên sứ nói với Đức Maria: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên”. Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu Xh 40, 34 nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện”. Việc Luca chọn và dùng từ “bao trùm lên” có ý nghĩa thâm sâu. Luca so sánh thân thế Đức Maria với lều tạm nơi đặt Hòm Giao Ước của Thiên Chúa. Luca so sánh cung lòng Đức Maria nơi Đức Giêsu sẽ tới cư ngụ với Hòm Giao Ước nơi đặt hai phiến đá có ghi 10 điều răn của Thiên Chúa. Như vậy nghĩa là khi quyền năng của Thiên Chúa bao trùm lên Đức Maria thì có “Thiên Chúa hiện diện ” trong Mẹ. Nhưng sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đức Maria thì vô cùng phong phú hơn sự hiện diện của Ngài trong “lều tạm”. Sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria chính là sự hiện của Đức Giêsu bằng xương bằng thịt.
Lắng nghe cuộc đối thoại giữa Thiên Sứ và Maria, ta thấy Đức Maria đã tự do đáp tiếng “Xin vâng”. Trong Hiến Chế Lumen Gentium số 56, Công Đồng Vatican II đã giải thích ý nghĩa quan trọng của câu chuyện Truyền Tin và sự ưng thuận tự do của Đức Maria: “Các thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để Ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của Ngài. Thực vậy, Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở thành nguyên nhân ơn cứu độ cho bản thân Mẹ và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân phục của bà Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria ; điều mà trinh nữ Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, thì Trinh Nữ Maria đã tháo ra nhờ lòng tin”. Và so sánh với Evà, các Giáo phụ gọi Đức Maria là “Mẹ các sinh linh” và thường quả quyết rằng : “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống”. Trong Sứ điệp Ngày Quốc Tế Giới Trẻ Lần Thứ 18 năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ rằng: Trong biến cố Truyền Tin, Đức Maria trao ban bản tính nhân loại cho Con Thiên Chúa trong cung lòng Mẹ với lời tự do chấp nhận: “Này tôi là tôi tớ Chúa”. Dưới chân Thánh Giá, nơi thánh Gioan, Đức Maria đón nhận toàn thể nhân loại vào tâm hồn mình : “Hỡi bà, này là con bà”. Là Mẹ Thiên Chúa ngay từ lúc đầu tiên của biến cố Nhập Thể, Mẹ đã trở thành Mẹ loài người trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu, Con Mẹ.
Cuộc đối thoại Truyền Tin là khoảnh khắc Thiên Chúa “bật mí” cái bí mật từ ngàn đời. Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi muốn trở thành một con người giữa nhân loại. Và Thiên Chúa đã chọn Mẹ Maria là để Ngài sai Con Một đến giữa chúng ta, thực hiện chương trình cứu độ của Ngài đối với trần gian. Giây phút Mẹ tự do đáp lời “Xin vâng” là khởi đầu bình mình ơn cứu độ cho thế nhân. Một lời thật ngắn nhưng âm vang cả đời. Một lời vừa biểu lộ sự hiến dâng cộng tác tích cực, vừa thể hiện niềm yêu mến tin tưởng phó thác. Mẹ Maria đã đáp “Xin vâng” không chỉ một lần mà còn nhiều lần trong đời. Mẹ Maria mãi mãi là tấm gương cho chúng ta soi trong cuộc đối thoại lắng nghe Lời Chúa và đáp trả Lời Chúa. Thiên Chúa đã chứng tỏ nơi Mẹ điều không thể để trở nên điều có thể. Vì “cái gì cũng có thể đối với người có lòng tin” (Mc 9, 23).
Ngắm thứ nhất Mùa Vui: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai
Lời kinh mỗi người chúng ta dâng lên từ mầu nhiệm này là xin cho mình được sống khiêm nhường.
Đức Maria vâng lời Chúa qua trung gian của Thiên thần. Mẹ biểu lộ nhân đức khiêm nhường tuyệt vời. Vâng phục Chúa, qua “xin vâng” như lời Thiên thần truyền. Mẹ nhận mình là một người tôi tá. Rõ ràng, trong sự vâng phục, trong tiếng xin vâng của Mẹ là một niềm trông cậy. Mẹ tin tưởng phó thác cả đời sống cho Đấng đã tuyển chọn mình. Là Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ nhân loại, để từ đó một cách thường hằng, Mẹ nên Hiền Mẫu chuyển cầu che chở nâng đỡ ủi an mọi người trên đường lữ thứ trần gian. Và một cách đặc biệt, Mẹ nên nguồn cậy trông cho tất cả những ai, không phân biệt lương giáo, đang gặp phải những nỗi đau trong đời như đau đớnxác thân vì bệnh tật, đau khổ tinh thần vì thất vọng thử thách, đau buồn vì cảnh gia đình tan tác hay đau thương vì nỗi vĩnh quyết chia xa hoặc đau điếng mãn tính cấp tính vì tình đời đen bạc… Hãy bền lòng cậy trông ký thác, phần còn lại là kiên tâm làm theo hướng dẫn của Mẹ.
Đức khiêm nhường là nhân đức nền tảng, từ đó mới có thể xây dựng lâu đài các nhân đức khác. Giữa lòng Mùa Chay Thánh, mừng lễ Truyền Tin, học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường.
Mùa Chay là mùa sám hối để canh tân. Mùa Chay là mùa đổi đời, trút bỏ đi những gì là cồng kềnh, những gì là cũ kỹ, những gì là tăm tối, những gì là tội lỗi để khoác vào đời sống của mình một tấm áo mới trong niềm tin yêu Chúa. Lòng khiêm tốn, sự vâng phục của Đức Trinh Nữ Maria là mẫu gương cho chúng ta noi theo. Luôn thưa xin vâng với Chúa trong khiêm nhường của người tôi tớ, để cảm nghiệm mình được hân hạnh cộng tác với Chúa và thấy Chúa đang làm biến chuyển tâm hồn sẵn sàng cưu mang Chúa trong tâm hồn mình. Đó là niềm vui muôn thưở của người Kitô hữu hôm nay.
.
NÀY TÔI LÀ NỮ TỲ CỦA CHÚA
Lm. GB. Trần Văn Hào
Khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhất mùa vui, Thiên thần truyền tin cho Đức Maria, chúng ta chiêm ngắm hình ảnh người nữ tỳ của Thiên Chúa nơiMẹ và xin cho được ‘Ở khiêm nhường’. Nhưng, sự khiêm nhường nơi Đức Maria đã được Kinh thánh diễn bày như thế nào?
Maria, người được Thiên Chúa tuyển chọn.
Tin mừng Luca thuật lại biến cố truyền tin mà hôm nay Giáo hội mừng kính. Thần sứ Gabriel đến gặp Đức Maria và trao lời cầu ngỏ. Đức Maria chỉ là một cô gái quê, cư dân thành Nazareth, không học thức cao sang, không danh giá quyền quý và chẳng có một nét ưu việt nào dưới con mắt người đời. Nhưng trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ được tuyển chọn để trở nênThân mẫu Đấng Cứu Thế. Điều Thiên Chúa muốn luôn khác xa với sự toan tính của con người. Các ngôn sứ thời cựu ước đã từng loan báo về việc Đấng Messia sẽ được sinh ra do một trinh nữ.Bài đọc 1 trong phụng vụ hôm nay nhắc lại cho chúng ta lời tiên báo ấy qua miệng ngôn sứ Isaia. Như vậy, Đức Maria đã được tuyển chọn không phải do tình cờ, nhưng kế hoạch ấy đã có trong chương trình của Thiên Chúa ngay từ đời đời. Mẹ được chọn không phải vì Mẹ đã đắc thủ cho mình những nhân đức trổi trang hơn hẳn các phụ nữ khác, hay do một yếu tố lịch sử nào đó tác động từ bên ngoài. Thiên Chúa đã chọn Mẹ, chỉ vì Chúa muốn như vậy, thế thôi. Ơn gọi luôn là một mầu nhiệm rất khó hiểu và dường như không thể hiểu nổi đối với đầu óc suy lý của con người. Chúa đã chọn Mẹ hoàn toàn do ý định của Ngài, và như một hệ quả tất yếu, Chúa cũngphú mặc cho mẹ những phẩm tính cao trọng, tương xứng với thiên chức ‘Mẹ Thiên Chúa’ hay‘Mẹ Đấng Cứu thế’. Tâm hồn Mẹ được gìn giữkhông bị lây nhiễm bất cứ ô nhơ nào, ngay cả tội nguyên tổ. Cung lòng của Mẹ đã trở nên như ngôi đền thờ tuyệt mỹ để Ngôi Hai Thiên Chúa đến ẩn ngự.
Sự đáp trả tự do.
Trước lời cầu ngỏ của thần sứ, Mẹ đã thưa : “Xin vâng – Fiat”. “Xin hãy thực hiện nơi tôi những điều Chúa muốn”. Mẹ hoàn toàn tự do để lựa chọn giữa việc chấp thuận hay chối từ nhưng sự từ chối đã không xảy ra. Lời thưa xin vâng của mẹ có một ý nghĩa sâu xa mà Giáo hội mời gọi chúng ta nhìn vào đó như một quy chuẩn căn bản để thực hiện sự khiêm tốn nội tâm. Khiêm nhường ở đây không phảichỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản như trong xã hội hiện nay người ta vẫn hay đề cao. Nền tảng của sự khiêm tốn nơi mẹ chính là sự tự hư vô hóa chính mình để cho Thiên Chúa hoàn toàn chiếm ngự. Mẹ thuộc trọn về Chúa, không còn giữ lại chút gì cho mình và đã hoàn toàn để cho Thiên Chúa điều hướng. Cha Tennyson, một nhà tu đức đã nói: “Khiêm nhường là căn rễ của mọi nhân đức, là cửa ngõ đưa dẫn đến sự hoàn thiện”. Thánh Phêrô trong thư thứ nhất của Ngài cũng đã dạy chúng ta : “Anh em hãy trang điểm mình bằng sự khiêm nhường, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo nhưng ban ơn cho ai sống khiêm nhường” (1P5,5).
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng, Thiên Chúa đã an bài và quyết định sẵn, nên tình thế không thể đổi thay. Qủa thật, từ đời đời Thiên Chúa đã tiên liệu, nhưng nơi Mẹ, sự đáp trả vẫn được thực hiện trong tự do hoàn toàn. Thiên Chúa luôn tôn trọng sự chọn lựatự do nơi mỗi người chúng ta. Thánh Augustinô đã từng cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng để cứu rỗi con, Chúa cần có con cộng tác” (Trích trong sách ‘Confessio’). Mẹ đã hoàn toàn tự nguyện cộng tác vào trong chương trình của Thiên Chúa để kế hoạch cứu chuộcđược thực hiện. Vì thế, lời đáp trả của Mẹ có một giá trị tuyệt đối, vì đã khai mở chân trờiơn cứu độ, khi Mẹ bắt đầu cưu mang Đấng Messia trong cung lòng của mình. Đây là điểm nhấn của sự khiêm tốn nơi Đức Maria để mỗi khi suy niệm kinh mân côi ngắm thứ nhấtmùa vui, chúng ta đi sâu vào ý nghĩa của mầu nhiệm này.
Thầy dạy đức tin.
Bà Elizabeth đã nói về Mẹ : “Phúc cho bà là người đã tin” (Lc 1,45). Mẹ đã tin như lời sứ thần nói, là không có gì mà Thiên Chúa không thể làm được (Lc1, 37). Khi Thần sứ cầu ngỏ,Đức Maria đã ngơ ngác hỏi lại với lý luận rất đơn sơ: “Việc đó xảy ra thế nào được vì tôi không biết đến việc vợ chồng”. Mẹ đặt câu hỏi vì Mẹ không phải là một ‘Siêu Thiên Chúa’,nhưng Mẹ cũng chỉ là một thụ tạo giống chúng ta. Tuy nhiên, Mẹ là thụ tạo toàn hảo vì đã đặt niềm tin trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã gọi Giáo hội là Mẹ và là Thầy(xem Tông thư Mater et Magistra). Những gì nói về Giáo hội cũng ám thị về Đức Maria. Mẹ đã trở nên Mẹ của Ngôi Hai và cũng là Thầy dạy đức tin cho chúng ta khi mẹ đón nhận Chúa Giêsu được tượng thai trong cung lòng mình. Lời thưa xin vâng trong biến cố truyền tin là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin, và cuộc hành trình này đạt đến đỉnh điểm khi Mẹ đứng dưới chân Thập giá, hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu trong hy tế cứu độ. Từ khuôn mẫu nội tâm này, mẹ đã trở nên Thầy dạy đức tin cho tất cả mọi tín hữu.
Học nơi Mẹ để sống hoàn thiện ơn gọi.
Sống sung mãn ơn gọi của mình là con đường duy nhất dẫn đưa chúng ta đến sự hoàn thiện. Phát nguồn từ Thiên Chúa, chúng ta được tạo thành và đi vào hiện hữu. Đồng thời, cũng chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa là cùng đích tối hậu mà chúng ta phải vươn đạt tới. Để sống mầu nhiệm ơn gọi, trước hết chúng ta cần phải nhận ra tiếng Chúa đang mời gọi, tức là phải khám phá ra ước mơ của Thiên Chúa nơi mình. Ngài muốn tôi là ai, chứ không phải muốn tôi làm gì. Chúa đã muốn Đức Maria trở nên Mẹ Đấng Cứu thế, còn phương cách thực hiện như thế nào, Chúa sẽ sắp xếp, chứ không phải do Mẹ quyết định. Nơi chúng ta cũng vậy. Muốn khám phá và đi vào lộ trình ơn gọi, không có mẫu gương nào hoàn hảo cho bằng chính Đức Maria để chúng ta quy chiếu vào. Mẹ đã để cho Thiên Chúa hướng dẫn đời mình và Mẹ đã hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa. Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thơ Do Thái cũng gợi lại hình ảnh Đức Giêsu khi vào trần gian: “Này con đây, này con đến để thi hành thánh ý của Cha”. Đức Giêsu đã khiêm tốn vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá (Phil 2, 8). Đó cũng là sự khiêm nhường mà Đức Maria đã sao chép lại để trở nên gương mẫu cho chúng ta.
Kết luận
Thế gian như một quán trọ, và chúng ta là những lữ khách. Đường đời muôn nẻo mắc giăng với biết bao cạm bẫy. Chỉ khi nào chúng ta biết trải lòng mình ra, khiêm tốn tìm kiếm và thực hiện những gì Thiên Chúa muốn, chúng ta mới đi đúng đường và sống hoàn thiện ơn gọi của mình. Đứng trước mọi biến cố hay mọi chọn lựa, chúng ta hãy học lấy tư thế nội tâm giống như Mẹ để luôn thưa lên : “Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, xin hãy thực hiện nơi tôi những gì Chúa muốn”.
.
HAI CUỘC TRUYỀN TIN
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Hôm nay lễ Mẹ truyền tin. Lời Chúa dẫn đưa chúng ta đến một khung cảnh thật bình dị, ấm cúng nơi mái nhà nhỏ bé miền quê Nagiaret. Nơi đó đã diễn ra một cuộc đối thoại lịch sử giữa sứ thần Chúa và cô thôn nữ Maria. Sứ thần Chúa đã viếng thăm đột ngột. Đột ngột quá nên chẳng có gì chuẩn bị từ tinh thần đến vật chất đối với cô Maria. Sứ thần thì chủ động – Maria thì bối rối. Lời sứ thần nói như đã được chuẩn bị chu đáo. Còn Maria thì phân vân, đắn đo từng lời. Sứ thần Chúa đã mang đến cho cô một thông điệp thật bất ngờ và quá cao vời. Cao vời đến nỗi cô không dám nghĩ mình được phước đức như vậy? Vì có bao giờ cô nghĩ rằng mình sẽ là Mẹ Đấng Cứu Thế? Có bao giờ phận nữ nhi thường tình như cô lại được giao trọng trách cao quý như vậy? Cô đã không dám tin điều đó. Vì cô cảm thấy mình bất xứng và bất tài. Thế nhưng, sứ thần Chúa đã trấn an cô. Cô được chọn không vì tài năng hay sắc đẹp. Cô được chọn vì cô hằng sống đẹp lòng Thiên Chúa. Từ trời cao Chúa đã nhìn thấy tấm lòng cô. Một tấm lòng thanh khiết vẹn tuyền. Một tấm lòng bao dung độ lượng. Một tấm lòng bác ái yêu thương. Nhưng tất cả những phẩm chất đó vẫn không thể giúp cô hoàn thành chương trình của Thiên Chúa. Cô phân vân và do dự. Vì phận nữ nhi yếu đuối, vì việc phu thê cô chưa bước tới. Sứ thần Chúa đã trấn an cô: “Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền năng Chúa sẽ rợp bóng trên cô”. Maria với tấm lòng quảng đại và niềm tín thác sắt son đã thưa vâng để chương trình Thiên Chúa được thực hiện.
Ngược lại, trước đó sáu tháng. Cuộc đối thoại giữa sứ thần và Giacaria cũng diễn ra trong âm thầm, ấm cúng. Sứ thần Chúa cũng đề nghị với Giacaria về việc Thiên Chúa sắp làm nơi ông. Nhưng ông đòi dấu lạ. Lòng tin của ông đòi bằng chứng. Sứ thần Chúa đã để ông câm lặng, như dấu chỉ về những điều mà Thiên Chúa sắp làm cho gia đình ông.
Có thể thấy hai cuộc truyền tin nhưng hai thái độ khác nhau. Maria thì tin vào quyền năng Chúa có thể thực hiện được mọi sự. Giacaria thì hoang mang lo lắng. Maria để Chúa thực hiện theo ý định của Chúa. Giacaria đòi dấu lạ để kiểm chứng. Chính hai thái độ đón nhận sứ điệp khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Maria thì hết lời ngợi khen Chúa. Giacaria thì câm nín. Nhưng dầu trong cách đón nhận nào, thì Thiên Chúa vẫn thực hiện chương trình của mình trong sự cộng tác của con người.
Điểm chung của Maria và Giacaria chính là đời sống hằng đẹp lòng Thiên Chúa. Dầu ở hoàn cảnh cô thôn nữ nhà quê hay một tư tế đền thờ. Các ngài đã làm tất cả chỉ để đẹp lòng Chúa. Các ngài đã sống hết mình với bổn phận bằng tình yêu nồng nàn với Chúa và tha nhân. Cuộc sống của các ngài luôn rạng ngời biết bao hy sinh làm nên nhân đức. Các ngài đã sống đẹp giữa dòng đời đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa luôn hài lòng về các ngài.
Phải chăng đó cũng là cách sống chung của những người con cái Chúa? Là người ky-tô hữu chúng ta phải lan tỏa hương thơm bác ái cho anh em. Là người ky-tô hữu chúng ta phải sống sao cho người khác nhận ra chúng ta là môn đệ của Chúa bằng chính đời sống yêu thương và phục vụ. Khi chúng ta sống hết mình vì Chúa, Chúa sẽ làm tất cả những điều tốt đẹp xuống trên cuộc đời chúng ta, như chính Ngài đã nói: “Các con hãy lo tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, còn các sự khác Ngài sẽ ban cho sau”. Điều đó Chúa đã thực hiện trên cuộc đời của Maria, của Giacaria. Khi các ngài sống hết mình phụng thờ Chúa, thì Chúa lại làm biết bao điều cao siêu trên cuộc đời các ngài.
Nguyện xin Mẹ Maria là Đấng hằng đẹp lòng Thiên Chúa, xin cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết thể hiện nhân cách làm con cái Chúa qua đời sống bác ái yêu thương, qua đời sống thanh khiết vẹn toàn như Mẹ. Amen
.
XIN VÂNG NHƯ MẸ MARIA
J.B Lê Đình Nam
Đối với một người phụ nữ, khoảnh khắc làm mẹ thật cao cả và thiêng liêng. Hạnh phúc biết bao trong giây phút đầu tiên cưu mang trong cung lòng đứa con của mình. Tuy nhiên hoàn cảnh làm mẹ đến với Mẹ Maria theo cách rất đặc biệt. Hành trình làm mẹ của Mẹ Maria đến trong một khung cảnh vừa kỳ lạ nhưng cũng thật đơn sơ, vừa bất ngờ nhưng lại rất thánh thiêng và sâu sắc.
Lời Chúa trong ngày lễ Truyền tin đưa chúng ta đến một viễn cảnh thật thiêng liêng trong giây phút làm mẹ của Đức Maria. Đó là một hành trình thật cao cả và tuyệt vời. Mẹ đón nhận Con Thiên Chúa trong sự khiêm hạ đơn hèn. Mẹ đón nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa trong cái nhìn của đức tin để vượt qua những gian nan thử thách. Mẹ đã xin vâng trong sự tín thác để đồng hành cùng con mình đến tận hơi thở cuối cùng.
Nếu không có lòng quảng đại thì Mẹ đã khước từ đau khổ của bóng thập giá ngay từ giây phút truyền tin.
Nếu không có một đức tin mạnh mẽ thì Mẹ không thể đủ can đảm để đón nhận thiên chức làm Mẹ vượt trên hiểu biết của con người.
Nếu không tín thác trọn vẹn cuộc đời mình trong tay Thiên Chúa thì Mẹ đã không đáp lời xin vâng trước biến cố quá lớn lao ấy.
Mẹ xin vâng cho dẫu Mẹ chưa hiểu. Mẹ xin vâng cho dẫu phải đối diện với nguy nan. Lời xin vâng khiêm hạ nhưng chứa chất một sự cậy trông lớn lao. Mẹ tin tưởng phó thác cả cuộc đời mình cho Đấng đã tuyển chọn Mẹ. Lời thưa xin vâng ấy đã đưa Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế. Có Mẹ chúng ta sẽ vượt qua được mọi thăng trầm của trên dòng đời lắm nổi trôi hôm nay, để một ngày không xa chúng ta sẽ cùng Mẹ chung hưởng vinh phúc trên Nước Trời.
.
TỪ LÚC MẸ NÓI LỜI XIN VÂNG
Huệ Minh
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.
Từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ : “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra :”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Lời xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.
Qua lời xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.
Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa.
Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu : tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy.
Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô : “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Thiên Chúa chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của chúng ta như Người đã chờ đợi lời thưa “Xin Vâng” của Mẹ Maria ngày xưa.
MỘT ĐỜI XIN VÂNG
Lm Giuse Đinh lập Liễm
- NGÀY LỄ TRUYỀN TIN
- Việc chọn ngày lễ
Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.
Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.
Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.
Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.
Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.
- Quang cảnh Truyền tin
Trong toàn bộ Thánh Kinh, chỉ có Tin mừng theo thánh Luca (1,26-38) ghi lại biến cố truyền tin. Sứ thần Gabriel đến với một thiếu nữ đã đính hôn tên là Maria tại làng Nazareth để loan báo tin vui về việc hạ sinh Đấng Được Xức Dầu được đợi trông từng bao đời. Sứ thần loan tin cho thiếu nữ : “Này đây, bà sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai, và bà sẽ đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao”.
Tin báo này làm Đức Maria ngỡ ngàng, vì Ngài đã quyết chí giữ đức khiết tịnh. Sứ thần đã giải thích về cách thức Thiên Chúa sẽ làm cho sự kiện mang thai lạ lùng xẩy ra :”Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể”.
Mặc dù đã có lời trấn an của sứ thần, nhưng chắc chắn Đức Maria cũng hoảng hốt vì Ngài không biết đến việc vợ chồng. Tuy nhiên, Maria đã can đảm và suy phục thánh ý Chúa nên đã thưa với sứ thần :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Sau câu trả lời dứt khoát của Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và Maria đã trở thành Mẹ Thiên Chúa.
Truyện : Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại : Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.
Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần – mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng :”Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền”.
Quang cảnh tới đây hạ màn.
- VÀI SUY TƯ TỪ LỄ TRUYỀN TIN
- Thiên Chúa là Đấng toàn năng.
Trước việc sinh con mà vẫn còn đồng trinh, Maria thắc mắc và hỏi lại sứ thần :”Việc ấy xẩy ra cách nào được, vì…”? Sứ thần liền đáp :”Đối với Thiên Chúa, không có gì là không có thể” (Lc 1,37).
Câu trả lời của sứ thần nói lên quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sáng tạo muôn vật từ hư vô, quyền năng Ngài không giới hạn. Quyền năng của Thiên Chúa cũng đồng nghĩa với yêu thương, nên trong lịch sử cứu độ, Ngài luôn đi bước trước trong sáng kiến yêu thương con người. Chỉ với bài Tin mừng hôm nay thôi cũng đủ thấy sáng kiến táo bạo của Ngài.
Thiên Chúa lại muốn trở thành một con người, đó là sang kiến táo bạo thứ nhất. Hơn thế nữa, không muốn đột nhiên xuất hiện cách phi thường mà lại muốn làm người con bình thường sinh ra bởi một người nữ như bao nhiêu người khác. Đây chẳng phải là sáng kiến táo bạo thứ hai sao ?
Táo bạo và kỳ diệu hơn nữa đã làm phát sinh sáng kiến thứ ba thật tuyệt vời và mầu nhiệm, đó là : người phụ nữ ấy lại đồng trinh trước và sau khi sinh con. Thực ra, không có gì Thiên Chúa không làm được. Một Vị Thiên Chúa mà còn làm con người được, thì chuyện bảo vệ sự đdồng trinh cho Đức Maria trước và sau khi sinh thì có nghĩa lý gì đâu ?
Cũng vậy, nếu sau khi phục sinh, Chúa Giêsu hiện ra cho các Tông đồ trong lúc cửa vẫn đóng kín, thì việc Ngài hạ sinh mà tấm lòng băng trinh của Mẹ Maria vẫn còn nguyên vẹn lại không được chấp nhận sao ? Quả thật, không có gì Thiên Chúa không làm được. Điều đó mời gọi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng có thể có thể làm nơi mỗi người chúng ta những việc trọng đại, miễn là chúng ta sẵn sàng để Ngài hoạt động nơi chúng ta.
- Thiên Chúa cần con người cộng tác
Nhưng có một điều mà “Thiên Chúa không làm được”, đó là “Thiên Chúa không thể cứu độ con người nếu con người không cộng tác với Ngài”. Lời quả quyết này có vẻ nghịch thường, nhưng nội dung bàiTin mừng hôm nay là như thế. Thiên Chúa không làm được không phải vì quyền năng Ngài bị giới hạn, nhưng vì yêu thương, tôn trọng tự do của con người nên Ngài không làm được những điều mà con người không cộng tác.
Mặc dù Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do, nhưng Thiên Chúa vẫn có thể ép buộc Maria phải làm theo ý định của Ngài vì Ngài có khả năng làm như vậy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không muốn. Điều Ngài muốn là thấy Maria tự nguyện đáp lại ý muốn của Ngài vì Thiên Chúa yêu thích những ai cho một cách vui lòng.
Ôi ! Thiên Chúa nhân từ dườg nào ! Một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối mà lại phải đi hỏi ý kiến của một thiếu nữ nhỏ bé, quê mùa, và lo lắng chờ đợi trước quyết định của cô, dù nó là một đặc ân cao cả, mà nếu chấp nhận thì sẽ có lợi cho toàn thể nhân loại và riêng cho thiếu nữ nữa.
Truyện : Chiếc đồng hồ báo thức
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm một chỗ ở xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp :
– Chiếc đồng hố ấy hoàn toàn vô dụng đối với con.
– Nó vô dụng là vì con không dùng nó. Mẹ anh đáp.
Qua câu truyện trên, chúng ta thấy rằng trong cuộc đời chúng ta, Thiên Chúa ban cho chúng ta muôn vàn ơn, nếu chúng ta không biết sử dụng thì nó cũng trở nên vô dụng đối với chúng ta.
- Lời Fiat của Đức Maria
Bấy giờ bà Maria nói :”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Thiên Chúa, xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Bình luận về câu trả lời trên, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexicô City đã nói :”Virgo fidelis : Đức Nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của của Maria nghĩa là gì ? Trung tín bao gồm chiều kích gì ?
– Chiều kích thứ nhất là tìm kiếm. Trước hết, Maria tỏ ra trung tín khi Ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet ? Sự việc xẩy ra như thế nào ? Ngài hỏi sứ thần Truyên Tin ( … ).
– Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet ? trên môi Maria chuyển thành một lời fiat : Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ “như thế nào”; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào lĩnh hội đầy đủ sự việc ( … )
– Chiều kích thứ ba của đức trung tín là sự kiên định, kiên trì sống theo nhừng điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ còn hơn là ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo, điều này gọi là tính kiên định.
– Tuy nhiên mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử thách khốc liệt nhất : sự thử thách của thời gian. Do đó, chiều kích thứ tư là tính thủy chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trong. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt đời mới là tín trung.. Lời thưa “Fiat” : xin vâng của Đức Maria trong buổi truyền tin trở nên viên mãn trong tiếng fiat xin vâng âm thầm mà Mẹ lặp lại dưới chân Thập giá (Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng tại Vương cung Thánh đường Mexico City, 26 tháng 01 năm 1979).
Đức Maria đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con Ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con Ngài. Bởi vậy, các thánh Giáo phụ đã nghĩ rất đúng rằng : Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Maria một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại.
Truyện : Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau : “Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi”.
Nhưng cây viết trả lời :”Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người”.
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.
Cuộc đời mỗi người chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng kia, nếu không chấp nhận để cho bàn tay Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động, thì sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Thiên Chúa, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tờ giấy không hiểu được những hành động của cây viết vẽ những dấu lạ trên mình nó, con người cũng chắc chắn không thể nào hiểu được ý định của Thiên Chúa là ý định khôn ngoan, hợp lý nhất để đưa con người đến hnạh phúc.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
Thánh Irênê nói :”Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng :”Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng :”Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).
SUY NIỆM CỦA ĐỨC CHA JB. BÙI TUẦN
LỜI “XIN VÂNG” TRONG LỄ TRUYỀN TIN
Trong ngày lễ Truyền Tin, Hội Thánh kính nhớ một biến cố quan trọng. Thiên thần báo tin cho Đức Mẹ rằng: Thiên Chúa muốn chọn Đức Mẹ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Tin đó quá bất ngờ, vượt mọi suy nghĩ, mọi tưởng tượng, mọi đợi chờ. Phản ứng của Đức Mẹ bắt đầu là bỡ ngỡ bàng hoàng lo sợ, nhưng tiếp đó là xin vâng (Lc 1, 38). Xin vâng là xin tuân phục ý Chúa. Xin vâng là xin cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa, với sự từ bỏ mình, với sự tuyệt đối phó thác đời mình trong tay Chúa. Lập tức sau lời “xin vâng” của Đức Mẹ, Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế nhập thể trong lòng Đức Mẹ. Tất cả đều diễn tiến một cách âm thầm, khiêm tốn. Từ đó “xin vâng” đã được coi như một giao ước mới, một bài ca mới, một con đường mới, của con người mới.
Khi nói xin vâng được coi như một giao ước mới, tôi nhớ lại việc Đức Mẹ vội vã lên đường đi thăm viếng bà Ê-li-da-bét (Lc 1, 39 – 45). Đi thăm để chia sẻ, để phục vụ, để nâng đỡ khích lệ bà Ê-li-da-bét. Theo Đức Mẹ, thì mình được Chúa thương, là để mình biết thương người khác. Mình được Chúa chọn cộng tác với Chúa trong việc cứu độ, thì mình phải quyết tâm dấn thân góp phần cứu độ người khác. Mình nhận ơn Chúa ban, thì mình sẽ cố gắng chia sẻ ơn đó cho người khác.
Thiết tưởng đó là một giao ước mới về bác ái liên đới phát sinh từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi như một bài ca mới, tôi nhớ lại tâm tình Đức Mẹ trong kinh Tạ Ơn “Linh hồn tôi tung hô Chúa” (Lc 1, 46 – 55). Tâm tình Đức Mẹ là lời nói chân thành của người con bé nhỏ, đầy khiêm tốn, ngỡ ngàng biết ơn và phó thác đối với Chúa. Tâm tình Đức Mẹ là khát vọng cứu độ tỏa ra sức nóng của tình yêu thương xót, nhưng lại khiêm nhường tế nhị đối với đồng bào, nhân loại. Tâm tình Đức Mẹ là cái nhìn tiên tri sâu sắc của trái tim khiêm nhường về tương lai dành cho những kẻ khiêm tốn.
Thiết tưởng đó là một bài ca mới về khiêm tốn khởi đi từ lời xin vâng.
Khi nói xin vâng được coi là một con đường mới, tôi nhớ lại biến cố Đức Mẹ sinh Chúa Giê-su tại hang đá Bê-lem (Lc 2, 1 – 7). Đang khi hầu hết mọi người đều coi giàu sang chức quyền danh vọng là những bậc thang giới thiệu gía trị con người, thì Đức Mẹ đã không nghĩ như vậy, đã không vận động chút nào để được như vậy. Trái lại, Đức Mẹ đã lặng lẽ đi vào con đường khó nghèo. Con đường đó đã khởi đi từ hang đá Bê-lem và kéo dài từng ngày, từng tháng, từng năm, suốt cả cuộc đời Đức Mẹ. Trên con đường đó, Đức Mẹ đã cầu nguyện, đã suy gẫm trong lòng, đã lắng nghe Chúa, đã thông hiệp với sự sống Chúa.
Thiết tưởng đó là một con đường mới về sự nghèo khó được vạch ra từ lời xin vâng. Con đường mới đó, bài ca mới đó, giao ước mới đó đều nói lên Đức Mẹ là con người mới. Mới về nhiều phương diện, nhưng nhất là về phương diện Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Mẹ, để đổi mới con người của Mẹ (Lc 1, 35).
Qua việc Ngôi Hai xuống thai trong lòng Đức Mẹ, Chúa Thánh Thần đã đưa tình yêu thương xót của Thiên Chúa vào nhân loại, đã mạc khải Thiên Chúa là tình yêu, đã khai mở một nguồn mạch ơn thánh cứu độ vô cùng phong phú cho mọi người thiện chí.
Do đó, Đức Mẹ là con người mới, là tác phẩm tuyệt vời của Chúa Thánh Linh. Với đặc điểm là Đức Mẹ có một trái tim giống trái tim Chúa Giêsu, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường, cháy rực lửa tình yêu thương xót.
Những chia sẻ vắn tắt trên đây có thể giúp chúng ta phần nào, để chuẩn bị mừng Lễ Truyền Tin một cách sống động sát với thời sự.
Thời sự hiện nay, nếu nhìn về góc độ xin vâng ý Chúa, thì đó là cả một vấn đề đáng phải lo ngại. Bởi vì có những người coi trọng ý Chúa và xin vâng ý Chúa. Cũng có những người coi thường ý Chúa và chống lại ý Chúa. Có những người hiểu sai ý Chúa, vô tình hoặc cố tình. Có những người gán cho ý Chúa những ý riêng của mình. Có những người muốn ý Chúa hợp theo ý riêng mình, cho dù ý riêng mình là quái gở. Thời sự hôm nay là Ít-ra-en, quê hương của Đức Mẹ, đang là mảnh đất diễn ra vòng xoáy hận thù và đổ máu. Vòng xoáy kinh hoàng này càng ngày càng mở rộng trên đất, đồng thời càng xoáy sâu vào lòng dân. Từ mảnh đất này hằng ngày truyền đi khắp năm châu những tin đau đớn, gây nên băn khoăn nặng nề cho hoà bình thế giới. Thời sự này làm cho rất nhiều người phải khóc, phương chi Đức Mẹ.
Nhưng theo tôi, thời sự hiện nay quan trọng nhất chính là chuyện của bản thân ta. Ta có lắng nghe ý Chúa không ? Và ta có xin vâng ý Chúa thực không ? Đoạn Phúc Âm sau đây sẽ gợi ý cho ta thấy rõ ý Chúa về ta trong thời sự hôm nay:
“Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. “Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-e đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao ? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13, 1 – 5).
Suy gẫm đoạn Phúc Âm trên, tôi có cảm tưởng là Chúa muốn báo tin cho từng người chúng ta biết rõ ý Chúa. Đó là đừng quá bận tâm xét đoán người khác, nhưng hãy ưu tiên lo phần rỗi của mình. Lo bằng cách sám hối ăn năn, đổi mới chính mình. Cách đó là cách tốt nhất để góp phần vào việc cứu độ người khác.
Chúa báo tin cho chúng ta ý Chúa là như thế đó. Rất rõ ràng. Ở Fatima Đức Mẹ cũng báo cho chúng ta tin đó. Cũng rất rõ ràng. Chúng ta hãy đáp lại bằng lời xin vâng.
Xin vâng của chúng ta là một hành trình dài đi về với Chúa. Hãy bước đi với những bước nhỏ. Như hằng ngày cầu nguyện bằng kinh Kính Mừng và chuỗi Mai Khôi. Như hằng ngày đến bên trái tim Đức Mẹ, để xin trái tim Đức Mẹ chia sẻ cho ta bầu khí thinh lặng, chiêm niệm, lửa bác ái nồng nàn và sức mạnh lạ lùng của khiêm nhường nghèo khó. Như hằng ngày thực hiện đôi ba việc bác ái, thương cảm liên đới với những người nghèo, bệnh tật, xa Tin Mừng, bị xã hội loại trừ. Như hằng ngày tập nói và làm những gì mang tính cách phục vụ hoà bình hiệp nhất trong yêu thương và tế nhị. Như hằng ngày dùng lòng tin mến biến những mệt mỏi khổ đau của mình thành của lễ đền tội tạ ơn, và xin ơn an bình cho gia đình quê hương và thế giới.
Nếu lời xin vâng của chúng ta được hiệp thông sâu sắc với lời xin vâng của Đức Mẹ, thì đây sẽ là một hy vọng mới cho tương lai bản thân ta, cho Hội Thánh ta, cho quê hương Việt Nam chúng ta, và cho tất cả nhân loại.
SUY NIỆM CỦA LM. GIU-SE LÊ QUANG UY, DCCT
Chúng ta có để cho Thiên Chúa “truyền tin” cho mình không ?
Trước tiên, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy cô thiếu nữ Ma-ri-a không hề ngu ngơ khờ dại, nhắm mắt vâng lời một cách thiếu suy xét. Cô đã có một phản ứng tức thì khi nghe thiên sứ báo tin cô sẽ thụ thai, cô ngỡ ngàng thắc mắc: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào được, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !”
Xin lưu ý là: cô Ma-ri-a đã phản ứng ngỡ ngàng, chứ không phải là phản đối, phản kháng. Cô chỉ băn khoăn thắc mắc rằng: bằng cách nào mà Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ nhập thể làm người , sẽ đầu thai để trở thành một bé trai sinh ra từ cung lòng mình ? Lý do thắc mắc ngỡ ngàng của cô thật quá rõ ràng: cô chỉ mới đính hôn với ông Giu-se cơ mà ?
Thiên sứ liền trấn an cô: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà”. Thiên sứ còn quả quyết: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Đến đây thì cô Ma-ri-a đã vui mừng và mạnh dạn thốt lên lời Xin Vâng tuyệt vời: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”.
Trong phút chốc, cô Ma-ri-a trở thành Mẹ của Đức Giê-su Ngôi Hai Thiên Chúa. Tất cả chỉ nhờ một lời ngắn gọn, một thái độ vâng phục chan chứa lòng Tin Cậy Mến. Có thể nói, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn quyết định hướng đi cuộc đời Mẹ, hầu Mẹ được cộng tác với Thiên Chúa trong kế hoạch cứu độ chính cuộc đời của Mẹ, cuộc đời của mọi người, của toàn thể nhân loại.
Lời Xin Vâng của Mẹ trở thành một mẫu mực tuân phục Thiên Chúa cho chúng ta noi theo. Nói mạnh hơn, lời Xin Vâng ấy là một lời chất vấn, một thách đố hùng hồn trước thảm kịch bất tuân phục Thiên Chúa của con người trong thời đại của chúng ta.
Tự do ly dị, phá thai vô tội vạ, cướp bóc bạo lực, đua xe bạt mạng, nghiện ngập xì-ke ma túy, buôn gian bán lận, ăn chơi trác táng, cha mẹ độc đoán hoặc ghẻ lạnh với con cái, con cái nhục mạ hoặc thờ ơ bỏ rơi cha mẹ, học trò đánh đập thầy cô, vợ chồng xô sát với nhau và chiến tranh khủng bố bạo tàn khắp nơi trên thế giới… Hình như con người quá kiêu hãnh về mình, muốn gạt bỏ Ý Thiên Chúa để tự quyết lấy đời mình ! Phần chúng ta thì sao ? Chúng ta được gọi là Ki-tô hữu, tức là chúng ta thuộc về Đức Ki-tô, là môn đệ của Thầy Giê-su chí thánh, đã và luôn tin cậy phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Vậy chúng ta có mở ngỏ cuộc đời mình cho ý định yêu thương của Thiên Chúa không ?
Chúng ta có bao giờ nghĩ rằng chính mình cũng đang được mời gọi: Hãy để cho Thiên Chúa “truyền tin” cho mình ngay giữa cái thế giới hôm nay đang bùng nổ về thông tin. Và Thiên Chúa sẽ gửi đến cho chúng ta một bản tin như thế nào ? Phải chăng đó chính là “Tin Mừng”, “Tin Vui”, “Tin Lành”, “Tin Tốt Đẹp”, “Tin Bình An”, “Tin Hy Vọng” cho mảnh đời đã có quá nhiều “tin buồn, quá nhiều “tin… tức” của chúng ta ? Và một khi nhận được một “Tin Mừng” như thế, chúng ta có sẵn sàng mau mắn thưa Xin Vâng trước mọi biến cố, nhất là những nghịch cảnh trong cuộc sống hôm nay được lồng vào trong, được ẩn dấu trong một nội dung Tin Mừng kỳ diệu của Sự Sống Yêu Thương chăng ?
Chúng ta hãy bắt chước Đức Ma-ri-a để luôn tìm đọc Lời Chúa, để nhẫn nại cầu nguyện trong niềm xác tín rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: “Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giê-su muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Mẹ…”
Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ…
Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…
Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…
Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.
Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…
Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”.
Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà”.
SUY NIỆM CỦA SR. TÂM NĂNG (LỄ TRUYỀN TIN)
“Xin Vâng”: Sứ Mạng Tông Đồ
Nếu tìm hiểu lịch sử Israel chúng ta sẽ thấy vua Achaz trong bài đọc 1 hôm nay không phải vì khiêm nhượng mà không dám xin Chúa một dấu lạ, nhưng vì ông đã hồ nghi Yahweh Thiên Chúa không đủ quyền năng để bảo toàn đất nước khi nghe quân ngoại bang vây đánh. Vì thế, thay vì cầu khấn cùng Yahweh, ông đã đi năn nỉ vua Assaria giúp đỡ. Bài đọc 2 cho chúng ta thấy các của lễ toàn thiêu không phải là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi con người. Điều làm Thiên Chúa vui lòng nhất là thi hành ý Ngài. Và bài Phúc Âm hôm nay nêu lên một mẫu gương sống động của việc thi hành ý Chúa qua tiếng “Xin Vâng” của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin mà chúng ta kính nhớ hôm nay.
Tiếng xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.
Qua tiếng xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.
Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã “vội vã” lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.
Tiếng xin vâng của Mẹ Maria còn nhắc nhớ chúng ta về đức tin sống động của Mẹ: luôn phó thác mình cho tác động của Chúa Thánh Thần. Nếu chỉ xin vâng một lần rồi thôi hoặc có thể rút lại được khi hết hứng thì rất dễ, nhưng tiếng xin vâng của Mẹ Maria là tiếng xin vâng liên tục và vĩnh viễn kể từ giây phút truyền tin. Do đó, nếu không có một đức tin mạnh mẽ và sống động thì Mẹ Maria không thể nào thưa lên được tiếng xin vâng cộng tác vào chương trình cứu chuộc. Và nếu đức tin đó không được tiếp tục nuôi dưỡng thì Mẹ Maria cũng chẳng tiếp tục sứ mạng cộng tác của Ngài cho đến ngày Mẹ được Chúa cất về trời. Vì cuộc đời tại thế của Mẹ cũng là một cuộc hành trình đức tin như mỗi người chúng ta ngày nay vậy. Và mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời là một bước Mẹ tiến cao hơn trong cuộc lữ hành đức tin. Mỗi một lần như vậy nó đòi buộc một sự tín thác cao độ hơn lần trước, vì như mọi người chúng ta, Mẹ cũng chẳng biết được tương lai ngày mai sẽ ra sao.
Như Mẹ đã cưu mang Chúa trong thân xác qua biến cố truyền tin, mỗi người chúng ta cũng cưu mang Chúa trong tâm hồn kể từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Vì thế, biến cố truyền tin mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại xem cuộc sống Kitô hữu của chúng ta có rập theo khuôn mẫu của Mẹ Maria chưa: luôn tín thác mình cho tác động của Chúa Thánh Thần. Điều này đòi buộc mỗi người chúng ta phải luôn sẵn sàng để thưa lời xin vâng như Mẹ Maria trong mọi cảnh huống của cuộc sống hằng ngày. Bao lâu chúng ta chưa thi hành được như vậy thì bấy lâu chúng ta đừng trông mong đem Chúa đến cho người khác. Vì việc tông đồ đúng nghĩa phải là việc của Thiên Chúa. Mà bao lâu chúng ta chưa đồng tâm nhất trí với Chúa, chưa sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa trong chúng ta thì bấy lâu Chúa và chúng ta không thể nào hoạt động giống nhau được.
Như Mẹ Maria xưa đã đồng ý để Chúa dùng Mẹ như một phương tiện đến với nhân loại thế nào thì nhiệm vụ chính yếu của mỗi người Kitô hữu ngày nay cũng chính là việc sẵn sàng hiến cho Chúa một cơ hội để Ngài tỏ mình ra cho những người chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày: một nụ cười thân thiện, một ánh mắt thông cảm, một nghĩa cử bác ái, một sự nhịn nhục kẻ thù… tất cả sẽ là việc tông đồ nếu qua đó mà người ta nhận biết Chúa rõ ràng hơn, yêu mến Chúa sâu đậm hơn, và thương yêu tha nhân chân thật hơn.
Xin Mẹ Maria nâng đỡ phù trì để chúng ta ngày một tiến cao hơn trong cuộc lữ hành đức tin qua việc mở rộng tâm hồn sẵn sàng cộng tác với ơn soi động của Chúa Thánh Thần ngõ hầu Chúa Giêsu có cơ hội tiếp tục sinh xuống tâm hồn những ai chưa nhận biết Chúa.
SỐNG LỜI CHÚA – XIN VÂNG
Jean Guitton, một triết gia công giáo nổi tiếng và đạo đức, đã viết trong cuốn “la Vierge Marie”, Đức Trinh nữ Maria, về hoạt cảnh truyền tin, một cách vừa thâm trầm lại vừa ý vị, ngày đó Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người nơi cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Tôi chỉ xin trích dẫn một vài đoạn nho nhỏ mà thôi.
Như chúng ta đã biết : trước lời chào kính của sứ thần Gabriel. Mẹ Maria đã thực sự bối rối bởi vì Mẹ đã khấn giữ mình đồng trinh. Nhưng rồi sứ thần đã tỏ lộ cho Mẹ biết ý định tuyệt vời của Thiên Chúa.
Và Jean Guitton đã diễn tả :
Mặc dù Phúc Âm không ghi lại, nhưng trong lúc đó, hẳn Mẹ đã thinh lặng. Giây phút thinh lặng ấy hẳn không lâu nhưng lại rất cần thiết. Giây phút của băn khoăn và suy nghĩ. Có lẽ dưới đất và ngay cả trên trời chưa bao giờ có được một giây phút quan trọng đến thế. Đây không phải là giây phút phân vân do dự, nhưng là giây phút tự do và chọn lựa. Giây phút của lời xin vâng.
Từ đời đời, Ba Ngôi Thiên Chúa đã mong chờ lời xin vâng ấy. Với lời xin vâng ấy, chiếc vòm của tòa nhà đã được hoàn tất. Bởi vì tất cả đều lệ thuộc vào giây phút trọng đại này.
Thiên Chúa chờ đợi để thực hiện chương trình cứu độ. Nhân loại chờ đợi để được giải thoát. Với lời xin vâng này, Ba Ngôi Thiên Chúa bắt đầu hoạt động. Chúa Cha biểu lộ quyền năng qua cuộc sáng tạo. Chúa Con được sinh ra trong thời gian và Chúa Thánh Thần tác động để Chúa Con được mặc lấy thân phận con người.
Lời xin vâng này chỉ diễn ra trong giây lát nhưng lại có giá trị đến muôn ngàn đời.
Đối với Thiên Chúa, nếu cần có một lời thì lời đó chưa được nói ra. Nếu cần có một giới luật thì giới luật đó chưa được công bố. Nếu cần có một hành động yêu thương, thì hành động đó chưa được thực hiện.
Còn về phía con người, thì chỉ có mình Mẹ Maria. Chúng ta không được biết đích xác những gì đã xảy ra trong tâm hồn Mẹ lúc bấy giờ, nhưng chắc chắn là Mẹ đã suy nghĩ nhiều lắm. Trước mặt Mẹ là hai ngành cây liên kết, không thể chia cắt, không thể phân ly. Một bên là niềm vui mừng và vinh dự. Còn một bên là đau khổ, và âu lo. Một khi đã chấp nhận vinh dự thì cũng phải chấp nhận bổn phận. Một khi đã chấp nhận vinh quang thì cũng phải chấp nhận gánh nặng.
Mẹ cảm thấy như mình được chọn bởi Đấng sẽ trở nên Con của mình. Đó là điều khác biệt giữa Đức Maria với những người mẹ trần gian. Và thời gian dường như ngừng đọng.
Với lời xin vâng, Mẹ nhận thấy hôm nay là vui mừng nhưng ngày mai sẽ là đau khổ. Với lời xin vâng Mẹ chấp nhận để cho thánh ý Thiên Chúa được thực hiện.
Sứ thần Gabriel rời bỏ căn nhà tại Nagiarét. Mọi sự trở về tình trạng như thường ngày. Cánh đồng cỏ vẫn mọc xanh và trên trời những cụm mây vẫn lững lờ bay. Thánh Giuse có lẽ đã đến viếng thăm Đức Maria, nhưng thánh nhân đâu có biết được biến cố trọng đại đã xảy ra giữ Thiên Chúa và con người.
Giờ đây ở trên trời, là Nữ vương trời đất, nhưng Mẹ vẫn không xa lìa chúng ta. Trái lại, bằng một tình thương bao la, Mẹ luôn bênh vực và cầu bầu cho chúng ta. Bởi đó chúng ta hãy tin tưởng và chạy đến với Mẹ để xin Mẹ nâng đỡ phù trợ. Bởi vì với quyền năng của một vị Nữ vương, Mẹ có thể thực hiện được những điều chúng ta van xin. Đồng thời với tình thương của một người me, Mẹ luôn sẵn sáng ra tay nâng đỡ.
LỄ TRUYỀN TIN
Kể từ khi cửa thiên đàng đóng lại do lỗi phạm của Adong Evà, con người khổ đau luôn ngước mắt nhìn lên trời. Rồi qua dòng thời gian, hàng ngàn năm về trước, dân Do thái, từ thế hệ này qua thế hệ khác, luôn mong đợi Thiên Chúa thực hiện lời đã phán hứa. Tận chốn trời cao, Thiên Chúa cũng trông chờ, bởi vì Ngài là Đấng trung thành, Ngài đã đặt niềm hy vọng của Ngài cũng như của chúng ta vào một trái tim bé nhỏ. Ngài đã âm thầm gìn giữ và trang điểm cho trái tim nhỏ bé ấy. Đó là trái tim của Maria, một thiếu nữ xứ Galilêa. Hàng ngày, nàng vẫn cầu nguyện, xin Thiên Chúa nhìn đến những nỗi thống khổ của con người. Rồi khi thời gian viên mãn, cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và nhân loại được thực hiện. Nhờ Maria mà nhân loại được tiến đến cùng Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận tình thương của Ngài. Câu chuyện được xảy ra dưới mái nhà Nagiareth. Sứ thần Gabriel được sai đến, có nhiệm vụ trình bày ý định tuyệt vời của Thiên Chúa cho Maria. Bởi vì Ngài luôn tôn trọng sự tự do của con người. Ngày xưa ma quỷ đã mong đợi sự đồng ý của Evà để đẩy con người vào vòng sự chết, thì hôm nay, Thiên Chúa và nhân loại đang trông chờ lời “Xin Vâng” của Maria để khởi đầu cho chương trình cứu độ. Tất cả đều lệ thuộc vào Maria, qua những lời Mẹ sẽ nói và qua những việc Mẹ sẽ làm. Vì thế, thánh Bernađô đã phải kêu lên : “Câu trả lời của Mẹ sẽ là ơn cứu độ của chúng con. Xin Mẹ hãy nói, hãy nói mau lên, bởi vì Adong và các vị tổ phụ, còn ngồi trong bóng tối sự chết đang kêu cầu Mẹ. Cả chúng con nữa, cũng đang quỳ gối nài van Mẹ”. Và sau cùng Mẹ đã trả lời… Một câu trả lời vừa đơn sơ, vừa ngắn gọn, vừa khiêm nhường lại vừa cương quyết : “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Mẹ đã nối kết ý riêng của mình vào với Thánh ý của Thiên Chúa. Với một đức tin tuyệt đối, không điều kiện, không so đo tính toán, Mẹ đã chấp nhận cộng tác với Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ trần gian. Kể từ giây phút đó, tình yêu của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những việc kỳ diệu.
Thực vậy, lời Xin Vâng của Mẹ đã làm cho Con Thiên Chúa trở nên con của Mẹ và Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời Xin Vâng của Mẹ là sự đáp trả sự từ khước Thánh ý Thiên Chúa của Adong Evà ngày xưa. Lời Xin Vâng của Mẹ chấm dứt vai trò của Cựu Ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân Ước. Lời Xin Vâng của Mẹ là tiếng nói đầy thảo hiếu của một người con. Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu : tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận Người Con ấy. Ngày xưa ma quỷ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỷ đã dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại trở nên tốt lành. Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỷ thì hôm nay Maria tin vào lời của sứ thần Thiên Chúa. Đó là những sự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô : “Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống”.
Có một người mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như sau : Theo ý con, thì câu nào trong Kinh thánh đã làm cho con thích thú hơn cả. Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải ngay trang trình bày về khung cảnh Truyền tin. Với một ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói với Mẹ : Thưa Mẹ, hai chữ Xin Vâng của Đức Maria là hai chữ đã làm cho con thích thú hơn cả. Đúng thế, không gì đẹp cho bằng hai chữ Xin Vâng trên cặp môi của Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp cho bằng hai chữ Xin Vâng trên cặp môi của mỗi người chúng ta cho Thánh ý Thiên Chúa được chu toàn. Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười điều răn, qua Tin mừng Phúc âm cũng như qua những lời giáo huấn của Hội thánh. Chẳng hạn, Chúa bảo chúng ta hãy thờ phượng và kính mến Ngài trên hết mọi sự, chúng ta sẽ thưa lên hai tiếng Xin Vâng, để rồi không một ngày nào qua đi mà không cầu nguyện và sống gắn bó mật thiết với Ngài. Như Mẹ Maria, chúng ta hãy thưa lên hai tiếng Xin Vâng và cố gắng thực hiện lời Xin Vâng ấy trong cuộc sống của chúng ta.
XIN VÂNG
Kể từ khi cửa thiên đàng đóng lại do lỗi phạm của Adong và Evà, con người khổ đau luôn ngước mắt nhìn lên trời. Rồi qua dòng thời gian, hàng ngàn năm về trước, dân Do thái, luôn mong đợi Thiên Chúa thực hiện lời đã phán hứa.
Tận chốn trời cao, Thiên Chúa cũng trông chờ, bởi vì Ngài là đấng trung thành. Ngài đã đặt niềm hy vọng của Ngài cũng như của chúng ta vào một trái tim nhỏ bé. Ngài đã âm thầm gìn giữ và trang điểm cho trái tim nhỏ bé ấy bằng muôn vàn ơn sủng. Trái tim nhỏ bé ấy chính là trái tim của Mẹ Maria, một thiếu nữ xứ Galilêa.
Hằng ngày, Mẹ vẫn cầu nguyện, xin Thiên Chúa nhìn đến nỗi khổ đau của con người. Rồi khi thời gian viên mãn, cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và nhân loại được thực hiện. Nhờ Mẹ, nhân loại được tiến đến cùng Thiên Chúa và sẵn sàng đón nhận tình thương của Ngài. Câu chuyện xảy ra dưới mái nhà Nagiarét.
Sứ thần Gabriel được sai đến, có nhiệm vụ trình bày ý định tuyệt vời của Thiên Chúa cho Mẹ, bởi vì Ngài luôn tôn trọng sự tự do của con người. Ngày xưa ma quỉ đã mong đợi sự đồng ý của Evà để đẩy con người vào vòng sự chết, thì hôm nay, Thiên Chúa và nhân loại đang trông chờ lời xin vâng của Mẹ để khởi đầu cho chương trình cứu độ. Tất cả đều lệ thuộc vào Mẹ, qua những lời Mẹ sẽ nói và qua những việc Mẹ sẽ làm, vì thế, thánh Bernadô đã phải kêu lên : câu trả lời của Mẹ sẽ là ơn cứu độ của chúng con. Xin Mẹ hãy nói, hãy nói mau lên, bởi vì Adong và các tổ phụ, còn ngồi trong bóng tối sự chết đang kêu cầu Mẹ. Cả chúng con nữa, cũng đang quì gối nài van Mẹ. Và sau cùng Mẹ trả lời…
Một câu trả lời vừa đơn sơ, vừa ngắn gọn, vừa khiêm tốn lại vừa cương quyết :
-Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vân như lời sứ thần truyền.
Mẹ đã nối kết ý riêng của mình vào thánh ý của Thiên Chúa. Bằng một đức tin tuyệt đối, không điều kiện, không so đo tính toán, Mẹ đã chấp nhận cộng tác với Thiên Chúa trong công cuộc cứu độ trần gian. Kể từ giây phút đó, tình yêu của Thiên Chúa bắt đầu thực hiện những việc kỳ diệu.
Thực vậy, lời xin vâng của Mẹ đã làm cho con Thiên Chúa trở lên con của Mẹ, Ngôi lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Lời xin vâng của Mẹ là sự đáp trả sự khước từ thánh ý Thiên Chúa của Evà ngày xưa. Lời xin vâng của Mẹ đã chấm dứt vai trò của Cựu ước và mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn của Tân ước. Lời xin vâng của Mẹ là tiếng nói đầy hiếu thảo của một người con.
Chương trình cứu độ chỉ có thể được thực hiện với hai tình yêu : tình yêu của Thiên Chúa và tình yêu của nhân loại. Thiên Chúa trao ban con một Ngài, còn nhân loại thì mở rộng cõi lòng để đón nhận người con ấy.
Ngày xưa ma quỉ đã dùng phương tiện nào thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng phương tiện ấy. Đúng thế, ngày xưa ma quỉ dùng một người phụ nữ để làm cho nhân loại bị hư đi thì hôm nay Thiên Chúa cũng dùng một người phụ nữ để lật ngược thế cờ, mà làm cho nhân loại được trở nên tốt lành.
Ngày xưa Evà đã làm cho nhân loại phải chết thì hôm nay Maria sẽ làm cho nhân loại được sống. Ngày xưa Evà đã kiêu căng, thì hôm nay Maria đã khiêm nhường. Ngày xưa Evà đã tin vào lời dụ dỗ của ma quỉ, thì hômnay Maria đã tin vào lời Thiên Chúa qua môi miệng của sứ thần Gabriel.
Đó là tất cảsự tương phản giữa cũ và mới, giữa ngày xưa và hôm nay, giữa Evà và Maria, để rồi chúng ta có thể nói như thánh Phaolô : Ngày xưa bởi một người mà nhân loại phải chết, thì hôm nay cũng bởi một người mà nhân loại được sống.
Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như sau :
-Theo ý con, câu nào trong Kinh tháh đã làm cho con thích thú hơncả ?
Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói với mẹ :
-Thưa má, hai tiếng xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.
Đúng thế, không gì đẹp bằng hai chữ xin vâng trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.
Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo huấn của Hội Thánh.
Chẳng hạn Chúa bảo chúng ta hãy thờ phượng và kính mến Ngài trên hết mọi sự, chúng ta sẽ thưa lên hai tiếng xin vâng, để rồi không một ngày nào qua đi mà không cầu nguyện, mà không sống gắn bó mật thiết với Chúa.
Như Mẹ Maria, chúng ta hãy thưa lên hai tiếng xin vâng và cố gắng thực hiện lời xin vâng ấy trong suốt cuộc sống chúng ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, mừng kính lễ Truyền tin hôm nay, xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết noi gương Mẹ Maria, luôn chu toàn thánh ý Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, để cuộc đời chúng con sẽ là một lời xin vâng liên tục, nhờ đó chúng con sẽ trở nên những người con ngoan của Chúa.
Suy Niệm của Lm. Don Bosco Trần Đức Quý
Mẹ thân yêu của con,
Con rất yêu thích đọc kinh Mai Khôi mà Mẹ đã dạy và hằng luôn nhắc nhở chúng con siêng năng nguyện gẫm. Nhưng Mẹ ơi, xưa nay con chỉ có quen đọc thôi, chứ không nhớ hoặc đôi khi không biết suy gẫm các mầu nhiệm Mai Khôi như thế nào. Thật là thiếu sót khi chỉ đọc mà không suy gẫm các mầu nhiệm, phải không Mẹ ? Hôm nay, con viết thư này cho Mẹ để xin Mẹ giúp con suy niệm các mầu nhiệm cho sốt sắng hơn, hầu thêm lòng mến yêu Mẹ và kính yêu Chúa nhiều hơn. Xin Mẹ giúp con. Con xin viết ra đây Năm Sự Vui để xin Mẹ dạy dỗ con thêm.
Thứ nhất thì ngắm: Thiên Thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được ở khiêm nhượng.
“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…” Khi lặp đi lặp lại lời kinh này, con muốn cùng với Thiên Thần Gáp-ri-en xưa kia kính mừng Mẹ “đầy ơn phúc” vì Thiên Chúa ở cùng Mẹ. Hơn nữa, Mẹ thật sự “có phúc hơn mọi người phụ nữ” khi được Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa. Mặc dù vậy, Mẹ đã hết sức khiêm tốn khi nói lên lời “Xin vâng” theo Thánh ý Chúa. Con cầu xin Mẹ giúp con sống đơn sơ khiêm nhượng, không được như Mẹ hoàn toàn, nhưng ít ra cũng giống như Mẹ một phần nào đó. “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…”. Sau khi nghe Thiên Thần báo tin như vậy, thì Thánh Thần Chúa đã ngự xuống trong Mẹ tràn đầy, và bấy giờ Mẹ đã bắt đầu là Mẹ của Thiên Chúa Ngôi Hai. Vậy con xin Mẹ thương cầu cho chúng con là những kẻ tội lỗi “khi nay và trong giờ lâm tử” để chúng con luôn xứng đáng là con cái Chúa.
Thứ hai thì ngắm: Đức Bà đi viếng Bà Thánh Ê-li-sa-bét, ta hãy xin cho được lòng yêu người.
“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…” Con nhớ lại khi xưa Mẹ đã không quản đường xa khó nhọc để đi thăm Thánh Ê-li-sa-bét, người chị họ của mình. Lúc đó, Chúa Giê-su đã ở trong lòng Mẹ, nên con thật sự vui mừng khi kính chào Mẹ “đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Mẹ”. Và khi đọc “…Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giê-su con lòng Bà gồm phúc lạ”, con cũng không quên những lời của Thánh Nữ Ê-li-sa-bét đã nói với Mẹ khi Mẹ vừa bước vào nhà. Vì tình chị em, Mẹ đã tận tình giúp đỡ chị mình. Con xin Mẹ giúp con sống bác ái và yêu thương tha nhân, luôn biết xả kỷ giúp đỡ mọi người vì tình yêu. “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…” Xin Mẹ cầu cho con là kẻ có tội, đặc biệt là các lỗi về đức bác ái. Nhiều khi con đã ích kỷ, chỉ bo bo suy tính cho mình mà không biết nghĩ cho người khác. Lại có lúc con thờ ơ không giúp đỡ người đang cần sự giúp đỡ của con. Xin Mẹ cầu cho chúng con !
Thứ ba thì ngắm: Đức Bà sinh Đức Chúa Giê-su nơi hang đá, ta hãy xin cho được lòng khó khăn.
“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…” Một đêm đông lạnh giá, trong một hang đá ở Bê-lem, Mẹ đã hạ sinh Chúa Giê-su. Hòa cùng niềm vui của Mẹ, và cùng với các Thiên Thần và các Thánh, con xin “kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…”. Và chính lúc này, Mẹ là người có phúc hơn hết tất cả các người phụ nữ trên trần gian: Mẹ là người đầu tiên nhìn thấy Đức Ki-tô con của Mẹ, Đấng Cứu Độ của loài người. “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…” Bên máng cỏ, nơi Hài Nhi Giê-su đang say giấc ngủ, xin Mẹ cầu cho chúng con là những kẻ tội lỗi. Vì tội lỗi chúng con, Chúa đã xuống thế làm người, một con người nghèo khó. Xin Mẹ giúp chúng con sống tinh thần nghèo khó như Chúa đã dạy, xin giúp chúng con sống thanh đạm để ngày càng trở nên giống Chúa nhiều hơn.
Thứ bốn thì ngắm: Đức Bà dâng Đức Chúa Giê-su vào Đền Thánh, ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.
“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…” Với Chúa Giê-su Hài Đồng ẵm trên tay, Mẹ thật sự đầy ơn phúc vì chính Đức Chúa Trời đang ở cùng Mẹ. Mẹ đã vâng theo ý Chúa, thể hiện qua việc tuân theo Luật Chúa dâng con vào Đền Thờ. Con còn nhớ lời tiên báo của Thánh Si-mê-on nói với Mẹ. Chắc lúc ấy, Mẹ cũng đã suy nghĩ, nhưng không nói ra mà chỉ suy gẫm trong lòng. Có thể Mẹ chưa thấy được những viễn cảnh mà Chúa Giê-su sẽ gặp phải sau này, nhưng chỉ nguyện trong lòng một điều là xin vâng theo thánh ý Chúa. Xin Mẹ giúp con luôn biết nói “Vâng” với Chúa, ngõ hầu mọi thánh ý của Ngài được thực hiện toàn vẹn nơi con.
“Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…” Xin Mẹ cầu cho chúng con là những kẻ đã nhiều lần phạm tội bất phục tùng, không nghe theo tiếng Chúa mời gọi trong tâm hồn, không sống theo những gì Ngài đã dạy. Mẹ biết con yếu đuối, nên xin Mẹ, hãy giúp con dám can đảm sống “xin vâng” như Mẹ. Con không dám xin Chúa đừng gửi đến cho con những thử thách khó khăn, vì chính những thử thách mới giúp linh hồn con được tôi luyện, nhưng con chỉ xin Chúa, nhờ lời cầu bầu của Mẹ, ban cho con được thêm nhiều ơn thánh để con đủ nghị lực vượt qua mọi thử thách ấy và sống trung thành mến yếu Chúa suốt đời con.
Thứ năm thì ngắm: Đức Bà tìm được Đức Chúa Giê-su trong Đền Thánh, ta hãy xin cho được giữ nghĩa cùng Chúa luôn.
“Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…” Với mầu nhiệm này, con hân hoan kính mừng Mẹ vì Mẹ được Thiên Chúa ( cậu bé Giê-su của Mẹ ) ở cùng đã tròn 12 năm. Một lần, Mẹ đã để lạc mất Chúa Giê-su, Mẹ đã hết sức lo lắng đi tìm. Và khi tìm lại được Chúa rồi, Mẹ vui mừng xiết bao. Cùng mừng với Mẹ, con xin dâng lên những lời kinh Kính Mừng này. “Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời…” Xin Mẹ cầu cho chúng con là những tội nhân, là những kẻ lắm lúc lầm đường lạc lối. Mẹ ơi, xin Mẹ giúp con đừng để con lạc mất Chúa bất kỳ giây phút nào trong cuộc đời đầy thử thách cám dỗ này. Con xin tạm dừng tại đây, hẹn gặp lại Mẹ thư sau, con sẽ xin Mẹ chỉ dạy con suy niệm Năm Sự Thương Khó của Chúa Giê-su. Nhân Lễ Truyền Tin, con chúc mừng Mẹ vì ân sủng làm Mẹ Thiên Chúa mà Mẹ đã lãnh nhận; và cùng với Mẹ, con xin dâng lên Chúa tâm tình thành kính tạ ơn vì Chúa đã thương ban cho Mẹ ân sủng trọng đại này. Con của Mẹ.
Suy Niệm của Đan Quang Tâm
MẦU NHIỆM VUI THỨ NHẤT :
THIÊN THẦN TRUYỀN TIN CHO ĐỨC BÀ MA-RI-A
Trong chương đầu Phúc Âm của mình, Thánh Lu-ca thuật lại biến cố Đức Ma-ri-a được truyền tin về sứ mạng của mình: “Bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a” ( c. 26 – 27 ).
LỜI CHÀO CỦA THIÊN THẦN
“Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì” ( c. 28 – 29 ). Ma-ri-a được sứ thần gọi bằng một tên mới. Đây là điều Chúa thường làm đối với những người Ngài gọi để lĩnh sứ mạng trọng yếu trong Chương Trình của Ngài ( x. St 17, 5.15; 32, 29; Mt 16, 18 ). Tên mới này của Ma-ri-a là “Đấng đầy ân sủng”, điều này cho thấy Ma-ri-a đã được Thiên Chúa chọn để lĩnh sứ vụ trọng yếu và được ban ân sủng cần thiết để hoàn thành sứ vụ. “Đức Chúa ở cùng bà” như vẳng lại lời chào của thiên thần cho Ghít-ôn khi ông được Chúa gọi trở thành vị thủ lãnh giải phóng dân Ít-ra-en khỏi ách thống trị của quân Ma-đi-an ( Tl 6, 11 – 18 ). Không chỉ là lời chào, “Đức Chúa ở cùng bà” còn là lời khẳng định một sự kiện có liên quan mật thiết đến mầu nhiệm Nhập Thể. Thánh Âu-tinh bình luận lời đó bằng cách đặt vào miệng thiên thần câu sau đây: “Ngài ở với bà còn nhiều hơn ở với tôi: Ngài ở trong tâm hồn bà, định hình và trở thành nhục thể trong người bà, Ngài tràn ngập linh hồn bà, Ngài ngự trong cung lòng bà” ( Sermo de Nativitate Domini, 4 ).
TIN MỪNG
Rồi thiên thần bèn nói cùng Ma-ri-a: “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận” ( c. 30 – 33 ). Tổng thiên thần Gáp-ri-en loan báo cho trinh nữ Ma-ri-a rằng trinh nữ sẽ trở nên Mẹ Thiên Chúa bằng cách lặp lại lời ngôn sứ I-sai-a loan báo từ xa xưa rằng Đấng Mê-si-a sẽ sinh bởi một người trinh nữ, lời tiên tri ấy nay được hoàn thành nơi Đức Ma-ri-a ( x. Mt. 1, 22 – 23; Is 7, 14 ). I-sai-a mô tả việc hoàn thành lời hứa ấy cho chúng ta thấy trong một đoạn văn có thể nói là diễm lệ nhất trong Kinh Thánh, mà chúng ta nghe đọc trong đêm Giáng Sinh: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai, danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình. Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời. Vì yêu thương nồng nhiệt, Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó” ( Is 9, 1 – 6 ). Đức Giêsu tuyên bố Ngài hoàn thành lời hứa này khi Ngài ban cho các môn đệ sứ vụ lớn lao: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ( Mt 28, 18 – 20 ).
QUYỀN NĂNG CỦA THIÊN CHÚA
Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng !” Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” ( c. 34 – 37 ). Đối với Chúa thì không có gì mà không thể thực hiện được! Ngài tạo dựng trời đất và mọi cư dân ( St 1 ). Ngài có thể đem sự sống vào trong cung lòng người nữ đã có tuổi, có tiếng là son sẻ và cũng có thể gieo sự sống vào trong một cung lòng trinh trong. Ngài có thể hóa nước thành rượu ( Ga 2, 1 – 11 ). Ngài có thể lấy phần ăn của một em nhỏ mà nuôi những cả một đám đông quần chúng ( Mt 14, 15 – 21; 15, 32 – 39; Mc 6, 34 – 44; 8, 1 – 10; Lc 9, 10 – 17; Ga 6, 1 – 15 ). Ngài có thể chữa kẻ què đi được, người mù được sáng mắt. Ngài có thể biến đổi bánh và rượu trở thành mình và máu Ngài ( Mt 16,16 – 28; Mc 14, 22 – 23; Lc 22, 17 – 20 ) nhằm cung cấp cho chúng ta của ăn đem lại sự sống đời đời ( Ga 6, 35.48 – 58 ).
TIẾNG XIN VÂNG CỦA MA-RI-A
“Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi” ( c. 38 ). Bình luận về các câu trên, Đức Gio-an Phao-lô II nói: “Virgo fidelis, đức nữ trung tín thật thà. Đức trung tín của Ma-ri-a nghĩa là gì ? Trung tín bao gồm các chiều kích gì ? Chiều kích thứ nhất gọi là tìm kiếm. Trước hết, Ma-ri-a tỏ ra trung tín khi ngài bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của chương trình Thiên Chúa nơi mình và cho thế giới. Quomodo fiet ? Sự việc xảy ra như thế nào ? Ngài hỏi Sứ Thần Truyền Tin ( … ).
Chiều kích thứ hai của trung tín gọi là tiếp nhận, chấp nhận. Lời Quomodo fiet ? trên môi Ma-ri-a chuyển thành một lời fiat: Xin cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền, tôi sẵn sàng, tôi chấp nhận. Đây là giờ phút hệ trọng của đức trung tín, giờ phút mà con người cảm thấy mình sẽ không bao giờ hiểu thấu được từ “như thế nào”; trong kế hoạch của Thiên Chúa có các khu vực mang tính nhiệm mầu nhiều hơn là tính sáng sủa, rõ ràng; cho dù có ra sức phấn đấu đến đâu chăng nữa thì cũng chẳng tài nào lĩnh hội đầy đủ sự việc ( … ) Chiều kích thứ ba của đức trung tín là sự kiên định, kiên trì sống theo những điều mình tin tưởng, sẵn sàng điều chỉnh cuộc đời mình cho phù hợp với mục tiêu mình theo đuổi. Sẵn sàng chấp nhận bị hiểu lầm, bắt bớ còn hơn ngôn hành bất nhất, tin một đàng mà làm thì một nẻo; điều này gọi là tính kiên định ( … )
Tuy nhiên, mọi sự trung tín đều phải trải qua cuộc thử nghiệm khốc liệt nhất: sự thử thách của thời gian. Do đó, chiều kích thứ tư là tính thuỷ chung như nhất. Kiên trì ngày một ngày hai thì dễ. Kiên trì trong suốt cuộc đời thì khó và đây mới là điều quan trọng. Kiên trì đang khi hào hứng, hồ hởi phấn khởi thì dễ, còn vẫn giữ được sự kiên trì trong cơn thử thách khốn quẫn mới khó. Và chỉ có sự kiên trì kéo dài cho đến suốt đời mới là tín trung. Lời thưa ‘fiat’ xin vâng của Đức Ma-ri-a trong buổi Truyền Tin trở nên viên mãn trong tiếng ‘fiat’ xin vâng âm thầm mà Mẹ lập lại dưới chân Thập Giá” ( Đức Gio-an Phao-lô II, Bài giảng tại Vương Cung Thánh Đường Mexico City, 26 tháng 1 năm 1979 ).
KẾT LUẬN
Chúng ta vừa cung chiêm Đức Ma-ri-a tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc mới được thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Na-da-rét được Thiên Thần vâng lệnh Thiên Chúa đến truyền tin và kính chào là “Đấng đầy ân phúc” ( x. Lc 1, 28 ). Và Trinh Nữ đã đáp lời sứ thần rằng: “Này tôi là Tôi Tá Chúa, xin hãy xảy ra cho tôi theo lời ngài” ( Lc 1, 38 ). Như thế, Đức Ma-ri-a, con cháu A-đam, vì chấp nhận lời cứu độ của Thiên Chúa, đã trở nên mẹ Chúa Giêsu. Hết lòng đón lấy ý định cứu rỗi của Thiên Chúa, vì không một tội nào ngăn trở ngài. Đức Ma-ri-a đã tận hiến làm tôi tớ Chúa, phục vụ cho thân thế và sự nghiệp của Con ngài, và nhờ ân sủng của Thiên Chúa toàn năng, phục vụ mầu nhiệm cứu chuộc dưới quyền và cùng với Con ngài. Bởi vậy, các Thánh Giáo Phụ đã nghĩ rất đúng rằng: Thiên Chúa đã không thu dụng Đức Ma-ri-a một cách thụ động, nhưng đã để ngài tự do cộng tác vào việc cứu rỗi nhân loại, nhờ lòng tin và sự vâng phục của ngài.
Thực vậy, Thánh I-ren-nê nói: “Chính ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại”. Và cùng với Thánh I-ren-nê còn có rất nhiều Thánh Giáo Phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của E-và, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Ma-ri-a; điều mà E-và đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Ma-ri-a đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với E-và, các ngài gọi Đức Ma-ri-a là “Mẹ kẻ sống”, và thường quả quyết rằng: “Bởi E-và đã có sự chết, thì nhờ Ma-ri-a lại được sống” ( Vatican II, Lumen gentium, 56 ). Truyền Tin cho Đức Ma-ri-a và Nhập Thể của Ngôi Lời là mầu nhiệm thâm sâu nhất về mối quan hệ giữa Thiên Chúa và loài người và là biến cố quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta mãi mãi. Ấy vậy mà khi Ngôi Hai Thiên Chúa xuống làm người, nhập thể trong cung lòng tinh khiết của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, thì biến cố lẽ ra phải long trời lở đất lại diễn ra trong âm thầm, không kèn không trống. Ta thấy rằng Thánh Lu-ca đã thuật câu truyện trên bằng một ngôn ngữ hết sức bình dị. Thái độ của ta trước đoạn Lời Chúa là hãy trân trọng và năng sử dụng những lời Phúc Âm này, chẳng hạn như ta có thể thực hành tập quán Ki-tô giáo đọc kinh Truyền Tin mỗi ngày và suy niệm năm mầu nhiệm vui của Kinh Mai Khôi.
Viết theo:
- A Scriptural Reflection on the Rosary: the First Joyful Mystery, Maryann Marshall, www.petersnet.net 2. The Navarre Bible St Luke, Nhà Xuất Bản Four Courts Press, Kill Lane, Blackrock, Co. Dublin, Ireland, 1997.
Bông Hoa Hé Nở
Suy Niệm của Sr Marciana Chuẩn, CMR
Phúc Âm thánh Luca đề cập đến đoạn kinh thánh tuyệt vời về cuộc truyền tin, đó là mẫu gương sáng ngời về Đức Maria người nữ của niềmtin. Lời thiên sứ kính chào Mẹ đã trở thành lời kinh”Ave Maria” được dùng trong toàn thể Giáo Hội: “Kính Mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà.” Các nghệ sĩ, họa sĩ và các nhà nghệ thuật trong mọi thời đại đã cố gắng miêu tả Đức Maria trong trạng thái cầu nguyện, chính trong giây phút này đã làm thay đổi toàn thể lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể cho chúng ta cái nhìn trong bốn khía cạnh của mầu nhiệm. Mầu nhiệm thứ nhất Thiên Chúa mong mỏi tha thiết để thông đạt chính mình cho thụ tạo của Người là chúng ta qua Người Con yêu dấu là Đức Kitô. Phúc âm thánh Gioan đã diễn tả tóm tắt lòng nhân hậu yêu thương nhân loại torng đoạn Kinh thánh như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời.” Mầu nhiệm thứ hai là tình yêu vĩnh cửu vô biên Chúa Kitô không chỉ dâng lên Thiên Chúa Cha mà thôi mà còn cho mỗi cá nhân chúng ta. Tình yêu đó được thể hiện trong cuộc tự hiến của Ngài. Thánh Phaolô nói: “Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân.” (P1 2,7). Chính Chúa Kitô cũng xác quyết với ta rằng: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13) Vì thế, tình yêu đã thúc bách Ngài mau mắn thưa với Cha: “.. Này con đây, con xin đến để thi hành thánh ý Cha.” (Dt 10,7)
Chúa Kitô còn quả quyết với những người theo Ngài: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4,34). Mầu nhiệm thứ ba bao quanh biến cố truyền tin. Thánh Phaolô viết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người nữ.” (Gl 4,4). Người Nữ này có một chỗ thật “đặc biệt” trong chương trình của Thiên Chúa. “Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên bà và quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ bao phủ bà.” (Lk 1.35) Maria đã cưu mang hòm bia giao ước trong dạ Mẹ. Mẹ chỉ đặt một câu hỏi duy nhất với Thiên Sứ: “Làm sao có thể xảy ra được?” (Lk 1, 34) hay “làm sao hòm bia giao ước của Thiên Chúa đến với tôi được?” (II Sam 6,9) hoặc làm sao tôi có thể thực hiện công trình vĩ đại siêu phàm đó được? Câu hỏi không phải của sự nghi ngờ tránh né, nhưng là làm sáng tỏ. Qua sự vâng phục khiên nhường của Mẹ: “Này tôi là nữ tì của Chúa, tôi xin vâng như lời Ngài truyền.” (Lk 1,38) và “lời Chúa đã được thực hiện” (Lk 1,45).
Sau này trong đời công khai Chúa Kitô khen tặng Mẹ “Mẹ Ta và anh em Ta là những người nghe lời Chúa và đem ra thi hành” (Lk 8,21). Maria trở nên hiện thân đích thực lời hứa của Thiên Chúa, Mẹ thụ thai cùng cưu mang lời hứa và lời hứa ấy sẽ được gọi là “Con Đấng Tối Cao” (Lk 1,35). Maria đã nên gương sáng cho các tín hữu trong lòng tin và sự phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, mặc dù khó khắn và đắt giá trong một tương lai xa xăm mịt mờ. Niềm tin của Mẹ không mù quáng nhưng rất am tường thánh ý Chúa “con thích làm theo thánh ý và ấp ủ luật Chúa trong lòng.” (Tv 40,9)
Mầu nhiệm thứ bốn bao quanh đời sống chúng ta. Trong cương vị của người môn đệ, Chúa Kitô sửa soạn cho chúng ta vào mầu nhiệm này: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình hằng ngày mà theo. Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Lk 9,23-24) Chúa kêu gọi chúng ta phải từ bỏ và chết cho mình cách liên tục như: lòng yêu mình, ích kỷ, tham danh vọng… phải bỏ hết vì lòng yêu mến Cha trên Trời mà thánh Phaolô gọi là sự điên rồ của thập giá. Giống như Me, đời sống người Kitô hữu phải luôn luôn là hành động đức tin trong mọi giây phút. Nhiều nghịch cảnh trong cuộc đời xẩy đến chúng ta không hiểu, như phải đối diện với những nỗi hoang mang sợ hãi như: hoàn cảnh bấp bênh không có tương lai, nỗi kinh hoàng nếu chiến tranh nguyên tử xẩy đến, sợ đói kém hạn hán đưa tới, sự đối xử bất công trong xã hội… thế giới thách thức chúng ta.
Như Maria, chúng ta phải tin và phó thác vào tình yêu tuyệt đối Cha trên trời. Mẹ đã dâng lên Chúa lời xin vâng vô điều kiện, chính lời thưa này dẫn Mẹ tới sự thô sơ nghèo nàn của hang Bêlem, sự cô đơn lưu đầy sang Ai Cập, cái kiếp nghèo cùng khốn tại Nagiarét và một nỗi đau khổ tột độ trên đồi thánh Cavariô. Lòng tin tưởng và phó thác của Mẹ đã không suy giảm vì Mẹ yêu Chúa nhiều. Đừng sợ, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến niềm hy vọng ngày mai, niềm hy vọng ấy không làm chúng ta thất vọng. Hãy dâng cho Chúa tất cả con người chúng ta. Chắc chắn rằng niềm tion và sự phó thác của Mẹ sẽ kiên vững lòng tin của ta. Mẹ là Mẹ chúng ta, Mẹ “sẽ không từ chối những ai chạy đến Mẹ xin bầu chữa cứu giúp.” Đây là thông điệp Mẹ nhắc cho mỗi người tín hữu: “HÃY LÀM TẤT CẢ NHỮNG GÌ NGÀI BẢO.”
Sưu tầm