13. Nội dung cuộc phỏng vấn ĐTC trên chuyến bay từ Budapest về Roma
Chiều Chúa Nhật 30/4/2023, trên chuyến bay từ Budapest trở về Roma, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với các nhà báo đi cùng về những nỗ lực của Tòa Thánh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một thỏa thuận ngừng bắn ở Ucraina và việc hồi hương các trẻ em Ucraina đã bị đưa sang Nga trong chiến tranh.
Trong cuộc họp báo truyền thống trên chuyến bay, Đức Thánh Cha cũng nói về hy vọng hòa bình và liên lạc với Điện Kremlin, cùng với đối thoại đại kết, cũng như về sức khoẻ của ngài sau khi nhập viện và hồi phục hồi đầu tháng 4 vừa qua, về việc trả lại các hiện vật đền Parthenon cho Hy Lạp.
Sau đây là bản dịch cuộc họp báo trên chuyến bay của Đức Thánh Cha từ nguyên bản tiếng Ý.
1. Antal Hubai (Rtl Klubt)
** Thưa Đức Thánh Cha, chúng con biết rằng trong cuộc sống, ngài đã có nhiều kinh nghiệm cá nhân khác nhau với người Hungary: cách nhìn của ngài về người Hungary có thay đổi sau những cuộc gặp gỡ mà ngài có trong những ngày gần đây không?
– Vâng, tôi thực sự đã có kinh nghiệm gặp gỡ người Hungary vào những năm 1960 khi tôi đang học ở Chile, nơi có nhiều tu sĩ Dòng Tên người Hungary bị đuổi khỏi quê hương của họ. Sau đó, tôi vẫn là bạn thân của các Nữ tu Maria Ward người Hungary; họ có một ngôi trường cách thủ đô Buenos Aires 20 km. Tôi đến thăm trường hai lần mỗi tháng và đóng vai trò như một tuyên úy đặc biệt. Rồi tôi cũng quen với một cộng đoàn người Hungary gồm những giáo dân người Hungary từ Buenos Aires làm việc trong trường Hungary, tôi biết họ khá rõ. Tôi không hiểu ngôn ngữ nhưng tôi hiểu hai từ, gulash và tokaj! Đó là một kinh nghiệm đẹp và tôi rất xúc động bởi nỗi đau của những người tị nạn và không thể trở về nhà. Các nữ tu Maria Ward ở lại đó (Hungary), ẩn nấp trong các căn hộ để chế độ không đuổi họ đi. Sau đó, tôi biết rõ hơn về toàn bộ sự việc để thuyết phục Đức Hồng y Mindszenty đến Roma. Và tôi cũng biết được sự nhiệt tình của năm 1956 và rồi sự thất vọng sau đó.
** Và ngài đã thay đổi ý kiến từ đó?
– Nó không thay đổi nhưng trở nên phong phú hơn, theo nghĩa là những người Hungary mà tôi biết có một nền văn hóa tuyệt vời, một nền văn hóa tuyệt vời; ngay cả những người không thuộc tầng lớp xã hội cao, ngay cả những người bình dân cũng có văn hóa căn bản rất cao. Họ thường nói tiếng Đức hoặc tiếng Anh, bởi vì tiếng Hungary không được nói ở bên ngoài Hungary – chỉ ở Thiên đàng người ta mới nói tiếng Hungary vì họ nói rằng mất cả đời mới học được tiếng Hungary (cười). Và điều đó không thay đổi, ngược lại: Tôi đã nhìn thấy phong cách mà tôi biết.
2. Eliana Ruggiero (AGI)
Thưa Đức Thánh Cha, ngài đã đưa ra lời kêu gọi mở – mở lại – những cánh cửa ích kỷ của chúng ta đối với người nghèo, người di cư, đối với những người không hợp pháp. Trong cuộc gặp với Thủ tướng Hungary Orbán, ngài có yêu cầu ông ấy mở lại biên giới của tuyến đường Balkan mà ông ấy đã đóng không? Sau đó, trong những ngày gần đây, ngài cũng đã gặp Đức Tổng Giám mục Hilarion. Đức Giám mục Hilarion và ông Orbán có thể trở thành các kênh mở hướng tới Moscow để đẩy nhanh tiến trình hòa bình cho Ucraina hay giúp cho cuộc gặp gỡ giữa ngài và Tổng thống Putin có thể xảy ra không? Xin cảm ơn.
– Tôi tin rằng hòa bình luôn được tạo ra bằng cách mở các kênh, hòa bình không bao giờ có thể được tạo ra bằng cách đóng cửa. Tôi mời gọi mọi người hãy mở rộng các mối quan hệ, các kênh hữu nghị… Điều này không hề dễ dàng. Bài phát biểu tương tự mà tôi thường nói, tôi đã nói với Orbán và tôi đã làm nó ở khắp mọi nơi. Về vấn đề di cư: Tôi nghĩ đó là vấn đề mà Châu Âu phải chung tay vì có 5 quốc gia chịu đựng nhất: Síp, Hy Lạp, Malta, Ý, Tây Ban Nha, vì họ là các quốc gia ở vùng Địa Trung Hải và phần lớn người di dân cập bến ở đó. Và nếu châu Âu không chịu trách nhiệm về việc phân phối công bằng người di cư, thì vấn đề sẽ chỉ xảy ra với các quốc gia này. Tôi tin rằng Châu Âu phải làm cho người ta cảm thấy rằng đó là Liên minh Châu Âu ngay cả khi đối mặt với điều này.
Có một vấn đề khác liên quan đến di cư, đó là tỷ lệ sinh. Có những quốc gia như Ý và Tây Ban Nha… không sinh con. Năm ngoái tôi đã nói chuyện trong một cuộc gặp gỡ các gia đình về điều này và gần đây tôi thấy rằng chính phủ và các chính phủ khác cũng đang nói về nó. Độ tuổi trung bình ở Ý là 46, ở Tây Ban Nha thậm chí còn cao hơn và có những ngôi làng nhỏ bị bỏ hoang. Một chương trình di cư, nhưng là một chương trình được thực hiện tốt với mô hình mà một số quốc gia đã có về di cư – tôi đang nghĩ, chẳng hạn như Thụy Điển trong thời kỳ các chế độ độc tài ở Mỹ Latinh – cũng có thể giúp những quốc gia có tỷ lệ sinh thấp này.
Rồi cuối cùng, điều cuối cùng là gì? À về Đức Giám mục Hilarion: ngài là người mà tôi rất kính trọng và chúng tôi luôn có mối quan hệ tốt đẹp. Và ngài đã rất lịch sự khi đến gặp tôi, sau đó ngài đến dự Thánh lễ và tôi cũng gặp ngài ấy ở đây, tại sân bay. Ngài Hilarion là một người thông minh mà bạn có thể nói chuyện, và những mối quan hệ này cần được duy trì, bởi vì nếu chúng ta nói về chủ nghĩa đại kết – tôi thích điều này, tôi không thích điều này – chúng ta phải dang rộng vòng tay với mọi người, kể cả nắm lấy bàn tay của họ.
Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, tôi đã nói chuyện với Đức Thượng phụ Kirill chỉ một lần, 40 phút qua zoom, sau đó thông qua Đức cha Anthony, người hiện đang giữ chức vụ của ngài Hilarion, người đến gặp tôi. Ngài là một giám mục từng là cha xứ ở Roma và ngài biết rõ về bầu khí, và tôi luôn liên lạc với Đức Kirill thông qua ngài.
Lẽ ra chúng tôi đã có một cuộc gặp gỡ ở Giêrusalem vào tháng 7 hoặc tháng 6 năm ngoái, nhưng nó đã bị đình chỉ do chiến tranh: điều đó sẽ phải được thực hiện. Và rồi, với người Nga, tôi có mối quan hệ tốt với đại sứ hiện sắp mãn nhiệm; ông là đại sứ tại Vatican trong bảy năm, ông là một người tuyệt vời, một người đàn ông đúng nghĩa; một người nghiêm túc, có văn hóa, rất quân bình. Mối quan hệ với người Nga chủ yếu là với vị đại sứ này. Tôi không biết nếu tôi đã nói tất cả mọi thứ. Có phải đã nói tất cả? Hay tôi đã bỏ sót điều gì đó?
… (Đức Tổng Giám mục) Hilarion và cả ông Orbán bằng cách nào đó có thể đẩy nhanh tiến trình hòa bình ở Ucraina và cũng có thể tạo điều kiện cho cuộc gặp giữa ngài và Putin, nếu họ có thể đóng vai trò – trong dấu ngoặc kép – với tư cách là người trung gian…
– Bạn có thể tưởng tượng rằng trong cuộc gặp gỡ này, chúng ta không chỉ nói về Cô bé quàng khăn đỏ, phải không? Chúng ta đã nói về tất cả những điều này. Chúng ta nói về điều này bởi vì mọi người đều quan tâm đến con đường dẫn đến hòa bình. Tôi sẵn sàng. Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần phải làm. Ngoài ra, một nhiệm vụ đang được tiến hành, nhưng nó vẫn chưa được công khai. Hãy xem làm thế nào … Tôi sẽ nói với bạn khi nó được công khai.
3. Aura Maria Vistas Miguel (Rádio Renascença)
** Thưa Đức Thánh Cha, điểm dừng chân tiếp theo là Lisbon. Ngài cảm thấy sức khỏe thế nào? Bởi vì chúng con đã rất ngạc nhiên khi ngài nhập viện: một số người nói rằng ngài đã bất tỉnh. Bây giờ ngài có cảm thấy khoẻ để đến gặp hàng ngàn người trẻ trong những ngày tháng Tám ở Lisbon không? Và ngài có muốn mời một người trẻ Ucraina và một bạn trẻ người Nga đến Đại hội Quốc tế Giới trẻ như một dấu chỉ hòa bình cho các thế hệ mới không?
– Trước hết là sức khỏe. Những gì xảy ra với tôi là tôi bị bịnh nặng vào cuối cuộc tiếp kiến chung vào thứ Tư, tôi không muốn ăn trưa, tôi nằm một lúc, tôi không bất tỉnh, nhưng bị sốt cao, ‘sốt cao’, và lúc ba giờ chiều, bác sĩ lập tức đưa tôi đến bệnh viện: viêm phổi cấp và nặng, ở phần dưới của phổi. Cảm ơn Chúa, tôi có thể thuật lại, ở mức độ nào đó, các bộ phận, cơ thể, đã phản ứng tốt với việc điều trị. Cảm ơn Chúa, đây là những gì tôi đã trải qua.
Rồi đến Lisbon: ngày trước khi khởi hành tôi đã nói chuyện với Đức cha Américo (Đức cha Américo Manuel Alves Aguiar, giám mục phụ tá của Lisbon và là chủ tịch của Ban Tổ chức Đại hội Quốc tế Giới trẻ 2023), người đã đến để xem mọi thứ ở đó như thế nào… Và vâng, tôi sẽ đi, tôi sẽ đi, tôi sẽ đi và tôi hy vọng sẽ thực hiện được. Và bạn thấy rằng nó không giống như hai năm trước, nhưng với cây gậy, bây giờ tốt hơn, nhưng hiện tại chuyến đi vẫn chưa bị hủy. Sau đó là chuyến đi Marseilles, rồi đến chuyến viếng thăm Mông Cổ, rồi còn một chuyến cuối cùng tôi không nhớ ở đâu… Chương trình của tôi khiến tôi tiếp tục di chuyển, chúng ta hãy xem!
**… và cuộc gặp gỡ với các bạn trẻ Nga và Ucraina?
– Đức cha Américo có ý định gì đó, ngài nói với tôi ngài đang chuẩn bị vài điều. Ngài đang chuẩn bị nó rất tốt!
4. Nicole Winfield (Associated Press)
** Thưa Đức Thánh Cha, con muốn hỏi ngài một điều hơi khác: gần đây ngài đã thực hiện một cử chỉ đại kết rất mạnh mẽ. Thay mặt cho Bảo tàng Vatican, ngài đã tặng ba mảnh của các tác phẩm điêu khắc Parthenon cho Hy Lạp. Cử chỉ này cũng có tiếng vang bên ngoài thế giới Chính Thống giáo, bởi vì nhiều bảo tàng phương Tây đang thảo luận về việc trả lại những đồ vật thu được trong thời kỳ thuộc địa, như một hành động công bằng đối với những dân tộc này. Con muốn hỏi liệu ngài có sẵn sàng cho những hành động hoàn trả khác không. Ví dụ, con đang nghĩ đến những dân tộc và nhóm người bản địa Canada đã yêu cầu trả lại các đồ vật từ các bộ sưu tập của Vatican như một phần của quá trình đền bù những thiệt hại phải gánh chịu trong thời kỳ thuộc địa…
– Nhưng trước hết, đây là điều răn thứ bảy: đã ăn cắp thì phải trả lại! Nhưng, có cả một lịch sử. Đôi khi các cuộc chiến tranh và thuộc địa dẫn đến những quyết định lấy đi những điều tốt đẹp của người kia. Đây là một cử chỉ đúng đắn, nó phải được thực hiện: trả lại những thứ của đền Parthenon. Và nếu ngày mai người Ai Cập đến đòi cột bút tháp, chúng ta sẽ làm gì? Nhưng bạn phải thực hiện sự phân định cho mỗi trường hợp.
Về việc hoàn trả những đồ vật của người bản địa cho Canada, nó đang được tiến hành, hay ít nhất chúng tôi đã đồng ý làm điều đó. Tôi sẽ hỏi điều này đang tiến hành thế nào. Nhưng kinh nghiệm với thổ dân Canada rất hiệu quả. Ngay tại Hoa Kỳ các tu sĩ Dòng Tên cũng đang làm một điều gì đó, với nhóm người bản địa ở Hoa Kỳ đó. Hôm trước Bề trên Tổng quyền đã nói với tôi về điều này. Nhưng chúng ta hãy quay trở lại với việc hoàn trả. Trong phạm vi mà nó có thể được trả lại, điều đó là cần thiết, điều đó là một nghĩa cử, tốt hơn nên làm điều đó. Đôi khi điều đó là không thể, không có khả năng chính trị hay khả năng thực tế hay cụ thể nào. Nhưng trong phạm vi có thể hoàn trả thì hãy làm đi, điều này tốt cho tất cả mọi người. Để đừng quen thói thò tay vào túi người khác!
5. Eva Fernandez (Đài COPE)
** Thủ tướng Ucraina đã yêu cầu ngài giúp đỡ để đưa những đứa trẻ bị cưỡng bức đến Nga hồi hương. Ngài có nghĩ rằng ngài có thể giúp ông ta không?
– Tôi nghĩ là có bởi vì Tòa Thánh đã đóng vai trò trung gian trong một số tình huống trao đổi tù nhân, và thông qua đại sứ quán, việc này đã diễn ra tốt đẹp, tôi nghĩ điều này cũng có thể diễn ra tốt đẹp. Điều quan trọng, ít nhất Tòa Thánh sẵn sàng làm điều đó bởi vì thật đúng đắn, đó là điều đúng đắn và chúng ta phải giúp đỡ, giúp đỡ để bảo đảm đây không phải là một casus belli (trường hợp của chiến tranh) nhưng là một trường hợp của con người. Đó là một vấn đề của nhân loại chứ không phải là vấn đề chiến lợi phẩm của chiến tranh hay di tản vì chiến tranh. Tất cả những cử chỉ của con người đều hữu ích, nhưng những cử chỉ độc ác không giúp được gì. Chúng ta phải làm mọi thứ có thể về khía cạnh con người.
Tôi cũng nghĩ, và tôi muốn nói điều đó, về những phụ nữ đến các quốc gia của chúng ta: Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan, Hungary, rất nhiều phụ nữ đến với con cái và chồng của họ hoặc đã chết hoặc đang chiến đấu trong chiến tranh. Đúng là bây giờ họ đang được giúp đỡ, nhưng chúng ta không được đánh mất sự nhiệt tình làm điều này, bởi vì khi sự nhiệt tình không còn nữa, những người phụ nữ này sẽ không được bảo vệ, có nguy cơ rơi vào tay những con kền kền luôn rình mò tìm kiếm điều này. Chúng ta hãy cẩn thận để không đánh mất sự tập trung giúp đỡ mà chúng ta dành cho người tị nạn. Điều này liên quan đến tất cả mọi người. Xin cảm ơn.
12. Kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng – Hungary
Vào cuối Thánh Lễ, trước khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng, Đức Thánh Cha đã gởi đến những người hiện diện lời cảm ơn.
REGINA CAELI
Budapest, Quảng trường Kossuth Lajos,
ngày 30 tháng 4 năm 2023
Tôi cảm ơn Đức Hồng Y Erdő vì những lời của ngài. Tôi xin chào bà Tổng Thống, ngài Thủ tướng và các nhà chức trách hiện diện. Giờ đây sắp trở về Roma, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của tôi đối với quý vị, các anh em Giám mục, các linh mục, các tu sĩ nam nữ và tất cả người dân Hungary thân yêu vì sự đón tiếp và tình cảm mà tôi đã cảm nhận được trong những ngày này. Và tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã từ xa đến đây và những người đã làm việc rất chăm chỉ và tốt đẹp cho chuyến thăm này. Tôi nói với mọi người: köszönöm, Isten fizesse! [Xin cảm ơn, xin Chúa trả công cho quý vị!] Một ghi nhớ đặc biệt tôi dành cho người bệnh và người già, cho những người không thể đến đây, cho những người cảm thấy cô đơn và cho những người đã mất niềm tin vào Chúa và mất hy vọng vào cuộc sống. Tôi gần gũi với anh chị em, tôi cầu nguyện và chúc lành cho anh chị em.
Tôi chào các nhà ngoại giao và anh chị em thuộc các hệ phái Kitô giáo khác. Xin cảm ơn sự hiện diện của quý vị và cảm ơn vì trên đất nước này, các tôn giáo và tín ngưỡng khác nhau gặp gỡ và hỗ trợ lẫn nhau. Đức Hồng y Erdő nói rằng mọi người sống tại “biên giới phía đông của Kitô giáo tây từ cả nghìn năm”. Thật tuyệt khi các ranh giới không tạo nên ngăn cách mà là các khu vực tiếp xúc; và rằng các tín hữu trong Chúa Kitô đặt tình bác ái hiệp nhất lên hàng đầu chứ không phải là những khác biệt về lịch sử, văn hóa và tôn giáo, gây ra chia rẽ. Tin Mừng liên kết chúng ta và chính bằng cách trở lại đó, về nguồn, mà cuộc hành trình giữa các Kitô hữu sẽ tiếp tục theo ý muốn của Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng muốn chúng ta hiệp nhất trong cùng một đoàn chiên.
Bây giờ chúng ta hướng về Đức Mẹ. Hướng lên Mẹ, Magna Domina Hungarorum, là Nữ vương và Đấng bảo trợ mà anh chị em kêu cầu, tôi tín thác tất cả người dân Hungary. Và từ thành phố vĩ đại này và đất nước cao quý này, tôi muốn đặt vào trái tim của anh chị em niềm tin và tương lai của toàn lục địa Châu Âu, điều mà tôi đã nghĩ đến trong những ngày này, và đặc biệt là công cuộc hòa bình. Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin hãy nhìn đến những dân tộc đau khổ nhất. Trên hết, xin nhìn đến dân tộc lân cận Ucraina tử đạo và dân tộc Nga đã được thánh hiến cho Mẹ. Mẹ là Nữ Vương hòa bình, xin khơi dậy trong lòng con người và các nhà lãnh đạo các quốc gia ước muốn xây dựng hòa bình, mang đến cho các thế hệ trẻ một tương lai hy vọng chứ không phải chiến tranh; một tương lai đầy những chiếc nôi chứ không phải những nấm mồ; một thế giới của tình anh em, chứ không phải của những bức tường.
Chúng con hướng về Mẹ, Lạy Mẹ Thiên Chúa: sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Mẹ đã đồng hành với cộng đoàn Kitô hữu trong những bước đầu tiên, làm cho cộng đoàn kiên trì và đồng tâm hiệp ý cầu nguyện (x. Cv 1,14). Cũng vậy, Mẹ đã giữ các tín hữu lại với nhau, duy trì sự hiệp nhất bằng tấm gương ngoan nguỳ và tử tế của Mẹ. Chúng con cầu nguyện với Mẹ cho Giáo hội ở Châu Âu, để Giáo hội này có thể khám phá lại sức mạnh của lời cầu nguyện, để Giáo hội này có thể khám phá lại nơi Mẹ sự khiêm nhường và vâng phục, lòng nhiệt thành của chứng tá và vẻ đẹp của lời rao giảng. Chúng con trao phó Giáo hội này và đất nước này cho Mẹ. Xin Mẹ, người đã vui mừng với sự Phục Sinh của Con Mẹ, lấp đầy tâm hồn chúng con với niềm vui của Người.
Anh chị em thân mến, tôi cầu chúc anh chị em điều này, để lan tỏa niềm vui của Chúa Kitô: Isten eltessen! [Xin cầu chúc!]. Biết ơn về những ngày này, tôi mang anh chị em trong trái tim tôi và xin anh chị em cầu nguyện cho tôi. Isten áld meg a magyart! [Xin Chúa chúc lành cho người Hungary!]
11. Đức Thánh Cha dâng lễ Chúa Chiên Lành
Lúc 8:40 sáng Chúa Nhật 30/4, ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong chuyến thông du của Đức Thánh Cha đến Hungary, Đức Thánh Cha đã rời Toà Sứ Thần để đến Quảng trường Kossuth Lajos cách đó khoảng 6km để dâng Thánh Lễ với các tín hữu. Đức Thánh Cha cử hành Thánh lễ Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh, Lễ Chúa Chiên Lành. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha khải triển hai ý trong Tin Mừng: trước hết người mục tử gọi tên từng con chiên và kế đến là dẫn chúng ra.
Đức Thánh Cha đã đi xe mui trần khoảng gần 30 phút để chào thăm các tín hữu trước khi dâng Thánh Lễ. Theo ước tính của ban tổ chức, khoảng 50 ngàn tín hữu tham dự Thánh Lễ, trong đó 30 ngàn người ở trong quảng trường và 20 ngàn người ở các khu vực lân cận và tham dự qua các màn hình lớn.
Bài giảng Thánh Lễ
Những lời cuối cùng Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe tóm tắt ý nghĩa sứ vụ của Người: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Đây là điều người mục tử nhân lành làm: hy sinh tính mạng vì đoàn chiên của mình. Như thế, Chúa Giêsu, như một mục tử đi tìm đoàn chiên của mình, đã đến tìm chúng ta khi chúng ta lạc lối; với tư cách là mục tử, Người đến để cứu chúng ta khỏi cái chết; như một mục tử biết từng con chiên của mình và yêu thương chúng với sự dịu dàng vô hạn, Người đã đưa chúng ta vào ràn chiên của Chúa Cha, làm cho chúng ta trở nên con cái của Người.
Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm hình ảnh của Vị Mục Tử Nhân Lành, và chúng ta hãy suy nghĩ về hai hành động mà theo Tin Mừng, Người thực hiện cho đoàn chiên của mình: trước hết Người gọi tên từng con, sau đó dẫn chúng ra.
Chúa gọi từng người bằng tên
Trước hết, “gọi tên từng con chiên của mình” (c. 3). Khi bắt đầu lịch sử cứu độ, chúng ta chẳng có công trạng gì, khả năng, hay cơ cấu của mình; nguyên thuỷ bắt nguồn là từ tiếng gọi của Thiên Chúa, ước muốn của Người đến với chúng ta, sự quan tâm của Người đối với mỗi người chúng ta, lòng thương xót dồi dào của Người muốn cứu chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết, để ban cho chúng ta sự sống dồi dào và niềm vui bất tận. Chúa Giêsu đến với tư cách là Mục Tử Nhân Lành để gọi chúng ta và đưa chúng ta về nhà. Khi đó, chúng ta, nhớ lại với lòng biết ơn, có thể nhớ lại tình yêu của Người dành cho chúng ta, vì chúng ta những kẻ đã xa Người, vâng, trong khi “tất cả chúng ta, với tư cách là đoàn chiên, bị lạc mất nhau” và “mỗi người mỗi ngả” (Is 53:6), Người gánh lấy sự gian ác và tội lỗi của chúng ta, đem chúng ta về với trái tim Chúa Cha. Như vậy, chúng ta đã nghe Tông đồ Phêrô trong bài đọc thứ hai: “Trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1Pr 2:25). Và cho đến hôm nay, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, trong những gì chúng ta mang trong lòng, trong sự hoang mang, trong nỗi sợ hãi, trong cảm giác thất bại đôi khi tấn công chúng ta, trong ngục tù buồn bã đe dọa giam cầm chúng ta, Người gọi chúng ta . Người đến như một Mục Tử nhân lành và gọi đích danh chúng ta, để cho chúng ta biết chúng ta quý giá biết bao trước mắt Người, để chữa lành những vết thương của chúng ta và mang lấy những yếu đuối của chúng ta, để quy tụ chúng ta hiệp nhất trong ràn chiên của Người và làm cho chúng ta trở nên thân thuộc với Chúa Cha và với nhau.
Anh chị em thân mến, khi chúng ta có mặt tại đây sáng nay, chúng ta cảm thấy niềm vui được làm dân thánh của Thiên Chúa: tất cả chúng ta đều được sinh ra từ lời kêu gọi của Người; chính Người đã hiệu triệu chúng ta và vì lý do này, chúng ta là dân của Người, là đoàn chiên của Người, Giáo hội của Người. Người đã tập hợp chúng ta lại đây để mặc dù chúng ta khác nhau và thuộc về các cộng đoàn khác nhau, nhưng tình yêu vĩ đại của Người đã mang tất cả chúng ta lại với nhau trong một vòng tay duy nhất. Thật là tốt đẹp khi chúng ta gặp gỡ nhau: các Giám mục và linh mục, tu sĩ và giáo dân; và thật đẹp khi được chia sẻ niềm vui này cùng với các phái đoàn đại kết, những vị đứng đầu cộng đồng Do Thái, đại diện các tổ chức dân sự và ngoại giao đoàn. Đây là tính công giáo: tất cả chúng ta, được Vị Mục Tử Nhân Lành gọi đích danh, được mời gọi chào đón và truyền bá tình yêu của Người, để làm cho đoàn chiên của Người bao trọn tất cả chứ không bao giờ loại trừ. Và, do đó, tất cả chúng ta được mời gọi vun trồng các mối quan hệ huynh đệ và cộng tác, không chia rẽ, không coi cộng đồng của mình như một môi trường dành riêng, không bị cuốn vào mối bận tâm bảo vệ không gian riêng của mỗi người, nhưng mở lòng ra để yêu thương nhau.
Đi ra thế giới
Sau khi đã gọi chiên, Mục Tử “dẫn chúng ra” (Ga 10:3). Đầu tiên, Người mời họ vào đàn bằng cách gọi họ, bây giờ Người thúc họ ra. Trước hết chúng ta được quy tụ vào gia đình Thiên Chúa để trở thành dân của Người, nhưng sau đó chúng ta được sai đi vào thế giới để, với lòng can đảm và không sợ hãi, chúng ta trở thành những người loan báo Tin Mừng, những chứng nhân của Tình Yêu đã tái sinh chúng ta. Chúng ta có thể nắm bắt chuyển động kép này – bước vào và đi ra – từ một hình ảnh khác mà Chúa Giêsu sử dụng: hình ảnh cánh cửa. Người nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ đi ra và gặp được đồng cỏ.” (c. 9). Chúng ta hãy lắng nghe kỹ điều này: sẽ vào và sẽ ra. Một đàng, Chúa Giêsu là cánh cửa đã mở rộng cho chúng ta được hiệp thông với Chúa Cha và cảm nghiệm được lòng thương xót của Người; nhưng, như mọi người đều biết, một cánh cửa không chỉ được sử dụng để vào mà còn để rời khỏi nơi người ấy đang ở. Và rồi, sau khi đã đưa chúng ta trở lại trong vòng tay của Thiên Chúa và trong đàn chiên của Giáo hội, Chúa Giêsu là cánh cửa để đưa chúng ta ra thế giới: Người thúc đẩy chúng ta ra đi để gặp gỡ anh chị em của mình. Và chúng ta hãy nhớ kỹ điều đó: tất cả mọi người, không trừ một ai, đều được mời gọi về điều này, bước ra khỏi sự thoải mái của chúng ta và có can đảm để đi đến mọi vùng ngoại vi cần đến ánh sáng của Tin Mừng (x. Tông huấn Evangelii gaudium, 20).
Anh chị em thân mến, “đi ra” có nghĩa là mỗi người chúng ta trở thành, giống như Chúa Giêsu, một cánh cửa rộng mở. Thật buồn và xấu khi nhìn thấy những cánh cửa đóng lại: cánh cửa khép kín của sự ích kỷ của chúng ta đối với những người đi bên cạnh chúng ta hàng ngày; những cánh cửa đóng kín của chủ nghĩa cá nhân của chúng ta trong một xã hội có nguy cơ teo tóp lại trong cô độc; những cánh cửa đóng kín của sự thờ ơ của chúng ta đối với những người đau khổ và nghèo đói; những cánh cửa đóng lại đối với những người xa lạ, khác biệt, di cư, nghèo khổ. Và ngay cả những cánh cửa đóng kín của các cộng đoàn giáo hội của chúng ta: đóng cửa giữa chúng ta, đóng cửa đối với thế giới, đóng cửa đối với những người “không theo khuôn phép”, đóng cửa đối với những người mong mỏi sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng hãy cố gắng nên giống Chúa Giêsu – bằng lời nói, cử chỉ, hoạt động hàng ngày – trở nên một cánh cửa luôn mở rộng, một cánh cửa không bao giờ bị đóng sầm trước mắt bất kỳ ai, một cánh cửa cho phép mọi người bước vào và cảm nghiệm vẻ đẹp của tình yêu và sự tha thứ từ Chúa.
Tôi lặp lại điều này trước hết với chính mình, với các anh em Giám mục và linh mục của tôi: với các mục tử chúng tôi. Bởi vì Chúa Giêsu nói, mục tử không phải là kẻ trộm kẻ cướp (x. Ga 10:8); nghĩa là mục tử không lợi dụng vai trò của mình, không áp bức đoàn chiên được trao phó cho mình, không “ăn cắp” không gian của anh chị em giáo dân, không thi hành quyền bính một cách cứng nhắc. Chúng ta hãy tự khuyến khích mình trở nên những cánh cửa ngày càng rộng mở hơn: “những trợ tá” của ân sủng của Thiên Chúa, những chuyên gia về sự gần gũi, sẵn sàng hiến dâng mạng sống, giống như Chúa Giêsu Kitô, là Chúa và là tất cả của chúng ta, đang dạy chúng ta với vòng tay dang rộng từ ngai toà thánh giá và tỏ cho chúng ta thấy mỗi lần trên bàn thờ, Tấm Bánh bẻ ra cho chúng ta. Tôi cũng nói điều này với các anh chị em giáo dân, với các giáo lý viên, với những người làm mục vụ, với những người có trách nhiệm chính trị và xã hội, với những người chỉ đơn thuần tiếp tục cuộc sống hàng ngày của họ, đôi khi gặp khó khăn: hãy mở rộng cửa. Chúng ta hãy để cho Chúa của sự sống đi vào tâm hồn chúng ta, để Lời của Người an ủi và chữa lành, rồi đi ra, và chính chúng ta trở thành những cánh cửa mở trong xã hội. Hãy mở ra và hòa nhập với nhau, để giúp Hungary phát triển trong tình huynh đệ, con đường dẫn đến hòa bình.
Ngỏ lời với tín hữu Hungary
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành gọi đích danh chúng ta và chăm sóc chúng ta với sự dịu dàng vô biên. Người là cửa và ai đi qua Người thì được sự sống đời đời: vì thế Người là tương lai của chúng ta, một tương lai của “sự sống sung mãn” (Ga 10,10). Vì thế, chúng ta đừng bao giờ nản lòng, đừng bao giờ để mình bị cướp mất niềm vui và sự bình an mà Người đã ban cho chúng ta, đừng rút lui vào những vấn đề hay sự thờ ơ. Chúng ta hãy để mình được đồng hành với Vị Mục Tử của chúng ta: cùng với Người, xin cho cuộc sống của chúng ta, gia đình của chúng ta, các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta và toàn thể đất nước Hungary bừng sáng một sức sống mới!
10. ĐTC gặp gỡ giới học thuật và văn hoá – Hungary
Khoa học Máy tính và Sinh học của Đại học Công giáo Péter Pázmány là khoa duy nhất ở Hungary và thậm chí ở Châu Âu kết hợp nghiên cứu về kỹ thuật điện tử và máy tính với sinh học phân tử, thần kinh và y học. Chương trình đào tạo tập trung vào các ngành khoa học liên quan đến cơ thể con người, đặc biệt là hệ thống thần kinh và miễn dịch, cũng như di truyền học.
Buổi gặp gỡ bắt đầu lúc 4:30pm với lời chào của Hiệu trưởng, sau đó là chứng từ của một giáo sư và của một sinh viên.
Sau các chứng từ, Đức Thánh Cha có một diễn văn đáp lời.
Ý nghĩa của văn hoá
Trước hết Đức Thánh Cha lấy hình ảnh của dòng sông Danube nối đất nước Hungary với nhiều nước khác, “hợp nhất không chỉ về địa lý mà còn về lịch sử”, để nói về những mối liên hệ con người tạo nên văn hoá. “Bản thân từ văn hóa (cultura) bắt nguồn từ động từ vun trồng (coltivare): tri thức liên quan đến việc gieo hạt hàng ngày, vốn dìm mình trong những luống cày của thực tế, mang lại hoa trái.”
Hai kiểu biết
Đức Thánh Cha trích dẫn lời học giả Romano Guardini để nói về sự hiểu biết: “Trong những ngày này, hơn bao giờ hết, tôi hiểu rằng có hai dạng biết […], một dạng dẫn đến chìm mình trong đối tượng và trong bối cảnh của nó, theo đó người muốn biết phải cố gắng sống trong nó; ngược lại, dạng biết kia thì thu gom mọi thứ, phân tích chúng, đặt chúng ngăn nắp vào hộp, giành quyền làm chủ và sở hữu chúng, thống trị chúng” (Lettere dal Lago di Como. La tecnica e l’uomo, Brescia 2022, 55). Ông phân biệt giữa cái biết khiêm tốn và tương giao, giống như “sự trị vì có được nhờ phục vụ; một sự sáng tạo theo tự nhiên, không vượt ra ngoài những giới hạn đã được thiết lập” (xem tr. 57), và một cái biết khác, “không quan sát mà phân tích […] không dìm mình trong đối tượng mà nắm giữ nó” (tr. 56).
Đức Thánh Cha nói về cái biết thứ hai liên quan đến máy móc, “sự phát triển một kỹ thuật chế ngự sự sống” (trang 59-60 ). “Guardini không coi thường công nghệ, thứ giúp chúng ta sống tốt hơn, để giao tiếp và có nhiều lợi ích, nhưng cảnh báo về nguy cơ nó trở thành kẻ chi phối, nếu không muốn nói là thống trị, cuộc sống. Theo nghĩa này, ông nhìn thấy một mối nguy hiểm lớn: “Con người mất đi tất cả những kết nối bên trong mà lẽ ra họ có được từ ý thức về sự cân đối và về sự hài hòa với tự nhiên” và, “trong khi nơi con người bên trong, họ ngày càng không có ranh giới, không thước đo, không định hướng, họ lại tùy tiện thiết lập các mục tiêu của riêng mình và bắt các sức mạnh tự nhiên, do họ thống trị, phải hiện thực chúng” (tr. 60). Và Guardini đã đặt ra cho hậu thế một câu hỏi đáng lo ngại: “Cuộc sống sẽ ra sao nếu nó kết thúc dưới cái ách này? […] Điều gì sẽ xảy ra […] khi chúng ta thấy mình phải đối mặt với sự phổ biến các mệnh lệnh của công nghệ? Cuối cùng, cuộc sống bị đóng khung trong một hệ thống máy móc. […] Trong một hệ thống như vậy, liệu cuộc sống có còn là sống nữa không?” (tr. 61).
Sự lệ thuộc công nghệ
Cuộc sống có còn là sống nữa không? Đó là một câu hỏi mà, đặc biệt ở nơi này, nơi công nghệ thông tin và khoa học sinh học được nghiên cứu chuyên sâu, cần được đặt ra. Thật vậy, những gì Guardini đã thoáng thấy thì bây giờ xuất hiện rõ ràng trong thời đại của chúng ta: hãy nghĩ về cuộc khủng hoảng sinh thái, với thiên nhiên đang phản ứng lại sự bóc lột bởi chúng ta. Chúng ta nghĩ về sự thiếu đi các giới hạn, về lý luận cho rằng “nếu điều đó có thể làm được thì nó được phép”. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến mong muốn đặt trung tâm của mọi sự không phải nơi con người và các mối tương quan con người, nhưng mỗi người đặt trung tâm vào nhu cầu của chính mình, ham thu vén và nắm giữ thực tại. Và hệ quả là sự xói mòn của những ràng buộc cộng đồng, nơi đó sự cô đơn và sợ hãi, do bởi điều kiện hiện sinh, dường như trở thành những điều kiện xã hội. Bao nhiêu người bị cô lập, rất nhiều “mạng xã hội” và rất ít tính xã hội, như đang ở trong một vòng luẩn quẩn, tìm đến sự an ủi của công nghệ để lấp đầy khoảng trống mà họ cảm thấy, bằng cách chạy theo một cách thậm chí còn cuồng nhiệt hơn, trong khi bị chế ngự bởi chủ nghĩa tư bản man rợ, càng cảm thấy đau đớn hơn về sự yếu đuối của mình, trong một xã hội mà tốc độ bên ngoài song hành với sự mỏng giòn bên trong. Khi nói điều này, tôi không muốn tạo ra chủ nghĩa bi quan – là điều trái ngược với niềm tin mà tôi vui mừng tuyên xưng – nhưng để suy ngẫm về “sự kiêu ngạo này của hiện hữu và sở hữu”, điều mà từ buổi bình minh của văn hóa châu Âu, Homer đã coi là mối đe dọa và mô hình kỹ trị làm cho thêm trầm trọng, qua việc sử dụng một số thuật toán có thể gây ra nguy cơ mất ổn định hơn nữa cho con người.
Đô hộ ý thức hệ
Tiếp đến Đức Thánh Cha trích dẫn từ cuốn tiểu thuyết Ông chủ của thế giới của Robert Benson, với nhận xét “rằng sự phức tạp của máy móc không đồng nghĩa với sự vĩ đại thực sự và rằng trong vẻ bề ngoài xa hoa nhất ẩn chứa mối nguy hiểm tinh vi nhất” (Verona 2014 , 24 -25). Cuốn sách này, theo một nghĩa nào đó, mang tính “tiên tri”, được viết cách đây hơn một thế kỷ, mô tả một tương lai bị công nghệ thống trị và trong đó mọi thứ, nhân danh sự tiến bộ, đều bị đồng nhất hóa: khắp nơi người ta rao giảng một “chủ nghĩa nhân đạo” nhằm xóa bỏ sự khác biệt, huỷ bỏ đời sống của các dân tộc và xoá bỏ các tôn giáo. Các hệ tư tưởng đối lập hội tụ vào một sự đồng nhất hóa, kiểu đô hộ ý thức hệ; con người với việc tiếp xúc với máy móc ngày càng trở nên phẳng, trong khi cuộc sống chung trở nên buồn tẻ và yếu ớt. Trong thế giới tiến bộ nhưng u ám được Benson mô tả, nơi tất cả mọi người dường như mất cảm giác và bị gây mê, thì việc loại bỏ người bệnh và áp dụng trợ tử, cũng như xóa bỏ ngôn ngữ và văn hóa các dân tộc để đạt đến một hòa bình phổ quát, dường như là điều hiển nhiên, điều này trên thực tế biến thành một cuộc bách hại dựa trên việc áp đặt sự đồng thuận, đến mức một nhân vật chính trong tiểu thuyết của ông khẳng định rằng “thế giới dường như chịu sự chi phối của một sức sống kỳ quặc, vốn làm hư hỏng và pha tạp mọi thứ” (tr. 145).
Vai trò của văn hoá và đại học
Đức Thánh Cha ghi nhận: Tôi đã trình bày suy tư với tông màu ảm đạm, nhưng chính trong bối cảnh này, vai trò của văn hóa và đại học được thể hiện rõ nhất. Thật vậy, trường đại học, như chính tên gọi, là nơi tư tưởng phát sinh, lớn lên và trưởng thành một cách cởi mở và cộng hưởng. Đó là “ngôi đền” nơi tri thức được mời gọi giải phóng mình khỏi những giới hạn hẹp hòi của tích góp và sở hữu để trở thành văn hóa, nghĩa là “vun trồng” con người và những mối quan hệ nền tảng của con người: với sự siêu việt, với xã hội, với lịch sử, với thụ tạo. Về vấn đề này, Công đồng Vatican II khẳng định: “Văn hóa phải nhắm đến sự hoàn thiện toàn diện của con người, vì lợi ích của cộng đồng và của toàn xã hội loài người. Do đó, cần phải vun đắp tâm hồn để phát triển khả năng ngưỡng mộ, suy ngắm và chiêm niệm, để có được khả năng phán đoán cá nhân và để vun trồng ý thức tôn giáo, luân lý và xã hội” (Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 59) . Từ quan điểm này, tôi đánh giá rất cao những lời của ngài, thưa Đức ông Hiệu trưởng, khi ngài nói rằng “trong mỗi nhà khoa học chân chính đều có một chút gì đó của nhà ký lục, tư tế, tiên tri và thần bí”; và thêm nữa rằng “với sự trợ giúp của khoa học, chúng ta không chỉ muốn hiểu, mà còn muốn làm điều đúng đắn, đó là xây dựng một nền văn minh nhân đạo và liên đới, một nền văn hóa và môi trường bền vững. Chính với tấm lòng khiêm tốn mà chúng ta không những có thể lên núi của Chúa mà còn leo lên đỉnh cao của khoa học”.
Sự vĩ đại thực sự luôn khiêm tốn
Sự thật là, như chúng ta biết, những tri thức vĩ đại đều khiêm tốn. Mặt khác, mầu nhiệm của sự sống được mạc khải cho những người biết cách đi vào những điều nho nhỏ. Về điều này, Dorottya đã nói với chúng ta những lời tuyệt vời: “Càng khám phá ra nhiều chi tiết nhỏ, chúng ta càng đắm chìm vào sự phức tạp trong công trình của Thiên Chúa”. Hiểu theo cách này, văn hóa thực sự bảo tồn và bảo vệ nhân loại của chúng ta. Nó khiến chúng ta đắm chìm trong chiêm niệm và khuôn đúc nên những con người không lệ thuộc vào thời trang nhất thời nhưng bén rễ từ thực tế của sự vật. Và những người môn đệ khiêm tốn của tri thức cảm thấy họ phải cởi mở và thông giao, không bao giờ cứng nhắc và hiếu chiến. Những người yêu văn hóa, thực ra, không bao giờ cảm thấy đã đến nơi và tự mãn, mà mang trong mình một sự khắc khoải lành mạnh. Họ nghiên cứu, đặt câu hỏi, mạo hiểm và khám phá; họ biết cách thoát ra khỏi sự chắc chắn của chính mình để khiêm tốn dấn thân vào mầu nhiệm sự sống, vốn tỏ lộ trong sự thao thức chứ không phải thói quen; họ mở ra với các nền văn hóa khác và cảm thấy cần phải chia sẻ kiến thức. Đây là tinh thần của trường đại học, và tôi cảm ơn quý vị đã sống theo cách này, như Giáo sư Major đã nói với chúng ta, khi kể về vẻ đẹp của việc hợp tác với các thực thể giáo dục khác, thông qua các chương trình nghiên cứu chung và cũng bằng cách chào đón sinh viên từ các khu vực khác của thế giới, chẳng hạn như Trung Đông, đặc biệt là từ đất nước Syria tử đạo. Chính bằng cách cởi mở với người khác mà chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân mình.
“Hãy biết mình”
Văn hóa đồng hành với chúng ta trong hành trình biết mình. Tư tưởng cổ điển, vốn không bao giờ suy tàn, nhắc nhở chúng ta điều đó. Câu châm ngôn nổi tiếng từ đền thờ Delphi xuất hiện trong tâm trí tôi: “Hãy biết mình”. Đó là một trong hai suy nghĩ mà tôi muốn để lại cho quý vị khi chúng ta kết thúc. Nhưng biết mình có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là biết cách nhận ra những giới hạn của mình và do đó, hạn chế tính tự quy chiếu của mình. Điều này tốt cho chúng ta, bởi vì trên hết, bằng cách nhận ra mình là thụ tạo mà chúng ta trở nên sáng tạo, hòa mình vào thế giới hơn là thống trị nó. Và trong khi tư tưởng kỹ trị theo đuổi một tiến bộ không thừa nhận giới hạn, thì con người thật lại được dựng nên từ sự mong manh, và chính ở đó, con người nhận ra sự phụ thuộc của mình vào Thiên Chúa và mối liên hệ với người khác và với toàn thể tạo thành. Do đó, dòng chữ tại đền thờ Delphi mời gọi chúng ta đến với một loại kiến thức, bắt đầu từ sự khiêm tốn của giới hạn, khám phá ra tiềm năng kỳ diệu của chính nó, vượt xa tiềm năng của công nghệ. Nói cách khác, biết mình nối kết chúng ta lại với nhau, theo một biện chứng đạo đức, sự mong manh và vĩ đại của chúng ta với tư cách là con người. Sự ngạc nhiên trước nghịch lý này làm nảy sinh văn hóa: không bao giờ hài lòng, không ngừng tìm kiếm, thao thức và cộng đồng, kỷ luật trong sự hữu hạn của mình nhưng mở ra với vô hạn. Tôi cầu chúc quý vị luôn trau dồi hành trình thú vị hướng tới chân lý này!
Suy nghĩ thứ hai liên hệ đến sự thật. Nó đến từ Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã nói: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8:32). Hungary đã chứng kiến sự nối tiếp của các hệ tư tưởng tự áp đặt chúng như những chân lý, nhưng không mang lại tự do. Và thậm chí ngày nay rủi ro vẫn chưa hết: Tôi đang nghĩ đến sự chuyển đổi từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tiêu thụ. Điểm chung của cả hai “chủ nghĩa” là một ý tưởng sai lầm về tự do; của chủ nghĩa cộng sản là một thứ “tự do” bị siết chặt, bị giới hạn bởi bên ngoài, do người khác quyết định; chủ nghĩa tiêu thụ là một “sự tự do” phóng khoáng, theo chủ nghĩa khoái lạc, bị san phẳng, khiến chúng ta trở thành nô lệ cho tiêu dùng và các đối tượng vật chất. Thật dễ chuyển từ những giới hạn áp đặt tư duy, như trong chủ nghĩa cộng sản, sang tư duy không giới hạn, như trong chủ nghĩa tiêu thụ! Từ một sự tự do bị kiềm hãm sang một sự tự do không phanh. Ngược lại, Chúa Giê-su đưa ra một con đường khi nói rằng sự thật là điều giải thoát con người khỏi những lệ thuộc và khép kín. Chìa khóa để tiếp cận sự thật này là một kiến thức không bao giờ tách rời khỏi tình yêu, một kiến thức có tương quan, khiêm tốn và cởi mở, cụ thể và mang tính cộng đồng, can đảm và xây dựng. Đây là những gì các trường đại học được kêu gọi để trau dồi và đức tin để nuôi dưỡng. Do đó, tôi mong muốn trường đại học này và mọi trường đại học trở thành một trung tâm của tính phổ quát và tự do, một công trường hiệu quả xây dựng chủ nghĩa nhân văn, một phòng thực nghiệm của hy vọng. Với cả tấm lòng, tôi chúc lành cho anh chị em và cảm ơn anh chị em vì tất cả những gì đang làm: Köszönöm szépen! [Cảm ơn rất nhiều!]
Kết thúc chuyến viếng thăm
Kết thúc buổi gặp gỡ giới học thuật và văn hoá tại Khoa Khoa học Máy tính và Sinh học của Đại học Công giáo Péter Pázmány, Đức Thánh Cha di chuyển ra sân bay quốc tế Ferenc Liszt của Budapest cách đó 20km. Tại đây đã diễn ra nghi thức chào biệt. Phó Thủ Tướng đã tiễn Đức Thánh Cha đến chân máy bay, ngài chào đoàn tuỳ tùng và phái đoàn Hungary trước khi lên máy bay để trở về Roma. Kết thúc chuyến tông du 3 ngày đến Hungary.
9. ĐTC Phanxicô gặp gỡ các bạn trẻ Hungary
Trong cuộc gặp gỡ cuộc đối thoại ấm áp và chân thành giữa Đức Thánh Cha và các bạn trẻ Hungary, những người trẻ nói với Đức Thánh Cha về việc tìm kiếm Thiên Chúa và về một cuộc sống đích thực và hạnh phúc, còn Đức Thánh Cha chỉ ra con đường: vượt lên trên lợi ích của bản thân và dấn thân như Chúa Giêsu để phục vụ anh em.
Lúc gần 4 giờ chiều thứ Bảy 28/4/2023, Đức Thánh Cha đã rời Toà Sứ thần đi xe đến nhà thi đấu Papp László Budapest, cơ sở thể thao có mái che lớn nhất của Budapest, có sức chứa đến 12.500 khán giả. Cơ sở này được bắt đầu xây dựng vào năm 2001, thay thế cho cơ sở thể thao trước đó đã bị hư hại nặng nề bởi trận hoả hoạn vào năm 1999. Từ ngày 28 tháng 5 năm 2004, nhà thi đấu này mang tên của nhà vô địch quyền anh nổi tiếng người Hungary László Papp.
Sau khi đi xe mui trần xung quanh nhà thi đấu chào các bạn trẻ, Đức Thánh Cha được Đức cha Palánki Ferenc, phụ trách mục vụ giới trẻ, tiếp đón giữa tiếng hát chào đón của khoảng 12.000 bạn trẻ.
ĐTC gặp gỡ Giới trẻ Hungary
Chúa Giêsu giúp chúng ta tìm ra câu trả lời của cuộc sống
Đáp lại lời lời chào mừng của Đức cha Ferenc và chứng từ của 4 bạn trẻ đại diện cho các học sinh trung học và sinh viên đại học, Đức Thánh Cha cho biết ngài rất vui khi được ở bên các bạn trẻ. Nhắc lại lời Đức cha Ferenc, tuổi trẻ là thời gian của những câu hỏi quan trọng và những câu trả lời tuyệt vời, Đức Thánh Cha nói rằng điều quan trọng là có ai đó gợi mở và lắng nghe câu hỏi của các bạn trẻ, và không đưa ra cho họ những câu trả lời dễ dàng và sẵn có, nhưng giúp họ dũng cảm đối mặt với cuộc phiêu lưu của cuộc đời để tìm kiếm những câu trả lời tuyệt vời. Và ngài khẳng định: “Trên thực tế, đây là những gì Chúa Giêsu đã làm. Đức Kitô là Thiên Chúa bằng xương bằng thịt, Thiên Chúa Trời hằng sống Đấng đến gần với chúng ta; Người là Bạn, người bạn tốt nhất, là Anh em, người anh em tốt nhất.”
Chúa rất giỏi trong việc đặt câu hỏi. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của Chúa Giêsu với những người sẽ trở thành môn đệ của Người, Chúa hỏi hai người đi theo Người: “Các anh tìm gì?” (Ga 1,38). Người nói: “Hãy đến mà xem” (c. 39). Đức Thánh Cha giải thích: “Chúa không giảng dạy, nhưng đồng hành với họ trên đường: Người không muốn các môn đệ của mình là những học trò lặp lại một bài học, nhưng là những người trẻ tự do và luôn hướng tới, những người bạn đồng hành của một Thiên Chúa lắng nghe những nhu cầu của họ và quan tâm đến ước mơ của họ.”
Chúng ta không trở nên vĩ đại khi dẵm lên người khác nhưng khi phục vụ họ
Khi hai môn đệ trẻ yêu cầu Chúa Giêsu một điều sai trái, được ở bên phải và bên trái của Chúa khi Người lên làm Vua. Chúa không quở trách họ vì đã dám nói điều đó. Đức Thánh Cha nhận xét: “Chúa không phá vỡ những ước mơ của họ, nhưng sửa dạy cho họ cách để đạt được chúng; Người chấp nhận ước muốn trở nên vĩ đại của họ, nhưng nhấn mạnh đến một điều mà cả chúng ta cũng phải luôn ghi nhớ: chúng ta không trở nên vĩ đại khi dẵm lên người khác, nhưng bằng cách hạ mình xuống giúp đỡ họ. Chúng ta không đạt được điều vĩ đại bằng cách làm hại người khác, nhưng bằng cách phục vụ họ (xem Mc 10,35-45).”
Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ: “Các bạn thân mến, như các bạn thấy đấy, Chúa Giêsu rất vui khi chúng ta đạt được những điều tuyệt vời. Người không muốn chúng ta lười biếng “ngủ nướng”, không muốn chúng ta im lặng và nhút nhát; ngược lại, Người muốn chúng ta sống động, năng động, sẵn sàng nhận trách nhiệm. Người không bao giờ xem thường những kỳ vọng của chúng ta nhưng ngược lại, nâng cao mức độ mong muốn của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ đồng ý với câu tục ngữ của các bạn, câu mà tôi hy vọng sẽ phát âm đúng: Aki mer az nyer [Những người dám làm sẽ chiến thắng].”
ĐTC gặp gỡ Giới trẻ Hungary
Hướng đến những mục tiêu vĩ đại và rèn luyện
Nhưng làm thế nào để chúng ta chiến thắng trong cuộc sống? Đức Thánh Cha liệt kê hai bước cơ bản. Trước hết, nhắm mục tiêu cao, sau đó rèn luyện. Đức Thánh Cha mời gọi hãy dùng tài năng vào việc tốt. Ngài đưa ra câu hỏi, “Trong thâm tâm các bạn có cảm thấy mình có khả năng giúp đỡ người khác không? Các bạn có cảm thấy yêu mến Chúa, muốn có một gia đình đông con, giúp đỡ những người túng thiếu tốt biết bao không?” Và ngài nhắc nhở: “Đừng nghĩ rằng đây là những mong muốn không thể đạt được. Thay vào đó, hãy đầu tư vào những mục tiêu lớn của cuộc đời! Sau đó, rèn luyện.”
Thinh lặng và đối thoại với Chúa Giêsu
Rèn luyện thế nào? Đức Thánh Cha chỉ dạy: “Bằng cuộc đối thoại với Chúa Giêsu, vì người là huấn luyện viên giỏi nhất. Người lắng nghe các bạn, khuyến khích, tin tưởng các bạn và có thể phát huy những điều tốt nhất nơi các bạn. Người không ngừng mời gọi các bạn trở thành một thành viên trong nhóm, không bao giờ đơn độc nhưng với những người khác: trong Giáo hội, trong cộng đồng, chia sẻ kinh nghiệm của các bạn với những người khác.” Ngài lưu ý về một cám dỗ lớn ngày nay đó là chúng ta hài lòng với một chiếc điện thoại di động và một vài người bạn. Điều đó không tốt hay lành mạnh.
Một điều thiết yếu mà những người trẻ tuổi và cả người lớn đang thiếu, đó là sự thinh lặng, bởi vì chúng ta sợ cô đơn. Do đó Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ: “đừng sợ bơi ngược dòng, hãy dành chỗ cho một khoảnh khắc thinh lặng mỗi ngày, một khoảnh khắc để dừng lại và cầu nguyện.” Nhưng ngài cũng nhắc họ hãy cẩn thận “đừng đắm chìm trong tâm trạng ủ rũ hoặc nghiền ngẫm về những vấn đề của mình. Đừng lãng phí thời gian nghĩ xem ai đã làm điều này điều nọ với mình, tra hỏi về động cơ của người khác. Điều đó cũng không tốt hay lành mạnh.”
Đức Thánh Cha nói về ích lợi của sự thinh lặng: “Thinh lặng là mảnh đất trên đó chúng ta vun đắp những mối quan hệ tốt đẹp. Nó cho phép chúng ta phó thác cho Chúa Giêsu bất cứ điều gì chúng ta đang cảm thấy, mang đến với Người những khuôn mặt và những cái tên, chia sẻ những khó khăn của chúng ta, nhớ đến bạn bè và cầu nguyện cho họ. Sự thinh lặng giúp chúng ta có cơ hội đọc một trang Tin Mừng có thể nói với tâm hồn của chúng ta, để thờ phượng Thiên Chúa, để lấy lại bình an nội tâm… Sự thinh lặng cho phép chúng ta quan sát thiên nhiên, để chúng ta không chỉ tiếp xúc với các thiết bị và đồ dùng mà còn khám phá vẻ đẹp tự nhiên xung quanh chúng ta. Thinh lặng không phải để ngồi dán mắt vào điện thoại di động hoặc trên mạng xã hội.”
ĐTC gặp gỡ Giới trẻ Hungary
Mẫu gương cầu nguyện của nhạc sĩ Franz Liszt
Thinh lặng như cánh cửa của cầu nguyện và cầu nguyện là cánh cửa tình yêu. Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta. Đức Thánh Cha nói: “Người không ngần ngại giúp các bạn vượt qua mọi trở ngại trên con đường của các bạn. Cầu nguyện giúp các bạn trong việc này, bởi vì cầu nguyện là đối thoại với Chúa Giêsu, cũng như Thánh lễ là cuộc gặp gỡ với Người, và Xưng tội là vòng tay ôm mà các bạn nhận được từ Người.”
Đức Thánh Cha đưa ra mẫu gương cầu nguyện của nhạc sĩ vĩ đại người Hungary: Franz Liszt. Ngài kể: “Trong quá trình phục hồi cây đàn piano của ông, người ta đã tìm thấy một số hạt từ chuỗi tràng hạt của ông; tràng hạt đã bị đứt và những hạt đó đã rơi vào nhạc cụ. Điều này khiến chúng ta nhận ra rằng trước khi sáng tác hoặc biểu diễn, có lẽ ngay cả sau giây phút thích thú với cây đàn piano, ông thường cầu nguyện. Ông đã nói chuyện với Chúa và Đức Mẹ về những gì ông yêu thích và ông đã mang nghệ thuật và tài năng của mình để cầu nguyện.” Từ đó Đức Thánh Cha khuyên các bạn trẻ: “Khi các con cầu nguyện, đừng ngại trình bày với Chúa Giêsu mọi điều đang xảy ra trong cuộc sống của các con: cảm xúc và nỗi sợ hãi, vấn đề và kỳ vọng, ký ức và hy vọng của các con. Cầu nguyện là đối thoại; cầu nguyện là cuộc sống.”
Thiên Chúa cần những con người thực sự và đích thực
Tin Mừng cho chúng ta biết rằng Chúa không làm những điều vĩ đại với những người phi thường, nhưng với những người bình thường, có những giới hạn. Những người cậy dựa vào khả năng của mình và luôn lo lắng để tỏ ra tốt đẹp trước mặt người khác, thì không nghĩ đến Thiên Chúa bởi vì chỉ nghĩ đến bản thân họ. Chúa Giêsu, bằng những câu hỏi và bằng tình yêu của Người, cùng với Thánh Thần của Người, tác động sâu xa trong chúng ta để biến chúng ta thành những con người thực sự, đích thực. Và ngày nay chúng ta rất cần những con người thực sự và đích thực như vậy.
ĐTC gặp gỡ Giới trẻ Hungary
Giúp thế giới sống hoà bình
Tiếp đến, Đức Thánh Cha nhắc đến lời cảnh tỉnh của Tódor, nói rằng lòng nhiệt thành của chúng ta đối với sứ vụ có thể bị giảm sút khi sống trong an ninh và thoải mái, trong khi cách đây không xa, chiến tranh và đau khổ là thực tế hàng ngày. Đây là thách đố thực sự: kiểm soát cuộc sống của chúng ta để giúp thế giới của chúng ta sống trong hòa bình. Đức Thánh Cha mời gọi đặt câu hỏi thật khó: “Tôi đang làm gì cho người khác, cho Giáo hội, cho xã hội? Tôi có chỉ nghĩ về bản thân mình không? Hay tôi tự vì người khác, mà không tính toán đến lợi ích của chính mình? Chúng ta hãy suy tư về khả năng quảng đại, khả năng yêu thương của chúng ta như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta, đó là bằng cách phục vụ người khác.”
Đức tin dẫn đến sự chia sẻ
Điều cuối cùng Đức Thánh Cha chia dựa trên trình thuật Chúa hóa bánh ra nhiều trong chương sáu của Tin Mừng Thánh Gioan, trong đó một bạn trẻ là trung tâm câu chuyện. Cậu có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng nó thấm gì khi có rất đông người?” (câu 9). Dù số bánh ít ỏi. nhưng được dâng tặng cho Chúa Giêsu, nó được biến nên nhiều và đủ cho tất cả mọi người. Từ sự chia sẻ của cậu bé đó phép lạ đã xảy ra.
Đức Thánh Cha nói với các bạn trẻ: “Đức tin là như vậy: nó bắt đầu bằng việc cho đi một cách tự do, với sự nhiệt tình và quảng đại, vượt qua nỗi sợ hãi của chúng ta và tiến bước!” Mỗi người trong các bạn đều quý giá đối với Chúa Giêsu và với tôi! Không ai có thể thay thế vị trí của họ trong lịch sử của Giáo hội và thế giới: Không ai có thể thay thế vị trí của các bạn, không ai có thể làm điều chỉ các bạn có thể. Vì vậy, chúng ta hãy giúp đỡ nhau để tin rằng chúng ta được yêu thương và quý giá, rằng chúng ta được tạo ra cho những điều vĩ đại.”
Sau khi ban phép lành cho các bạn trẻ Đức Thánh Cha đã trở về Toà Sứ thần để gặp riêng các tu sĩ Dòng Tên ở Hungary.
ĐTC gặp gỡ Giới trẻ Hungary
8. ĐTC thăm Cộng đoàn Công giáo Hy Lạp ở Hungary
Cộng đoàn Công giáo Hy Lạp Hungary
Ngày 8/1/1905, Đức Hồng y Ferenc Kolis Vaszary, Tổng Giám mục của Estergom và Giáo chủ Hungary đã thành lập giáo xứ Công giáo Hy Lạp của Budapest.
Cộng đoàn thuộc Tổng giáo phận Hajdúdorog; từ năm 1980 giáo phận này giành cho tín hữu Công giáo nghi lễ Bizantine trên toàn nước Hungary. Phụ trách Tổng giáo phận là Đức cha Fulop Kocsis, thuộc cộng đoàn đan tu Dámóc.
Giáo hội Công giáo Hy Lạp đã được Đức Thánh Cha Phanxicô tái tổ chức vào tháng 3/2015 và nâng thành Giáo hội tự quản, hoàn toàn độc lập với Giáo hội Công giáo Latinh về quyền tài phán. Các Giám mục Công giáo Hy Lạp ở Hungary là thành viên của Hội đồng Giám mục Hungary với quyền tự do bỏ phiếu.
Hai lá phổi của Giáo hội: tinh thần Đông phương và Tây phương
Đến nhà thờ sự Bảo vệ của Mẹ Thiên Chúa, Đức Thánh Cha được Đức Tổng Giám mục Kocsis đón tiếp và trong lời chào đón Đức Thánh Cha, Đức cha nói rằng nhờ Thánh Gioan Phaolô II, tín hữu Công giáo Hy Lạp hiểu rằng Giáo hội Chúa Kitô thở bằng hai lá phổi, đó là tinh thần của phương Đông và tinh thần của phương Tây, cùng nhau làm cho Thân Thể mầu nhiệm của Chúa Kitô sống động. Hình ảnh này được thể hiện qua hình ảnh của hai nhà thờ Thánh Elizabeth của Công giáo Latinh và sự Bảo vệ của Mẹ Thiên Chúa của Công giáo Hy Lạp ở bên cạnh nhau tại Quảng trường Hoa hồng.
Cầu nối giữa hai Giáo hội
Tổng Giám mục của Giáo hội Công giáo Hy Lạp ở Hungary cũng nhắc lại rằng các vị tử đạo đã chết vì trung thành với Giáo hội Công giáo dưới bạo lực của cộng sản. Ngài nói: “Do đó, không ai có thể nghi ngờ rằng, trong khi cố gắng trung thành với cội nguồn Đông phương của mình, chúng con không muốn tách mình ra, nhưng muốn trở thành cầu nối giữa hai Giáo hội, vì theo một nghĩa nào đó, chúng con thuộc về cả hai.”
Giáo hội Công giáo Hy Lạp là thành viên bình đẳng trong gia đình Công giáo
Đức cha khẳng định: “Với chuyến thăm của Đức Thánh Cha hôm nay, chúng con có một xác nhận mạnh mẽ rằng chúng con là những thành viên bình đẳng trong gia đình Công giáo và chúng con hứa sẽ dấn thân mang đến cho mọi người một thông điệp về sự hiệp nhất và tình huynh đệ.”
Sau đó, Đức Tổng Giám mục của Giáo hội Công giáo Hy Lạp xin Đức Thánh Cha cùng cầu nguyện với cộng đoàn và hát kinh cầu bình an theo nghi thức Byzantine. Đức Thánh Cha đã cùng hát câu đáp bằng tiếng Hungary: Uram, irgalmazz! Nghĩa là Xin Chúa thương xót chúng con!
Kết thúc cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha ban phép lành cho mọi người hiện diện.
7. Đức Thánh Cha thăm viện “Chân phước László Batthy
Vào lúc 8 giờ 30 phút sáng thứ Bảy 29/4/2023, ngày thứ hai trong chuyến tông du viếng thăm Hungary, từ Toà Sứ thần, Đức Thánh Cha đến viện “Chân phước László Batthyány-Strattmann” cách đó 3,5 km để gặp riêng các em và những người có hoàn cảnh đặc biệt đang được chăm sóc ở đây.
Viện Chân phước László Batthyány-Strattmann, nằm ở quận XII của thủ đô, trong một tòa nhà nhiều tầng. Trung tâm có trường mẫu giáo và tiểu học dành cho các trẻ em khiếm thị hoặc cần được giáo dục đặc biệt. Các em được chăm sóc bởi các chuyên gia sức khỏe tâm thần, cùng với các công cụ giáo dục và vật lý trị liệu hiện đại nhất, hồ bơi và phòng tập thể dục.
Ngôi nhà dành cho trẻ em mù được điều hành bởi sơ Anna Fehér – “Mẹ Têresa của Hungary”, như đã được nhìn nhận trong những năm 1980 -, cho đến khi sơ qua đời vào năm 2021.
Năm 1982, với sự giúp đỡ của Đức Hồng Y László Lékai, sơ Anna, nhà sư phạm, cũng là người khiếm thị thuộc Dòng các Nữ tu Thánh Elizabeth Hungary, thiết lập Ngôi nhà dành cho trẻ em khiếm thị, ở quảng trường Batthyány, trong một căn hộ chỉ 100 mét vuông. Do căn hộ không đủ rộng để đón nhiều trẻ em nghèo, vào năm 1989 cơ sở đã được chuyển đến địa điểm hiện nay.
Giữa nhiều bách hại và khó khăn, nhưng nhờ sự dấn thân quên mình trong đức tin, đức cậy và đức mến, sơ Anna đã đem lại hy vọng và cơ hội mới cho nhiều trẻ em khuyết tật.
Từ năm 2016, Ngôi nhà được quản lý bởi tổ chức “Kolping”, còn được gọi là “KOSZISZ”, trực thuộc Hội đồng Giám mục Hungary.
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được Giám đốc trung tâm chào đón tại lối vào chính. Sau đó, Giám đốc đưa Đức Thánh Cha đi thăm một số phòng của Viện.
Buổi chào đón Đức Thánh Cha diễn ra sau đó một cách ngắn gọn và ấm cúng, với lời chào mừng của Giám đốc, bài hát Đức Mẹ, một thành viên của Viện biểu diễn sáo, trao đổi qua tặng, và kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh Cha.
Vào cuối buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha cũng có những lời cám ơn đối với Giám đốc và nhân viên của Viện vì sự chào đón và chăm sóc dành cho những người có hoàn cảnh đặc biệt.
Tiếp đến, Đức Thánh Cha được tháp tùng đến phòng trệt để chào các nhân viên của Viện.
6. Đức Thánh Cha gặp người nghèo và người tị nạn tại Nhà thờ thánh Elisabeth của Hungary
Trong buổi gặp gỡ người nghèo và người tị nạn tại Nhà thờ thánh Elisabeth của Hungary, Đức Thánh Cha nhấn mạnh, đức tin đích thực là đức tin chấp nhận thách đố, rủi ro, dẫn chúng ta đến gặp gỡ người nghèo và bằng chứng tá đời sống, ngôn ngữ bác ái. Ngài nhắc mọi người nhớ rằng, trong khi thực thi bác ái phải quan tâm đến con người toàn diện, và ước mong Giáo hội nói thông thạo ngôn ngữ bác ái.
Sau khi thăm các trẻ em khiếm thị và có hoàn cảnh đặc biệt tại Viện Chân phước László Batthyány-Strattmann, vào lúc 10 giờ, Đức Thánh Cha đến Nhà thờ Thánh Elizabeth của Hungary cách đó 10 km, để thăm người nghèo và người tị nạn.
Nhà thờ thánh Elisabeth của Hungary
Nhà thờ Thánh Elizabeth
Nhà thờ Thánh Elizabeth nằm ở Quảng trường Hoa hồng, được bao quanh bởi một công viên công cộng có hàng rào, ở quận VII của Budapest, khu Do Thái lịch sử của thành phố. Công trình xây dựng tòa nhà bắt đầu từ năm 1895, khi số tín hữu Công giáo ở quận Erzsébetváros gia tăng. Đức Tổng Giám Mục János Simor đã mua mảnh đất ở Quảng trường Hoa hồng. Kiến trúc sư Imre Steindl nổi tiếng được chọn thiết kế Nhà thờ. Nhà thờ được hoàn thành và cung hiến vào năm 1901. Trong dự án, ông Steindl đã chuyển đổi truyền thống Gothic của Pháp, kết hợp nó với các giải pháp kỹ thuật hiện đại.
Vào năm 1931, dịp kỷ niệm 700 năm ngày qua đời của Thánh Elizabeth của Hungary, vị thánh được biết đến với sự phục vụ dành cho người nghèo, một bức tượng của Thánh nữ, con gái của vua Hungary Andrew II đã được đặt trước Nhà thờ.
Trong Thế chiến thứ hai, quảng trường đã bị đánh bom và tòa nhà bị hư hại nặng. Nhà thờ chỉ được tái xây dựng và phục hồi nhờ vào Quỹ dành cho Giáo xứ Thánh Elizabeth, được thành lập vào năm 1992, và do đó đã lấy lại được vẻ đẹp trước đây.
Đức Thánh Cha gặp gỡ người nghèo và tị nạn
Đón tiếp
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được chào đón tại lối vào Nhà thờ Thánh Elizabeth bởi Chủ tịch Caritas Hungary và linh mục quản xứ, người trao Thánh giá và nước thánh cho ngài.
Trong khi ca đoàn hát thánh ca Đức Thánh Cha và mọi người đến trước bàn thờ. Buổi gặp gỡ được bắt đầu với lời chào mừng của Chủ tịch Caritas Hungary. Tiếp theo đó là lời chứng của một gia đình Công giáo Hy Lạp, một gia đình tị nạn và hai vợ chồng phó tế.
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Trong bài diễn văn sau đó, Đức Thánh Cha bắt đầu bằng việc nhắc lại rằng, người nghèo luôn là trung tâm của Tin Mừng, vì Chúa Giêsu đã đến giữa chúng ta “để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,18). Vì thế, người nghèo đặt ra cho chúng ta một thách đố lớn: Đức tin mà chúng ta tuyên xưng không bị giam cầm bởi một lòng đạo đức xa rời cuộc sống, một thái độ “ích kỷ tâm linh”, một nền linh đạo do chính tôi tạo ra nhằm duy trì sự yên tĩnh nội tâm và tự mãn cho chính mình. Đức tin đích thực là đức tin chấp nhận thách đố, rủi ro, dẫn chúng ta đến gặp gỡ người nghèo và bằng chứng tá đời sống, ngôn ngữ bác ái. Như Thánh Phaolô khẳng định, chúng ta có thể nói nhiều thứ tiếng, rất khôn ngoan và giàu có, nhưng nếu không có đức ái, chúng ta chẳng có gì, chúng ta chẳng là gì (1Cr 13,1-13).
Ngôn ngữ bác ái dành cho người nghèo
Tới đây, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng chính Thánh Elizabeth là người đã nói ngôn ngữ bác ái này. Theo ngài, những ai “gắn bó với Thiên Chúa”, như Thánh Phanxicô Assisi, người đã truyền cảm hứng cho Thánh Elizabeth, thì mở lòng bác ái với người nghèo. Vì “nếu ai đó nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ và ghét anh chị em mình, người đó là kẻ nói dối. Vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Thánh Elizabeth, con gái của một vị vua, đã lớn lên trong sự giàu sang của cuộc sống cung đình, trong một môi trường sang trọng và đặc quyền. Tuy nhiên, một khi đã được chạm đến và biến đổi nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, Thánh nữ nhanh chóng cảm thấy khước từ sự giàu có và phù vân của thế gian, tìm cách từ bỏ chúng và chăm sóc những người túng thiếu. Vì vậy, ngài không chỉ bán của cải nhưng còn dành cả cuộc đời để phục vụ người nghèo, người phung cùi và người bệnh, tận tình chăm sóc họ, thậm chí còn vác họ trên vai. Đây là ngôn ngữ bác ái.
Đức Thánh Cha gặp người nghèo và người tị nạn tại Nhà thờ thánh Elisabeth của Hungary
Cần một Giáo hội thông thạo ngôn ngữ bác ái
Đi vào thực tế của xã hội Hungary và qua lời chứng của cô Brigitta, người đã cảm nhận được sự nâng đỡ của Chúa qua Giáo hội Công giáo Hy Lạp, Đức Thánh Cha giải thích về cách can thiệp của Chúa trong những lúc chúng ta gặp khó khăn: Đấng lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, “xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn” và “nâng người sa ngã” (Tv 146, 7-8), hầu như không bao giờ đến giải quyết các vấn đề của chúng ta từ trên cao, nhưng đến gần với vòng tay yêu thương dịu dàng và khơi dậy lòng trắc ẩn nơi những anh chị em nhận ra điều đó và không thờ ơ. Brigitta nói với chúng ta: cô đã có thể cảm nghiệm được sự gần gũi của Chúa nhờ Giáo hội Công giáo Hy Lạp, nhờ nhiều người đã làm hết sức để giúp đỡ, khuyến khích cô, tìm cho cô việc làm và hỗ trợ cô về nhu cầu vật chất cũng như trong hành trình đức tin. Đây là chứng tá mà chúng ta cần phải có: thể hiện lòng trắc ẩn đối với tất cả mọi người, đặc biệt những người đang sống trong nghèo đói, bệnh tật và đau đớn. Chúng ta cần một Giáo hội thông thạo ngôn ngữ bác ái, ngôn ngữ phổ quát mà mọi người đều có thể nghe và hiểu, kể cả những người ở xa nhất, kể cả những người không tin.
Ca đoàn
Cám ơn Giáo hội Hungary vì sự phục vụ bác ái
Tới đây, Đức Thánh Cha bày tỏ lòng biết ơn Giáo hội Hungary vì sự phục vụ bác ái một cách quảng đại và rộng khắp. Giáo hội đã tạo ra một mạng lưới kết nối nhiều nhân viên mục vụ, nhiều tình nguyện viên, Caritas giáo xứ và giáo phận, cũng như các nhóm cầu nguyện, các cộng đoàn tín hữu, các tổ chức thuộc các hệ phái khác, nhưng hiệp nhất trong tình hiệp thông đại kết phát sinh từ đức ái. Và ngài cám ơn mọi người về cách chào đón – không chỉ với lòng quảng đại nhưng còn với sự nhiệt tình – rất nhiều người tị nạn từ Ucraina.
Đức Thánh Cha nói ngài xúc động khi nghe lời chứng của Oleg và gia đình anh; “hành trình hướng đến tương lai” – một tương lai khác, khác xa nỗi kinh hoàng của chiến tranh – thực sự bắt đầu bằng một “hành trình của ký ức”, bởi vì Oleg nhớ lại sự chào đón nồng nhiệt mà anh nhận được ở Hungary nhiều năm trước khi anh đến làm đầu bếp ở đây. Ký ức về trải nghiệm đó đã khuyến khích anh đưa gia đình đến Budapest, nơi anh nhận được sự tiếp đón với lòng hiếu khách quảng đại. Ký ức về tình thương nhận được thắp lên hy vọng, khích lệ con người dấn thân vào những chặng đường đời mới. Thật vậy, ngay cả trong đau đớn và khổ sở, một khi chúng ta đã nhận được sự xoa dịu của tình thương, chúng ta sẽ có can đảm để tiến bước: đó là sức mạnh giúp chúng ta tin rằng tất cả không mất đi và một tương lai khác là có thể. Tình yêu mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta và Người truyền cho chúng ta phải sống như thế giúp loại bỏ khỏi xã hội, khỏi các thành phố và nơi chúng ta đang sống, cái xấu của sự thờ ơ và ích kỷ, và thắp lại niềm hy vọng cho một thế giới mới, công bằng và huynh đệ hơn, nơi mọi người có thể cảm thấy như ở nhà.
Đức Thánh Cha
Bác ái phải quan tâm đến con người toàn diện
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi rất xúc động khi biết rằng, cùng với những nhu cầu vật chất, anh chị em chú ý đến lịch sử và phẩm giá bị tổn thương, quan tâm đến sự cô đơn, cuộc đấu tranh của người nghèo để họ cảm thấy được yêu thương và chào đón trên thế giới. Điều này áp dụng cho toàn thể Giáo Hội: cung cấp cơm bánh cho no bụng thì chưa đủ, còn phải nuôi tâm hồn con người nữa! Bác ái không chỉ là sự giúp đỡ về mặt vật chất và xã hội, nhưng quan tâm đến con người toàn diện và mong muốn giúp họ đứng vững trở lại bằng tình yêu của Chúa Giêsu: một tình yêu giúp lấy lại vẻ đẹp và phẩm giá”.
Kết thúc bài nói chuyện, Đức Thánh Cha khuyến khích mọi người luôn nói ngôn ngữ bác ái, và một lần nữa nhắc đến mẫu gương của Thánh Elizabeth: “Người ta kể rằng Chúa đã từng biến bánh mà thánh nữ mang đến cho người nghèo thành hoa hồng. Đối với anh chị em cũng vậy: khi anh chị em dấn thân mang cơm bánh cho người nghèo đói, Chúa làm cho niềm vui nở hoa và tỏa hương thơm cho sự hiện diện của anh chị em bằng tình yêu mà anh chị em trao ban. Tôi cầu chúc anh chị em luôn mang hương thơm bác ái vào Giáo hội và đất nước của anh chị em. Và xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Xin cám ơn”.
Buổi gặp gỡ kết thúc với kinh Lạy Cha và phép lành của Đức Thánh Cha.
Nguồn: Vatican News
5. Diễn văn của ĐTC trong buổi gặp các giám mục, các linh mục và phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ
Anh em Giám mục, các linh mục và phó tế, tu sĩ, chủng sinh và các nhân viên mục vụ thân mến,
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô!
Tôi rất vui được trở lại đây sau khi chia sẻ Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 52 với anh chị em. Đó là một khoảnh khắc ân sủng lớn và tôi chắc chắn rằng hoa trái thiêng liêng của Đại hội đang đồng hành với anh chị em. Cám ơn Đức Tổng Giám Mục Veres vì lời chào mừng dành cho tôi và bày tỏ mong muốn của người Công giáo Hungary bằng những lời này: “Trong thế giới đang thay đổi này, chúng con muốn làm chứng rằng Chúa Kitô là tương lai của chúng ta”. Đối với chúng ta, một trong những đòi hỏi quan trọng nhất là: giải thích những thay đổi và biến đổi của thời đại chúng ta, tìm cách đáp ứng những thách đố mục vụ một cách tốt nhất có thể.
Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được khi nhìn lên Chúa Kitô là tương lai của chúng ta: Người là “Anpha và Ômêga, là Đấng hiện có, đã có và đang đến, là Đấng Toàn Năng” (Kh 1, 8), là khởi đầu và là cùng đích, nền tảng và đích đến cuối cùng của lịch sử nhân loại. Khi chiêm ngưỡng vinh quang của “Đấng là Đầu và Cuối” (Kh 1, 17) trong mùa Phục Sinh này, chúng ta có thể đối diện với những cơn bão ập đến thế giới chúng ta, tạo ra những thay đổi nhanh chóng và liên tục trong xã hội, cuộc khủng hoảng đức tin ảnh hưởng đến nền văn hoá Tây phương, bằng một cái nhìn không cam chịu và không đánh mất tâm điểm của Lễ Phục sinh: Chúa Kitô phục sinh, trung tâm lịch sử, là tương lai. Cuộc sống của chúng ta, mặc dù đánh dấu bằng sự mong manh, được đặt vững vàng trong tay Người. Nếu chúng ta quên điều này, chúng ta cũng vậy, các mục tử và giáo dân, sẽ tìm kiếm các phương tiện và công cụ con người để bảo vệ mình khỏi thế giới, khép mình trong các ốc đảo tôn giáo thoải mái và yên bình; hoặc ngược lại, chúng ta sẽ thích nghi với những chiều gió thay đổi của thế gian và khi đó, Kitô giáo sẽ mất sức sống và chúng ta sẽ không còn là muối đất.Trở về với Chúa Kitô là tương lai để không rơi vào những chiều gió thay đổi của thế gian, đó là điều tồi tệ có thể xảy ra cho Giáo hội: một Giáo hội trần tục.
Do đó, đây là hai cách tiếp cận – có thể nói là hai cám dỗ – mà chúng ta, là Giáo hội phải luôn cảnh giác. Đầu tiên là cách đọc ảm đạm về lịch sử hiện nay, được thúc đẩy bởi chủ nghĩa thất bại của những người lặp đi lặp lại rằng tất cả đã mất, chúng ta đã đánh mất những giá trị xưa, không biết rồi sẽ đi về đâu. Cha Sándor bày tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã “giải thoát ngài khỏi chủ nghĩa thất bại”! Và ngài đã làm gì trong cuộc đời, một Nhà thờ lớn ư? Không, một nhà thờ nhỏ ở vùng quê. Nhưng ngài đã làm được, và không để mình bị thất bại. Và một nguy cơ khác, đó là đọc thời đại một cách ngây thơ, dựa trên sự hài lòng của chủ nghĩa xu thời và làm chúng ta tin rằng cuối cùng mọi thứ đều ổn, thế giới đã thay đổi và chúng ta cần phải thích nghi. Ở đây, ngược với chủ nghĩa thất bại ảm đạm và chủ nghĩa xu thời thế gian, Tin Mừng cho chúng ta đôi mắt mới, cho chúng ta ơn phân định để bước vào thời đại chúng ta với sự cởi mở, nhưng cũng với tinh thần ngôn sứ. Do đó, với sự chào đón mang tính ngôn sứ.
Về điều này, tôi muốn dừng lại một cách ngắn gọn về một hình ảnh đẹp được Chúa Giêsu sử dụng: đó là hình ảnh cây vả (Mc 13, 28-29). Câu chuyện được kể với chúng ta trong bối cảnh Đền thờ Giêrusalem. Đối với những người đang chiêm ngắm vẻ tráng lệ của Đền thờ và sống theo thế gian, đặt sự an toàn trong không gian thánh thiêng và sự hùng vĩ trang trọng của Đền thờ, Chúa Giêsu nói rằng không có gì tuyệt đối trên mặt đất này, bởi vì mọi thứ đều tạm thời và sẽ có ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Nhưng đồng thời, không muốn chúng ta nản lòng hay lo sợ, Người nói thêm: khi mọi sự qua đi, khi các đền thờ của con người sụp đổ, những điều khủng khiếp xảy ra và sẽ có những cuộc bách hại dữ dội, thì “thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến” (c. 26). Và chính ở đây, Người mời chúng ta nhìn vào cây vả: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần. Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi” (c. 28-29). Do đó, chúng ta được mời gọi đón nhận thời đại chúng ta đang sống như một cây sai trái, với những thay đổi và thách đố, bởi vì chính nhờ tất cả những điều này – Tin Mừng nói – Chúa đang đến gần. Và trong khi chờ đợi, chúng ta được mời gọi vun trồng, đọc và gieo Tin Mừng trong thời này, cắt tỉa những cành khô sự dữ, để sinh hoa trái. Chúng ta được mời gọi đón nhận với tinh thần ngôn sứ.
Đón nhận với tinh thần ngôn sứ nghĩa là học cách nhận ra những dấu hiệu hiện diện của Thiên Chúa trong thực tế, ngay cả khi những dấu hiệu này không xuất hiện rõ ràng theo tinh thần Kitô nhưng thách đố và tra vấn chúng ta. Đó không phải là việc giải thích mọi sự theo thế gian, nhưng dưới ánh sáng Tin Mừng, những người loan báo và chứng nhân cho lời ngôn sứ Kitô. Chúng ta thấy rằng ngay cả ở đất nước này, nơi truyền thống đức tin vẫn còn bám rễ sâu xa, chúng ta đang chứng kiến sự lan rộng của tinh thần thế gian và những tác động của nó, thường đe dọa sự toàn vẹn và vẻ đẹp gia đình, đẩy người trẻ vào lối sống mang dấu ấn của chủ nghĩa duy vật và khoái lạc, dẫn đến sự tranh luận về các vấn đề và thách đố mới. Chúng ta có thể bị cám dỗ phản ứng bằng sự cố chấp, rút lui, và có thái độ chống đối. Nhưng những thực tế này có thể là cơ hội cho chúng ta, vì chúng củng cố đức tin và đào sâu một số chủ đề, mời gọi chúng ta tự hỏi làm thế nào những thách đố này có thể đi vào cuộc đối thoại với Tin Mừng, để tìm kiếm những cách thế, công cụ và ngôn ngữ mới. Theo nghĩa này, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI khẳng định rằng các thời đại tục hóa đã trợ giúp Giáo hội vì “chúng đã đóng góp đáng kể vào việc thanh luyện và canh tân Giáo hội từ bên trong. Thực tế, các xu hướng tục hóa […] luôn có nghĩa là giải thoát Giáo hội khỏi các hình thức thế gian”. Trước bất kỳ hình thức tục hoá nào, đều có một thách đố và một lời mời gọi thanh luyện Giáo hội khỏi mọi hình thức thế tục. Chúng ta hãy trở lại điều này: rơi vào tinh thần thế tục là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với chúng ta.
Dấn thân bước vào cuộc đối thoại với những hoàn cảnh ngày nay đòi hỏi cộng đoàn Kitô hữu phải hiện diện và làm chứng, biết cách lắng nghe những câu hỏi và thách đố mà không lo sợ hay cứng nhắc. Điều này không hề dễ dàng trong thế giới ngày nay, nhưng đòi hỏi một nỗ lực lớn. Đặc biệt, tôi muốn nhấn mạnh tình trạng làm việc quá sức đối với các linh mục. Thực tế, một mặt, nhu cầu của đời sống giáo xứ và mục vụ rất nhiều, nhưng mặt khác, ơn gọi đang giảm sút và các linh mục thì ít, thường đã cao tuổi và có một số dấu hiệu mệt mỏi. Đây là một tình trạng chung đối với nhiều thực tế Âu châu, trong đó điều quan trọng là tất cả mọi người – mục tử và giáo dân – cảm thấy đồng trách nhiệm: trước hết là trong cầu nguyện, bởi vì câu trả lời đến từ Chúa chứ không phải từ thế giới, từ nhà tạm chứ không phải từ máy tính. Và rồi trong niềm say mê mục vụ ơn gọi, với sự nhiệt thành, tìm cách trao ban cho người trẻ niềm say mê bước theo Chúa Giêsu ngay cả trong sự thánh hiến đặc biệt.
Sơ Krisztina nói với chúng ta về việc “tranh luận với Chúa Giêsu” về lý do tại sao Người kêu gọi chị, đó là điều tốt đẹp, bởi vì chúng ta cần những người có thể lắng nghe và giúp đỡ chúng ta “tranh luận” tốt với Chúa! Và nói chung, chúng ta cần phải bắt đầu một cuộc suy tư Giáo hội – hiệp hành, phải được thực hiện cùng nhau – để cập nhật đời sống mục vụ, không hài lòng với việc lặp lại quá khứ và không sợ tái định hình giáo xứ, nhưng đặt việc rao giảng Tin Mừng như một ưu tiên và khởi xướng sự hợp tác tích cực giữa các linh mục, giáo lý viên, nhân viên mục vụ, giáo viên. Anh chị em đã đi trên con đường này: đừng dừng lại. Hãy tìm những cách khả thi để cộng tác một cách vui vẻ vào công cuộc Tin Mừng và cùng nhau tiến bước, mỗi người có đặc sủng riêng của mình, mục vụ như một lời loan báo. Theo nghĩa này, những gì Dorina nói với chúng ta về sự cần thiết phải tiếp cận với người khác qua kể chuyện, giao tiếp, chạm vào cuộc sống hàng ngày. Và ở đây, tôi dừng lại một chút để nhấn mạnh đến công việc tốt đẹp của các giáo lý viên. Có những nơi trên thế giới – như châu Phi – nơi mà việc rao giảng Tin Mừng được thực hiện bởi các giáo lý viên. Nhưng, giáo lý viên là trụ cột của Giáo hội. Cám ơn các phó tế và giáo lý viên, những người ở đây có vai trò quyết định trong việc thông truyền đức tin cho các thế hệ trẻ, và tất cả những giáo viên và nhà đào tạo đang quảng đại dấn thân trong lĩnh vực giáo dục: xin cám ơn!
Cho phép tôi nói với anh chị em rằng việc chăm sóc mục vụ tốt là điều có thể thực hiện được nếu chúng ta có khả năng sống tình yêu mà Chúa đã truyền cho chúng ta và đó là ân ban của Thánh Thần. Nếu chúng ta xa cách hoặc chia rẽ, nếu chúng ta trở nên cứng nhắc trong các lập trường và nhóm, thì chúng ta không sinh hoa trái. Thật đáng buồn khi chúng ta chia rẽ bởi vì, thay vì sống như một đội, chúng ta lại rơi vào cạm bẫy của kẻ thù: các Giám mục không liên lạc với nhau, các linh mục căng thẳng với Giám mục, những người lớn tuổi xung đột với những người trẻ, giáo phận với tu sĩ, linh mục với giáo dân, các tín hữu Latinh với tín hữu Hy Lạp; có sự phân cực về các vấn đề liên quan đến đời sống của Giáo hội, cũng như về các khía cạnh chính trị và xã hội, ẩn trong các lập trường ý thức hệ. Vui lòng đừng làm như vậy: công việc mục vụ đầu tiên là làm chứng cho sự hiệp thông, bởi vì Thiên Chúa là sự hiệp thông và Người hiện diện nơi nào có tình bác ái huynh đệ. Chúng ta hãy vượt qua những chia rẽ con người để cùng nhau làm việc trong vườn nho của Chúa! Chúng ta hãy đắm mình trong tinh thần Tin Mừng, đặt nền tảng trong cầu nguyện, nhất là trong việc tôn thờ và lắng nghe Lời Chúa, chúng ta hãy vun trồng việc huấn luyện liên tục, tình huynh đệ, sự gần gũi và quan tâm đến người khác. Một kho tàng lớn đã được trao vào tay chúng ta, chúng ta đừng lãng phí nó để theo đuổi những thực tại thứ yếu so với Tin Mừng! Và ở đây cho phép tôi nói với anh chị em điều này: hãy cẩn thận đối với việc nói xấu người khác, vì đó là con đường dẫn tới sự phá huỷ. Nếu một tu sĩ hay một giáo dân không bao giờ nói xấu ai đó là một vị thánh. Có một phương thuốc chữa tật nói xấu người khác đó là cầu nguyện.
Và với các linh mục, tôi muốn nói thêm một điều nữa: hãy mang đến cho Dân thánh của Chúa khuôn mặt Chúa Cha và tạo một tinh thần gia đình. Cố gắng đừng cứng nhắc, nhưng hãy có những cái nhìn và lối tiếp cận nhân từ và trắc ẩn. Tôi muốn nhấn mạnh điều này: phong cách của Chúa là thái độ gần gũi, lòng trắc ẩn và dịu dàng. Chúng ta hãy theo phong cách này của Chúa và tự hỏi tôi có gần gũi với dân chúng, giúp đỡ họ, động lòng trắc ẩn hay lên án mọi người? Về vấn đề này, tôi đã được đánh động bởi những lời của cha József, đã nhắc đến sự trao ban và thừa tác vụ của người anh, Chân phước János Brenner, bị giết một cách dã man khi mới 26 tuổi. Dân tộc này có nhiều chứng nhân và linh mục giải tội của đức tin trong các chế độ độc tài của thế kỷ trước! Chân phước János đã trải qua nhiều đau khổ và điều này đối với ngài dễ dàng oán hận, rút lui, cứng nhắc. Trái lại, là một mục tử tốt lành. Điều này đòi hỏi tất cả chúng ta, đặc biệt là các linh mục: một cái nhìn thương xót, một trái tim nhân ái, luôn tha thứ, luôn giúp đỡ để bắt đầu lại, đón nhận và không phán xét, khuyến khích và không chỉ trích, phục vụ và không đàm tiếu.
Điều này rèn luyện chúng ta đón nhận theo tinh thần ngôn sứ: thông truyền niềm an ủi Chúa trong những hoàn cảnh đau khổ và nghèo khó trên thế giới, gần gũi với các Kitô hữu bị bách hại, người di cư tìm kiếm lòng hiếu khách, những người thuộc các nhóm sắc tộc, và bất cứ ai đang cần giúp đỡ. Theo nghĩa này, anh chị em có những mẫu gương thánh thiện tuyệt vời, như thánh Martino. Cử chỉ của ngài chia sẻ tấm áo choàng cho người nghèo không chỉ là một hành động bác ái: đó là hình ảnh Giáo hội hướng tới, đó là điều mà Giáo hội Hungary có thể mang lại như một lời ngôn sứ cho trung tâm châu Âu: lòng thương xót và sự gần gũi. Nhưng tôi cũng muốn nhắc đến thánh Stêphanô, thánh tích của ngài đang ở đây bên cạnh tôi: ngài là người đầu tiên phó dâng quốc gia cho Mẹ Thiên Chúa, ngài là một nhà truyền giáo dũng cảm và là người sáng lập các tu viện, ngài cũng biết lắng nghe và đối thoại với mọi người và quan tâm đến người nghèo: giảm thuế cho dân chúng và cải trang trong khi đi thực hành bác ái để không bị nhận ra. Đây là Giáo hội mà chúng ta phải mơ ước: có khả năng lắng nghe nhau, đối thoại, quan tâm đến những người yếu đuối; chào đón tất cả mọi người và can đảm mang lời ngôn sứ Tin Mừng đến cho mỗi người.
Anh chị em thân mến, Chúa Kitô là tương lai của chúng ta, vì chính Người hướng dẫn lịch sử. Các linh mục giải tội của đức tin của anh chị em đã xác tín chắc chắn về điều này: nhiều Giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ đã tử đạo trong cuộc bách hại vô thần; họ làm chứng cho đức tin kiên vững của người Hungary. Tôi muốn nhắc đến Đức Hồng Y Mindszenty, người đã tin vào sức mạnh của cầu nguyện, đến mức ngày nay, gần giống như một câu nói phổ biến, vẫn được lặp lại ở đây: “Nếu có một triệu người Hungary cầu nguyện, tôi sẽ không sợ tương lai”. Anh chị em hãy chào đón, là chứng nhân cho lời ngôn sứ Tin Mừng, nhưng trên hết hãy là những người nam nữ cầu nguyện, bởi vì lịch sử và tương lai tùy thuộc vào điều này. Cám ơn anh chị em vì đức tin và lòng trung thành của anh chị em, vì tất cả những điều tốt đẹp anh chị em đang thực hiện. Tôi không thể quên chứng tá can đảm và kiên nhẫn của các Nữ tu người Hungary thuộc Hội Chúa Giêsu mà tôi đã gặp ở Argentina sau khi họ rời Hungary trong thời kỳ bách hại tôn giáo. Họ đã làm rất nhiều điều tốt cho tôi. Tôi cầu nguyện cho anh chị em, để theo gương các chứng nhân đức tin vĩ đại, anh chị em không bao giờ bị sự mệt mỏi nội tâm xâm chiếm và có thể tiến bước với niềm vui. Và tôi xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho tôi. Köszönöm! [Xin cám ơn!]
4. ĐTC gặp Chính quyền, Xã hội dân sự và Ngoại giao đoàn ở Hungary
Lúc 12 giờ 45 phút trưa ngày 28/4/2023, sau khi thăm xã giao Tổng thống và Thủ tướng của Hungary, Đức Thánh Cha đã đến trụ sở của lãnh đạo chính quyền Hungary, ở nơi trước đây là Đan viện của dòng Cát Minh. Đan viện này được xây dựng vào năm 1736 và được thánh hiến vào năm 1763. Nhưng vào năm 1784, hoàng đế Joseph II đã giải tán dòng và biến đan viện thành nhà hát để các quan chức chính phủ giải trí. Sau thế chiến thứ hai, đan viện bị hư hại nặng nề. Năm 1978, sau khi được trùng tu, đan viện mở cửa lại cho dân chúng thăm quan. Sau đó, vào năm 2001, đan viện trở thành tài sản của Nhà hát vũ kịch quốc gia, và ngày nay, sau khi được cải tạo thêm, từ năm 2019, có văn phòng của Thủ tướng.
Tham dự cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha tại Sảnh của đan viện cũ có khoảng 200 người thuộc giới lãnh đạo chính trị và tôn giáo, ngoại giao đoàn, các doanh nhân, đại diện xã hội dân sự và văn hoá.
Sau lời chào mừng của bà Tổng thống Hungary, trong bài diễn văn, Đức Thánh chia sẻ một số ý tưởng, được gợi ý từ hình ảnh thủ đô Budapest, thành phố lịch sử, của những cây cầu và của các vị thánh.
Trước hết, Budapest, thành phố của lịch sử. Đức Thánh Cha nhắc lại những giai đoạn lịch sử của Budapest, sinh ra trong thời bình, nhưng cũng đã trải nghiệm những xung đột tàn khốc, đặc biệt là các hành động bạo lực và áp bức do chế độ độc tài Quốc xã và Cộng sản gây ra.
Hoà bình đến từ các chính sách quan tâm đến sự phát triển của mọi người
Nhắc đến kỷ niệm 150 năm ngày thành lập Budapest, thông qua sự hợp nhất của ba thành phố Buda và Óbuda ở phía tây sông Danube và Pest ở bờ đối diện, Đức Thánh Cha mời gọi suy nghĩ về tiến trình thống nhất do Châu Âu thực hiện, trong đó Hungary đóng một vai trò quan trọng. “Trong thời kỳ hậu chiến, Châu Âu, cùng với Liên Hiệp Quốc, thể hiện niềm hy vọng cao quý rằng, bằng cách cùng nhau hợp tác vì sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa các quốc gia, có thể tránh được những xung đột hơn nữa. Tuy nhiên, trong thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay, việc theo đuổi hết mình một chính trị cộng đồng và củng cố các mối quan hệ đa phương dường như là một ký ức đáng tiếc từ một quá khứ xa xôi. Chúng ta dường như đang chứng kiến buổi hoàng hôn đáng tiếc của giấc mơ hòa bình chung đó, khi những kẻ đơn độc trong chiến tranh giờ đây nắm quyền. Càng ngày, lòng nhiệt tình xây dựng một cộng đồng hòa bình và ổn định của các quốc gia dường như càng nguội lạnh, khi các vùng ảnh hưởng được vạch ra, sự khác biệt ngày càng rõ rệt, chủ nghĩa dân tộc đang gia tăng và các phán quyết và ngôn ngữ ngày càng khắc nghiệt hơn được sử dụng để đối đầu với các quốc gia khác.” Và Đức Thánh Cha khẳng định: “Hòa bình sẽ không bao giờ đến được từ việc theo đuổi các lợi ích chiến lược cá nhân, nhưng chỉ đến từ các chính sách có khả năng nhìn ra bức tranh rộng lớn hơn, đến sự phát triển của mọi người: các chính sách quan tâm đến cá nhân, người nghèo và tương lai, chứ không phải chỉ đơn thuần là quyền lực, lợi nhuận và triển vọng hiện tại.”
Khám phá lại “tinh thần của châu Âu”
Theo Đức Thánh Cha, vào thời điểm lịch sử này, châu Âu được kêu gọi đảm nhận vai trò thích hợp của mình, “đó là hiệp nhất những người xa cách nhau, chào đón các dân tộc khác và từ chối coi bất kỳ ai là kẻ thù vĩnh viễn.” Do đó, “điều quan trọng là phải phục hồi tinh thần châu Âu: sự phấn khích và tầm nhìn của những người sáng lập, những người là các chính khách có thể nhìn xa hơn thời đại của họ, vượt ra ngoài biên giới quốc gia và nhu cầu trước mắt, và tạo ra các hình thức ngoại giao có khả năng theo đuổi sự thống nhất, chứ không phải làm trầm trọng thêm sự chia rẽ.” Nghĩ đến Ucraina đang bị chiến tranh tàn phá, Đức Thánh Cha đưa ra câu hỏi: những nỗ lực sáng tạo vì hòa bình đang ở đâu?
Thống nhất nhưng không đồng nhất
Suy tư thứ hai của Đức Thánh Cha: Budapest là thành phố của những cây cầu. Những cây cầu của Budapest nối liền nhiều khu vực của thành phố. Từ những nhịp cầu nối kết những thực tại đa dạng đó, Đức Thánh Cha nghĩ đến tầm quan trọng của một sự thống nhất không phải là đồng nhất. “Ở Budapest, điều này được thể hiện qua sự đa dạng đáng chú ý của hơn 20 quận tạo nên thành phố. Cũng vậy, Châu Âu của 27 nước được xây dựng để tạo cầu nối giữa các quốc gia, đòi hỏi sự đóng góp của tất cả, đồng thời không làm giảm đi tính độc đáo của mỗi quốc gia.”
“Tự do cá nhân chỉ có thể hoàn thiện khi hợp tác với những người khác”
Đức Thánh Cha nhắc lại lời của một trong những người sáng lập Châu Âu: “Châu Âu sẽ tồn tại, nhưng sẽ không có gì trong những điều đã tạo nên vinh quang và hạnh phúc của mỗi quốc gia bị mất đi. Vì trong một xã hội lớn hơn, và một sự hòa hợp lớn hơn, các cá nhân sẽ có thể phát triển” (Tham luận, đã trích dẫn). Và Đức Thánh Cha khẳng định: “Đó chính là sự thống nhất mà chúng ta cần: sự hài hòa của một tổng thể mà các bộ phận không bị đồng nhất một cách nhạt nhẽo nhưng được tích hợp hoàn toàn.” Như Hiến pháp Hungary đã tuyên bố một cách đúng đắn: “Tự do cá nhân chỉ có thể hoàn thiện khi hợp tác với những người khác”, và thêm nữa, “Chúng ta tin rằng văn hóa quốc gia của chúng ta là một đóng góp phong phú cho sự đa dạng của sự thống nhất châu Âu.”
Đó là một châu Âu, mà Đức Thánh Cha mong muốn, không trở thành con mồi của các hình thức chủ nghĩa dân túy tự quy chiếu cũng như không viện đến một thứ “chủ nghĩa siêu quốc gia” lỏng lẻo, nếu không muốn nói là nhạt nhẽo, đang đánh mất tầm nhìn về cuộc sống của các dân tộc. Ngài nói rằng đây là con đường tai hại của những hình thức “thực dân hóa ý thức hệ” vốn sẽ hủy bỏ sự khác biệt, như trong trường hợp của cái gọi là ý thức hệ về giới tính, hoặc sẽ đặt trước thực tế cuộc sống những khái niệm giản lược về tự do, chẳng hạn bằng cách khoe khoang là tiến bộ một “quyền phá thai” vô nghĩa, điều vốn luôn là một thất bại bi thảm.
Một Châu Âu lấy con người và các dân tộc làm trung tâm
Theo Đức Thánh Cha, “Sẽ tốt hơn biết bao nếu xây dựng một châu Âu lấy con người và các dân tộc làm trung tâm, với các chính sách hiệu quả đối với việc sinh sản và gia đình – những chính sách được quốc gia này theo đuổi một cách quan tâm –, một châu Âu mà các quốc gia khác nhau sẽ tạo thành một gia đình duy nhất bảo vệ sự phát triển và tính độc đáo của mỗi thành viên.” Ngài dùng hình ảnh cây cầu nổi tiếng nhất ở Budapest, cây cầu xích, để giúp hình dung ra kiểu châu Âu đó, vì nó bao gồm nhiều liên kết lớn và đa dạng tạo nên sự vững chắc và sức mạnh của chúng khi liên kết với nhau. Về vấn đề này, Đức Thánh Cha nói tiếp, “đức tin Kitô giáo có thể là một nguồn lực, và Hungary có thể đóng vai trò là ‘người xây cầu’ bằng cách dựa trên đặc tính đại kết cụ thể của mình. Ở đây, các tôn giáo khác nhau chung sống với nhau mà không xích mích, hợp tác một cách tôn trọng và xây dựng.”
Và khía cạnh cuối cùng Đức Thánh Cha đề cập đến là Budapest như một thành phố của các vị thánh. Bắt đầu từ Thánh Stêphanô, vị vua đầu tiên của Hungary. Đức Thánh Cha nhận xét rằng lịch sử Hungary được đánh dấu bằng sự thánh thiện ngay từ đầu, không chỉ là sự thánh thiện của Nhà vua mà còn của cả gia đình ngài.
Thực hành yêu thương
Những lời khuyên của Thánh Stêphanô với con trai là Thánh Emeric trở thành một loại di chúc tinh thần cho dân tộc Magyar: “Cha khuyên con không những tỏ lòng ưu ái với bà con họ hàng, người quyền thế và giàu có, láng giềng và đồng hương của mình, mà còn với người nước ngoài và tất cả những ai đến với con.” Thánh Stêphanô thể hiện tinh thần Kitô giáo đích thực khi tuyên bố rằng, “thực hành yêu thương dẫn đến hạnh phúc tột đỉnh”. Ngài nói thêm: “Hãy dịu dàng, để bạn không bao giờ chống lại công lý” (Những lời khuyên, X). Bằng cách này, ngài kết hợp sự thật và sự dịu dàng một cách không thể tách rời. Đức Thánh Cha nhận định: “Đây là một giáo huấn đức tin tuyệt vời: Các giá trị Kitô giáo không thể được đề xuất bằng sự cứng nhắc và khép kín, bởi vì chân lý của Chúa Kitô đòi hỏi sự hiền lành và dịu dàng, theo tinh thần của các Mối phúc.”
Tinh thần cởi mở
Tinh thần cởi mở đối với người khác, như được Hiến pháp Hungary ghi nhận: “Chúng tôi tôn trọng tự do và văn hóa của các dân tộc khác, và sẽ cố gắng hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới,” theo Đức Thánh Cha, thực sự mang tính Phúc Âm, và tương phản với một số khuynh hướng, đôi khi được đề xuất nhân danh các truyền thống bản địa và thậm chí là đức tin, để co cụm vào chính mình.
Bảo vệ những người dễ bị tổn thương và người nghèo
Đức Thánh Cha cũng lưu ý rằng Hiến pháp Hungary cũng khẳng định: “Chúng ta có nghĩa vụ chung là bảo vệ những người dễ bị tổn thương và người nghèo.” Và Đức Thánh Cha nói đến chứng tá thánh thiện của Thánh Elizabeth, công chúa Hungary, “đã qua đời ở tuổi hai mươi bốn sau khi từ bỏ tất cả tài sản của mình và phân phát mọi thứ cho người nghèo. Cuối cùng, thánh nhân đã cống hiến hết mình và phục vụ những người bệnh trong nhà tế bần mà ngài đã xây dựng. Ngài vẫn là một chứng nhân nổi bật của Tin Mừng.”
Tiếp tục bài diễn văn, Đức Thánh Cha cảm ơn các nhà chức trách đã thúc đẩy các công việc bác ái và giáo dục được truyền cảm hứng từ những giá trị Kitô giáo, và sự hỗ trợ cụ thể của họ đối với nhiều Kitô hữu trên toàn thế giới đang gặp khó khăn và nghịch cảnh. Ngài khen ngợi sự hợp tác giữa Nhà nước và Giáo hội, luôn tôn trọng sự phân biệt cẩn thận giữa các lĩnh vực riêng của nhau. Và ngài nhắc các Kitô hữu phải ghi nhớ điều này, “lấy Tin Mừng làm điểm quy chiếu, tự do đón nhận những giáo huấn giải phóng của Chúa Giêsu mà không nhượng bộ một loại “chủ nghĩa hợp tác’ với một nền chính trị quyền lực”. Ngài phân biệt giữa “tính thế tục” và “chủ nghĩa tục hoá”, là thứ phổ biến vốn dị ứng với bất kỳ khía cạnh nào của sự thánh thiêng, nhưng lại sẵn sàng hy sinh bản thân trước bàn thờ của lợi nhuận.
Con cái Chúa và anh chị em của nhau
Đức Thánh Cha nói: “Những người tự xưng là Kitô hữu, cùng với các chứng nhân đức tin, được kêu gọi làm chứng và hợp lực với mọi người để vun trồng một chủ nghĩa nhân văn được gợi hứng bởi Phúc Âm và đi theo hai con đường cơ bản: nhìn nhận mình là con cái yêu dấu của Thiên Chúa Cha và yêu thương nhau như anh chị em một nhà.” Và Thánh Stêphanô là mẫu gương của tình huynh đệ khi khuyên con hãy chào đón những người lạ với lòng nhân từ và tôn trọng họ, để họ thích ở với con hơn là ở nơi khác (Các lời khuyên, VI).
Tiếp nhận người di dân: thách đố đòi các Kitô hữu trả lời
Nhận định rằng vấn đề tiếp nhận và chào đón người di dân là một vấn đề nóng bỏng trong thời đại của chúng ta, và chắc chắn là phức tạp, tuy nhiên, Đức Thánh Cha nói, “đối với những người là Kitô hữu, thái độ cơ bản của chúng ta không thể khác với thái độ mà thánh Stêphanô đã khuyên con trai của ngài, sau khi học được điều đó từ Chúa Giêsu, Đấng đã đồng hóa mình với khách lạ cần được tiếp đón (x. Mt 25,35). Khi chúng ta nghĩ về Chúa Kitô hiện diện trong rất nhiều anh chị em của chúng ta, những người đang chạy trốn cách tuyệt vọng khỏi các cuộc xung đột, nghèo đói và biến đổi khí hậu, chúng ta cảm thấy buộc phải đương đầu với vấn đề mà không được bào chữa và trì hoãn.” Và ngài nhắc nhở Châu Âu, với tư cách là một cộng đồng, phải hành động để tạo ra các hành lang pháp lý và an toàn cũng như các quy trình đã được thiết lập để đáp ứng một thách thức mang tính thời đại, nhằm chuẩn bị cho một tương lai mà nếu không được chia sẻ thì sẽ không tồn tại. “Thách thức này đặc biệt đòi hỏi sự đáp lời từ phía những người là môn đệ của Chúa Giêsu và muốn noi gương các chứng nhân của Tin Mừng.”
Từ giã Tổng thống Hungary, Đức Thánh Cha lên xe về Toà Sứ Thần cách đó hơn 3 km để ăn trưa và nghỉ ngơi.
Tổng thống Cộng hòa Hungary
Tổng thống Cộng hòa Hungary, bà Katalin Novák, sinh năm 1977 tại Szeged. Bà học Kinh tế và Hành chính công tại Đại học Budapest và tiếp tục học tại Đại học Szeged và Paris. Bà Novák bắt đầu sự nghiệp chính trị vào năm 2001 tại Bộ Ngoại giao, sau đó giữ các chức vụ: cố vấn cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Chánh văn phòng Nội các Zoltán Balog tại Bộ Nhân sự, Bộ trưởng về Gia đình và Thanh niên, Phó Chủ tịch đảng Fidesz, đại biểu Quốc hội Hungary, Bộ trưởng Bộ Gia đình. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, bà được Quốc hội bầu làm Tổng thống Cộng hòa. Bà Novák là nữ tổng thống đầu tiên của nước này. Bà có ba người con.
Gặp Thủ tướng
Vào lúc 11 giờ 50 phút, Đức Thánh Cha được Tổng thống tháp tùng đến Sảnh Maria Têrêsa của Dinh để gặp Thủ tướng.
Thủ tướng Cộng hòa Hungary, ông Viktor Orbán, sinh năm 1963. Năm 1987, ông Orbán tốt nghiệp Khoa Luật tại một đại học ở Budapest. Năm 1988, ông thành lập phong trào sinh viên cải cách mang tên “Liên minh các Đảng viên Dân chủ Trẻ tuổi”, ngày nay là Fidesz – Liên minh Công dân Hungary, đảng bảo thủ quốc gia. Ông được bầu vào Quốc hội năm 1990 và năm 1998 lần đầu tiên ông được bổ nhiệm làm Thủ tướng. Ông được tái cử làm người đứng đầu chính phủ vào các năm 2010, 2014 và 2018. Ông Orban đã kết hôn với bà Aniko Levai và có 5 người con.
Cuối buổi gặp gỡ, Thủ tướng giới thiệu gia đình với Đức Thánh Cha.
2. Nghi thức đón tiếp Đức Thánh Cha tại quảng trường của Dinh “Sándor”
Dinh “Sándor”
Dinh “Sándor” là nơi ở chính thức của Tổng thống Cộng hoà từ ngày 22/01/2023. Lúc đầu, toà nhà sang trọng được xây dựng cho gia đình quý tộc Sándor, theo dòng lịch sử được sử dụng làm toà nhà chính phủ. Sau Thế chiến thứ hai, Dinh biến thành đống đổ nát, và được làm lại vào năm 1989. Nhưng Dinh chỉ thực sự được khôi phục hoàn toàn vào mùa xuân năm 2022.
Nội thất toà nhà được thiết kế theo phong cách Baroque, với nhiều sảnh lớn dùng cho các cuộc gặp gỡ lớn, các buổi chiêu đãi Ngoại giao đoàn. Dinh “Sandor” mở cửa cho công chúng mỗi năm một lần vào đầu mùa thu, Ngày Di sản Văn hoá ở Hungary.
Đức Thánh Cha và Tổng thống tiến ra giữa sân trong tiếng kèn chào mừng của đoàn quân nhạc. Sau đó, đoàn quân nhạc lần lượt trỗi quốc thiều của Vatican và Hungary.
Hiện diện trong nghi thức tiếp đón này có các đại diện của chính phủ Hungary và phái đoàn của Tòa Thánh cũng như các lãnh đạo Giáo hội tại Hungary.
Sau nghi thức chào cờ, Đức Thánh Cha và Tổng thống Hungary đi qua hàng quân danh dự. Sau đó Tổng thống giới thiệu phái đoàn chính phủ Hungary. Tiếp đó là phái đoàn của Vatican.
Sau lễ nghi đón tiếp chính thức, Đức Thánh Cha và Tổng thống Hungary đi lên lầu một của phủ Tổng thống để hội kiến riêng.
1. Đức Thánh Cha đã đến Budapest thủ đô của Hungary
Sứ thần Tòa Thánh tại Hungary, Đức Tổng Giám Mục Michael W. Banach, và trưởng ban nghi lễ ngoại giao của Hungary lên máy bay chào Đức Thánh Cha.
Tại thang máy bay, Đức Thánh Cha được Phó Thủ tướng Hungary đón tiếp. Vài trăm tín hữu đứng trong khu vực sân bay vẫy cờ Hungary và Tòa Thánh reo mừng chào Đức Thánh Cha. Hai em bé trong trang phục truyền thống đã tặng bánh mì, muối và hoa cho Đức Thánh Cha, như dấu chỉ của sự chào đón.
Tiếp đến các thành viên trong hai phái đoàn của Hungary và Tòa Thánh được giới thiệu với Đức Thánh Cha và Phó Thủ tướng Hungary. Đức Thánh Cha và Phó Thủ tướng cũng chào một số vị đại diện của Giáo hội Hungary. Sau đó Đức Thánh Cha và Phó Thủ tướng duyệt qua hàng quân danh dự và lên xe đến Sảnh VIP của sân bay và hội đàm với nhau trong ít phút.
Vào lúc 10 giờ 30 phút, Đức Thánh Cha rời phi trường, di chuyển đến Dinh “Sándor” cách đó 24,3 km.