Bài hát và Suy niệm (25.09.2022 – Chúa Nhật XXVI Thường Niên năm C)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

NL: HÁT LÊN BÀI CA

ĐC: HÁT KHEN ĐẤNG CỨU ĐỘ

DL: HÒA KHÚC TẠ ƠN

HL: CHO CON BIẾT YÊU THƯƠNG

KL: THẮP SÁNG LÊN

 

Lời Chúa: Am 6,1a.4-7; 1 Tm 6,11-16; Lc 16,19-31

Bài đọc 1: Am 6,1a.4-7

Bài trích sách ngôn sứ A-mốt.

Đức Chúa là Thiên Chúa các đạo binh phán thế này :

“Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xi-on,
và sống an nhiên tự tại trên núi Sa-ma-ri.
Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ,
mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng.
Chúng đàn hát nghêu ngao ;
như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác.
Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng,
nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giu-se sụp đổ !
Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày,
dẫn đầu những kẻ bị lưu đày.
Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn !”

Bài đọc 2: 1 Tm 6,11-16

Bài trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê.

Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà.  Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời ; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng.  Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Ki-tô Giê-su là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh :  hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện.  Đấng sẽ cho Đức Ki-tô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi,

là Chúa Tể vạn phúc vô song,
là Vua các vua, Chúa các chúa.
Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử,
ngự trong ánh sáng siêu phàm,
Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy.
Kính dâng Người danh dự
và uy quyền đến muôn đời. A-men.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca (Lc 16,19-31)

19 “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.20 Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu,21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.22 Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

23 “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ.24 Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!25 Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.26 Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.

27 “Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con,28 vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!29 Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.30 Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.31 Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Đời sống hưởng thụ dẫn về đâu?

Xét về tự nhiên, con người được sống trong bình yên, hạnh phúc và sự thoải mái thì có gì xấu đâu. Lời Chúa bài đọc một, ban đầu mở cho chúng ta thấy cuộc sống của một số người ngỡ như thiên đường cõi nhân gian. Họ thỏa thuê hưởng thụ, được sung sướng, thoải mái và chỉ có thế, họ có tội tình gì đâu? Nhưng lời Chúa nói thêm

nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giu-se sụp đổ!

Câu lời Chúa đây mang ý nghĩa rộng hơn nghĩa đen của đoạn văn, giúp làm sáng tỏ vấn đề. Những người dân Ít-ra-en này đang sống đời hưởng thụ, được phúc phần quá ưu đãi ở đời này, nhưng họ không màng gì đến hưng vong của dòng tộc mang lời Chúa hứa. Nghĩa là, họ không những thiếu đi đức ái với tha nhân mà còn không đoái hoài gì đến Chúa, đến chương trình của Người dành cho dân tộc họ. Sự ích kỷ, kiêu ngạo và vô tín biểu lộ rõ ở chi tiết này. Đây là điều rất tương hợp với cuộc sống của chúng ta hôm nay, những người tín hữu Ki-tô chạy đuổi theo cuộc sống thế tục, chỉ đem lòng hưởng thụ. Họ không đoái hoài gì đến Nước Chúa, thậm chí còn đòi hỏi ngược lại: đòi được quyền ly dị, phá thai, có chức thánh muốn thêm quyền được có vợ v.v… nhưng không màng đến phần rỗi hay nỗi đau khổ của tha nhân, dù là một em bé chưa có khả năng tự vệ. Chúa Giê-su dùng hình ảnh của bậc thượng lưu ở Ít-ra-en, vạch ra lầm lỗi của những người đã được phúc ở đời này mà không quan tâm đến những người cùng khổ, hay tìm kiếm và xây dựng Nước Chúa.

Bài đọc hai. Thấu suốt chân lý này Thánh Phao-lô dạy con thiêng liêng của mình, ngài Ti-mô-thê, hãy tránh xa những điều dẫn tới hư vong vì rất đỗi lầm lạc, song hãy giữ trọn tinh thần đức tin “hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà”. Nhờ sự hướng dẫn tích cực và chính thống của thánh Phao-lô, Ti-mô-thê một chàng trai ngoan đạo đã trở thành Giám mục và là một vị thánh (lễ kính 26.1). Một mẫu gương huy hoàng, xán lạn cho chúng ta noi theo vì thánh Ti-mô-thê đã vâng lời bề trên trọn hảo “Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời”. Và để khích lệ người môn đệ của mình, thánh Tông Đồ dân ngoại đã trình bày một chân lý đức tin về Chúa Cha. Cứu cánh mà thánh Ti-mô-thê sẽ chạm tới khi Người đến nâng thánh nhân lên.

Đấng sẽ cho Đức Ki-tô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi,
là Chúa Tể vạn phúc vô song,
là Vua các vua, Chúa các chúa.

Chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử,
ngự trong ánh sáng siêu phàm,
Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy.”

Khổ Kinh đầu đặc biệt mang âm hưởng của ngày cánh chung, ngày mà Đức Ki-tô lại đến trong vinh quang của Người để xét xử nhân loại. Khi đó, sự thật chân lý được sáng tỏ, chứng thực Chúa Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa. Còn khổ Kinh kế tiếp nói về Chúa Cha – Đấng Hằng Hữu có bản thể là Ánh Sáng. Đấng mà trước thánh Phao-lô “không một ai đã thấy hay có thể thấy”.

Qua bài Phúc Âm, thánh sử Lu-ca tường thuật lại cho chúng ta một dụ ngôn mạc khải thật rõ ràng về mầu nhiệm cõi đời sau “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.” Dụ ngôn cho ta thấy, hai con người- hình ảnh của hai hạng người: giàu và nghèo, thỏa thuê hưởng thụ và thiếu thốn, cơ cực ở đời này. Và cuối cùng, kết cục tự nhiên là cả hai đều chết, như tất cả chúng ta đều phải chết. Lời Chúa nhắc nhở chúng ta nhớ rằng: con người ai cũng phải chết. Và ranh giới sống và chết thật mong manh, đến rất bất ngờ, mong manh và bất ngờ đến mức khiến chúng ta phải suy nghĩ cái ngày chính mình sẽ đối mặt với nó. Sách Thánh Vịnh có câu thật thấm thía

Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.

Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan
.” (Tv 90,10.12)

Những tâm tình vừa chia sẻ, cho chúng ta một sự chuẩn bị tâm lý để diện kiến sự thật sau cái chết. Trước Chúa Giê-su chẳng có ai hay sách vở nào dám khẳng định cách xác quyết đầy thuyết phục như lời Người “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!

Ở đây, lời Chúa không có ý cho chúng ta biết ông phú hộ đang phải chịu trừng phạt chính xác ở chỗ nào, đại luyện ngục hay hỏa ngục. Nhưng phơi trần một sự thật là lẽ công bằng được Chúa thực hiện rất công minh, nên ông phú hộ đang bị phạt trong lửa “ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Nói ông phú hộ “bị trừng phạt”, chúng ta đừng hiểu nhầm sự trừng phạt này do Thiên Chúa có Lòng Thương Xót vô biên ra tay. Chúa Giê-su từng dạy “Người nói với các ông: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa.” (Mc 4,24b) Ông phú hộ sống không có lòng thương xót đồng loại và chẳng quan tâm đến lời răn dạy của Chúa và chương trình của Người, nên bị xét xử theo chính cách mình đã sống. Còn Chúa công minh xét xử, nhưng đi đến hậu quả bị trừng phạt thế nào là do chính tội lỗi mình gây nên. Lửa của đam mê hưởng thụ, của tham lam ích kỷ, của vô tâm hờ hững trước nỗi khốn khó của anh em, lửa bởi lòng cao ngạo không biết tri ân phần phúc Thiên Chúa ban cho, lửa bởi đã tắt cả lòng thương xót dành cho người bất hạnh… lửa do lương tri mù lòa, tâm hồn trở nên đen đủi xấu xa không thèm đoái hoài lề luật và lời răn dạy của Thiên Chúa qua các ngôn sứ. Những thứ lửa tà tâm do chính ông phú hộ tích lũy từng ngày trong cuộc sống, giờ này gom lại thiêu đốt chính ông. Điều đáng nói ở đây, một tình trạng phải trả giá cho những năm tháng ngắn ngủi một đời người. Kinh khủng thật “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Bị lửa thiêu đốt toàn thân trong thời gian lâu dài không biết bao lâu, vậy mà thèm vài giọt nước cho giải khát cũng không được. Những tháng ngày ngắn ngủi sung sướng, thoải mái trên trần gian đổi lại tình trạng thê thảm lâu dài như vậy. Ta tự hỏi “có đáng không?”

Còn anh La-da-rô được ở nơi hạnh phúc, mát mẻ, sung sướng và được “ngồi trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham”. Đây là câu Kinh có ý nghĩa sâu xa, cho ta hiểu rằng được ở trong lòng tổ phụ sau khi chết, là được ở trong tình trạng ân phúc đỉnh cao của thời Cựu Ước. Một tình trạng vinh phúc cao nhất cho những người còn mắc tội tổ tông truyền, chưa được hưởng nhờ ơn cứu độ của Đấng Cứu Thế. Ngày nay, vinh phúc của người Công Giáo cao hơn nhiều. Với địa vị con Thiên Chúa, chúng ta được hưởng phúc thiên đàng “ở trong lòng Thiên Chúa Ba Ngôi”. Đổi lại, nếu bị luận phạt cũng sẽ phải chịu nặng nề hơn ông phú hộ rất nhiều.

Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” Chi tiết này cho thấy ranh giới tuyệt đối dành cho thụ tạo giữa các cõi siêu nhiên trong chốn vĩnh hằng. Con người không thể tự ý mình vượt qua nó, nhưng với Thiên Chúa “không gì là không thể” (Lc 1,37). Những ai được phép Chúa có thể vào hỏa ngục, luyện ngục, như ba trẻ ở Fatima “đặc biệt nói đến thị kiến kinh hoàng của hỏa ngục.” (Nguồn:  simonhoadalat.com)

Đoạn cuối của trình thuật Phúc Âm, nói lên tính độc đáo của dụ ngôn và chủ ý mà Chúa Giê-su muốn răn dạy với chúng ta. Ông phú hộ xin được về báo cho gia đình mình biết về sự thật đời sau. Điểm này có thể làm cho ta hiểu ông phú hộ chưa rơi vào hỏa ngục, vì với quỷ tính không ai còn thương cảm cho người trần. Càng thân thiết các anh lại càng ghét bỏ, càng muốn kéo người thân vào hỏa ngục với mình hơn. Nhưng đây chỉ là dụ ngôn. Mục đích chính Chúa Giê-su muốn dạy cho ta ghi nhớ “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Hạnh Phúc Trong Chúa

Hôm nay Đức Giêsu kể một dụ ngôn hay như chuyện cổ tích: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho  no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.” (Lc 16, 19-21). Người ăn không hết, kẻ lần chẳng ra, chênh lệch giàu nghèo quá độ! Ở gần nhau, ngay trước cổng thế mà “hố ngăn cách” giàu nghèo như vực thẳm. Vậy mà sau cái chết, số phận vui buồn sướng khổ lại đảo ngược, giờ đến lượt ông nhà giàu kêu cứu: “Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” (Lc 16,24). Phải chăng những kẻ nghèo đói khốn khổ bần cùng đều an tâm sau này mình có chỗ “trên đó”, còn những người giàu sụ, ở nhà lầu máy lạnh, đi xe hơi, tiêu tiền đô lại phải “nhào xuống âm phủ” hết sao?

Tin thế nào sẽ sống như vậy. Cách sống biểu tỏ những điều con người tin. Ông nhà giàu đặt niềm tin nơi sự giàu có, sức phàm nhân của mình. Ngày ngày ông chỉ biết nhắm mắt hưởng thụ như chẳng hề có Chúa. Ông Ladarô khốn khổ tột cùng nằm trước cổng mà ông như không thấy gì hết. Ông tưởng mình giàu có hạnh phúc mà không biết mình đang bất hạnh nghèo nàn. Còn Ladarô tin nơi Thiên Chúa. Trong Chúa, ông đang khổ đau mà như chẳng thấy đau khổ, không kêu ca trách móc, không “đói ăn vụng, túng làm càn”. Ông đang bất hạnh đói nghèo mà đời vẫn xanh tươi hạnh phúc.

Trong bài đọc I, ngôn sứ Amos cũng cảnh báo lối sống hưởng thụ, dửng dưng trước cảnh khốn cùng của người khác sẽ có ngày phải trả giá: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari. Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavid, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6,1a.4-7).

Chúa ơi! nếu chúng con luôn sống có Chúa, với Chúa trong từng giây phút trong cuộc đời này, thì dẫu chúng con có nghèo tình, nghèo tiền, nghèo sức cũng chẳng can chi. Sự giàu có, hạnh phúc của chúng con là chính Chúa. “Kìa nhìn xem Cha thánh Đa Minh đơn sơ ra đi là người bộ hành hát xướng nghèo nàn vẫn vui…”. (Thánh ca). Nếu chúng con đang giàu mà ở trong Chúa chúng con cũng chẳng sợ. Vàng bạc, kho báu của chúng con là chính Chúa, mấy thứ kia giúp chúng con thăng tiến cuộc sống và “mua” anh em thôi. “Ai khóc lóc, hãy làm như không khóc; ai vui mừng như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.” (Cr 7, 29-31).

Én Nhỏ

Thể hiện lòng thương cảm với những người đau khổ và bất hạnh 

1- Ghi nhớ:

“Lạy tổ phụ, vì con còn năm người anh em nữa, xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng sa vào chốn cực hình này” (Lc 16,28).

2- Suy niệm:

Trong dân gian có câu chuyện tựa đề là: “Cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại”.

Nội dung như sau: Khi nghe có tiếng kêu cứu cháy nhà. Người đàn ông ở bên cạnh chạy ra xem và thấy nhà của người hàng xóm đang bị cháy. Nhưng anh ta thầm nghĩ “Nhà người ta cháy, chứ có phải nhà mình bị cháy đâu mà phải lo”. Thế rồi anh ta lại trở vào giường đắp chăn ngủ tiếp. Gió lớn, ngọn lửa bốc cao lan sang nhà anh ta, lúc bấy giờ mới vội vàng chạy ra và kêu cứu, nhưng đã quá muộn, chỉ trong chốc lát nhà cửa và tài sản của anh chỉ còn lại là một đống tro tàn. Anh ta rất hối hận, nhưng vì thấy anh sống vô tình, vô cảm với chòm xóm nên chẳng ai quan tâm giúp đỡ. Và cái giá mà anh ta phải trả là sống ăn bờ ngủ bụi.

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cách cư xử của một người giàu có đối với người hàng xóm Lazarô ở trước cửa nhà mình. Ông đang đau ốm nghèo đói rất cần được sự giúp đỡ chia sẻ. Thế mà người nhà giàu cứ dửng dưng vô cảm, cứ yến tiệc linh đình không cảm thấy xót xa cho thân phận bất hạnh của Lazarô. Thế rồi sau khi chết cái gía mà ông phú hộ phải trả là bị sa hỏa ngục và bị lửa thiêu đốt.

Con người được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Và một trong những nét đẹp của hình ảnh đó là: tình yêu thương xót. Nhân vật nhà phú hộ nói trên đã đánh mất hình ảnh đó với lối sống vô tình, vô cảm, dửng dưng trước nỗi bất hạnh, khốn khổ của người khác.

Câu tâm niệm trong năm Thánh Lòng Thương Xót là “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót” (Lc 6, 36).  Thực thi lòng thương xót đối với tha nhân, thì cũng là thực thi việc thương xót đối với chính bản thân mình. Vì chính Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.” (Lc 6, 38); Chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân (Thánh Phánicô Assissi).

Thưc thi lòng thương xót cũng chính là chìa khóa để ta mở cửa nước Thiên Đàng, “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy vào hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho các ngươi. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”” (Mt 25,34 -36).

Sống ở trần gian, biết xót thương ,

Như Thầy Chí Thánh đã làm gương.

Giúp người đau khổ khi sa bước ,

Hộ kẻ gian nan,lúc khốn cùng

Chăm sóc thuốc thang người bệnh tật,

Mặc cho quần áo, kẻ trần truồng,

Hết lòng, hết sức tôn thờ Chúa.

Hạnh phúc mai sau, cõi vĩnh hằng.

3- Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên giống Chúa, biết lấy lòng xót thương mà cư xử với mọi người, hầu đáng được Chúa cho hưởng Nước Trời.

4- Sống Lời Chúa :

Cố gắng giúp những người gặp khó khăn trong khu xóm bằng lời cầu nguyện, sự an ủi và bằng vật chất nữa.

ĐA MINH TRẦN VĂN CHÍNH

 

 

Mục lục

1. Vô cảm  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hướng tới phần thưởng (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Lazaro và người phú hộ (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Người bên cạnh  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Vô cảm với người nghèo là một tội ác  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

6. Ông nhà giàu và Lazarô nghèo khó  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi,DCCT)

7. Bố thí  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Một lần nữa, Lời Chúa lại nói về công bình xã hội (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

9. Tội thiếu sót  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

10. Thiên Chúa là Đấng thưởng phạt công bằng  (Lm. Phêrô Lê văn Chính)

11. Trái tim tình người  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

12. Niềm hy vọng của nhân loại (Lm. Bùi Quang Tuấn)

13. Hãy nghe các ngài (Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tín)

14. Ra khỏi thế giới nhỏ hẹp của lòng mình  (Lm. G. Nguyễn Cao Luật)

15. Hậu quả của việc sử dụng tiền bạc  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)

16. Người nghèo Thiên Chúa chọn  (An Phong)

17. Bạn hữu của Thiên Chúa (PM. Cao Huy Hoàng)

18. Lòng nhân đạo  (Lm. Bùi Mạnh Tiến)

19. Bác ái cụ thể  (Lm. Thanh Minh)

20. Họ đã có Môisen và các tiên tri  (Lm. Cao Tấn Tĩnh)

21. Giàu của giàu lòng (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

22. Suy niệm Chúa Nhật 26 Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

23. Số phận  (Trầm Thiên Thu)

24. Người phú hộ xấu bụng và Lazaro nghèo khó (Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

25. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 26 TN_C  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

26. Sống với người khác  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

27. Sử dụng tiền của với trách nhiệm cứu giúp (Lm. Trần Bình Trọng)

28. Đừng vô cảm (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

29. Gần mà xa khi tình băng giá  (Lm. Nguyễn Xuân Trường)

30. Sao Chúa khôg cho người chết hiện về cảnh báo(Lm.Anphong NguyễnCông Minh, OFM)

31. Phú hộ và Lazarô  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

32. Trong tầm tay  (Lm. Vũ Đình Tường)

33. Bệnh vô cảm  (Jos. Hồng Ân)

34. Của cải trần gian  (JM. Lam Thy, ĐVD)


VÔ CẢM

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Trong mấy Chúa nhật liên tiếp, Lời Chúa đều đề cập tới tiền bạc, sự giàu có và thói tục ăn chơi phóng đãng. Hôm nay, một lần nữa, Lời Chúa lại tiếp tục nói với chúng ta về thái độ đối với của cải và sự quan tâm cần có đối với người nghèo, qua nghĩa cử chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ.

Từ khi hiện hữu, con người đã có nhu cầu canh tác đất đai, để kiếm sống cho bản thân và gia đình. Sở hữu vật chất là một đặc tính thuộc bản năng của con người. Những người giàu sang sống yên ổn tại Sion, tưởng chừng đó là những người may mắn, vì họ không phải long đong lo cơm áo gạo tiền. Tuy vậy, dưới cái nhìn của Ngôn sứ Amos, họ lại là những người bị chúc dữ. Bởi lẽ, họ suốt ngày ăn chơi phóng đãng mà vô cảm với vận mệnh của dân tộc mà vị Ngôn sứ gọi là “Nhà Giuse”. Đó là sản nghiệp của các bậc tổ tiên đã bao đời gây dựng. Vì thói ăn chơi ngông cuồng và thác loạn của những người giàu, gia sản ấy có nguy cơ sụp đổ và trở nên hoang tàn. Nên nhớ là Ngôn sứ Amos thi hành sứ vụ của mình ở thế kỷ thứ tám. Ông là một trong những ngôn sứ của người nghèo, vì giáo huấn của Chúa mà ông có trách nhiệm chuyển tải đều mang nội dung phê phán người giàu, bảo vệ người nghèo và bênh vực quyền lợi của những người cô thế cô thân.

Tại sao người giàu có bị căm ghét và lên án? Họ không bị lên án bởi vì họ giàu. Chúng ta thấy trong Tin Mừng, có một số người thuộc hoàng gia đi theo Chúa và rộng rãi giúp đỡ Người. Những người giàu bị lên án vì họ coi tiền bạc như đích điểm của cuộc đời, nhất là họ cậy vào tiền của mà vô cảm trước nỗi đau của người khác. Trong khi đó, nhiều khi tiền bạc họ có được là do bóc lột và bất công với người nghèo. Câu chuyện người phú hộ và ông Lagiarô là một điển hình. Con đường từ trong nhà ra ngoài ngõ chừng một hai trăm mét mà tưởng chừng như xa lắm, xa đến nỗi người phú hộ không bao giờ đến được. Lagiarô như một miếng giẻ rách bị vất bỏ và quên lãng. Trình thuật của Tin Mừng khéo léo đưa ra hai hình ảnh tương phản giữa hai nhân vật này: một bên gấm vóc lụa là, một bên đầy ghẻ lở mụn nhọt; một bên phè phỡn ăn chơi, bên kia đói khát đau khổ; một bên nhiều bạn đến chơi, bên kia chỉ có con chó làm bạn.

Tin Mừng cảnh tỉnh độc giả: Đừng chỉ nhìn những gì bề ngoài! Hãy coi chừng vì cuộc sống không chỉ có hôm nay mà còn có cả tương lai! Đừng tưởng có tiền bạc giàu có mà đã sung sướng! Nếu câu chuyện dụ ngôn được dựng thành kịch, thì vở kịch này sẽ gồm hai hồi mang nội dung hoàn toàn tương phản nhau. Anh phú hộ xưa giàu có phè phỡn ăn chơi, nay khốn khổ gian nan và bất hạnh. Lagiarô xưa bị quên lãng đói khát và tàn tạ, nay hạnh phúc trong lòng Abraham. Đối với người Do Thái, được ở trong lòng Tổ phụ Abraham là điều mơ ước và là hạnh phúc tuyệt vời nhất. Cuộc đối thoại giữa anh phú hộ với Abraham là bài học rút ra từ câu chuyện: Khi sống đừng kiêu ngạo và đừng lãng quên người khác. Gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Đừng cậy vào công phúc của người khác, nhưng hãy lo tích trữ của cải thiêng liêng bền vững cho mình.

Sống trong cuộc đời cần có tiền bạc và vật chất! ai cũng cảm nhận được điều này. Liệu bài học rút ra từ Lời Chúa có phải là một ảo tưởng? Khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng nhận sự giúp đỡ của mọi người thiện chí quảng đại. Chúa cũng dạy các môn đệ: vào nhà nào, hãy ăn những thứ người ta dọn cho, vì thợ thì đáng được hưởng công. Như thế, Chúa không hoàn toàn khinh chê vật chất bằng bất cứ giá nào. Theo ngữ cảnh, Chúa nói dụ ngôn này trong chuỗi giáo huấn về cách sử dụng tiền bạc. Trước đó, Chúa khiển trách những người Pharisiêu ham tiền bạc: “Các ông là những người làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa” (Lc 16, 14-15). Như vậy, Chúa đã dùng hình ảnh anh phú hộ để phê phán những con người cụ thể, tức là những người Pharisiêu lúc bấy giờ.

Giáo Hội Công giáo mang danh là Giáo Hội của người nghèo, nhưng Giáo Hội cũng phải có của cải để điều hành Giáo Hội và giúp người nghèo. Người giàu vẫn có thể nên thánh, nếu họ biết sử dụng của cải như một người quản lý khôn ngoan trung tín. Mẫu mực của chúng ta là Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa giàu sang đã trở nên nghèo vì chúng ta. Nhờ sự nghèo khó của Người mà chúng ta trở nên giàu sang trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, trong khi nỗ lực để có cuộc sống vật chất ổn định, chúng ta phải gắng nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và mến, sống nhẫn nại và hiền hoà. Đó chính là sự giàu sang trước mặt Thiên Chúa và tha nhân, một sự giàu sang bền vững và tồn tại mãi mãi.

Cổ nhân dạy: “Có đức thì mặc sức mà ăn”. Điều đó có nghĩa, khi người ta sống lương thiện và có đạo đức thì công việc của họ sẽ thành đạt và hiệu quả. Những gì họ làm ra sẽ vững bền và giúp họ tìm thấy hạnh phúc đích thực.

“Người giàu có mà không khôn ngoan, thì cũng như bù nhìn mặc áo gấm” (Sưu tầm).

“Nghèo không là xấu, nghèo mà không có chí mới là xấu; hèn không đáng ghét, hèn mà không có tài mới đáng ghét; già không nên than thở, già mà sống thừa mới đáng than thở; chết không nên bi ai, chết mà vô bổ mới đáng bi ai” (Sưu tầm).

 

.

HƯỚNG TỚI PHẦN THƯỞNG

Lm. Jos. DĐH.

Giầu nghèo, chức danh lớn, phận nhỏ hèn, tri thức, tầm thường, liệu mấy ai xem đó là trọng tâm của một kiếp người ; đúng hơn, bình an hạnh phúc vẫn luôn là điều mọi người mơ ước. Từ khái niệm đi đến thực tế có gì day dứt không, khi kẻ giầu sang phú quý được trọng vọng với mỹ danh: đại gia ; người nghèo khổ lại đầy mặc cảm tự ti trước sự cảnh giác của xã hội: đói ăn vụng, túng làm liều ! Khuynh hướng chung chung: kẻ giầu muốn rượu ngon, người đói ăn lại muốn no bụng. Làm sao giầu, nghèo, học thức, dân thường, vẫn sống hoà hợp, tình trạng phân chia giai cấp bị xoá bỏ, hy vọng đó có xa vời không, hay điều ấy chỉ xảy ra trong giấc mơ mà thôi ? Trách nhiệm phải canh tân bản thân và góp sức dựng xây quê hương đất nước xã hội là của ai ? Câu trả lời chắc chắn là nơi mỗi người đang thành tâm thiện chí, cùng hướng tới một phần thưởng ở phía trước.

Dụ ngôn ông phú hộ giầu, ông Ladarô nghèo, được Chúa Giêsu dẫn dắt đến một chân lý: thưởng phạt là có thật, giầu sang, nghèo hèn, điểm dừng ở đời này là sự chết. Lúc sống trên trần gian ông nhà giầu ăn sung mặc sướng, có lẽ ông phú hộ ấy chẳng còn cái cảm giác: sinh lão bệnh tử, một quy luật đang chờ ông. Lúc đói rách trên trần gian, người nghèo Ladarô cũng chỉ nghĩ, nếu được ăn chút bánh vụn từ bàn tiệc của vị đại gia thì hạnh phúc lắm ! Sau khi kết thúc cuộc sống trần thế, ông nhà giầu phải chịu cực hình, người nghèo Ladarô vinh dự ở trong lòng Tổ phụ Abraham. Trời quở báo: lên voi xuống chó ; hiểu theo suy luận nhà nông: gieo gì gặt nấy ; giáo lý tứ chung thì nói đến một hệ quả tất yếu: chết, phán xét, thiên đàng, hoả ngục. Dụ ngôn giầu nghèo, chết sống, thưởng phạt, sẽ còn lan truyền rộng rãi khắp nơi, cũng là dịp Đức Giêsu nhắc nhớ đến từng đối tượng, hãy chia sẻ vật chất, hãy sống tình yêu thương, đang khi bạn còn sống trên trần gian.

Nếu ông phú hộ biết trước giầu tiền lắm của có thể là nguy cơ phải nhận án phạt sau khi lìa đời, hẳn là ông tìm mọi cách để được sống mãi một kiếp người nghèo, hoặc ông sẽ chia sẻ hết số tài sản cho thiên hạ cách nhanh nhất. Cả lúc thưa chuyện với Tổ phụ Abraham mà còn kịp đổi giầu thành nghèo, ông phú hộ đã hoán đổi để được vinh dự sau khi ông qua đời. Nếu Ladarô biết trước diễm phúc của người nghèo là được ở cung lòng Abraham sau khi chết, chắc chắn ông cũng bao giờ thèm khát được ăn được uống, được đồng bàn với ai làm chi. Chính sự giầu sang, yến tiệc linh đình đã che tầm nhìn, ông nhà giầu không thấy người anh em đang ở cổng nhà mình, ông thiếu quan tâm bác ái, không đủ khôn ngoan sáng suốt trong việc sử dụng của cải, ông phú hộ đã tự làm cho mình nghèo hèn trước Thiên Chúa. Thực tế, chưa ai nghèo đói mà lại nói tôi sung sướng hạnh phúc, cũng không ai giầu mà lại bảo tôi đã dư tiền của rồi, than thân trách phận hoặc lòng tham vô đáy là thế.

Cha ông chúng ta nói: giầu tham việc, thất nghiệp tham ăn, Chúa Giêsu hôm nay không bình luận, không nhận xét việc giầu nghèo, Ngài có ý mời gọi hãy sống yêu thương, hãy chia sẻ, giúp nhau sống với những điều kiện ta đang có. Dù bạn là ai: giầu nghèo, vô duyên bất tài, thông thái lưu loát, thì trách nhiệm của ta vẫn phải làm cho cuộc sống không còn ngăn cách, khổ đau tan biến và hạnh phúc tràn đầy nơi cuộc sống. Giầu chưa phải là phần thưởng ở đời này, nghèo không phải là hình phạt ở cuộc sống hiện tại, ai cũng cần khôn ngoan sử dụng lợi thế, hoàn cảnh của mình để sống tốt: nghèo không hèn, giầu không ích kỷ ; tài không kiêu căng, bất tài không bi quan mặc cảm. Xã hội thời nào chẳng kêu gọi bình đẳng, vì nếu chỉ sống lý thuyết thì chưa đủ, hãy hành động để mọi người được học, người trẻ được giáo dục đến nơi đến chốn, hãy thực tế để giữa bàn tay và tấm lòng nhân ái được sẻ chia tới khắp cùng thế giới.

Mỗi người kitô hữu chúng ta hiện đang hướng về phần thưởng nào ? Giầu nghèo, khoẻ mạnh ốm đau, tài hèn, địa vị chức quyền hay hai lúa tầm thường ? Điều cần hơn, thiết tưởng chúng ta phải biết mình đang sử dụng ơn ban, đang sống với những khả năng thế nào ? Cơ hội để mỗi người đoạt giải, để ta tự tin nhận lãnh phần thưởng sau khi nhắm mắt lìa đời là có thật. Vấn đề thưởng phạt không phải do hên xui, nhưng hệ tại mỗi người hiểu, biết và sống ơn ban, sống nén bạc, đúng với tinh thần người môn đệ Đức Kitô. Một cuộc sống ý nghĩa là một cuộc sống được giãi bày tình người, tình Chúa, trong các tương quan ở đời này. Chúa Giêsu đến không thiết lập một vương quốc nghèo hay giầu, nhưng kêu gọi tình người luôn được sẻ chia, người người tìm thấy phần thưởng trong nghĩa cử nhân ái giữa cho và nhận, giữa biết và sống thật đằm thắm yêu thương. Amen.

 

.

LAZARO VÀ NGƯỜI PHÚ HỘ

Lm Giuse Hoàng Kim Toan  

Câu chuyện về người nghèo chẳng bao giờ kết thúc. Người nghèo ở đây không chỉ là đói ăn, thiếu mặc, không nhà… Nghèo hơn mọi thứ nghèo, không được luật pháp bảo vệ, chịu bóc lột, cưỡng bức.

Lazaro ghẻ chốc.

Hình ảnh một con người nghèo ghẻ chốc, không phải là một người vô danh. Anh ta có tên gọi Lazaro, là một con người bằng xương, bằng thịt, hiện diện trong xã hội.

Cái tên gọi đích danh, không phải để người khác ca tụng, nhưng lại là một cái tên đưa ra để chịu tội cho người khác ẩn danh. Người ta gọi tên anh như con dê tế thần. Anh ta chỉ có cái tên và chẳng có gì để mất hơn nữa. Cái tên của anh quan trọng trước pháp luật, để công lý không đấm vào không khí. Cái tên của anh, ai nghe cũng ngần ngại bởi được gọi lên mỗi ngày ở tù giam.

Người nghèo Lazaro ngồi trước hiên nhà giàu, chỉ rõ một phận số người nghèo không được pháp luật bảo vệ (hình tượng ngôi nhà). Bạo lực kềm chế họ trong sự nghèo khổ (con chó liếm ghẻ chốc). Nhất là phụ nữ, trẻ em, không ai bảo vệ họ khỏi những tay cưỡng hiếp, những tay buôn người, những băng đảng ma tuý…

Sự ghẻ chốc trên con người của Lazaro, nói lên một xã hội thối nát. Lazaro là những con người làm việc tối mày, tối mặt, không đủ ăn, không đủ mặc, sống trong những căn nhà trọ chật chội, hôi hám, thiếu nước, thiếu điện, trên người đầy ghẻ chốc.

Nhiều người thơm tho, lịch lãm, ngồi ăn uống linh đình trên những khốn khổ của Lazaro mà không thấy lương tâm hổ thẹn.

Những phương pháp giản đơn.

Cần có lòng trắc ẩn, không chỉ phân phát lúa gạo, thực phẩm, mà dành thời gian nghe những nỗi niềm của Lazaro. Trong dụ ngôn người phú hộ đã không một lời và cũng chẳng đưa mắt nhìn đến Lazaro đang ngồi trước cửa. Không có đối thoại nên không có cảm thông và cũng không có lòng trắc ẩn.

Lòng trắc ẩn cần được khởi đi từ công lý chung cho mọi người. Luật pháp không chỉ dành cho người giàu như người ta vẫn nói: “Đa kim ngân, phá luật lệ”. Luật pháp cần được thực thi công bằng và đứng về phía người nghèo để họ có thể thăng tiến. Phụ nữ và trẻ em, cần được bảo vệ khỏi những bạo lực, cưỡng hiếp, bóc lột. Theo nghiên cứu của Gary Haugen (TED2015).

Trợ giúp cho những người làm việc lam lũ, cật lực để những cố gắng của họ được gặt hái thành quả phong phú hơn. Như ngân hàng Grameen Bank trong dự án của tiến sỹ Yumus (TED GLOBAN 2010).

Làm được gì cho Lazaro, hãy bắt đầu từ hôm nay. “Phúc cho những bàn tay rộng mở ôm lấy người nghèo và giúp đỡ họ: đó là những bàn tay đem lại hy vọng. Phúc cho những bàn tay vượt qua được rào cản về văn hóa, tôn giáo và quốc tịch, và rót đổ dầu thơm của sự ủi an trên những vết thương của nhân loại. Phúc cho những bàn tay không đòi hỏi sự hoàn trả, những bàn tay không bao giờ nói “nếu” hoặc “nhưng” hoặc “có lẽ”: đó là những bàn tay chuyển phúc lành của Thiên Chúa xuống trên những anh chị em của họ.” (Sứ điệp ngày Người Nghèo lần thứ 1, Đức Thánh Cha Phanxico, 19 – 11 – 2017).

 

.

NGƯỜI BÊN CẠNH

Anna Cỏ may

Trong cuộc sống, dù đi đâu, ở nơi nào, chúng ta đều nhìn thấy bên cạnh mình những người giàu có và cả những người nghèo khổ. Sự giàu có và nghèo khổ diễn ra ở hiện tại và sẽ đem lại điều gì cho chúng ta ở đời sau?

Cuộc sống của người giàu diễn ra như thế nào? Trong Tin Mừng theo thánh sử Luca, ngài miêu tả về người giàu có ăn mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình (x.Lc 16.19). Nhìn vào cuộc sống thực tại, những người giàu sống trong tòa nhà cao cấp, có xe đưa đón, ăn mặc sang trọng, tay đeo những đồ trang sức long lanh và tay cầm chiếc điện thoại đa năng. Nhưng trong số những người giàu, có bao nhiều người biết nhìn đến người nghèo khổ? Còn người nghèo khổ, họ không những nghèo về vật chất mà còn nghèo về trí thức và phải mang trên mình căn bệnh hiểm nghèo. Anh Ladaro nghèo nàn, thân mình đầy mụn nhọt nằm trước cổng ông nhà giàu. Anh chỉ thèm được ăn những gì trên bàn của chủ rơi xuống mà ăn cho no. Bên cạnh anh cũng có lũ chó đang chờ đợi như anh vậy. Chốc chốc, chúng đến liếm ghẻ chốc trên thân mình anh. Một cái nghèo không còn gì để nghèo hơn nữa (x. Lc 16, 20-21). Khi chết, anh đã được thiên thần đưa vào lòng ông Apraham. Người giàu có cũng chết, người ta đem đi chôn. Như vậy, sau khi chết, họ đã phải đổi vị trí cho nhau: người giàu phải bị lửa thiêu đốt khổ cực, người nghèo được an ủi trên Nước Trời. Lúc này, không ai có thể giúp hay tỏ lòng thương xót ai được. Chỉ có cuộc sống trần gian, người ta mới có thể giúp nhau sống hạnh phúc ở đời này và kéo dài cho đến đời sau.

Ông nhà giàu xứng đáng chịu cực khổ như vậy vì ông đã sống trong tính kiêu căng qua việc ăn mặc lụa là, xa hoa và phung phí. Ông lâm vào con đường mê ăn uống là hằng ngày mở tiệc linh đình. Ông còn mang tội bất nhân, ích kỷ đã không thèm để ý giúp đỡ người nghèo trước cửa. Ông rơi vào cuộc sống của các mối họa (x. Lc 6, 24-26).  Còn anh Ladaro, anh đã sống trọn mối phúc Nước Trời (x. Lc 6,20-23)). Anh vui vẻ đón nhận những sỉ nhục, sự nghèo hèn là lê lết ăn xin. Anh không than trách phận mình với trời cũng không chê trách ông nhà giàu keo kiệt, anh chỉ ước được ăn những gì trên bàn ông nhà giàu rơi xuống cho no. Như vậy, dù chúng ta giàu hay nghèo mà sống trong ích kỷ và bất nhân thì sẽ lãnh hình phạt xứng đáng. Nếu biết thực thi bác ái, chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc trên Nước Trời.

Lạy Chúa, xin chớ để con phải ăn mày cũng đừng để con giàu có. Xin chỉ ban cho con hằng ngày dùng đủ. Kẻo khi giàu, con bị mê hoặc mà bỏ anh em hoặc khi túng thiếu con làm những việc sai trái làm ô danh Chúa. Amen.

 

.

VÔ CẢM VỚI NGƯỜI NGHÈO LÀ MỘT TỘI ÁC

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Mùa hè năm 2016, nhiều trang mạng đăng tải hình ảnh thương tâm của một bệnh nhân ở Sơn La chết, vì quá nghèo nên người nhà phải bó chiếu chở xe máy về quê. Hình ảnh đó khiến cộng đồng mạng xôn xao. Có ai đó đã tài khéo ghép tượng đài Hồ Chí Minh 1.400 tỷ ở tỉnh Sơn La với cảnh “người chết bó chiếu.” Bức ảnh này phản ảnh thực trạng bất công của xã hội Việt Nam hiện nay, một xã hội mà người ta có thể xây dựng “những tượng đài nghìn tỷ, nhưng sinh mạng con người thì như chiếc móng tay” (Cô giáo Trần Thị Lam).

1- Số phận nhà phú hộ và Ladarô

Bức ảnh trên cũng có gì đó tương tự với dụ ngôn về nhà phú hộ và anh Ladarô được Chúa Giêsu kể hôm nay. Hai nhân vật có cuộc sống hoàn toàn tương phản: nhà phú hộ thì một đời “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình,” còn Ladarô thì một đời nghèo khó, mình đầy mụt nhọt, khố rách áo ôm, ăn mày trước cửa đại gia. Tuy nhiên, số phận của hai người bị đảo ngược sau cái chết: nhà phú hộ phải chịu kiếp trầm luân; còn Ladarô được vào lòng Ápbraham hưởng hạnh phúc đời đời.

Dụ ngôn này được xếp vào loại “dụ ngôn nói về khủng hoảng đạo đức” trong xã hội. Trong đó, sự bất công, hố sâu phân cách giữa người giàu và người nghèo là quá lớn mà hậu quả người nghèo bao giờ cũng là những nạn nhân của xã hội. Thánh Luca muốn hướng tới một cuộc hoán cải bên trong để thay đổi cấu trúc xã hội nhằm mang lại sự bình đẳng cho con người. Chúng ta cần hiểu đúng ý nghĩa của dụ ngôn. Ở đây, Chúa Giêsu không có ý muốn nói rằng: tất cả mọi người giàu có đều bị kết án và đáng phạt trong hỏa ngục, còn tất cả những ai nghèo khó thì chắc chắn sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Chúa Giêsu cũng không lên án của cải và sự giàu có. Kitô giáo không cổ xúy cho sự bần cùng hóa con người và kết án những ai giàu có trong xã hội.

Trái lại, như chúng ta biết, của cải tự thân là ân sủng Chúa ban để giúp chúng ta sống đúng nhân phẩm của mình. Triết gia Công Giáo Blaise Pascal nói đến ba bậc của sự cao cả trong cuộc sống: bậc I thuộc giá trị vật chất và thể lý: của cải, sức khỏe, sắc đẹp tự thân nó có một giá trị không ai phủ nhận, ai cũng mong ước. Bậc II thuộc giá trị tài năng mà các nhà tư tưởng, các nghệ nhân, các thiên tài nắm giữ… tài năng họ khiến mọi người nể phục và ước ao. Nhưng đó chưa phải là bậc cao nhất. Bậc III thuộc giá trị tình yêu và ân sủng. Đây là bậc cao nhất, đẹp hay xấu, giàu hay nghèo không thêm không bớt gì nơi một vị thánh. Thánh thiện cao cả hơn tài năng và giàu có, khỏe mạnh.

Chúa Giêsu không lên án của cải vật chất và tài năng, nhưng Người tiếp nối truyền thống các tiên tri, lên án thái độ của những người chỉ biết hưởng thụ ích kỷ nhưng lại dửng dưng, vô cảm đối với người nghèo. Đó là một tội ác.

Trong bài đọc I, tiên tri Amốt lên án những người chỉ biết hưởng thụ, xa hoa mà không biết thương xót những người khốn khổ và tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho họ.
Trong dụ ngôn, người phú hộ bị trầm luân không phải vì một tội nào như tham nhũng, buôn lậu, hay bóc lột. Nhưng vì ông đã dửng dưng vô cảm đối với Ladarô nghèo khó. Như thế, dụ ngôn muốn gửi tới chúng ta thông điệp: Cuối cùng, Thiên Chúa sẽ xét xử chúng ta dựa trên những gì chúng ta thực thi cho người nghèo khó. Điều này được Tin Mừng thánh Mátthêu làm rõ trong tường thuật về ngày phán xét chung (Mt 25,35-45): “Những gì các ngươi làm cho những người bé mọn nhất, là các người làm cho chính Ta.”

Theo nghĩa này, thánh Gioan Kim Khẩu đã nói: “Không chia sớt của cải cho người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải là của riêng chúng ta, mà là của họ” (trích lại trong Evangelii Gaudium, số 57).

2- Người giàu và người nghèo hôm nay

Câu chuyện người phú hộ và anh Ladarô nghèo cho phép chúng ta liên tưởng đến bức tranh toàn cảnh thế giới hôm nay. Có lẽ hơn bao giờ hết, con người ngày nay có nhiều của cải vật chất, nhưng lại thiếu tình thương liên đới với nhau, của cải chỉ tập trung vào một số nước và một số người. Cơ chế kinh tế thị trường hôm nay càng tạo ra hố sâu ngăn cách ngày càng sâu giữa nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo, giữa nông thôn và thành thị. Chúng ta chứng kiến cảnh những ngôi nhà chọc trời bên cạnh những khu nhà ổ chuột và những người khố rách áo ôm, buôn thúng bán mẹt; cảnh những đại gia chi tiêu hàng chục triệu mua một chai rượu cho một bữa tiệc, trong khi đó có biết bao người ngày hai bữa ăn cũng không có; cảnh các quan chức có những cái bắt tay hàng tỷ bạc, trong khi có rất nhiều người đổ mồ hôi sôi nước mắt suốt ngày mà không đủ sống.

Nguyên nhân của sự bất công, bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo là do sự ích kỷ, vô cảm và tệ nạn tham nhũng. Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên tiếng về “thái độ vô cảm toàn cầu” này, đó là thái độ vô cảm vô can trước đau khổ và khó khăn của tha nhân. Giáo Hội chọn đứng về phía người nghèo để bênh vực và đồng hành với họ.

Sống trong một xã hội như thế, dụ ngôn hôm nay như lời thức tỉnh lương tâm ngái ngủ chúng ta trước thảm cảnh nghèo đói. Chúng ta được mời gọi cởi mở tâm hồn đối với những ai đau khổ, nghèo đói, bị thương tổn để giúp đỡ họ. Chúng ta hãy để cho dụ ngôn này đào luyện lương tâm mình để chúng ta có những cảm thức và nhạy bén với nỗi thống khổ của người nghèo giống Chúa Giêsu, cũng như biết đứng về phía họ để phục vụ theo đức ái Kitô giáo. Amen.

 

.

ÔNG NHÀ GIÀU VÀ LAZARÔ NGHÈO KHÓ

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Tin Mừng của Đức Giêsu là những bài học sống động dạy bảo con người.Lời của Chúa là ngọn đèn soi, hướng dẫn con người, nuôi dưỡng loài người. Những dụ ngôn, những ví dụ Chúa Giêsu đưa ra nhằm sửa đổi, răn dạy con người, luôn có một sức mạnh lớn lao biến đổi con người. Những trang Tin Mừng của thánh Luca là những trang tuyệt đẹp, gây ấn tượng vô cùng khó quên cho con người, cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, thánh Luca trình bầy dụ ngôn :” Ông Phú hộ giầu và Lazarô nghèo khó” là hình ảnh sống động, rất thực tế để răn dạy mỗi người chúng ta.

Chúa Nhật tuần trước dụ ngôn nói về “ Người quản gia bất lương “giúp chúng ta hiểu rất rõ đoạn Tin Mừng của thánh Luca :” Ông nhà giầu và Lazarô nghèo khó “. Hình ảnh thật tương phản giữa nhà Phú hộ giầu và Lazarô nghèo khó nói lên sự bi đát, tương phản mà chúng ta thường gặp trong xã hội con người.Đây là câu chuyện sống động, rất hiện thực trong thế giới muôn thời.

Ông Phú hộ giầu sang phú quý, ngày ngày yến tiệc linh đình rất tương phản với anh Lazarô quần áo, lem nhem, rách rưới,mình đầy lở chốc Sự tương phản này nói lên sự bất công của con người, giữa người giầu và người nghèo. Người giầu của cải đầy dư, kho lẫm lúc nào cũng đầy lương thực dự trữ, còn người nghèo, anh Lazarô không có lấy mụn bánh để ăn cho đỡ đói chứ đừng nói tới ăn no, ăn đầy bụng. Hình ảnh này làm chúng ta liên tưởng đến dụ ngôn “ Người con hoang đàng “. Tin Mừng viết:” khi phung phí hết tiền của “, người con đi hoang mới tự nhủ :” ở nhà Cha của anh thì giầu có, lương thực đầy dư, con anh ta phải chết đói ở đây, muốn có chút lương thực cho heo ăn mà thốn cho đầy bụng cũng chẳng ai cho “. Hình ảnh sống động, câu chuyện thực là bài học để đời cho mọi người.

Ông Phú hộ và Lazarô nghèo khó là dụ ngôn thực, đầy nét nhân văn giúp chúng ta hiểu được những mảnh đời gian nan, đau khổ, vất vả ở một cáiđời. Ông Phú hộ giầu có cứ tưởng ông sẽ sống mãi mãi, sẽ hưởng thụ suốt đời này qua đời khác.ông tưởng thế gian là vĩnh cửu, trường tôn. Ông tưởng sự giầu có là vĩnh viễn.Ông không hiểu mọi sự là tạm bợ, mau qua giống như hoa phù dung sớm nở chiều tàn. Ông không biết “ Cuộc đời là hư vô, tất cả đều là hư vô”.

Đùng một cái ông Phú hộ giầu và anh Lazarô nghèo khổ cũng lăn ra chết. Ông Phú hộ phải trầm luân nơi hỏa ngục đời đời, ông kêu van, khóc lóc nhưng tất cả đều quá muộn màng.Tội của ông là tội vô tâm, ông đóng cửa lòng trước những người nghèo.Ông làm ngơ trước nỗi đau của người khác, trước nỗi khổ nhục của tha nhân, không biết chia sẻ cho tha nhân, cho người khác.Lazarô được ngồi trong lòng Abraham. Anh đã được Thiên Chúa thưởng công.

Vâng, Lazarô đã phải chịu nỗi cay đắng, đau khổ của cuộc đời.Anh đã chấp nhận đời sống với tất cả đức tin, với tất cả sự cậy trông phó thác của mình. Tin Mừng của thánh Luca viết thực mỉa mai :” …Lazarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no…”( Lc 16, 21). Thật mỉa mai, thật đau khổ. Nhưng Lazarô đã được các thiên thần đem vào lòng tổ phụ Abraham.

Câu chuyện, còn mỉa mai hơn, khi ông Phú hộ giàu nài nỉ để có người chết về báo cho 05 đứa em của ông đang sung sướng như ông ở trần gian, nhưng lời kêu cầu đó thất bại vì họ đã có Lời Chúa và lời giáo huấn của Giáo Hội.

Câu chuyện sống động, nhưng cũng rất mỉa mai đối với những ai cậy mình giàu có mà quên đi những người nghèo khó.Chúa không bao giờ bần cùng hóa con người, làm nghèo xã hội nhưng Chúa dạy con người, chúng ta phải biết xót thương, quảng đại, chia sẻ. Bo bo giữ của, chỉ biết làm giầu cho bản thân mả vô tâm, đóng kín lòng trước người nghèo, không quảng đại, chia sẻ mà tưởng cuộc đời này sẽ trường tồn mãi mãi để họ một mình hưởng thụ.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng quảng đại, cảm thông, chia sẻ để chúng con luôn biết sống khôn ngoan như năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn mà lại mang theo dầu. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tội của ông Phú hộ giàu là gì ?
2.Lazarô là người thế nào ?
3.Trên thế giới này tài nguyên có được phân bổ đồng đều không ?
4.Chúng ta phải có thái độ nào đối với những người nghèo ?
5.Làm ngơ với người nghèo có tội không ?

 

.

BỐ THÍ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nhà cao cửa rộng thênh thang,
Một ông phú hộ, giầu sang tiệc tùng.
Mặc toàn gấm vóc vải nhung,
Ngày ngày yến tiệc, hưởng dùng thỏa thuê.
Trước nhà hành khất bò lê,
Mình đầy ghẻ chốc, ê chề tấm thân.
La-za-rô sống thanh bần,
Hằng ngày đói khổ, thân trần gớm ghê.
Chó con liếm ghẻ cận kề,
Mong tìm bánh vụn, kéo lê cuộc đời.
Lang thang vất vưởng một thời,
Kết cùng cuộc sống, một đời khổ đau.
Thiên thần đón tiếp mai sau,
Ông già phú hộ, trước sau cũng dời.
Ra đi tay trắng không lời,
Vào nơi khổ ải, lửa khơi bừng bừng.
Cực hình quằn quại không ngừng,
Thương thay số kiếp, vui mừng đã qua.
Không màng thương giúp người ta,
Sự lành đã hưởng, phôi pha tháng ngày.

Bài Phúc âm thánh Luca đặt chúng ta trước một cảnh thương tâm. Một người giầu có ăn mặc gấm vóc lụa là, yến tiệc linh đình và một người hành khất nghèo đói lả không nơi nương tựa. Hai người ở trong hai hoàn cảnh khác nhau. Sau khi mãn phần, phận số đời sau cũng khác nhau. Người nghèo nàn bệnh tật thì không do lỗi ở người giầu. Người phú hộ cũng không xử tệ, không xua đuổi và không làm hại chi người hành khất. Vấn đề là người phú hộ có mắt mà không nhìn thấu, ông đã không biết chia xẻ của ăn và tình thương với người khốn khổ. Đó chính là lỗi mà ông phải gánh chịu.

Sự chia xẻ cho người nghèo là hình thức bác ái tốt nhất. Bố thí thì chưa đủ, vì khi bố thí, chúng ta như thương hại họ và cho chút dư thừa. Trong cuộc sống chúng ta thường nói đến công bằng và bác ái. Công bằng là điều buộc chúng ta phải làm. Không giữ đức công bằng là có lỗi. Bác ái là điều không buộc, tùy lòng hảo tâm của chúng ta.

Truyện kể: Có một cô giáo dạy học bên trường sang gặp cha sở, cô kể một cách ngạc nhiên vì chuyện xảy ra trong lớp giáo lý. Khi dạy về công bằng và bác ái, cô cho các em thực tập qua câu hỏi: Người tín hữu có thể làm gì cho người hành khất, không nhà không cửa. Em thứ nhất trả lời: Chúng ta không phải làm gì cho người hành khất vì lỗi tại họ lười biếng. Bố em nói là tại lỗi của họ nên họ bị như thế. Em thứ hai nói: Mẹ em dặn, con phải sống xa những người sống bên lề đường, bởi vì họ hay bắt trẻ con và làm việc xấu. Em thứ ba tiếp lời: Bất cứ khi nào em đi với mẹ của em, mẹ luôn nhắc em nhìn sang phía khác và giả vờ như không nhìn thấy người ăn xin vệ đường. Không có một em nào trả lời một cách tích cực giúp đỡ người nghèo. Đó chính là ảnh hưởng của giáo dục gia đình.

Thường thì sự giầu có làm cho chúng ta xa dần với hoàn cảnh khổ của những người chung quanh. Khi chúng ta có tiền bạc thì chúng ta muốn tìm chỗ yên thân để hưởng thụ. Chúng ta không muốn bị người khác quấy rầy, nên xây tường cao và cổng kín. Đây cũng chính là tâm trạng chung của nhiều người. Chúng ta tìm nhiều lý do để khỏi phải giúp đỡ người khác.

Cho thì quý hơn nhận. Chúng ta cần cho khi chúng ta còn nhận. Một người giầu có cảm thấy buồn về lời dạy của Chúa về việc bố thí. Ông cầu nguyện để có thể chấp nhận sự dậy dỗ này. Càng cầu nguyện, ông càng buồn. Một hôm thiên thần đến an ủi, hỏi sao ông buồn thế? Ông trả lời: Tôi buồn vì lời dạy của Chúa về sự bố thí. Xem ra tôi phải bố thí suốt đời. Thiên thần nói: Không phải thế đâu. Ông chỉ cho khi Chúa còn cho ông. Nếu Chúa ngưng cho ông, ông sẽ không phải tiếp tục cho nữa.

Lạy Chúa, từng giây phút trong đời chúng con nhận lãnh hồng ân của Chúa. Xin cho chúng con biết tiếp tục chia xẻ ân huệ Chúa ban cho với anh chị em kém may mắn của chúng con.

 

.

MỘT LẦN NỮA, LỜI CHÚA LẠI NÓI VỀ CÔNG BÌNH XÃ HỘI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Am 6:1a, 4-7;  1 Tm 6:11-16;  Lc 16:19-31)

Các bài đọc hôm nay tiếp tục nói về công bình xã hội.  Chắc chắn đây là một đề tài nổi cộm của mọi thời đại và đó cũng là lý do Lời Chúa lập đi lập lại điều này.  Ngôn sứ A-mốt luôn là người mạnh dạn rao giảng sứ điệp về công bình xã hội, cho nên Phụng vụ Lời Chúa một lần nữa trích dẫn sứ điệp ấy, đặc biệt nhắm tới “bè lũ quân phè phưỡn” sẽ phải chịu sự phán xét chí công của Thiên Chúa.  Cũng tiếp tục nói về vấn đề công bình xã hội, Chúa Giê-su dùng một dụ ngôn rất thực tế để trình bày hai lối sống tương phản giữa một ông nhà giàu và người nghèo khó La-da-rô.  Kết cục câu chuyện là hậu quả bất hạnh đời đời dành cho kẻ sống ích kỷ hưởng thụ, trái nghịch với hạnh phúc vĩnh cửu dành cho kẻ “suốt đời chịu toàn những bất hạnh”.  Để rút bài học sống đức công bình xã hội, Lời Chúa dùng đoạn thư thánh Phao-lô khuyên nhủ môn đệ Ti-mô-thê “hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.

Trước hết chúng ta hãy nghe lời Thiên Chúa lên án những kẻ sống trái công bình xã hội.  Đó là những kẻ nào?  Là những kẻ cầm quyền và sống ích kỷ tại khắp Ít-ra-en, ở Giu-đê cũng như Sa-ma-ri.  Họ sống không chút quan tâm đến người khác và đến vận mệnh đất nước.  Hằng ngày họ nằm trên giường ấm nệm êm, mặc kệ người nghèo đói.  Họ ăn uống ê hề trong khi người khác đói khát.  Cho dù đất nước sắp rơi vào tay quân địch, họ vẫn vui chơi, rượu chè và tiêu xài hoang phí.  Tình trạng xã hội bất công ấy đã bị ngôn sứ A-mốt mạnh dạn lên tiếng tố cáo.  Từ Xi-on thuộc vương quốc Giu-đa, A-mốt được Thiên Chúa sai đi loan báo sứ điệp cho xứ lân cận là vương quốc Ít-ra-en phía Bắc.  Ngài loan báo hình phạt của Thiên Chúa và việc Ít-ra-en sẽ bị lưu đày vì lối sống trái đạo đức và làm mất lòng Thiên Chúa.  Các nhà lãnh đạo sẽ là những người “dẫn đầu những kẻ lưu đày” bị điệu đi làm tôi mọi cho đế quốc Ba-by-lon.  Tuy nhiên cuối cùng A-mốt lại loan báo một tin vui:  những kẻ khó nghèo luôn được Thiên Chúa phù hộ và ai tin tưởng vào Chúa sẽ không bao giờ phải tuyệt vọng.

Nếu ngôn sứ A-mốt đã trình bày sự tương phản giữa “những kẻ sống phè phưỡn” với những kẻ nghèo khó luôn tin cậy Thiên Chúa, thì trong bài Tin Mừng, Chúa Giê-su cũng nêu lên chính sự tương phản ấy khi Người kể dụ ngôn ông nhà giàu và anh hành khất La-da-rô.  Câu chuyện Chúa kể chia ra làm ba cảnh.  a) Cảnh thứ nhất là cảnh thực trên dương gian, xảy ra ngay nhà ông nhà giàu và là cảnh người giàu không có lòng nhân đối với người cùng khổ.  Quả là một khung cảnh tương phản không thể chấp nhận được:  ông nhà giàu thì “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”.  Nhưng ở ngay trước mắt khi ông đi ra đi vào là một người nghèo khó mang tên La-da-rô, một cái tên áp dụng cho ai cũng được.  Anh La-da-rô này thiếu thốn đủ điều, thèm được ăn những thứ trên bàn ăn của ông nhà giàu rớt xuống đất mà không được, mong có quần áo cũ để mặc cũng không ai cho.  Bạn của La-da-rô chỉ là “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc của anh ta”.  Anh đã bị xếp vào loại súc vật rồi!  Rồi cả hai người, ông nhà giàu lẫn La-da-rô đều chết.  b) Cảnh thứ hai:  ông nhà giàu ở âm phủ và anh La-da-rô ở trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham.  Bây giờ, sau khi chết mọi sự đều đổi ngược.  Ông nhà giàu thì rên rỉ xin tổ phụ Áp-ra-ham cứu giúp.  Ngài chỉ từ tốn trả lời ông:  “Con ơi, hãy nhớ lại:  suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi;  còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn bất hạnh”.  Ý của tổ phụ muốn nhắc nhở ông ta là khi còn sống trên đời ông ta đã sống ích kỷ, dù nhận được bao ơn lành của Thiên Chúa mà không muốn chia sẻ với những kẻ thiếu thốn.  Do đó, ông ta đã gieo nhân thì phải nhận quả, vì không ai có thể thay đổi được sự công bằng của Thiên Chúa cũng như không có lòng thương xót dành cho kẻ không biết thương xót người khác.  c) Cảnh thứ ba:  ông nhà giàu bắt đầu nghĩ đến người khác, nhưng cũng chỉ là “năm người anh em” của ông ta thôi!  Ông muốn “nhờ” tổ phụ Áp-ra-ham sai người đến “cảnh cáo” họ, để họ khỏi phải chịu khốn khổ như ông.  Kể ra ông ta cũng còn một chút “lo lắng” cho gia đình mình.  Nhưng tổ phụ trả lời:  Chúng đã có “Mô-sê và các Ngôn sứ” dạy dỗ cho chúng biết phải thực thi công bình xã hội rồi.  Ông nhà giàu nài nỉ lần chót:  Nếu có người chết trở về bảo cho họ biết thì họ sẽ sám hối và thay đổi lối sống.  Tổ phụ cũng khẳng định lần chót:  “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.  Người chết sống lại được nhắc đến ở đây chính là Chúa Giê-su Ki-tô đấy.  Ôi, không chịu nghe lời Chúa Giê-su thì họ (và chúng ta nữa) thực là hết thuốc chữa rồi!  Cũng đành kéo nhau xuống hỏa ngục thôi!

Sống sứ điệp Lời Chúa

Để sống sứ điệp Lời Chúa hôm nay, không gì tốt hơn là chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phao-lô nhắn nhủ môn đệ Ti-mô-thê trong bài đọc 2.  Ngài dạy anh hãy gắng trở nên người công chính đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến. Đối với người công chính đạo đức, lòng tin mến đối với Chúa và lòng bác ái đối với tha nhân là cột trụ của đời sống thiêng liêng.  Sống mà mến Chúa yêu người như thế chính là cách chúng ta xây dựng nền móng cho công bình xã hội vậy.  Ti-mô-thê là một vị lãnh đạo trong Giáo Hội mà còn được nhắc nhở như vậy, huống chi chúng ta là đoàn chiên Chúa chăn dắt!

 

.

TỘI THIẾU SÓT

Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Chúa nhật tuần trước Lời Chúa dạy “Hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu, để sau này họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời”. Hôm nay, Lời Chúa tiếp tục nói với chúng ta về việc sử dụng của cải, như là phương thế tốt đẹp, để sau này đạt tới ơn cứu độ.

Trong bài đọc I, tiên tri Amos nhân danh Thiên Chúa nặng lời chúc dữ: “Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu sang ở Sion. Các ngươi nằm trên giường ngà, ăn ngon, mặc đẹp, thế mà chẳng chạnh lòng thương những người khốn khổ.  Rồi đây, những bữa tiệc các ngươi sẽ không còn nữa”(Am 6, 1. 4-6).

Thái độ sống dửng dưng những người giàu sang, bên cạnh những người nghèo khó mà tiên tri Amos nói trên, là hình ảnh tiên trưng dụ ngôn trong Tin mừng hôm nay.

Trong dụ ngôn có hai người hai hoàn cảnh khác nhau. Nhà phú hộ trong trang phục lụa là gấm vóc;  Còn Ladarô thì rách rưới tả tơi. Nhà phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, sang sỉn chiều say; Còn Ladarô đói khát ước ao một chút bánh vụn từ bàn ăn rơi xuống mà cũng không có.

Nhà phú hộ sống trong lâu đài sang trọng; còn Ladarô sống cảnh màn trời chiếu đất trước cổng của nhà phú hộ, ấy thế mà ông không nhìn thấy Ladarô mình đầy ghẻ chóc đang lê lết trước cổng nhà ông. Ladarô rên rỉ đau đớn vì bệnh tật, mà ông cũng chẳng hay. Ladarô chết dần chết mòn, mà nhà phú hộ không một chút lòng thương xót.

Nhưng rồi, Ladarô chết trong cảnh nghèo đói cô đơn; còn nhà phú hộ chết trong cảnh giàu sang ấm cúng. Thế nhưng, số phận đời sau hai người rất đổi khác nhau. Nhà phú hộ rơi xuống biển lửa cực hình; còn Ladarô được Chúa thưởng ngồi trong lòng tổ phụ Abraham.

Tác giả Tin mừng không nói nhà phú hộ xua đuổi Ladarô ra khỏi lâu đài của mình; cũng không nói ông đánh đập, chửi mắng Ladarô, mà đơn giản là ông không chạnh lòng thương xót Ladarô đói khổ. Chẳng bao giờ ông nghĩ mình được Chúa thương ban cho giầu có, suốt đời gặp những sự lành; còn Ladarô kia hoàn cảnh bất hạnh đáng thương, thế mà trái tim nhà phú hộ không chút cảm thương. Cho nên, nhà phú hộ không phải vì giàu có mà rơi xuống biển lửa, nhưng bị phạt vì tội thiếu sót, tội làm ngơ, tội không quan tâm đến người khác, không làm những gì lẽ ra phải làm.

Chính khi nhà phú hộ đóng cửa lòng mình lại, thì cửa thiên đàng cũng sẽ đóng lại với ông. Ladarô không phải vì nghèo khó mà được Chúa thưởng, nhưng nhờ ông biết chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và cậy trông vào tình thương xót của Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến,

Nhìn vào thế giới hôm nay, con người quá ư là văn minh tiến bộ vượt mức. Thế nhưng, dường như trái tim con người lại nhỏ bé hơn, lòng con người hẹp hòi ích kỷ hơn, do chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ, chỉ lo vun đắp cho mình hơn lo cho người khác. Chính vì thế, thánh Gioan Phaolô II đã nói: “Đó là nền văn minh của sự chết “.

Mặc dầu thế giới văn minh như thế, nhưng vẫn còn ở nhiều nơi thiếu thốn lương thực. Đức Chúa Trời tạo dựng nên vũ trụ này, tài nguyên thiên nhiên Chúa ban dư đầy, thì không thể nào con người phải thiếu thốn. Ấy thế mà tại sao vẫn còn tình trạng đói khát như thế? Thưa, bởi vì con người thiếu tình thương xót với nhau.

Mỗi năm những nước giàu có đổ xuống biển biết bao nhiêu tấn lương thực, do thừa mứa, do hết hạn sử dụng, mà không viện trợ cho những đất nước nghèo. Rồi hơn 80% của cải được gởi trong ngân hàng, cất giữ trong két sắt, của những nhà tỉ phú, những ông đại gia…

Người ta bỏ ra bao nhiêu tiền của, để đầu tư vào những vũ khí tối tân, những thiết bị y tế, nhằm bảo vệ đất nước, bảo vệ mạng sống con người, nhưng người ta lại ác tâm giết chết những thai nhi vô tội nằm trong dạ mẹ.

Người ta bỏ ra bao nhiêu thời giờ, bao nhiêu tiền của đi du lịch nước này, nước nọ chơi được; nhưng lại khó lòng dành ra một chút thời giờ bước sang nhà bên cạnh, để thăm bệnh nhân đang cần một lời kinh hay một lời an ủi trong giờ sau hết.

Có khi người ta không chết vì chén cơm manh áo, nhưng người ta lại đói tình người, đói sự quan tâm chia sẻ với nhau. Cho nên, thế giới ngày nay, con người rất những chén cơm yêu thương, những tấm áo tình người, những ly nước của lòng thương xót.

Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, chúng ta cần xét lại đời sống đạo của mình. Nếu anh chị em đọc kinh dự lễ hằng ngày mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của tha nhân… thì e rằng chúng ta mắc tội thiếu sót, đây là một trong bốn tội mà trước mỗi thánh lễ, ai trong chúng ta đều đấm ngực xưng thú: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”.

Ngày giờ sau hết, Chúa không hỏi chúng ta đi một ngày bao nhiêu lễ, đọc mỗi ngày bao nhiêu kinh, hay đi hành hương mỗi năm bao nhiêu lần…. nhưng Ngài chỉ hỏi chúng ta một điều duy nhất đó là: con có yêu mến Ta không? Và thước đó lòng yêu mến Chúa được căn cứ vào đức bác ái đối với tha nhân mà thôi.

Ước gì, khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta được gặp thấy lòng thương xót và nghe những lời mời gọi của Chúa: ” Hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp là sự sống đời đời đã dành sẵn cho các ngươi, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta bệnh tật các ngươi viếng thăm… hãy vào hưởng sự vui mừng hạnh phúc với Ta”. Amen.

 

.

THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THƯỞNG PHẠT CÔNG BẰNG

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Câu chuyện của bài dụ ngôn Tin mừng lại tiếp tục chủ đề sử dụng của cải tài sản trong cuộc đời hiện tại. Có một sự thay đổi triệt để và chung cuộc ở cuộc đời sau cái chết. Người phú hộ giàu có sung sướng rồi sẽ phải đau khổ trầm luân sau cái chết, trái lại người nghèo khổ Lazarô rồi sẽ được hưởng hạnh phúc viên mãn mai này.

Truyền thống Kitô giáo, tiếp nối truyền thống Do thái giáo, đã có những hiểu biết rất mạch lạc và lý luận chặt chẽ về chủ đề sử dụng tiền của trong cuộc đời hiện tại. Trong cái nhìn đức tin, các tiên tri luôn có những cái nhìn sắc bén về thời đại mà các ngài đang sống. Trong khi mọi người bằng lòng với những sự giàu có hưởng thụ vật chất, nào là “nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên trường kỷ, xức dầu thơm hảo hạng…. và chẳng thương hại gì tới nổi băn khoăn của Giuse”, thì  tiên tri Amos đã thoáng  thấy ở chân trời những thảm họa của một cuộc tận diệt do đế quốc Assyria mà sức mạnh và sự trừng phạt của nó sẽ rất ghê gớm : “giờ đây họ phải đi lưu đày, và đi đầu những kẻ lưu đày… Những yến tiệc của kẻ buông tuồng sẽ không còn nữa”. Nhưng giải thích cho cùng thì chính Thiên Chúa mới là Đấng chủ tể tối cao và người để cho  đế quốc Assyria trừng phạt Dân của người. Vào thời tiên tri Amos, vương quốc phía Bắc được hưởng một thời kỳ phồn thịnh kinh tế kéo dài. Triều đại của nhà vua Giêrôbôam II kéo dài tới 40 năm, từ năm 783 tới 743, vương quốc mở rộng và càng lúc càng giàu có phồn thịnh với triều đại kéo dài cho thấy sự bình an thịnh vượng của vương quốc, lúc mà nhiều người giàu cảm thấy bình an và bằng lòng với những gì họ đang thụ hưởng. Trong hoàn cảnh như thế, với sứ điệp của tiên tri Amos, lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện thành ngữ “ngày của Giavê”, ám chỉ cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đối với dân của người vì những bất công xã hội mà những người giàu có trong xã hội chà đạp trên hạng người nghèo khổ. Giavê là Đấng chủ tể hoàn vũ và chủ tể mọi dân tộc sẽ trừng phạt nặng nề đối với Israel vì đời sống xa hoa và những thực hành mất công bằng của họ.

Câu chuyện dụ ngôn của bài Tin mừng là giải thích rất thẳng thắn của Chúa Giêsu đối với các môn đệ và mở rộng cả với những người biệt phái vốn quen với quan niệm thông thường trong xã hội do thái là sự giàu có đầy đủ ở đời này là dấu chỉ sự chúc lành của Thiên Chúa và là dấu chỉ đời sống luân lý ngay thẳng. Chúa Giêsu cho thấy một cái nhìn sắc bén về một sự đảo lộn mọi hoàn cảnh trong dự định cứu độ của Thiên Chúa, và những sự giàu có bề ngoài không làm chứng điều gì như người ta vẫn nghĩ, nó chỉ có tính cách giai đoạn hạn hẹp của đời sống con người mau qua sánh với cuộc đời vĩnh cửu sau này. Lề luật và các tiên tri vốn là những bản lề quan trọng quyết định trong tư duy của người do thái, giờ đây phải được cập nhật bởi một sự đánh giá mới quyết định bởi Chúa Giêsu, vị tiên tri cao cả của Thiên Chúa có thẩm quyền giải thích lề luật và khai mạc triều đại mới mẽ của Nước Thiên Chúa. Lời rao giảng này mời gọi mọi người phải có một cung cách mới mẽ quyết định trong thái độ của mình đối với việc sử dụng của cải vật chất.  Câu chuyện dụ ngôn về người phú hộ  và Lazarô nghèo khổ trình bày hình ảnh của một con người giàu có, được đánh giá cao đối với cái nhìn thông thường của người do thái, ăn mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, lại trở nên rất lạc hậu so với thời cuộc mới mẽ mà Chúa Giêsu đang thiết lập. Trong khi ông vẫn bình an hưởng thụ mọi tiện nghi vật chất, vẫn an nhàn trong tư duy cố hữu của mình như sự giàu có nhiều của cải là sự chúc lành của Thiên Chúa, thì ngoài kia, mọi sự đang bắt đầu thay đổi nhanh chóng, sứ điệp những người nghèo khổ, bị khinh miệt sẽ là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Thiên Chúa đang được công bố với vị tiên tri cao cả  là Chúa Giêsu, Đấng đang thực hiện và hoàn tất những gì đã được Lề luật và các tiên tri loan báo.

Người phú hộ này là hình ảnh của một con người lạc hậu so với thời cuộc, sử dụng của cải một cách tưởng là thời thượng nhưng lại rất sai lầm: ngày ngày yến tiệc linh đình, mặc toàn lụa là gấm vóc. Trong khi đó người nghèo Lazarô trong mô tả của câu chuyện dụ ngôn thì không thấy có nhân đức nào ngoài thân phận nghèo khổ bất hạnh bi đát. Câu chuyện như làm vọng lại sứ điệp đã được công bố về Hiến chương Nước Trời với những mối phúc dành cho những người nghèo khổ, đói khát, khóc lóc và những lời đe dọa đối với những người giàu có, no đủ, sung sướng. Một sự thay đổi đảo lộn sẽ diễn ra bởi vì chính Thiên Chúa là Đấng sẽ trả lại sự công bằng ngay thẳng cho những người đã phải chịu những đau khổ thiếu thốn trong cuộc đời hiện tại. Thánh vịnh 145 trong bài đáp ca làm vang vọng sứ điệp cứu độ giải thoát của Thiên Chúa dành cho những người nghèo khổ : “Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.” Sứ điệp của bài dụ ngôn chỉ là khẳng định lại giá trị của nền luân lý tinh tuyền của sách Lề luật và các tiên tri mà không ai có thể cho phép mình bỏ qua hay không biết. Sách đệ nhị luật (15,7-11)  đã viết: “Nếu ở nhà ngươi có người nghèo khó… ngươi không được cứng lòng và không được khép kín bàn tay không giúp đỡ người nghèo khó này. Ta truyền cho ngươi: ngươi phải mở rộng bàn tay cho người anh em nghèo khổ ở trong xứ sở của ngươi”. Câu chuyện mang nhiều nét được hình dung theo văn hóa do thái, như sau khi chết thì người phú hộ phải ở trong hỏa ngục đau khổ bị lửa thiêu đốt và Lazarô thì được hạnh phúc ở trong lòng tổ phụ Abraham.  Điều được khẳng định mạnh mẽ qua câu chuyện là giờ đây số phận đã thay đổi quyết định, và dù người phú hộ có là con cháu Abraham đi nữa, thì quan hệ ruột thịt này cũng không thay đổi gì được tình thế đã được an bài và mỗi người phải chấp nhận định mệnh mà mình đã tự quyết định trong cuộc đời tại thế. Câu chuyện còn nêu lên một khẳng định nhắc nhở khác khi gợi ra lời cầu xin của người phú hộ, xin phép tổ phụ Abraham cho Lazarô trở về nhắc nhở năm người em còn sống vì ông nghĩ rằng nếu có người chết trở về nhắc nhở thì họ sẽ tin. Nhưng lời thỉnh cầu này cũng bị từ chối dứt khoát vì nếu những người này không nghe lời Lề luật và các tiên tri, họ cũng không bao giờ nghe lời người chết trở về nhắc nhở.

Lời khuyên của thánh Phaolô đối với Timôthêu trong bài đọc thứ hai cũng là lời nhắc nhở cho mọi người: hãy luôn giữ vững đức tin của mình trong mọi giao động của cuộc đời. Có lẽ vào lúc bấy giờ, Phaolô hình dung Chúa Giêsu sẽ trở lại trong một thời gian gần, vì thế điều quan trọng là phải sẵn sàng trong đời sống của người tín hữu, cố gắng thực hành những nhân đức nền tảng của người tín hữu là đức tin, đức ái, đức nhẫn nại và hiền lành; và đời sống đức tin của người tín hữu là một cuộc chiến đấu với chính nghĩa là đức tin để đạt được cuộc sống đời đời. Phaolô nhắc lại gương mẫu sống động là hình ảnh Chúa Giêsu đứng trước toà án Philatô. Người đã vững vàng trong cuộc chiến đấu của đức tin đến hơi thở cuối cùng và trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta, Người sẽ trở lại tràn đầy vinh quang mà chúng ta sẽ dự phần với người.

 

.

TRÁI TIM TÌNH NGƯỜI

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

KHOẢNG CÁCH VẬT CHẤT

“Trong lịch sử, chưa bao giờ nhân loại đạt được một sự bình đẳng dù ở bất cứ một mức độ tương đối nào, nhưng những gì đang tồn tại, thực sự gây nên những mối lo ngại lớn” (Theo nghiên cứu lịch sử kinh tế thế giới 2000 năm qua, The World Economy: History Statistics).

“Mối lo ngại” trước tiên chính là khoảng cách ngày một xa giữa người nghèo và người giàu, giữa nước giàu và nước nghèo. Đó là điều tồi tệ không mong gì cải thiện được.

Lướt qua số liệu tổng kết khoảng cách giữa các nước kém phát triển và các nước phát triển – giữa dân nghèo và dân giàu – càng lúc càng tăng cao, chúng ta mới thấy rõ đúng là “mối lo lớn” thật sự. Nếu năm 1820 khoảng cách là 3:1, sau 30 năm là 35:1, và đến năm 2002 đã là 75:1.

Khoảng cách giàu – nghèo tiếp tục gia tăng

Cuộc đấu tranh vì công bằng của nhân loại hẳn còn cả chặng đường dài: báo cáo mới của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD – Organization for Economic Cooperation and Development) cho thấy khoảng cách giàu – nghèo ở 30 nước giàu nhất vẫn tiếp tục tăng trong 20 năm qua, đặc biệt là ở Mỹ. Các tiến bộ về thương mại và kỹ thuật đã giúp kinh tế các nước thành viên OECD phát triển nhanh chóng, nhưng đời sống tầng lớp thấp không cải thiện là mấy.

Nghiên cứu trong suốt 20 năm của OECD cho thấy có đến 27/30 nước có tình trạng thu nhập người giàu thì tăng trong khi nhóm còn lại giậm chân tại chỗ. Mỹ là nước có tỉ lệ chênh lệch giàu nghèo cao nhất, chỉ sau Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, và khoảng cách này đã tăng nhanh kể từ năm 2000 tới nay. Pháp trong khi đó giảm được phần nào sự bất bình đẳng này khi công nhân nghèo đã được trả lương tốt hơn. Ở Mỹ, 10% người giàu nhất thu nhập trung bình 93.000 USD/năm (cao nhất trong OECD) trong khi 10% người nghèo nhất chỉ thu nhập 5.800 USD/năm, thấp hơn khoảng 20% so với mức trung bình của OECD. Nhóm 10% giàu nhất chiếm tới 71% tài sản của toàn bộ nước Mỹ. Thu nhập 10% giàu nhất ở Pháp là 54.000 USD/năm so với 9.000 USD/năm của 10% nghèo nhất. Con số tương ứng ở Nhật Bản là 60.000 USD và 6.000 USD.

Đằng sau sự văn minh của thế giới, vẫn là thiên tai, ô nhiễm, dịch bệnh, cái nghèo cùng cực và chết đói. Đằng sau sự hào nhoáng của các quốc gia đều là những mảng tối. Chiếc bánh kinh tế toàn cầu đã nở phồng lên theo tỷ lệ chưa từng thấy, nhưng đáng buồn là người giàu đã ăn hầu hết phần bánh này. Họ dùng cả quyền lực để bảo đảm phần béo bở nhất và chỉ nhường phần vụn thừa rơi rớt cho người người nghèo đói (góp nhặt từ Internet).

Đó là câu chuyện Phú ông và Lagiarô thời đại.

KHOẢNG CÁCH TINH THẦN

Khoảng cách tinh thần: đó là sự “lạnh lùng” đáng sợ của một bộ phận đông đảo những người giàu có. Sự ấm áp đã làm cho họ không thể hiểu nổi thế nào là băng giá. Sự no đủ đã làm cho họ không thể hình dung được thế nào là đói khát. Sự hưởng thụ sung túc đã làm cho họ không thể tưởng tượng được thế nào là cùng khổ.

Ánh mắt của đa số những người giàu có luôn chỉ có một hướng nhìn về “thế giới thiên đàng vật chất” và họ chìm đắm trong mơ ước không ngừng vươn lên cao hơn nữa trong khoái lạc riêng tư với niềm tự hào, tham vọng, và cả lòng ganh tỵ đua chen.

Họ bỏ mặc – hay không còn nhận ra – một thế giới khác đang ở ngay bên cạnh họ. Thế giới của một Lagiarô cùng khổ và cực kỳ bất hạnh. Có khi không phải họ khinh miệt người cùng khổ, thật ra – và là điều đáng sợ – họ quên sự hiện diện của người cùng khổ đang cùng sống với họ trên hành tinh này.

Họ sống trong thế giới hiện thực đầy no thỏa và hóa thân thành thần thánh đầy hạnh phúc trong thế giới thiên đàng ảo – thế giới giàu có vật chất và dư đầy hưởng thụ – cho đến một ngày nào, khi tài khoản thời gian của họ đã hết. Đó là lúc họ mới nhìn thấy thế giới của Lagiarô, một thế giới thần thánh hiện thực mà Lagiarô đã vươn đến được từ thế giới cùng khổ với một đời bất hạnh luôn đói khát no ấm và tình yêu. Nhưng khát vọng ấy Lagiarô đã không tìm thấy được trong thế giới hữu hình mà Lagiarô đã trải qua.

Bây giờ, khi ông nhà giàu chết, ông mới bước vào một thế giới thật – đây mới là thế giới thật! – Ngỡ ngàng nhận ra đây không phải là Thiên Đàng sau những tháng ngày sống trong cõi thiên thai của “thiên đàng ảo” đã tan biến!

Bây giờ, họ – những con người của thế giới phú hộ – mới nhận thấy Lagiarô từ xa. Con người bần cùng, mà trước đây – và cũng là thế giới bần cùng mà trước đây – đã ở ngay bên cạnh họ, ngay trước mắt họ, chỉ cần bước một vài bước là đã thấy, chỉ cần cúi xuống một chút là đã chạm tới – nhưng họ đã không hề biết đến! “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh Lagiarô trong lòng tổ phụ”(Lc.16,23).

Trên đỉnh cao của sự sang trọng, giờ ở tận cùng của sự đọa đày, những con người như nhân vật phú ông mới ngộ ra được thế nào là đau khổ tận tâm cang. “Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”(Lc. 16.19-31).

LẠC LỐI

Trong nơi đọa đày, phú ông mới biết mình đã lầm đường lạc lối.”Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lagiarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’” (Lc. 16.27-28).

Có phải vì thiếu thông tin, thiếu sự hướng dẫn, thiếu giáo huấn, mà phú ông đây “sa vào chốn cực hình” không? – Chắc hẳn là không rồi.

Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã đặt để Giáo Huấn Tình Thương của Ngài trong lòng trí con người. Thiên Chúa không ngừng Giáo Huấn con người tiệm tiến theo thời gian. Cho đến khi Ngài chọn Dân Riêng của Ngài để ban tặng cho con người Đấng Cứu Thế. Nhưng Lịch Sử Cứu Độ cho thấy con người đã nhiều lần “để ngoài tai” lời răn dạy của Chúa. Và lịch sử con người cũng chứng minh con người luôn nuôi tham vọng riêng mình, sống ích kỷ chỉ vì bản thân, không biết chia sẻ và yêu thương đùm bọc lẫn nhau. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó’. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,29-31).

Trong Khổng Tử Gia Ngữ có kể một câu chuyện:

Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, khi được quyền nhiếp chính chức vụ tể tướng, nét mặt có vẻ vui mừng. Trò của ngài là Trạng Do liền hỏi:

– Do này vẫn được nghe là những người quân tử, thấy tai họa đến cũng không sợ, thấy hạnh phúc tới cũng không vui mừng, thầy mới được có địa vị mà vui mừng như thế là cớ làm sao?

Khổng Tử đáp:

– Phải có câu nói ấy thực, nhưng há chẳng có câu nói rằng: “Người ta vui vì được đem địa vị cao quí của mình mà hạ xuống cùng với mọi người sao?

Giới Luật Yêu Thương đòi hỏi sự chia sẻ trong tình liên đới giữa người với người. Tội lỗi không chỉ là lánh xa những điều độc ác, mà còn phải làm những điều chân thiện. Dân gian cũng có câu: “làm lành lánh dữ”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).

Câu chuyện phú hộ và Lagiarô vẫn còn tiếp diễn trong thế giới hôm nay. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,31).

Còn hơn thế nữa, chính Đấng Cứu Thế đã đến với nhân loại. Giáo Huấn Tình Thương của Ngài đem đến cho con người sự an bình và dịu ngọt biết bao! Thế nhưng, vẫn còn đó “những người giàu có” lạnh lùng trước những “Lagiarô” đầy đau khổ và bất hạnh. Trong rất nhiều hoàn cảnh, Giới Luật Yêu Thương vẫn còn nằm bên lề cuộc sống.

Nhưng, dù thế nào đi nữa, người Kitô-hữu chúng ta vẫn luôn sống trong hy vọng. Ánh sáng Tin Mừng vẫn tiếp tục chiếu soi trong thế giới tối tăm này. “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga.1,5).

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống tình liên đới bằng con tim rộng mở, để biết chia sẻ với đồng loại nhân danh Tình Yêu Thiên Chúa. Amen.

 

.

NIỀM HY VỌNG CỦA NHÂN LOẠI

Lm. Bùi Quang Tuấn

“Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn “Phú ông và Lazarô.”

Hai con người rất gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống. Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày yến tiệc linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong thiên đàng dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.

Thế giới của hai người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau vô cùng. Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới người nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh “lau tay” đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn “có lòng” hơn phú ông khi không “cắn gậy ăn mày,” nhưng đến liếm các mụn ghẻ cho anh ta.

Thời xưa, trên các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau tay như ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang trọng hay trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên những miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh “lau tay” mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ, vô tình.

Nhưng rồi cái chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được đưa lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh thánh muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ được hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo khổ cũng chưa chắc là tấm vé thiên đàng.

Ân phúc là việc người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật “ăn mày” trong dụ ngôn trên. Lazarô có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi.” Như thế, kẻ ăn mày này đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù đang nghèo rớt mồng tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho anh ta ơn phúc làm con tổ phụ Abraham–cha những kẻ tin.

Còn người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?

Thái độ đáng trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải vì người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm gì cả cho kẻ khốn cùng.

Không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không hề vương vấn đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được.

Người nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn vì sự giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.

Một nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:

Một là nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.

Hai là nó khép kín lòng mình với tha nhân: người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay bên cổng nhà mình.

Hoả ngục chính là sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời sau người ta sẽ hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng: “Con người đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này”(Noel Quesson).

Nếu tôi yêu mến và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm đến việc chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp đời đời cho tôi.

Dụ ngôn “Phú ông và Lazarô” là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, say hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.

Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: “Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể chúng ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả chúng ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ theo những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực cho việc phán xét sẽ được đưa ra.”

“Chúng ta phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của nhân loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và Ngài sẽ nói: “Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta.”

“Kẻ bé mọn” không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là những ai đang thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng không ít người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai trao ban.

Thế nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy rộng mở cho yêu thương và sẻ chia.

 

.

HÃY NGHE CÁC NGÀI

Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian (16,19-21); – Số phận của hai người sau khi chết (16,22-23); – Tình trạng cực hình của người giàu có (16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc sử dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời nầy qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên kia. Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người khiêm hạ và người quyền thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6,20-26), và ở đây giữa người giàu và người nghèo (16,19-31).

Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian

Trong hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản nhau: một người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của người nầy được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x. Mc 15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ “mang” ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc”, euphrain#, cũng kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).

Tương phản với người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói “tên là” (1:5.13.26.27.31…), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, tên “Lazarô” có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có: đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng (15:16). Động từ “ước muốn” nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo dài. Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn rơi xuống. “Cái bàn” gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.

Số phận của hai người sau khi chết (16:22-26)

Đoạn nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người giàu có và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả cuộc sống sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống của người giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như người nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau. Lazarô được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có “được chôn cất”. Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8). “Lòng Abraham” là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18; 13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó có Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38). Trong khi đó, người giàu có “được chôn cất”, ám chỉ ông nằm giữa những kẻ chết (x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói “trong âm phủ” (c. 23). “âm phủ” là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch với “âm phủ” là trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).

Tình cảnh khốn khổ của người giàu có (16:24-31)

Nội dung của phân đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30). Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình bày thêm.

Lời thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): “xin thương xót tôi” (c. 24). Lời nầy trong Luca chỉ xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39), và mười người phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa như những người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo ngược. Trước đây ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực hình, odynaomai, giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ. Trước đây, ông nằm trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy Lazarô, và nài xin một giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.

Trong câu trả lời của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ “hãy nhớ lại”. Ông nói đến “điều tốt” và điều xấu”, như là sự tương phản giữa hai người (c. 25). “Điều tốt” ở đây là của cải đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, “bây giờ” hai người. Động từ “an ủi” (c. 25) nhắc lại lời “Khốn cho các người giàu có, vì các người đang được an ủi” (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời nầy, thì đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một trong những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự phân cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một “vực thẳm” “được đặt ra” (ở thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua lại với nhau được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với Abraham.

Lời thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến bản thân nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình. Bởi đó, ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh em của ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi khốn khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi ấy, chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh “Hãy nghe” phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách gián tiếp là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không để ý đến những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan tâm nghe lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm đến sự giàu có và sự thụ hưởng của ông.

Lời thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa cho anh em nhà của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ “hoán cải” nếu như được người chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép lạ, mà bởi lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện ra chỉ vô ích mà thôi.

Luca sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là phân phát cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian không là tất cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời sau, phải thi hành ý Thiên Chúa hôm nay.

 

.

RA KHỎI THẾ GIỚI NHỎ HẸP CỦA LÒNG MÌNH

Lm. G. Nguyễn Cao Luật

Những bức tranh tương phản

Tin tức trên báo chí cho biết: khoảng vài phần trăm dân số địa cầu nắm giữ gần hết tài nguyên của thế giới, trong khi đa số dân còn lại chỉ được hưởng dùng một số nhỏ. Hố phân cách giữa các miền của thế giới càng lúc càng rộng thêm, số người giàu chỉ tăng lên rất ít, còn số người nghèo càng lúc càng tăng lên rất nhiều. Hình ảnh đó là một sự kiện rõ ràng của thế giới hôm nay, và cũng xuất hiện tại nhiều quốc gia, nhiều vùng đất, nhất là tại các thành thị.

Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay nêu lên một bức tranh với nhiều mầu sắc tương phản. Hình ảnh được vẽ lên là những thế giới đóng kín, những vũ trụ tách biệt, với những vực sâu ngăn cách. Từ thế giới này sang thế giới kia, không có mối liên lạc nào: mọi cây cầu đã bị phá đỗ.

– Bức tranh thứ nhất: Cuộc sống thường nhật. Một người giàu, ăn mặc sang trọng, yến tiệc linh đình ; và một người nghèo tên là La-da-rô, không có gì che thân, không có gì để ăn. Người giàu ở trong nhà và người nghèo ở ngoài cổng. Ở giữa, một cánh cửa đóng kín.

Người giàu không có tên. Chỉ biết rằng ông ta có nhiều của cải, nhiều đến dư thừa. Thái độ, cách cư xử của ông: không để ý đến ai khác, ngay cả người nghèo đang ăn xin ở cổng nhà.

Còn người nghèo có tên là La-da-rô, có nghĩa là Thiên Chúa giúp đỡ. Anh sống mà dường như đã chết. Thế nhưng anh bị đói, anh đợi chờ và mong ước được sống. Cuộc sống của anh có những lỗ hổng và vì vậy, Thiên Chúa có thể can thiệp.

Khi cái chết phủ xuống: người giàu được đem chôn, còn người nghèo được đem lên trời.

– Bức tranh thứ hai: Tại thế giới kẻ chết: trời cao và âm phủ. Người nghèo được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham: anh đã chết, mặc dù chưa được hưởng điều Thiên Chúa hứa ; nhưng anh đã thấy từ xa và đón chào các điều ấy, vì đã xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất (x. Dt 11,13).

Còn người giàu phải chịu muôn vàn đau khổ. Ông muốn được hiệp thông, muốn được chia sớt một giọt nước, nhưng không thể được: không có lối qua, dù đó là vì lòng bác ái, dù đó là những người đang thèm khát. Giữa hai thế giới có một vực sâu, một vực sâu rất lớn. Trước kia người nghèo không có gì cả: anh chỉ chờ đợi và khát mong được sống ; người giàu thu hẹp đời mình vào trong những của đang nắm giữ. Bây giờ thì ngược lại, nhưng không còn thay đổi gì được nữa.

– Bức tranh thứ ba: Vẫn tại thế giới kẻ chết. Và ở phần cuối là cuộc sống con người trên trần gian, nơi năm anh em của người giàu đang sống. Giữa hai thế giới này, có thể thông thương được. Thế nhưng chỉ là điều vô ích, vì tâm hổn của những con người đang sống ấy đã bị đóng kín.

Và dụ ngôn kết thúc với một câu nói có liên hệ đến con người thời nay: “người chết có sống lại, họ cũng chẳng tin đâu.”

Cuộc sống trần gian chưa phải là tất cả

Dụ ngôn trước hết nhắm đến quan niệm sai lầm của những người biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruổng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Ở trần gian này, nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn nếu ngược lại, thì chính vì con người đã phạm tội. Đó là nguyên nhân người biệt phái chế giễu Đức Giê-su vì Người đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này của Đức Giê-su gây ra mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ. Dụ ngôn đã khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.

Thịnh vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa, cũng như nghèo khó không phải là kết quả của sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruổng bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.

Vì thế, không nên căn cứ vào một vài chi tiết của dụ ngôn để rút ra những hệ luận thiêng liêng: chẳng hạn các hình khổ dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiện những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh. Việc người nghèo an nghỉ trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham cũng thế …

Đàng khác, dụ ngôn còn muốn cho thấy rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan gì tới trạng thái tâm hổn. Người ta vẫn thường cho rằng người giàu có, ăn sung mặc sướng là người biết tổ chức tốt cuộc đời của mình, và người ta thương hại kẻ nghèo phải sống lệ thuộc vào người khác, không có khả năng thoả mãn những ước vọng ở đời. Tuy nhiên, Thiên Chúa không xét đoán như thế. Đây là một trong những quy tắc nền tảng của Ki-tô giáo.

Như vậy, dụ ngôn không hề có ý mô tả cuộc sống tương lai cũng như tình trạng đời này. Dụ ngôn muốn chứng tỏ rằng cuộc sống hiện tại của người giàu chẳng có giá trị gì cả. Chính sự hiện diện của người nghèo nói lên điều đó: anh đã muốn phá vỡ nếp sống an toàn giả tạo của người giàu, kêu mời sự hiệp thông, nhưng không được, và thế là hết …

Kể cả người chết sống lại

Không có ai, kể cả người chết sống lại, có thể buộc một người đang sống phải yêu mến. Lời Chúa, luật lệ và các ngôn sứ đã trình bày rõ ràng những điều gì cần được thực hiện. Mặc khải đã có sẵn, cuộc đời là nơi duy nhất để cho những điều đó thành hiện thực.

Hoàn cảnh sống ở đời chưa phải là tất cả. Vực sâu lớn nhất của cuộc đời chính là từ khước yêu mến.

Chỉ có thái độ quan tâm để ý đến người khác mới có thể tạo nên những cây cầu, những lối đi để từ đó đưa đến sự hiệp thông, đến tình liên đới.

Khi biết quan tâm đến những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đang được bày tỏ trong cuộc đời con người ; khi biết lắng nghe lời giáo huấn của tổ phụ Áp-ra-ham cũng như của các ngôn sứ ; khi biết để ý đến người khác, dù chỉ là những cái nháy mắt, những lời thì thầm, và khi biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa torng những biến cố, thì tất cả đều thay đỗi, tất cả đều dễ thương, tất cả đều trở thành cơ hội để hành động.

Biết để ý quan tâm, biết nhạy cảm, đó là biết bước chân ra khỏi lòng mình đang bị đóng kín với nỗi trống rộng của riêng mình.

Vậy mà, trong cuộc đời, vẫn có biết bao rào cản đã được dựng nên ; vẫn có những người đi qua cuộc đời một cách vô tình, không cần chú ý đến ai khác, vẫn có những tiếng kêu than bị bỏ quên, vẫn có những lời cầu cứu không được đáp trả … Người ta vẫn thường dành nhiều thời giờ để bảo vệ mình hơn là để ý đến người khác. Người ta vẫn không ngừng xây những bức tường kiên cố để che chắn cho mình, đang khi lẽ ra cần phải mở ra những cánh cửa, cửa ra vào lẫn cửa sỗ.

Cuộc đời vẫn có nhiều La-ra-rô đang than thở, bị bỏ quên, trong lúc không ít người giàu có lại lẩn quẩn, lại đóng kín trong những nỗi sợ hãi của riêng mình. Thực là những bức tranh tương phản.

Hôm nay, lúc này là thời gian để ra khỏi mình: hãy mở toang những cánh cửa, những cánh cửa của hiệp thông, của liên đới. Chỉ có những người đang sống mới mở được, những người khác, kể cả người chết sống lại, không thể nào mở được.

* * *

Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Người Nghèo,

Chúa chẳng có gì cả,

dù là một viên đá gối đầu.

Chúa chẳng có gì cả,

dù chỉ là một cơn gió nhẹ,

vinh quang của Chúa chính là sự trần trụi

cả một cái áo tả tơi của đứa trẻ mổ côi,

cũng còn đẹp hơn.

…..

Chúa là người ăn xin với bộ mặt ẩn giấu,

là người không có chỗ trên mặt địa cầu.

Nhưng đàng sau sự nghèo khó,

là ánh sáng rực rỡ.

Phỏng theo R.M. Rilke

 

.

HẬU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG TIỀN BẠC

Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu

Chủ nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Anh em hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để khi hết tiền bạc, anh em sẽ được họ mời đón vào sự sống đời đời”.

Chủ nhật hôm nay, Chúa kể dụ ngôn về một người phú hộ giàu có không biết sử dụng tiền bạc, để rồi phải chết đời đời trong chốn cực hình.

Ông phú hộ chịu cực hình trong cõi chết đời đời, không phải ông làm giàu bất chính, chuyên vơ vét và bóc lột người khác. Nhưng chỉ vì ông đã thờ ơ lãnh đạm, không nhìn thấy Lazarô nghèo khó cần giúp đỡ đang nằm ngoài cổng nhà ông mà thôi. Vâng, chỉ đơn giản có thế thôi, đã đủ làm cho ông phải chịu cực hình.

Tiền bạc đã làm mờ mắt tâm hồn ông, khiến ông chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy Lazarô. Ông giống như một người soi gương, chỉ thấy hình bóng mình trong gương mà không nhìn thấy người khác.

Tiền bạc đã tạo ra một hố ngăn cách giữa ông và người nghèo Lazarô mà cái cổng là một biểu tượng.

Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa vận toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn bên kia là thế giới nghèo khó bần cùng, nằm lay lắt trước cổng nhà giàu muốn được ăn những của dư thừa từ bàn tiệc của nhà giàu rớt xuống mà chẳng ai thèm cho, chỉ có mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc xoa dịu, an ủi ông thôi!

Sự phân cách chênh lệnh đó, đã được cái chết đón nhận và thể hiện một cách rõ nét. Chỉ có điều là thay ngôi đổi chủ và mang tính cách vĩnh viễn:

Trước kia Lazarô đói nghèo bất hạnh ước một mẩu bánh vụn cũng không được, giờ đây ông no đầy hạnh phúc đời đời nơi lòng tổ phụ Abraham.

Trước kia người phú hộ giàu có dư thừa, giờ đây phải đói khát túng thiếu đời đời nơi hoả ngục, túng thiếu đến nỗi một giọt nước nhỏ làm mát lưỡi cũng chẳng thể có.

Trước kia trên trần gian, ông phú hộ và Lazarô bị ngăn cách bởi một cái cổng, thì giờ đây giữa họ là một vực thẳm lớn, khiến hai bên không thể qua lại giúp đỡ nhau được. Đó là khoảng cách giữa Thiên đàng và Hoả ngục.

Đối với ông phú hộ thì Hoả ngục chỉ kéo dài và tiếp nối cái tình trạng đói khổ mà vô tình ông đã tạo nên cho người nghèo Lazarô trên trần gian. Như thế, Hoả ngục là do ông tự xây cho mình chứ không phải Thiên Chúa.

Tóm lại: Con người tự tạo lập Thiên đàng hay hoả ngục cho mình ngay từ trên trần gian này tuỳ thuộc vào cách thế con người xử dụng tiền bạc.

Ông phú hộ giàu có một cách chính đáng, nhưng vô tâm vô tính, nhắm mắt làm ngơ, không quan tâm giúp đỡ những người chung quanh đã có một kết cục bi thảm như vậy, thì những người làm giàu một cách bất nhân bất chính, làm giàu trên xương máu, mồ hôi và mạng sống của người khác sẽ ra sao? Chắc chắn sẽ không khá hơn ông phú hộ trong dụ ngôn Tin mừng.

Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải và tài năng Chúa ban để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho tha nhân ở đời này và đời sau. Amen.

 

.

NGƯỜI NGHÈO THIÊN CHÚA CHỌN

An Phong

Tin mừng Chúa Nhật 26 Thường Niên C là dụ ngôn về người giàu có và ông Lazarô nghèo khó. Tin mừng gồm hai phần: phần thứ nhất nói về số phận của con người sau khi chết (c. 19-26); phần thứ hai là cuộc đối thoại của Abraham và người giàu có. Trong phần thứ nhất, số phận của người giàu có cả một đời được sung sướng “vận toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bên cạnh một Lazarô “mình đầy ghẻ chốc” đã bị đảo lộn sau khi chết. “Trong hỏa ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng ngài”. Người giàu có ích kỷ là hình ảnh người không lắng nghe lời giáo huấn của Thiên Chúa. Họ “lòng chai dạ đá”, không quan tâm đến những bất hạnh của người khác. Trong phần thứ hai, cuộc đối thoại cho thấy con người phải tự nguyện và tự do để hoán cải, chứ không cần đến bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài. Hơn nữa, Thiên Chúa đã dự liệu những phương tiện cần thiết để con người có thể hoán cải.

Dụ ngôn này không có ý an ủi những người nghèo khó: “Anh em là những người nghèo ở đời này, hãy can đảm lên, một ngày kia anh em sẽ được lên trời và anh em sẽ được đền bù những khốn khó đời này như Lazarô”. Thật vậy, bài Tin mừng hôm nay không chỉ khích lệ người nghèo khổ hãy cam chịu nghèo khổ hiện tại để được hưởng hạnh phúc đời sau. Chỉ vì lý do nghèo khó vật chất thôi vẫn chưa đủ, cần có nghèo khó tâm hồn “phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5).

Dụ ngôn này cũng không chỉ nói đến cuộc sống bị đảo lộn sau cái chết của hai nhân vật chính: người giàu và người nghèo, nhưng còn nói đến số phận của con người tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử với người khác ngay tại trần thế này. Đúng hơn, chỉ có một nhân vật chính là người giàu. Người nghèo Lazarô đã chẳng nói một lời nào từ đầu đến cuối. Cuộc đối thoại giữa Abraham và người giàu cho thấy số phận bi đát của người giàu, nếu họ không chịu hoán cải. Hoán cải ở đây tức là quan tâm và giúp đỡ người nghèo. Đóng cửa lòng mình lại trước những khốn khó của những người chung quanh là một tội lớn. “Khi tôi nghèo, các anh đã không cho ăn, không cho quần áo mặc, không thăm viếng, không giúp đỡ tôi” (Mt 25,41-46).

Hình ảnh Lazarô trong câu chuyện là một hình ảnh đẹp. Ông là một người nghèo hoàn toàn. Ông cần người giàu giúp đỡ. Nhưng, cũng cần phải nói thêm: người giàu cũng cần người nghèo “giúp đỡ”. Lazarô có thể “giúp đỡ” người giàu thoát khỏi tính ích kỷ của mình. Mở rộng tấm lòng, có được một tình yêu vô vị lợi. Thật vậy, con người “quên mình là lúc gặp lại bản thân” (thánh Phanxicô Assissi), cho đi là nhận được. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu, Đấng đã tự hiến thân mình cho nhân loại. Thiên Chúa mời gọi con người hoàn thành đời mình theo hình ảnh Thiên Chúa. Bao lâu con người còn ích kỷ, còn đóng cửa lòng mình lại trước những người nghèo khổ, bấy lâu con người vẫn chỉ là một nhân loại “thui chột”, không theo hình ảnh Thiên Chúa.

Cho người nghèo khổ một chỗ đứng trong cuộc đời chúng ta, quan tâm đến họ là một cách thế làm cho đời mình trở nên “giàu có” trước mặt Thiên Chúa. “Mến Chúa yêu người” vẫn mãi là luật vàng Kitô giáo.

Lạy Chúa,

Xin cho chúng con đầy lòng ưu ái,

đầy tình thương cảm đối với tha nhân,

khởi đầu với những người gần chúng con nhất.

Xin dạy chúng con biết chia sẻ nỗi đau khổ

của những người gặp buồn phiền,

biết đỡ gánh nặng của họ,

nhờ vậy mà chúng con được gần gũi với Chúa.

Lạy Chúa,

xin dạy chúng con biết nhìn thấy những người đang đau khổ.

Chúa đang khóc với những giọt nước mắt của họ.

Biết bao tiếng nức nở đã trôi dạt vào đại dương của tình thương.

Xin dạy chúng con biết canh phòng

bên ngưỡng cửa đưa vào lãnh địa mênh mông của khổ đau. Amen.

 

.

BẠN HỮU CỦA THIÊN CHÚA

PM. Cao Huy Hoàng

Chúa thương người giàu 

Tôi không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy nghĩ.

Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái , lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phởn”. Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay: “ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn giàu nhờ đức.

Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì thiết tưởng, đây vẫn là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “Người giàu có ích kỷ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.

Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ “người giàu lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó, mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.

Vậy tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.

Chúa cứu người nghèo 

Với những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm – phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.

Cái thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa là “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” . Cách suy nghĩ ấy là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo, là có tội. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều quan trọng là : “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”.

Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.

Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời..

Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa .

Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa.  

“Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết “cho đi tất cả” để được là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người. A men.

 

.

LÒNG NHÂN ĐẠO

Lm. Bùi Mạnh Tín

Chia sẻ tiền của cho những người nghèo đói, đó là một hình thức bác ái cụ thể nhất và luôn được Chúa chúc phúc.

Trong cuộc sống, chúng ta thường phân biệt: công bằng và bác ái.

Công bằng là điều buộc phải tuân giữ, không tuân giữ thì có tội, chẳng hạn: không được bớt xén tiền bạc, không được lấy của kẻ khác, đừng làm hại tài sản của tha nhân, v…v…

Bác ái là nhưng điều không buộc, muốn thì làm không thì thôi, chẳng hạn: cho kẻ nghèo một đồ vật cần dùng, ủng hộ cho cơ quan từ thiện một số tiền,v…v…

Suy nghĩ kỹ, chúng ta thấy, nếu chỉ làm những việc phải làm, nếu chỉ dừng lại ở mức độ công bình, mà không tiến tới mức độ bác ái, con người vẫn chưa sống xứng với “đạo làm người”, sẽ đánh mất đi “lòng nhân đạo” và sẽ trở thành ích kỷ. Hiểu như vậy, cha ông chúng ta đã thường dùng những câu châm ngôn để nhắc nhở: “Chia cơm xẻ áo”, “Lá lành đùm lá rách”, “Thương người như thể thương thân”.

Về phương diện tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, bác ái không phải có tính cách “nhiệm ý”, nhưng là một điều luật căn bản và quan trọng, như Chúa Giêsu tuyên bố: “Đây là một giới răn mới”. Là một điều luật, một giới răn, bác ái mang tính cách bắt buộc, và mọi Kitô hữu phải tuân giữ. Để nhấn mạnh tầm quan trọng này, Chúa Giêsu đã kể cho chúng ta câu truyện về một nhà phú hộ và Ladarô. Theo câu truyện, nhà phú hộ không làm gì sai đức công bằng: không gian tham, không trộm cắp, không bớt xén tiền của tha nhân. Nhưng điều tạo nên số phận bất hạnh đời đời cho ông, chính là ông không quan tâm đến Ladarô, một người nghèo và bệnh tật mà ông gặp hằng ngày, không chia sẻ cơm áo cho người anh em trong cảnh túng quẫn đang hiện diện bên ông. Ông chỉ biết phung ph1i tiền của để tạo nên hạnh phúc cho riêng mình. Nói khác, ông sống ích kỷ. Ở đây, chúng ta cũng nên nhớ lại quang cảnh ngày phát xét chung, do chính Chúa Giêsu mô tả (Mt 25:31-46). Định mệnh đời sau của mỗi người hầu như tùy thuộc hoàn toàn vào tinh thần bác ái – có nghĩa là, tất cả những việc tốt chúng ta làm cho tha nhân, dù âm thầm và nhỏ bé, cũng luôn mang giá trị cứu độ và đóng góp vào hạnh phúc mai sau. Bác ái, như Chúa Giêsu cho biết, là con đường bảo đảm nhất dẫn vào Nước Trời. Hơn thế, Chúa cho thấy những ích lợi của bác ái ngay trong cuộc sống này.

Bà goá miền Sarepta, vì biết chia sẻ nước uống và bánh cho tiên tri Isai, đã được Thiên Chúa cứu sống qua thời gian hạn hán, bằng cách làm cho hũ bột và bình dầu của bà không bao giờ vơi cạn (xem 1 Các Vua, 17). Tabitha được thánh Phêrô cho sống lại, “vì bà là người đã làm nhiều việc tốt và việc bố thí đối với tha nhân” (xem TĐCV 9:36-42). Cùng với lời cầu nguyện và ăn chay, sự bố thí rộng lượng của Monica đã đem con trai của bà là Augustinô về với Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp chúng ta biết “dùng của cải đời này để mua sắm nước Thiên đàng đời sau.”

 

.

BÁC ÁI CỤ THỂ

Lm. Thanh Minh

Chắc hẳn ai trong chúng ta lúc học giáo lý đều hiểu rõ đức bác ái là cốt tủy của đạo thánh Chúa: “Mười điều răn Đức Chúa Trời tóm về hai nầy mà chớ: “Trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy”. Trong ba năm rao giảng nước trời Đức Chúa Giêsu đã huấn dụ rất nhiều về Đức bác ái như bài giảng trên núi (xem Mt chương 5), dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37), diễn từ chung luận về ngày tận thế (xem Mt. 25, 31-46), dụ ngôn về người phú hộ và Ladarô hôm nay (Lc 16, 19-31). Và nhất là lời trối trăng di chúc của Ngài trong bữa tiệc ly tối thứ năm trước khi bước vào giờ tử nạn: “Thầy truyền cho chúng con hãy yêu thương nhau như thầy đã yêu thương các con, nhờ đó thiên hạ sẽ nhận ra các con là môn đệ của thầy” (Ga 13, 34-35)

Quảng diễn giáo thuyết của thầy chí thánh, thánh Phaolô đã ca lên trong bài ca đức ái (xem 1Cor 13) và Ngài đã khẳng quyết: “Yêu thương anh em là chu toàn lề luật”.

Tiên tri Amos trong bài đọc 1 đã nói với những người phú quý giàu sang rằng vì họ xưa kia đã được sung sướng no đầy nên nay phải bị lưu đày.

Người phú hộ trong bài Phúc Âm, thuở sinh tiền đã sống trong nhung lụa giàu sang phung phí yến tiệc linh đình mà khinh chê rẻ rúng người hành khất đáng thương Ladarô túc trực bên vỉa hè, do đó ngày nay bị trầm luân muôn kiếp trong lửa hỏa ngục, còn Ladarô suốt đời cực khổ, sống chẳng ra người thì nay được hưởng phần thưởng trên nước Thiên đàng với tổ phụ Abraham.

Đây là một câu chuyện nửa dụ ngôn, nửa thực tế, đáng chúng ta run sợ xét lại mức độ thực thi bác ái cụ thể của mình.

 

.

HỌ ĐÃ CÓ MÔISEN VÀ CÁC TIÊN TRI

Lm. Cao Tấn Tĩnh

Nếu bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Mùa Thường Niên Năm C tuần trước Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc các vị cần phải có tinh thần trung tín như một người quản gia hết mình phục vụ Nhà Chúa, không làm tôi hai chủ, thì bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI tuần này, Người nói với nhóm Pharisiêu về dụ ngôn người phú hộ và Ladarô. Tại sao Chúa Giêsu không nói dụ ngôn này với các môn đệ của Người, hay với chung dân chúng, hoặc với thánh phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo dân Do Thái, mà lại nói riêng với nhóm Pharisiêu? Để trả lời cho vấn đề vừa được đặt ra ở đây, cũng như nhờ đó để hiểu rõ hơn bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cần đọc lại đoạn Phúc Âm Giáo Hội không muốn cho đọc, đoạn Phúc Âm giữa bài Phúc Âm lần trước và lần này. Chúng ta nhớ lại là bài Phúc Âm tuần trước được kết thúc ở câu Chúa Giêsu khuyên các môn đệ: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Bởi thế, ngay sau câu này, Phúc Âm Thánh Luca viết tiếp là: “Những người Pharisiêu, thành phần tham lam, nghe thấy tất cả những điều ấy thì cười nhạo Người”. Như thế, sở dĩ Chúa Giêsu nói dụ ngôn này cho riêng nhóm Pharisiêu chẳng những vì họ là “thành phần tham lam”, mà còn vì họ đã “cười nhạo Người”, nghĩa là không tin lời Người khẳng định “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”, vì họ cho rằng, dù cho họ có thực sự tham lam đi nữa, nhưng, như dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện trong Phúc Âm Thánh Luca cho thấy, họ vẫn giữ đủ mọi luật lệ dâng cúng theo lề luật, tức là họ vẫn có thể được rỗi.

Nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn người phú hộ và Ladarô này, Chúa Giêsu như muốn chỉnh lại ảo tưởng vô cùng nguy hại này của họ, như muốn ngầm nói với họ rằng: Thế thì các người hay nghe dụ ngôn sau đây và hãy suy nghĩ cho kỹ, chứ đừng có mà tưởng bở, kẻo sẽ bị lãnh số phận vô cùng bất hạnh như người phú hộ trong dụ ngôn đó. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu dụ ngôn này thì nhà phú hộ trong dụ ngôn chính là hình ảnh sống động của họ, và Ladarô trong dụ ngôn còn ai hơn là hạng người tội lỗi, được hiện thân nơi người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, hạng người đáng khinh bỉ dưới con mắt ngạo mạn của người Pharisiêu cũng đang cầu nguyện trong đền thờ bấy giờ. Qua dụ ngôn của bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy hai cảnh hoàn toàn trái ngược nhau, chẳng những ở đời này, một người giầu sang phú quí là người phú hộ, và một người thì cùng cực khổ đau là Ladarô, mà còn ở đời sau nữa, người phú hộ thì bị muôn đời trầm luân khốn nạn, còn Ladarô thì được ngàn thu vinh phúc. Tại sao người phú hộ trong dụ ngôn bị hư đi và Ladarô cùng khổ được cứu độ? Phải chăng chỉ vì người phú hộ giầu sang phú quí đến nỗi đã phũ phàng hất hủi Ladarô khi còn sống? Và phải chăng Ladarô được cứu độ chỉ vì cảnh cùng khổ của Ladarô trên trần thế?

Trước hết, về số phận hư đi đời đời của người phú hộ đã được xác định rõ trong dụ ngôn, ở câu: “Người phú hộ chịu cực hình trong chốn kẻ chết, ngước mắt lên thấy Abraham từ xa và Ladarô đang nghỉ ngơi trong lòng ông… Abraham đáp lời hắn: Giữa ngươi và chúng ta có một vực sâu thăm thẳm ngăn cách, không ai có thể từ đây sang đó hay không ai có thể từ đó sang đây”. Thế nhưng, số phận bị đời đời hư đi “trong chốn kẻ chết” đây của người phú hộ chẳng lẽ, như lời Abraham nói với hắn, là vì “hỡi con, con hãy nhớ rằng con đã được may lành trong cuộc sống”. Như thế, số phận “may lành trong cuộc sống” nói chung chẳng lẽ lại chính là cớ làm cho con người hư đi đời đời hay sao? Phải chăng cũng chính vì thế Chúa Giêsu đã khẳng định trong Phúc Am Thánh Luca đoạn 6 câu 24 về cái khốn đầu tiên trong tứ khốn là: “Khốn cho các người là những kẻ giầu có, vì giờ đây các người đã được an ủi rồi”. Như thế thì đúng là cái khốn của thành phần giầu có là ở chỗ “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống”! Tại sao? Nếu không phải vì tình trạng “được an ủi”, “được may lành trong cuộc sống” này sẽ dễ làm cho lòng tham vô đáy của con người nơi họ chỉ nghĩ đến hưởng thụ mà thôi. Thái độ “chỉ nghĩ đến hưởng thụ” này của thành phần tham lam giầu có cũng được Chúa Giêsu đề cập đến ở một dụ ngôn Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm Thánh Luca Chúa Nhật Thường Niên XVIII Năm C, cách đây 9 tuần, đó là trường hợp của “một người giầu có được mùa” liền nghĩ cách tích chứa những gì thặng dư của mình, sau đó anh ta tự nhủ mình như sau: “Hãy sống thoải mái! An cho ngon, uống cho đã. Hưởng cuộc đời”. Người phú hộ “ăn mặc lụa là gấm vóc, hằng ngày yến tiệc linh đình” trong bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI Thường Niên hôm nay cũng thế, chỉ biết hưởng thụ đến nỗi, như lời Chúa Giêsu diễn tả, không hề biết đến Ladarô là một kẻ cùng khổ ngồi ngay “trước cổng nhà của mình”, nghĩa là ở ngay trước mắt người phú hộ. Bởi thế, cho dù người phú hộ chẳng hề ra mặt khinh khi và phũ phàng hất hủi hay tống cổ Ladarô đi cho khuất mắt, trái lại, chỉ vì ông đã neglect, đã không để ý đến mà thôi, ở chỗ không chịu ra tay giúp đỡ khi có thể, mà bị đời đời hư đi vậy.

Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Bởi vì, số phận hư đi đời đời ở đây còn liên quan đến một vấn đề sâu xa hơn nữa, hay nói cách khác, liên quan đến một nguyên nhân sâu xa khiến cho chung người giầu có, điển hình là người phú hộ trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với nhóm Pharisiêu ở bài Phúc Âm hôm nay, chỉ biết sống hưởng thụ, ngoài ra không còn biết đến, hay không hề nghĩ đến, tha nhân cùng khổ chung quanh mình nữa. Nguyên nhân sâu xa khiến con người sống vị kỷ trên đời này, cũng là nguyên nhân khiến họ hư đi đời đời đó là gì, nếu không phải chỉ vì họ đã không sống đức tin, hay có đức tin mà không áp dụng, một đức tin phải được thể hiện qua việc thực thi bác ái, như nguyên tắc Thánh Phaolô đề ra trong Thư gửi Giáo Đoàn Galata đoạn 5 câu 6: “Đức tin hoạt động qua đức ái”. Đó là lý do, để trả lời cho lời yêu cầu của người phú hộ xin cho người chết hiện về báo cho 5 người anh em của hắn biết về số phận vô cùng khốn nạn để họ khỏi bị chung số phận đời đời trầm luân như hắn, vị tổ phụ đã trả lời với hắn là: “Họ đã có Moisen và các tiên tri… Nếu họ không nghe Moisen và các tiên tri thì dù kẻ chết có hiện về họ cũng không tin”. Mà toàn bộ luật Moisen và lời các tiên tri dạy gì, nếu không phải được tóm gọn trong tinh thần mến Chúa yêu người, đúng như Chúa Giêsu đã xác nhận trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 22 câu 40: “Toàn thể lề luật và lời các tiên tri được dựa vào hai giới răn này”. Vậy thành phần hư đi nói chung chính là thành phần không mến Chúa yêu người. Ap dụng lời Chúa vào trường hợp người phú hộ trong dụ ngôn hôm nay thì sở dĩ hắn có bị vĩnh viễn hư đi cũng chỉ vì hắn không mến Chúa yêu người. Mà lòng mến Chúa được thể hiện qua đức bác ái yêu thương, tức không biết yêu nhau thì không thể nào mến Chúa, trái lại, “họ chỉ là kẻ nói dối”, như Thánh Gioan xác nhận Thư Thứ Nhất của ngài ở đoạn 4 câu 20. Vậy người phú hộ, hiện thân của nhóm Pharisiêu, dù có giữ lề luật tỉ mỉ, những việc liên quan đến lòng mến Chúa, song không tỏ lòng yêu thương tha nhân trong tầm tay của mình, trái lại, còn ra mặt khinh bỉ những người tội lỗi, thì thực sự họ không sống trong chân lý, sống giả tạo trước nhan Thiên Chúa.

Nếu người phú hộ bị muôn đời trầm luân vì không sống đức tin, được thể hiện qua việc mến Chúa yêu người, thì Ladarô được rỗi chắc chắn cũng phải có đức tin, cũng phải mến Chúa yêu người, chứ không phải chỉ ở trong cảnh cùng khổ là tự nhiên hay tất nhiên sẽ được cứu độ. Hình ảnh Ladarô ngồi trong lòng tổ phụ Abraham là cha của những kẻ tin tưởng cũng đủ chứng tỏ Ladarô đã sống đức tin trong đời này. Tuy Phúc Âm không kể lại rõ ràng những cách thức Ladarô chứng tỏ đức tin của mình, chứng tỏ lòng mến Chúa yêu người của mình, ngoại trừ cho thấy hình ảnh của một Ladarô âm thầm chịu đựng nỗi cùng cực khổ đau của anh ta về phần xác, như bị chó đến liếm tấm thân ghẻ lở cùng mình, mà còn chấp nhận cả những bất hạnh, nhục nhã bởi cùng khổ mà ra, như bị đồng loại khinh bỉ, bỏ rơi, quên lãng, song anh vẫn hoàn toàn không hề than thân, trách phận, oán trời, hận đời v.v. Thế nhưng, trong bài Phúc Am theo Thánh Luca Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên Năm C hôm nay Chúa Giêsu không quan trọng hoá số phận của Ladarô cho bằng của người phú hộ. Vì Người cố ý nói dụ ngôn này với thành phần Pharisiêu là thành phần chẳng những tham lam, chỉ biết sống cho mình, mà còn bị mù tối bởi ảo tưởng về việc tự công chính hóa của họ, đến nỗi, đã tỏ ra không tin tưởng Người, ở chỗ, cười nhạo lời Người khẳng định với các môn đệ trong bài Phúc Am tuần trước, đó là: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”. Phúc Âm Thánh Luca không thuật lại cho chúng ta biết phản ứng của những người Pharisiêu sau khi nghe dụ ngôn người phú hộ này ra sao, nhưng theo thực tế sống đời và kinh nghiệm sống đạo, ai trong chúng ta dám phủ nhận lời Chúa Giêsu, hay dám chứng minh ngược lại những gì Chúa nói không còn công hiệu hay giá trị nữa, lời Người phán: “Không tôi tớ nào có thể làm tôi hai chủ… Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi cho tiền bạc được”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Nếu quả thực người phú hộ trong bài Phúc Am Chúa Nhật XXVI Mùa Thường Niên theo Thánh Luca Năm C hôm nay bị hư đi đời đời chỉ vì ông ta không có đức ái với tha nhân, ở chỗ, có khả năng mà không chịu ra tay giúp người, chứ không phải lỗi phạm đức ái với tha nhân, như hiếp dâm, sát nhân hay trộm cắp v.v., thì phải chăng chỉ cần loài người chúng ta nói chung, và Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô chúng ta nói riêng, không có bác ái, như không có hay không mặc áo cưới khi được mời đến dự tiệc cưới Nước Trời (xem Mt 22:11-12), thì sẽ bị trầm luân muôn kiếp, như thành phần dê không chịu phục vụ Chúa nơi đồng loại của mình trong ngày chung thẩm (xem Mt 25:42-43)?

 

.

GIÀU CỦA GIÀU LÒNG

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Chúa nhật tuần trước, Đức Giêsu đã nói với chúng ta về việc sử dụng tiền của, tuần này Ngài nhắc đến một lần nữa và khuyến cáo chúng ta rằng tiền của có thể trở thành một mối nguy, một cản trở chúng ta vào Nước Trời. Một cách cụ thể, Đức Giêsu đưa ra một dụ ngôn về “người phú hộ và Lazarô khó nghèo”. Người phú hộ chỉ biết cậy dựa vào tiền của, chỉ biết hưởng thụ một mình mà quên đi người nghèo khó khác nên đã bị trầm luân; còn Lazarô nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa, sống theo thánh ý Ngài nên được lên thiên đàng.

Người phú hộ trong dụ ngôn không làm điều gì gian ác, không lỗi đức công bằng, không ức hiếp ai , không phạm gì đến Lazarô cả, vậy tại sao ông ta lại bị sa vào hỏa ngục ? Tội ông ở chỗ nào ? Thực ra, ông không phạm một tội ác nào mà chỉ có tội “hờ hững, dửng dưng” trước đau khổ của người khác. Ông không phạm tội một cách tích cực mà phạm tội một cách tiêu cực, đó là “tội thiếu sót” như chúng ta đọc trong kinh Cáo mình. Ông chỉ biết hưởng thụ, yến tiệc linh đình, ca hát suốt ngày đêm mà không màng gì đến người khó nghèo Lazarô nằm ngay cổng nhà ông, muốn ăn những hạt cơm rơi trên bàn ăn của ông mà cũng không được.

Người ta thường nói :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” : lành dữ đều có thưởng phạt, cao bay xa chạy cũng không thể thoát được.  Cái chết  đã phân chia hai người thành hai thế giới đối nghịch : thế giới đau khổ và thế giới hạnh phúc. Người phú hộ bị phạt, Lazarô được thưởng.  Bài học Chúa dạy ta hôm nay là phải biết quản lý tài sản của Chúa “cho nên” vì chúng ta không phải là chủ mà chỉ là quản lý những gì Chúa đã thương ban. Phải có tinh thần liên đới và bác ái, phải biết chia sẻ với người đau khổ hầu kiếm được nhiều bạn hữu để “họ sẽ đón rước các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16,9).

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+  Bài đọc Am 6,1a.4-7.

Cuộc khủng hoảng chính trị và kinh tế thế kỷ 8 trước công nguyên đã đào sâu hố phân cách giữa người giầu và người nghèo. Rất nhạy bén với những bất công xã hội, Amos không thể chịu  đựng những  kẻ có thế lực nhục mạ những kẻ yếu khốn khổ  bằng lối sống xa hoa của mình. Vị tiên tri không tiếc lời đả kích những kẻ giầu có  chỉ biết hưởng thụ, ăn uống, chè chén say sưa, ca hát mà không quan tâm đến người khác,”chẳng biết đau lòng trước cảnh Israel sụp đổ”. Họ sẽ bị diệt vong. Sống trên đời là phải sống liên đới với người khác trong vui buồn sướng khổ.

+  Bài đọc 2 : 1Tm 6,11-16.

Điều thánh Phaolô chờ đợi nơi Timôthêô là phải chiến đấu đến cùng  trong cuộc chiến đấu vì đức tin. Đó không phải là cuộc bảo vệ đức tin chống kẻ thù. Đức tin là một cuộc chiến đấu, vì nó cần được diễn tả trong suốt cuộc sống.

Thánh Phaolô khuyến khích ông Timôthêô trung thành trong đức tin đã lãnh nhận và hãy làm chứng về đức tin ấy trước mặt mọi người. Người Kitô hữu, phương chi vị mục tử, cần ghi nhớ những lời khuyên này.

+  Bài Tin mừng : Lc 16,19-31.

Sự đảo ngược hoàn cảnh trong dụ ngôn ông nhà giầu ích kỷ và anh Lazarô khó nghèo – người nghèo được hưởng hạnh phúc còn người giầu bị trừng phạt – là một hình ảnh văn học thường gặp  trong các sách tiên tri và Tin mừng.

Người phú hộ quen cậy dựa vào tiền của, không thèm để ý đến ai, khi chết thì những chỗ cậy dựa cũng tiêu tan và phải rơi vào cảnh khốn khổ ! Còn Lazarô là người nghèo khó  không có chỗ dựa ở trần gian, chỉ biết cậy dựa vào Chúa, nên khi chết được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Chúa.

Dụ ngôn cũng nhắc nhở cho người giầu phải sớm sửa lỗi lầm, đừng cậy dựa vào của cải trần gian nhưng hãy cậy dựa vào Chúa. Hãy ăn năn hối cải, đừng để đến giờ chết mới sám hối, vì lúc đó đã quá muộn và tình thế không thể đảo ngược được.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Sự giầu có đích thực.

I. HAI THẾ GIỚI ĐỐI NGHỊCH.

  1. Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó.

Dụ ngôn người quản gia bất lương của Chúa nhật tuần trước và dụ ngôn về Lazarô và nhà phú hộ của tuần này hỗ tương nhau vì cả hai dụ ngôn  đều qui về một ý tưởng : người giầu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải với những người túng thiếu. Đức Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thực tương phản : một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa.

Chúng ta đang đồng hành với Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài trên đường tiến về Giêrusalem – nơi Ngài sẽ tự hiến vì nhân lọai. Bằng dụ ngôn “người phú hộ và Lazarô nghèo khó”, Đức Giêsu không những muốn gửi đến cho nhóm người Pharisêu vốn ham thích tiền bạc, xem tiền của, giầu sang  như là dấu hiệu  được Giavê chúc phúc, mà còn là lời cảnh tỉnh cho hết những ai coi trọng tiền bạc hơn anh em đồng loại.

Mở đầu dụ ngôn, chúng ta thấy hai con người với hai hoàn cảnh hoàn toàn trái ngược xuất hiện. Một bên đại diện cho phú quí giầu sang, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn bên kia là nghèo khổ, bệnh hoạn, dơ dáy bẩn thỉu. Một bên là thế giới của “lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình” và một bên là thế giới bệnh hoạn nghèo túng đến thảm thương, thế giới của “mụn nhọt ghẻ lở đầy mình” và là thế giới của những ước ao rất ư bình dị đáng thương “thèm được những thứ trên bàn ăn rơi xuống ăn cho no”. Cả hai thế giới ấy  đều được khép lại  với cái cửa là sự chết, nhưng cũng đồng thời mở ra một thế giới mới với hai số phận , hai cảnh đời hoàn toàn trái ngược.

Cái chết là tận số chung của mọi người, bất phân giầu nghèo. Hậu quả của cái chết khác nhau tùy theo cách sống của mỗi người khi còn sống. Ở đây người giầu, vì đã không biết sử dụng của cải để bố thí cho người nghèo theo lời khuyên của lề luật và các tiên tri; vì thế ông bị cực hình trong hỏa ngục.

  1. Hai hạng người đối nghịch nhau.

a) Người phú hộ. 

Người phú hộ trong dụ ngôn này không có tên riêng chỉ biết ông ta là người giầu có. Hình ảnh người phú hộ rất quen thuộc trong xã hội Do thái bấy giờ : một xã hội có những người giầu sống tách biệt với người nghèo. Người phú hộ trong dụ ngôn thường xuyên đầy đủ của cải, nhưng không phải do những lối làm ăn bất chính, cũng như ông không tiêu xài của cải vào việc bất chính như ăn chơi, xa xỉ. Ông chỉ lo sống như những người giầu khác vào thời ông : ăn mặc sang trọng, ngày ngày yến tiệc linh đình. Ở đây cho thấy người phú hộ này không xấu về phương diện tiêu cực như làm giầu cách bất công và tiêu xài của cải cách bất chính để gây ra tội lỗi.

Nếu người phú hộ không phạm một tội ác nào đối với Lazarô mà lại bị trầm luân thì vì lý do gì ? Nếu xét về mặt tội lỗi để buộc người phú hộ phải mất linh hồn đời đời nơi hỏa ngục, chúng ta thấy ông ta chẳng có tội nào để chuốc lấy cái án phạt lớn đến như thế. Ông không hề chiếm đoạt tài sản của bất cứ ai. Ông cũng không phải chịu trách nhiệm trên sự nghèo nàn và thống khổ của Lazarô. Còn chuyện ông dư dật và ăn xài cũng không hẳn đã thành tội, vì đó là của cải của ông. Đức Giêsu không kê khai bất cứ tội nào của ông. Ngài cũng không cho biết người nghèo Lazarô đã xin nhà phú hộ giúp đỡ, hay nhà phú hộ đã từ chối giúp đỡ Lazarô. Vậy tại sao ông phải sa hỏa ngục ? 

          Đó chính là nhà phú hộ đã làm ngơ, có thái độ dửng dưng, hững hờ đối với Lazarô đang sống trong cảnh cùng quẫn. Tội của ông chính là tội “Thiếu sót”, vì ông đã không làm gì để cải thiện đời sống của người anh em nghèo khó ở sát cạnh mình. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch sù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình :”Làm sao chúng ta có thể sống  hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ” ?

Đúng vậy ! Dửng dưng hay hững hờ trước những đau khổ của người khác là một tội . Đó là điều Đức Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người phú hộ trong Tin mừng hôm nay.

b) Người nghèo khó Lazarô. 

Lazarô là hình ảnh đối nghịch với người phú hộ, là người nghèo khó, bệnh hoạn, khốn khổ đến cùng cực, cần sự giúp đỡ nhưng không ai cho, ngay cả người phú hộ ở ngay bên cạnh.

Lazarus”, tên bằng tiếng La tinh của từ “Eleazar” tiếng Do thái, có nghĩa là “Thiên Chúa là sự nương tựa của tôi” hay “Thiên Chúa phù trợ”. Do đó, Lazarô, không phải chỉ là một người nghèo, nhưng là một người nghèo  hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa. Đây ắt hẳn là một lý do tại sao ông đã “được các thiên thần đem lên lòng Abraham”(Lc 16,22).  Nhờ đức tin, sự trông cậy, và lòng phó thác nơi Thiên Chúa giữa cuộc sống nghèo khổ ông được lên thiên đàng, không phải vì nghèo nàn, khốn khổ về vật chất.

Đặt sự tương phản giữa sự nghèo khó của Lazarô và sự giầu có của nhà phú hộ để nói lên khía cạnh ích kỷ, keo kiệt của nhà phú hộ. Ở đây muốn nói : người giầu có đang có cơ hội thường xuyên để giúp người khốn khổ Lazarô, sử dụng của cải theo đúng vai trò người quản lý của Chúa. Nhưng vì người giầu có này hà tiện, keo kiệt, ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ, nên đã không biết sử dụng  của cải giúp đỡ ngưởi nghèo khổ, vì thế ông đáng tội.

  1. Vực thẳm giữa hai thế giới

Cái chết thay vì làm cho họ xích lại gần với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Lazarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn người phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng sự giầu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình, nay phải ở “dưới hỏa ngục, đang chịu cực hình”.

Dưới âm phủ : chữ âm phủ hay hỏa ngục dịch chữ Hadis hoặc Schéol, chứ không phải dịch chữ Gehenna. Theo quan niệm một số người Do thái, Schéol là nơi người chết vào trong đó và tạm thời được xếp thành 2 loại : Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng của tổ phụ Abraham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong lửa hỏa ngục đời đời.

Trong hỏa ngục, nhà phú hộ nhìn thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng Ngài”.

Thấy thế, nhà phú hộ năn nỉ tổ phụ Abraham sai Lazarô – ông nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống ở trên đời – “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát”. 

Muộn quá rồi ! Cuộc chơi đã mãn ! Cả Abraham lẫn Lazarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một cách vô thức, ông đã từng buớc đào sâu thêm, giữa sự giầu có ích kỷ của mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết “làm bạn” với Lazarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh viễn”.

Theo nhận định của H. Cousin :”Vực thẳm chia cách giữa những người  đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ đang chịu cực hình dưới hỏa ngục, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm  đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Lazarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy” (Fiches dominicales C, tr 316). 

II. MỘT VÀI SUY TƯ VỀ DỤ NGÔN TRÊN.

  1. Giầu hay nghèo không phải là xấu.

Thoạt tiên, xem ra có vẻ mâu thuẫn về quan niệm giầu nghèo trong Thánh Kinh Tân ước. Một đàng Đức Giêsu ca tụng nhân đức khó nghèo. Chúa nhấn mạnh rằng tiền bạc có thể là mối nguy hặi cho việc cứu rỗi. Đàng khác, Ngài ý thức rằng nghèo túng có thể làm giảm  nhân vị của họ. Nếu xét đến tinh thần nghèo khó trong Phúc âm thánh Matthêu thì cái mâu thuẫn không còn nữa. Vì vậy giầu hay nghèo theo tinh thần Phúc âm là tùy thuộc vào thái độ của ta đối với của cải vật chất . Do đó, người giầu có về phương diện vật chất có thể được coi là nghèo khó về phương diện tinh thần  nếu họ làm giầu cách chính đáng, không để lòng dính bén vào của cải vật chất và biết giúp đỡ người nghèo đói. Trái lại, một người nghèo túng về phương diện vật chất, có thể được coi là giầu có về phương diện thiêng liêng, nếu họ luôn mơ ước làm giầu chính đáng.

Như vậy giầu không phải là tội. Và nghèo – nếu chỉ vì nghèo – cũng không phải là một nhân đức. Vậy giầu hay nghèo tự bản chất không phải là một điều xấu. Tuy nhiên nếu người ta coi của cải đời này là cùng đích thì người ta đi vào con đường sai lầm. Con người được tạo dựng  với những nhu cầu vật chất để sinh sống và phát triển nhân vị. Tuy nhiên người ta không được để cho của cải đời này  làm cản trở mối liên hệ với Chúa. Vậy cái thái độ ta phải có  đối với của cải vật chất là tâm tình biết ơn Chúa là Đấng ban phát mọi sự.

Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa thì của cải phải khơi dậy trong ta cái tâm tình biết ơn Chúa và liên kết ta lại với tha nhân trong tinh thần liên đới trách nhiệm. Của cải là để phục vụ con người, chứ không phải là con người phục vụ của cải. Vì thế, ta phải biết quản lý của cải  một cách khôn ngoan và có trách nhiệm : không phung phí cũng không ích kỷ. Mỗi người tín hữu dù giầu hay nghèo, tu hay không tu phải cố gắng sống tinh thần Phúc âm là tinh thần siêu thoát. Nếu không, người ta có thể phải làm nô lệ cho của cải (Trần bình Trọng).

  1. Giầu của có thể nghèo lòng.

Trong dụ ngôn hôm nay, người phú hộ bị hình phạt trong hỏa ngục, chịu lửa thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình thôi. Ông ta “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng nhà mình “sống chết mặc bay”, phải chịu “mụn nhọt đầy mình”, “mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông chủ rớt xuống mà ăn cho no” mà không hẳn được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giầu có khác – nghĩ rằng những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ thế nào, cho ai hay không cho là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn  vô tội không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ cả : ông có làm gì khiến họ thiệt hại đâu.

Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những người giầu có vật chất (Lc 12,115-21- 16,9-11). Đối với Đức Giêsu, sự giầu có bao gồm hai nguy cơ chết người :

– Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa : Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.

– Nó khép kín lòng mình với những người khác : Người ta không còn nhìn thấy người nghèo  nằm ngay cổng nhà mình.

Truyện : Bà già đón Chúa. 

Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói :”Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.

Mấy phút sau lại có tiếng  gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà ta đóng sầm cửa lại.

Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến, Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.

Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.

Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói :”Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và 3 lần con đều đuổi Ta” (Góp nhặt).

  1. Người giầu thật và nghèo thật

Người giầu thật là người biết cho, người nghèo thật là người chỉ biết nhận.

Người giầu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ; người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu.

Sự giầu có thật là giầu trong tâm hồn, sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng.

Bởi vậy cái giầu vật chất hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn. Và đó cũng là cái nguy hiểm của vật chất :

– Nó khiến ta quá chú ý đến  cái “” mà quên xây dựng cái “là” của mình.

– Mà những cái “có ấy” chỉ là vật chất và ngoại tại, nên chúng dễ khiến ta lơ là với những giá trị tinh thần và cuộc sống nội tâm.

– Quá quan tâm đến vật chất, chúng ta còn có thể bị chúng  che mờ cặp mắt không còn nhìn thấy tha nhân và Thiên Chúa (Carôlô).

Truyện : Giầu có tâm hồn. 

Một tu sĩ đi lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói :”Xin thầy cho con viên ngọc quý”.

Anh định nói về viên ngọc nào”?  Người tu sĩ hỏi.

Tối hôm qua con có một giấc mơ : nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giầu có mãi”.

Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra.”Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến” ông nói và đưa cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.

Người dân làng cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và nói :”Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này. Thay vào đó,  hãy cho con sự giầu có nào  làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”. 

Người giầu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngòai – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn (McCarthy).

Theo sự suy tư của cha Flor McCarthy ta có thể nói :

Sự giầu có thật được đo không phải   bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi.

Sự giầu đáng giá nhất là giầu trong tâm hồn.

Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết,

Khi ta mở cửa lòng ra là lúc ta bắt đầu sống.

  1. Phải biết chia sẻ .

Suy niệm qua dụ ngôn này, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước những đau khổ của những người chung quanh chúng ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể, chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy  ắt sẽ khiến chúng ta  bức xúc và không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu trước mắt mình.

Trong chuyến viếng thăm Hoa kỳ lần đầu tiên, tại sân vận động Yankee, Đức Giáo hòang Gioan Phaolô II lấy lại dụ ngôn hôm nay và nói :”Người giầu này bị hình phạt vì ông không quan tâm đến người khác, vì không để ý gì đến Lazarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Ngài đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác… 

          Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giầu và người nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giầu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”. 

III. BÀI HỌC CHO NGÀY HÔM NAY. 

  1. Biết quản lý tài sản của Chúa.

Tất cả những gì chúng ta đang có đều là của Chúa ban. Chúng ta không phải là chủ mà chúng ta chỉ là người quản lý, cho nên chúng ta phải sử dụng tài sản ấy theo ý của Chúa, không được phung phí. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm của chúng ta.

Người ta nói :”Hữu lộc bất khả hưởng tận” :  có lộc chẳng nên hưởng hết một mình. Con người phải có tình liên đới, còn phải nghĩ tới người khác. Thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo hòang Lêô XIII có nói :”Chúa khoan hồng ban dư dật mọi ơn huệ hồn xác cho ai, thì kẻ ấy phải dùng để thánh hóa bản thân và cấp đủ sự cần dùng cho đời sống mình trước, rồi sau phải đóng vai quản lý Chúa quan phòng, để cứu đỡ kẻ khác. Kẻ giầu có nhiều tiền thì chớ để sự nhân từ tê cóng trong lòng họ”(đọan 9).

  1. Phần thưởng và hình phạt đời sau. 

Cổ nhân đã nói :”Thiện ác đáo đầu chung hữu báo” : Lành dữ trước sau sẽ có thưởng  phạt. Chúng ta biết Thiên Chúa lòng lành vô cùng. Chúng ta cũng thấy ở đời này có sự chênh lệch diễn ra rõ rệt : người giầu thì giầu quá, người nghèo cũng lại quá nghèo. Một điều rất khó hiểu : người tội lỗi thì cả đời may mắn, trong khi người công chính thì cả đời gặp rủi ro tai họa. Giữa lúc phân vân bối rối như vậy thì có những tia sáng lóe lên trong đầu óc, trong đó phải kể ngay đến sự việc của người phú hộ.

Người phú hộ phải phạt không phải vì ông là người phú hộ, mà vì ông đã không phú hộ “cho nên”. Giả như ông thương người nghèo đói cho đúng mức, hay ít ra bố thí cho họ những của dư thừa theo câu “nhiễu điều phủ lấy giá gương” thì đâu đến nỗi phải phạt sau khi ông chết ?  Đức Giêsu cũng không phi bác sự giầu có, mà chỉ cho đó là  cản trở khó vào Nước Trời (Mt 19,224), do đó sự giầu có vốn  nó không xấu, cũng không phải là tội, nếu người ta biết giầu có “cho nên”, mà nhà phú hộ kia đã la cái gương đáng kể về người giầu có vậy.

Tư tưởng thưởng phạt mỗi ngày mỗi thêm sáng tỏ trong các dân tộc : dân La mã cũng như dân Hy lạp tin rằng kẻ không kính thờ thần linh, sau này sẽ bị loại ra khỏi nơi cực lạc,  trong khi các dân tộc Á đông tin rằng :”Tác thiện giáng chi bách tường. Giáng bất thiện giáng chi bách ương”. Và nếu kẻ làm lành chưa được thưởng công và kẻ tác quái chưa phải chịu phạt thì “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. Phước hoàn bất báo, thời thần vị báo. Cao phi viễn tẩu dã nan tàng” : Làm lành được thưởng, làm dữ phải phạt. Nếu như chưa thưởng chưa phạt, đó là chưa đến giờ. Và khi giờ đã điểm thì dù cao bay xa chạy đến đâu đi nữa cũng không thóat nổi.

  1. Gấp rút sửa mình, đừng chần chừ.

Trong hỏa ngục nhà phú hộ xin Abraham sai Lazarô về cảnh cáo 5 anh em còn sống, để họ khỏi rơi vào cảnh khốn cực này, để họ trở lại sống đúng ý nghĩa cuộc đời hơn. Nhưng Abraham đáp lại bằng những lý luận Maisen đủ để cảnh tỉnh họ. Luật Maisen và các tiên tri đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư ? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo, chia cơm sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao ? Sách Đệ nhị Luật (15,7-11) truyền dạy :”Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em đừng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em : hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em”. 

Bài học đã quá rõ. Nó được gửi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai, mờ mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng. Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng.

Truyện : Đã quá muộn. 

Đã ba đêm, người ta nghe văng vẳng tiếng nức nở và khẩn khoản của một thanh niên ở ngoài nghĩa trang từ một ngôi mộ của một người đàn ông 50  tuổi mới được chôn cất một tuần :”Cha ơi, con xin lỗi cha. Cha tha lỗi cho con đi cha. Cha có nghe không cha” ? Thì ra vì xích mích với cha anh đã bỏ nhà ra đi. Thời gian giúp anh hiểu ra  tình cha. Trở về xin lỗi thì đã trễ.

Chúng ta có thể kết luận : Muốn đạt hạnh phúc đời đời ta phải trở nên nghèo khó, nghĩa là ta không dính bén của cải trần gian này. Ta có lắm của nhiều tiền là một việc tốt. Ta biết dùng nó để tạo cuộc sống ấm no cho bản thân, gia đình và xã hội, một điều kiện cần thiết để thực thi lòng mến Chúa yêu người. Ngoài ra, ta cũng biết chia sẻ với người anh em đang thiếu thốn như là một trách nhiệm phải làm chứ không như là một việc thi ân giáng phúc. Dĩ nhiên sự chia sẻ đó phải phát xuất từ tấm lòng của ta là giúp người anh em tiến gần Chúa hơn.

 

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

Kính thưa anh chị em

Với câu chuyện hôm nay Chúa muốn cho chúng ta thấy hai điều  rất căn bản của cuộc sống này:

+  Đàng sau cái thế giới mà hôm nay chúng ta đang sống còn một thế giới khác nữa

 Đồng thời với tất cả những diễn tiến sống động trong câu truyện giữa Abraham và người giầu có, Chúa còn cho chúng ta thấy thêm một sự thật nữa đó là có một mối dây liên hệ mật thiết giữa cuộc sống hôm nay và thế giới mai sau.

I. CHÚNG TA HÃY NHÌN VÀO CUỘC SỐNG CỦA HAI NHÂN VẬT TRONG CÂU CHUYỆN .

Cả hai đều là những con người sống trên đất. Đời sống của hai người được

– Bắt đầu với việc sinh ra.

Cả hai đều được sinh ra. Không ai trong hai người được lựa chọn hay được hỏi ý kiến trước khi được sinh ra trên đời, nhưng khi đã được sinh ra rồi thì cả hai đều có quyền sống như một con người. Bản hiến chương nổi tiếng của Liên hiệp quốc năm 1948  đã công khai xác định điều đó

– Và kết thúc với cái chết.

Cuộc sống của hai người được diễn ra giữa hai làn mức được coi như là định mệnh đó .

Vì là người cho nên mọi người đều có quyền được chia sẻ những tài sản chung mà Thiên Chúa đã trao cho cả loài người quản lý. Thế nhưng sự việc thực tế từ trước cho đến bây giờ chưa bao giờ được như thế. Có người thì chiếm hữu quá nhiều. Có người thì thiếu thốn mọi sự.

Năm Tân hợi 1910 nhà Cách mạng Tôn dật Tiên bên Trung hoa đặt ra bốn mục tiêu để theo đuổi với mục đính là làm cho cuộc sống con người nhờ đó mà được tốt đẹp, xứng đáng với con người hơn. Bốn mục tiêu đó là: Ăn – Ở – Đi – Mặc.

Xét theo bốn mục tiêu này thì

+ Người phú hộ trong câu truyện hôm nay có tất cả mọi sự.

– Ăn thì Tin Mừng mô tả: Ngày ngày yến tiệc linh đình.

–  thì tuy Tin Mừng không cho chúng ta biết rõ nhưng Tin Mừng cho một chi tiết rất thú vị là trước nhà của người đó có cổng. Tiếng Hy lạp gọi là “poulon”. “Poulon” là loại cổng rất đẹp, chỉ có những ngôi nhà thật sang trọng mới có.

– Đi thì có lẽ ta khỏi cần phải nói. Chắc chắn phương tiện của người phú hộ phải hơn hẳn những người khác.

– Còn mặc thì theo Tiến sĩ Morgon, một nhà chú giải Tin Mừng tôi rất ưa thích, nói rằng chiếc áo vải gai mịn người đó mặc có giá trị bằng vàng nặng gấp 6 lần cái áo đó.

Tóm lại là người đó có tất cả. Có dư dật.

+ Còn Lagiarô người nghèo khó thì chẳng có gì.

– Ăn thì Tin Mừng mô tả: Chỉ ước, ước được những thứ từ bàn ăn của người giầu có rơi xuống… vậy mà cũng không được. Thật là đáng thương. Mơ ước những thứ rơi rớt từ bàn ăn của người giầu có xuống để có chút cho vào bụng cho đỡ đói mà cũng không có.

–  thì chẳng có nhà. Địa chỉ thường trú của Lagiarô là ở gần cổng “poulon” đẹp đẽ của nhà người giầu có. Cứ theo Tin Mừng mô tả thì có lẽ anh đã ở tại đó rất lâu…Lâu đến mức độ những con chó của người giầu có đã quen thuộc – không những không còn sủa, còn xua đuổi người nghèo như những con chó khôn ngoan của những người giầu có thường làm – mà trái lại xem ra chúng đã trở thành bạn hữu của anh ta…chúng đến liếm những chỗ lở loét trên con người của anh ta.

– Đi thì chúng ta khỏi bàn đến. Một con người như thế là sao mà có được cơ hội để đi đến đâu. Và giả như có đi thì nào có được ai sẵn sàng tiếp đón một con người như thế này.

– Và cuối cùng là mặc thì Tin Mừng bảo: thật rách rưới. Chắc là còn có thêm nhiều mùi hôi hám nữa.

Đến đây thì chúng ta thấy:

Khúc đầu của hai người giống nhau. Thật giống nhau… Đều là những con người được sinh ra để làm người sống trên đời.

Nhưng khúc giữa sao mà KHÁC NHAU nhiều quá.

Và bây giờ đến khúc cuối. Tin Mừng nói cả hai đều chết. Người giàu có chết và Lagiarô người nghèo khó cũng chết.

– Người giầu có chết – Của cải, châu báu vàng bạc, các thứ của ngon vật lạ trên đời, quần áo gấm vóc lụa là … tất cả những thứ đó đều không đủ sức giữ cho người đó khỏi chết.

– Và Lagiarô người nghèo khó cũng vậy.

Cả hai dều chết. Một sự giống nhau nữa.

Với những người không tin thì như thế là xong. Thế là chấm dứt cuộc sống của một con người đã có một thời được sống trên đất.

Thế những đối với Chúa thì không như thế

Một bức màn được mở ra. Thế giới đàng sau cuộc sống trên đất được tiếp nối bằng một thế giới khác.

– Người giầu có bị vứt vào hỏa ngục

– Còn Lagiarô người nghèo khó thì được đưa lên, lên rất cao, cao đến tận lòng của tổ phụ Abraham.

Một sự đổi đời nhanh đến chóng mặt.

II. CHÚA MUỐN DẠY GÌ QUA CÂU CHUYỆN NÀY?

Chúa muốn nhắn nhủ mọi người còn sống hai điều:

+ Bên kia cái chết, nhân cách và ý thức con người vẫn còn tồn tại

Bên kia lằn mức của sự chết cả người giầu có và Lagiarô người nghèo khó vẫn còn tồn tại và vẫn còn nhận ra nhau.

+ Cuộc sống trên đất và cuộc sống sống ở thế giới bên kia  có một sự liên hệ gắn bó mật thiết chặt chẽ với nhau. Sự chết dù có ác nghiệt cách mấy đi nữa cũng không hủy diệt được mối giây liên hệ đó.

Và kết quả là chúng ta thấy:

– Người giầu có sau cái chết đã bước vào thế giới bên kia như một kẻ ăn xin:

– Còn Lagiarô người nghèo khó thì được các thiên thần đưa lên đến tận lòng của tổ phụ Abraham … như một kẻ chiến thắng.

Như vậy vấn đề mấu chốt còn lại mà chúng ta phải suy nghĩ hôm nay là phải sống làm sao để cuộc sống mai sau sẽ trở thành một cuộc cuộc chiến thắng chứ không bao giờ trở thành chiến bại. Mỗi người chỉ có một cuộc đời. Thành công thì sẽ có tất cả. Còn thất bại …chắc là không ai trong chúng ta mong muốn.

Đàng sau làn mức của sự chết thì mọi sự sẽ trở thành vĩnh cửu, không còn có thể thay đổi được bất cứ một sự gì. Đó là một sự thật đáng sợ mà mọi người không được phép coi thường hay không nghĩ tới.

Dửng dưng trước những nỗi khốn cùng của người khác là một tội trước mặt Chúa.

Vào một ngày mùa đông lạnh buốt, ông thị trưởng đầu tiên của Thành phố  New- York nổi tiếng là giầu có phải chủ tọa một phiên tòa.

Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn người này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “gia đình tôi đang chết đói”.

Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không dung thứ cho bất kỳ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng phạt 10 đôla” Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong ví tiền của mình ra 10 dollars và trao cho người đàn ông lo đáng thương kia để ông nộp phạt theo phán quyết của toà. Sau đó ông quay xuống cử tọa và nói tiếp:

– Ông lão này đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quí vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố  giàu có của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp.

Nói xong, ông ra lệnh cho viên cho viện biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão. Khi chiếc mũ đã được chuyền một vòng tòa án và trở về tay mình ông lão đếm được tất cả 47dollars 50xu.

Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì, họ đã sám hối bằng những việc làm rất cụ thể. Xin Chúa cũng cho chúng ta được sống như thế. Amen.

 

.

SỐ PHẬN

Trầm Thiên Thu

Mỗi người có một thân phận và số phận, không ai giống ai, có chăng chỉ là tương tự hoặc gần giống. Thật vậy, những người sinh đôi hoặc sinh ba cũng hoàn toàn khác nhau. Số phận cũng được gọi là số mệnh, số kiếp, hay vận mệnh.

Theo định nghĩa trong Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh: “Số phận là sự sống do Trời định của con người, không phải cứ miễn cưỡng là được.” Theo định nghĩa trong Từ Điển Tiếng Việt của NXB Khoa Học Xã Hội (1997): “Số phận là sự định đoạt cuộc đời của một người được hưởng hạnh phúc hay chịu đau khổ, sống lâu hay chết sớm, do một sức thiêng liêng nào đó.” Cách định nghĩa này đã gián tiếp công nhận vấn đề tâm linh, và không thể hiểu được. Vì thế, nhiều người tin vào bói toán, tử vi, tuổi này hên hoặc tuổi kia xui, ngày tốt hoặc giờ xấu. Nhảm nhí!

Theo Phật giáo, sự may rủi trong số phận không phải do thiên mệnh hay định mệnh mà thân phận mỗi con người là kết quả do quá trình của chúng ta hành động từ một đến nhiều đời. Rõ hơn, con người hiện hữu và tồn tại với các đặc tính khác nhau là kết quả của “cái nghiệp” được tạo tác bởi chính họ trong quá khứ và hiện tại. Thế nên họ mới có thuyết luân hồi. Tất nhiên không phù hợp với Kitô giáo, vì chúng ta tin vào sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa. Và chắc chắn KHÔNG có luân hồi.

Theo tầm nhìn khoa học, số phận là một khái niệm tổng hợp chuỗi các sự kiện trong một chu trình sống của thực thể. Trong đó, chuỗi các sự kiện là sinh ra, lớn lên (với thất tình: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục), tồn tại, đấu tranh, lành – dữ, mạnh – yếu, sướng – khổ, thịnh vượng – suy vong, rồi già nua và chết. Tùy theo đối tượng cụ thể mà có các sự kiện cụ thể. Thực tế là bao hàm tất cả mọi đối tượng đang tồn tại trong vũ trụ (người, vật, quốc gia, lãnh thổ, tổ chức, công ty,…) Nhìn theo góc độ toán học, số phận như một đồ thị hàm số, thế nên số phận của con người là một đồ thị hàm số không gian N chiều. Để đơn giản và dễ hiểu, có thể tập trung phân tích hệ quy chiếu tọa độ theo không gian ba chiều.

Sống với hiện tại là thực tại cần thiết, vì quá khứ không thể tìm lại, còn tương lai không thể biết. Cuộc sống có sầu khổ hoặc mệt mỏi thì cũng nên cười mỗi ngày mà sống, bởi vì có khóc cũng chẳng thể tốt hơn. Tiền nhân khuyên: “Thà đốt lên ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối.” Thật vậy, đừng mất quá nhiều thời gian để than trách hay phó mặc cho số phận. Số phận có thể là do chúng ta tạo nên và chúng ta có quyền quyết định cuốc sống của mình. Cầu nguyện có thể thay đổi số phận.

Trong cuộc sống, những ai thường xuyên tắm rửa thì bụi nào cũng sạch. Tinh thần cũng cần tẩy rửa, linh hồn còn cần hơn nữa. Chiến thắng kẻ địch một vạn lần cũng không bằng chiến thắng bản thân một lần. Chúng ta có thể mất những năm tháng tuổi thơ nhưng không bao giờ được để mất trái tim trẻ thơ trong con người mình. Người khác có thể lừa dối mình, nhưng nhất định mình vẫn chân thành đối xử tử tế với người khác. Đôi khi người ta cần giả ngốc, dù họ không thực sự ngốc, nhưng đừng bao giờ ra vẻ mình khôn.

Cuộc sống nhiêu khê. Hạnh phúc và đau khổ là vấn đề muôn thuở. Càng diệt khổ càng thêm khổ, càng trốn khổ càng tăng khổ. Làm sao đây? Chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ, vì chỉ có chết mới thực sự hết khổ. Kẻ khổ và người sướng, kẻ khóc và người cười, cài xui và cái hên, điều rủi và điều may,… cũng là vấn đề vô tận, giống như “phần cứng” của máy vi tính đã được “cài đặt” sẵn, không thể gỡ ra (uninstall), người ta muốn làm gì thì làm, cứ khởi động lại máy (restart) thì lại trở về trạng thái mặc định (default) – bởi vì tất cả đã được “đóng băng” (deep freeze) rồi. Người Việt cũng có cách “mặc định” riêng: “Người ăn không hết, kẻ lần không ra.” Cuộc đời mãi mãi là một ẩn số, không ai có thể giải trình được. Chỉ có Thiên Chúa mà thôi!

Trong xã hội đời thường, “tỷ lệ” hoặc “cấp độ” sướng – khổ được người ta dựa trên một “phần mềm” (software) như dạng mặc định: Tiền bạc. Nên người ta vẫn thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được.” Xem chừng tiền có sức mạnh vạn năng tưởng chừng như một thần linh, thảo nào người ta gọi đó là Thần Tài. “Vị thần” này được người ta tôn sùng rất đa dạng và tinh vi. Vì người ta tôn sùng “vị thần” này ở một dạng nào đó, thế nên bất kỳ mối quan hệ nào có “đụng chạm” đến tiền bạc thì dễ gặp rắc rối. Thậm chí “vị thần” này còn len lỏi cả vào tôn giáo nữa. Nói chung “thần tài” xuất hiện ở mọi phạm vi, bất kể đời hay đạo. Thật đáng sợ!

Tiền bạc như lưỡi gươm nhiều lưỡi, vừa bén vừa nhọn, có thể “cắt” mọi mối quan hệ – dù là máu mủ ruột rà. Louisa May Alcott nhận định: “Tiền bạc là gốc rễ của cái ác, và nó lại là một cái rễ hữu ích đến mức chúng ta không thể sống mà không có nó, cũng như chúng ta không thể sống mà không có khoai tây” (Money is the root of all evil, and yet it is such a useful root that we cannot get on without it any more than we can without potatoes.) Với người Tây phương là khoai tây, với người Việt là cơm gạo – như người ta thường dùng “dây chuyền” Cơm-Áo-Gạo-Tiền. Thật là rắc rối quá trời!

Như một quy ước bất thành văn, người ta coi tiền bạc là “thước đo” của cuộc sống, nó khiến người ta bận tâm không ngừng, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nó là điều rất khó. Samuel Johnson: “Tiền bạc và thời gian là những gánh nặng ghê gớm nhất của cuộc đời, những kẻ bất hạnh nhất là những người sở hữu chúng nhiều hơn mình có thể sử dụng” (Money and time are the heaviest burdens of life, the unhappiest of all mortals are those who have more of either than they know how to use.) Thật là thú vị với vế hai trong câu nói này!

Thời đại bùng nổ thông tin, báo in và báo mạng, đặc biệt là các trang xã hội như facebook, twitter, instagram, linkedin, pinterest,… chúng ta được biết rằng, lương bổng của mấy “ông lớn” mỗi tháng có tới vài trăm triệu VNĐ, trong khi công nhân làm chỉ vài triệu đồng. Vừa có quyền vừa có tiền, họ sống ung dung, trở thành đại gia “nhanh như chớp” mà không phải tốn giọt mồ hôi nào. Họ dư tiền nên chiều chuộng con cái. Con cái họ thoải mái hưởng “phúc ấm” nên cứ “vô tư” tiêu xài mỗi đêm khoảng một vài trăm triệu tại các quán bar. Đối với họ, đó chỉ là “chuyện nhỏ” thôi! Chính vì tiền bạc mà người ta đổ đốn, hư thân, mất nết. Và cũng chỉ vì tiền bạc mà người ta có thể phạm tội ác tày trời, khắp nơi đây đó vẫn thấy xảy ra những vụ án sát nhân nghiêm trọng liên quan ông Thần Tài. Thậm chí có những vụ giết người chỉ vì một số tiền không đáng kể.

Tiền không là Tiên hay Phật, mà chỉ là Vật, nhưng nó có ma lực. Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Người ham tiền bạc là người giả hình, ưa bề ngoài, trọng hình thức, khoái lễ nghi, mê bày vẽ,… bởi vì “người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc.” (Lc 16:14) Với mức độ nào đó, và dù là ai, chúng ta cũng đang có “nét” của dân Pharisêu, “máu” của nhóm biệt phái.

Thời nào cũng thế, xã hội nào cũng có những “tay ăn chơi,” thường gọi là “dân chơi,” Tây hóa là playboy. Người giàu dư tiền bạc mới dám ăn chơi (không cần ăn thật), người nghèo có muốn ăn chơi cũng chẳng có mà dám. Nói chung, giới nào cũng có “kiểu ăn chơi” đặc thù. Phung phí khi mua một món đồ chưa thực sự cần thiết, xài đồ xịn hoặc hàng hiệu để chứng tỏ mình có “đẳng cấp” hoặc để lòe thiên hạ, bịp người khác, đó cũng là một dạng “ăn chơi” vậy. Thời nay có đủ dạng và đủ mức. Nhỏ chơi ít, lớn chơi nhiều. Đủ kiểu liều! Ai không chơi bị coi là nhát, và còn bị họ ghét.

Theo “nhịp đời tăng tốc” của xã hội coi trọng hình thức, nặng vật chất (dạng duy vật), người giàu vẫn thường “xài sang”, sống thoải mái, không phải “đau đầu” tính toán chuyện “ăn bữa nay, lo bữa mai.” Vì sung sướng mà người ta dễ sa đà, rồi là đà sà theo quỷ ma. Ngày xưa, ngôn sứ A-mốt đã cảnh cáo: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion, và sống an nhiên tự tại trên núi Samari, họ là những nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân khiến nhà Ítraen phải đến cầu cạnh.” (Am 6:1) Kệ. Ai khốn thì khốn, mình cứ chơi cho đời biết tay!

Ngôn sứ A-mốt có ý gì? Ông giải thích rạch ròi: “Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng đàn hát nghêu ngao; như Đavít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ! Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày, dẫn đầu những kẻ bị lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (Am 6:4-7) Ôi chao, những từ ngữ chỉ trích rất thẳng thắn, gây đau điếng và nhức buốt quá!

Thế nhưng liệu chúng ta có “dính líu” chút nào giống “phong cách ăn chơi” của họ? Và liệu chúng ta có cho rằng đó là nói người khác chứ “không nói mình” hay chăng? Dù sao thì cũng thấy “đau cái điền” chứ chẳng chơi.

Chắc chắn rằng Thiên Chúa chí thiện và chí minh, ai sống sao thì Ngài xử vậy, không thiên vị bất cứ ai. Thánh Vịnh gia nói: “Chúa xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.” (Tv 146:7-8) Cái “nhưng” của Chúa mới đáng sợ, Ngài không đùa vui đâu! Tại sao vậy? Bởi vì “Chúa nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời.” (Tv 146:10)

Trong thư gởi cho Thánh Timôthê, Thánh Phaolô tha thiết khuyên nhủ: “Phần anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin, giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng.” (1 Tm 6:11-12) Những lời khuyên như rót vào tai, nhưng không hề là “lời đường mật.” Thánh Phaolô không chỉ nói riêng với Thánh Timôthê xưa kia, mà vẫn thực sự nói với mỗi chúng ta – cả hôm nay và ngày mai.

Vừa là lời khuyên vừa là mệnh lệnh, Thánh Phaolô nói thêm: “Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức Kitô Giêsu là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phongxiô Philatô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh: Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xuất hiện. Đấng sẽ cho Đức Kitô tỏ hiện vào đúng thời đúng buổi, là Chúa Tể vạn phúc vô song, là Vua các vua, Chúa các chúa.” (1 Tm 6:13-15) Qua đó, Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta khi làm bất cứ cái gì cũng phải NHÂN DANH ĐỨC KITÔ, làm chỉ vì Chúa mà thôi, chứ đừng ảo tưởng hoặc vì bất cứ động lực nào. Thật chí lý với lời xác định của Pythagore (triết gia và nhà toán học, người Hy Lạp, 580-495 trước công nguyên) từ xa xưa: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại.” To lớn và vĩ đại có ý nghĩa tương tự nhưng lại hoàn toàn khác nhau.

Quả thật, “chỉ mình Người là Đấng trường sinh bất tử, ngự trong ánh sáng siêu phàm, Đấng không một người nào đã thấy hay có thể thấy. Kính dâng Người danh dự và uy quyền đến muôn đời. Amen.” (1 Tm 6:16) Vật chất cũng có mối liên quan số phận. Đại văn hào Shakespeare nói: “Tiền bạc là thế lực hữu hình chống lại Thiên Chúa vô hình.”

Trình thuật Lc 16:19-31 là dụ ngôn điển hình về vấn đề giàu – nghèo, sướng – khổ. Đó là chuyện đời của nhà phú hộ và người nghèo Ladarô. Phú hộ là người giàu nứt đố đổ vách, Ladarô là người nghèo rớt mồng tơi.

Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, người ta có câu “tứ đại phú hộ” để chỉ bốn người giàu nhất Saigon – kể cả miền Nam Kỳ Lục Tỉnh và Đông Dương thời đó. Để dễ nhớ, dân gian có câu “Nhất Sỹ, Nhì Phương, Tam Xường, Tứ Định.” Xin mở ngoặc: Ông Huyện Sỹ tên thật là Philipphê Lê Phát Đạt (1841-1900, được Pháp phong Huyện hàm nên được gọi là Huyện Sỹ.) Ông quê ở làng Bình Lập, tỉnh Tân An – nay là Thị xã Tân An, tỉnh Long An. Ông dành nhiều thời gian cho hoạt động phát triển nông nghiệp và truyền bá đạo Công giáo, tài trợ xây Nhà thờ Huyện Sỹ – Chợ Đũi – ngay trên phần đất của ông. Cháu ngoại của ông được gả cho vua Bảo Đại, mệnh danh là Nam Phương Hoàng Hậu – tức là cô Nguyễn Hữu Thị Lan, con bà Lê Thị Bính.

Ngoài ra, vị trí thứ tư còn được dành cho một số đại phú hộ khác – Tứ Trạch, Tứ Hỏa hoặc Tứ Bưởi. Ngày xưa, Công tử Bạc Liêu “đốt tiền nấu trứng tỏ ra mình giàu”, ngày nay gọi là “đại gia”. Giới này thường chảnh lắm. Còn ông Huyện Sỹ, tuy giàu sụ nhưng ông khôn khéo xử lý đồng tiền theo hướng tốt lành và hữu hiệu. Giàu mà không kiêu căng, giàu mà đức độ.

Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu đề cập một ông nhà giàu mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn người nghèo khó tên Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn tiệc rớt xuống mà ăn cho no mà cũng chẳng được. Có bầy chó đến liếm ghẻ chốc trên cơ thể anh ta.

Cuối cùng, cả hai đều “trở về cát bụi” theo quy luật muôn thuở. Anh nhà nghèo được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham, ông nhà giàu phải vô âm phủ. Dưới đó, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Ông ta kêu xin: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” Ông Ápraham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” Hoàn toàn công bằng, vì Thiên Chúa rất công bình và chính trực. Lẽ nào người nghèo khổ mãi chịu số phận hẩm hiu? Nếu vậy thì hóa ra Chúa bất công. Không, không bao giờ!

Cố năn nỉ ỉ ôi cho mình mà không được, ông nhà giàu chuyển hướng: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” Ông Ápraham đáp: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ thì chúng cứ nghe lời các vị đó.” Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.” Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” Cuộc đối thoại thẳng thắn, minh bạch và thú vị. Đại gia vẫn “mánh” dữ nghen!

Ai cũng biết thế nào là kẻ cố chấp. Họ lì lợm, ngang tàng, chẳng muốn nghe ai, dở òm mà luôn cho mình là hay, nhận mình là đúng. Con người có máu tò mò lắm. Người ta thích những “sự lạ”, thấy gì lạ cũng tưởng hoặc cho là Phép Lạ. Nhưng có thấy Phép Lạ thật thì cũng chẳng ăn thua gì, bằng chứng là cách sống của họ không có gì thay đổi tích cực. Đó là những người có cái tên nghe “kêu” lắm: Nguyễn Y Vân (vẫn y nguyên) hoặc Vũ Như Cẩn (vẫn như cũ). Họ thích GIỮ ĐẠO chứ không ham SỐNG ĐẠO, đôi khi hóa mê tín hoặc cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Cẩn tắc vô ưu. Tiền nhân nhắc nhở đúng thật!

Người ta có cách nói kiểu khôi hài nhưng thâm thúy: “Khi vui chẳng nhớ tới ai – Khi nóng cứ trái tai mà sờ.” Ui da! Cái “trái tai” cũng khổ vì bị người ta lợi dụng. Sự hối hận có thể đồng nghĩa với muộn màng, bởi vì nước tới chân thì không thể nhảy kịp – vì đâu phải là nước thủy triều lên từ từ, mà là sóng mạnh hoặc sóng thần.

Chính Chúa Giêsu đã từng nói thẳng: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có.” (Mt 26:11; Ga 12:8) Ngài “nhắc khéo” chúng ta về động thái bác ái đích thực: Mở cả tấm lòng, mở cả đôi tay, và mở cả “chiếc túi đựng thần tài” nữa. Thánh Phaolô nói: “Vui với người vui, khóc với người khóc.” (Rm 12:15) Đó là sống đạo qua việc thể hiện đức ái, là chia sẻ, cảm thông, hiệp thông,…

Và rồi Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta “bán tài sản và đem cho người nghèo,” (Mt 19:21) còn khi đãi tiệc thì “mời những người nghèo khó, tàn tật, què quật, đui mù.” (Lc 14:13) Đó làm hành động cụ thể làm chứng về Thiên Chúa và để được nên công chính. Có khi nào Chúa Giêsu nói đùa cho vui chăng? Không bao giờ, Ngài không hề nói bóng gió, mà Ngài nói thật – và rất thật. Coi bộ “căng” lắm đấy!

Thật diễm phúc khi được làm người. Tuy nhiên, mọi người đều bình đẳng, và như nhau với hai bàn tay trắng khi bước vào trần gian, và khi rời thế gian cũng vẫn chỉ với hai bàn tay trắng. Đó là điều ai cũng PHẢI NHỚ. Nhớ không chỉ để nhớ như bài học thuộc lòng, mà nhớ để hành động sao cho đúng Thánh Luật của Thiên Chúa: Mến Chúa và Yêu Người – không loại trừ kẻ thù, và không thể yêu suông bằng lời nói.

Chuyện giàu – nghèo và sướng – khổ là chuyện muôn thuở. Được sướng mà không biết cách tận hưởng cũng hóa khổ, chịu cảnh khổ mà biết cách chấp nhận cũng hóa bình thường, có khi vẫn là sướng. Giàu gì và nghèo gì? Đó mới thực sự là vấn nạn của con người.

Lạy Thiên Chúa là Đấng quan phòng và tiền định, chúng con cảm tạ Ngài đã cho chúng con được làm người, xin giúp chúng con luôn biết sống yêu thương và trắc ẩn với lòng chân thành, xin biến đổi chúng con theo ý Ngài để chúng con nên khí cụ hữu hiệu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

 

.

NGƯỜI PHÚ HỘ XẤU BỤNG VÀ LAZARO NGHÈO KHÓ

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. Trình thuật có tính cách dụ ngôn này là của riêng Lc, được ông lồng vào “phần giữa” của phúc âm. Trình thuật này rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Lc thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ họ tùy trường hợp. Nó cũng rất ăn khớp với chủ đề của hầu hết chương 16, mà nó là đoạn kết thúc: sử dụng của cải để được cứu rỗi cá nhân; chính trong nhãn quan cứu độ mà con người phải biết sử dụng của cải trần thế (16,1-13), dù các người biệt phái nghĩ thế nào đi nữa (cc.14-15), sử dụng của cải một cách khác sẽ đưa đến khốn khổ bất hạnh ở thế giới bên kia (cc. 19-31). Tuy nhiên, tương quan của trình thuật này với các câu đi ngay trước nó (cc.16-18) xem ra không có, dù có tiếng phụ ngữ dé được đặt ngay sau chữ thứ nhất câu 19a. Quả thế, các câu 16-18 không đề cập đến của cải, mà nói về cách chiếm đoạt vương quốc, về sự trường tồn của lề luật và về tính cách bất khả phân ly của hôn nhân. Bởi đó văn mạch của trình thuật chúng ta đang nghiên cứu không rõ ràng mấy.

2. Ngay cả bản văn trình thuật cũng làm các nhà chú giải ngạc nhiên phần nào. Họ bỡ ngỡ vì trình thuật không có lời dẫn nhập chính đáng (ví dụ hãy so sánh với Lc 15,1-3), cũng như không có phần áp dụng ở cuối của cải để làm nổi bật bài học (so sánh với Lc 15,7.10). Bởi đó họ có rất nhiều cách phân chia hoặc hiểu ý nghĩa đích thật của bản văn này. Tên riêng của người ăn mày cũng làm họ ngạc nhiên, vì các dụ ngôn không bao giờ nói đến tên tuổi, lý lịch của các nhân vật. Do đó người ta suy diễn dù hơi hấp tấp, nhất là trong quá khứ (x.Tertullien, De Anima, VII), rằng bản văn này kể lại một câu chuyện có thực, chứ không phải là một trình thuật có tính cách dụ ngôn. Nhưng làm sao một câu chuyện có thực lại có thể xảy ra theo sát một chủ đề văn chương nối tiếp như thế ở miền Trung Đông cổ xưa, và làm sao câu chuyện có thực đó lại chất chứa biết bao nét có tính cách dụ ngôn như thế (việc mô tả thế giới bên kia, cuộc đối thoại giữa Abraham và người phú hộ…)

3. Cảnh đầu tiên của dụ ngôn trình bày một mâu thuẫn sống động. Hai nhân vật có hai địa vị xã hội hoàn toàn chênh lệch đối diện nhau ở đây: một người giàu có thường xuyên dư đầy của cải, một kẻ nghèo khó thường xuyên thiếu thốn ngay cả những gì cần thiết để sống. Người giàu có không những không cần lao động để sống, mà còn được sử dụng một gia tài kếch xù. Ông ăn mặc sang trọng với gấm tía, nhung lụa như một hoàng tử; ngày ngày yến tiệc linh đình. Bản văn không cho biết tên ông, chỉ có một vài thủ bản (Sahidique; p.75) vì muốn chứng tỏ bản văn này là một bản văn lịch sử, nên gọi ông ta là Nevès, Ninveveh hay Pinées. Người nghèo khó sống trong trình trạng còn cùng cực hơn cả người phải vất vả lao động để kiếm ăn, ông là một người ăn mày (ptôchos), một tên hành khất kém may mắn, đầy bệnh hoạn và tứ cố vô thân. Ông chỉ ao ước ăn những gì rơi rớt từ bàn ăn của người giàu có. Về điểm này, có nhiều thủ bản Latinh (Vulg.) đã đồng hóa cách quá đáng ông ta với người con hoang đàng đang chết đói “không ai cho ăn” (Lc 15,16). Sức khỏe ông thật mong manh, vì đầy ung nhọt đến độ không còn sức xua đuổi bầy chó đến liếm vết thương lở lói của ông. Ý nghĩa biểu trưng của cái tên được gán cho ông, còn nói rõ hơn nỗi khốn khổ hiện tại của ông và sửa soạn cho ý tưởng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ ông sau khi chết (cc.22tt). Lazarô, viết tắt chữ Eléazar, có nghĩa là Thiên Chúa giúp đỡ. Quả thực, không có dụ ngôn nào khác nói đến các nhân vật của nó. Tuy nhiên chúng ta đừng vội ngạc nhiên về trường hợp dị thường đang gặp, là trường hợp bản văn sống động hơn. Vì trong các trình thuật giả tưởng của Thánh kinh, các vị anh hùng cũng được đặt tên riêng (Ruth, Esther, Giuđit…).

Trong cảnh đầu tiên của dụ ngôn này, ngoài việc mô tả khéo léo hai nhân vật đối nghịch ấy, còn có một cái gì đó sâu xa hơn nữa. Trước khi nghe tiếp câu chuyện, một thính giả Do thái khi nghe đến đây có thể rút ra bài học lớn lao: việc nhắc lại các lời khuyên nhủ trong Thánh kinh về bổn phận người giàu có đối với người nghèo. Đã nhiều thế kỷ ở Israel, các sách thánh không ngừng nhắc lại lối xử thế đối với người nghèo đã mạnh mẽ chống lại việc vi phạm các lối xử thế đó, đã nói đến Thiên Chúa như là đấng bênh vực người nghèo, đã gán cho đấng Messia tương lai phận vụ tái xác định giá trị của người nghèo, nhất là nhấn mạnh đặc biệt đến bổn phận bố thí và ân cần chỉ rõ những hình thức bố thí khác nhau. Việc bố thí vào thời của dụ ngôn được coi trọng trong môi trường Do thái đến nỗi người ta luôn lưu tâm đến vẻ bề ngoài của việc bố thí (x.Mc 7,9-13; 12,40). Do đó trong cảnh này, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy một người giàu có đang có một cơ hội thường xuyên, qua con người ăn mày, để sử dụng của cải như Thánh kinh thường dạy, nhưng vì họ hà tiện ông đã không chụp lấy cơ hội đó. Người giàu có này không thể tha thứ, vì ông biết Thánh kinh như mọi người Do thái khác, có đầy đủ của cải, luôn có người nghèo trước mắt, đã nhận thấy nỗi khốn cùng tột độ cũng như có khả năng cải thiện trình trạng khốn cùng đó. Nhưng ông đã không làm gì cả, vẫn bỏ rơi người nghèo bên vệ đường, kiếm đồ ăn dơ dáy, bị mụn nhọt hành anh khổ sở.

Cuối dụ ngôn, bài học chúng ta vừa nhấn mạnh trở nên sáng tỏ hơn cốt để toàn bộ dụ ngôn được đồng nhất. Quả thế, thái độ của người giàu có không phù hợp với giáo huấn của lề luật và các tiên tri. Nếu đã tuân theo giáo huấn này, chắc ông đã hoán cải (cc. 29-31). Nhưng ngay cả trước khi đọc phần kết quả của dụ ngôn, độc giả phúc âm thứ ba đã được chuẩn bị để rút tỉa bài học rồi. Kỳ thực, phải chăng độc giả, trong mạch văn của phần trước đã chẳng đọc thấy rằng: phải sử dụng của cải đòi này để mưu ích cho tương lai (Lc 16,1-8), rằng việc bố thí nhằm chuẩn bị cho tương lai đó, nghĩa là cho được vào nơi cư ngụ vĩnh cửu (cc. 9-12), rằng của cải tự nó không phải là dấu chỉ được Thiên Chúa chúc phúc, không phải là dấu chỉ của con người thánh thiện, như các người Pharisêu giàu có xấu bụng thường nghĩ (cc.14-15) ? Học thuyết trên đã trở nên một trong các chủ đề để dạy giáo lý tiên khởi (x.Lc 10,29-37; 12,13-21; 14,13-14…). Thánh Giacobê đã là người hăng say phổ biến học thuyết đó, bằng cách dùng các kiểu nói Chúa Giêsu đã dùng (Giac 5,1-6).

4. Sau cảnh sống tại thế của kẻ giàu người nghèo, tác giả nói đến cuộc sống của họ bên kia thế giới, sau khi từ trần. Cũng đối nghịch giữa cảnh huống của hai người, nhưng đã đảo ngược hoàn toàn. Lần này người giàu ngồi chỗ rốt, chỗ đau khổ khốn cùng; người nghèo ngồi chỗ nhất, chỗ hạnh phúc. Điều này được diễn tả qua ngôn ngữ tượng hình của thời đó. Quả thế các ngụy thư và văn chương của các thày rabbi đã nói đến các thiên sứ mang linh hồn các người công chính về bên kia thế giới (x. Le Testament d’Abraham, l’Assomption de Moise, le Targum in Cant. 4,12). Chúng cũng nói đến địa nhục (hades, c.23), là từ ngữ dịch từ chũ Shéol, cũng như nói đến chỗ ở của mọi người quá cố, và thường phân biệt trong đó cũng như trong dụ ngôn này, có hai vùng cách biệt đối nghịch nhau. Các người công chính được vào nơi mát mẻ, có tiệc tùng linh đình (Eđen, thiên đàng), còn người gian ác bị giam cầm trong nơi đầy lửa thiêu đốt (Ghéhenne, hỏa ngục)(x.4sd; 4Mcc; Hén; 2Baruch; Talmund: Bêrrâkôth 28b; Derêk’êrêtz rabba 1,1; 3,1…).

Khi nói theo ngôn ngữ qui ước đó, Chúa Giêsu hoàn toàn không muốn mặc một giá trị tuyệt đối cho tất cả mọi chi tiết trong dụ ngôn; phù hợp với thể văn dụ ngôn, Ngài chỉ giữ lại ở đây ý tưởng tổng quát. Sau khi chết, người nghèo lập tức được hưởng hạnh phúc, được an ủi (c.25), được ngồi trong lòng Abraham (cc.22-23); thành ngữ sau cùng này có thể ám chỉ người nghèo đã được tiếp đón như đứa con hoang đàng trở về được cha mình ôm vào lòng (x.Lc 15,20), hay đúng hơn, ông ta đã được đặt ngồi bên hữu Abraham trong bàn tiệc thiên đàng (x.Mt 8,11; Lc 11,13.27-28; Gio 13,23.25). Còn người giàu có sau khi được chôn cất tại trần thế này, chứ không phải ở “địa ngục”, như các bản dịch Latinh (Vulg; VI, c.e.l.r) lập tức bị trừng phạt. Người ta không thể chứng minh việc đề cập đến sự chôn cất là phương thế cuối cùng được dùng để làm nổi bật sự sang trọng lộng lẫy của người giàu có. Nhiều người cho việc đó có nghĩa như thế, nhưng điều đó có thể chỉ là cách làm nổi bật việc ông vĩnh viễn ra đi hay việc ông chấm dứt cuộc sống tại thế.

Cuộc đối thoại giữa người phú hộ và tổ phụ Abraham (cc.24-26) muốn cho thấy rằng những người Do thái xấu nết, sau khi chết, không được hưởng nhờ công nghiệp của tổ tiên họ; hẳn nhiên Abraham là cha của họ (c.24), nhưng điều đó không giúp gì cho ơn cứu rỗi của họ (x. Mt 3,9; Gio 8,37-58). Số phận của họ ở thế giới bên kia tùy thuộc cuộc sống tại thế của họ (c.25) cách dứt khoát (c.26). Vực thẳm không thể vượt qua ở địa ngục biểu trưng tính cách dứt khoát của số phận bên kia thế giới. Còn cách nói: cuộc sống tại thế xác định số phận cuộc sống ở thế giới bên kia (c.25), làm người ta bỡ ngỡ nếu bị tách biệt khỏi mạch văn. Trong trường hợp đó, hình như chỉ có luật về sự đảo ngược trật tự xã hội là còn giá trị mà không tham chiếu đến luật luân lý và sự công bằng của Thiên Chúa. Nguyên tắc trong câu 25, phải được chú giải dựa vào các điều đã nói ở trên (cc.19-21) và sẽ nói sau này (cc.27-31). Người giàu có chỉ bị trừng phạt vì khi còn sống tại thế không biết dùng của cải đúng cách. Đối lại, người nghèo khó chỉ được tưởng thưởng vì đã chấp nhận tinh thần của Thánh kinh sự thiếu thốn ông phải chịu: ngay cả tên của ông (người được) Thiên Chúa giúp đỡ cho thấy ông đã bị loài người bỏ rơi, nên ông đã phó thác cho lòng Chúa xót thương. Sự giàu có cũng như nghèo khổ không phải là những giá trị tuyệt đối, vì cái chết làm cho chúng phải tiêu tan. Với ơn Chúa, đấng tạo dựng của cải, các kẻ giàu có mới có thể được cứu rỗi (Lc 18,24-25); và nếu không có tinh thần siêu thoát đích thực, người nghèo cũng có thể bị diệt vong (Lc 12,13-14; 14,25-27).

5. Cuộc đối thoại giữa người giàu có và tổ phụ Abraham xem ra đã kết thúc. Và này Lc lại nói đến nó dưới hình thức hai bài đọc. Trước tiên ông xác định giáo huấn về cách sử dụng tốt của cải (cc.27-29), là giáo huấn cho đến lúc đó chỉ được giả thiết là có, hơn là đã được định thức (plus supposé que formulé). Sau đó ông làm nổi bật lý do đích thật của việc không chịu hoán cải (cc.30-31). Việc nhắc lại cuộc đối thoại này, làm liên tưởng đến các dụ ngôn có hai lược đồ bổ túc nhau (x.Lc 15,11-32; Mt 20,1-6; 22,1-14…). Nó cũng gợi lên các áp dụng thực tiễn thường theo sau hình ảnh hay câu chuyện dụ ngôn: cũng như… cũng như…; việc này có áp dụng cho 5 người anh em giàu còn sống của nhà phú hộ đã qua đời?

Lối sống của nhà phú hộ đã qua đời đang được nhiều người tại thế bắt chước, các anh em ông cũng giàu có như ông, cũng đã sử dụng của cải cách ích kỷ. Họ sẽ phải chịu đựng cùng một án phạt, nếu không chọn một lối sống khác, là lối sống từ bi với người nghèo. Họ cần được báo động rồi, lời báo động này đã được chất chứa trong các lời khuyên răn của lề luật và của các tiên tri, về việc sử dụng của cải. Họ hãy lưu ý đến để tuân giữ, nhờ đó sẽ được cứu rỗi (c.29). Quả thực, chính Chúa Giêsu đã nói thế qua miệng Abraham, chính Ngài ngỏ lời với toàn thể cử tọa giàu có của Ngài. Ngài khẳng định với họ là đã có trong các sách thánh ánh sáng cần thiết để sử dụng của cải một cách thiết thực, đem lại phần rỗi cho họ. Khi hoàn toàn chịu trách nhiệm về thái độ tại thế của họ và về hậu quả tất định do thái độ đó gây ra, là điều đã được Ngài diễn tả bằng chữ: chúng hãy nghe (lề luật và các tiên tri), Chúa Giêsu muốn cho họ hiểu rằng họ đã nhận được từ Thiên Chúa ánh sáng cũng như sức lực đủ để đáp lại lời mời gọi của lề luật và các tiên tri (x.Lc 18,27). Vậy nguyên tắc đã được định thức ở trên, về việc đảo ngược hoàn cảnh mỗi người sau cuộc sống này (c.25), không có giá trị tuyệt đối, nguyên tắc đó chỉ đưa ra một việc có thể xảy ra đặt cơ sở trên luân lý.

Qua trung gian các đối thoại viên đó, Chúa Giêsu thêm rằng các phương thế thông thường đó đủ gây nên lòng thống hối (metanoia) nơi các người giàu ích kỷ, và làm cho họ sử dụng tốt của cải trần thế này. Quả quyết ngược lại là sai lầm, Ngài đã nói rõ như thế (c.30). Hơn nữa, việc từ chối các phương thế thông thường đó làm cho người có trách nhiệm đây không thể nhận ra sức mạnh thuyết phục của các phương thế phi thường bất ngờ xảy đến, cho dù có người chết hiện ra để xác quyết nỗi khốn cùng vĩnh cửu mà ông đang phải chịu (c.31). Vậy lý do đích thực của lòng thống hối cái không phải là vì không đủ phương thế đã đề nghị trước đây, phần cuối của dụ ngôn (cc.27-31) thật ăn khớp với toàn bộ dụ ngôn (cc.19tt). Không nên tách nó ra khỏi toàn bộ đó. Thật là vô căn cứ khi xem đây là một phần được thêm vào sau này, có giáo thuyết khác biệt, ít nhiều liên hệ với trình thuật Lazaro sống lại ở Bêtania, hay với trình thuật Chúa Giêsu phục sinh.

Nếu liên kết dụ ngôn này với văn mạch trực tiếp và với các bản văn khác xa hơn, ta có thể tin rằng ở đây Chúa Giêsu nhắm đến các người biệt phái xấu xa lúc bấy giờ; họ là những người ham mê tiền bạc, đã lên mặt khinh khỉnh khi nghe khuyên nên làm phúc bố thí (Lc 16,9.14); họ “họ ngốn cả nhà cửa các bà góa” (Lc 20,47); họ khinh chê lề luật, và dạy con cái lường gạt cha mẹ để lấy đồ trong gia đình (Mc 7,9-13); họ đòi xem các dấu lạ mới tin vào giáo huấn họ nghe (Mt 12,38-42; Lc 11,29-32); cuối cùng khi được thấy các dấu lạ đó, họ vẫn cứng lòng tin (Gio 11,46-53; Mt 27,62-66). Trong cảnh này, khó mà thấy là Chúa Giêsu ngỏ lời với các người Sadducêô, là những kẻ không tin vào sự sống lại (Mt 22,23), và lối sống của họ dựa trên niềm xác tín này là: chết là hết. thực ra, dụ ngôn không dạy về học thuyết có sự sống lại và cũng không cho thấy người giàu có xấu bụng đã sống ích kỷ vì không chấp nhận học thuyết đó. Trái lại người giàu có đó cũng như nhiều kẻ đồng đạo của ông thời bấy giờ tất có thể nghĩ rằng của cải dư dật của họ là dấu chỉ họ được Thiên Chúa chúc phúc (Lc 16,15; 18,26). Vì vấn đề thưởng phạt chỉ được làm sáng tỏ rất chậm tại Israel. Từ đó có thể kết luận ông là người thánh thiện.

6. Để kết thúc cuộc phân tích này, chúng ta hãy cố gắng vắn tắt ghi lại những bài học có được trong dụ ngôn này. Điểm thiết yếu Chúa Giêsu dạy là: số phận sau khi chúng ta chết liên hệ với việc chúng ta sử dụng của cải trần thế này. Ngài cũng dạy, nếu của cải có thể gây nhiều nguy hiểm, thì Thiên Chúa cũng ban cho chúng ta nhiều phương thế cần thiết để đương đầu và chiến thắng; rằng người ta không chịu hối cải là vì cứng lòng không chịu tuân theo các phương thế đó, chứ không phải vì thiếu phương thế; rằng số phận sau khi chết là không thể thay đổi (c.26). Điều này không loại bỏ sự hiện hữu của luyện ngục, bởi vì luyện ngục là đường dẫn lên thiên đàng. Luyện ngục dứt khoát qui định số phận người quá cố sẽ được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Tuy nhiên Chúa Giêsu không có ý nói hết mọi điều trong một dụ ngôn. Ở đây Ngài chỉ nói đến trường hợp một người hoàn toàn từ chối không nghe lề luật, cứng lòng không chịu hối cải. Trong các bản văn khác, Ngài đề cập đến các tội có thể được tha (Mt 5,19; 12,32; …) và qua đó Ngài bỏ ngõ không xác định gì thêm về “tứ chung”. Trong dụ ngôn này Ngài có dạy điều gì về sự nghèo khó không? Nhiều người nghĩ là có. Tuy nhiên không chắc mấy vì trong bản văn này, tất cả đều hướng về người giàu có. Hình như việc đề cập đến bản thân người nghèo khó ở đây chỉ đề làm sáng tỏ bản thân người giàu có, để giải thích thái độ ích kỷ của ông, cũng như để làm nổi bật hình phạt đang chờ đón ông, và để đưa ra mẫu đối thoại, từ đó vụt ra nhiều bài học hữu ích.

KẾT LUẬN

Người giàu có được nhiều của cải nên cảm thấy được bảo đảm, không cần hy vọng và niềm an ủi của Thánh kinh (Rm 15,4). Ông đã giả điếc làm ngơ trước lời Thiên Chúa và tiếng Ngài mời gọi. Của cải và cuộc sống dễ dãi đã làm ông tối mịt tâm trí – và ông đã trở nên mù đối với Thiên Chúa, đối với người nghèo và cuộc sống đời sau. Lazaro đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa vì quá cùng cực nên được nhận vào bàn tiệc của vương quốc Thiên Chúa. Của cải thật là mối nguy hiểm lớn lao.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Hai nhân vật trong dụ ngôn này sống gần nhau mà xem ra không thấy nhau, không gặp nhau. Trong thực tế người giàu có đã không từ chối gì với Lazaro cả. Vả lại, Lazaro cũng không xin ông ta điều gì hết. Đúng hơn hình như người giàu có đã không thấy Lazaro, Lazaro sống ở cửa nhà người giàu có mà ông không bao giờ thấy, không bao giờ lưu tâm đến sự hiện diện của Lazaro. Đối với ông, không có Lazaro. Người giàu có đó tự khép kín trong thế giới của ông. Nếu chỉ tin tưởng vào tiện nghi, của cải, vào “sự phát triển”, con người sẽ trở nên mù quáng. Đó là hậu quả thứ nhất.

2. Hậu quả thứ hai được kể lại trong phần thứ hai của trình thuật. Đó là cái chết đến làm đảo ngược hoàn toàn các địa vị. Lazaro được sống thân mật với Chúa; còn người giàu có phải chịu những hình phạt của hỏa ngục. Qua đó, Chúa Giêsu cho thấy sự lựa chọn của chúng ta khi còn tại thế là những lựa chọn bất khả thay đổi, vì chúng xác định cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Sau cái chết, tất cả sẽ không thay đổi. Đó là điều Chúa Giêsu nhắn bảo chúng ta ở đây, và giúp chúng ta biết nghiêm chỉnh lựa chọn đúng.

3. Nhiều Kitô hữu không để ý gì đến giáo huấn của Chúa Giêsu về việc lựa chọn khi còn sống tại thế này. Họ sống cách vô thức hoàn toàn; ước chi họ biết lo lắng hơn, vì cuộc sống thực hiện tại qui định cả cuộc sống vĩnh cửu. Đối với kẻ khác, viễn tượng này quá ghê sợ, không phù hợp với lòng từ bi cao cả của Chúa. Làm thế nào một quyết định hệ trọng như thế lại có thể tùy thuộc một phút lỗi lầm?

Phải lưu ý rằng, trong cuộc sống của người giàu có mà tin mừng mô tả, không có vấn đề lầm lạc trong một giây phút nào đó, hay một yếu đuối nhất thời, nhưng là một chọn lựa sâu xa của cả cuộc sống ông. Đàng khác không phải Thiên Chúa xét xử, nhưng chính con người lựa chọn giữa hai cuộc sống với Chúa đi đôi với việc từ bỏ các vương vấn trần tục, nhân bản.

4. Người giàu có khi phải bị đau khổ đã xin Abraham xin Lazaro đến giúp 5 anh em của ông: khi thấy kẻ chết sống lại và sứ điệp của người ấy có lẽ họ sẽ kinh hãi đến độ sẽ thôi mù quáng để tránh khỏi khỏi số phận ghê rợn mà anh cả của họ đang chịu. Chúa từ chối: “Họ đã có Abraham và các tiên tri, cho dù có kẻ sống lại, họ cũng không khuất phục…” Lời đáp trả của Chúa xem ra ghê sợ đối với chúng ta, là những người tưởng rằng một “phép lạ đích thực” sẽ dễ dàng hoán cải bất cứ ai cứng lòng. Nhưng thực tế, nếu không có ý hướng tốt, nếu không có tự do bên trong, thì dù phép lạ cao cả biết mấy cũng không thể lay chuyển tâm hồn người ta được. Lazaro ở Betania đã sống lại từ cõi chết và dẫu vậy ông không thể làm cho người Do thái chống đối Chúa Giêsu hết cứng lòng tin (Gio 11,46tt). Thực ra Thiên Chúa đã thực hiện điều người giàu có xin, vì chính Chúa Giêsu đã phục sinh từ cõi chết. Qua Ngài, Thiên Chúa đã ban cho người biệt phái dấu chỉ họ xin (Mt 12,38-40), nhưng họ cũng không tin. Trái lại, Chúa Giêsu thêm rằng ai tìm kiếm Ngài với một tâm hồn ngay thẳng, sẽ luôn có thể gặp Ngài. Con người đã có sẵn Môisen, các tiên tri và cả phúc âm nữa. Người nào không bị mù quáng vì của cải và tiện nghi, sẽ có thể nghe lời chúa và luôn thấy anh em nghèo khổ bên mình. và bấy giờ, cho dù làm chủ nhiều của cải trước mặt người đời, thì trước mặt Thiên Chúa ông chỉ là người quản lý, người ban phát cho anh em mình đang túng thiếu. Chính vì thế, một ngày nào đó ông đáng được nghe lời này: “Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc. Ta đói, ngươi đã cho ta ăn…” (Mt 25,34-35).

 

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 26 TN_C

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVI Thường Niên Năm C lưu ý đến sự giàu có và những tác hại của nó.

Am 6: 1, 4-7

Ngôn sứ A-mốt lên án những người giàu có chỉ lo yến tiệc linh đình và vui hưởng những lạc thú cho riêng mình; họ sẽ sớm biết số phận đau thương đang chờ đợi họ.

1Tm 6: 11-16

Trong đoạn trích thư gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô khuyên ông Ti-mô-thê hãy trung thành kiên vững trong niềm tin.

Lc 16: 19-31

Tin Mừng Lu-ca thuật lại dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Số phận của hai người hoàn toàn đảo ngược bên kia nấm mồ.

BÀI ĐỌC I (Am 6: 1, 4-7)

Chúng ta gặp lại ngôn sứ A-mốt, người chăn cừu xứ Giu-đê này. Vào giữa thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ông đã nhận được sứ mạng đi đến vương quốc miền Bắc để lay động tiếng lương tâm và nhắc lại những yêu sách luân lý của Giao Ước.

Trong đoạn trích Chúa Nhật vừa qua, vị ngôn sứ lên án thói tham lam vô độ và những trò gian dối của những phú thương; trong đoạn trích của Chúa Nhật này, ông tố cáo thái độ dửng dưng vô cảm của những bậc quyền cao chức trọng, những kẻ chỉ biết tận hưởng những lạc thú cho thỏa thích mà không lường trước số phận bi thảm đang chờ đợi họ.

  1. Cuộc sống thanh bình thịnh vượng giả tạo

Thành đô Sa-ma-ri nằm trên một ngọn đồi biệt lập có những cánh đồng canh tác, được bao quanh bởi những thung lũng, được bao bọc bên ngoài bởi những bức tường thành kiên cố với những pháo đài vững chắc. Thành đô Sa-ma-ri như một thành trì kiên cố có thể kháng cự bất kỳ những cuộc tấn công từ bên ngoài vào, và quả thật, thành đô này đã kháng cự suốt ba năm trước những cuộc tấn công của đạo quân Át-sua hùng mạnh (723-721 trước Công Nguyên). Hơn nữa, vào thời điểm ngôn sứ A-mốt công bố sứ điệp, cảnh thanh bình ngự trị, vì quyền lực đế quốc Át-sua đang suy yếu. Các tướng lãnh và các quan chức có thể vui hưởng cảnh thái bình thịnh trị.

Vị ngôn sứ tố cáo sự an toàn phỉnh phờ này. Lý do mà vị ngôn sứ nêu ra thật đơn giản: cách sống gây công phẫn của những bậc quyền quý này sẽ dẫn họ đến sự trừng phạt không chút xót thương.

  1. Những thú vui hênh hoang tự đắc

Với tài mỉa mai châm biếm, ngôn sứ A-mốt mô tả rất hiện thực những yến tiệc linh đình phô bày thói xa hoa vô độ trong những dinh thự lầu đài nguy nga tráng lệ:

“Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ

mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng.

Chúng đàn hát nghêu ngao;

như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác” (6: 4-5).

Những ngôn từ vị ngôn sứ sử dụng có một âm vang đặc biệt: đây là những từ ngữ được vay mượn ở phụng vụ của những bàn tiệc hy tế: chiên non, bê béo, rượu cả bầu, dầu thơm hảo hạng mà người ta dùng trong việc cúng tế. Phải chăng ngôn sứ A-mốt muốn mô tả những bàn tiệc thánh thiêng mà các bậc quyền quý đã lạm dụng? Điều này cũng có thể. Như vậy, ở nơi danh sách liệt kê những bất công mà ông tố cáo, vị ngôn sứ thêm vào những hành vi phạm thánh, thói đạo đức giả. Vả lại, trước đây ông đã nói nhân danh Đức Chúa:

“Lễ lạc của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường;

hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú.

Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu…

những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận,

chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài.

Hãy dẹp bỏ tiếng đàn hát om sòm của các ngươi,

Ta không muốn nghe tiếng đàn của ngươi nữa.

Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào,

cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (5: 21-24).

  1. Thảm họa không sao tránh khỏi

Ngôn sứ A-mốt nhắc đi nhắc lại sứ điệp đe dọa của mình:

“Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu đày,

dẫn đầu những kẻ bị lưu đày.

Thế là tan tác bè lũ quân phè phỡn!” (6: 7).

Trong cảnh thanh bình thịnh vượng này, sứ điệp của vị ngôn sứ xem ra thật điên rồ. Tuy nhiên, lời đe dọa này sẽ được ứng nghiệm. Quyền lực của đế quốc Át-sua chẳng bao lâu chỗi dậy. Thành đô Sa-ma-ri bị sụp đổ. Vương quốc miền Bắc, vương quốc Ít-ra-en, sẽ biến mất vĩnh viễn. Đoàn người Ga-li-lê và Sa-ma-ri bị dẫn đi lưu đày ở Ni-ni-vê, kinh đô của đế quốc Át-sua. Những tiếng kêu của người nghèo đã vang lên tới Chúa.

BÀI ĐỌC II (1Tm 6: 11-16)

Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gửi ông Ti-mô-thê. Trong đoạn trích tuần trước, thánh nhân chủ yếu ngỏ lời với cộng đoàn tín hữu Ê-phê-xô; trong đoạn trích mới này, thánh nhân khuyên ông Ti-mô-thê một cách riêng tư nhiều hơn.

  1. Ngôn từ

Đoạn này thuộc phần cuối thư. Thánh Phao-lô khuyên, nhưng cũng truyền lệnh, với uy thế mục vụ và tuổi đời của thánh nhân, vì ông Ti-mô-thê vẫn còn trẻ, như thánh nhân viết trong thư này: “Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch” (4: 12). Thánh nhân nói một cách hùng hồn với tư cách người Ki-tô hữu, nhưng thỉnh thoảng thánh nhân mượn những ngôn từ thao trường và nhuốm màu sắc lý tưởng Hy-lạp.

Về thể thao, thánh nhân một lần nữa sánh ví cuộc đời Ki-tô hữu với một cuộc chiến đấu vì đức tin cao đẹp, nhằm giành cho bằng được sự sống đời đời, như vận động viên thi đấu trong thao trường ra sức giành cho bằng được vòng nguyệt quế (x. 1Cr 9: 24; Pl 3: 14 và 2Tm 2: 4-5 và 4: 7). Thánh Phao-lô cũng nói với tư cách người Hy-lạp, hiệp nhất trong cùng một viễn cảnh Chân, Thiện và Mỹ: “Anh hãy lao mình vào cuộc thi đấu cao đẹp… Anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp…”. Thánh nhân cũng diễn tả Đức Ki-tô theo cùng một cách như thế: “Đấng đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô”.

Năng lực chiến đấu, ý thức về sự cao đẹp của chân lý Ki-tô giáo, những tâm tình như thế có thể giúp ông Ti-mô-thê trong công việc điều hành Giáo Đoàn của ông, vì ông phải nêu gương sáng.

  1. Lời cam kết

Ông Ti-mô-thê đã được đặt tay tấn phong; ông là “người của Chúa”; ông “đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng” (thánh nhân ám chỉ đến Bí tích Truyền Chức của ông Ti-mô-thê), vì thế, cách sống của ông phải đi đôi với lời cam kết của ông: “Hãy cố gắng trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hòa”.

Tiếp đó, thánh nhân nói bằng một giọng điệu nghiêm nghị hơn: trước mặt Thiên Chúa và trước mặt Đức Giê-su Ki-tô, phải trung thành, phải bắt chước Đức Giê-su, Ngài đã khẳng định chân tính của mình trước tòa tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô. Thánh Phao-lô biết rằng trong cộng đoàn Ê-phê-xô có những căng thẳng và vài biện luận rất gần với lạc giáo. Ông Ti-mô-thê phải là vị hướng đạo tinh thần không gì đáng trách. Người ta cảm thấy thánh nhân nghi ngờ những sai lạc đạo lý; vì thế, lời khuyên của thánh nhân mặc lấy một lệnh truyền: “Tôi truyền cho anh: hãy tuân giữ điều răn của Chúa”. Và để có tính thuyết phục hơn, thánh nhân gợi lên ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang, đó sẽ là giờ xử án.

  1. Bài thánh thi

Thánh nhân chấm dứt bằng lời chúc tụng vinh quang Thiên Chúa, một “vinh tụng ca”, xem ra xuất xứ từ Do-thái giáo. Những ngôn từ được mượn ở nơi những lời nguyện phổ biến trong các hội đường thuộc thế giới Hy-lạp. Người ta nhận ra những biểu thức của sách Đệ Nhị Luật như:“Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả úy, là Đấng không thiên vị ai và không nhận quà hối lộ” (Đnl 10: 17) và các Thánh Vịnh như:“Hãy tạ ơn Chúa các chúa” (Tv 136: 3). Thánh nhân sáp nhập chúng vào trong một thị kiến ở đó Đức Giê-su ngự trị. Đức Giê-su này, Đấng đã làm chứng trước tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng một lời tuyên xưng cao đẹp, thì chính Ngài, Chúa các chúa, sẽ bày tỏ vinh quang “đúng thời đúng buổi”.

TIN MỪNG (Lc 16: 19-31)

Chương 16 Tin Mừng Lu-ca bắt đầu với dụ ngôn “người quản gia bất lương” và kết thúc với dụ ngôn “người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ”. Đức Giê-su tiếp tục giáo huấn các môn đệ về thái độ họ phải có đối với của cải trần thế. Ngài trở nên nghiêm khắc hơn khi kết án không một chút xót thương những người giàu có sử dụng của cải của mình đến mức chỉ biết đến mình mà không quan tâm đến những khốn khổ của anh em đồng loại. Trái lại, người nghèo, chết vì cảnh đời khốn khổ, nhưng được hưởng một số phận hạnh phúc bên kia nấm mồ, đây là lời ngợi khen về đức nghèo khổ.

  1. Một bức tranh đảo ngược

Hai cảnh đời được mô tả rất tương phản giữa người giàu có và anh La-da-rô nghèo khổ. Người giàu có “mặc toàn gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”; còn anh La-da-rô khốn khổ, mình đầy ghẻ chốc, nằm trước cổng nhà người giàu này, cứ chờ đợi những mẩu bánh thừa rơi xuống từ bàn tiệc của người giàu. Bức tranh lại càng thêm bi thảm hơn nữa khi kể: “Lại thêm bầy chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. Như chúng ta biết, đối với người Do thái, con chó là một con vật ô uế.

“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham”: Đây là kiểu nói Kinh Thánh để chỉ người công chính được chết lành và được đưa vào nơi an nghỉ cùng với các tổ tiên trong khi chờ đợi được sống lại. Không có bất kỳ đức hạnh nào của người nghèo được kể ra. “Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn”: Đây là kiểu nói bình dân để chỉ cái chết của những người chẳng có đức độ gì. Ngoài ra, hình ảnh Kinh Thánh được sử dụng ở đây là “lửa”, lửa phán xét mà các ngôn sứ và chính Gioan Tẩy Giả đã nhiều lần loan báo.

  1. Tội của người giàu có

Vậy thì tội của người giàu này là gì? Ông không hất hủi xua đuổi anh La-da-rô, cũng không buông lời mắng nhiếc thóa mạ anh. Tội của người giàu chính là thái độ thờ ơ lãnh đạm, nhắm mắt làm ngơ trước những nỗi khốn khổ của người anh em đồng loại của mình. Vì thế, kẻ đã không bố thí cho người cùng khổ vài mẩu bánh thừa từ bàn rơi xuống, thì cũng sẽ không được ban cho một giọt nước nào trên lưỡi để làm dịu cơn khát trong chốn trầm luân. Điều này gợi nhớ câu nói của Đức Giê-su trong dụ ngôn “cuộc phán xét sau cùng”, trong đó Ngài đã đồng hóa mình với những người bất hạnh: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng” (Mt 25: 42-43).

Ở nơi hoàn cảnh đảo ngược này, chúng ta gặp lại bức tranh bộ đôi tương phản khi thánh Lu-ca đã trình bày các Mối Phúc:

“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó,

vì Nước Thiên Chúa là của anh em.

Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói,

vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng, vân vân”.

Trái lại:

“Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có,

vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.

Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê,

vì các ngươi sẽ phải đói, vân vân” (Lc 6: 20-26).

  1. Sự tự do của con người

Qua hai hình tượng: trên thiên đàng và dưới hỏa ngục, cuộc đối thoại giữa tổ phụ Áp-ra-ham và người giàu có, khai mở một trong những giáo huấn chính yếu của Tin Mừng. Trước lời van xin của người giàu có: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát…”, vị tổ phụ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại; suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”.

Còn về việc ông cầu xin cho anh La-da-rô đến cảnh báo những anh em của ông hiện đang sống trên dương thế, thì không cần thiết. Thiên Chúa đã ban sẵn cho họ những phương tiện tất yếu cần cho ơn cứu độ rồi: “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Không cần thiết phải sai người chết sống lại về báo: “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà chúng còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Như vậy, chúng ta gặp lại thái độ của Đức Giê-su đối với những người Pha-ri-sêu thù nghịch: Ngài đã từ chối dấu lạ mà họ đòi hỏi. Lời của Ngài thì đủ cho họ rồi… Từ đó, hai bài học được rút ra: một đằng, lòng chai dạ đá của những người giàu có: “Họ chẳng chịu nghe đâu”; mặt khác, Thiên Chúa kính trọng sự tự do lương tâm của mỗi người.

 

.

SỐNG VỚI NGƯỜI KHÁC

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Cuộc sống hôm nay đầy tất bật. Ai cũng đổ xô đi lo công ăn việc làm. Công việc làm ăn có thể làm ta không còn thời gian để gặp gỡ nhau, ngay cả các thành viên trong gia đình. Điều ấy đã làm bao gia đình chia ly, tan vỡ. Giữa những bôn ba đó, những giây phút dừng lại bên nhau để lắng nghe Lời Chúa luôn là điều tuyệt đối cần thiết. Chúa Nhật tuần trước, Lời Chúa nhắc nhở về thái độ đúng trước tiền của: tiền chỉ là phương tiện chứ không là ông chủ của ta. Lời Chúa hôm nay mời gọi ta hãy biết nhìn đến người khác, biết chia sẻ hoàn cảnh với những người khác, biết sống với những người đang sống quanh ta.

Trong bài Phúc âm Lc 16, 19-31, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn với hai  hình ảnh đối lập giữa một người nghèo và một người giàu.

Ông phú hộ là một người giàu có. Mặc toàn những thứ lụa là gấm vóc. Ông quá dư thừa của cải, hằng ngày thư thái, chỉ việc hưởng thụ. Ông mở tiệc linh đình thường xuyên.

Ladarô là một người nghèo khổ. Thân thể anh đầy mụn nhọt, ghẻ lở. Anh chẳng có nhà cửa, phải vạ vật ở cửa nhà ông phú hộ. Anh chẳng có gì để ăn. Anh ngồi đó và chờ đợi những thứ trên bàn ăn của ông phú hộ rơi xuống đất để kiếm miếng. Và dường như anh cũng chẳng có bạn, chẳng được ai ngó ngàng tới, chỉ thấy mấy con chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc trên anh.

Hình ảnh đối lập ấy cũng chẳng thiếu gì trong xã hội hôm nay.

Người ta có thể biện minh rằng ông phú hộ không lấy gì của anh Ladarô. Ông phú hộ cũng không làm thiệt hại gì Ladarô. Nhưng phải chăng ông phú hộ có quyền được tận hưởng những gì mình đang có mà không cần biết đến người khác? Phải chăng sự đầy đủ của cải vật chất như ông phú hộ là bảo đảm cho niềm hạnh phúc mà người ta đang ngày đêm kiếm tìm?

Nếu như cuộc sống chỉ là những gì khi ta sống; nếu như cái chết ập đến là chấm dứt tất cả, thì nhà phú hộ kia đã sống trọn vẹn một kiếp người. Ông không xâm phạm đến ai, ông đã tận hưởng cuộc sống bằng những gì mình có. Nhưng nếu thế thì cuộc đời này cũng còn đâu ý nghĩa. Cái chết ập đến, kẻ giàu người nghèo cũng bằng nhau; người lương thiện cũng bằng kẻ gian ác; người suốt đời miệt mài sống cho người khác cũng chẳng hơn gì người ích kỷ chỉ biết sống cho mình. Xã hội còn đâu là công bình với chân lý.

Cuộc sống không chỉ chấm dứt sau cái chết. Trái lại, chính cái chết mở ra cho con người một cuộc sống mới, một cuộc sống trường tồn vĩnh viễn. Ở cuối dụ ngôn, Chúa Giêsu cho đưa ra viễn cảnh của nhà phú hộ và Ladarô trong thế giới trường tồn sau cái chết. Từ viễn cảnh ấy ta mới thấy thái độ của nhà phú hộ thật thiếu sót.

Ông không làm hại Ladarô nhưng của cải trần gian đã làm ông mù quáng trước tha nhân. Con người không phải là cỏ cây mà có thể vô tình trước đồng loại. Con người quý giá là ở tấm lòng. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã phải thốt lên: “sống trong đời sống phải có một tấm lòng” là thế.

Cái tội của ông phú hộ là đã không có một tấm lòng đối với người khác. Ông chỉ biết mình, chỉ lo cho riêng mình. Ông không chút động lòng trước cảnh ngộ éo le của người khác. Ông vui vẻ yến tiệc linh đình ngay trước mặt một con người đau khổ đến tột cùng, một con người cũng là người như ông. Một con người đang phải oằn lên với đau đớn thể xác, đang khát khao được sống. Của cải, tiện nghi đã làm ông trở nên mù trước tha nhân. Ông có mắt mà không nhìn thấy nỗi đau của người khác.

Thái độ ấy của ông phú hộ hoàn toàn bị lên án trong ánh mắt hiền từ của Chúa Giêsu.

Thái độ mà ông lựa chọn ấy đã quyết định cho cuộc đời của ông trong cuộc sống vĩnh hằng. Con người có toàn quyền lựa chọn cho mình thái độ sống ở đời. Ông phú hộ đã lựa chọn lối sống ích kỷ, thờ ơ với người khác để rồi cuối cùng ông phải rằn vặt với chính mình ở đời sau.

Ai cũng ước ao mình được an vui ở đời này và hạnh phúc đời sau. Con đường của Chúa Giêsu là bảo đảm chắc chắn đưa ta đến bến bờ ta mong đợi. Con đường ấy là con đường của yêu thương, của phục vụ, sẵn sàng hy sinh tính mạng mình vì người khác.

Đứng trước những con người đau khổ, Chúa luôn chạnh lòng thương. Chúa tìm cách đến với người đau khổ. Chúa tìm cách giúp đỡ những người đau khổ. Và trên thập giá, Chúa đã gánh lấy tất cả để cứu con người đang khổ đau.

Đi vào con đường của Chúa là biết chạnh lòng trước nỗi đau của người khác, biết nhận ra những nhu cầu của người khác đang sống quanh ta, là biết chia sẻ cho người khác những gì mình đang có mà không đợi người khác đề nghị, là biết giang tay đón nhận người khác vào trong cuộc đời của mình, là biết khát khao được chung sống với mọi người.

Lậy Chúa Giêsu, giữa những bộn bề của công việc và tiện nghi của vật chất, xin Chúa uốn nắn tâm hồn con để con biết nắm lấy bàn tay của những người anh chị em đang sống quanh con, biết cho đi mà không tính toán, biết yêu thương người khác với trái tim sẻ chia đầy tình người trong tình Chúa.

 

.

SỬ DỤNG TIỀN CỦA VỚI TRÁCH NHIỆM CỨU GIÚP

Lm Trần Bình Trọng

Nếu đời này là cùng đích của con người, thì những cảnh nghèo khổ, đói rách, bệnh hoạn, tật nguyền, sầu khổ.. là những bất hạnh của con người. Nếu đời này là cứu cánh, thì người ta phải tận hưởng cho tới mức tối đa: người ta phải tìm ăn ngon mặc đẹp, người ta phải kiếm tìm những thú vui cho thoả mãn. Tuy nhiên đời này chỉ là tạm gửi. Trừ ra những người theo chủ nghĩa duy vật vô thần, còn đa số loài người đều tin có đời sau. Nếu không có đời sau, thì nhiều việc xẩy ra ở đời này là bất công, bởi vì nhiều người hiền đức, thánh thiện và công chính đã phải chịu kiếp sống nghèo đói, tù đày và phải mang bệnh tật đau đớn.

Vì thế mới có dụ ngôn vể người giàu và người nghèo trong Phúc âm hôm nay. Người giàu có trong Phúc âm chỉ dùng tiền của để thoả mãn tính ích kỷ: Ông mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình (Lc 16:19). Ông ta từ khước việc dùng tiền của để giúp đỡ người đói khổ. Ông ta bịt tai nhắm mắt trước cảnh lầm than quẫn bách của người khốn cùng. Ðiều lỗi lầm của người phú hộ trong Phúc âm là ông ta chỉ dùng tiền của để thoả mãn tính ích kỷ của mình. Người phú hộ bị kết án, không phải vì ông ta giàu có, nhưng vì ông ta ích kỷ. Tính ích kỉ đã làm ông ta mù quáng trước nỗi thống khổ của người nghèo đói. Lí do khiến ông ta bị phạt ở đời sau dưới âm phủ là vì thiếu quan tâm và thiếu lòng thương xót người nghèo đói. Có nhóm Việt kiều du lịch về thăm quê hương  thấy có quán âm phủ ở cố đô Huế, tò mò vào thử. Một người trong nhóm thắc mắc: không biết dưới âm phủ có quán ăn không hả? Người kia thêm thắt: dưới đó mà có quán ăn thì cũng đỡ nhỉ.

Ngược lại với lối sống trưởng giả của người phú hộ là cảnh người đói rách tả tơi: Mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thức trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống (Lc 16:21). Cũng lạ là người nghèo đói trong dụ ngôn lại có tên, mà tên là Ladarô. Và danh xưng Ladarô có nghĩa là Thiên Chúa cứu giúp. Ðời sau ông Ladarô được chúc lành ở nơi an ủi, còn người phú hộ bị kết án trong âm phủ.

Ông Ladarô trong dụ ngôn này không phải là Ladarô, em của hai chị em bà Mác-ta và Maria tại làng Bêtania, được Chúa Giêsu cho sống lại ở đời này. Lí do là vì ông Ladarô làng Bêtania không phải là người nghèo. Gia đình ba chi em làng Bêtania được coi là khá giả và thường được dùng làm nhà trọ miễn phí cho Chúa và các tông đồ (Mt 21:17; Mc 11:11; Lc 10:38-42; 21:37; Ga 11:11,17; 12:1) mỗi khi Thầy trò về Giêrusalem. Cô Maria lại có thể cung ứng loại dầu cam tùng hảo hạng để xức chân Chúa khi Chúa đến dùng bữa tại Bêtania (Mt 26:6-7; Mc 14:3-9; Ga 12:3). Rồi hai chị em còn có khả năng cho lập mộ cho em là Ladarô trong hang với tảng đá lớn lấp mộ (Ga 11:38-39).

Giàu hay nghèo theo tinh thần Phúc âm là tuỳ thuộc vào thái độ của người ta đối với của cải vật chất. Do đó người giàu có về phương diện vật chất có thể được coi là nghèo khó về phương diện tinh thần, nếu họ làm giàu cách chính đáng, không để lòng dính bén vào của cải vật chất và biết giúp đỡ người nghèo đói: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó (Mt 5:3). Trái lại một người nghèo túng về phương diện vật chất, có thể được coi là giàu có về phương diện thiêng liêng, nếu họ luôn mơ ước làm giàu. Như vậy giàu không phải là tội. Và nghèo nếu chỉ vì nghèo cũng không phải là một nhân đức. Vậy giầu hay nghèo tự bản chất không phải là điều xấu. Tuy nhiên nếu người ta coi của cải đời này như cùng đích là người ta đi vào đường sai lầm. Con người được tạo dựng với những nhu cầu vật chất để sinh tồn và phát triển đời sống. Tuy nhiên người ta không được để cho của cải đời này làm cản trở mối liên hệ với Chúa.

Vậy thái độ ta phải có đối với của cải vật chất là tâm tình biết ơn Chúa, Ðấng ban phát mọi sự. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa và cũng theo chủ thuyết công giáo xã hội (gl/GHCG # 2544-2547) thì của cải phải khơi dạy trong ta tâm tình tạ ơn Chúa và liên kết ta lại với tha nhân trong tinh thần liên đới trách nhiệm. Một cách tạ ơn cụ thể và thực tế nhất là việc giúp đỡ và chia sẻ với người lầm than, xấu số và bất hạnh. Của cải là để phục vụ con người, chứ không phải là con người phục vụ của cải. Vì thế người ta phải biết quản lí của cải một cách khôn ngoan, trong tinh thần trách nhiệm: không phung phí cũng không ích kỉ. Mỗi người tín hữu dù giầu hay nghèo, hay trung lưu, dù tu hay không tu cũng phải cố gắng sống tinh thần siêu thoát của Phúc âm trong việc sở hữu, quản lí và sử dụng của cải.

Nếu không, người ta có thể phải làm nô lệ cho của cải ở đời này và mang án phạt ở đời sau. Cũng lạ là người phú hộ bị kết án, nhận ra người nghèo đói có tên là Ladarô. Còn lạ nữa là trong âm phủ mà người phú hộ không hận ông Áp-ra-ham, lại còn gọi ông là cha (Lc 16:24) và Áp-ra-ham gọi người phú hộ là con (c. 25). Nghe cách xưng hô thân tình đó mà lòng cảm thấy thương tâm và xót xa cho cảnh cực hình mà người phú hộ phải chịu. Cách xưng hô cha con đó có thể có nghĩa là người phú hộ là con ông Áp-ra-ham. Ðiều đó còn có nghĩa là Áp-ra-ham là tổ phụ của người Do thái (Mt 3:9) và người Do thái thuộc dòng dõi Áp-ra-ham (Ga 8:33, 37, 56). Dầu sao đi nữa thì thuộc dòng dõi Áp-ra-ham không bảo đảm cho việc được chúc phúc. Nói cách khác tổ phụ Áp-ra-ham cũng không thể dùng thế giá của mình mà che chở cho người phú hộ được. Do đó Phúc âm mới cảnh giác nhóm người Pharisêu và nhóm Xa-đốc: Thiên Chúa có thể biến những hòn đá trở nên con cháu Áp-ra-ham (Mt 3:9). Như vậy người ta cũng có thể suy ra rằng: giấy chứng chỉ rửa tội cũng không phải là thẻ thông hành để vào nước trời, nếu người ta không thực hành lời Chúa

Theo Phúc âm thánh Mát-thêu thì những người bị kết án vì đã không cho người đói, cơm ăn; không cho người khát, nước uống (Mt 25:41-42). Chúa Giêsu bảo không cho người đói khát cơm ăn nước uống là không cho chính Chúa ăn uống. Nói như vậy có nghĩa là người đói khát là hình ảnh của Thiên Chúa. Theo ngôn sứ Amốt thì đôi khi người ta còn bị kết án phạt ngay tại đời này vì tính tham lam, ích kỷ và hưởng thụ, nên họ bị lưu đầy vì không biết quan tâm đến số phận nhà Giuse sụp đổ (Am 6:7).

Hôm nay ta cùng suy niệm và cầu nguyện xin Chúa ban cho lương thực hằng ngày như Chúa Giêsu dạy trong Kinh Lạy Cha và xin Chúa giúp ta nhìn thấy hình ảnh của Người nơi những người nghèo túng, đói khổ, mồ côi, bệnh hoạn, tật nguyền, vô gia cư, vô nghề nghiệp, cô thân, cô thế.

 

Lời nguyện cầu của ông A-gua trong Cựu ước xin cho biết dùng của cải vật chất1:

Lạy Chúa, con chỉ xin Chúa hai điều:

Xin đừng nỡ chối từ trước khi con nhắm mắt.

Xin đẩy xa con lời dối trá và chuyện lọc lừa.

Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng để con giầu có.

Chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng,

kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Chúa,

mà nói: Chúa là ai vậy?

Hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp,

mà làm ô danh Thiên Chúa của con. Amen.

___________________

 

 

.

ĐỪNG VÔ CẢM

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Nhân loại đang sống trong một thế giới với các phương tiện hiện đại tân kỳ. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rôbốt, người ta đang cố gắng tạo ra rôbốt thật giống người hơn để giúp con người trong các việc nặng nhọc, bộn bề của cuộc sống. Chỉ lạ một điều, trong khi các nhà khoa học đang “vò đầu bứt tóc” không biết làm sao có thể tạo ra một con chíp “tình cảm” để khiến “những cỗ máy vô tình” biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh.

Nhìn thấy cái xấu, cái ác không bất bình. Thấy Chân, Thiện, Mỹ mà không ngưỡng mộ. Gặp cảnh bi thương lại thờ ơ, không động lòng thương xót, không rung động tâm can. Giá trị đạo đức bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng, duy vật và cá nhân chủ nghĩa, dẫn đến “bệnh vô cảm”. Bệnh này thể hiện ở chỗ, không động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau của người khác, cũng như không hề phẫn nộ trước những tệ nạn xã hội đang xảy ra. Con người hầu như trở nên vô tình trước cuộc sống của người khác. Vậy đó còn là con người không, hay chỉ là xác khô của một cỗ máy?

Lời Chúa hôm nay vang lên như tiếng chuông báo động về việc thực thi lòng thương xót : “Phúc cho những ai có lòng thương xót, thì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương”. Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta gắn liền với lòng thương xót của chúng ta đối với người lân cận. Câu chuyện về người nhà giầu và anh Lagiarô là một bằng chứng.

Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19) chứng tỏ đây là người không có nhân đức chừng mực ; nhưng không nói ông đã làm giầu cách bất lương, hoặc từ chối lời xin của Lagiarô, vì Lagiarô không có xin : ông dùng của cải ông có. Tương phản với “anh Lagiarô nghèo, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc” (Lc16,20), gợi lên những chỉ trích phê bình. Cảnh này nhắc lại lời quở trách nặng nề của Con Người trong ngày sau hết: “Ta đã đói và các ngươi không cho ăn, đã khát và các ngươi đã không cho uống, đã trần truồng và các ngươi đã không cho mặc” (Mt 25,42-43). Khi loại trừ Lagiarô, ông đã không để ý gì đến Chúa. Người phú hộ có điều kiện, ông chè chén, đó là việc làm của ông ; nhưng ông không động lòng trắc ẩn trước kẻ khó nghèo nằm ở cổng nhà mình là một điều không thể chấp nhận được.

Sự kiện bất ngờ ập đến là cả nhà phú hộ và anh Lagiarô nghèo cùng chết, cùng chịu xét xử. Đức Giêsu cho thấy, bản án thật nghiêm khắc : người nghèo vui mừng và đầy tràn hoan lạc, được đem vào lòng Abraham, vui mừng giữa triều thần thánh. Còn nhà phú hộ được đem chôn vào lòng đất (x. Lc 16,22). Mỗi người bằng bắt đầu cuộc sống của mình sau cái chết : người nghèo được tách khỏi thế gian này, anh có thể được cất nhắc lên trời ; người giầu khám phá ra sự hư không của một cuộc đời với những thú vui trần thế.

Thật đáng ngạc nhiên khi tình thế hoàn toàn bị đảo ngược sau khi chết, cuộc đối thoại giữa Abraham và nhà phú hộ khẳng định điều đó : nhà phú hộ đau khổ tột cùng, ông nài xin Lagiarô cho ông một chút nước để làm mát lưỡi. Thật không thể nào hiều nổi một ‘vực thẳm’ ngăn cách, khiến người ta không thể làm được một cử chỉ nào với lòng thương xót. ‘Vực thẳm không thể qua được này’ đề cập đến sự cần thiết phải hoán cải ngay lập tức. Lời Chúa hôm nay thêm một động lực giúp ta thực hành Lời Chúa tuần trước là : “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời” (Lc 16, 9).

Nhà phú hộ không bị kết án vì của cải của mình, ông bị kết án vì bênh vô cảm, không có khả năng cảm thương đồng loại là Lagiarô, đại diện cho tiếng kêu thầm lặng của người nghèo thuộc mọi thời đại và sự mâu thuẫn của một thế giới, trong đó các của cải và tài nguyên mênh mông nằm trong tay một ít người.

Đây là một bài học đắt giá cho mỗi người chúng ta. Vậy, hãy mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.

Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).

Xin Chúa đánh động trái tim chúng ta, để chúng ta nhận ra những người nghèo khó, rách rưới, đang cần đến miếng cơm của thương xót, chiếc áo của lòng từ bi, che phủ những vết ghẻ chốc, vực dậy và gìn giữ phẩm giá cao quý của con người, và không từ chối giúp đỡ họ. Amen.

 

.

GẦN MÀ XA KHI TÌNH BĂNG GIÁ

Lm Nguyễn Xuân Trường

Trong đời có lời ca: “Nhà anh nhà em, cách hai đoạn đường dài. Tuy xa mà gần, tuy gần mà xa. Rồi còn xa mấy nữa, khi em đi lấy chồng.” Thì ra gần xa không phụ thuộc vào khoảng cách không gian, mà phụ thuộc vào khoảng cách tình yêu. Yêu hay ghét làm nên khoảng cách gần hay xa như lời ca dao: “Yêu nhau xa mấy cũng gần. Ghét nhau cách một bàn chân cũng lìa.”

Phúc Âm tuần này kể khoảng cách không gian giữa ông nhà giàu và Ladarô gần quá, chỉ vài bước chân từ nhà ra cổng, nhưng khoảng cách kinh tế giàu nghèo thì một trời một vực: người ăn chẳng hết, kẻ lần không ra. Người thì ngày ngày phè phỡn yến tiệc linh đình, người thì phờ phạc đói khát thèm chút đồ ăn thừa mà không được. Cảnh tượng phũ phàng đến đau lòng như thế vì ông nhà giàu không động lòng trắc ẩn. Tình ông băng giá, tim ông hóa đá làm cho tình xa. Tình băng giá khiến ông hóa thành người dửng dưng, vô cảm, mặc kệ nó, chỉ có mình. Ông bị “cận thị” nặng chỉ còn nhìn thấy bản thân mình chứ không nhìn thấy tha nhân; chỉ nhìn thấy đời này để hưởng thụ chứ không nhìn thấy đời sau để làm phúc cho đi.

Hậu quả là, chính lối sống thờ ơ vô cảm đã đẩy ông nhà giàu vào vực thẳm vô cùng là hỏa ngục. Tội của ông không phải là làm hại ai nhưng là không làm phúc. Ông rơi vào hỏa ngục không phải vì túi ông nhiều tiền, mà là vì tim ông không có tình thương. Không có tình thương thì không thích hợp với thiên đàng ngập tràn tình thương của Chúa.

Vì thế, rất cần cùng nhau hát lên lời ca: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” để chúng ta biết động lòng trắc ẩn, biết mở lòng quảng đại sẻ chia giúp đỡ trước những cảnh tượng đau lòng, nhờ vậy mà cả người cho lẫn người nhận đều cảm thấy vui lòng khi ở đời này và thỏa lòng mãn nguyện hưởng phúc thiên đàng vĩnh cửu đời sau. Amen.

 

.

TẠI SAO CHÚA KHÔNG CHO

NGƯỜI CHẾT HIỆN VỀ CẢNH BÁO

Lm. Anphong Nguyễn Công Minh

Dụ ngôn Lazarô và người phú hộ có thể có một ý mà chúng ta không đồng ý, là tại sao Chúa không cho người chết hiện về cảnh báo. Chúa Giêsu đặt vào miệng Abraham câu trả lời cho lời van xin của người giàu như sau : “Ông nhà giàu nói : ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’ Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.’ Ông nhà giàu nói : ‘Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.’ Ông Áp-ra-ham đáp : ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.”

Ta không đồng ý, là bởi vì người chết hiện về nói, là hiệu quả chứ! Mô-sê và các ngôn sứ thì xa xưa rồi, chắc họ nói cho ai chứ đâu phải cho mình, còn kẻ chết hiện về, đích thị là nói cho mình, mình tin ngay. Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ. Nay đã thấy quan tài, mà là quan tài sống, tức người chết trong quan tài hiện về nói, chắc phải đổ lệ thôi. Vì nó sờ tới gáy của mình.

Bằng chứng hiện nay, khi nghe tin thấy Đức Mẹ khóc chỗ này, nhỏ lệ chỗ kia, ta ùn ùn kéo tới, vì xem đó như sứ điệp đụng tới ta, sống trong những ngày này. Còn Mẹ hiện ra “năm xưa trên cây sồi” thì là năm xưa rồi, lại còn “làng Fatima xa xôi,” đâu có đụng gì, chạm gì tới gáy của ta đâu. Cho nên cũng là những lời kêu gọi hoán cải năm xưa 1917 của Mẹ Fatima, thì ta không nghe, nhưng nếu nó là giọt lệ hôm nay 2019, ta bị chạm ngay.

Cũng vậy, Mosê thì xưa rồi, ngôn sứ đã quá xa, ta quên hết, nhưng nếu kẻ chết, mới chết thôi hiện về, ta thấy gáy ta lạnh ngay, thay đổi lối sống tức thì. Thay được bao lâu không biết, nhưng chắc chắn là thay.

Nhưng tại sao Chúa không cho người chết hiện về cảnh cáo ? Chắc Ngài cũng có lý do mà ta thử tìm. Dĩ nhiên dụ ngôn người phú hộ và Lazarô không có ý dạy ta về điều này. Điểm chính vẫn là không được sống khép mình lại. Nhưng ta cứ thử tìm xem.

Giả như Chúa cho người chết hiện về. Dụ ngôn giảm nhẹ mức độ, bằng cách chỉ xin cho Lazarô hiện về, chứ nếu muốn hiệu quả, phải chính người phú hộ hiện về : với bộ quần áo rực lửa, thân hình đen đủi đớn đau, mặt phỏng độ chín, thì chắc phải hiệu quả hơn nhiều. Có lẽ người phú hộ đang mặc cả, nếu Chúa cho Lazarô về, ông sẽ nài thêm, “thôi để con về, con biết cách nói cho 5 anh em con hoán cải.” Nhưng xin cho Lazarô về đã không được, nên ông chẳng thể nài thêm.

1. Giả như Chúa cho người chết hiện về, và như chúng ta vừa phân tích, thế nào 5 anh em kia cũng sẽ sợ mà hoán cải. Chúng ta vừa nói chữ gì : “sợ.” Họ sợ hãi và hoán cải. Họ sợ vì họ thấy quan tài, nên phải đổ lệ, chứ nếu không phải Lazarô, và nhất là không phải anh ruột của mình hiện về, chắc chắn họ cũng chưa, cũng không hoán cải đâu, vì chưa lạnh gáy. Khi làm điều gì vì sợ, thì không còn tự do, và vì thế cũng mất giá trị.

Một cô gái yêu chàng trai kia vì sợ, tình yêu đó đâu có giá trị. Chúa chẳng muốn người ta yêu Chúa, chỉ vì sợ hãi. Chúa chẳng muốn người ta tin Chúa, chỉ vì sợ hãi.

Trong một buổi diễn thuyết về tin có Chúa, một cử toạ đứng lên mạnh mẽ tuyên bố : Bằng chứng rõ nhất ‘không có Chúa’ đó là không có một kẻ nào tuyên bố không có Chúa, hoặc tệ hơn nữa, chửi rủa Chúa, mà bị Chúa cho sét đánh chết cả.

Giả như ai nói : “Làm gì có Chúa,” là bị cứng lưỡi 5 phút (phạt cảnh cáo ! phạt vi cảnh !); còn ai cả gan chửi Chúa : Chúa đi chơi đâu rồi mà để tôi bị oan thế này ! Hoặc, Chúa gì mà ác quá vậy, thất thiên thất đức quá ! liền bị Thiên Lôi lôi ngã xuống đất… Thì làm sao ? Rất nhiều người tin vào Chúa, tin có Chúa. Nhưng tin vì sợ chứ không tin vì yêu. Chúa không muốn người ta tin Chúa, yêu Chúa, chỉ vì sợ, chỉ vì không còn con đường nào khác. Chúa đã lỡ dựng nên con người có tự do, thì Chúa cũng tôn trọng tự do của con người, kể cả tự do không tin Chúa, tự do đi vào hoả ngục.

Vậy là ta tạm tìm lý do, tại sao Chúa không cho kẻ chết hiện về cảnh cáo người sống, vì Chúa không muốn người ta hoán cải chỉ vì sợ hãi.

2. Tuy nhiên, cũng có thể nương theo lý luận của dụ ngôn, rằng kẻ chết có về, họ cũng chẳng sợ. Ta thử đưa một ví dụ :

Ai chẳng biết hút thuốc lá có hại cho sức khoẻ. Hoặc mạnh hơn, ma tuý là kẻ giết người. Ấy vậy mà vẫn cứ lao vào. Nếu bạn mình chết vì hút thuốc, tử vì nàng tiên nâu, thì mình sợ, bỏ vài bữa, hay hơn nữa là bỏ nửa tháng, rồi lại lăn bừa vào lại ngay. Cho nên làm vì sợ, không vững bền ; và trên bình diện Đạo, làm vì sợ, yêu vì sợ chẳng có giá trị gì.

Dụ ngôn từ chối cho người chết trở về cảnh báo, bằng cách đưa ra câu trả lời : “Chúng đã có Mô-sê và các ngôn sứ, chúng cứ nghe lời các vị đó”. Vâng, người ta luôn luôn đòi một dấu chỉ khác thường. Ta hãy nghe Phúc Âm thuật : “Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để chúng tôi tin”… “Ông hãy gieo mình từ nóc đền thờ xuống đi.” “Ông hãy xuống khỏi thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa” Chúng tôi tin liền ! Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào những phép lạ và những lần hiện ra. Người giầu xin cho Ladarô hiện về. Thế nhưng, sự sống lại của Ladarô bằng xương bằng thịt, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania không những không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà con thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (x. Ga 11,45-53), và cả loại trừ Lazarô nữa ! (x. Ga 12, 10) Lazarô là người chết sống lại đó, có ai sợ đâu.

Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền, mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa (lời Maisen và các ngôn sứ).

Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời phú ông xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đã nắm được chân lý của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động lòng và không làm gì hết, thì không còn gì khác để thay đổi lòng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Áp-ra-ham là nét nổi bật linh động để ghi sâu vào lòng thính giả giáo huấn Chúa dậy qua dụ ngôn : Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân ; trong hoả ngục chỉ có thù ghét ngự trị. Khi Áp-ra-ham nói với người giàu : “Giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn,” Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại thì không còn ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa ; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà !

Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích dụ ngôn Lazarô và phú hộ của thánh Gio-an Kim Khẩu qua lời van xin của thánh nhân: “Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hãy ăn năn, hãy sám hối mà trở về với Chúa, hãy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta còn hưởng được quãng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. Vì ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta.”

Có một danh ngôn khá hay : “Việc lành làm suốt đời không đủ, việc dữ làm giây lát đã dư.” Đó là cách hay nhất để chúng ta khỏi phải nài xin và nài xin vô ích cho ta hiện về cảnh báo anh em ta.

 

.

PHÚ HỘ VÀ LAZARÔ

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Trong dụ ngôn Phú hộ và Lazarô, Chúa Giêsu kể: Người nghèo Lazarô kết thúc cuộc đời được tổ phụ Abraham bồng ẵm về thiên đàng, còn ông phú hộ lại bị hành hình trong hỏa ngục.

Chắc chắn Chúa không có ý dạy rằng: Tất cả người giàu đều có tội, còn tất cả những người nghèo đều được cứu. Cũng không phải sự giàu làm cho người ta phải sa hỏa ngục, còn người nghèo đương nhiên vào thiên đàng. Đúng hơn, tất cả mọi người đều được mời gọi sống ơn gọi nên thánh theo mẫu gương thánh thiện của Chúa Kitô.

Người phú hộ sở dĩ phải chịu cực hình trong hỏa ngục, phải trầm luân muôn kiếp, không do ông giàu, không vì ông ăn uống thoải mái. Nhưng ông bị mất sự sống, mất ơn nghĩa với Chúa đời đời, vì ông không biết cho đi, không biết san sẻ. Ông làm ngơ trước người anh em của ông đang đau khổ. Ông không nhìn người nghèo ngay bên thềm nhà ông bằng cái nhìn yêu thương, quan tâm. Thậm chí, ông còn không mảy may một chút để ý gì đến người nghèo ấy, ngược lại còn yến tiệc linh đình, hết sức vô tâm, vô tình, vô nhân ngay bên cạnh sự nghèo khổ, đói rách của người anh em mình.

Như vậy, khi kể dụ ngôn người phú hộ và Lazarô nghèo khó, Chúa không nhằm đe dọa người giàu về sự giàu của họ, cũng không cho phép người nghèo ỷ lại vào tình thương của Chúa mà không lo cố gắng sống đời hoàn thiện.

Một mặt, Chúa thương người nghèo. Chúa chúc lành cho sự nghèo khó. Nhưng mặt khác, Chúa cũng chúc lành cho tất cả những ai có tinh thần nghèo khó. Vì tinh thần này mà dù nghèo hay giàu, con người phải vượt lên trên của cải, vượt lên trên thói tham lam, sự ham mê vật chất của mình mà sống bác ái, sống khiêm nhường, rèn giũa đời sống cho phù hợp với tinh thần Tin Mừng….

Do đó, Điều quan trọng trong sứ điệp của Chúa hôm nay là: Chúa cảnh báo sự nguy hiểm trong việc sử dụng tiền của. Đừng tham lam, đừng sống ích kỷ, đừng xem vật chất là mục đích, nhưng hãy phó thác đời mình trong tay Chúa.

Hãy mở rộng bàn tay để sống bác ái. Chúng ta không giàu đến nỗi có thể cho mọi thứ. Chúng ta cũng không nghèo đến nỗi không có bất cứ cái gì để cho. Hãy thiết lập lòng bác ái nơi tâm hồn, để khi tâm hồn có đức bác ái, nhân đức này sẽ dạy ta biết phải cho gì, dù ta nghèo hay ta giàu.

Hãy cho bằng cả tấm lòng. Hãy giúp đỡ những anh chị em túng thiếu, bệnh tật, đau buồn, bị bỏ rơi, bị từ chối tình yêu, bị đói khát tình người, bị khinh thường, bị ngược đãi, bị tù đày, bị xã hội chê cười, bị cướp mất quyền làm người, bị cướp mất danh dự và nhân phẩm…

Ta có thể cho anh chị em mình tiền của, nhà cửa, mọi thứ vật chất cần thiết. Nhưng đâu nhất thiết phải có tiền, có của, có vật chất mà thôi. Mọi người đều có thể cho nhau niềm cảm thông, lòng yêu mến, sự tha thứ, sự chia sới tinh thần, sự đồng cảm… Ta có thể cho cả trái tim, cho cả đôi tay, cho cả con người, thậm chí cả cuộc đời của mình.

Chúa đâu chỉ đong đo tình cảm của ta, lòng bác ái của ta qua vật chất. Người nhìn thấy lòng ta, Người thấu suốt tâm tư ta. Chúa đòi phải sống thật, phả bác ái thật, phải yêu thương thật.

Sẽ có một ngày từng người phải ra khỏi cuộc đời, phải trình diện trước tôn nhan và sự công thẳng của Chúa, rồi sau đó mới bước vào một thế giới mới. Giấy thông hành cho chuyến đi này không là tiền của, không là vật chất mà mình đã cố công cả một đời xây đắp, nhưng là tình yêu, lòng bác ái, là sự rộng lượng của bản thân.

Nhân suy niệm về hai hình ảnh tương phản trong Tin Mừng hôm nay: Người nghèo Lazarô được Chúa ân thưởng nơi lòng Tổ phụ Apraham và người phú hộ bị trầm luân đời đời, chúng ta hãy nghe lại lời phát biểu của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân cuộc thăm viếng nước Mỹ ngày 2.10.1979, mà suy nghĩ về đời sống bác ái của ta:

“Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta, nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo Lazarô của thế kỷ XX vẫn còn đang đứng chờ ngoài cửa… Chúng ta hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình của mình”.

Hãy lắng nghe và sống giáo lý của Chúa, để mai ngày, dù giàu hay nghèo, khi đi qua khỏi chốn trần ai, ta được đưa vào lòng Tổ Phụ Abraham, như hình ảnh người ngèo Lazarô trong dụ ngôn.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống quảng đại. Biết yêu thương như là bổn phận trên hết mọi bổn phận trong đời Kitô hữu của chúng con. Lạy Chúa, xin tha thứ cho chúng con, vì nhiều lần, chúng con đã làm ngơ trước những anh chị em nghèo khổ xung quanh chúng con. Xin cho chúng con từ đây, biết quyết tâm thực hành đức bác ái một cách nghiêm túc như Chúa dạy. Amen.

 

.

TRONG TẦM TAY

Lm Vũđình Tường

Dụ ngôn nhà phú hộ không biết tên và người nghèo khó tên là Lazarô cho thấy cuộc sống hiện tại ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống mai hậu. Trường hợp nhà phú hộ và người nghèo thì cuộc sống đời này, và đời sau hoàn toàn đổi ngược. Anh nghèo trở nên giầu có trong nước trời. Anh giầu tình Chúa mến thương. Được Chúa đón nhận vào nước trời. Còn người giầu lại trở nên khốn khó. Anh bị xua đuổi và anh sống trong đau khổ tột cùng vì cuộc sống của anh không phải chỉ thiếu tình thương Chúa, mà chính là hoàn toàn vắng bóng tình thương Chúa. Cuộc sống không tình thương là cuộc sống buồn nản, cô độc và tuyệt vọng. Muốn chết cũng không thể chết được. Dụ ngôn cho biết cuộc sống mai hậu không phải chỉ thay đổi cuộc sống hiện tại, mà còn thay đổi cả í nghĩa của giầu sang, nghèo hèn. Giầu và nghèo trong nước Chúa hoàn toàn khác với giầu nghèo theo nghĩa thông thường chúng ta hiểu. Giầu nghèo trong nước Chúa chính là giầu tình thương, lòng mến của Thiên Chúa. Điều này Thiên Chúa ban riêng cho từng cá nhân. Không cá nhân nào có thể san sẻ cho cá nhân khác, ngay cả cho người thân; cũng như không cá nhân nào có thể đánh cắp được ân sủng này, bởi có Chúa làm bảo chứng cho ân sủng của Ngài.

Giầu có trên trần gian có thể hiểu là đặc ân Chúa ban. Không phải vì đặc ân này mà cá nhân người đó bị án phạt sau khi qua đời, mà chính là cách cá nhân đó xử dụng đặc ân Chúa ban như thế nào? Cuộc sống trường sinh ảnh hưởng rất nhiều vào cách cá nhân người đó xử dụng đặc ân Chúa ban khi còn sống. Con người cần í thức là tất cả những gì ta hiện có đều đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa trao ban cho. Chúng ta chỉ là người quản lí của cải, tài năng Chúa đặt vào tay ta. Chúng ta không phải là chủ nhân của những gì chúng ta đang có. Chúng ta là người quản lí coi sóc của cải vật chất Chúa ban. Bởi là quản lí nên cần chia sẻ vật chất đó cho tha nhân. Nhận thức mình là người quản lí là điều tối quan trọng trong việc phân chia của cải Chúa trao ban cho ta cầm giữ. Sau khi qua đời người quản lí bị phán đoán, xét xử dựa trên việc thi hành đúng đắn trách nhiệm quản lí lúc còn tại thế. Là quản lí tốt lành sẽ được tình thương Chúa, là quản lí vô trách nhiệm sẽ bị tước hết tình thương Chúa và đó là cuộc sống của người giầu có trong dụ ngôn. Bài giảng trên núi (Mat 5) và ngày dụ ngôn Phán Xét (Mat 25,31-46) cho biết ai giúp đỡ, yêu thương tha nhân chính là đón tiếp, giúp đỡ Đức Kitô. Người quản lí khôn ngoan, làm tròn trách nhiệm là người biết dùng của cải, vật chất, chức tước Chúa ban để làm ơn, giáng phúc cho tha nhân. Đó là cách làm giầu trước mặt Chúa và điều này nằm trong tầm tay của mỗi cá nhân. Sau khi hoàn tất hành trình dương thế, Chúa đong đầy đời họ với tình thương Ngài.

Dụ ngôn đưa ra hai cách sống hoàn toàn trái ngược. Người giầu yến tiệc linh đình, mặc gấm vóc; anh nghèo đói khổ triền miên, khi ngủ bao tử rỗng, bạn của anh là chó hoang. Anh sống không xa, ngay ngoài cánh cổng nhà phú hộ. Cả hai đều chết. Người giầu chết, không rõ lí do. Người nghèo chết có thể vì đói, dơ bẩn gây nên bệnh tật. Cả hai đến trước mặt Chúa. Người nghèo khó được Chúa đón nhận, người giầu bị tổ phụ Abraham xua đuổi. Trong đau khổ, người giầu hai lần van xin và cả hai lần đều bị từ chối. Lần thứ nhất tổ phụ Abraham nói giữa anh và người nghèo có khoảng cách ngàn trùng. Khoảng cách này do chính anh tạo thành khi còn sống. Chỉ cách nhau một cánh cổng mà hai cuộc sống khác biệt. Lần thứ hai tổ phụ Abraham đáp nếu thân nhân anh không nghe lời tổ phụ và các vị vọng, tiên tri thì lời thường dân đâu đáng họ để tai.

Dụ ngôn xác định rõ mỗi cá nhân sẽ lãnh nhận phần thưởng đời sau tuỳ vào cách hành xử của người đó với tha nhân. Tốt lành với tha nhân sẽ nhận ân sủng, tình thương Chúa. Chối bỏ tha nhân, khinh thường tha nhân sẽ bị Chúa chối từ bởi đời họ thiếu kinh nghiệm ban phát tình thương. Lời Đức Kitô rao giảng hết sức rõ ràng. Đó là mến Chúa, yêu người. Mến Chúa, yêu người là sứ mạng của Chính Đức Kitô và cũng là sứ mạng của mỗi chúng ta. Tiên tri Isaiah 61,1-12 đã mặc khải rõ khi ngài nói: Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi, sai tôi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Sứ mạng trần gian của mỗi chúng ta là mang tin mừng cho tha nhân. Giầu có nơi trần gian không bảo đảm giầu có trong nước Chúa, trừ khi người đó biết phân phát, làm tròn trách nhiệm quản lí Chúa trao. Ai cũng biết khi chết ra đi hai bàn tay trắng, nhưng mấy ai đủ can đảm chia sẻ của cải cho tha nhân khi sức còn dư, lực còn thừa, tinh thần còn minh mẫn và trí còn thông suốt. Cơn cám dỗ dựa vào sức mạnh vật chất lớn nhất trong các cơn cám dỗ. Người có can đảm từ chối đó đáng lãnh phần thưởng gia nghiệp Chúa ban.

Không nhận được tình thương của người phú hộ, anh nghèo Lazaro sống cuộc sống âm thầm. Trong thầm lặng anh đặt trọn niềm tin vào Chúa, hy vọng ngày mai sẽ tươi sáng. Anh không nhận được hy vọng đời này, nhưng chết trong hy vọng. Thiên Chúa biến hy vọng đời này thành hiện thực đời sau. Đời anh tươi sáng, sống hạnh phúc. Câu tâm niệm của chúng ta tuần này là:

Đức Kitô trở nên nghèo khó cho chúng ta giầu có trong Ngài 2 Cor.8,9.

 

.

BỆNH VÔ CẢM

Jos. Hồng Ân

“Bệnh vô cảm” được hiểu là một trạng thái tinh thần mà ở đó, con người không nảy sinh những cảm xúc đối với những sự vật, sự việc diễn ra xung quanh mình, những nỗi buồn, nỗi đau, sự mất mát, thiệt thòi của đồng loại ”. Vô cảm còn là con đường trực tiếp dẫn đến những cái xấu, cái ác. Nó là một căn bệnh lâm sàng mà trong đó, não của người bệnh vẫn hoạt động nhưng trái tim lại hoàn toàn băng giá. Người ta đã vô cảm thì làm sao có thể thấu hiểu được nỗi đau, người ta chỉ nghĩ đến mình và lợi ích của riêng mình mà thôi. Những người sống vô cảm thường chỉ bo bo nghĩ đến lợi ích của riêng mình với tâm niệm “đèn nhà ai nhà nấy rạng”. Những kẻ sống vô cảm thậm chí còn lạnh lùng, nhẫn tâm gieo rắc nỗi đau cho người khác mà không mảy may động lòng trắc ẩn.

Hiện nay, cả nước Việt Nam vẫn đang sôi sục căn phẫn, trước  thương vụ “thuốc ung thư giả vn pharma” của một số kẻ vô tâm, vô cảm, mất hết lương tri. Họ đang tâm làm giả giấy tờ, đút lót cho những kẻ có quyền để nhập thuốc giả, thông đồng với các bệnh viện để tuồn thuốc giả bán cho bệnh nhân ung thư với giá cắt cổ. Người mang căn bệnh ung thư, thật là vô cùng đau đớn, tiền ăn không có, đến miếng ăn cũng phải nhờ vào các nhà hảo tâm giúp đỡ, dốc hết tiền của để chữa bệnh. Thế mà họ phải bỏ tiền ra mua thuốc giả của những kẻ vô cảm, với hy vọng đẩy lùi căn bệnh nan y, hoặc được giảm bớt đau đớn.

Mới đây nhất là báo tintuc.vn, ngày 26/9/2019 đã đưa tin về “vụ ‘ăn’ hàng từ thiện: Tuồn hàng qua hai cổng bí mật”  Vụ việc nhiều cán bộ, nhân viên đang công tác tại Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ tàn tật Hà Nội (địa chỉ tại xã Thụy An, huyện Ba Vì, TP Hà Nội) thường xuyên tuồn hàng từ thiện do các cá nhân, tổ chức trao tặng ra ngoài đang khiến dư luận xôn xao. https://tintuc.vn/vu-an-hang-tu-thien-tuon-hang-qua-hai-cong-bi-mat-post1197674. Những người nghèo khổ, tàn tật nằm co quắp, miệng thì ú ớ không nói nên lời, những người già cả không nơi nương tựa, họ là những người bần cùng nhất của xã hội, bần cùng của sự đau khổ, bần cùng của nỗi cô đơn. Thế mà những kẻ được gọi là cán bộ, nhân viên của “Trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ tàn tật”, “mạng danh hội chữ thật đỏ”, đúng ra họ phải là những người có tâm nhất, biết yêu thương và đồng cảm với những mảnh đời bất hạnh nhất, Thị họ lại chính là những kẻ vô tâm nhất, vô cảm nhất, vô nhân tính nhất, đã ăn bớt, ăn xén, ăn chặn, ăn cắp phần của những người cùng khổ để chỉ lo cho mình và gia đình mình.

Bài Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu cũng chỉ ra cho chúng ta thấy sự vô cảm của con người đối với nhau. Qua dụ ngôn “ông nhà giàu và La-da-rô nghèo khó”. Chúa Giêsu đã mô tả một câu chuyện thật sinh động:“Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta”. (Lc 16, 19-21)

Dụ ngôn nói về sự vô cảm của ông nhà giàu không nhìn thấy nỗi thống khổ cùng cực của La-da-rô. Người giàu thì sống sa hoa, từ hình thức ăn mặc, vui chơi giải trí, tiện nghi, họ sống tách biệt khỏi thế giới của người nghèo, họ vô cảm với nỗi thống khổ cùng cực của người khác: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16,19). Ông ta không quan tâm, cũng chẳng thèm để ý tới sự hiện diện của La-da-rô trước cửa nhà mình. Ông ta chỉ quan tâm xem hôm nay mình ăn thứ gì, mặc gì, ông ta đã hoàn toàn vô cảm.

“Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16, 20-21). La-da-rô bệnh tật, nghèo khó không có tiền để chữa trị, không có gì để ăn, nên phải đi ăn xin, mong chờ vào những của bố thí, anh đến trước cổng của ông nhà giàu, mong được ông ta bố thí chút gì đó ăn cho đỡ đói: “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no” (Lc 16, 21), nhưng mà không được, thật là một tình trạng vô cùng bi đát. La-da-rô nằm đó nhưng ông nhà giàu đâu có quan tâm, chỉ có những con chó quan tâm đến tình trạng khốn khổ của anh mà thôi “Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta” (Lc 16,21b). Nói đến cách đối xử thì ông nhà giàu không bằng những con chó, mấy con chó nó biết quan tâm hơn, nó đến liếm chỗ ghẻ chốc giúp cho La-da-rô đỡ ngứa để yên ủi anh.

Sau khi chết thì tình thế đảo ngược “Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16,22). La-da-rô thì được các thiên thần đón về nơi hạnh phúc vĩnh hằng cùng với tổ phụ Áp-ra-ham, các ngôn sứ và những người lành thánh khi sông ở thế gian biết yêu thương, quan tâm đến người đồng loại. Ngược lại, sau khi chết ông nhà giàu được người ta đem chôn. Hành động “người ta đem chôn” tác giả muốn nói người ta đem chôn vùi xuống tận đáy vực sâu cái con người vô cảm chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến người khác, chôn đi cái sự vô cảm, thờ ơ trước nỗi thống khổ của đồng loại.

Dưới âm phủ, ông ta phải chịu cực hình, nóng bức vì bị lửa thiêu đốt. Ông ta ngước mắt lên nhìn thấy La-da-rô trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham. Ông ta kêu xin với tổ phụ Áp-ra-ham, chỉ xin nhúng ngón tay vào nước để nhỏ xuống làm cho mát lưỡi thôi, nhưng đã bị từ chối. Áp-ra-ham trả lời: “Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi…“Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,26). Vực thẳm này do chính ông đào xâu xuống, bức tường này chính tay ông dựng nên và làm cho nó kiên cố, để sống tách biệt khỏi thế giới của người nghèo. Lúc này ông phải chịu cảnh nghèo khổ cùng cực, mà không thể đến được với thế giới của người khác. Thế giới của những người biết yêu thương, quan tâm đến người đồng loại, đang được hưởng hạnh phúc thanh nhàn vui vẻ.

Nhiều người muốn biết ông nhà giàu đó phạm tội gì mà đến nỗi phải sa hỏa ngục, trong Kinh Thánh chỉ nói là “ông nhà giàu” thôi không thấy nói đến tội tham ô, hối lộ, không có thấy nói tội vơ vét, bóc lột dân nghèo, không nói đến tội buôn gian bán lận, không nói đến tội cho vay nặng lãi, cũng chẳng nói đến tội vay không trả… Kinh Thánh chỉ nói đến lối sống vô cảm, thờ ơ không biết quan tâm, đến người đồng loại nhất là những người nghèo khổ. Tội của ông nhà giàu là vô cảm với La-da-rô nằm trước cổng nhà ông.

Căn bệnh vô cảm đang hoành hành ở mọi thời và mọi nơi, làm cho con người thờ ơ lạnh nhạt với nhau, không quan tâm, không để ý, không nhìn thấy, không nghe thấy, không mảy may động lòng trắc ẩn trước tiếng kêu la rên siết, trước nỗi thống khổ của anh em đồng loại.

 

.

CỦA CẢI TRẦN GIAN

JM. Lam Thy

Hiến chế về Mục vụ “Gaudium et Spes” (số 69) đã lý giải về tiền của: “Của cải trần gian là để cho mọi người hưởng dụng. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền sử dụng của mọi người và mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái. Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn nhận bằng các định chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi, phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải. Vì thế, khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải vật chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác. Vả lại, mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình mình.”

Bài Tin Mừng hôm nay (CN.XXVI/TN-C – Lc 16, 19-31) cũng đề cập tới vấn đề tiền của trong dụ ngôn “Ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó”. Nhìn cảnh ông nhà giàu “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, ăn chơi phè phỡn, chẳng bao giờ thèm ngó đến anh La-da-rô “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”; thấy quả thật ngay từ thời xưa đã có cảnh “Giàu sơn lâm lắm kẻ tìm, khó giữa chợ ít người hỏi”, “trọng phú khinh bần” (trọng giàu khinh nghèo). Cho tới khi “lên xe hoa” về âm phủ, ông nhà giàu mới “bừng con mắt dậy” thấy anh nghèo kiết xác La-da-rô đang nằm trong lòng tổ phụ Ap-ra-ham.

Và chỉ đến lúc ấy, ông ta mới khẩn thiết kêu xin tổ phụ cứu vớt. Tổ phụ cũng chịu thua vì ông nhà giàu đã tự đưa mình vào án phạt đời đời ấy. Cuối cùng, ông ta nhớ đến những người thân cận còn ở trần thế và thưa với tổ phụ xin nhờ anh La-da-rô về cảnh báo họ đừng theo gương mù của ông ta. Thật thú vị khi được nghe lời tổ phụ Ap-ra-ham nói với ông nhà giàu: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”. Không còn câu nói nào đánh trúng tim đen những đại gia giàu sụ hơn được nữa. Quả thực “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Như vậy, phải chăng giàu là một cái tội? Và nếu giàu là có tội thì nghèo hẳn là có phúc? Tại sao lại thế?

Trước hết, nói về những người giàu có. Kể từ khi Nguyên Tổ phạm tội, bị tội lỗi thống trị, thì con người sống trên đời có đủ “tham sân si”, mà “tham” là đầu sỏ: “Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê” (Truyện Kiều); “tham vàng phụ nghĩa” (tục ngữ VN). Lòng tham vốn dĩ không đáy, có 1 thì lại muốn có 2, có 3 có 4 thì lại đòi có 5 có 10, không biết thế nào là cùng. Từ đó, nếu chỉ làm giàu bằng cách thật thà, chân chính mà không toại nguyện, sẽ đi đến chỗ làm giàu bằng mọi cách, bất chấp thủ đoạn, miễn sao “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” (Kiều) là đủ. Đã làm giàu bằng cách bất chính như thế, tất nhiên sẽ sử dụng tiền của không trung thực, chỉ lo sung sướng phè phỡn bản thân mà bất cần nghĩ đến ai khác. Với tấm lòng chỉ nghĩ đến bản thân, hà tiện đức ái như vậy, tất sẽ mắc tội thứ hai và thứ năm trong “bảy mối tội đầu” (“Thứ hai rộng rãi chớ hà tiện… Thứ năm kiêng bớt chớ mê ăn uống.”). Giàu như vậy, chắc chắn là có tội.

Còn nếu biết dùng những phương cách chân chính mà kiếm được nhiều tiền của, và khi sử dụng những tiền của ấy thì biết cách sử dụng, coi nó chỉ là phương tiện giúp ích cho đời sống, chớ không coi nó như một ông chủ, thì chắc chắn là không có tội. Không những thế, khi sử dụng những tiền của do tự mình làm ra mà không xa hoa phung phí, không phè phỡn phô trương, của cải dư thừa thì nhớ đến những anh em bất hạnh hơn mình, nghèo khổ hơn mình… mà chia sẻ từng miếng cơm manh áo, thì hẳn nhiên sẽ là người có phúc. Cụ thể là: phúc thứ nhất (“có lòng khó khăn”) và phúc thứ năm (“thương xót người”) trong “8 mối phúc”.

Ngay như tổ phụ Ap-ra-ham, hoặc ông Gia-cóp đều là những người giàu có. Tổ phụ Áp-ra-ham thì: “Ông Áp-ra-ham rất giàu, ông có nhiều súc vật và vàng bạc” (St 13, 2). Con của ngài là I-xa-ac thì: “trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu vô kể” (St 26, 13). Còn ông Gia-cóp cũng làm giàu và “Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa”. (St 30, 43). Vậy mà các ngài đều được hưởng phúc vinh trên Thiên quốc, điều đó cho thấy giàu có không phải là có tội, mà trái lại, còn là mối phúc nữa.

Còn nghèo cỡ anh La-da-rô trong bài Tin Mừng, nghèo mà có được cái tâm hướng thiện, biết sống đức khó nghèo, đương nhiên là được hưởng phúc. Nhưng như thế vẫn không có nghĩa là tất cả những người nghèo đều có phúc. Bởi trò đời thường hay “bần cùng sinh đạo tặc” (nghèo quá hoá trộm cướp), rồi từ chỗ gian lận, lường thưng tráo đấu, đi đến chỗ cướp của giết người cũng chẳng còn bao xa. Ấy là chưa kể còn chán vạn người nghèo vật chất, mà còn nghèo đến độ keo kiệt bủn xỉn luôn cả về tinh thần, như anh chàng đầy tớ trong dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (Mt 18, 23-36). Nợ nhà vua  tới mười ngàn yến vàng, mà biết quỳ lạy xin khất, vẫn được nhà vua tha luôn món nợ kếch sù. Trong khi đó, đối với người bạn chỉ mắc nợ mình có 100 quan tiền, bạn đã sấp mình xuống xin khất, mà vẫn không tha, còn tống vào ngục tối cho đến khi trả hết nợ mới thôi. Thế đấy!

Hoá cho nên giàu cũng chưa hẳn là có tội, mà nghèo cũng chưa hẳn là có phúc. Ăn thua là ở chính cái tâm địa con người, giàu mà có thiện tâm thì vẫn được hưởng phúc, nghèo mà có ác tâm thì vẫn mắc tội như thường. Nói là nói vậy thôi, chớ còn kiếm được cái thiện tâm trong thế giới người giàu còn khó hơn cả mò kim đáy biển. Và cũng vì thế nên “con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19, 24). Cũng đã có những vấn nạn: Ngày nào cũng thấy đọc “xin Cha cho chúng con rầy hàng ngày dùng đủ” (“xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày”); rồi khi đọc bài ca “Ngợi khen” lại thấy “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (kinh Magnificat – Lc 1, 53); vậy mà không hiểu sao người nghèo vẫn đầy rẫy, nghèo vẫn cứ nghèo, nghèo đến độ không có củ khoai, củ chuối để mà ăn. Trong khi đó, người giàu vẫn cứ giàu thêm lên, giàu nứt đố nổ vách. Sao lạ vậy?

Vấn nạn mới nghe qua cứ tưởng là hữu lý, nhưng xét cho cùng, thì sẽ thấy: Lương thực Chúa ban cũng giống như mưa trời rải đều khắp nơi. Muốn có nước mưa dùng, thì ít nhất cũng phải biết sắm cái chum, cái vại, đào cái ao, cái hồ, xây cái bể, cái máng, để chứa nước mưa. Hoặc giả, lười đến độ cứ “há miệng chờ sung rụng”, thì ít ra cũng phải bò, phải lết đến gốc cây sung rồi há miệng ra, chớ chẳng lẽ cứ nằm im một chỗ chờ sung bò đến tận miệng sao? Tất nhiên “Có làm thì mới có ăn, Không dưng ai dễ đem phần đến cho” (ca dao VN). Còn câu trích trong kinh Magnificat (-nt-), thì phải hiểu “của đầy dư” chính là của cải Nước Trời, và “đuổi về tay trắng” không có nghĩa là lột hết của cải trần thế của những người giàu, mà là giàu có ở trần thế sẽ gánh hậu quả “tay trắng” trên Thiên quốc. Vẫn còn đó cảnh “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, Chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì” (Ca dao tục ngữ Việt Nam).

Chung quy, người giàu mà biết thu tích của cải Nước Trời bằng cách “bán hết của cải mà chia cho người nghèo” (Mt 19, 21), người nghèo mà biết làm giàu bằng cách tu nhân tích đức, thì tất nhiên phần thưởng dành cho họ sẽ không phân biệt giàu nghèo nơi trần thế, mà là sự giàu có hạnh phúc nơi Thiên quốc. Nói cách khác, dù giàu hay nghèo về vật chất mà vẫn biết cách làm giàu về đường tinh thần (giàu thiện tâm, giàu lòng bác ái) thì chẳng lo chi không được hưởng sự sang giàu nơi Quê Trời vĩnh cửu. Cái hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” chính là hình ảnh anh nghèo kiết xác La-da-rô trong lòng Tổ phụ giàu có Ap-ra-ham nơi cõi phúc.

Ôi! Lạy Chúa! Nếu con được Chúa ban cho của cải nơi trần thế, thì xin Chúa cũng ban dũng khí và can đảm cho con sống theo gương Tổ phụ Ap-ra-ham, sống tinh thần nghèo khó là biết đem những của cải dư thừa phù du ấy gửi vào ngân hàng Nước Trời, đầu tư vào những công trình thiện ích mà Chúa đã làm và đã dạy con thực hiện. Còn nếu Chúa thử thách con trong hoàn cảnh nghèo khó, thì xin Chúa cũng ban Thần Khí cho con để con có đủ nghị lực và kiên tâm sống như anh La-da-rô trong bài Tin Mừng hôm nay.

Ôi! “Lạy Chúa, khi Chúa thương xót và tha thứ, chính là lúc Chúa biểu lộ quyền năng cách tỏ tường hơn cả; xin không ngừng ban ơn giúp chúng con đạt tới Nước Trời là hạnh phúc Chúa đã hứa ban mà chúng con đang hết lòng theo đuổi, chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVI/TN-C).