Lời Chúa: Lc 7,11-17
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca
11 Khi ấy, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. 12 Đức Giê-su đến gần cửa thành, đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói : “Bà đừng khóc nữa !” 14 Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói : “Này người thanh niên, tôi bảo anh : hãy trỗi dậy !” 15 Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng : “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. 17 Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
Suy niệm:
Đức Giê-su cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại là phép lạ Người chủ động thực hiện vì ‘Người chạnh lòng thương’ trước tình cảnh đau thương của một bà mẹ vừa mất đi người con trai duy nhất. Những người đi đưa đám kinh ngạc vô cùng, chỉ còn biết dâng cao lời ca ngợi Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Chúa đã viếng thăm dân Người”.
Sống Lời Chúa:
“Chúa chạnh lòng thương” làm nổi bật trong toàn bộ mạc khải của Đức Giê-su. Đặc điểm lớn nhất của mạc khải chính là sự chủ động trong tình yêu của Người đối với chúng ta. Ngày hôm nay mẫu mực này mời gọi mỗi người đoàn viên “chạnh lòng thương” đến anh chị em sống quanh ta, hãy để tâm hồn luôn biết chạnh lòng thương trước cuộc sống của mỗi người.
Ghi nhớ: chạnh lòng thương
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cho chúng con, những đoàn viên có sức đổi mới cuộc đời của mỗi người, xin cho chúng con biết mở lòng yêu thương nhau để chúng con luôn thực thi điều mình tuyên hứa một cách hoàn hảo. Amen.
***
2. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
4. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người
5. Thiên Chúa viếng thăm dân Người
***
Bấy giờ Chúa Giêsu đang tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim. Dân chúng đông đúc chen lấn bước theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà goá kia. Từ trong đám đông, Ngài bước ra, đi thẳng tới cỗ quan tài, vừa cầm tay chàng thanh niên vừa nói: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho anh chỗ dậy. Lập tức một sự yên lặng phủ xuống. Ai nấy đều hồi hộp khi thấy chàng thanh niên bắt đầu cử động. Và thánh Luca đã kết thúc bài tường thuật của mình: Dân chúng rất sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa.
Chắc hẳn sự việc này đã tạo được một chấn động lớn cho dân thành. Người ta không ngớt bàn tán với nhau: Ngài dựa vào đâu mà làm được như thế? Tại sao Ngài đã làm phép lạ ấy? Vì xót thương người mẹ? Chắc hẳn không hoàn toàn là như vậy. Chúng ta phải đặt phép lạ này trong toàn bộ những phép lạ khác như chữa lành người bệnh, cho kẻ mù được thấy, người điếc được nghe, để rồi chúng ta liên tưởng tới lời tiên tri Isaia: Khi Đức Kitô xuất hiện, thì mắt người mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông, người què sẽ nhảy nhót như nai và người câm sẽ ca hát được. Và như vậy, phép lạ hôm nay muốn nói với chúng ta rằng: Nước Thiên Chúa đang đến và Đức Kitô chính là Đấng cứu thế Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Từ đoạn Phúc Âm trên chúng ta đi vào cuộc sống hôm nay. Trong một trại tập trung ở Nonduras mà phần lớn là đàn bà trẻ em và người già cả. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng. Họ bị đối xử tàn nhẫn, thiếu thốn mọi sự và thường xuyên bị đe doạ bởi cái chết. Thế mà trong ngôi nhà nguyện nhỏ, các phụ nữ vẫn thường xuyên tụ tập để cầu nguyện và đi đàng thánh giá. Mỗi chặng ngắm, họ đều so sánh nỗi đớn đau của Chúa Giêsu với nỗi đớn đau mà họ đang gánh chịu. Khuôn mặt họ phảng phất nét buồn phiền của bà goá thành Naim. Và người ta nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang thực sự hiện diện trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện ở thành Naim 2000 năm về trước. Và hơn thế nữa, Ngài vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này một phép lạ còn vĩ đạo hơn phép lạ tại Naim nữa, bởi vì nhờ lời cầu xin của những người phụ nữ, của những người mẹ này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể xác, vì điều này chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm. Trái lại Ngài ban cho con cái họ cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Ai tin vào Ta thì sẽ sống. Và ai sống mà tin Ta, thì sẽ không phải chết đời đời.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau kêu cầu Chúa: Lạy Chúa, đôi tay Chúa chạm vào mắt kẻ mù loà để cho họ được thấy. Xin hãy chạm vào đôi mắt con để con được nhìn xem Chúa. Đôi tay Chúa chạm vào lỗ tai kẻ điếc để họ được nghe, xin hãy chạm vào tai con để con được nghe thấy tiếng Chúa. Đôi tay Chúa chạm vào chàng thanh niên để chàng được sống. Xin cũng hãy chạm vào con để con được sống muôn đời.
2. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
THIÊN CHÚA CHẠNH THƯƠNG NỖI THỐNG KHỔ CỦA CON NGƯỜI
Đoạn Tin Mừng ‘Đức Giêsu cho con trai một bà góa thành Na-in sống lại’ được xếp vào một trong số ít các phép lạ Người chủ động thực hiện, không qua lời khẩn cầu đôi khi phải rất khẩn khoản đầy tin tưởng của chính các nạn nhân, hoặc thân nhân của họ. Trong trường hợp cụ thể này, đơn giản là vì như được Lu-ca ghi nhận: ‘Người chạnh lòng thương’ trước tình cảnh éo le của một bà mẹ góa bụa vừa mất đi người con trai duy nhất. Chỉ có thế mà Người đã ra tay can thiệp với một phép lạ cả thể. Về phía dân chúng, đứng trước phép lạ cả thể, là một người đã chết đang trên đường đi chôn cất… bật ‘ngồi lên và bắt đầu nói’, họ không khỏi kinh ngạc tới độ cất cao tiếng ngợi khen Thiên Chúa: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Chúa đã viếng thăm dân Người”. Còn riêng với tôi, phép lạ này càng gây kinh ngạc khi tôi nhận ra mối quan tâm sâu sắc mà Thiên Chúa quyền uy cao cả dành cho số phận bọt bèo của một phàm nhân tầm thường: Người chạnh lòng thương! Đối với tôi phép lạ này phản ảnh một trong các nội dung quan trọng nhất của mầu nhiệm Nhập Thể: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…” (Ga 3:16) và, qua Đức Giêsu, Người quả thực rất quan tâm gần gũi với mọi tầng lớp con người.
Thật ra nội dung ‘chạnh lòng thương’ này không mấy xa lạ với Kinh Thánh nói chung. Trước cảnh nô lệ mà dân Do Thái phải chịu bên Ai-cập, Đức Chúa đã phán bảo Mô-sê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng…” (Xh 3:7) Từ đó xuất hiện trong Ít-ra-en một thái độ tin tưởng rất ấn tượng đối với Đức Chúa: “Con lâm cảnh ngặt nghẻo, Ngài lo lắng chăm nom, chẳng trao nộp thân này vào tay thù địch, nhưng cho con rộng bước thênh thang (Tv 30:9) Thế nhưng, hình như cũng đã rất sớm xuất hiện một khuynh hướng trái nghịch muốn đẩy Thiên Chúa ra xa, tới một nơi tôn nghiêm cực thánh, để rồi Người bị coi như một kẻ xa lạ, đầy thịnh nộ và quyền uy, phải được làm nguôi ngoai bằng các nghi thức lễ tế rườm rà. Từ đó lời cầu khẩn cũng không còn là hoàn toàn tin tưởng phó thác nữa, một chất chứa bồn chồn lo lắng: “Tới bao giờ hồn con vẫn còn lo lắng và hồn con ủ rũ đêm ngày? Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?” (Tv 12:3); thậm chí còn tỏ ra nghi ngờ Đức Chúa xót thương, “Xin Chúa đừng chê bỏ chúng con, đừng rẻ rúng tòa vinh hiểu của Ngài. Dám xin Ngài nhớ lại đừng hủy bỏ giao ước giữa Ngài với chúng con” (Gr 14:21).
‘Thiên Chúa luôn đi bước trước…, vì lòng nhân ái vô biên của Người’ là nét nổi bật nhất trong toàn bộ mạc khải của Đức Giêsu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời” (xem Ga 3:16). Khảng định của niềm tin Ki-tô hữu chúng ta không chỉ là: tôi tin vào một ‘Thiên Chúa yêu thương’ nhưng còn hơn thế nữa, tôi tin vào một “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước…” Và Thánh Gio-an còn thêm: chính vì vậy mà “Tinh yêu không biết đến sợ hãi, trái lại tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi” (1 Ga 4:18-19). Đặc điểm lớn nhất của mạc khải Giêsu chính là Thiên Chúa chủ động trong tình yêu của Người đối với con người đến nỗi, sau này Người đòi nó phải trở thành mẫu mực cho mọi tương quan tình yêu giữa người với người: “Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương chúng con” (Ga 13:34-35).
Thế nhưng cũng như thời Cựu Ước, thời gian dần trôi làm phát triển ngay giữa các Ki-tô hữu một khuynh hướng, đặc biệt trong lãnh vực phụng tự, đề cao sự vinh quang thánh thiện tột đỉnh của Thiên Chúa, nhấn mạnh sự cách biệt giữa Thiên Chúa và con người như trời với đất… Rất nhiều Ki-tô hữu rơi vào suy tưởng đầy ngộ nhận là: Thiên Chúa rất ít, hoặc hiếm khi, quan tâm tới số phận của tôi. Do ảnh hưởng của các tôn giáo vây quanh mà học thuyết phổ biến của họ là: các thần linh đòi phải được khẩn cầu và cung phụng, nhiều Ki-tô hữu không xác tín nổi rằng: có một Thiên Chúa từ nhân thực sự quan tâm tới con người yếu hèn, tới hoàn cảnh sống, nhất là tới những trạng huống đau thương của cuộc đời mình. Họ hoàn toàn đánh mất thái độ ‘như trẻ thơ nép mình bên lòng mẹ’, thái độ của con đường thơ ấu đầy tin thác của Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu tới độ, phải tới đầu thế kỷ XX Hội Thánh mới được nghe biết và coi như một khám phá độc đáo của thời đại. Dầu vậy cho tới ngày nay (sau Tê-rê-xa gần cả trăm năm) thực tế đã có bao nhiêu Ki-tô hữu thực sự xác tín rằng: niềm tin của mình là Tin Mừng…, vì biết rằng Thiên Chúa đã yêu thương mình cách vô điều kiện, bất chấp những lỗi lầm mình phạm?
Và còn hơn thế nữa, trong việc làm ăn sinh sống hàng ngày, niềm tin Ki-tô chúng ta có gì khác hơn so với sự cầu khẩn van xin của tín đồ các tôn giáo khác? Nếu cũng chỉ là khấn vái lạy lục để nhận được ân này huệ nọ, thì Lời Chúa hôm nay hẳn sẽ không có một giá trị nào hết. Lúc đó cùng lắm chúng ta sẽ coi việc Đức Giêsu làm phép lạ cho con trai bà góa thành Na-in sống lại cũng chỉ là một trong nhiều dịp, để Người biểu dương quyền năng tối thượng của mình mà thôi.
Vậy thì phép lạ mà Tin Mừng Chúa đề cập tới hôm nay chắc hẳn phải có giá trị củng cố niềm cậy trông còn rất yếu kém của chúng ta nhiều lắm đấy!
Lạy Chúa, xin củng cố đức tin của con, đặc biệt trong năm đức tin này. Xin cho con không chỉ tin rằng: Chúa hiện hữu, mà còn là hiện hữu chỉ vì yêu con; tin rằng Chúa yêu con không phải vì con xứng đáng mà chính vì con yếu đuối bất toàn; tin rằng Chúa hằng quan tâm chăm sóc con không phải vì con trung thành phụng sự, nhưng là vì tự bản chất, Chúa là Đấng từ bi và hay thương xót. Xin cho niềm tin này có sức đổi mới cuộc đời, cất khỏi con mọi nỗi lo âu buồn nản, nâng đỡ con lúc gặp thử thách gian nan…, để con có khả năng đem niềm vui của Chúa đến cho mọi người, đặc biệt các bạn trẻ sầu khổ thất vọng. Amen.
Phúc Âm kể lại rằng: Chúa Giêsu thổn thức xót thương cho người mẹ đang than khóc trước cái chết của đứa con trai duy nhất. Và rồi Ngài đã làm phép lạ cho đứa con trai ấy được sống lại trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người. Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là bài học chúng ta tìm thấy được qua sự kiện vừa nghe?
Chàng trai được đem đi chôn là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đã chết đi cho đời sống ơn sủng, do những tội lỗi mình vấp phạm. Thánh Gioan Kim Khẩu đã diễn tả về họ như sau: Mặc dù không bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, mặc dù không bị giòi bọ rút tỉa thân xác, nhưng tâm hồn họ thực sự đã chết và còn tệ hơn thế nữa là đàng khác, bởi vì tâm hồn họ đã bị những đam mê dục vọng sai quấy làm nhàu nát.
Còn người mẹ than khóc đứa con của mình là hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Đúng thế Giáo Hội luôn than khóc những đứa con bất hạnh của mình. Ngày cũng như đêm, Giáo Hội không ngừng cầu nguyện cho họ biết trỗi dậy trở về cùng Chúa, bởi vì Giáo Hội biết rằng con đường họ đang đi sẽ dẫn họ tới chốn diệt vong.
Hoàn cảnh khiến chàng thanh niên được cứu sống cũng chính là cách thức Chúa thường dùng để hoán cải các tội nhân. Chúa Giêsu đến gần người chết cũng như các tội nhân. Ngài có hàng ngàn cách thức để nói với họ, hầu thức tỉnh họ. Có thể đó là một bài giảng cảm động. Có thể đó là một trang sách vô tình họ đọc được. Có thể đó là một mẫu gương của một người đạo đức thánh thiện. Có thể đó là cái chết của một người thân yêu, hay một tai ương bất ngờ xảy đến, làm đảo ngược những dự tính của họ. Điều quan trọng là tâm hồn họ không chai lì để nhận ra tiếng nói của Chúa.
Phúc Âm còn kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu đụng tới quan tài và những người khiêng đứng lại.Các thánh giáo phụ thì nghĩ rằng những người khiêng là những đam mê dục vọng xấu xa, làm cho con tim trở nên mù loà và dẫn đưa chúng ta tới cái chết. Đó là những thói hư tật xấu làm cho chúng ta trở thành nô lệ cho ma quỷ. Để được giải thoát, chúng ta phải biết chạy đến cùng Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể bẻ gẫy xiềng xích và phá tan gông cùm của tội lỗi. Ngài sẽ cứu giúp chúng ta vì Ngài không muốn kẻ tội lỗi phải chết nhưng muốn họ ăn năn và được sống. Chính Ngài sẽ đi bước trước đến các tội nhân. Chính ngài đã phán với chúng ta: Một người tội lỗi ăn năn hối cải sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Rồi Chúa Giêsu nói với người đã chết: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy. Lập tức chàng trai trỗi dậy và Chúa Giêsu trao chàng cho người mẹ. Chúa Giêsu cũng nói với người đã chết đi vì tội lỗi như vậy: Hỡi người ngủ mê hãy trỗi dậy. Hỡi kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết hãy chỗ dậy. Chúa Giêsu sẽ tha thứ và sẽ rửa sạch mọi dấu vết tội lỗi bằng máu thánh của Ngài. Hãy trỗi dậy. Đức Kitô sẽ chiếu sáng và mặc cho ngươi tấm áo cưới và đem lại cho ngươi niềm vui mừng đã mất. Thế nhưng là những kẻ tội lỗi chúng ta đã thực sự nghe thấy tiếng gọi của Chúa và đã trỗi dậy, lên đường trở về với Ngài hay chưa?
4. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người
(Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’ của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Đức Giêsu Kitô cũng đã làm phục sinh người thanh niên con bà góa thành Naim. Nhưng hai câu chuyện, hai cách thức làm cho kẻ chết sống lại khác nhau làm sao!
Tuy nhiên phụng vụ Lời Chúa hôm nay không muốn so sánh Êlya với Đức Giêsu. Phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về mặt đạo đức. Và bài học của phụng vụ nằm trong cả ba bài đọc. Không tất nhiên ba bài Kinh Thánh đều nói lên một ý; nhưng đọc kỹ chúng ta vẫn có thể nhận ra một chủ đề nào đó với nhiều ý tưởng phụ xoay quanh. Chủ đề ấy chúng ta sẽ dễ thấy nổi lên sau khi đọc lại các bài Kinh Thánh vừa nghe.
1) Tôi biết là Người Của Thiên Chúa
Bài sách Các Vua thuật lại một câu chuyện trong cuộc đời của tiên tri Êlya. Chúng ta chẳng có một sách tiểu sử đầy đủ nào về nhà tiên tri này. Sách Các Vua quyển I kể nhiều chuyện về ông. Nhưng đó là những “mẩu” chuyển rời rạc không dính vào nhau để làm thành một cuốn tiểu sử. Câu chuyện hôm nay chẳng hạn. Người ta thường gọi là chuyện Êlya làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Nhưng như chúng ta vừa nghe, chẳng có chữ nào trong bài kể hôm nay nói rằng bà góa ấy ở thành Sarepta. Chỉ vì trước đó sách Các Vua kể rằng Êlya theo lệnh Chúa đi đến Sarepta và lưu lại ở đó. Ông đã gặp một bà góa đi mót củi. Ông xin bà cho bánh ăn và nước uống. Và bà ta có một đứa con. Tuy nhiên chẳng có gì chắc chắn khiến người ta có thể bảo bà góa con côi ấy cũng chính là mẹ góa con côi trong chuyện này. Ngược lại, chỉ cần lưu ý ít nhiều đến danh từ và cách kể, người ta thấy đây là hai chuyện khác nhau. Bà góa đi mót củi ở Sarepta không phải là “bà chủ nhà” trong câu chuyện này. Tiếng “bà chủ nhà” khiến người ta phải nghĩ đến một mệnh phụ quí phái hơn người đàn bà đi mót củi. Và nhất là cuộc đối thoại giữa bà chủ nhà với nhà tiên tri trong câu chuyện hôm nay cho thấy giữa hai người dường như chưa hiểu nhau. Đang khi bà góa ở Sarepta đã hiểu biết nhà tiên tri rồi.
Đằng khác, ai hiểu biết Kinh Thánh có thể nhận ra ngay rằng câu chuyện kể trong sách Các Vua quyển II về tiên tri Êlya. Ông này cũng làm cho con một bà lớn ở Shumen sống lại. Do đó có người nghĩ câu chuyện kể hôm nay đã được môn đồ của Êlya viết thêm vào cuộc đời của Êlya làm cho nhà tiên tri này sáng giá hơn.
Quả thật, dường như đây là mục đích của chính bài tường thuật hôm nay. Người muốn viết cho mọi người biết Êlya là người của Thiên Chúa. Thoạt tiên bà góa kia cũng như hầu hết các người đồng thời không biết như vậy. Họ thấy Êlya là người khác thường. Họ biết ông có một nhiệt tình lạ lùng đối với Giavê. Luôn luôn ông kêu gọi người ta sống trung thành với giao ước và đừng thờ một thần nào khác ngoài Giavê. Lắm lúc ông đe dọa người ta những hình phạt khủng khiếp. Kể cả vua Israen thời bấy giờ. Nhà vua tránh né Êlya chỉ sợ gặp lại phải nghe các đòi hỏi của Thiên Chúa và các hình phạt theo sau nếu nhà vua không đáp ứng những đòi hỏi kia.
Do đó người ta sợ Êlya hơn là muốn nghe theo ông. Người ta chưa chắc ông là người của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, vì yếu đuối và sợ các đòi hỏi của tôn giáo chân thật, người ta chưa muốn công nhận ông là người của Thiên Chúa.
Chính vì Êlya khiến người ta sợ hơn là lôi cuốn được hạ theo mình, nên khi Êlya ở tại nhà bà góa kia mà con bà bị bệnh chết, thì bà ta đã đổ tội cho nhà tiên tri. Bà nói: Ngài và tôi có việc gì (với nhau) mà ngài lại đến tôi để hạch tội tôi và làm con tôi chết? Nhà tiên tri bị buộc tội như vậy chẳng biết làm gì hơn để giải oan là xin lấy xác đứa con để làm sao cho nó sống lại.
Chúng ta thấy ông nằm dài trên đứa trẻ ba lần, khác nào như làm phù phép. Nhưng rõ ràng không phải cử chỉ và hành động này đã làm cho đứa trẻ sống lại, nhưng là lời Êlya cầu nguyện xin Thiên Chúa cho hồn vía đứa trẻ trở về lại mình nó. Chính lời cầu nguyện này đã kéo Êlya ra khỏi cảnh lúng túng và đem sự kiện lạ lùng này mà bà chủ nhà cũng như mọi người sẽ nghe biết chuyện mới thấy rõ Thiên Chúa ở với Êlya và ông thật là người của Thiên Chúa.
Do đó câu chuyện này xảy ra để giúp Êlya. Chủ ý của người viết là làm sáng giá cho nhà tiên tri. Tuy nhiên câu chuyện cũng dạy dân Do Thái một bài học: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và chết chưa phải là hết. Nếu người ta tin vào Chúa và biết cầu xin với Người thì Người có thể làm cho con người sống lại. Một niềm tin như thế đòi hỏi ta phải biết sống như thế sẽ có sự phục sinh. Ai không thấy đó là một mạc khải lớn lao và đầy hy vọng cho con người, nhất là ở thời xa xôi và tại những nơi chưa có lời giảng dạy chắc chắn nào về đời sau. Riêng đối với chúng ta, cần nhờ câu chuyện trong bài sách Các Vua hôm nay để hiểu hơn về bài Tin Mừng trong thánh lễ này.
2) Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Của Người
Người ta có thể nói tác giả Luca đã vay muộn một số nét của bài kể trong sách Các Vua. Nhưng những điểm dị đồng đáng để ý hơn nhiều, nhất là chủ ý của hai tác giả rất khác nhau.
Luca thuật lại một câu chuyện đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có đông đảo dân chúng chứng kiến, đang khi bài sách Các Vua chỉ tường thuật việc xảy ra trong nhà một mẹ góa con côi. Và như vậy có thể nói một việc đã xảy ra có hệ đến toàn dân, còn việc kia chỉ liên quan đến một gia đình, nếu không muốn nói là một người. Chúng ta hãy tạm bỏ câu chuyện xưa xảy ra thời Êlya, để chú ý đến việc xảy ra dưới thời Chúa Giêsu mà Luca đã thuật lại để nói rằng nó rất có hệ đến chúng ta thời bây giờ.
Hôm ấy Đức Giêsu đi với môn đồ và đông đảo quần chúng đến một thành gọi là Naim. Người đi vào xã hội loài người vì theo Kinh Thánh “thành” là nơi loài người sinh sống. Và “thành” mà không có Chúa thường được ví như một góa phụ. Hơn nữa “bà góa” ấy không nuôi nổi con mình. Cố gắng của loài người không có thể làm cho con người được sống thật và sống đời đời.
Do đó khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì này người ta đang khiêng đi chôn đứa con gái của bà góa. Thật là não nuột. Có một đứa con mà bà góa vẫn không giữ được. Xã hội loài người cũng bất lực bó tay. Dân chúng trong thành chỉ biết đi chôn đứa con với bà.
Người thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ biết cảm thông. Đức Giêsu thì khác, Người đi vào thế gian là để cứu sống nên tác giả Luca viết: “Chúa chạnh lòng thương”. Lần đầu tiên trong tác phẩm của ông, Luca xưng Đức Giêsu là “Chúa”. Từ ngữ này, các tác giả Tân Ước chỉ dùng để nói về Người sau khi Người đã sống lại. Luca còn dùng kiểu nói “chạnh lòng thương” là kiểu nói chỉ dùng để nói về chính Thiên Chúa khi Người muốn biểu lộ tình thương cứu độ đối với dân Người. Như vậy trong câu nói vắn tắt kia, Luca đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đang muốn tỏ lòng thương cứu độ nhân loại khổ sở nằm chết trong tội lỗi. Hơn nữa tác giả còn ngầm ý bảo rằng: nơi Đức Giêsu có sự phục sinh.
Thật vậy, ở đây Đức Giêsu không cầu nguyện như Êlya. Người bảo bà góa đừng khóc lóc nữa. Người đụng đến quan tài. Các kẻ khiêng đứng lại tức khắc. Sao Người uy quyền như vậy? Người ta đã tin ở Người rồi, vì nếu không, các kẻ kia không dễ vâng lời như thế. Rồi Người truyền lệnh: “Thanh niên! Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy”. Và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói, (để làm chứng đã sống lại thật).
Phản ứng của mọi người là kinh sợ trước quyền và công việc Thiên Chúa. Thiên Chúa đang ở trước mặt họ. Người vừa cho họ thấy một biểu dương uy quyền của Người. Bà góa thành Sarepta thấy Êlya cầu nguyện mà làm cho con bà sống lại, thì nhận ra Êlya là người của Thiên Chúa nên được Chúa nhận lời, còn ở đây người ta thấy sự sống lại do chính Đức Giêsu mà đến, nên Người là một tiên tri cao cả, và đúng hơn, Người là chính Thiên Chúa cứu độ mà loài người chết trong tội lỗi đang chờ đợi.
Do đó như các bài sách Các Vua đã muốn chứng tỏ Êlya là người của Thiên Chúa, thì bài Tin Mừng Luca muốn làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Người có sự phục sinh để làm cho loài người sống lại, nên Người là vị tiên tri cao cả và là Thiên Chúa đến viếng thăm dân của Người. Chúng ta hãy tin vào sức mạnh cứu độ của Người. Và điều này bài thư Phaolô cũng muốn làm chứng.
- Thiên Chúa đã mạc khải Con của Người trong tôi
Quả vậy, Phaolô viết thư cho người Galát để ít ra trong đoạn trích hôm nay – Xác minh mình là tông đồ chân chính. Trước đây người Galát vẫn tin như vậy. Nhưng nay có mấy người Do Thái đến đặt điều vu khống và dèm pha uy tín của người, để lôi kéo người Galát trở về với những tập tục Do Thái là cắt bì và giữ luật Môsê. Họ nói rằng Phaolô đã không được đặt làm tông đồ. Người đã làm việc tự ý. Tin Mừng người rao giảng không đáng tin.
Phaolô phản kháng mạnh mẽ. Trong đoạn văn này. Người khẳng định chính Thiên Chúa đặt người làm tông đồ, khi mạc khải Đức Giêsu Kitô cho người. Quả vậy, xưa người không như thế. Người cũng chỉ biết đạo Do Thái và chỉ hơn đồng đạo ở điểm hăng say phục vụ.người đã tình nguyện đi bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa. Tại đâu người đã thay đổi ra như ngày nay? Chính nhờ Thiên Chúa đã tách người ra ngay từ lòng mẹ và kêu gọi người. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và kêu gọi người như Giêrêmia ở đây để nói lên niềm tin ấy. Hơn nữa khi kêu gọi người, Thiên Chúa đã không mạc khải một sứ điệp, hoặc một sứ mệnh, như trong trường hợp các tiên tri. Thiên Chúa cho Phaolô biết Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, để từ nay người phải rao giảng Ngài.
Do đó Phaolô không cần học với một ai. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác không cần thiết tuyệt đối theo nghĩa Phaolô phải cần học hỏi thêm với các ngài. Khi đã nhận được mạc khải của Đức Giêsu Kitô và được đặt làm tông đồ rồi, người ta muốn nắm vững các chân lý của đạo. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác chỉ có ý nghĩa hiệp thông, duy nhất. Và nếu nó có làm giàu thêm cho kho tàng mạc khải mà mỗi người đã lãnh nhận, thì cũng chỉ là một sự soi sáng thêm để đi sâu hơn vào chân lý mà thôi. Phaolô không những được quyền lợi và vinh dự như mọi tông đồ; nhưng vì đã được mạc khải một cách đặc biệt và độc đáo, người còn xứng đáng được tôn vinh như một tông đồ độc hạng và kiệt xuất. Và được như vậy, một lần nữa người ta nên biết, là tự người đã được ơn hiểu biết Chúa Giêsu Kitô một cách phi thường. Do đó, hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là điều quan trọng và quan trọng hơn hết. Bài Tin Mừng đã muốn làm cho người ta được sự hiểu biết này. Bài thư Phaolô làm chứng khi sự hiểu biết này sâu sắc đặc biệt, thì người ta cũng được chọn một cách đặc biệt. Vinh dự và hạnh phúc của người ta vượt xa sự sung sướng của bà góa thành Sarepta khi hiểu biết tiên tri Êlya.
Chúng ta tự nhiên muốn được sự hiểu biết này. Hội Thánh muốn giúp đỡ chúng ta không ngừng. Đặc biệt trong các thánh lễ. Phụng vụ Lời Chúa là một mạc khải liên tục về Chúa Giêsu Kitô. Và nhất là Bí tích cử hành nơi bàn thờ. Tại đây Chúa Giêsu Kitô không muốn cho chúng ta gặp Người như Phaolô trên đường Đamas sao? Chúng ta phải nói còn hơn thế nữa. Chúng ta sẽ lãnh nhận chính mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là chính mầu nhiệm của Người, là chính mầu nhiệm biểu lộ Người hoàn toàn và đầy đủ hơn hết. Người không những là Đấng Tiên Tri của Thiên Chúa, nhưng còn là chính Con Thiên Chúa sinh ra làm người để tha thứ tội lỗi và làm cho chúng ta được sống lại và sống sự sống mới. Chúng ta hãy có lòng tin yêu để đón nhận và để sống sự sống của Chúa Giêsu Kitô.
5. Thiên Chúa viếng thăm dân Người
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm
Thánh Luca đã viết câu chuyện này như một người quay phim. Ngài bắt đầu từ cảnh Đức Giêsu và các môn đệ cùng đi với một đám đông. Thầy trò và mọi người đang trên đường tiến vào thành Nain. Khi gần đến cửa thành thì lại gặp một đám đông khác đi ra. Đây là một đám tang lớn có đông người theo ra mộ. Sau đó là cận cảnh Đức Giêsu gặp bà mẹ của người chết. Cuối cùng trở lại với cảnh của hai đám đông kinh sợ ngỡ ngàng, và câu chuyện kỳ diệu lan ra khắp Giuđê và các vùng lân cận.
Chuyện Đức Giêsu gặp đám tang là chuyện tình cờ trên đường. Nhưng điều đánh động trái tim Ngài lại không phải là chuyện người chết, dù anh thanh niên này chết khi còn cả một tương lai. Điều thu hút cái nhìn và mối quan tâm của Đức Giêsu chính là bà mẹ. Đó là một bà góa không còn chỗ nương tựa. Bà đã dự đám tang của người chồng. Và bây giờ bà lại dự đám tang của đứa con trai duy nhất. Chỗ dựa còn lại và cuối cùng cũng bị lấy đi. Đức Giêsu hiểu rất nhanh về nỗi đau của người phụ nữ. Bà biết mình bị trắng tay cả về tình cảm lẫn vật chất. Có lẽ bà đã nhiều lần tự hỏi: Thiên Chúa ở đâu?
Đức Giêsu trông thấy bà, thấy nỗi đau và nước mắt. Ngài bảo: Bà đừng khóc nữa (c. 13). Dường như Ngài không có khả năng chịu được nước mắt của người khác. Khi thấy cô chị Maria khóc em là Ladarô đã chết (Ga 11, 33), Đức Giêsu đã thổn thức và xao xuyến, rồi Ngài bật khóc (Ga 11, 34). Sau này Ngài hỏi chị Maria Mađalêna khóc bên mộ vì mất xác Thầy: Này bà, tại sao bà khóc? (Ga 20, 15). Đức Giêsu hiểu rõ nỗi đau của sự chia ly bởi cái chết. Ngài cũng hiểu rõ về nước mắt của phận người, dù vì bất cứ lý do gì. Nhiệm vụ của Ngài là lau khô nước mắt và làm cho con tim vui trở lại. Đức Giêsu đã chạm đến quan tài, hay đúng hơn, chạm vào cái cáng khiêng xác được chôn theo kiểu người Do Thái. Ngài nói với anh như ra lệnh: Tôi bảo anh, hãy trỗi dậy (c.14). Anh thanh niên ngồi dậy và bắt đầu nói: anh đã được hoàn sinh. Như Êlia ngày xưa, Ngài trao anh cho bà mẹ (1 V 17,23). Ai là người vui nhất? Bà mẹ, người con, đám đông, hay Đức Giêsu? Có lẽ là Đức Giêsu, người đã đem lại hạnh phúc cho người khác. Khi đứa con lao vào vòng tay mẹ, khó lòng Ngài giấu được giọt nước mắt vì vui.
Đám đông kêu lên: Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người (c.16). Thiên Chúa không chỉ thăm dân Do Thái qua Đức Giêsu (Lc 1, 68.78; 19, 44), Chương trình làm việc mỗi ngày của Ngài là thăm cả thế giới. Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn đến thăm tôi qua bao người khác, và Ngài muốn tôi đi thăm để lau khô nước mắt cho người bạn gần bên.
Cầu nguyện:
– Lạy Chúa Giêsu, Khi làm người, Chúa đã nhận trái đất này làm quê hương. Chúa đã ban nó cho chúng con như một quà tặng tuyệt vời. Nếu rừng không còn xanh, dòng suối không còn sạch, và bầu trời vắng tiếng chim. thì đó là lỗi của chúng con.
– Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến làm người để tôn vinh phận người, vậy mà thế giới vẫn có một tỷ người đói, bao trẻ sơ sinh bị giết mỗi ngày khi chưa chào đời, bao kẻ sống không ra người, nhân phẩm bị chà đạp. Đó là lỗi của chúng con.
– Lạy Chúa Giêsu, Chúa đến đem bình an cho người Chúa thương, vậy mà trái đất của chúng con chưa một ngày an bình. Chiến tranh, khủng bố, xung đột, có mặt khắp nơi. Người ta cứ tìm cách giết nhau bằng thứ vũ khí tối tân hơn mãi. Đó là lỗi của chúng con.
– Lạy Chúa Giêsu ở Belem, Chúa đã cứu độ và chữa lành thế giới bằng tình yêu khiêm hạ, nhưng bất công, ích kỷ và dối trá vẫn thống trị địa cầu. Chúa đến đem ánh sáng, nhưng bóng tối vẫn tràn lan. Chúa đến đem tự do, nhưng con người vẫn bị trói buộc. Đó là lỗi của chúng con. Vì lỗi của chúng con, chương trình cứu độ của Chúa bị chậm lại, và giấc mơ của Chúa sau hai ngàn năm vẫn chưa thành tựu. Mỗi lần đến gần máng cỏ Belem, xin cho chúng con nghe được lời thì thầm gọi mời của Chúa để yêu trái đất lạnh giá này hơn, và xây dựng nó thành mái ấm cho mọi người.
***