Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19
CHÚA KITÔ VUA 2019
NL: KITÔ VUA
ĐC: TÔI MỪNG VUI
DL: XIN HIỆP DÂNG
HL: ÔI GIESU VUA
KL: KHÚC HÁT TẠ ƠN
Lời Chúa: 2Sm 5, 1-3; Cl 1, 12-20; Lc 23, 35-43
Bài đọc 1: 2 Sm 5,1-3
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.
Hồi đó, toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa : “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài. Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Đức Chúa đã phán với ngài : ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en’.” Toàn thể kỳ mục Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn, trước nhan Đức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Ít-ra-en.
Bài đọc 2: Cl 1,12-20
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.
Thưa anh em, anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.
Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái ; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.
Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,
vì trong Người, muôn vật được tạo thành
trên trời cùng dưới đất,
hữu hình với vô hình.
Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng
hay là bậc quyền năng thượng giới,
tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng
nhờ Người và cho Người.
Người có trước muôn loài muôn vật,
tất cả đều tồn tại trong Người.
Người cũng là đầu của thân thể,
nghĩa là đầu của Hội Thánh ;
Người là khởi nguyên,
là trưởng tử
trong số những người từ cõi chết sống lại,
để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.
Vì Thiên Chúa đã muốn
làm cho tất cả sự viên mãn
hiện diện ở nơi Người,
cũng như muốn nhờ Người
mà làm cho muôn vật
được hoà giải với mình.
Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá,
Thiên Chúa đã đem lại bình an
cho mọi loài dưới đất
và muôn vật trên trời.
Vua vũ hoàn – vua nhân loại
Mừng lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua vũ trụ kết thúc năm Phụng vụ. Điều này cho chúng ta ý nghĩa: Chúa Ki-tô là Vua của dòng thời gian, Vua của lịch sử, Vua muôn thế hệ. Khi lịch sử nhân loại được khép lại, thời gian chấm hết, cũng là lúc mọi quyền lực dưới đất, trên trời, trong nơi âm phủ đều bị thu lại. Nhường chỗ cho Đấng Sáng Tạo làm chủ lịch sử thế giới được tạo thành, có quyền tối thượng trên muôn loài, muôn vật.
Lời sách Sa-mu-en kể, để nhìn nhận vương quyền của vua Đa-vít “Toàn thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Đa-vít tại Khép-rôn và thưa: “Chúng tôi đây là cốt nhục của ngài.” ngoài nghĩa đen, còn có ý ẩn mà Thánh Thần muốn chúng ta nhận biết hôm nay. Ít-ra-en đang là hình ảnh tiên trưng của nhân loại, có “cốt nhục” tức huyết thống tự nhiên với Đức Ki-tô. Những người đang muốn có một vị Vua có thể bảo đảm cuộc sống đời đời cho họ. Và lời Chúa nói về vua Đa-vít – tổ phụ của Đấng Thần Nhân, cũng là nói về Đức Ki-tô – Con Thiên Chúa “Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta, chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” Đấng ấy đã lập giao ước với toàn dân bằng máu thánh của chính Người, Đấng sẽ bào chữa cho nhân loại trước sự phán xét công minh của Chúa Cha.
Điều này, được thánh vị Tông Đồ dân ngoại tôn vinh trong thư gởi Cô-lô-xê “Anh em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.” Và để diễn giải chân lý hằng sống này Thánh Nhân đã nói chi tiết hơn
“Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.” Thật vậy, con cái loài người đã bị giam hãm trong quyền lực tối tăm của ác thần từ khởi nguyên, bị giam giữ trong đau khổ và sự chết thể lý lẫn cái chết đời đời mãi cho đến hôm nay. Nhờ Thánh Tử Giê-su – Con Thiên Chúa Hằng Sống, con người mới được giải thoát khỏi quyền lực tối tăm của ác thần. Còn được nâng lên một tầm cao mới trong sủng ân vĩnh hằng đó là được cứu chuộc và cho làm con Thiên Chúa. Một địa vị cao trọng ở trên mọi thụ tạo Thiên Chúa đã dựng nên.
Bởi vì, điều này chỉ được thực hiện bởi chính Thiên Chúa Hữu Hình, tức là hiện thân hữu hình của Thiên Chúa, Đấng có bản thể thiêng liêng
“Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,”
Sự khẳng định này của lời Chúa qua thánh Phao-lô, là hoa trái đức tin mà Chúa Giê-su đã dạy về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mở ra cho nhân loại một chương mới về thần học chưa từng có trong lịch sử loài người. Thánh Tử : Con Thiên Chúa làm Người – Đấng đã được Chúa Cha sinh ra trước thời gian, trước muôn loài thụ tạo.
Trong khổ Kinh dưới đây, có một điều rất tuyệt, rất thú vị về thần học, chúng ta cùng thưởng thức. Tại sao vị Thánh được ơn dồi dào thần khí thông hiểu lại khẳng định
“vì trong Người, muôn vật được tạo thành
trên trời cùng dưới đất,
hữu hình với vô hình.”
Nếu ta hiểu hai từ “trong Người” theo nghĩa đen trọn vẹn, ta sẽ thấy lộ ra những điểm mâu thuẫn tự nội tại Thiên Chúa. Làm sao trong bản thể thánh thiện của Thiên Chúa lại có tồn tại quỷ tính của thiên thần sa ngã, hay tội lỗi và sự xấu xa của con người? Trong Thiên Chúa làm sao có thể có như thế được? Vì vậy, cần có một ánh nhìn chân lý khác, lý giải đúng với sự thật hơn:
Thứ nhất, ta phải hiểu, khi Thiên Chúa tạo dựng nên thụ tạo, là tạo dựng ở ngoài bản thể Thiên Chúa. Thánh Kinh mới nói “Thiên Chúa tạo dựng nên mọi sự từ hư vô” (x. Mcb 7,28), còn nếu Thiên Chúa tạo dựng nên thụ tạo trong bản thể Người, sao có thể nói “tạo dựng nên từ hư vô” được? Vì bản thể Thiên Chúa là Nguồn Sống, tạo dựng nên thụ tạo trong Nguồn Sống làm sao có thể bị hư hoại hay sa hỏa ngục cho được?
Điều này đưa tới sự khẳng quyết của chân lý đức tin: Thiên Chúa Ba Ngôi tạo dựng nên muôn vật ở “trong Người” là “trong ý muốn thiện hảo”, “trong quyền năng tuyệt đối”, “trong chân, thiện, mỹ tối thượng hay tùy mức độ ân ban”, “trong quy luật quan phòng tuyệt đối hay tương đối” của Thiên Chúa. Nói ngắn gọn, dễ hiểu hơn là “tạo dựng trong sự quản lý và chăm sóc” của Thiên Chúa. Chứ không phải tạo dựng nên thụ tạo trong bản thể hay trong yếu tính của Người. Bởi vì, nếu Thiên Chúa tạo dựng nên thụ tạo có lý trí còn có nguy cơ sa ngã, hay sau đó sa ngã vào hỏa ngục ở nơi bản thể Người. Chẳng lẽ trong bản thể Thiên Chúa có tồn tại sự bất toàn và hư hoại, còn có cả khổ hình đày đọa các tội nhân đã thành quỷ dữ sao? Hay nói cách khác, trong bản thể Thiên Chúa lại chứa chấp sự dữ có tính vĩnh cửu sao được!
Thứ hai, khi thụ tạo có lý trí được cứu độ, lúc bấy giờ mới thăng hoa tính thụ tạo cho đến khi được thông phần viên mãn vào bản tính Thiên Chúa “Nhờ đó loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần với bản tính của Thiên Chúa.” (CĐ Vaticanô II. Hiến Chế Tín Lý. Số 2). Khi được thông phần viên mãn với bản tính Thiên Chúa, con người thụ tạo mới được hòa nhập vào bản tính bất biến của Người. Tức là được nhận vào bản thể Thiên Chúa, hay nói theo kiểu bình dân “được vào thiên đàng là được ở trong cung lòng Thiên Chúa”.
Chúng ta trở lại với bài Phúc Âm. Không biết các con có tâm trạng gì khi đọc những lời Phúc Âm này “Dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình đi!” Phía trên đầu Người, có bản án viết: “Đây là vua người Do-thái.” Một đoạn lời kinh vừa tràn trào bi thương, vừa chứa đầy kịch tính, trộn trạo giữa khôn ngoan và dại khờ, tăm tối và ánh sáng, sống và chết, vĩnh cửu và hư vong.
“Dân chúng đứng nhìn”, ngoài những ý nghĩa tự nhiên, còn diễn tả sự ngơ ngác của nhân loại trước một mầu nhiệm quá lớn, con người không thể hiểu việc Thiên Chúa Chúa đang làm nơi Con Duy Nhất của Người: Đấng chịu đóng đinh trên Thánh Giá. Nhân loại ngẩn ngơ “Người là ai?”, đến hôm nay vẫn còn có rất nhiều người nhìn ngơ ngác trước mầu nhiệm Thập Giá Đức Ki-tô. Thật may mắn cho chúng ta, những người đã tin!
Còn “còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!” Những vị thủ lãnh ấy, đại diện cho những người khôn ngoan và thông thái nhưng không tin nhận có Thiên Chúa và ơn cứu độ của Đấng Ki-tô. Họ buông lời của kẻ khôn ngoan thế gian, nhưng lại rất đỗi dại khờ và tăm tối trước ánh sáng chân lý. Họ không thể hiểu Đấng đang chịu chết khổ nạn thập hình là đang đền bù thay cho chúng sinh, Người chết để cho loài người được sống và cho chính họ nữa. Người đang đi vào vinh quang vĩnh cửu bằng con đường thập tự giá, còn những người thủ lãnh đang cười nhạo Người, vì nhạo cười Người nên lại ngược lối đi vào hư vong muôn kiếp.
Phần cuối bài Phúc Âm cho ta một hoạt cảnh đặc thù, có một không hai trong lịch sử nhân loại. Sự dữ và sự thiện đan chen vào nhau, bày ra trước mắt Vị Thẩm Phán tối cao của Thiên Chúa. Hai nhân vật, anh trộm dữ và anh trộm lành, cả hai đều là tội phạm của nhân loại và với con người các anh đều đáng phải chết. Nên họ đã bị tòa đời xử hình thập giá cho đến chết. Hai người cũng là tội nhân trước tôn nhan Chúa, nhưng cả hai cùng đang hiện diện trong mầu nhiệm tình thương xót vô biên của Đấng Cứu Chuộc. Giờ đây, họ lên tiếng thể hiện lập trường của mình trước mầu nhiệm cứu độ, khước từ hay lãnh nhận, tin hay không tin. Quang cảnh này, phát họa ra cho ta thấy toàn cục lập trường của nhân thế cũng sẽ chia ra làm hai phía: đón nhận hay không đón nhận ơn cứu độ của Chúa Giê-su Ki-tô. Và cuộc đối thoại tiếp theo giữa Chúa Giê-su và anh trộm lành đã đưa đến kết quả cuối cùng “Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.” Lời khẳng định của Chúa Giê-su trên đây nói lên sự thật chân lý: Chúa Giê-su là Vua của Nước Thiên Đàng, Vua Cõi Trời vĩnh cửu, Vua của muôn loài, muôn vật. Nói ngắn gọn Chúa Giê-su Ki-tô là Vua Vũ Trụ mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Điều này đồng nghĩa Chúa Giê-su muốn cho ai vào Nước Thiên Đàng thì cho, muốn loại ai thì loại. Tuy vậy, lòng nhân nghĩa của Chúa thật lớn lao đối với những người tin Chúa “Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.” (Xh 20,5-6) Anh trộm lành đã tin Chúa Giê-su là Vua Nước Trời, anh tin cho đến giây phút cuối đời anh. Anh trộm lành còn mạnh bạo tuyên xưng đức tin này với anh trộm dữ. Nên anh đã được nhận lại lời hứa quan trọng hơn hết, quý giá hơn mọi thứ anh từng có trong đời mình.
Phúc thay cho một tội nhân tin nhận Chúa Giê-su là Đấng Cứu Chuộc, là Vua Vũ Trụ.
Tình Yêu Hoa Cỏ
Khi Ông Vào Nước Của Ông
Trong Tin Mừng lễ Chúa Kitô hôm nay, thánh Luca kể về Vua Giêsu, khi cuộc đời của Người đang trong những giờ phút cuối vô cùng đau thương bi thảm, nhục nhã, thất bại ê chề nhất. Giờ khắc này xem ra Người mất hết uy quyền và quyền năng khiến dân chúng từng tung hô. Kết thúc ba năm rao giảng, nổi tiếng lẫy lừng với bao nhiêu phép lạ của Người chỉ là cái chết nhục nhã trên cây cùng hai tên gian phi. Từ thủ lãnh đến lính tráng đều cười nhạo, chế giễu Người và buông những lời thách thức lộng ngôn. Một trong hai tên gian phi cùng cảnh không nhận ra sự thật cũng nhục mạ Người. Họ treo trên đầu Người một dòng chữ để nhạo cười: “Đây là vua người Do Thái.” (Lc 23, 38). Nhưng vô tình, ngược lại ý xấu của họ, lời này lại trở thành lời xác tín về một vị Vua trên hết các vua trần thế.
Ủi an lớn nhất cho vua Giêsu, giờ ấy anh gian phi bên phải được ơn nhận biết Người, kịp đính chính sai lạc của đồng phạm bên trái. Anh kíp khôn ngoan, ngay trong lúc khốn cực gần hết hơi mà hổn hển xin với Người: “Ông Giêsu ơi! khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,42). Người khẳng định ngay giờ phút ấy, anh đã được trong Vương Quốc của Người.
Nước của Thiên Chúa là chủ đề đã được các ngôn sứ loan báo trong thời Cựu ước bằng nhiều hình ảnh sinh động. Khi Đức Giêsu đến, chủ đề nước Thiên Chúa còn được chính Người rao giảng, trở nên rõ ràng và sống động hơn qua các dụ ngôn. Người đã thiết lập nước của Thiên Chúa ngay trong trần gian. Ai tin, sám hối và đón nhận Người là được thuộc về vương quốc ấy. Nước Thiên Chúa không phải là một địa điểm rõ ràng về địa lý, nước ấy không đến như một điều có thể quan sát thấy. Bởi vậy chẳng ai có thể nói nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia. Những ai sống trong chân lý, tình thương, hòa bình và ân sủng của Chúa, thì chính Thiên Chúa đang ở giữa họ và họ là những người thuộc vương quốc của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô là Vua thật, nhưng chẳng giống một vị vua ở trần gian chút nào, không quyền lực vinh sang, không quan quân lính tráng hầu hạ. Khi mới sinh ra Ngài đã được gọi là vua. Khi vừa mới ra đời, các nhà chiêm tinh đã tìm hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?” (Mt 2,1). Thật lạ lùng, Ngài sinh ra nơi chuồng bò hèn hạ khó khăn. Khi Người đi rao giảng, có hai người mù chạy theo tuyên xưng: “Lạy Con Vua Đavít, xin thương xót chúng tôi!” (Mt 9,27). Đám đông ngút ngàn được ăn bánh no nê chỉ muốn tôn Người làm vua để được ăn bánh hằng ngày, họ sửng sốt bảo nhau: “Ông này chẳng phải là Con vua Đavít sao?” (Mt 12,23). Khi Người vào thành thánh Giêrusalem, dân chúng trải áo, đón rước và tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!” (Lc 19,38). Nhưng thật khác lạ, Vua Giêsu cuối cùng phải chịu đem ra nhục mạ, nhạo báng. Người là Vua đau khổ: Lính tráng lột áo Người, khoác cho Người áo choàng đỏ, kết vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, trao cho Người cây sậy rồi quỳ xuống nhạo rằng: “Vạn tuế Đức Vua dân Do Thái!” (Mt 27,29). Vua bị treo lên “ngai” thập giá với bản án xử tội: “Người này là Giêsu, vua dân Do Thái.” (Mt 27,37). Bị coi như một tử tội, nhưng Vua Giêsu đã chiến thắng, như trong bài đọc II đã khẳng định: “Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi… Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,13-14.20b).
Lạy Chúa Giêsu Kitô là Vua, Vua Nước Trời, Vua Sự Thật, Vua Tha Thứ, Vua Tình Yêu! Xin Chúa luôn ngự trị tâm hồn chúng con ở mọi nơi và trong mọi lúc, để chúng con luôn được sống hạnh phúc viên mãn trong Vương Quốc của Chúa. Amen.
Én Nhỏ
Chúa Giêsu: Vị Vua của tình yêu và lòng thương xót
1- Ghi nhớ:
“Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42)
2- Suy niệm:
Chuyện kể rằng: Vua Hùng vương thứ 6 có 22 vị hoàng tử. Ông muốn truyền ngôi lại cho người con nào xứng đáng nhất. Bởi vậy nhà vua liền tổ chức một cuộc thi tuyển. Nhân dịp tết đến, vua truyền lệnh cho các hoàng tử mỗi người phải làm một món ăn vừa ngon lại vừa có ý nghĩa! Lập tức các hoàng tử kẻ lên rừng, người xuống biển để tìm kiếm của ngon vật lạ mà chế biến món ăn. Riêng có Tiết Liêu tính tình hiền lành, đạo đức, thương người và rất có lòng thảo hiếu với cha mẹ. Trong giấc ngủ, Tiết Liêu được một vị tiên mách bảo cho cách làm bánh dầy và bánh chưng.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử dâng lên vua cha những món sơn hào hải vị, chả phượng nem công! Với ước mơ sẽ thắng cuộc. Duy Tiết Liêu thì đặt lên mâm cặp bánh dầy bánh chưng. Vua cha lấy làm lạ, ăn thử thấy thơm ngon bèn hỏi thì Tiết Liêu trả lời : “Trong trời đất không có gì quí bằng hạt gạo, vì nó là thức ăn nuôi sống mọi người nên con lấy gạo nếp làm thành những cái bánh hình tròn và vuông. Hình tròn tượng trưng cho trời và hình vuông tượng trưng cho đất. Lấy lá bọc ngoài, làm nhân đặt ở giữa tượng trưng cho sự sinh thành của cha mẹ” . Nghe lời giải thích của Tất Liêu, vua cha rất hài lòng và trao lại ngôi báu cho Tiết Liêu. Từ đó mỗi khi đón tết nguyên đán, người ta làm bánh dầy bánh chưng . Đặt trên mâm cao để tỏ lòng kính nhớ tổ tiên và tạ ơn Đất –Trời.
Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca diễn tả cho chúng ta thấy thái độ chịu đựng, nhẫn nhục của Chúa Giêsu trước những lời nhạo báng chê cười của dân chúng. Trong Ngài, không có chỗ cho lòng hận thù oán ghét, mà chỉ có lòng tha thứ và xót thương. Chúa Giêsu là vua của tình yêu. Bởi vậy, vương miện của Ngài là mạo gai, ngai vàng của Ngài là thâp giá, một ngai vàng đơn sơ: chỉ hai thanh gỗ, một dọc một ngang. Các nhà chú giải Kinh Thánh giải nghĩa như sau: Thâp giá hình chữ T là mẫu tự đầu của chữ TÌNH. Bản thân Chúa Giêsu nằm trên thâp giá là hình chữ Y là mẫu tự đầu của chữ YÊU. Vì vây Chúa Giêsu là Vua của tình yêu! Thanh dọc tương trưng cho sư nối kết, giao hòa giữa trời và đất, cũng như Thiên Chúa và con người, thanh ngang tượng trưng cho sự nối kết, giao hòa giữa con người với nhau và với vạn vật.
Ngôi Hai xuống thế chỉ nhằm mục đích thiết lập một vương quốc tình yêu. Hiến chương Nước Trời là Tám mối phúc, luật pháp Nước Trời là Mười giới răn, con dân Nước Trời là những người sống biết yêu thương, lãnh thổ Nước Trời là nơi hằng sống. Cũng chính vì tình yêu vô biên mà Vua Giêsu đã hiến tế chính mình để thành Bánh trường sinh nuôi sống con dân của Ngài.
Mừng lễ Chúa là Vua, chúng ta tôn vinh Ngài làm Chủ tâm hồn cũng như thể xác của chúng ta, để chúng ta cũng được nên giống như Ngài mà luôn yêu thương phục vụ mọi người.
3- Cầu nguyện :
Lạy Vua GiêSu! Chỉ vì yêu thương chúng con mà Chúa đã chịu bao đớn đau nhục nhã, cả về thể xác lẫn tâm hồn. Xin cho chúng con học được sự nhẫn nhục chịu đựng nơi Ngài mà biết yêu thương tất cả mọi người cho dù họ có xúc phạm đến chúng con, hầu cho chúng con được xứng đáng làm con dân của Nước Ngài. Amen.
4- Sống Lời Chúa :
Tôi sẽ quyết tâm không giận hờn ai, nếu như họ có thái độ hoặc lời nói làm tôi bực tức. Ngược lại, tôi còn cám ơn họ vì đã tạo điều kiện để tôi rèn luyện nhân đức nhẫn nhục nơi mình.
Đaminh Trần Văn Chính
***
1. Lời hứa cứu độ (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Chúa Kitô Vua (Gm. Giuse Vũ Duy Thống, Gp. Phan Thiết
3. Vương quốc Đức Kitô (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
4. Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Vị vua bị đóng đinh (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
6. Người công dân đầu tiên trong vương quốc Vua Kitô (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)
7. Đây là Vua người Do Thái (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của các ứng viên tổng thống Hoa Kỳ đã đến hồi kết thúc: ngày 8-11-2016 vừa qua, cử tri Mỹ đã chọn ra vị tân tổng thống cho đất nước của mình. Theo kết quả bỏ phiếu, ông Donald Trump, thành viên đảng Cộng hòa, đã đắc cử và trở thành vị tổng thống thứ 45 của đất nước Cờ Hoa.
Trong cuộc tranh cử tổng thống, cả hai ứng viên, bà Hillary Clinton, đại diện cho Đảng Dân Chủ và ông Donald Trump, đại diện cho đảng Cộng Hòa đều hứa hẹn rất nhiều. Họ tranh thủ cử tri bằng việc đưa ra những chiến lược đổi mới trong nhiều lãnh vực: giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp, điều chỉnh chính sách thuế, ổn định vấn đề người di dân, cải cách an sinh xã hội… Giờ đây, công dân Mỹ đang chờ đợi xem vị tân tổng thống có thực hiện những điều ông đã hứa khi tranh cử hay không. Thông thường, ngôn từ của các chính trị gia được gọi là “Lời nói gỗ – Langue de bois”, có nghĩa là không thực và chỉ là những “xảo ngôn”, hứa cho qua.
Hôm nay, Chúa nhật cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội suy tôn Chúa Giêsu với tước hiệu “Vua vũ trụ”. Người là Vua không giống như một vị tổng thống do cử tri bỏ phiếu bầu ra, nhưng, chính Thiên Chúa Cha đã ban cho Người “mọi quyền năng trên trời dưới đất” (Mt 28, 18). Thiên Chúa Cha cũng sẽ quy phục mọi thù địch dưới chân Người (1Cr 15,25). Đức Giêsu làm vua, vì Người là Con Thiên Chúa, Đấng tác tạo vũ trụ. Người cũng là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là dung mạo đầy từ bi thương xót của Chúa Cha. Người đã vâng lời Đức Chúa Cha đến mức chấp nhận cái chết trên thập giá, để cứu độ con người (x. Phl 2,6-12). Chúa Giêsu là vị Vua đã chiến thắng sự chết và đã phục sinh vinh quang. Người là Vua của vương quốc công chính, an bình và yêu thương. Vương quốc của Người không biên giới. Mọi người bất kỳ thuộc về nền văn hóa, chủng tộc hay ngôn ngữ nào, nếu họ thực hành đức yêu thương thì trở thành công dân của Vương quốc này.
Bài đọc I giới thiệu cho chúng ta vua Đavít, là một gương mặt điển hình trong hàng ngũ các vua của lịch sử Do Thái. Đavít cũng là hình ảnh của vị Vua Giêsu trong tương lai. Nếu Đavít đã đi vào lịch sử Do Thái bằng những chiến công hiển hách tiêu diệt quân thù, và một đời sống đạo đức cầu nguyện gương mẫu, thì vị Vua Giêsu lại hy sinh mạng sống để cứu chuộc con người, phục hồi phẩm giá của họ và mặc cho họ sự thánh thiện cao sang. Người cũng không phải là một vị vua của quá khứ, cũng không phải là vị vua tương lai, mà là vị vua của hiện tại đang cai trị hoàn vũ này và cai trị các tâm hồn bằng tình yêu thương. Người mời gọi chúng ta hãy đón nhận vương quyền của Người để tâm hồn được thanh thản, và để gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). “Mang lấy ách” là một kiểu nói diễn tả sự đón nhận, tâm tình yêu mến và thiện chí noi gương bắt chước một bậc thầy.
Nếu những tổng thống trần thế đưa ra những lời hứa hẹn chỉ để lấy lòng cử tri rồi nhanh chóng để những lời hứa hẹn ấy rơi vào quên lãng, thì Chúa Giêsu vị Vua trên thập giá lại chứng minh quyền năng là vua của mình bằng một lời hứa cứu rỗi. Thánh Luca giới thiệu với chúng ta một vị vua không giống quan niệm trần gian. Đó là một vị vua không có hoàng bào, không ngai vàng, không đội quân danh dự. Ngai vàng của Người là cây thập giá. Bên cạnh Người là hai kẻ trộm với hai thái độ khác nhau: một người hằn học lên án, một người khiêm tốn bênh vực. Đối với người trộm bênh vực Chúa, Người hứa cho họ được vào Nước Trời: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Còn lời nào ngọt ngào và hy vọng hơn lời này? Bởi lẽ hành phúc thiên đàng là đích điểm cuộc đời của mỗi chúng ta. Qua lời tuyên bố này, Chúa Giêsu chứng tỏ quyền năng Thiên Chúa của Người. Quyền ấy như quyền của một vị vua, có thể cho phép một công dân gia nhập vương quốc của mình.
Nhờ bí tích Thanh tẩy, chúng ta trở nên công dân của vương quốc của vị Vua Giêsu. Khi suy tôn Người là Vua, chúng ta hãy cố gắng sống đúng với kỷ luật của vương quốc ấy. Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: đừng quên rằng Đức Giêsu đã giải thoát chúng ta, đồng thời đưa chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng kỳ diệu của vương quốc của Người, nhờ đó mà chúng ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi (Bài đọc II).
Không chỉ hứa với người trộm biết sám hối ăn năn, Chúa cũng nhiều lần hứa ban những điều tốt lành cho những ai tin tưởng cậy trông vào Người. Người hứa hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta tập hợp với nhau cầu nguyện nhân danh Người. Như người cha, người thày cảm thương những người con, Chúa khẳng định với chúng ta: “Thầy bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Tin vào lời hứa của Chúa, chúng ta hãy thực hiện những gì Người dạy, vì “Chúa là Đấng phép tắc và lòng lành vô cùng đã phán hứa sự ấy, chẳng có lẽ nào sai được” (Kinh Trông cậy).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự trị cõi lòng mỗi chúng con, để gánh nặng cuộc đời của chúng con trở nên nhẹ nhàng êm ái. Xin hãy hướng dẫn soi sáng cuộc đời chúng con để lời nói, việc làm và tư tưởng của chúng con luôn ngay thẳng và thánh thiện, đẹp lòng Chúa và thân ái với anh chị em chúng con. Amen.
.
Gm. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’)
Trên báo Tuổi Trẻ cách đây khá lâu, tôi gặp một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mang tựa đề “Tôi thích làm vua”, truyện kể về một đội kịch khi đã dàn dựng xong một vở xoay quanh vai chính là một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn, người thủ vai ông vua đã không có mặt. Đang còn lúng túng thì may sao tác giả chuyện ngắn lù lù dẫn xác tới. Bằng sức ép của tình thân người ta xếp ngay ông vào vai ông vua với lời trấn an: “Làm vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai, trong ngai bệ vệ thị oai xong liền”. Tác giả đã làm như thế và buổi diễn được xem là thành công. Truyện chỉ có thế, nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận: làm vua quá dễ và xét cho cùng, làm vua cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả.
Phụng vụ hôm nay cũng đặt tín hữu đối diện với một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế nào? Đường lối làm vua của Người có nhàn hạ không?
- Đức Kitô khởi đầu sự nghiệp bằng việc tự hiến.
Ngay từ đời đời, Đức Kitô đã là vua trên cả tạo thành, nhưng vì không muốn cho con người chỉ thấy nơi Người tự bản tính đã là vua, mà còn muốn tỏ bài cho họ hiểu để “là vua” Người phải “làm vua” nữa. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã trở thành Vua muôn vua.
Dẫu là Vua Trời, Người đã chấp nhận từ bỏ tất cả để bước xuống với đời sống con người. Sự bước xuống ấy chẳng phải là một chuyến vi hành như kiểu những ông vua trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”, ban ngày thì thét ra lửa, nhưng ban đêm lại cải trang giả dạng thường dân len lỏi vào những ngõ ngách cuộc sống để nắm bắt tình hình dân chúng, rồi bước sang ngày mới, lại áo mão nghênh ngang ra dáng đức vua oai vệ.
Sự bước xuống ấy cũng chẳng phải là những chuyến du hành như những chuyến đi lại của những ông vua hiện đại luôn được bao vây bởi những vệ sĩ cận kề hoặc những fan hâm mộ cuồng nhiệt, có muốn quan sát sự tình cũng khó mà thấy sự thật.
Nhưng sự bước xuống ấy là một chuyến đồng hành theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này, nghĩa là Vua Trời đã làm người thực thụ giữa muôn người trần gian để đồng hành với con người trong cuộc phiêu lưu cứu độ.
Từ trời cao hạ cố bước xuống với con người, chưa đủ; từ Thiên Chúa tự nguyện bước xuống làm người vì chúng ta, cũng chưa đủ; từ con người vô danh tiểu tốt lại khiêm nhường bước xuống làm một tội nhân dẫu chẳng mang tội gì, cũng chưa đủ. Qua Phúc Âm hôm nay, người ta còn thấy Người bước xuống nữa, từ một tội nhân lại nhận vào mình cái án của tên tử tội.
- Đức Kitô xưng vương bằng việc tận hiến.
Đọc kỹ trang Tin Mừng hôm nay, người ta sẽ vô cùng sửng sốt, bởi vì hình ảnh vị vua thì quá nhạt nhòa trong khi hình ảnh của người tử tội lại thật đậm nét, đến nỗi cái chết của người ấy cũng không thể gọi là một cái chết bình thường nếu không muốn nói là “cái chết dữ”, theo ngôn ngữ Việt Nam. Thay vì triều thiên là một vòng gai, thay vì long ngai là một Thánh Giá, thay vì xa giá oai phong lẫm liệt lại chỉ là những tiếng nhục mạ thách thức của đủ mọi thành phần dân chúng. Kỳ mục ghen ghét nên nhục mạ đã đành, lính tráng liên quan gì mà phải lên tiếng, đến như anh trộm dữ chết đến nơi rồi mà vẫn không hết cay xè cà cuống độc mồm độc miệng.
Nhưng người ta càng sửng sốt hơn nữa khi biết rằng người tử tội ấy là Chúa Kitô, và cái chết của Người chính là đỉnh cao tận hiến, đi đến cùng trong lựa chọn hiến thân cho loài người. Nếu sinh thời Người đã nói “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến thân vì bạn hữu” thì câu nói đó trước hết đã ứng nghiệm nơi Người. Người chết thay cho nhân loại mà Người hằng yêu mến, Người chết cho họ được sống. Nhưng chính lúc Người chết lại là lúc Người tỏ mình là Vua như hàng chữ trên Thánh Giá đã ghi rõ.
Người làm Vua bằng con đường tận hiến. Như hạt lúa phải thối đi mới sinh nhiều bông hạt; như cỗ máy phải chấp nhận hao mòn đi mới phát sinh công suất; như bông hoa phải chịu ngắt đi mới trang hoàng đẹp bàn thờ; và cũng như cây nến phải chấp nhận hao mòn đi mới có thể đem cho ngày lễ ánh sáng lung linh.
- Chúa Kitô cai trị bằng thánh hiến.
Nếu toàn cảnh Phúc Âm hôm nay là một bầu khí ảm đạm thì câu kết thúc lại là một cảnh hoàn toàn khác. Từ đỉnh cao Thập Giá, Chúa Kitô hứa Thiên Đàng cho anh trộm lành. Trong lời hứa, người ta đã thấy tỏ hiện vương quyền trời cao; trong cách hứa, người ta đã thấy vinh quang rạng ngời vương quốc; và vượt trên tất cả, trong tương quan của người trao và người nhận lời hứa, là sáng lên dung mạo của vị Vua bao dung thánh hiến tất cả để đặt vào tình trạnh sống mới.
“Hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Trong bảy lời Chúa Giêsu phán ra từ Thập Giá, đây là lời oai phong nhất, không là lời của người tử tội, mà là lời của một vị Vua quyền uy trong Vương quốc của Người là Thiên đàng. Đây cũng là lời đậm màu cứu độ nhất vì anh trộm khi chẳng còn hy vọng nào khác đã biết bám víu vào Chúa Giêsu, nên anh đã nhận được ơn cứu rỗi, tức là được thánh hiến để sẵn sàng tháp tùng Người bay thẳng vào chốn Thiên Đàng không cần qua một trạm trung chuyển nào. Sướng thật. Rõ trộm chuyên nghiệp nên phút cuối cùng còn trộm được cả Thiên Chúa.
Có lẽ cũng nên nói một chút về hai chữ “hôm nay” của lời hứa đặc biệt này, một chữ nhiều gợi ý, nhưng gắn liền với việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, nên chữ ấy cũng liên quan đến việc thánh hiến của vì Vua cứu độ. Ngay từ lúc Chúa Giêsu chịu chết, Vương quốc Thiên Đàng của Người đã tỏ hiện, vương quyền thánh hiến của Người đã phát huy, để chữ “hôm nay” trở thành chữ hiện thực muôn đời của tấm lòng vị Vua Cứu Thế.
Qua việc thánh hiến lòng cậy trông của ông trộm lành, Đức Kitô đã khẳng định đường lối làm vua của Người mãi mãi. Người thánh hiến trọn vẹn mỗi người và mọi người, như kiểu nói của thánh Phaolô: “Người thâu họp tất cả trong một đầu mối chính là Người, để mà dâng lên Chúa Cha”.
Tóm lại, Đức Kitô là một vị Vua rất khác lạ, Người làm tất cả chỉ vì muốn cứu độ muôn người: Người tự hiến cúi xuống với con người; Người tận hiến mạng sống cho con người, và Người thánh hiến để con người được sống muôn đời với Người trong vương quốc vĩnh cửu. Vấn đề còn lại là hãy tôn vương Chúa Kitô ngay trong cuộc sống hôm nay.
Có lần đến một xứ đạo vùng Hố Nai dâng Thánh Lễ, tôi không xác định được phương hướng, phải nhờ một bác tài xế chỉ cho. Bác bảo: tới ngã ba thấy tượng Chúa Kitô giang tay, hãy đi về phía tay phải, sẽ gặp địa chỉ muốn tìm. Rõ ràng chỉ là một câu nói, nhưng đầy gợi ý: hãy đi về phía tay phải Chúa Kitô bằng một cuộc sống tốt lành, người ta sẽ gặp được địa chỉ mong ước, đó là Nước Chúa Kitô, là quê hương hạnh phúc.
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc của sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người.
Đó là Vương quốc của tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Người.
Vương quốc Đức Kitô đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2) Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào?
3) Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?
.
4. THIÊN CHÚA ĐÃ TRỞ NÊN GIỐNG NHƯ BẠN VÀ TÔI
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện cổ tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến nhà vua càng khó quyết định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo ôm”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một “Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài. Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Thiên Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta. Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn, qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta, Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng đinh trên Thập giá. Vương miện là mão gai, ngai vàng là thập giá. Trên Thập giá, Chúa Giêsu lên ngôi Vua. Khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương quốc của Ngài.Trên Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại, đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết : “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng: “Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên Đàng”.
Vị Vua lên ngôi trên thập giá bị nhạo báng. Các vị thủ lãnh cười nhạo: “Hắn cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được Chúa tuyển chọn!”. Bọn lính tráng chế giễu : “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”. “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!”. “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh, như thế tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Đối nghịch với ba lời nhạo báng và nhục mạ là phản ứng của người trộm lành: “Nhưng tên kia mắng nó rằng: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái“. Anh ta thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với Đức Giêsu: “Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!”. Lời van xin của anh ta rõ ràng mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu. “Và Người nói với anh: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng“. Đức Giêsu bảo đảm cho anh một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.Trong viễn tượng của tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa, anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm phúc lạc đích thực.Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu diễn ngoạn mục.Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những thực tại thế trần và mau qua. (Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện).
Chúa Kitô lên Ngôi Vua vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Ngài là vua sự thật, vua tình yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô đã gọi Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử, là người tiền phong của nhân loại đã mở một lối đi cho chúng ta. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Ngài đã qui tụ muôn người thành một vương quốc, thành một dân riêng. Vương quốc này, dân riêng này sẽ tồn tại cho đến muôn ngàn đời.
Vương quốc Chúa Giêsu không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố : “Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như Thánh Gioan Phaolô II : “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài cho người trộm lành : “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của Ta”.
Mỗi người tự xét mình xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực, danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? “Xin nhớ đến con”, chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống của mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu – Vua Vũ Trụ – Vua Sự Thật, chúng ta hãy để cho Vua Giêsu chiếm trọn tất cả con người mình, từ tư tưởng lời nói cho đến việc làm. Chúng ta không còn thuộc về thế giới của bóng tối và tội lỗi. Chúng ta thuộc về vương quyền của Vua Giêsu là vương quyền của sự sống và sự thật, vương quyền của niềm tin và ân sủng, vương quyền của sự thánh thiện công lý và tình yêu hoà bình (Kinh Tiền Tụng).
.
6. NGƯỜI CÔNG DÂN ĐẦU TIÊN TRONG VƯƠNG QUỐC VUA KITÔ
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trên thập giá, ngay trước khi tắt thở, Đức Giê-su đã hé mở cho thấy một điều vĩ đại vượt quá sức hiểu biết của tất cả mọi người: thiên đàng là vương quốc không chỉ dành riêng cho các kẻ đạo đức thánh thiện, mà trước hết là gia nghiệp biếu không cho tất cả các tội nhân cầu mong được xót thương tha thứ; điều này có thể làm nhiều người chúng ta ngạc nhiên, ngạc nhiên tới độ cảm thấy bị sốc, bị xúc phạm. Ta vẫn thường nghĩ: công dân thiên đàng phải là các bậc đạo đức thánh thiện, nếu không xuất chúng trổi vượt như các bậc đại thánh được tuyên phong thì chí ít cũng phải là lương thiện tốt lành tới một mức độ nào đó. Ấy vậy mà công dân đầu tiên và tiêu biểu của vương quốc Vua Ki-tô, công dân được chính Vua Ki-tô long trọng kết nạp ngay trên thập giá, lại là một tên đại gian đại ác tới độ xã hội loài người phải tìm cách loại bỏ bằng cách lên án tử.
Ngay cả Giê-su đang bị bị đóng đinh trên thập giá cũng bị thiên hạ bên dưới bêu rếu nhạo cười: nhạo cười vì chính tước hiệu ‘Vua’ mà ông đã tự gán cho mình; ‘Phía trên đầu Người có bản án viết: “Đây là vua người Do Thái”. Do Thái lúc đó đồng nghĩa với một dân tộc nhược tiểu, bị trị… và quan tổng chấn Phi-la-tô, khi cho viết, đã hàm ý đó; thậm chí cả các người Do Thái cũng cảm thấy bị nhục mạ vì cách nhạo cười bêu rếu này…, nên họ đã cực lực phản đối. Thế nhưng, người duy nhất đã nghiêm túc xác nhận lời bêu rếu trên là chính đáng, lại là chính người đang bị nhạo cười; ‘Phi-la-tô hỏi Người: “Ông là vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính ngài nói đó!” Thế thì quả thật Đức Giê-su đã khảng định cách công khải: Người là Vua, và cùng với lời tuyên bố đó, một Vương Quốc mới đã bắt đầu lộ diện, một Dân Riêng mới, một Do Thái mới. Tuy nhiên vấn nạn được đặt ra là: vương quốc đó thực tế là gì, và sẽ dành cho những ai? ai mới xứng đáng được gia nhập vương quốc của vị Vua bị đóng đinh này? Chắc chắn đó là những câu hỏi cần tìm được lời giải đáp! Trong vương quốc Do Thái của Cựu Ước, công dân là những người như tổ phụ Áp-ra-ham, đặt trọn niềm tin vào lời hứa của Đức Chúa; và họ cụ thể hóa niềm tin đó bằng việc nắm giữ trọn vẹn các lề luật do Mô-sê để lại. Vậy thì, nếu công dân vương quốc cũ đã phải là như thế thì công dân của vương quốc Do Thái Mới sẽ phải làm gì đây, đồng thời họ phải hội đủ các điều kiện nào để được gia nhập? để giải đáp vấn nạn này ta chỉ cần nhìn vào người công dân đầu tiên và tiêu biểu của Vương Quốc ấy là đã hiểu ra ngay, cả về bản chất lẫn điều kiện để được gia nhập.
Trong trình thuật thương khó của Phúc Âm Lu-ca, diện mạo người công dân đó đã được phác họa cách rõ nét: Lu-ca mô tả tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su trên thập giá là công dân đầu tiên của vương quốc mới thiết lập. Sẽ không ai gọi hắn là ‘lành’ vì cả đời tên này đã sống gian hùng và từng phạm nhiều trọng tội tới độ xã hội phải tuyên án tử. Một tên đại gian đại ác như thế mà lại được chính Đức Giê-su trực tiếp công bố rằng: anh được kể như người thứ nhất được nhận vào Vương Quốc mình thiết lập: “Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng”. Ta thắc mắc: tại sao lại như thế, hắn đã làm được gì? – thưa, điều duy nhất mà tên gian phi này đã may mắn làm được trước khi chết là kêu nài tới lòng xót thương của Tân Vương: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào nước của ông xin nhớ đến tôi!” Đơn giản chỉ có thế, và thế là anh ta đã được nhận vào Vương Quốc, được trở thành công dân đầu tiên của Nước Trời!
Tín hữu của mọi tôn giáo đều có chung một tư duy: ‘thiên đàng hay thiên cung’ là nơi chỉ dành cho những con người tốt lành thánh thiện. Riêng Tin Mừng của Đức Giê-su mới cho thấy điều ngược lại: trên thiên đàng của Cha Người xuất hiện một hạng người ‘lành thánh mới’, phù hợp hơn với Vương Quốc được Thập Giá tình yêu cứu độ thiết lập. Nếu ‘lành thánh cổ điển’ là tu thân tích đức, là đạo đức khôn ngoan…, chí ít cũng phải ăn ngay ở lành, thì ‘lành thánh mới’ chỉ đơn giản là đón lấy lòng thương xót vô biên mà Thiên Chúa muốn ban tặng cho mọi người trong Đức Ki-tô Giê-su. Nếu tên trộm trở nên ‘lành’, hay tên tướng cướp trở nên ‘thánh’thì cũng chỉ vì hắn đã nại tới lòng nhân ái cứu độ của Thiên Chúa.
Quan trọng hơn nữa: chúng ta không được coi người công dân đầu tiên này chỉ như một biệt lệ, một luật trừ hiếm hoi. Đúng hơn: anh ta phải được nhìn nhận như một nguyên mẫu (prototype) của mọi công dân trong Vương Quốc mới của Vua Ki-tô. Điều này đã được chứng minh qua thị kiến tông đồ Gio-an ghi lại trong sách Khải Huyền: “Những người mặc áo trắng kia là ai vậy?” “Họ là những người… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên… Và Thiên Chúa lau sạch nước mắt họ” (Kh 7:13-14. 17). Thiên đàng mới hầu như gồm toàn những con người như thế cả, nói cách khác: mọi công dân Nước Trời đều phải là như thế. Vương quốc của Vua Ki-tô không phải là một thiêng đàng đầy khoái lạc được dùng để ân thưởng cho những thần dân trung tín tốt lành; Vương Quốc của Vua Ki-tô Giê-su Thập Giá chan hòa tình yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa. Vương quốc này sẽ đón nhận hết thảy mọi người, kể cả những kẻ gian hùng tội lỗi nhất, miễn là họ biết khiêm tốn đưa tay ra lãnh lấy tấm thẻ công dân được lòng thương xót Chúa ban tặng cho cách nhưng không. Đúng hơn, càng những ai nhận biết thân phận bất xứng tội lỗi của mình, thì lại càng dễ dàng mau mắn đưa tay ra đón nhận hơn. Như thế công việc và điều kiện duy nhất cần chu toàn để gia nhập Vương Quốc của Vua Ki-tô chỉ có thể là: khiêm tốn đón lấy ơn cứu độ đầy xót thương mà Thiên Chúa không ngừng trao ban!
Chúng ta được Hội Thánh nói cho biết: trong Vương Quốc ấy có một công dân rất tiêu biểu và uy tín: công dân Maria, người nữ đã từng khiêm tốn thốt lên tự đáy lòng mình: “Thiên Chúa đấng cứu độ tôi, đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn này!” (Lc 1:48) Chính vì khiêm tốn tột độ chân nhận Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình, mà Ma-ri-a mới thật sự xứng đáng trở thành Nữ Hoàng trong Vương Quốc của Vua Giê-su Ki-tô nhân ái.
Ngay cả một linh mục như tôi cũng không có cách nào khác để trở thành công dân Nước Trời! hơn nữa, nếu muốn trở thành công dân cao cấp hơn trong Vương Quốc đó, tôi sẽ phải nỗ lực trong diện nào hơn hết? Nếu trả lời được các vấn nạn trên, thời con đường ‘thánh thiện – công chính’ của tôi sẽ rộng mở hơn bao giờ hết; và rồi thì công tác mục vụ tôi đảm trách sẽ minh bạch và trực diện hơn nhiều!
Lạy Vua Ki-tô của vương quốc tình yêu cứu độ, xin hãy tiếp nhận con vào vương quốc của Người; xin cũng hãy nói với con như Chúa đã từng công bố với tên gian phi: “ngay hôm nay con sẽ ở với Cha trong vương quốc”. Xin hãy ban cho con ơn trọng đại nhất: là khi giờ chết đến, con biết ném mình vào lòng nhân hậu vô biên của Chúa. Xin cho con sở đắc vĩnh viễn được cái cảm giác tuyệt vời mà đã một lần con được nếm cảm trong giờ chết lâm sàng…, là được tan biến trong vòng tay nhân ái thứ tha, và được vòng tay này ôm ấp đến muôn đời. A-men.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Chế độ quân chủ tại Việt Nam với một ông vua cai trị đất nước kéo dài hàng chục thế kỷ đã thực sự cáo chung vào năm 1945, sau khi vị vua cuối cùng là Bảo Đại bị truất phế. Ngày nay, ý niệm về một thể chế quân chủ đã hoàn toàn trở nên xa lạ đối với tâm thức con người sống trong các nước văn minh. Trên thế giới chỉ còn vài quốc gia như Anh quốc, Thái Lan, Nhật Bản… vẫn duy trì chiếc ghế của nữ hoàng hay hoàng thân, nhưng chỉ là sắc nét văn hóa theo truyền thống, còn thực quyền thì không có. Thể chế dân chủ được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Con người ngày càng văn minh càng thích sống bình đẳng, không ai muốn người khác đè đầu đè cổ mình. Cũng chẳng ai thích sống trong một chế độ mà quyền hành chỉ tập trung nơi một cá nhân, thậm chí vị lãnh đạo ấy nắm trong tay cả quyền sinh sát giống như các vua chúa ngày xưa.
Như vậy mừng lễ Chúa Kitô làm Vua liệu có gây ra dị ứng nơi con người thời đại ngày hôm nay hay không, đặc biệt nơi giới trẻ? Đức Giêsu có thực sự là Vua hay đây chỉ là một lối nói cường điệu hóa giống như chúng ta suy tôn lãnh tụ một cách hình thức? Còn nếu Ngài đích thực là Vua, Ngài có bóp nghẹt tự do và nhân quyền của chúng ta hay không?
Các bài đọc Lời Chúa trong phụng vụ hôm nay sẽ gợi mở cho chúng ta câu trả lời.
Ông có phải là vua không?
Hai ngàn năm trước, Philatô đã nêu ra câu hỏi này khi Đức Giêsu bị điệu đến trước mặt ông như một tên tội phạm. Sách Tin mừng thứ tư thuật lại mẩu đối thoại này. Philatô dồn dập đặt ra nhiều nghi vấn, khi ông đối diện trước một con người đã từng được dân chúng tung hô là ‘Con Vua Đavit’, đã từng được mọi người nể phục như một ngôn sứ vì đã làm nhiều điều lạ lùng không giải thích được. Philatô càng ngạc nhiên hơn bởi lẽ, một ông vua phải có dáng vẻ oai phong và hiển hách, nhưng trước mặt ông chỉ là một con người rất bình thường, trong tay không có một tấc sắt để tự bảo vệ, không có một chú lính quèn để hộ tống. Ông mở to con mắt nhìn vào Đức Giêsu với sự kinh ngạc. Nếu ở vào vị trí của Philatô chắc hẳn chúng ta cũng sẽ đặt nghi vấn giống như vậy. Tuy nhiên khi đối diện với Philatô, Đức Giêsu đã không cần che dấu căn tính của mình. Ngài trả lời: “ Chính ông nói tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về sự thật thì nghe tiếng tôi”. Đức Giêsu khẳng định Ngài chính là Vua, và Ngài đến trong trần gian để khai mở Vương quốc của sự thật. Những thần dân của Ngài sẽ nghe tiếng Ngài vì họ là những công dân của Vương quốc ấy. Philatô không hiểu và hỏi lại: “ Sự thật là gì?” Ông chắc chắn không hiểu nổi vì ông đâu có phải là thần dân của vương quốc mà Đức Giêsu đã khai sáng (Ga 18, 33-38).
Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu cũng nói khá nhiều về ‘sự thật’. Ngài mặc khải tiệm tiến về Vương quốc mà chính Ngài sẽ khai mở. Khi nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã vén mở một nền phụng tự mới trong Vương quốc ấy: “ Thiên Chúa là Thần khí và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật” (Ga 4, 24). Cũng vậy trong bữa tiệc ly để giã từ các môn sinh, Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “ Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6 ). Đức Giêsu sẽ ra đi, tiến nhận cái chết và khai lập vương quốc của chân lý. Đồng thời Ngài cũng chính là sự thật, là con đường dẫn đưa chúng ta đi vào vương quốc vĩnh cửu để chúng ta được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10). Đối diện trước Philatô, Chúa đã khẳng quyết căn tính của mình, nhưng chắc chắn Philatô không hiểu nổi vì ông ta không ở trong quỹ đạo Nước Trời. “Nước tôi không thuộc thế gian này”(c 36). Tuy nhiên, chính Philatô đã cho treo một tấm bảng đóng trên Thập giá với hàng chữ :‘Đây là vua người Do thái’. Có lẽ đây không phải là một sự tình cờ, song Thiên Chúa đã định liệu và sử dụng một ông quan ngoại giáo để công bố cho cả thế giới biết Đức Giêsu chính là Vua đích thật. Tuy nhiên chúng ta cần suy tư sâu xa hơn để tìm hiểu xem, trong vương quốc sự thật ấy, Chúa đã hành xử vương quyền như thế nào?
Đức Giêsu quả là một vị Vua rất khác người, chẳng giống ai. Vương miện của Ngài là một vòng gai thấm máu đầy nhục nhã. Cẩm bào Ngài khoác chỉ là một tấm thân trần trụi bị treo thân vào khổ giá như một tên tử tội. Ngai vàng cao sang của Ngài là chỗ chuyên để hành quyết những tên cướp đáng sợ. Ngài đã đi xuống tận đáy bùn đen của xã hội loài người, bị đầy đọa, bị chửi rủa, bị khinh miệt và cuối cùng bị giết chết. Vương quốc Nước Trời mà Ngài nói tới là một Vương quốc đảo lộn mọi bậc thang giá trị mà con người vẫn thường đặt định. Sống trong Vương quốc đó, ‘ ai làm lớn nhất phải trở nên người bé nhất’ . Chính Ngài là một vị Vua cai trị theo một cung cách khác thường, đó là “ Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban sự sống cho nhiều người” (Mc 10,45).
Philatô không hiểu là phải, bởi vì ông chưa làm ‘thẻ chứng minh nhân dân’ để trở thành công dân của một vương quốc xem ra có vẻ quái chiêu và nghịch thường đến như vậy. Nói tắt một lời, Vương quốc mà Chúa Giêsu thiết lập chính là Vương quốc của tình yêu. Đó không phải là một quốc gia hùng mạnh về quân sự, về dầu hỏa, về đôla hay về khí tài. Vương quốc của Đức Giêsu đích thực là Vương quốc tình yêu. Chỉ sống trong tình yêu chúng ta mới có được thẻ ID, thẻ căn cước để vào Nước Trời, nước của Ngài.
Vương quốc của tình yêu
Trong bữa tiệc ly, Đức Giêsu đã cúi xuống rửa chân cho các học trò. Ngài nói với họ: “ Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 14). Việc rửa chân cho khách đến nhà là công việc của những tôi tớ, thường là những tên nô lệ được ông chủ mua về. Người nô lệ không có một quyền hành nào cả và họ phải làm mọi công việc theo ý chủ. Đức Giêsu là Chúa, là Thầy, là Vua Chúa hay là bậc Tôn sư của các môn đệ. Nhưng Ngài đã khiêm tốn hạ mình xuống để phục vụ như một tôi tớ hèn mọn. Vì thế trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu nói đi nói lại cho các học trò về khuôn mẫu của tình yêu. “ Không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15, 13). Tình yêu chính là ‘bộ luật dân sự’, là hiến pháp căn bản của Vương quốc Nước Trời. Tình yêu cũng chính là tên gọi của Thiên Chúa, hay nói cách khác tình yêu là chính Vương hiệu của Đức Kitô. Trên Thánh giá, Đức Giêsu cũng hành xử vương quyền Ngài để phong thánh cho một tên trộm khét tiếng. Nếu không đi vào quỹ đạo tình yêu và lòng thương xót Chúa, chúng ta sẽ không thể hiểu động thái khác thường này.
Ngày 11/11/1951 trong một bài diễn từ, Đức Thánh Cha Piô 12 đã kể lại một giai thoại. Có một phụ nữ kia rất đạo đức, nhưng sức khỏe quá yếu ớt. Cô ta bị chứng sưng màng phổi và rất khó thở. Lâu lâu căn bệnh tái phát làm cô rất đau đớn. Nhưng cuối cùng cô cũng lập gia đình, mang thai và chờ ngày sinh nở. Bất hạnh bất ngờ ập đến. Căn bệnh năm xưa tái phát trầm trọng. Các bác sĩ đề nghị phải hủy bỏ thai nhi để bảo toàn tính mạng cho người mẹ. Người chồng cũng đồng ý như thế. Cô đã cầu nguyện trong nhiều ngày và kiên quyết từ chối lời đề nghị của bác sĩ. Cô nói trong nước mắt: “ Tôi không thể giết con của tôi. Con tôi phải sống, cho dù tính mạng tôi có ra sao đi nữa”. Cô ta chấp nhận tình huống xấu nhất có thể xảy ra và phó thác hoàn toàn cho Chúa. Cuối cùng cô đã sinh được một bé gái kháu khỉnh, nhưng sau đó sức khỏe của cô ngày càng suy kiệt. Hai tháng sau, người phụ nữ tắt thở, trên tay vẫn ôm chặt đứa con mà cô ta hết lòng thương mến. Hơn hai mươi năm trôi qua, người ta thấy một nữ tu trẻ rất xinh đẹp đang ân cần chăm sóc cho các cháu bé mô côi trong một trại tế bần. Vòng tay thân thương và cặp mắt long lanh của vị nữ tu sáng rực lên nét yêu thương mà chị đã được truyền thụ lại từ chính người mẹ của mình. Đó là người phụ nữ năm xưa đã chấp nhận hy sinh tính mạng để cho con bà được sống. Người mẹ can đảm này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 tôn phong Chân phước, bởi vì bà đã thực sự đi vào Vương quốc tình yêu theo dấu chân của Đức Giêsu. Chính Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo 2 đã nói: “ Một đất nước nào, một chế độ nào cho phép con người sát hại lẫn nhau, thì đất nước đó, chế độ đó đang đi tới hủy diệt”. Đó là một đất nước đi ngược lại hiến pháp của Vương quốc Đức Giêsu. Sống trong Vương quốc này, Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta phải sống với một nền văn minh mới, đó là ‘nền văn minh của tình thương’. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng đã từng nói: “ Một người mẹ nhẫn tâm giết chết con của mình, thì không còn một thứ tội ác nào mà họ không dám làm”. Biết bao tội ác nhan nhản đang xảy ra trong xã hội hôm nay vì người ta đang dần đánh mất đi thẻ ID (identity card) để chứng minh mình là công dân Nước Trời.
Kết luận
Một nhà tâm lý học đã nói: “ Trong tình yêu, con người rất dễ trở thành người điên.” Điều đó rất đúng nếu chúng ta ngắm nhìn Thập giá Đức Giêsu và Vương quốc của Ngài. Hêrôđê đã mặc cho Chúa chiếc áo đỏ để chế diễu Ngài như một ông vua nửa điên nửa khùng. Khi chịu đóng đanh trên Thập giá, chiếc áo đỏ của Chúa đã bị lột ra, nhưng sự điên rồ vẫn còn rất đậm nét. Cũng trên Thập giá điên rồ ấy, Đức Giêsu khai mở Vương quốc sự thật, đó là Vương quốc của tình yêu. Càng sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chúng ta càng trở nên thần dân của Vương quốc cao cả này. Lúc bấy giờ “ Ai nấy sẽ thấy Người, kể cả những kẻ đã đâm người. Kìa Người ngự đến giữa đám mây” (Kh 1, 7).