Bài hát và suy niệm (13.10.2024 – Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B)

Chuỗi Kinh cầu nguyện trong cơn Đại dịch Covid-19

Nghe giảng

NL: TỪ  SỚM MAI

ĐC: THÁNH VỊNH 89

Xin cho chúng con sớm được đầy no những ân tình Ngài, để lòng chúng con luôn được vui sướng  hân hoan.

HALL: Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.

DL: TIẾN DÂNG CHA

HL: CAO VỜI KHÔN VÍ

KL: NỮ VƯƠNG MÂN CÔI

CHÚA NHẬT 28 TN 2021 – B

NL: ĐI VỀ NHÀ CHÚA

ĐC:  HÃY CHIẾU SOI

DL: LỜI DÂNG

HL: KHÚC CẢM TẠ (1,3,4)

KL: CON XIN DÂNG MẸ

Lời Chúa:  Kn 7,7-10; Dt 4,12-13; Mc 10, 17-30


Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô (Mc 10, 17-30)

17 Khi ấy, Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi : “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ?” 18 Đức Giê-su đáp : “Sao anh nói tôi là nhân lành ? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn : Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Anh ta nói : “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta : “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ : “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao !” 24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp : “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao ! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau : “Thế thì ai có thể được cứu ?” 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói : “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người : “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy !” 29 Đức Giê-su đáp : “Thầy bảo thật anh em : Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”

Lời Chúa mời gọi (13.10.2024)

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta suy gẫm về vấn đề của cải  trần gian so sánh với Đức Khôn Ngoan (Bài Đọc I) hay Lời Chúa (Bài Đọc II) và lời Đức Giê-su mời gọi đi theo Người.

Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ về các điều kiện để theo Người để vào Nước Thiên Chúa. Trong bài Tin Mừng hôm nay Người tiếp tục dạy các môn đệ về sự giàu có cản trở hành trình vào Nước Trời, và phần thưởng cho những người bỏ mọi sự theo Người.

Đức Giêsu trên đường lên Giêrusalem tức là Người đang đi đến cuộc Vượt Qua mà Người phải thực hiện để làm tròn sứ mạng Chúa Cha đã trao. Đúng lúc ấy một người khẩn thiết, vội vã và vô cùng kính trọng đã chạy đến, quỳ xuống trước mặt Chúa Giêsu, gọi Người là “Thầy nhân lành”, xin Người chỉ cho anh làm thế nào để có sự sống đời đời. Thái độ và cử chỉ của người này rất nghiêm túc và chân thành chứng tỏ câu hỏi anh đặt ra rất quan trọng với anh và có lẽ anh đã tự hỏi câu này lâu rồi.

Đức Giê-su đã từ chối danh xưng “nhân lành” và khẳng định “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”, vì theo cách hỏi thì người ấy tôn kính Chúa Giêsu chỉ như một ông thầy, một rabbi mà thôi. Chúa Giêsu muốn người này tập trung về Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi sự tốt lành và là Đấng duy nhất có thể ban sự sống đời đời (Mc 10,19).

Chúa Giêsu nêu ra sáu trong mười giới răn của Thiên Chúa. Đây là những giới răn liên quan đến tha nhân. Người này đã tuân giữ những điều đó từ nhỏ chứng tỏ anh là một người đạo đức. Chúa Giêsu đã ngắm nhìn anh và tỏ ra yêu mến anh. Người chỉ ra điều duy nhất anh còn thiếu, đó là theo Người. Đó cũng là điều thiếu sót của cả dân tộc Israel, họ đã hàng ngàn năm đợi chờ Đấng Cứu Thế do Thiên Chúa sai đến, nhưng khi Đấng ấy là Đức Giêsu đến, thì họ lại không chấp nhận Người.

Chúa Giêsu đã mời gọi người giầu có từ bỏ tất cả, kể cả mạng sống mình, đem hết tài sản làm việc bác ái rồi theo và làm môn đệ của Người. Như vậy anh sẽ có sự sống đời đời, là vào Nước Thiên Chúa, vì “Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). Nhưng người đó đã không qua được cửa ải “từ bỏ”. Người giàu có sở hữu quá nhiều thứ khiến anh chọn ở lại với của cải, vì “Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,34), và anh rời ra khỏi bàn tay Chúa, Đấng đã yêu mến anh. Anh không thể từ bỏ những tiện nghi lợi ích do giàu có đem lại để đi theo Chúa Giêsu, để sống một cuộc đời bấp bênh đến ngay cả chỗ tựa đầu cũng không có (Lc 9,58). Anh đã triệt để tuân giữ Lề luật từ khi còn bé, nhưng như thế chưa đủ, anh còn cần phải đi theo Chúa Giêsu, đấng Messia do Thiên Chúa sai đến nữa.

Khi người giầu có tìm đến với Chúa Giêsu thì anh đầy hăng hái, phấn khởi, nhanh nhẹn. Nhưng khi anh bỏ đi thì lặng lẽ buồn rầu. Gánh nặng của cải đã trì kéo bước chân anh, gắn chặt anh xuống đất. Hẳn khi nhìn anh Chúa Giêsu đã biết và tiếc cho anh. Bây giờ Người đang buồn và thương anh.

Những lời nói của Chúa Giêsu về người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa, sự nguy hiểm của của cải đối với lý tưởng tìm kiếm Nước Thiên Chúa, như tiếng than não nề với kết luận đầy hình tượng : Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” Hai dụ ngôn người giầu có lo xây các kho lẫm chứa của cải và ông nhà giầu với người hành khất Lazaro (Lc 12,16-21.16,19–31) đã minh chứng điều này.

Các môn đệ đã hoang mang : “Thế thì ai có thể được cứu ?”

Đức Giê-su giúp các môn đệ hiểu một chân lý : “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” Chỉ cậy dựa vào sức con người thì chẳng ai vào được Nước Thiên Chúa. Nhưng nếu khiêm nhường, biết sám hối tội lỗi, hoán cải và trở nên đơn sơ như trẻ nhỏ, thì do lòng từ bi nhân hậu Chúa sẽ thương cứu giúp. “Con lạc đà Giakêu” đã chui tọt qua lỗ kim là bằng chứng cho tình thương của Chúa với người giàu có và tội lỗi, nhưng đã biết hối cải, từ bỏ lối sống cũ và tin tưởng phó thác vào Chúa : “Hôm nay ơn cứu độ đã đến nhà này…” (x. Lc 19,1-10).

Câu hỏi của Phêrô với Chúa Giêsu (câu 28) đã gói gọn tâm sự của các môn đệ : các ông vẫn còn mơ tưởng quyền lợi vì đã hy sinh hết mọi thứ để theo Thầy Giêsu. Ngày Thầy chiến thắng các môn đệ sẽ được gì ? Chúa Giêsu sẽ còn phải tiếp tục dạy dỗ, giúp các ông hiểu được sứ mệnh đích thực của Người khi đến thế gian này.

Từ bỏ mọi sự để theo Chúa thì Chúa sẽ không quên, Chúa sẽ bù đắp cho ngay ở đời này về “nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và phần thưởng vô cùng lớn lao là “sự sống vĩnh cửu ở đời sau”.

Lời hứa của Đức Giê-su rõ ràng mang nghĩa tinh thần nhiều hơn. Đây cũng là những ám dụ phản ảnh hoàn cảnh của cộng đoàn Giáo hội sơ khai. Phần thưởng khi “ngay từ đời này” – gia đình và của cải – được nêu lên dựa vào hoàn cảnh của cộng đoàn lúc đó.

Khi theo Chúa Giêsu, những người “lắng nghe và tuân giữ Lời của Thiên Chúa” ngoài sự liên hệ tự nhiên theo huyết thống và xã hội, người môn đệ còn có những liên hệ thiêng liêng, vì tất cả đều là con một Cha trên Trời, là anh em, chị em, là mẹ của Đức Giê-su (Mc 3,35; Mt 13,50; Lc 8,21). Khi gia nhập cộng đoàn, các môn đệ đã trở thành anh chị em của nhau, có mối tương quan gia đình với nhau. Họ sẵn sàng chia sẻ với nhau tất cả những gì mình có.

Đức Giê-su sẽ nói cụ thể về những bách hại sẽ xảy ra. Trước hết trực tiếp là cuộc khổ nạn-chết-phục sinh, mà Đức Giê-su sẽ trải qua ở Giê-ru-sa-lem. Sau đó, Đức Giê-su sẽ nói về cuộc bách hại dành cho các môn đệ cách cụ thể. Họ sẽ bị nộp cho các hội đồng và các hội đường, bị đánh đòn, ra trước mặt vua chúa quan quyền (Mc 13,9-10). Họ sẽ bị mọi người thù ghét vì danh Đức Giê-su (Mc 10,13). Cuộc bách hại trở nên khốc liệt khi nó được gây ra bởi các thành viên trong một gia đình : “Anh em nộp nhau cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết” (10,12). Nhưng những ai bền đỗ đến cùng sẽ nhận được phần thưởng lớn lao mà mọi thứ ở đời này đều không thể sánh nổi, đó là sự sống đời đời, là Nước Thiên Chúa.

Những giáo huấn của Chúa trong các bài đọc hôm nay vô cùng cao cả nhưng cũng thật gần gũi đời thường. Khi Chúa Giêsu mời gọi người giầu có bán hết của cải, từ bỏ chính mình để đi theo và làm môn đệ của Người, anh đã sa sầm nét mặt lại và buồn bã bỏ đi. Đó là cái buồn của thất bại, vì anh đã chọn làm nô lệ cho tiền bạc thế gian thay vì chọn đi theo Chúa Giêsu để có sự sống đời đời.

Người Kitô hữu hạnh phúc vì đã được học hỏi Lời Chúa, đã biết con đường phải chọn để đi, biết có Chúa luôn yêu thương nâng đỡ mình, dù mình là kẻ tội lỗi. Nhưng vì sống trên thế gian này, trong một thế giới coi trọng văn minh vật chất và tôn thờ cái tôi một cách quá đáng, thì người Kitô hữu luôn gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Người Ki-tô hữu muốn đáp lại lời mời gọi của Chúa Ki-tô thật không dễ dàng chút nào. Nhưng nhờ Lời Chúa sáng soi dẫn đường, người Kitô hữu có thể dùng Lời Chúa để xét đoán công việc mình làm như trong Bài đọc II (Thư Do Thái) : “lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tuỷ não, phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn”, từ đó phân biệt được điều đúng để làm và điều sai để tránh.

Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã mời gọi chúng con đi theo con đường dẫn tới sự sống đời đời. Đó là con đường của sự khiêm cung, nhỏ bé, nghèo khó, đau khổ vì bị bách hại. Nhưng chúng con lại luôn mong muốn những thoải mái, tiện nghi, giầu sang và quyền lực. Chính những thứ này thường xuyên lôi kéo, đẩy chúng con đi ra ngoài con đường Chúa đã chỉ.

Xin Chúa giúp chúng con luôn kiên vững trung thành với Lời Chúa và đi theo Chúa đến cùng. Amen.

Jos. NM Tưởng.

Biết lời Chúa là có Đức Khôn Ngoan

Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ.” (Kn 6,12). Đức Khôn Ngoan – một thuộc tính của Thiên Chúa nhưng cũng đồng thời là bản tính của Người

“Dầu chỉ một mình,
Đức Khôn Ngoan vẫn có thể làm được mọi sự ;
luôn luôn bất biến,
Đức Khôn Ngoan đổi mới được muôn loài.
Từ thế hệ này qua thế hệ khác,
” (Kn 7,27)

Đức Khôn Ngoan không phải là thụ tạo của Thiên Chúa, bởi vì Đức Khôn Ngoan từ Thiên Chúa mà ra nhưng lại không có bản thể. Nhưng Đức Khôn Ngoan cũng không phải là Thiên Chúa, do Đức Khôn Ngoan không phát xuất từ yếu tính của Thiên Chúa mà từ quyền toàn năng của Người.

Đức Khôn Ngoan toả ra từ quyền năng Thiên Chúa
và rực lên trong ngần từ vinh hiển Đấng Toàn Năng,
nên không thể vương một tì ố
.” (Kn 6,17)

Đức Khôn Ngoan ở kề bên Chúa,
biết những việc Chúa làm,
hiện diện khi Ngài tạo thành vũ trụ
,” (Kn 9.9a)

Cũng theo cách thế này Con Điếm được hình thành, Con Điếm ghi chép trong sách Khải Huyền (x. Kh 17,1-5). Con Điếm không có bản thể, nó tồn tại bởi sức mạnh quỷ tính từ tội phạm vào giới răn thứ sáu của cư dân hỏa ngục.

Các con biết không, đối địch lại với Con Điếm chỉ có Đức Khôn ngoan của Thiên Chúa, vì nơi Đức Khôn Ngoan không hề vương tì ố nào. Cho nên ai được Đức Khôn Ngoan bầu bạn sẽ có sức mạnh thánh khí mà tiết chế và chiến thắng tính dục cách dễ dàng. Bởi đó, bài đọc một hôm nay giới thiệu cho chúng ta về Đức Khôn Ngoan, hầu chúng ta biết kiếm tìm, học hỏi

Vì bước đầu để đạt tới Đức Khôn Ngoan
là thật lòng ham muốn học hỏi.
Chăm lo học hỏi là yêu mến Đức Khôn Ngoan.

Mà yêu mến là tuân giữ lề luật.
Chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan
là bảo đảm được trường sinh bất tử
.” (Kn 6,17-18)

Các con thấy lời Chúa khẳng định cách tuyệt hảo, nhờ Đức Khôn Ngoan mà con người mới vươn tới được ngưỡng cửa vĩnh hằng, cũng đồng nghĩa đạt tới được sự trọn lành.

Chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan
là bảo đảm được trường sinh bất tử
.” Vậy thực thể của Đức Khôn Ngoan mà con người có thể tìm kiếm để được trường sinh bất tử đó ở đâu và là gì? Chính lời Chúa ở bài đọc hai đã giới thiệu một cách khéo léo “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: … lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.

Nhờ Đức Khôn Ngoan chúng ta biết được tố chất thần khí nơi lời Chúa, thần khí của lời Chúa xác minh ai là con người tội lỗi hay công chính, xấu xa hay thánh thiện, vô tâm hờ hững hay hết lòng với Thiên Chúa. Đức Khôn Ngoan cũng chỉ dạy ai theo đuổi sống lề luật Chúa mới là người khôn ngoan thật sự (khôn ngoan thần khí). Bởi vì

Đức khôn ngoan
là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật,
Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống;
còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết
.” (Br 4,1)

Lẽ công thẳng của Thiên Chúa ngàn đời vẫn luôn minh chính với thụ tạo của Người. Đồng thời Lòng Thương xót cũng luôn thể hiện tột mức sự chan chứa và dạt dào ơn nghĩa xót thương. Bởi thế Thánh Tâm Thương Xót Vô Biên Chúa Ba Ngôi đã đặt để Đức Khôn Ngoan trong lời Chúa như ánh sáng tỏa ra từ mặt trời và sai Đức Khôn Ngoan đi trước cho con người có thể kiếm tìm, cho họ biết rằng

Ai khao khát Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết.

Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.” (Kn 6,13-14)

Không có được Đức Khôn Ngoan, con người không thể tìm được lối đường vào sự sống đời đời, như chàng trai trẻ trong trình thuật Tin Mừng. Nhiệt huyết niềm tin Do Thái Giáo chỉ dẫn anh ta tới việc tuân thủ lề luật của Thiên Chúa, rồi khựng lại, dừng bước trước ngõ vào trọn lành mà Chúa Giê-su giới thiệu cho anh. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta, trong các con được mấy người tha thiết sống đức khó nghèo và hiểu biết rõ về nó theo tinh thần của Chúa Giê-su?

Các bài đọc tuần này giới thiệu cho chúng ta về Đức Khôn Ngoan, thần khí chứa đựng ánh sáng linh thánh của Thiên Chúa. Ánh sáng có thể đưa đời sống ta vào sự thánh thiện thực sự

Dầu chỉ một mình,
Đức Khôn Ngoan vẫn có thể làm được mọi sự ;
luôn luôn bất biến,
Đức Khôn Ngoan đổi mới được muôn loài.
Từ thế hệ này qua thế hệ khác,
Đức Khôn Ngoan ngự vào những tâm hồn thánh thiện,
biến họ nên bạn hữu của Thiên Chúa,
nên ngôn sứ của Người.
” (Kn 7,27)

Người thanh niên buồn rầu bỏ đi vì có nhiều của cải, anh ta không hề biết được sở hữu của cải chỉ là một cái gông nô lệ lớn của thế gian và các anh đặt vào cổ anh ta. Chỉ khi nào con người biết buông bỏ của cải và mọi sự con người mới có tự do thật sự. Điểm này dẫn chúng ta tới sự thâm thúy của lời Chúa, các thánh Tông Đồ nói “Thế thì ai có thể được cứu?”, là nói theo ánh sáng của khôn ngoan tự nhiên. Còn Chúa Giê-su hướng tâm hồn các ngài lên cao hơn theo ánh sáng khôn ngoan thần khí “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.

Yêu của cải, yêu những sự thế gian là dan díu tình thụ tạo, thế nên sẽ xa cách Thiên Chúa. Dù tình thương xót của Người có luôn bao phủ chúng ta đi nữa, thì Thiên Chúa mãi ở gần còn lòng ta lại vắng xa Người. Tương tự như người anh trong dụ ngôn người cha nhân hậu.

Điều độc đáo nhất của đoạn Phúc Âm là Thần Khí muốn chúng ta chiêm nghiệm lời Chúa Giê-su “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” Về lời này, bố (ba) chia sẻ với các con không phải với tư cách của một người giảng thuyết, mà là một chứng nhân đã thấy ứng nghiệm lời Chúa dạy thật nhiều nơi một đời người. Nên mạnh mẽ khẳng khái tuyên xưng Lời Chúa là sự thậtMột sự thật luôn trở thành hiện thực. Đúng vậy, bố đã thấy có người trung thành tích cực sống lời Chúa, trung kiên làm một tông đồ vô danh phận theo ý Chúa muốn, làm đúng mệnh lệnh Chúa sai đi. Từ bỏ mọi sự, từ bỏ cách triệt để, để đi theo Chúa cho đến hôm nay. Người ấy sau bốn mươi năm (1978-2018) đi trong đường hầm tăm tối khủng khiếp, quá khủng khiếp với phận người! Nay đến giờ thấy được trong hiện tại tất cả mọi điều Chúa Giê-su dạy “lại không nhận được nhà cửaanh emchị emmẹcon hay ruộng đấtgấp trăm, cùng với sự ngược đãi,”. Chúc tụng Chúa. Các con biết không, có rất nhiều câu lời Chúa đã ứng nghiệm vào con người ấy. Ngay cả “sự ngược đãi” cũng rất được Người ưu đãi, kỹ cương chăm sóc và ban tặng. Những gì người tông đồ vô danh ấy tự nguyện từ bỏ, hay Chúa đòi hỏi phải từ bỏ, Thiên Chúa đều bù đắp lại bội phần. Gã Lái Đò trên sông vắng nhân gian cảm thấy rất thỏa lòng, cảm nhận được niềm hạnh phúc lớn lao khi trung thành sống lời Chúa dạy. Những hạnh phúc Chúa ban cho ở đời này an ủi được hết cả những khổ đau, gian truân, nhọc nhằn, vất vả, hy sinh, mất mát và sỉ nhục nặng nề ông ta đã kinh qua. Bởi thế, bố nhận ra rằng: đau khổ, sỉ nhục càng lớn thì vinh quang càng rạng rỡ, trọng đạihy sinh, mất mát càng nhiều thì sự bù đắp càng quá niềm mong ướcgian truân nhọc nhằn càng lắm, những ngọt ngào yên ủi trong tình Cha càng tha thiết mặn nồng hơn.

Có một bí quyết nhỏ, để các con thực hiện được và cũng được thỏa lòng như ai đó. Là hãy đến với Chúa bằng lối nhỏ của một hồn thơ hèn mọn, biết mình thật sự bất toàn, bất lực. Lòng khiêm hạ nhận mình ở rốt cùng ân sủng (dưới gót chân nhiệm thể), biết mình là một tội nhân vô cùng bất xứng trước Chúa (đại tội nhân), so gì cũng chẳng bằng ai. Sống trong tâm trạng một nỗi lòng luôn ghi dấu ăn năn, bởi thấy mình dễ dàng phụ tình Chúa làm cho Người phải buồn đau. Nhờ lòng khiêm hạ này Chúa sẽ luôn bảo vệ các con trước quyền lực ác thần, gìn giữ các con trong nghĩa tình với Chúa, không để các con gục ngã mà không dậy được. Rồi đến giờ, các con sẽ được Chúa nâng lên trong vinh sáng ngàn đời, tặng ban cho phúc phận thiên thu.

Đừng sợ những yếu đuối vấp ngã của mình. Cứ nhẫn nại chịu đựng chính bản thân mình, và thâm tín khiêm hạ “Con là thế đấy!”, “Có gì tốt lành ở nơi con đâu mà sao Chúa vẫn yêu thương con, đến phải cứu chuộc con bằng giá tình khổ đau dường ấy?!” Rồi hạ mình xuống thẳm sâu trong đáy vực khiêm cung trước Chúa mà nâng lòng yêu mến nhỏ hèn liên lỉ trong tim.

Tình Yêu Hoa Cỏ

Tiền Của

Vừa lên đường Đức Giêsu đã gặp một học trò hiếu học, thao thức mơ mộng tiến đức đón đầu quỳ sụp trước mặt: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17). Mừng mừng vì anh này nhận biết và tín nhiệm mình, Đức Giêsu tỏ vẻ ngạc nhiên mà bảo chỉ có Thiên Chúa mới nhân lành thôi, sao lại là tôi? Mới hỏi qua Ngài đã nghe anh trả bài thật suôn sẻ, anh cũng “nhân lành” từ bé! Anh thảo hiếu với cha mẹ, không làm hại ai, không lấy gì của ai (công bằng tuyệt đối), nói gì đến giết người với cả ngoại tình? Đức Giêsu ngắm lại anh cách trìu mến rồi đòi hỏi thêm: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21b). Đi bán rồi cho? để nên trọn lành và theo làm môn đệ của Ngài? Nghe cái điều kiện cực kỳ khó khăn này, anh giật mình thất vọng ngán ngẩm và chạy… mất dép: “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.” (Mc 10,22).

Anh thì buồn rầu bỏ đi, còn Đức Giêsu thì buồn rầu nhìn theo bóng anh, mất khách, “bó tay.com”! Ngài phải kêu lên: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mc 10,24-25).

Phải, cái sung sướng của anh là có nhiều của cải, bây giờ ung dung rồi thì “phú quý sinh lễ nghĩa” thôi, chứ muốn tiến đức mà phải bỏ toàn bộ cái anh có, anh đang yêu thích ôm chặt lấy mà đem chia cho người khác thì còn gì để mà vui sướng? Gia tài sản nghiệp hạnh phúc của anh chứ phải đâu chuyện đùa? Làm sao anh dại dột mà vứt đi để theo làm môn đệ Ngài được? anh không thể… khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim! Đến các môn đệ còn sửng sốt sững sờ, chỉ dám hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10,26).

Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông mà nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” (Mc 10,27). Đối với loài người thì càng nhiều tiền càng bảo đảm hạnh phúc, muốn gì được nấy, càng có nhiều càng bảo đảm tương lai, an tâm hưởng thụ. Nhưng với người có “đức tin đã được tinh luyện” sẽ có cái nhìn về hạnh phúc từ “trời cao” của Thiên Chúa.

Chúa ơi! Ngày nay chúng con muốn theo Chúa mà vẫn nặng lòng với tiền, tình, bản thân và ham mê đủ thứ thì làm sao bước tới? Xin đừng để chúng con mê say đến độ quên mất Chúa, Chúa thành bé nhỏ trong chúng con. Xin Chúa cầm tay mà dẫn chúng con đi, đi lên đến đỉnh tuyệt vời của tâm hồn yêu Chúa thật sự. Yêu Chúa chúng con sẽ dấn thân để theo Chúa, vượt qua con đường hẹp của Tin Mừng với tình yêu thênh thang rộng mở và đến với anh em. “Kho bạc” của chúng con là chính Chúa, mọi sự khác sẽ rơi rụng dù chúng vẫn có đó. Chúa sẽ thực hiện trong chúng con những điều kỳ diệu. Chúa sẽ không phải buồn rầu nhìn theo bóng chúng con như anh thanh niên giàu có hôm nào. “Vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

Én Nhỏ

 

***

MỤC LỤC 

Năm 2018

1. Lựa chọn khôn ngoan (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hạnh phúc qua việc trao ban  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Kho báu đích thực  (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Bán đi và theo Thầy (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Lời mời gọi theo Chúa (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

6. Lấy của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

7. Người công chính Tân ước (Lm. Giuse Nguyễn Hữn An)

8. Bán đời  (Trầm Thiên Thu)

9. Suy niệm Chúa Nhật 28 Thường niên_B  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

10. Cách kiếm tiền và cách sử dụng tiền (Lm. Anthony Trung Thành)

11. Sự sống đời đời là mục tiêu tối hậu  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

12. Nhân lành  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

13. Tin Đức Giêsu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

14. Tin mừng Chúa Nhật 28 (Jorathe Nắng Tím)

15. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 28 Thường niên_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

16. Thập giá – Đường hy vọng (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

17. Đầu tư khôn ngoan  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

18. Sự khôn ngoan đích thực  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

19. Hai sự khôn ngoan (Lm. Bosco Dương Trung Tín)

20. Hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh (JM. Lam Thy, ĐVD)

21. Kho báu trên trời (Fx. Đỗ Công Minh)

22. Huyền nhiệm ơn gọi (Lm. Vũ Xuân Hạnh)

23. Đứt ruột  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

24. Chúa Nhật 28 Thường niên_B  (Lm. Antôn)

 

Năm 2015

 

1.  Chọn lựa ưu tiên  (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)

2.  Khôn ngoan  (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)

3.  Giàu: Tốt hay xấu  (Gm. Arthur Tonne)

4.  Cuộc đời cho đi mới đẹp  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền, Gp. Xuân Lộc)

5.  Tốt lành và nhân lành  (Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB)

6.  Tiền bạc là phân bón của ma quỷ  (Văn Hào, SDB)

7.  Lối nhỏ đường sống  (Trầm Thiên Thu)

8.  Chúa Nhật 28 Thường niên_B  (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)

9.  Tin và theo Chúa Giêsu  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10.  Lối thoát hiểm  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11.  Sống với ước mơ và hy vọng  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)

12.  Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

13.  Sống siêu thoát để nên môn đệ thực sự của Chúa Giêsu (Lm. Đan Vinh)

14.  Khôn ngoan đích thực  (Huệ Minh)

15.  Được gấp trăm (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)

Bài hát và suy niệm (14.10.2018 – Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B)

LỰA CHỌN KHÔN NGOAN

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Chọn lựa Chúa, đó là hành động khôn ngoan sáng suốt và đem lại hạnh phúc lâu dài.

Sống ở đời, chúng ta phải luôn khôn ngoan để chọn lựa điều tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Vì cuộc sống này vàng thau lẫn lộn, nên ta phải biết suy tính và thận trọng để không bị lừa. “Vàng thì lấp lánh, nhưng không phải bất cứ thứ gì lấp lánh đều là vàng”. Nhiều người chuộng hình thức hào nhoáng bên ngoài, nên đã mắc những sai lầm tai hại và chuốc lấy hậu quả khôn lường.

Cuộc sống này cũng được so sánh như một bàn cờ khổng lồ. Mỗi nước cờ là một nước đời. Cần phải khôn ngoan thận trọng trước khi quyết định tiến hay lùi một bước, vì một khi đã tiến hay lùi, không thể làm lại được nữa. Mỗi nước cờ chúng ta đi, có thể đem lại chiến thắng vẻ vang, nhưng cũng có thể chuốc lấy thất bại ê chề.

Bài đọc I hôm nay nói về “Đức Khôn Ngoan”. Trong một đoạn văn gồm có 4 câu, mà chữ “Đức Khôn Ngoan” được dùng tới 11 lần. Hơn nữa, những từ này được viết hoa, có ý cho độc giả vượt qua khái niệm về sự khôn ngoan thông thường, để suy tư và hướng tới một thực tại sâu xa hơn. Dưới ánh sáng của Tin Mừng và theo lăng kính Kitô giáo, “Đức Khôn Ngoan” chính là Chúa Giêsu. Người là sự Khôn Ngoan của Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu khẳng định điều này, khi so sánh thời đại của Người với câu chuyện mấy đứa trẻ thổi sáo, và khẳng định: “Đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động” (x. Mt 11, 16-19). Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã hóa thân làm người để ở với chúng ta. Ai chọn lựa Chúa Giêsu như lý tưởng và mẫu mực cho đời mình, sẽ đạt được những điều tốt đẹp cho cuộc sống hiện tại và tương lai. Vàng bạc của cải và những kho báu trên đời này, đem so sánh Đức Khôn Ngoan, chỉ là cát bụi. Lịch sử đã chứng minh, biết bao người nam cũng như nữ đã chọn Đức Giêsu và sẵn sàng chấp nhận hy sinh cả mạng sống mình để trung thành với sự lựa chọn ấy. Họ khước từ bổng lộc, ưu đãi và vinh hoa phú quý đời này, để được sự sống và vinh quang đời sau.

Khái niệm Đức Khôn Ngoan của Cựu ước soi sáng cho chúng ta hiểu điều Chúa Giêsu đã khẳng định trong Tin Mừng. Theo Chúa luôn là một chọn lựa. Đây là chọn lựa nhiều lúc làm trái tim chúng ta rớm máu, vì phải hy sinh những gì là thiêng liêng gắn bó nhất. Chàng thanh niên trong Tin Mừng là biểu tượng cho những người mau mắn theo Chúa, nhưng dễ gục ngã và đầu hàng, vì không đủ can đảm để chấp nhận điều Chúa đề nghị, đó là từ bỏ của cải và sự giàu sang. Cuộc theo Chúa của anh đã thất bại. Anh không đủ can đảm để tiếp tục bước đi trên con đường theo Chúa.

“Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa!”. Chúa Giêsu đã thốt lên điều này. Bản thân chúng ta, khi nghe điều này cũng sững sờ giống các môn đệ. Tuy vậy, Chúa trấn an chúng ta: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”. Đây cũng là điều sứ thần Gabriel đã khẳng định với Trinh nữ Maria: “Đối với Thiên Chúa, không có gì mà Ngài không làm được!”. Như thế, việc hưởng Nước Trời không đến từ công trạng cá nhân của chúng ta, nhưng nhờ lòng từ bi hải hà của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng mọi sự từ hư vô, có thể làm cho con lạc đà chui qua lỗ kim, tức là có thể cho chúng ta là những tội nhân được hưởng Nước Trời. Nói như thế, không có nghĩa là chúng ta không cần cố gắng. Trái lại, Nước Trời là hoa trái của những nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Chàng thanh niên trên đây, đã không có được những cố gắng ấy, nên thất bại ngang đường.

Kitô hữu là người chọn lựa Chúa Giêsu. Chắc chắn trong mỗi chúng ta, đã hơn một lần chúng ta cảm nhận được hạnh phúc đến từ chọn lựa này. Tuy vậy, trước những khó khăn thử thách, nhiều lúc chúng ta cảm thấy dao động bất an vì dường như Thiên Chúa vắng bóng và không đáp lời khi chúng ta nguyện cầu. Những lúc dao động ấy, có thể chúng ta đã nói với Chúa như ông Phêrô: “Thày coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Đây là câu nói, vừa để kể công, vừa thắc mắc đòi hỏi và nói lên những nghi ngại và có phần luyến tiếc vì đã theo Chúa. Thánh sử Máccô không nói về tâm trạng của Chúa Giêsu trước câu nói này, nhưng chắc hẳn Chúa không vui vì các môn đệ đang kể công với Thày mình. Mặc dù thế, Chúa không để các ông chán nản. Người khẳng định với các ông, nếu theo Người, họ sẽ được gấp trăm ở đời này, nhưng phải trải qua những ngược đãi. Chọn lựa Chúa, đó là hành động khôn ngoan sáng suốt và đem lại hạnh phúc lâu dài. Chọn lựa Chúa cũng phải chấp nhận nhiều hệ lụy cho bản thân, nhiều khi đến mức tử đạo. Cũng như Chúa Giêsu đã chọn lựa con đường trung thành với Chúa Cha, và Người đã phải trả giá cho chọn lựa ấy là cái chết trên thập giá, những ai chọn Chúa Giêsu cũng phải đi trên con đường thập giá mà Người đã đi. Sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa được tỏ bày ở mức độ tuyệt đỉnh nơi Đức Kitô chịu đóng đinh (x. 1Cr 1, 18-24). Nhưng Thập Giá lại bị người ta, cho là sỉ nhục và điên rồ. Trong số “người ta” này, nhiều khi có cả chúng ta.

Trước những hệ lụy thiệt thòi đến từ việc chọn lựa Chúa Giêsu, Thánh Phaolô khuyên chúng ta: Hãy an tâm. Đừng lo lắng, vì Chúa luôn thấu hiểu chúng ta. Lời của Ngài là lời linh nghiệm. Con người có thể che giấu đối với đồng loại, nhưng những uẩn khúc của họ bị giãi bày trước nhan Thiên Chúa, vì chẳng ai có thể che giấu và dối trá trước nhan Người (Bài đọc II).

Cảm tạ Chúa đã soi sáng cho chúng ta chọn lựa Đức Khôn Ngoan trong cuộc đời. Giữa những hệ lụy thiệt thòi vì mang danh Đức Giêsu, chúng ta hãy tín thác nơi Chúa, với cái nhìn lạc quan tin tưởng Ngài sẽ đỡ nâng chúng ta.

 

.

HẠNH PHÚC QUA VIỆC TRAO BAN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện rất ngắn kể rằng:

Xưa, nội nghèo, Ba đi ở cho ông bá hộ, chăn trâu để chú được đi học. Thành tài, chú cưới vợ, ra riêng.

Ngày hỏi vợ cho thằng Hai, chú mời mấy người cùng cơ quan. Ai cũng com-lê, cà-ra-vát. Chú bảo: Anh Hai hay đau bao tử, ở nhà nghỉ cho khỏe.

Ba ừ, im lặng vác cày ra đồng. Mồ hôi đổ đầy người.

Cũng những giọt mồ hôi ấy, xưa mặn nồng biết chừng nào, mà giờ, sao nghe chát cả bờ môi.

Cuộc sống không thiếu những người vong ân bội nghĩa. Họ có tiền. Họ có của nên quên bè bạn, quên anh em. Có khi còn phụ ân tình của cha mẹ, họ hàng. Họ là những người “ăn cháo đãi bát”. Cuộc đời của họ chỉ cần tiền. Họ không cần bạn bè, không cần người thân. Đối với họ tiền là “trên hết”.

Giữa cuộc sống hôm nay, ai cũng cần tiền. Không chỉ cần tiền để xài mà còn cần tiền, kiếm tiền để được giầu sang. Người ta đua nhau giầu có hơn người. Người ta tìm mọi cách để kiềm tiền hơn người. Xã hội hôm nay cũng đánh gía nhau dựa trên đồng tiền. Kẻ có tiền được trọng vọng, được xem là kẻ thành công, người quý phái. Kẻ không tiền bị rẻ rúng, xem thường. Kẻ có tiền luôn đúng. Người không tiền luôn thiệt thòi.

Người thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay là một người giầu có. Anh có tiền. Anh giầu sang. Anh được mọi người kính trọng. Thế nhưng, anh vẫn cảm thấy trống vắng. Anh vẫn khắc khoải một điều gì đó vượt lên đồng tiền. Đó chính là hạnh phúc. Đồng tiền anh chiếm hữu không mang lại hạnh phúc cho cuộc đời anh. Anh vẫn bất an và đi tìm hạnh phúc. Mặc dù anh đã sống đạo thật tốt. Anh tuân giữ mọi điều răn Chúa. Anh ăn ở ngay lành. Anh đã sống một cuộc đời chỉ mong hoàn thiện. Nhưng xem ra anh vẫn chưa toại nguyện về những gì mình đang có.

Chúa Giê-su hôm nay đã chỉ cho anh con đường đi tìm hạnh phúc. Con đường đó khởi đi từ sự trao ban. Khi trao ban ta tìm được hạnh phúc. Trao ban càng nhiều càng hạnh phúc nhiều. Kẻ chiếm hữu không có hạnh phúc. Vì luôn phải toan tính, luôn phải tranh giành. Kẻ trao ban mới có hạnh phúc. Hạnh phúc là khi nhìn thấy người mình thi ân được hạnh phúc, được ấm no. Tâm hồn người thanh niên chưa thanh thản vì anh vẫn còn cố giữ. Anh chưa dám trao ban. Anh chưa tìm được hạnh phúc đích thực qua sự trao ban.

Chúa Giê-su, Ngài đã sống một cuộc đời trao ban. Ngài trao ban cuộc đời như hạt lúa mục nát để sinh nhiều hoa trái. Ngài trao ban cuộc đời như tấm bánh được bẻ ra cho muôn người được hạnh phúc. Ngài trao ban cả mạng sống mình cho thế gian được sống và sống dồi dào. Ngài đã tìm niềm vui qua việc trao ban. Thế nên, Ngài đã tìm được hạnh phúc khi trở thành chiên gánh tội trần gian. Nhờ Ngài mà muôn người được nên một trong gia đình của Chúa, là con cái,  là anh em con một Cha Trên Trời.

Tiếc thay, người thanh niên đã không dám trao ban. Anh tiếp tục lặng lẽ đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc trong tầm tay. Nhưng bàn tay anh chỉ nắm lại mà không bao giờ mở ra. Thế nên, tấm lòng của anh cũng đóng lại trong cô đơn và hoang vắng.

Ước gì cuộc đời chúng ta hãy biết trao ban. Hãy tìm niềm vui trong đời sống phục vụ. Mỗi người chúng ta đều lớn lên trong sự chăm sóc phục vụ của cha mẹ, thầy cô, bè bạn thì cũng hãy cúi mình phục vụ cho nhau. Xin cho bàn tay chúng ta luôn mở ra để nắm lấy đồng loại và cùng dìu nhau qua những thăm trầm cuộc đời. Xin Chúa là Đấng đã phục vụ xin giúp chúng ta cũng biết phục vụ như Ngài. Amen

 

.

KHO BÁU ĐÍCH THỰC

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Câu chuyện người thanh niên giầu có trong Tin Mừng của thánh Marcô mà Phụng vụ Chúa nhật 28 thường niên, năm B trình bày hôm nay đã gây ấn tượng và để lại cho mọi người ở mọi thế kỷ những suy nghĩ, cảm nghiệm và trải nghiệm khôn lường. Thật vậy, trên thế giới mọi thời : giầu có, địa vị, danh vọng, của cải, tiền tài luôn luôn là những cám dỗ, thử thách và quyến rũ làm xiêu ngã nhiều người. Thường con người vẫn chạy theo những lợi nhuận, những phù phiếm chóng qua, nhưng nó lại là những việc thu hút con người, làm cho con người khó dứt bỏ những vinh hoa phú quí, mau tàn, chóng qua. Chúa Giêsu lại dạy người thanh niên  và cả nhân loại chúng ta muốn đạt được Nước Thiên Chúa, con người phải dứt bỏ những quyến rũ mau qua của trần gian và cậy trông, phó thác hoàn toàn vào Thiên Chúa…

Vâng, người thanh niên giầu có đến gặp Chúa Giêsu hôm nay là một con người đạo đức, đã cố gắng rất nhiều để sống tốt, giữ luật Thiên Chúa. Anh đã thưa với Đức Giêsu : “ Tất cả những giới răn của Chúa, con đã giữ từ thuở nhỏ “ ( Mc 10, 20 ).Tin mừng viết :” Chúa Giêsu chăm chú, yêu thương nhìn anh và đem lòng thương mến sự thiện chí, lòng đạo đức của anh “. Tuy nhiên, để khuyến khích anh bước thêm một bước trên đường nhân đức, Người đã nói với anh :” Hãy đem bán hết gia tài, của cải con có  , bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta “ ( Mc10,21 ). Người thanh niên giầu có trong Tin mừng của thánh Marcô đã không mau mắn như một Phanxicô Assisi, như một Têrêsa Calcutta, như một Đa Minh, Antôn Padua hay như một Anphongsô, mà anh đã sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh đã có quá nhiều của cải.

Người thanh niên giầu có ở đây, mặc dầu có lòng đạo đức thật, nhưng anh ham tiền, ham của cải phù phiếm chóng qua, anh đã không dám làm theo lời đề nghị của Chúa, thật đáng tiếc ! Trên thế giới đã có rất nhiều người dám làm theo lời đề nghị của Chúa, họ đã hy sinh, đã bán tất cả để đi phục vụ người nghèo, người bệnh tật trong các bệnh viện xa xôi, họ đã dám chống lại cả quyền lực những lời đe dọa của những kẻ có thể giết mình khi chống đối nạn kỳ thị chủng tộc, nạn buôn bán nô lệ, nạn lạm dụng tính dục, nô lệ tình dục vv…Đọc Kinh Thánh, chúng ta cũng thấy rất rõ một Mađalêna đã vì tin tưởng, vì tình yêu, sự tha thứ của Chúa, cô đã dứt bỏ tội lỗi để chỉ một lòng đáp trả tình yêu đối với Chúa, nên cô đã không sợ chết, luôn có mặt nơi nhạy cảm nhất mà Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh của mình đang phải đuyơng đầu : trên đường khổ giá, nơi chỗ Chúa chịu đóng đinh, nơi táng xác Chúa và rồi chính tình yêu, chính lòng quả cảm, sự trung thành tuyệt đối của cô, Chúa đã trao sứ mạng đầu tiên cho cô loan, báo Chúa sống lại.Thật là sự cương quyết của một con người xem ra liễu yếu đào tơ, nhưng thật lòng đi theo Chúa Giêsu. Thánh Phaolô quả đã không ngoa khi nói :” Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm “ ( Rm 7, 15 ).

Thánh Phaolô quả quyết tội lỗi không thể thắng được Chúa, nhưng chỉ có tình yêu, sự phó thác, tin tưởng tuyệt đối vào Chúa mới giúp con người chúng ta thoát ra khỏi những cám dỗ của satan, ma quỷ vv…Thánh Gioan những ngày cuối đời luôn nói về tình yêu: “Hãy yêu rồi muốn làm gì thì làm “, thánh Augustinô cũng nói :” Hãy yêu rồi làm những gì mình muốn “. Tình yêu sẽ thúc bách chúng ta không thể lám ngơ trước những đau khổ của anh em.Nói yêu mến Chúa mà làm ngơ trước nỗi khốn cùng của nhân loại, của tha nhân là điều không thể chấp nhận được…Chúa Giêsu khi đến thế gian, Người đã không tách rời với những gì đang thuộc thế gian ngoại trừ tội lỗi, nên Ngài đã tới với từng lớp người, đã yêu thương từng người, đặc biệt với những con người tội lỗi yếu hèn. Ngài đã từng bị Pharisêu lên án đồng bàn với những người tội lỗi, quân thu thuế vv…Chúa Giêsu không lên án những người giầu có nhưng có lòng quảng đại, chia sẻ nhưng Ngài chỉ kết án những người quá bám víu, coi tiền của là mục đích, là cứu cánh, không dám mở lòng ra đối với tha nhân, với công trình yêu thương của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con, xin ban sự can đảm, lòng quảng đại cho chúng con, để chúng con không khư khư giữ lấy, không biết chia sẻ đối với những người nghèo khó, và dám đi theo lời mời gọi của Chúa, đừng để chúng con buồn rầu, sụ nét mặt, bỏ đi trước sự mời gọi của Chúa. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Người thanh niên trong Tin Mừng của thánh Marcô trình bày thuộc hạng người nào ?

2.Anh chứng tỏ với Chúa thế nào ?

3.Chúa đề nghị gì với anh ?

4.Anh đã đáp trả thế nào trước lời mời gọi của Chúa ?

5.Còn chúng ta, chúng ta đã có thái độ thế nào trước lời mời gọi của Chúa Giêsu ?

 

.

BÁN ĐI VÀ THEO THẦY

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Con đường trọn lành Chúa Giêsu mời gọi sao lại là con đường khó đến vậy? Người thanh niên buồn rầu bỏ đi. Có lẽ đây cũng là một phần đời của chúng ta.

Giá trị của cải

Của cải làm ra do chính bàn tay của mình làm ra. Người thanh niên không trộm cắp, không tham ô của ai, không vi phạm các giới răn. Anh sống cuộc đời tử tế, của cải, vật chất, anh làm ra do công sức của mình, tại sao lại bán đi và điều mâu thuẫn nhất là chia cho người nghèo.

Trong một xã hội đầy nhiễu nhương, đồng tiền làm ra tự nó đã mất đi tính công bằng. Chia lại cho người nghèo là một đề nghị hợp lý, nhưng chia bằng cách nào, đó là cách mỗi người đáp lại tiếng Chúa mời gọi.

Người nghèo đa dạng

Người nghèo, có rất nhiều người nghèo và nhiều lãnh vực nghèo. Có ba dạng nghèo theo một nghiên cứu:

Nhóm thứ nhất: Người nghèo thật sự, là những người khuyết tật, người già, bệnh hiểm nghèo, đơn côi… Nhóm người này cần có nhiều hỗ trợ từ phía xã hội và các hoạt động bác ái của Giáo Hội. Theo đó, có những đóng góp của người thực hành điều răn Chúa dạy: “Mến Chúa, yêu người”. Ngày xưa các cụ đã dạy trong bản kinh:

Kinh Mười Bốn Mối

Thương người có mười bốn mối:

Thương xác bảy mối:

Thứ nhất: Cho kẻ đói ăn

Thứ hai: Cho kẻ khát uống

Thứ ba: Cho kẻ rách rưới ăn mặc

Thứ bốn: Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc.

Thứ năm: Cho khách đỗ nhà

Thứ sáu: Chuộc kẻ làm tôi

Thứ bảy: Chôn xác kẻ chết

Thương linh hồn bảy mối:

Thứ nhất: Lấy lời lành mà khuyên người

Thứ hai: Mở dậy kẻ mê muội

Thứ ba: Yên ủi kẻ âu lo

Thứ bốn: Răn bảo kẻ có tội

Thứ năm: Tha kẻ dể ta

Thứ sáu: Nhịn kẻ mất lòng ta

Thứ bảy: Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.

Nhóm thứ hai: Những người muốn vươn lên thật sự nhưng thiếu kỹ năng, phương tiện, vốn. Do xã hội còn nhiều bất cập, thiếu công bằng cơ hội cho mọi người thăng tiến. Những người này cần có sự hỗ trợ nhiều hơn từ những người thành đạt hảo tâm trong xã hội, những người có khả năng kiến thức để truyền đạt, tạo những cơ hội vươn lên cho họ trong cuộc sống. Những nhà cầm quyền cần tạo một xã hội an sinh, mọi người đều có quyền như nhau, công việc làm và học hành theo khả năng.  Như cách thường nói “cho cần câu chứ không cho con cá”. Muốn được như vậy cho mọi người, Chúa mời gọi những người có khả năng hoạt động trong mọi lãnh vực: chính trị, kinh tế, giáo dục, ý tế… đều hết lòng hết sức phục vụ thăng tiến con người toàn diện.

Nhóm thứ ba: Nhóm không muốn thoát nghèo, ỷ lại vào người khác, ăn bám xã hội, ngồi mát ăn bát vàng. Nhóm người này là nhóm người cản trở nhiều nhất trong việc thăng tiến con người và làm chùn tay những người có lòng tốt, bác ái. Một thực tế cho thấy, con người hảo tâm luôn bị lợi dụng, hoặc bị cho là thơ ngây. Bán hết của cải mà chia cho những nhóm người này thật là quá dại. Biêt đâu thực đâu hư, nên việc bác ái cho bi bằng tiền, bằng vật chất xem ra luôn có nhiều nguy cơ bị lợi dụng.

Lời Chúa mời gọi:

Bán đi và đem chia cho người nghèo, chắc chắn Chúa mời gọi một điều tích cực. “Không thể làm tôi Thiên Chúa và làm tôi tiền của được” (Lc 16, 13). Đó là lý do chính yếu Chúa mời gọi bán đi tất cả để theo Chúa. Hiểu được điều này, người Kitô hữu ý thức được giá trị của tiền của mình kiếm được. Nó để phục vụ sự sống con người chứ không phải con người làm tôi tớ cho tiền của.

Là chủ của của cải nên con người biết sử dụng chúng để làm gì, phục vụ cho điều gì chính đáng. Con người làm chủ tiền của là con người khôn ngoan, biết dùng nó để mua lấy nước trời, kiến tạo một xã hội cho nhiều người được sống, phẩm giá con người được tôn trọng, lợi ích của cộng đồng được nâng cao. Biết giữ gìn và phát triển môi trường thiên nhiên để sống dồi dào và phong phú.

Bán đi tất cả là một lời mời gọi dấn thân toàn vẹn cho việc “đi tìm kiếm sự công chính và nước trời trước đã” (Mt 6, 33). Con người sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ mọi mặt để thi hành điều ấy. Thế nên, việc theo Chúa là một việc hệ trọng hơn bất cứ gì có thể níu kéo. Hãy theo Chúa để chính Người thực hiện những điều kỳ diệu trong cuộc đời của chúng ta và chúng ta sẽ nghiệm thấy” “Chúa đã làm cho tôi những điều trọng đại” (Lc 1, 49)

 

.

LỜI MỜI GỌI THEO CHÚA

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Khởi đầu Chúa nhật này, đọc sách Khôn ngoan nói về lòng yêu mến quí trọng sự khôn ngoan. Tác giả nói lên tâm tình của mình, của người nghiệm thấy rằng Khôn ngoan quí trọng hơn mọi của cải, vàng bạc châu báu ở trần gian. Nếu sánh ví Khôn ngoan với những điều quí giá nhất ở trần gian thì không có gì có thể sánh được ngay cả như vương quốc hay ngai vàng, hay như những vàng bạc đắt giá như là kim cương. Tác giả còn so sánh Khôn ngoan quí giá hơn cả sức khoẻ và sắc đẹp cũng là những điều rất quí giá trong cuộc đời. Tất cả mọi điều quí giá này của trần gian không là gì so với Khôn ngoan, bởi vì ánh sáng của Khôn ngoan thì không bao giờ tắt và nhờ Khôn ngoan thì ông sẽ có tất cả.  Bài Tin mừng sau đó cũng đi theo chiều hướng này, nói đến sự chọn lựa khó khăn đặt ra cho một người giàu có. Ông đến để hỏi Chúa Giêsu phương thế để có thể đạt đến sự sống đời đời : “Thưa thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Câu hỏi cho thấy người đàn ông này là người khôn ngoan, biết đi tìm kiếm sự chỉ dạy khôn ngoan để đạt đến sự sống đời đời. Trả lời câu hỏi của ông, Chúa Giêsu đã giới thiệu cho ông các giới răn phải thi hành. Bản văn Tin mừng đã liệt kê phần lớn những điều cấm cốt yếu của mười điều răn và giới răn yêu kính cha mẹ. Người này đã có can đảm để thưa rằng ông đã thực hành các giới răn này từ thuở nhỏ. Chúng ta đang gặp một người đạo đức mẫu mực trong xã hội do thái đương thời, một người đã biết chu toàn các giới răn và mệnh lệnh Thiên Chúa với một lương tâm ngay thẳng. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn ông với lòng trìu mến, người đã mời gọi ông cách thân mật: “Ngươi chỉ còn thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi hãy đến và theo Ta”. Phải nhìn nhận lời mời gọi của Chúa Giêsu hơi bất ngờ đối với ông. Thế nhưng, suy cho cùng lời mời gọi của người rất triệt để và thiết thực, đặt ông đối diện với chính bản thân mình mà dường như ông không dám nhìn thẳng. Người này chỉ còn thiếu một điều cần thiết thôi, ông đã có tất cả những điều khác để nên hoàn thiện rồi, ông chỉ còn bán đi của cải để theo Chúa Giêsu để đảm nhận những  công việc khác quan trọng hơn mà người muốn dành cho ông, và để chiếm hữu đượcsự sống đời đời.

Trước câu hỏi của người đàn ông này, Chúa Giêsu đã trả lời bằng cách nhắc lại con đường bình thường và đầy đủ để đạt tới sự sống đời đời là thực hành các giới răn theo như vẫn được nhắc nhở trong do thái giáo. Và người đàn ông này chắn hẳn vốn quen thuộc với việc thực hành những giới răn và mệnh lệnh như đã được nhắc nhở qua Lề luật Sách Thánh. Ông tỏ ra là một người ngay thẳng, biết chú tâm lắng nghe lời Chúa và điều này khiến Chúa Giêsu rất có thiện cảm với ông và cất lời mời gọi ông. Lời mời gọi này của Chúa Giêsu dành cho ông thường được giải thích là lời mời riêng cho cá nhân của ông, được kêu gọi cách đặc biệt. Người mời gọi ông bán mọi sự, cho người nghèo và đến theo người, như ở khởi đầu Tin mừng Marcô, Chúa kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên. Đây là lời mời gọi dành riêng cho những con người có ơn gọi đặc biệt theo Chúa, không dành cho mọi người. Người mời gọi ông can đảm từ bỏ những của cải ông đang có để theo người. Đây cũng chính là cách sống của chính Chúa Giêsu đã chọn lựa làm người rao giảng lữ hành Nước Thiên Chúa qua các thành thị và làng mạc, không định cư một nơi nào cố định với đầy đủ mọi tiện nghi cho cuộc sống. Người đàn ông đầy nhiệt tình này đã không thể theo Chúa, ông không thể đáp ứng được lời mời gọi bán đi mọi của cải, phân phát cho người nghèo để theo Chúa Giêsu. Câu chuyện tiếp nối của Tin mừng sau đó giữa Chúa Giêsu và các môn đệ cho chúng ta biết bởi vì ông là người giàu có. Điều này đã khiến Chúa Giêsu phải thốt lên sự giàu có là trở ngại làm cho người ta không có đủ can đảm để theo người trọn vẹn: “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”.

Người đàn ông này đã hụt mất ơn gọi cao cả dành cho mình. Thật đáng tiếc. Nhưng phải chăng câu chuyện này chỉ để chúng ta tiếc nuối cho một ơn gọi mất đi cách oan uổng hay còn là một bài học cho mọi người. Đàng sau bóng dáng của người do thái đạo đức này, đã biết sống trung thành ngay thẳng lề luật Môisen, thấy phác họa lên hình ảnh của những người môn đệ mới, biết theo lời mời gọi của Đấng Cứu thế, một nhà lập luật mới. Chúa Giêsu chính là Đấng mời gọi mọi người, đưa ra một lời mời gọi khẩn thiết hơn và cao trọng hơn. Những người môn đệ của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc chu toàn lề luật mà còn phải tiến thêm một bước quyết định là hãy theo Người, và lời mời gọi theo người thì cũng bao hàm những điều kiện của việc theo người là biết từ bỏ chính những gì thiết thân với mình nhất như là của cải, hay cả như là những người thân yêu ruột thịt như cha mẹ, vợ con, anh em. Điểm nhấn của lời mời gọi quyết định này không chỉ là việc bán của cải mà là chính là việc bỏ mọi sự mà theo Người, gắn bó với Người. Người đàn ông trong câu chuyện này đã bỏ đi, khiến cho mọi dự kiến bổng chốc tan vỡ, khiến cho Chúa Giêsu cũng đau buồn, và người đàn ông cũng buồn bã bỏ đi. Ông không thể từ bỏ của cải mình, hay ông đành bỏ qua lời mời gọi của Chúa Giêsu để giữ lấy của cải của mình, bởi vì khi có của cải, tâm hồn con người bị chia sẻ, không thể hoàn toàn theo Chúa được, bởi vì còn muốn giữ lại của cải cho mình. Đây chính là sự giằng co diễn ra nơi nội tâm con người: vừa muốn theo Chúa lại vừa muốn bám víu vào của cải, ngay cả để cho của cải chi phối và hướng dẫn đời sống mình. Như thế, phải chăng theo Chúa Giêsu đòi hỏi  từ bỏ mọi sự, ngay cả những của cải thiết thân với chính mình. Thư Do thái nhắc nhở chúng ta là lời Chúa linh nghiệm và sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tủy não, tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn. Phải chăng lời mời gọi của Chúa Giêsu cũng đặt mỗi người chúng ta đối diện cách thẳng thắn với chính mình. Chúng ta có can đảm theo Chúa không?

 

.

LẤY CỦA CẢI TẠM THỜI ĐỔI LẤY KHO TÀNG BỀN VỮNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là người nhìn xa thấy rộng. Tuy có đầy đủ tiền bạc của cải nhưng tâm hồn anh luôn khắc khoải vì có một khao khát chưa được lấp đầy: khao khát được sống đời đời. Vì thế anh tìm đến với Chúa Giê-su mà anh xem như một bậc Tôn Sư lỗi lạc, “quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”

Chúa Giê-su dạy anh phải giữ các giới răn. Anh đáp: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã giữ từ thuở nhỏ.”

“Bấy giờ Đức Giê-su nhìn anh và đem lòng yêu mến, Ngài bảo: “Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau  đó, hãy đến theo tôi.”

Qua lời dạy nầy, Chúa Giê-su đề nghị anh đánh đổi của cải phù du đời nầy để chiếm hữu kho tàng vô giá đời sau, nhưng khi “nghe lời đó, anh sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải” (Mc 10, 17-30).

Lời đề nghị với người thanh niên giàu có năm xưa lại được Chúa Giê-su gửi đến mỗi người chúng ta hôm nay. Chúa Giê-su mời gọi chúng ta phải khôn ngoan đem những của cải tạm bợ đời nầy đổi lấy kho tàng vững bền trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là hãy “bỏ con tép bắt con cá”,  mà cá đây lại là cá voi, vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.

Phần thu lớn lao nầy đã được Chúa Giê-su xác nhận với thánh Phê-rô và các tông đồ: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời” (Mc10, 29-30).

Đổi tiền giấy lấy vàng

Vào khoảng năm 1975-80, kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng trầm trọng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá. Vì thế, không ai dại dột giữ tiền trong tủ. Khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả lượng vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế mới an lòng chắc dạ.

Đổi vàng và của cải để lấy công phúc

Những người khôn lúc đó đều có một chọn lựa sáng suốt là đổi tiền giấy lấy vàng. Thế nhưng vàng cũng không còn giá trị đối với người đã nhắm mắt xuôi tay, chẳng còn ích chi cho người đã lìa cõi thế. Do đó, một chọn lựa cũng rất sáng suốt cho chúng ta hôm nay là phải đổi tiền, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ “quý kim” muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.

Mai đây, cái chết sẽ thình lình chụp xuống. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người tay trắng, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!

Xét về một vài khía cạnh nào đó, mỗi người chúng ta đều là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng giàu thời giờ, giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ…

Thời giờ ta đang có sẽ trôi qua nhanh chóng như nước chảy qua cầu, hết phút nầy đến phút khác; Sức khỏe ta đang hưởng hôm nay cũng sẽ hao mòn theo năm tháng;

Của cải tiền bạc rồi cũng sẽ không cánh mà bay;

Khả năng làm việc cũng suy giảm dần dần…

Thế thì, tại sao ta không nhanh chóng đem những thứ “của cải tạm bợ” nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hao vơi trước khi chúng kịp bốc hơi?

Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải phù du thành công đức bền vững cho mai sau.

Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ… để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội và phục vụ mọi người. Đó là những cách biến gia sản chóng qua đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.

 

.

NGƯỜI CÔNG CHÍNH TÂN ƯỚC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Anh Giuse Cao Hữu Minh Trí, một dự thính viên trẻ người Việt Nam, 21 tuổi, đã phát biểu trong một cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, nơi Bộ Trưởng Bộ Truyền Thông của Tòa Thánh, Ông Paolo Ruffini, họp báo lúc 1 giờ 30 trưa ngày 14 tháng Mười để tường trình với các nhà báo về các đề tài của buổi họp sáng nay tại Thượng Hội Đồng về Người Trẻ, Đức Tin và Biện Phân Ơn Gọi.

Khi được hỏi: “Đâu là đam mê của bạn?”. Anh Trí trả lời: “Niềm say mê mang lại ý nghĩa là niềm say mê Thiên Chúa”. “Chính đam mê đối với Chúa” mới làm mọi người no thỏa. (x.Zenit 4.10).

Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của mà vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thưở nhỏ “phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Người trẻ khát khao tìm suối nguồn hạnh phúc.

Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt lành có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?”. Anh đáp dứt khoát và mau lẹ : “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.

Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa “Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương“. Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi“ ( Mc 10, 21 ). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.

Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” ( Mc 10, 22 ). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.

Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ ?

Chàng trai trẻ tiếc của nên bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa “nhìn chung quanh” và nói : “Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao“. Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.

Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với vật chất. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.

Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quảng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.

Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.

Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công Chính Cựu Ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước : bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người Công Chính Tân Ước.

Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.

Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.

Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26).Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó : “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu : “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại : “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16, 23-25).

Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.

Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến…Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.

Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng… đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Thánh Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.

Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”;  “Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng…của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn”. (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang, còn người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Ðức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.

 

.

BÁN ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Mua – Bán là hoạt động trao đổi vật chất theo thỏa thuận, ngày xưa trao cái này để lấy cái kia, ngày nay văn minh hơn, người ta dùng tiền để mua cái mình muốn.

Cuộc sống trần thế “dính” nhiều tới vật chất, không dễ gì “dứt” ra được. Đó là lẽ tất nhiên, vấn đề quan trọng là đừng bám víu vào nó, đừng coi nó là chủ nhân, mà hãy coi nó là đầy tớ. Nó là phương tiện chứ không là cứu cánh. Như người Pháp nói: “L’argent est un bon serviteur et un mauvais maître” (tiền là đầy tớ tốt và là chủ nhân xấu). Còn người Latin có cách nói lạ: “Pecunia non olet” (tiền bạc không hôi thối). “Không hôi thối” cũng có thể là “thơm tho”, thảo nào người ta mê như điếu đổ!

Chuyện tiền bạc rất nhiêu khê. Chỉ vì nó mà mất cả tình nghĩa, dù là máu mủ ruột rà. Nó chỉ là những mảnh giấy vô hồn, giá trị của nó tùy con số người ta quy ước. Vậy mà nó có ma lực khó có thể cưỡng lại, đơn giản như buôn bán ma túy, biết là nguy hiểm dủ thứ nhưng người ta vẫn như con thiêu thân, lý do là lợi nhuận cao và dễ làm giàu. Lại liên quan chuyện giàu – nghèo!

Ai cũng có tài sản, dù ít hay nhiều. Nhưng con người còn có loại tài sản đặc biệt mà ai cũng rất giàu, đó là “cái tôi” – từ cái Tôi sinh ra Tồi (tệ), Tối (tăm), Tội (lỗi). Chỉ khác cái dấu mà nghiêng ngả cuộc đời! Theo nghĩa cơ bản nhất, tư sản là tài sản riêng, gia sản là tài sản của gia đình. Khi nói đến gia sản, người ta thường liên tưởng ngay tới vật chất – cụ thể là tiền bạc. Gia sản rất quan trọng đối với mỗi gia đình, cũng gọi là sản nghiệp. Đó cũng là tất nhiên thôi. Nhưng có một loại sản nghiệp quan trọng hơn: Thiên Chúa. Phần sản nghiệp này vô cùng quan trọng: “Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng” (Tv 16:5a) – chúng ta quen cách nói này: Chúa là gia nghiệp đời con. Thật vậy, ngày xưa Thiên Chúa đã nói với ông A-ha-ron: “Đất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và CHÍNH TA LÀ GIA NGHIỆP CỦA NGƯƠI giữa con cái Ít-ra-en” (Ds 18:20). Thiên Chúa luôn đại lượng và hào phóng đối với con người – dù đó là ai.

Sản nghiệp, gia sản hoặc gia nghiệp là thứ cần thiết cho cuộc sống đời thường, thế nhưng Chúa Giêsu đã có lần nhắc nhở: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6:19-20). Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Kho tàng ở đâu thì lòng ở đó” (Mt 6:21). Rất thực tế. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Quả thật, vật chất có sức mạnh khó cưỡng lại, sức mạnh đó được gọi đó là “ma lực”. Cũng liên quan chuyện đời – chuyện đạo, Chúa Giêsu cũng đã xác định: “Mác-ta! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10:41-42).

Cũng vì vậy mà luôn phải rạch ròi, chuyện nào ra chuyện nấy, đừng lẫn lọn. “Cẩn tắc vô ưu” là thế. Muốn vậy cũng chẳng dễ, bởi vì phải cậy nhờ Đức Khôn Ngoan, mà Đức Khôn Ngoan liên quan Chúa Thánh Thần, bởi vì ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Ngôi Ba. Thế thì thật tuyệt!

  1. TÌM KHÔN NGOAN

Khôn ngoan là nhân đức cần thiết, là ngọc quý, và được Kinh Thánh đề cập nhiều. Đây là một số câu điển hình: “Đường khôn ngoan là đường thú vị, nẻo khôn ngoan là nẻo bình an” (Cn 3:17), “Gây tội ác là trò tiêu khiển của người ngu, còn khôn ngoan là thú vui cho người hiểu biết” (Cn 10:23), “Sự khôn ngoan làm cho người khôn được sống” (Gv 7:12), “Lẽ trí khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15), “Đức Khôn Ngoan là kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy” (Kn 7:14), “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai ai cũng khao khát thì còn có gì giàu sang hơn Đức Khôn Ngoan, vì Đức Khôn Ngoan làm nên tất cả?” (Kn 8:5).

Và chính tác giả sách Khôn Ngoan cho biết: “Tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và THẦN KHÍ ĐỨC KHÔN NGOAN đã đến với tôi. Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:7-9). Tác giả so sánh để chúng ta thấu hiểu Đức Khôn Ngoan rất quan trọng, hơn cả mọi thứ trên trần gian này. Quả thật, “tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1:2).

Một cách xác định, tác giả sách Khôn Ngoan phân tích thêm với chiều sâu hơn: “Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể” (Kn 7:10-11). Thật là ngạc nhiên về cái “khoảng” trong mối tương quan rất lạ giữa có-mà-không và không-mà-có, một dạng nghịch-lý-thuận.

Thánh Vịnh gia khôn ngoan cầu nguyện: “Xin dạy chúng con ĐẾM THÁNG NGÀY MÌNH SỐNG, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12), và tiếp tục thân thưa: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây” (Tv 90:13). Tất cả là hồng ân Chúa ban, dù chúng ta có được KHÔN NGOAN tới mức nào hoặc TÀI NĂNG XUẤT CHÚNG mà KHÔNG được Thiên Chúa thương xót thì cũng VÔ ÍCH. Quả thật, Lòng Chúa Thương Xót luôn cần thiết cho bất kỳ ai, và Lòng Chúa Thương Xót ấy đã có từ thuở hồng hoang, vẫn trải từ đời nọ đến đời kia (x. Lc 1:46-55).

Thiết tưởng cũng nên xem lại cách cầu nguyện, dễ mà khó. Cầu nguyện không chỉ để xin những ơn này ơn nọ, mà còn phải biết chúc tụng Chúa, tạ ơn Chúa. Thánh Vịnh gia tiếp tục khôn ngoan khi thành tâm cầu nguyện: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ, bù lại những tháng năm Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu” (Tv 90:14-15). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết ước nguyện như Thánh Vịnh gia đã mong muốn: “Ước gì chúng con là tôi tớ Chúa được thấy công trình Ngài thực hiện, và con cháu chúng con được thấy vinh hiển Ngài. Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:16-17).

Tín thác vào Chúa quan phòng, chắc chắn chúng ta sẽ được ơn khôn ngoan đích thực.

  1. SỐNG KHÔN NGOAN

Người Việt nói: “Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương chỉ tổ cho người ta ghét”. Thiên Chúa cũng chẳng ưa gì loại người “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi”, thế nên Ngài nói thẳng: “Vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:16). Thánh Vịnh gia xác định: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan” (Tv 111:10). Chắc chắn như vậy. Và đó là sống khôn ngoan. Thánh Phaolô xác định: “Lời Thiên Chúa là lời SỐNG ĐỘNG, HỮU HIỆU và SẮC BÉN hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12).

Thật vậy, Lời Chúa có lúc làm chúng ta VUI MỪNG và PHẤN KHỞI, nhưng có lúc Lời Chúa lại khiến chúng ta HỔ THẸN và NHỨC BUỐT. Lời Chúa là tấm gương phản chiếu mọi thứ và là đèn soi thấu mọi nơi khuất tịch nhất tận đáy lòng của con người. Thánh Phaolô giải thích rõ: “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13). Thế nên rất cần bí quyết sống khôn ngoan. Ai “sống khôn” thì cũng “chết thiêng”. Các thánh đã sống khôn nên các ngài “thiêng” lắm!

Trong cuộc sống đời thường, vì là phàm nhân nên chúng ta có rất nhiều sai sót và thiếu sót, ngay cả người công chính cũng lầm lỗi mỗi ngày bảy lần (x. Cn 24:16), vì thế chúng ta có rất nhiều điều phải “trả lẽ” trước mặt Chúa, thậm chí có thể phải trả lẽ với Chúa về chính những gì mà chúng ta cho là “việc đạo đức” hoặc “việc tông đồ”, vì có thể chỉ là “cái vỏ bề ngoài”! Chúng ta có thể che giấu với người đời, nhưng không thể giấu được với Thiên Chúa, bởi vì Ngài “ghi hình” và “ghi âm” chính xác từng chi tiết nhỏ của mỗi động thái nơi chúng ta, dù chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Do đó, chúng ta càng cần phải khôn ngoan mà sống! Tội lỗi từ sau ra trước, từ trong ra ngoài: tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót. Nhưng đáng quan ngại và đáng sợ nhất là “tội trong tư tưởng”, vì không ai biết, còn mấy thứ kia ít ra cũng còn sợ người ta nhìn thấy.

Sống khôn thì được sống đời đời. Thánh sử Mác-cô kể rằng, hôm đó, Đức Giêsu vừa lên đường thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10:17). Chàng thanh niên này thật là khôn ngoan. Thấy lạ, Đức Giêsu hỏi lại: “Sao anh nói tôi là nhân lành?” (Mc 10:18a). Rồi Ngài nói tiếp: “KHÔNG có ai nhân lành cả, TRỪ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18b). Và Ngài giải thích: “Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” (Mc 10:18b-19). Anh ta nói rất tự tin: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ” (Mc 10:20). Hay quá! Tốt quá! Tuyệt quá! Thế nên Đức Giêsu “đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến” (Mc 10:21a). Rồi Ngài bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi BÁN những gì anh có mà CHO người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10:21b). Bán tài sản không phải để tích lũy mà để “cho người nghèo”.

Ôi chao, mệt với Chúa quá! Khó quá! Căng quá! Mà “căng” thật, vì vừa nghe lời đó, “anh ta SA SẦM NÉT MẶT và BUỒN RẦU BỎ ĐI, vì anh ta CÓ NHIỀU CỦA CẢI” (Mc 10:22). Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10:23). Nghe Ngài nói thế, các môn đệ sững sờ và ngây ngô “như chú Tàu nghe kèn”. Nhưng Ngài lại nói tiếp: “Các anh ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10:23-24). Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và xầm xì với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10:26). Đúng là khó thật chứ chẳng đùa đâu!

Thế nhưng chúng ta đừng vội trách chàng thanh niên “đại gia” kia. Tài sản của gia đình thì đã rõ. Tài sản của cá nhân cũng không khó hiểu. Nhưng có thể chúng ta “quên” loại tài sản “quan trọng” hơn, đó là “cái tôi”. Rất có thể chúng ta nghèo vật chất nhưng “tài sản riêng” của chúng ta vẫn có thể thuộc loại “nứt đố, đổ vách”, vẫn “giàu sụ”, vẫn thuộc hàng “đại gia”. Đó là tính kiêu ngạo, lòng ghen ghét, sự thù hận, tính ích kỷ, thói gièm pha, thói xu nịnh, sự nhẫn tâm, sự vô tình, tính nhỏ mọn, lòng tự ái, óc bè phái, tính tham lam, thói lọc lừa, áp bức, lộng hành, cậy quyền, ỷ thế,… Và còn rất nhiều thứ khác nữa. Đó là loại “tài sản vô giá” mà chúng ta không muốn bỏ để có thể thanh thản bước theo Chúa. Gay quá! Nhưng muốn theo Chúa thì phải triệt hạ “cái tôi” – nghĩa là bán cả cuộc đời mình.

Lúc đó, Chúa Giêsu biết rõ các đệ tử đang xì xầm với nhau điều gì nên Ngài nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa MỌI SỰ ĐỀU CÓ THỂ ĐƯỢC” (Mc 10:27). Rồi ông Phêrô lên tiếng thưa: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (Mc 10:28). Câu đó không là một câu hỏi nhưng lại mang ý nghĩa một câu hỏi.

Ông trưởng nhóm đã “đặt vấn đề” rất thực tế với Sư Phụ. Và chắc hẳn chúng ta cũng có nhưng lúc đã từng như vậy! Nghe Phêrô hỏi, Chúa Giêsu nói ngay: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10:29-30). Chúa chẳng để ai bị lỗ vốn đâu!

Cái “được” cũng nhiều đấy, nhưng đừng quên điều kiện kèm theo là “cùng với sự ngược đãi” (câu này dễ bị làm ngơ hoặc bỏ quên lắm). Vấn đề là ở chỗ đó. Chỉ chú ý vế 1 mà “quên” vế 2 là sai lầm to. Phàm điều gì cũng có “điều kiện tự nhiên” kèm theo như điều kiện “ắt có và đủ” vậy: Có đau khổ mới hiểu được giá trị của hạnh phúc, có nước mắt mới quý trọng tiếng cười, có thất bại mới vui sướng khi thành công. Và nhiều điều khác tương tự.

Lạy Thiên toàn năng và nhân hậu, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan, xin giúp chúng con can đảm bán cuộc đời để có thể thanh thản vui sống và theo Ngài, bởi vì chỉ có Ngài mới là cùng đích và là gia nghiệp vĩnh cửu. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.

 

.

SUY NIỆM CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_B

Lm Giuse Đinh Tất Quý

Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe là một trong những bài gây nhiều ấn tượng nhất trong Tân Ước. Vì thời giờ có hạn cho nên tôi chỉ xin được gợi lên một vài hình ảnh để chúng ta cùng suy nghĩ. Với bài Tin Mừng hôm nay thánh Marcô ghi lại cho chúng ta 3 cái nhìn của Chúa Giêsu. Ba cái nhìn nói lên ba thái độ của Ngài.

  1. Cái Nhìn Thứ Nhất Là Cái Nhìn Đầy Yêu Thương

Chúa dành cái nhìn này cho người người thanh niên đến với Chúa. Nhưng anh ta là một con người như thế nào?- Là một con người có địa vị – có thế lực – và nhất là anh ta có nhiều của cải tiền bạc.

Một con người như thế đối với nhiều người thì có lẽ đã là quá đủ. Nhưng đối với người thanh niên này thì chưa đủ. Anh ta còn muốn một cái gì hơn thế nữa. Chính vì thế mà anh ta mới tìm đến với Chúa.

Đến với Chúa anh ta tỏ ra một thái độ rất khiêm nhường. Tin Mừng ghi rõ: anh “quì” xuống trước mặt Chúa. Cách anh xưng hô cũng nói lên điều đó: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời”.

Chúa nhẹ nhàng kéo anh về với quá khứ, một quá khứ có lẽ chính Chúa cũng đã thấy là tốt đẹp rồi. Chúng ta thấy ở đây Chúa không đả động gì đến bổn phận của con người đối với Chúa. Chúa chỉ đề cập đến những gì mà giới răn Chúa đòi buộc trong mối tương quan giữa những con người với nhau.

Phải nhận rằng trong mối tương quan giữa người với người thì người thanh niên này đã sống thật tốt: “Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở bé”.

Tin Mừng ghi: Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng yêu thương.

Vâng! Chúa chăm chú nhìn người ấy và đem lòng yêu thương. Một thái độ hết sức tốt đẹp.

  1. Cái Nhìn Thứ Hai Là Cái Nhìn Cảnh Giác.

Sau khi người thanh niên giầu có bỏ đi, Chúa Giêsu nhìn chung quanh và nói với các môn đệ: “Người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao” và để tăng thêm sức mạnh cho ý nghĩa những lời vừa nói, Chúa nói thêm: “Thầy bảo thật các con, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”.

Chúng ta không có mặt lúc Chúa nói những lời như thế này. Chúng ta không thấy hết được sự ngỡ ngàng đến phát sợ của các môn đệ. Đây là những lời cảnh cáo hết sức nghiêm trọng Chúa đưa ra để dạy dỗ những môn đệ của Người. Câu truyện vừa mới xảy ra là một bằng chứng rất cụ thể về sự nguy hiểm của cuộc sống khi mà người ta đặt tiền bạc lên trên tất cả… cả sự sống đời đời.

Chúng ta hãy nhớ lại những lời Chúa kêu gọi người thanh niên: “Anh chỉ còn thiếu có một điều. Hãy về bán tất cả những gì anh có, phân phát cho người nghèo khó…anh sẽ có một kho báu ở trên trời… rồi đến mà theo ta.”

Anh đã không chấp nhận điều kiện cho nên anh đã không đạt tới mục đích. Cơ hội để trở thành môn đệ của Chúa đã ở ngay tầm tay nhưng anh đã để cho nó vuột mất. Lý do rất rõ rệt là bởi vì anh có nhiều của cải quá.

Của cải đáng lý ra phải là một trợ lực để giúp con người thăng tiến thì ngược lại nó lại trở thành một trở lực cản bước tiến của con người. Đó là mối nguy hiểm mà Chúa muốn cảnh giác các môn đệ của Ngài. Người ta dễ biến tiền bạc thành mục đích hơn là biết dùng nó như một phương tiện. Hoàn cảnh ngày xưa đã là như thế… ngày nay sự thế lại càng đúng hơn.

  1. Cuối Cùng Là Cái Nhìn Có Tính Cách Quyết Đáp

Sau khi Chúa mạnh mẽ cảnh giác về mối nguy cơ do tiền bạc đem lại và cũng như những khó khăn trên con đường vào nước trời thì các môn đệ xem như không còn kiên nhẫn thêm được nữa. Họ đã phản ứng và phản ứng của họ thật rõ rệt: “Như vậy thì ai sẽ được cứu độ”. Tin Mừng ghi tiếp: Chúa Giêsu nhìn thẳngmột cái nhìn hướng thẳng vào những đối tượng được chọn lựa. Chúa nhìn thẳng vào các mộn đệ, một cái nhìn trực diện vào những đối tượng Chúa muốn dạy cho một bài học nhưng đây cũng là một cái nhìn hoàn toàn thông cảm trước lòng tin tưởng còn yếu kém của các ông và rồi Chúa nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa”. Qua lời những lời đó chẳng cần nói chúng ta cũng thừa biết Chúa muốn nói đến điều gì rồi: vấn đề ơn thánh… ơn của Chúa.

Lời quả quyết của Chúa hẳn phải làm cho các môn đệ và cả chúng ta phải suy nghĩ. Làm gì có truyện con lạc đà to lớn cồng kềnh lại có thể chui qua lỗ kim. Vậy thì việc một con người vào nước Thiên Chúa cũng tương tự như thế. Tự sức của con người thì họ chẳng có thể làm được việc gì… nhất nữa việc đó lại là việc có liên quan đến vận mạng đời đời của con người. Như vậy vấn đề còn lại là ơn của Chúa và việc con người có biết hợp tác với ơn Chúa hay không.

Người thanh niên giầu có đến với Chúa để xin Ngài chỉ cho anh một con đường để anh có thể có được sự sống đời đời. Chúa đã mở ra cho anh ta một con đường thế nhưng anh đã từ chối.  Anh đã làm mất đi một cơ hội để anh có thể trở thành những con người được lưu danh muôn thuở.

Ngược lại với người thanh niên này là thái độ quảng đại của các tông đồ. Sau khi người thanh niên bỏ đi Phêrô đại diện cho anh em thưa với Chúa: “Lạy Thầy chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”.

Thực ra cái mà Phêrô gọi là “mọi sự” đối với Chúa cũng chẳng là bao thế nhưng ở đây chúng ta thấy Chúa đã tỏ ra thật quảng đại. Charles Erdman khi chú giải về đoạn Tin Mừng này đã đưa ra một lời nhận định rất hay như sau: “Chính sự thỏa mãn tràn ứ trong tâm hồn của những người theo Chúa đã là phần thưởng gấp trăm gấp ngàn lần những cái mà họ từ bỏ” và sau đó Chúa còn hứa một phần thưởng rất to lớn hơn gấp bội lần những phần thưởng ở đời này đó là sự sống đời đời… điều mà mọi người ở mọi thời đều mong ước.

Để kết thúc tôi xin được kể một câu truyện vui. Một linh mục nọ qua đời và được đưa đến trước mặt thánh Phê-rô để được Ngài thẩm vấn:

– Ở dưới thế cha làm được điều gì nào?

– Dạ thưa Thánh cả, con xây được một ngôi thánh đường rộng lớn.

Thánh nhân lấy bút cho một điểm rồi Ngài hỏi tiếp:

– Cha còn làm được gì nữa?

– Dạ con còn xây được một ngôi trường cho 1.000 học sinh.

Thánh Phê-rô cho thêm được một điểm nữa.

– Và còn gì nữa?

Linh mục bắt đầu suy nghĩ rồi trả lời:

– Dạ con làm rất nhiều công tác xã hội và từ thiện.

Ngài nhìn rồi cho thêm một điểm.

– Còn gì nữa? Ngài hỏi tiếp.

– Dạ thưa Thánh cả… bao nhiêu điểm thì được vào Thiên đàng?

Thánh nhân vui vẻ trả lời : 1000 điểm.

Nghe nói thế linh mục cảm thấy chột dạ… tự nghĩ trong lòng: Không biết làm sao cho đủ được 1000 điểm bây giờ… Rồi linh mục bắt đầu cảm thấy lo lắng không còn tự tin như trước nữa. Đang lúc đó thì Thánh Phê-rô lại muốn được biết kết quả ngay. Ngài hối:

– Cha còn làm được điều gì nữa… cứ kể hết đi! Với một giọng đầy lòng khiêm tốn + một chút lo sợ, linh mục thưa:

– Thưa thánh cả, NHỜ ƠN CHÚA con còn làm thêm được ít việc nho nhỏ nữa.

Vừa nghe xong thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: 1000 điểm. Rồi Ngài vui vẻ nói với linh mục: “Thế là cha đã được 1003 điểm. Cha dư điểm vào Thiên đàng rồi đấy… mời cha vào.”

Vâng tất cả là nhờ ơn của Chúa. Amen.

 

.

CÁCH KIẾM TIỀN VÀ CÁCH SỬ DỤNG TIỀN

Lm. Anthony Trung Thành

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chủ yếu xoay quanh vấn đề tiền bạc. Bài đọc I, tác giả cho chúng ta biết Đức Khôn Ngoan giá trị hơn sự giàu sang: “Ðem so sánh sự giàu sang với sự Khôn Ngoan, tôi kể sự giàu sang như không”.

Bài Tin mừng, Chúa Giêsu mời gọi chàng thanh niên giàu có: đổi sự giàu sang để lấy nước trời: “Bán hết của cải bố thí cho người nghèo sẽ có sự sống đời đời”. Nhưng chàng thanh niên không chấp nhận lời đề nghị của Chúa Giêsu. Anh buồn rầu bỏ đi. Vì vậy, Chúa Giêsu khuyến cáo rằng: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”(Mc 10, 23). Từ nội dung của hai bài đọc trên, xin được gợi ý suy niệm ba điểm sau đây:

Đồng tiền có hai mặt:

Tiền bạc là phương tiện thanh toán và tích luỹ trong giao dịch giữa con người với nhau. Nó luôn có hai mặt: mặt phải, mặt trái.

Mặt phải của đồng tiền: Chúng ta thường nghe nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Quả thật, tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tiền bạc để sinh sồng, học hành, mua sắm, chữa bệnh, giúp đỡ tha nhân, xây dựng Giáo hội và xã hội… Trên thế giới có khoảng 25.000 người chết đói mỗi ngày, 2,2 tỷ người nghèo và cận nghèo, 1,2 tỷ người đang sống với mức 1,25 đô-la mỗi ngày, thậm chí còn thấp hơn. Rất nhiều người đang ở bên bờ vực thẳm của sự nghèo đói. Rất nhiều người ước mơ có một cuộc sống bình thường: đủ ăn, đủ mặc mà không được. Vì vậy, không ai phủ nhận sự cần thiết của đồng tiền. Cần tiền bạc để giúp mình và giúp người. Những người ở trong hoàn cảnh thiếu thốn mới thấy quý trọng đồng tiền.

Mặt trái của đồng tiền: Biết sử dụng, tiền bạc trở thành phương tiện giúp mình, giúp người. Ngược lại, tiền bạc sẽ trở thành ông chủ khó tính, làm thay đổi luân thường đạo lý, thay đổi các bậc thang giá trị trong xã hội. Tác giả Quốc Nghệ đã ghi lại bài thơ sau đây, diễn tả phần nào những mặt trái của đồng tiền:

“Độc ác chi mi lắm rứa tiền,

Mi làm nhân loại hóa ra điên,

Mi tô mặt nạ đen thành trắng,

Mi khiến nhân tình thẳng hóa xiên,

Mi đạp luân thường vô một xó,

Mi xua nhân nghĩa dẹp đôi bên

Mi lùa thế giới đâm nhau mãi,

Ác nghiệt chi mi lắm rứa tiền”.

Quốc-Nghệ

Cách kiếm tiền:

Trong 33 năm sống trên trần gian này, Chúa Giêsu đã từng tìm kiếm tiền bạc. Ngài đã làm nghề thợ mộc để có điều kiện giúp đỡ gia đình. Ngài bảo Thánh Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế. Ngài đã làm phép lạ hoá bánh ra nhiều cho hàng ngàn người đói được ăn no. Ngài đã chấp nhận sự giúp đỡ của những người giàu có trong công tác loan báo Tin mừng. Như vậy, Chúa Giêsu đã tự tìm kiếm tiền bạc và nhận sự giúp đỡ của những nhà hảo tâm. Sau này, thánh Phaolô cũng cho biết Ngài đã tự làm việc để có của nuôi sống mình và nhiều lần Ngài đã kêu mời sự quyên góp của các tín hữu để xây dựng Giáo hội và có điều kiện để làm việc bác ái. Đó là cách kiếm tiền của Chúa Giêsu và Thánh Phaolô.

Còn cách kiếm tiền của chàng thanh niên trong bài tin mừng hôm nay? Chắc chắc không phải do gian lận, lừa lọc, trộm cướp mà có, vì từ nhỏ anh ta đã giữ trọn các giới răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ″(Mc 10,19). Vậy, do đâu? Có thể do thừa kế của tổ tiên ông bà cha mẹ. Cũng có thể do anh ta vất vả làm ăn.

Cách kiếm tiền của con người qua mọi thời đại: Ít người may mắn được thừa kế từ cha mẹ, ông bà. Đa số phải “Làm việc vất vả” mới có. Có người làm việc bằng chân tay. Có người làm việc bằng trí óc. Có người tìm kiếm tiền bạc do làm ăn chân chính, vất vả hy sinh mà có: nghề nghiệp hợp pháp, buôn bán thật thà. Nhưng cũng có những người kiếm tiền bằng những phương pháp bất công, gian lận, lừa lọc, chèn ép bóc lột người khác. Vì tiền bạc mà vợ chồng, cha mẹ, con cái đưa nhau ra toà. Vì tiền bạc mà không còn tình làng nghĩa xóm. Đúng như lời Kinh Thánh dạy: “Lòng ham mê tiền bạc là mẹ sinh ra muôn vàn tính hư nết xấu khác”. Chúa Giêsu cũng đã cảnh giác chúng ta: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”(Lc 12,15).

Cách sử dụng tiền:

Tiền bạc không phải là sự dữ. Tiền bạc không xấu. Xấu tốt là do người tìm kiếm và sử dụng nó. Kinh thánh cho biết giàu có là một sự chúc lành của Thiên Chúa (x. Cn 10,22; 1 Sm 2,7). Chúa Giêsu cũng không lên án tiền bạc. Ngài đã từng lui tới, gặp gỡ và ăn uống với những người giàu có như Giakêu, Mathêu. Nhờ gặp gỡ Chúa, các ông đã thay đổi thái độ sống, biết cách tiêu tiền: Giakêu đã lấy một phần ba bố thí cho người nghèo. Làm thiệt hại ai thì đền gấp bốn. Mathêu đã bỏ bàn thu thuế đi theo Chúa, tức là từ bỏ cách thu tiền bất chính.

Và hôm nay, khi người thanh niên giàu có đến với Chúa Giêsu để hỏi Ngài “Phải làm gì để được sống đời đời”(x. Mc 10,17). Ngài không xua đuổi, không lên án anh ta có nhiều tiền bạc. Nhưng trái lại, Ngài ân cần chỉ dạy cho anh cách sử dụng tiền bạc: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi.” (Mc 10,21). Chúa chỉ cho anh ta biết cách tiêu tiền: Đổi tiền bạc để lấy nước trời. Đổi cái tạm thời để lấy cái vĩnh cửu. Chúa làm như vậy là muốn điều tốt cho anh ta. Nhưng đáng tiếc là anh ta không vượt qua được rào cản đó. Tin mừng cho biết “Anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”(Mc 10,22). Anh ta biết kiếm tiền, nhưng không biết sử dụng tiền. Chỉ thu tích chứ không biết chia sẻ. Do anh ta hà tiện, ích kỷ, keo kiệt. Thái độ chàng thanh niên cũng là thái độ của nhiều người trong chúng ta: Lo kiếm tiền, lo tích trữ tiền, nhưng không biết sử dụng tiền, không biết chia sẻ. Chắc chắn anh ta cũng chết và những người tích trữ nhiều tiền của cũng sẽ chết. Hãy nhớ câu ca dao này: “Vua Ngô ba sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì”. Chính Chúa Giêsu cũng đã cảnh giác người phú hộ tích trữ tiền bạc rằng: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó” (Lc 12, 20-21). Nơi khác Ngài nói: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, nơi kẻ trộm khoét vách và lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, nơi trộm cắp không đào ngạch và lấy đi được. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó. (Mt 6,19-21)

Ngược lại với thái độ trên là những người tiêu tiền phung phí. Thừa tiền bạc, thường dẫn người ta tới một lỗi sống hưởng thụ, sa đoạ, thiếu đạo đức: bài bạc, trai gái, ăn uống quá hoang phí: “Hằng ngày người ta vẫn thường thấy những người ngồi ăn uống thỏa thuê với hết thùng bia này đến hết thùng bia khác, thậm chí có người nôn mửa hoặc phải móc họng cho nôn mửa bớt để vào ăn uống tiếp” (x. Hành trình vào đời, lm. Trần Quý Thiện). Nếu biết cân bằng của cải, những người giàu biết chia sẻ cho người nghèo thì có lẽ thế giới này không còn có trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu các nước biết dùng tiền bạc mua lương thực, thuốc men cho người dân thay vì bom đạn, khí giới thì chắc chắn sẽ không còn người chết đói nữa.

Tóm lại, tiền bạc rất cần thiết, nhưng không phải là tuyệt đối, không phải là trên hết. Người ta nói: “Tiền có thể mua ngôi nhà, nhưng không mua được tổ ấm. Tiền có thế mua được chiếc giường, nhưng không mua được giấc ngủ. Tiền mua được chiếc đồng hồ, nhưng không mua được thời gian. Tiền có thể mua được thuốc, nhưng không mua được sức khỏe…”. Thật vậy, có rất nhiều thứ quý hơn tiền bạc. Bài đọc I, cho chúng ta biết: Trên tiền bạc còn có Đức Khôn Ngoan “Trân châu ngọc chẳng sánh được Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể là bùn đất…có Đức Khôn Ngoan là có của cải”. Nên phải biết kiếm tiền cách hợp pháp, không lỗi phạm luật Chúa. Hãy biết cách tiêu tiền, dùng tiền bạc như là “đầy tớ” chứ không như “ông chủ”. Đặc biệt, khi có điều kiện cần biết quảng đại dùng tiền để giúp đỡ những người nghèo khổ, thiếu thốn.

Lạy Chúa, xin cho con biết kiếm tiền bằng những con đường chân chính, không trộm cắp, gian tham, lừa dối. Và xin cho con biết dùng tiền bạc để giúp đỡ cho anh chị em mình. Amen.

 

.

SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI LÀ MỤC TIÊU TỐI HẬU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, như bánh xe cuộc đời không bao giờ dừng lại. Tiến trình này cần phải rất khôn ngoan.

Chuyện kể rằng : Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: “Tại đây có bán sự khôn ngoan”. Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là “Sự khôn ngoan”.

Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: “Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích” .

Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.

Chàng thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay trạc tuổi từ 18 đến 35. Ý thức rõ về tôn giáo của mình với những khả năng, ước muốn, tương quan với xã hội anh đang sống. Có thể anh đã có một nghề, một công việc ổn định, đã lập gia đình, nhận thức rõ về quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm, xứng tầm với anh. Có thể anh đã thành công về mặt xã hội, hoàn thiện bản thân qua việc tuân giữ lề luật tôn giáo. Anh cảm thấy việc xác định ý nghĩa và mục đích cuộc đời là điều khẩn thiết phải làm để định hướng cho cuộc đời anh. Những câu hỏi được đặt ra : Sống để làm gì, đâu là ý nghĩa và mục đích của đời người, cụ thể hơn anh tìm đến, gặp, hỏi Chúa Giêsu : “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời? ” (Mc 10, 17)

Tiền bạc, của cải anh đang thủ đắc xem ra không phải là sự quí nhất của con người, vì anh đã có trong tay tất cả mà chưa thỏa mãn. Có những thứ khác như văn hóa, tài năng, trí phán đoán mà người xưa gọi là Sự Khôn Ngoan, tài sản quí giá hơn mọi thứ mà con người có thể sở hữu được. Salômôn, một vị vua khôn ngoan vô tiền khoáng hậu trong giấc mơ kì diệu, đã xin Thiên Chúa ban cho mình Sự Khôn Ngoan hơn là được giàu có, ông nói : “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không” (Kn 7,8). Chúa Giêsu chính là Đấng Khôn Ngoan, có được Chúa Giêsu là có được Thiên Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan.

Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giêsu quỳ gối để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất, nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu. Nỗ lực tìm kiếm với thiện ý là một chuyện, phấn đấu để đạt được lại là một chuyện khác.

Những cản trở như, giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu, một sự đánh đổi, một chọn lựa khó khăn, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mc 10, 22).

Chúa Giêsu đưa mắt nhìn theo anh với đầy vẻ luyến tiếc, thở dài và tuyên bố : “Người giầu có vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao… con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” (x. Mc 10, 23-25). Các môn đệ nghe Chúa nói cảm thấy sốc vô cùng, Phêrô con người bộc trực không chịu nổi, bèn thưa : “Thưa Thày, phần chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thày! Chúng con sẽ được gì? ” (Mc 10, 28). Nhờ câu hỏi của Phêrô, các ông được Chúa chỉ cho thấy sự giàu có của Nước Trời khác với sự giàu có của thế gian, tài sản của Nước Trời không phải là tài sản mà thế gian tìm kiếm, sự sống đời này và đời sau, ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.

Thiên Chúa là Đấng làm chủ vũ trụ sẽ không chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho lòng quảng đại của con người gấp trăm ngàn lân những gì họ đã quảng đại với Chúa và với anh em: “Ai bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa ruộng đất… vì Thày và vì Tin Mừng thì sẽ được trả loại gấp trăm ngay bây giờ cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu” (Mc 10, 29-30). Đó là điều không phải ai cũng nhận ra, có người nhận ra nhưng ngại ngùng đáp trả, vì Chúa ban cho họ gấp trăm cùng với ngược đãi bắt bớ. Ai nhận ra và dám đánh đổi sự giàu có vật chất ở đời này để có được sự giàu có theo kiểu Chúa ban, đó là kẻ khôn ngoan.

Như chúng ta đã nói ở trên, có được Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là được chính Thiên Chúa, có Chúa là có tất cả, và điều đó quý giá hơn mọi trân châu bảo ngọc trên trần gian này, vì không có một thứ vàng bạc châu báu nào có thể sánh vì với Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, và vâng nghe sự hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan để được sống đời đời. Amen.

 

.

NHÂN LÀNH

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Một người quì gối van xin,
Giê-su nhân hậu, con tin lời Thầy.
Tấm lòng thành khẩn đong đầy,
Ước mong cuộc sống, tràn đầy phúc ân.
Làm sao cuộc sống tinh thần,
Muôn đời hưởng phúc, dự phần ngày mai.
Chu toàn giới luật chẳng phai,
Ngoại tình xin tránh, họa tai gia đình.
Giết người, trộm cắp, phụ tình,
Chứng gian, lường gạt, nhục hình khổ đau.
Thảo cha kính mẹ trước sau,
Vui thay thuở nhỏ, cùng nhau thực hành.
Chúa thương dạy bảo đường lành,
Một điều thiếu xót, bán nhanh gia tài.
Rồi đem bố thí tiền tài,
Giúp người nghèo khó, ngày mai theo Thầy.

Một người thanh niên tốt bụng chạy đến cùng Chúa Giêsu tìm hỏi cách nào đạt tới sự sống đời đời. Chúa Giêsu nhìn anh cách trìu mến và ân cần hỏi han. Anh tự động đến gặp Chúa. Anh tỏ bày cho chúng ta một chút hình ảnh về đời sống riêng tư. Anh thuộc gia đình giầu có, ngoan đạo và giữ lề luật Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Anh không trộm cắp, không giết người và rất thảo kính cha mẹ. Xem ra anh hãnh diện và an vui trong đời sống gia đình. Anh có tất cả cuộc sống vật chất đầy đủ, tiện nghi và thoải mái.

Chúa Giêsu muốn anh tiến thêm một bậc trên đường trọn lành. Chúa nói với anh rằng: Bán tất cả gia tài và đem bố thí cho người nghèo. Anh giật nẩy mình như một cái gì vượt ngoài sự dự đoán. Anh đã không thể chấp nhận sự từ bỏ của cải. Anh là người giầu có và anh muốn được cả hai. Vừa hưởng phước của cải trần gian và mong hưởng phước thiên đàng. Thế là anh buồn rầu bỏ ra đi. Chúng ta thông cảm hoàn cảnh của anh. Đây cũng là thói thường ở đời.

Chúng ta cũng ở trong hoàn cảnh như anh ta thôi. Có lẽ chúng ta không giầu có nhưng cũng chẳng nghèo. Chúng ta cũng đã cố gắng chu toàn luật Chúa và tránh xa các dịp tội. Nếu Chúa đặt câu hỏi cho chúng ta như Chúa đã đòi hỏi anh ta, có lẽ chúng ta cũng xụ mặt bỏ đi. Bao nhiêu người trong chúng ta dám từ bỏ của cải do công khó mình làm ra để rồi chia xớt cho người nghèo? Nếu Chúa bảo rằng con hãy cho đi chút chút thì được nhưng cho cả thì con lấy gì mà sống chứ! Của cải gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền nối liền khúc ruột mà.

Bác sĩ Gordon kể ngày nọ có một ông nhà giầu nhưng lại keo kiệt, đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải giải phẫu cả hai mắt, nếu không, có nguy cơ bị mù. Ông hỏi bác sĩ: Giá cả bao nhiêu? Bác sĩ nói: Chữa một mắt giá 1000 đô. Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và sự mù lòa. Rồi ông nói với bác sĩ: Tôi chỉ xin chữa một mắt thôi vì có một mắt cũng đủ thấy tiền, kiếm tiền và lại đỡ tốn.

Người thanh niên trong câu truyện của bài Phúc âm hôm nay, vì tiếc của và sự hẹp hòi, anh đã chọn của cải đời này, thay vì sự sống đời sau. Nên Chúa Giêsu nói rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim dễ hơn người giầu và nước thiên đàng là thế. Còn chúng ta nghĩ rằng chúng ta không giầu, nên chúng ta không cần phải bán và không cần phải cho ai. Chúng ta theo Chúa xa xa cầm chừng để khỏi phải bị luận phạt đời đời. Chúng ta tính toán thật kỹ về ngân khoản của cải trần gian.

Noi gương các thánh Tông đồ, các vị truyền giáo, các tu sĩ nhà Dòng, họ bỏ tất cả và cho đi tất cả vì danh Chúa Kitô. Còn chúng ta cũng có nhiều thứ để cho như cho đi thời giờ, cho đi khả năng và cả tiền bạc. Những gì chúng ta đã lãnh nhận nhưng không, chúng ta có thể cho đi nhưng không. Chúa sẽ ban lại dồi dào cho chúng ta. Sự rộng lượng của Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta đâu.

 

.

TIN ĐỨC GIÊSU

Lm. Jos. DĐH.

Đi đâu cho thiếp theo cùng,

đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam. (ca dao).

Đi và theo người tình, được nên vợ thành chồng với người mình yêu, túng thiếu, cực nhọc, đối với thế hệ trẻ hôm nay đều là chuyện nhỏ “như con thỏ”. Đi và theo nhau một cách mơ hồ, “mù quáng”, tình nghĩa vợ chồng như thế có khác gì câu thành ngữ đầy mỉa mai: điếc không sợ súng ? Duyên sẽ không thắm, tình sẽ chẳng nồng được, nếu người ta cứ so kè, chắc lép, sợ bị lừa, “bi quan” dài hạn, dân gian gọi là già kén kẹn hom cũng không sai. Tìm người tình lý tưởng ở đâu, biết ai văn võ song toàn, đủ đức đủ tài mà theo, sẽ mãi mãi chỉ là một bế tắc không lời giải, bao lâu tình, lý, và sự quyết tâm của bản thân chưa sẵn sàng, cởi mở.

Đi tìm hạnh phúc, đi tìm sự sống đời đời, đâu phải là một khái niệm mơ hồ, hình ảnh người thanh niên “khắc khoải”, do dự, mà trang Tin mừng vừa gợi lên, hẳn vẫn còn tính thời sự với chúng ta. Hạnh phúc ở hiện tại và tương lai là một sự thật, trường sinh bất tử nhất định không phải do một vài cá nhân tưởng tượng, bịa đặt, tất cả là tình yêu mặc nhiên được cài đặt vào cõi lòng mỗi người. Không phải chỉ người thanh niên muốn hạnh phúc, muốn sự sống đời đời, cả chúng ta hôm nay cũng thao thức kiếm tìm, mơ ước một cuộc sống an vui như thế mà. Được cùng chia sẻ một cội nguồn yêu thương, chúng ta có chung một ơn gọi theo Đức Giêsu, ở trong Đức Giêsu, để được biết, được hiểu, được can đảm hơn, khi sống tinh thần từ bỏ, hầu đạt tới hạnh phúc đời đời.

Có 2 thứ mắt thường không ai có thể nhìn trực tiếp, đó là nhìn thẳng vào mặt trời và lòng người. Có 2 mơ ước mà chẳng ai sở hữu được, đó là hạnh phúc thật và sự sống đời đời, nếu người ấy không tin, không theo Đức Giêsu. Cơ hội qua đi và thời gian vụt tắt, chính là lúc người ta tự chốt cửa cài then cõi lòng mình, ngăn cách với tình Chúa và tình người, thật đáng tiếc. Đấng là Thầy là Chúa đã chăm chú nhìn người thanh niên và đem lòng thương mà bảo rằng: “ngươi chỉ còn thiếu một điều là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Sự sống đời đời là một ơn ban, ai cũng có cơ hội tin theo Đức Giêsu, ai cũng được tự do cân nhắc chọn lựa, biết cậy dựa vào tình yêu, và sẽ không ngu ngốc cậy vào sức mình.

Cổ nhân chúng ta cho rằng: sự giầu có không thuộc về người có nó, mà thuộc về người biết sử dụng nó. Các môn đệ năm xưa thì lúng túng khó hiểu, sự sống đời đời thuộc về ai ? Ai mới là đối tượng của ơn cứu độ ? Đức Giêsu đã cho biết: “đối với loài người thì không thể, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”. Tin Đức Giêsu, theo Đức Giêsu, tình yêu, sự khôn ngoan của Đức Giêsu ở trong người ấy, và hạnh phúc đời đời nhất định phải có nơi người theo Đức Giêsu cách trọn vẹn. Đức Giêsu tận tình hướng dẫn người giầu có biết sứ mạng của họ là chia sẻ, là sử dụng tiền của giúp người nghèo ở bên cạnh. Tin và theo Đức Giêsu, người nghèo khó cũng gián tiếp được Ngài cho biết: đói cho sạch, rách cho thơm, con đường dẫn tới hạnh phúc thật, đơn giản vậy thôi.

Văn hay võ giỏi đầu óc thông thái, là tài nguyên phong phú cho công cuộc phát triển xã hội, giầu tiền lắm của là một nguồn lực giúp nhiều anh chị em thoát nghèo, bớt gian truân. Mối phúc đầu tiên của bài giảng trên núi, Đức Giêsu nói đến tinh thần khó nghèo ; để có sự sống đời đời, Đức Giêsu lại cụ thể hơn nữa: “bán hết của cải, chia sẻ cho người nghèo, rồi theo Ta”. Thực tại vật chất có phải là điều kiện để người môn đệ sống quên mình, theo Đức Giêsu, nối kết tình yêu thương, xây dựng Nước trời bằng sức mạnh của niềm tin nơi Đấng kitô không ? Yêu thầy mới có cơ hội làm thầy, tin Thầy Giêsu mới là khởi đầu theo Thầy, bước kế tiếp, có dám từ bỏ mình, sống giáo huấn của Thầy, mới được nên giống Thầy.

Các thánh hiền đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm mới đủ khôn ngoan nhắc nhớ con cháu: là người có thể nghèo tiền nghèo bạc, nhưng đừng bao giờ nghèo nhân cách hoặc thiếu đức độ. Đức Giêsu trong tư cách là thầy dạy, Ngài vừa có ý nhắc mỗi người hãy sử dụng nén bạc Thiên Chúa trao. Ngài cũng cho thấy mối nguy hiểm của sự giầu có: “những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào Nước trời biết bao, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước trời”. Để tin theo Đức Giêsu, ai cũng phải mạnh mẽ trả lời như người thanh niên: thưa Thầy, những điều răn giới luật Chúa dạy, chúng con đã tuân giữ từ thuở nhỏ. Để đạt tới sự sống đời đời, mỗi người phải trở nên môn đệ Đức kitô, mặc lấy tinh thần nghèo khó như Đức kitô: sống yêu thương, phục vụ, và thực sự nên một trong Đức kitô. Amen.

 

.

TIN MỪNG CHÚA NHẬT 28

Jorathe Nắng Tím    

Tin mừng chúa nhật 28 đặc biệt đề cập đến chuyện tiền của và những khó khăn không chỉ đối với người muốn hiến thân đi theo Đức Giêsu làm môn đệ của ngài, mà còn khó cả với mọi người đi tìm hạnh phúc đời sau.

Qủa thực, không ai dám coi thường tiền của, vì tiền của giữ một vai trò chiến lược cho sự “sống còn”, chiếm một chỗ đứng quan trọng trong sinh hoạt đời sống. Ở bất cứ thời đại nào, và bất cứ nơi nào, của cải cũng là một vấn đề lớn của con người.

Là vấn đề lớn, vì không tiền, không giải quyết được nhiều việc cần giải quyết: từ việc sinh con đẻ cái đến việc tống táng ma chay, cả một đời người, không lúc nào vắng bóng đồng tiền và ai cũng phải công nhận : không tiền thì hầu như tất cả đều là số không. Được trọng vọng, qúy mến vì có tiền; bị khinh miệt, ruồng rẫy, bỏ rơi vì không tiền. Có tiền thì xa cũng thành gần, lạ cũng thành thân, dốt cũng thành giỏi, hèn cũng thành sang, ma giáo cũng thành chân thật, xấu xí cũng thành xinh đẹp, tồi tệ cũng thành tuyệt vời, tầm thường cũng thành phi thường, siêu sao. Có tiền không thiếu bạn hữu xum xuê, nườm nượp xếp hàng thăm hỏi ;  thế quyền, thần quyền vị nể, vấn an, nhưng khi sa cơ thất thế, khánh kiệt, không tiền, thì một mình một bóng cô liêu, tủi buồn, hiu quạnh.

Chính vì kinh nghiệm về sức mạnh của đồng tiền, mà không ai bảo ai, tất cả đều muốn có tiền, cần tiền, ham tiền, tìm kiếm tiền, và lệ thuộc tiền. Đứa trẻ tuy chưa nhận diện chính xác đồng tiền, nhưng đã biết tiền rất quan trọng, vì thấy cha mẹ vất vả kiếm tiền, chửi mắng, dằn vặt, đay ngiến nhau vì tiền, khóc lóc, bấn loạn vì những ngày không tiền và dành rất nhiều thời gian cho những lo lắng, lo âu, lo sợ, lo nghĩ, lo liệu vì đồng tiền. Cứ thế lớn lên, em bé cũng đi vào vòng xoay của tiền bạc và như cha mẹ, em cũng sẽ dành phần lớn qũy thời gian sống để lo sao có tiền, có tiền rồi thì lo mất tiền, dù biết rất rõ sẽ có một ngày chẳng còn gì khi phải bỏ cuộc đời ra đi.

Cũng chính vì mãnh lực khủng khiếp, sức chi phối qúa lớn, tầm ảnh hưởng qúa sâu, qúa rộng của đồng tiền, mà người ta không mấy khi thoát khỏi tầm kiểm soát của đồng tiền, nghiã là, người ta cứ tưởng mình đã vượt lên trên tiền bạc, không còn bị tiền của khống chế, nhưng thực ra tiền đã thống lãnh, làm chủ từ lúc nào, và người ta đã vâng phục tiền bạc một cách vô thức từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Tư tưởng thì không thể không đặt tiền bạc ở mức rất cao trên thang giá trị, để rồi chọn lựa cũng từ đó bị hướng chiều về tiền bạc. Lời nói thì vô tình, vô ý luôn đứng về phiá người giầu với đủ ngôn từ biện minh rất thuyết phục, và việc làm tất nhiên bị tiền của điều khiển tinh vi, chặt chẽ. Rồi cũng có lúc bất ngờ hồi tâm, phản tỉnh, nhưng tức khắc bị tiền của dìm ý thức xuống thật sâu, chìm ngỉm với trăm ngàn lý lẽ bào chữa cho chỗ đứng của tiền bạc, để  ngượng ngùng vá víu một lương tâm đã rách bươm vì lỡ làm tôi mọi của cải.

Hơn ai hết, Đức Giêsu hiểu sức mạnh dữ dội, khôn lường của tiền của, nên nhiều lần cảnh giác các môn đệ của Ngài về nguy cơ bỏ Thiên Chúa để đi theo tiền của, và không ngại đặt tiền của ngang hàng Thiên Chúa : “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này, mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6, 24).

Tin mừng hôm nay lại một lần nữa cho chúng ta thấy cơn cám dỗ cực mạnh của tiền của. Cám dỗ đã không thể vượt qua với người thanh niên được coi là giữ đạo hoàn hảo, nhưng vì giầu có đã không thể đi theo Đức Giêsu, nên đành “sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi” (Mc 6, 22).

Bỏ đi tức là không đi theo, không ở lại, không chung sống. Bỏ đi tức là không còn, không có nữa, không hiện diện, không đồng hành, không chung bước bên nhau. Người thanh niên giữ đạo thật hoàn hảo, nhưng không có Chúa ; nghĩ mình đi đúng đường, nhưng lại bỏ Đức Giêsu, Đấng là Đường đích thực đưa đến Thiên Chúa Cha ; tự tin mình hoàn hảo, giữ trọn mọi giới răn, nhưng giới răn duy nhất quan trọng anh lại bỏ, đó là yêu chính Đức Giêsu, Dung Mạo đích thực của Thiên Chúa ; ảo tưởng sự thánh thiện của mình khi dài dòng kể lể lý lịch, công nghiệp giữ đạo tuyệt hảo của mình, nhưng lại bỏ Đức Giêsu, Đấng là Sự Sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Chính vì thế anh thanh niên đã không vui, và mãi mãi không vui, vì anh đã không chọn đi theo Đức Giêsu là Hạnh Phúc và Nguồn Vui bất tận, nhưng thay vào đó, anh đã chọn tiền của như gia nghiệp không thể rời xa. Thánh sử Máccô đã ghi rõ thái độ buồn rầu, tiu nghỉu của anh thanh niên khi bỏ Đức Giêsu mà đi. Ghi nhận rất tinh tế này cho chúng ta biết thêm một điều, đó là tiền của không mang lại niềm vui đích thực, vật chất không mang lại bình an đích thực cho người chọn nó làm ông chủ, coi nó là gia nghiệp, lý tưởng của đời mình. Và cuộc sống thực tế quanh ta cũng làm chứng điều này, khi bao nhiêu người đã thất kinh bát đảo, ăn không ngon, ngủ không yên, lao tâm tổn lực vì tiền của, và cái kết buồn nhiều hơn vui của đa số người giầu suốt đời sống đời nô lệ của cải, tiền bạc.

Như đã thưa với bạn : Đức Giêsu không chỉ nhắc nhở : khó có thể đi theo Chúa, chọn Chúa nếu không biết buông bỏ tiền của, vì tiền của rất nặng nề, cồng kềnh, khó gỡ, khó quên, khó xa, khó thoát, mà còn cảnh báo chúng ta tiền của còn là chướng ngại rất lớn trên đường về Nước Trời của mỗi người.

Ở đây, chúng ta không đi vào vấn đề chú giải chữ “Kim”, vì người viết đã phân tích hầu qúy bạn rồi, chúng ta chỉ ghi nhận với nhau tính khó khăn của người giầu trên đường tìm kiếm hạnh phúc đời đời. Cho dù Đức Giêsu có khôi hài đến độ so sánh giữa con lạc đà với lỗ kim khâu, một so sánh hầu như không thể so sánh, nếu không nói là khôi hài, hoặc hiểu chữ “Kim” là cửa nhỏ mang tên cửa Kim, bên cạnh cửa chính vào thành Giêsrusalem, thì nội dung sứ điệp của Ngài vẫn là : người giầu khó vào Nước Trời (Mc 10, 25).

Khó vào Nước Trời, hay khó đi theo làm môn đệ của Đức Giêsu, tiền của dưới mắt Đức Giêsu thực sự là một chướng ngại rất lớn trên đường đi theo Chúa và hành trình tìm kiếm Nước Trời, nên dù chúng ta không muốn nghe, Đức Gêsu cũng vẫn lên tiếng cảnh tỉnh, nhắc nhở.

Tuy thế, một điều an ủi rất lớn cho chúng ta là “tiền của không lớn hơn Thiên Chúa”, bởi nó chỉ có thể trong khả năng mê hoặc, khống chế  loài người, nếu loài người không tỉnh táo để biết quản lý, làm chủ nó. Ngoài ra nó không làm được gì khác, trong khi “Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được” (Mc 6, 27). “Có thể được” với Thiên Chúa, khi Ngài làm cho tâm hồn người giầu vẫn một lòng yêu mến, phụng sự Ngài ; “có thể được” với Thiên Chúa khi Ngài ban cho trái tim người “nhiều tiền lắm của” biết nhận ra tình trạng nghèo khó, đáng thương của mình trước Thiên Chúa ; “có thể được” với Thiên Chúa, khi gìn giữ tấm lòng thương xót của người giầu trước nhu  cầu của những người đói rách chung quanh ; “có thể được” với Thiên Chúa khi ban cho con tim đại gia tình yêu quảng đại để san sẻ, chia sớt với những người cùng khốn ; “có thể được” với Thiên Chúa, khi chúc phúc cho những gia đình sống trong nhung lụa như gia đình Giakêu ơn cứu độ, để đức công bình và ơn Bình An của Ngài ngập tràn thế giới.

Thứ tư tới là “Ngày Thế Giới Chống Nghèo Đói”, chúng ta không chỉ cầu ngyện cho người nghèo đói, mà còn cầu nguyện cho người giầu có, cho các đại gia, để bàn tay người giầu chạm được bàn tay người nghèo, để con tim đại gia và trái tim kẻ bần hàn cùng chung nhịp đập và niềm xác tín của Tin Mừng : Trong chia sẻ, chúng ta có Thiên Chúa, vì tất cả là Hồng Ân.

 

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA –

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B này mời gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý trần thế so sánh với Đức Khôn Ngoan (Bài Đọc I) hay Lời Chúa (Bài Đọc II) mà Đức Giê-su là hiện thân: “vì Thầy và vì Tin Mừng” (Tin Mừng).

Kn 7: 7-11

Bài Đọc I, trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.

Dt 4: 12-13

Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, xét xử, xuyên thấu tận cõi thâm sâu nhất của con người.

Mc 10: 17-30

Tin Mừng Mác-cô thuật lại câu chuyện về một người giàu có. Đức Giê-su đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giê-su nêu lên vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.

BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)

Một hiền nhân Do thái sinh trưởng ở A-lê-xan-ri-a đã viết sách Khôn Ngoan bằng Hy-ngữ vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Để đối lại với mối hiểm nguy của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác giả tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.

Tác phẩm gồm có 19 chương được chia thành ba phần: phần thứ nhất nói về Đức Khôn Ngoan và số phận con người (ch. 1-5), phần thứ hai nói về bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan (ch. 6-9) và phần thứ ba nói về hành động của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử (ch. 10-19). Trong phần thứ hai tác phẩm của mình, bằng hư cấu văn chương, tác giả đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan bậc nhất. Đoạn văn chúng ta đang đọc được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhở rằng ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận phàm nhân như bao nhiêu người khác. Đức Khôn Ngoan mà vua có được không là một đặc sủng tự nhiên được ban cho vua khi trở thành quân vương, nhưng là thiên ân do vua thành tâm cầu nguyện.

  1. Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon

“Tôi đã nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết; tôi đã kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi”. Việc vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện truyền thống được kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12), và từ câu chuyện này tác giả sách Khôn Ngoan sáng tác một đoạn văn (Kn 9: 1-18). Vua Sa-lô-mon cảm kích vì được kế nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi tuổi đời còn quá trẻ; vì thế, nhà vua còn trẻ người non dạ này cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần thiết để có thể cai trị dân Chúa chọn, một dân tộc quan trọng như thế.

Tác giả sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon không có trong nguyên bản, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động độc giả thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Vua Sa-lô-mon biết rõ chẳng có gì phải tự hào tự phụ vì những gì vua có đều là những ân ban của Thiên Chúa. Vua phó thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát sự khôn ngoan; thái độ này ngược hẳn với  các bậc quân vương Hy lạp.

  1. Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan

Vua Sa-lô-mon công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11, được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.

“Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng

còn hơn cả vương trượng, ngai vàng” (7:8).

Nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-mon đã muốn từ chối ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng “vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế”. Tác giả đã khai triển chủ đề này ở trên khi để cho vua Sa-lô-môn ngỏ lời với các bậc đế vương:

“Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoan

đưa chúng ta lên hàng vương giả.

Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân,

nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng,

thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan,

để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).

Những châm ngôn theo sau là di sản chung mà chúng ta gặp lại trong sách Châm Ngôn, sách Huấn Ca,…chưa nói đến các Thánh Vịnh.

Ví dụ như:

“Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,

không bảo vật nào của con so sánh nổi” (Cn 3: 15).

Hay còn:

“Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của ta quý hơn cả bạc,

hãy đón nhận tri thức quý hơn cả vàng ròng.

Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,

không báu vật nào so sánh nổi” (Cn 8: 10-11).

“Tôi đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng”. Với lời này, vua Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ hay sự giàu sang phú quý, nhưng chỉ xin cho mình được khôn ngoan.

  1. Thành quả của Đức Khôn Ngoan

Trong sách Các Vua, Đức Chúa ca ngợi phẩm chất lời nguyện xin của vua Sa-lô-mon. Để thưởng cho vua, Đức Chúa ban cho ông không chỉ Đức Khôn Ngoan, nhưng còn mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến chuộng Đức Giê-su hơn sự giàu sang phú quý là con đường dẫn đến Nước Trời: Những ai từ bỏ mọi sự “vì Đức Ki-tô và vì Tin Mừng”, thì ngay ở đời này sẽ nhận được gấp trăm và ở đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời (10: 29-30).

BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)

Thư gửi tín hữu Do thái được viết cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước; hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki-tô giáo của mình. Bức Thư này nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.

Đoạn văn hôm nay được trích dẫn từ những lời khuyến dụ dài mời gọi hãy trung tín và kiên tâm bền chí. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch dành cho những người bất tuân, họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa, nhưng phải vùi thây trong sa mạc. Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi tội bất trung nếu chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo gương bất trung đó mà sa ngã” (4: 11).

  1. Nhân cách hóa Lời Chúa

“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh nhân cách hóa Lời Chúa như vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa ngự xuống từ trời để đem lại sự sống cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Thiên Chúa một khi sứ mạng đã được hoàn thành (Is 55: 10-11). Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một nguồn sống nội tại: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).

  1. Chức năng xét xử của Lời Chúa

Lời Chúa có chức năng xét xử bởi vì Lời Chúa có chức năng giáo huấn. Tác giả thư gửi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo huấn sang Lời Chúa có chức năng xét xử. Đây không phải là một ví dụ độc nhất. Thánh Gioan cũng theo cách thức như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).

Tác giả thư gửi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm hai lưỡi; đây không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm (Kh 1: 16; 19: 15). Tác giả thư gửi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với một con dao mổ sắc bén của một nhà giải phẫu: Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.

Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gửi đến các Ki-tô hữu đang chao đảo trong đức tin, nhưng ngay liền sau đó tác giả liên kết vị Thượng Tế biết cảm thương, là Đức Ki-tô, với những nỗi yếu hèn của chúng ta.

TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)

Câu chuyện về một người giàu có này đều được cả ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp, là cơ hội thuận tiện mà Đức Giê-su lợi dụng để minh họa một bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện này một cách xúc động và thống thiết, nét đặc trưng này rất dễ thấy trong câu chuyện của Tin Mừng Mác-cô.

Đức Giê-su vừa mới cất bước lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình thuật của mình bằng những động từ chỉ sự chuyển động; ở đây, chi tiết này có giá trị của nó. Câu chuyện bắt đầu với hành động hối hả đầy thành tâm thiện chí của người này và kết thúc với thái độ tương phản sau cùng của anh: “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúng ta có thể nói đây là một câu chuyện về ơn gọi kết thúc không có hậu.

  1. Sự sống đời đời

“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện này; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi của chàng thanh niên này và ở cuối câu chuyện qua câu trả lời của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài. Đây không chỉ là một ví dụ điển hình về lối hành văn đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan của người Ki-tô hữu với của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu này: cuộc sống mai hậu. Vì thế, các môn đệ xao xuyến tận đáy lòng.

Nỗi ưu tư của người này phù hợp với những nỗi bận lòng của những môi trường đạo hạnh Do thái giáo, ở đó người ta tranh luận về những viễn cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa ban vào thời cánh chung. Phải làm gì để đảm bảo cho mình có được sự sống đời đời?

Người này ca ngợi Chúa Giê-su: “Thưa Thầy nhân lành” kèm theo một hành vi cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ này làm chứng rằng Đức Giê-su nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người này tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho anh những lời khuyên có giá trị.

Tại sao Đức Giê-su thoái thác đức tính “nhân lành” này cho mình, khi mà lòng nhân lành của Ngài thì hiển nhiên, phải chăng là để hướng tâm trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi sự nhân lành? Nếu Đức Giê-su có lòng nhân lành, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân lành từ Thiên Chúa. Thánh Mác-cô có mối bận tâm là không quên thân phận làm người của Đức Giê-su.

Sau khi đã hiệu đính lời ca ngợi của chàng thanh niên, Đức Giê-su sắp cho anh ta một câu trả lời tích cực qua đó Ngài ngầm hàm ý rằng “Tôi đến không phải để hủy bỏ nhưng kiện toàn Lề Luật”.

  1. Lời kêu gọi được gửi đến cho người giàu có này

Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giê-su chỉ trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận của một người với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giê-su, thực thi Thập Giới mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự sống đời đời”. Chàng thanh niên này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Câu trả lời này chứng tỏ tấm lòng thành tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giê-su. Thánh Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp chi tiết cảm động này: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.

Đối với chàng thanh niên đầy thành tâm thiện chí này, Đức Giê-su đề nghị anh đi xa hơn trên con đường khao khát sự sống đời đời: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giê-su đòi hỏi anh, nhưng còn là một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được: “kho tàng trên trời”. Đối với những ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Đối với những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài không để cho kẻ ấy sống một đời sống tầm thường như bao nhiêu người khác. Thiên Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như thế nào; Đức Giê-su cũng hành xử với các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy.  Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc này, chúng ta mới biết được người ấy rất giàu có và chính sự giàu có đã ngăn cản anh tích cực đáp trả tiếng gọi của Đức Giê-su.

Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với Do thái giáo. Các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng này. Họ đã công kích những kẻ giàu có; họ đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, nhóm người bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa. Ấy vậy, chúng ta gặp thấy ở nơi những người Do thái đạo hạnh sống theo lý tưởng Do thái giáo, là lấy Lề Luật làm quy luật sống của mình để hướng tới “sự sống đời đời”  là gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài.

Còn ở đây, Chúa Giê-su được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: “Anh chỉ còn thiếu có một điều”: trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện này không phải hệ tại ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giê-su, yêu mến Ngài trên tất cả mọi sự kể cả mạng sống của mình.

Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành này được ghi lại trên con đường Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, tiến đến cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki-tô giáo vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki-tô hữu nếu không xem Đức Giê-su là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki-tô”.

  1. Lời mời gọi được gửi đến với mọi người

“Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không là một chi tiết điểm tô cho câu chuyện; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giê-su ngỏ lời với dân chúng, chắc chắn đám đông đang vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra, và cả đám đông vô hình của những Ki-tô hữu thuộc mọi thời: “Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”. Vì nhận thấy các môn đệ hết sức kinh ngạc, nên Đức Giê-su lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.

Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói khoa trương Đông Phương để kích thích sự chú ý: sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giê-su đã nói rồi: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24). Sự kiện các môn đệ vừa mới chứng kiến là một bằng chứng tỏ tường. “Thế thì ai có thể được cứu?”, các môn đệ nêu lên câu hỏi này không chỉ vì người gắn bó với của cải thì đầy dẫy chung quanh họ; nhưng còn vì, theo truyền thống của cha ông họ, sự giàu có là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa chúc phúc cho những người trung thành tuân giữ Lề Luật. Đức Giê-su trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ để họ thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót thương: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì khác, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.

Chúng ta đừng quên thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của ông Da-kêu không xa mấy sau câu chuyện này, như vậy cho một ví dụ về ơn cứu độ của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ đến việc bố thí một phần của cải của mình cho những người nghèo, nếu Đức Giê-su đã không viếng thăm gia đình của ông. Vấn đề là con người đáp trả như thế nào trước lời mời gọi chan chứa yêu thương của Thiên Chúa.

  1. Phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Chúa Giê-su

Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái độ của người giàu có này: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Thánh Phê-rô nhân danh tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giê-su trả lời bằng cách nêu lên hai loại phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời này” và phần thưởng được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống đời đời”.

Có nên hiểu một chuỗi những phần thưởng đầu tiên theo nghĩa đen? Chắc chắn, ai từ bỏ những người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức Giê-su, người ấy sẽ gặp thấy ở giữa lòng cộng đoàn Ki-tô hữu, một đại gia đình. Nhưng lời giải thích theo nghĩa tinh thần thì có vẻ thật hơn. Thánh Mác-cô xem ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại vào giữa những phần thưởng trần thế. Chính ở nơi những phần thưởng tinh thần này mà những Ki-tô hữu đã sở hữu rồi, thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, kỳ thực chúng tôi vẫn luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 8-10).

 

.

THẬP GIÁ – ĐƯỜNG HY VỌNG

Bông hồng nhỏ

“Con lạc đà chui qua lỗ kim lại còn dễ hơn người giàu vào được Nước Trời”. Bài hát sinh hoạt mà mấy em thiếu nhi vừa cất lên khiến lòng ta nôn nao khác lạ: Chẳng phải hôm nay ta mới nghe nó lần đầu tiên nhưng lời này đã đến trong đời ta rất nhiều lần. Chỉ khác một điều là hôm nay Chúa nhắn nhủ ta qua tiếng hát trẻ thơ.

Đọc đoạn Tin Mừng theo Thánh sử Máccô hôm nay, hình ảnh đẹp gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí ta là hình ảnh lên đường của Thầy Giê-su. Thầy Giê-su lên đường để thực hiện những cuộc tìm kiếm. Người mục tử nhân lành vẫn miệt mài trên từng chặng đường xa để kiếm cho kỳ được con chiên lạc. Có một chàng thanh niên hăm hở chạy theo, mong bắt kịp Thầy và khi bắt kịp rồi thì quỳ xuống trước mặt Thầy mà xin. Anh xin Thầy chỉ giáo để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp (x.Mc 10,17). Từ trước tới giờ, người ta thường tới xin Thầy chữa lành bệnh tật. Còn anh, anh xin cho được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đây quả là một khát vọng đáng quý biết bao. Thấy anh thành tâm thiện chí và là người đạo đức, Thầy Giê-su nói anh chỉ còn thiếu có một điều là đi bán tất cả những gì mình có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi Thầy tiếp tục mời gọi anh hãy trở thành môn đệ Thầy (x.Mc 10,19-21). Được làm môn đệ Thầy thì còn hạnh phúc nào bằng. Tuy nhiên, nghe xong lời mời gọi của Thầy, sắc mặt anh biến đổi, anh buồn rầu bỏ đi không một lời từ biệt (x.Mc 10,22). Có được cơ nghiệp như ngày hôm nay chắc hẳn anh đã phải trải qua bao gian khó. “Đồng tiền đi liền khúc ruột” là vì vậy. Dường như trong bước chân thoái lui ấy có gì đó như giằng co, có gì đó như sự tiếc nuối. Tại sao Thầy Giê-su không giữ anh lại để chinh phục trái tim anh? Thầy yêu mến anh cơ mà. Thầy Giê-su ngỏ lời mời gọi, chỉ đường cho ai muốn làm môn đệ nhưng Thầy hoàn toàn tôn trọng sự tự do chọn lựa của họ.

Người môn đệ đi theo Chúa là bước đi trên con đường của hy vọng. Dẫu cuộc đời nhiều đa đoan, có nhiều khi người môn đệ thấy Thầy Giê-su như vắng mặt, chẳng hề lên tiếng đỡ nâng, thập giá trên vai đè nặng, người môn đệ sẽ phải đối diện với những giằng co của chọn lựa thì Thầy Giê-su vẫn có đó, Thầy vẫn dõi mắt theo. Dẫu là đường thập giá từng ngày gập ghềnh bước đi thì đường thập giá vẫn là đường hy vọng. Vì đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể làm được, chỉ cần người môn đệ biết từ bỏ. Ta có thể đã từ bỏ một mái gia đình êm ấm, từ bỏ một mối tình đẹp, từ bỏ một công việc ổn định, từ bỏ một cuộc sống giàu sang tự do thoải mái để bước theo Thầy Giê-su nhưng nếu ta chưa biết bỏ mình là ta chưa bỏ gì cả. Ta có thể chẳng phải là người giàu của cải như chàng thanh niên để cứ tiếc nuối nhưng ta lại là người giàu tham vọng. Bước theo Chúa là chọn con đường tự hạ, khiêm nhường, chỉ khát mong chọn Thánh Ý Chúa là gia nghiệp. Điều Chúa hứa ban cho ai dám từ bỏ mọi sự mà theo Chúa là nhà cửa, anh chị em,… và có cả sự ngược đãi, sự sống vĩnh cửu đời sau (x.Mc 10,30).

Lạy Chúa, con đã hăm hở chạy đến với Chúa để được đi theo Chúa trên con đường trọn lành. Lời Chúa vẫn từng ngày mời gọi con hãy từ bỏ mọi sự. Sự gì cản bước tiến của con trên đường theo Chúa, xin Chúa giúp con đẩy chúng xa khỏi con. Con xin Chúa giúp con hiện thực hóa tâm tình này: “Thưa Chúa, con yêu Ngài thật thẳm sâu trong tâm trí. Thưa Chúa, con yêu Ngài thật thẳm sâu trong trái tim”. Amen.

 

.

ĐẦU TƯ KHÔN NGOAN

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Năm vừa qua vẫn là một năm biến động với nền kinh tế đất nước, tình trạng lạm phát, trượt giá gia tăng, nợ công ngày càng nhiều khiến cho nhiều nhà đầu tư chùn tay. Có nhiều người không hiểu biết gì về thị trường chứng khoán cũng liều đổ tiền của vào đầu tư, cuối cùng thất bại. Nhiều người khác đầu tư vào thị trường nhà đất, bất động sản khiến cho nhà đất lên cơn sốt, đến nay cơn sốt giảm xuống dẫn đến tình trạng bị đọng vốn hoặc đất đóng băng. Nhiều người khác lăn tăn: “Tôi có một ít tiền nhàn rỗi, tôi sẽ đầu tư vào lãnh vực nào để sinh lợi nhiều và an toàn trong hoàn cảnh kinh tế xã hội biến động hiện nay?”. Các nhà kinh tế cũng đã trả lời câu hỏi này và đưa ra những lời khuyên, tuy nhiên việc nghe và làm theo hay không là tùy ở mỗi người.

Tin Mừng hôm nay kể lại việc một chàng thanh niên giàu có muốn tìm một kênh đầu tư, anh đến với Chúa Giêsu, quỳ gối trước Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Trước hết, thái độ của anh phần nào cho thấy anh đang bế tắc trong cuộc sống, không biết phải chọn đường nào, đầu tư ở nơi đâu. Anh đang bị giằng co phải làm cách nào để vừa có nhiều tiền bạc của cải, vừa được Nước Trời. Vì vậy, anh quỳ gối trước Chúa Giêsu để xin một lời khuyên. Việc anh quỳ gối để xin, chứng tỏ anh khá thành tâm tìm kiếm và tin rằng Đức Giêsu có thể chỉ cho anh và giải quyết sự giằng co trong anh.

Chúa Giêsu muốn thẩm định về lòng tin của anh khi nói với anh: “Không có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa”. Vậy khi anh gọi Đức Giêsu là “Thầy nhân lành”, tức là anh đã tin Đức Giêsu là Thiên Chúa. Nếu anh đã tin Đức Giêsu là Thiên Chúa, thì đòi anh phải sẵn sàng đón nhận lời chỉ dạy của Ngài. Chúa Giêsu cũng giúp anh thẩm định lại đời sống của mình trước sự đòi hỏi của giới răn lề luật của Thiên Chúa: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ ngoại tình, hãy thờ cha kính mẹ”. Đây là những điều răn hướng dẫn các tương quan của con người đối với những người chung quanh. Những giới răn này có thể coi là những giới răn nền tảng để xây dựng đời sống tự nhiên, nhân bản. Sau khi nghe Chúa Giêsu nói, chàng thanh niên rất tự tin để thưa với Chúa: “Thưa Thầy, những điều răn này tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.

Thấy người thanh niên này có một nền tảng đời sống đạo đức khá vững, Chúa Giêsu rất có thiện cảm với anh, Ngài nhìn anh với lòng yêu mến. Cái nhìn này như một sự khích lệ mời gọi anh tiến thêm một bước nữa trên con đường trọn lành. Chúa Giêsu đã đưa ra cho anh một lời mời gọi và cũng là một sự thách thức trong chọn lựa của anh, đó là: “Anh chỉ còn thiếu một điều là, hãy về bán những gì anh có, phân phát cho người nghèo, anh sẽ có kho tàng trên trời, rồi đến đây theo tôi”. Có thể nói theo ngôn ngữ kinh tế, câu trả lời của Chúa Giêsu giống như một lời mời gọi đầu tư. Trong cuộc đầu tư này Chúa Giêsu bảo đảm chắc chắn, người đầu tư sẽ có được kho tàng trên trời và trở nên môn đệ đích thực của Chúa.

Lời mời gọi này đặt người thanh niên vào một chọn lựa quyết liệt, hoặc là đầu tư tìm kiếm Thiên Chúa làm gia nghiệp và trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, hoặc là để cho tiền bạc của cải trần gian chi phối. Chọn Chúa làm gia nghiệp và trở nên môn đệ của Chúa đòi chàng thanh niên phải dám buông bỏ của cải thế gian, bán những gì mình đang sở hữu để không còn dính bén; phân phát trao tặng cho người nghèo tất cả để trở nên trống rỗng, không còn gì và sau cùng là đến để theo Chúa.

Có người đặt vấn đề: “Tại sao Chúa đòi hỏi quyết liệt và dứt khoát như thế?”. Thưa – nhiều lần Chúa đã dạy: Các ngươi không thể làm tôi hai chủ, không thể vừa thờ Thiên Chúa và đồng thời lại thờ tiền bạc, không thể vừa chọn Chúa lại vừa chọn thế gian. Chỉ những người dám giũ bỏ những sự ràng buộc của thế gian và vật chất mới có thể toàn tâm toàn ý theo Chúa. Những người dám chọn Chúa làm gia nghiệp thì phải dám xem thường của cải thế gian. Một khi dám bán mọi sự, dám cho đi tất cả, tức là là dám trở nên trống rỗng trước mặt Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ lấp đầy sự trống rỗng đó bằng tình yêu và ơn thánh của Chúa và nhất là bằng gia nghiệp là nước trời. Tuy nhiên, câu chuyện của người thanh niên đã có cái kết buồn: Khi chàng thanh niên nghe lời mời gọi của Chúa Giêsu, anh đã không dám đầu tư tài sản và cuộc đời của mình nơi Chúa. Anh muốn theo Chúa nhưng lại không bước qua nổi bản thân, anh muốn chọn Chúa nhưng lại không dám từ bỏ tài sản của cải trần gian. Vì vậy, anh sa sầm nét mặt, buồn rầu bỏ đi. Tác giả Tin Mừng giải thích: “Vì anh ta có nhiều của cải”.

Chúa Giêsu đã lấy làm tiếc cho anh, vì chàng thanh niên này dù đã có nhều điều tốt, nhưng anh đã không theo đuổi đến cùng chọn lựa của mình. Nhân dịp này, Chúa giải thích cho dân chúng và các môn đệ thấy tiền bạc, của cải, vật chất thế gian, chính là một trở ngại rất lớn trong việc theo Chúa. Việc trở nên môn đệ của Chúa và đạt được nước trời đòi mỗi người phải dám phiêu lưu, tín thác, dám đem cả tài sản, tương lai, cuộc đời của mình “đánh cược” với Chúa. Khi nghe Chúa nói như thế, Phêrô và các môn đệ cũng rất băn khoăn, các ông muốn “kiểm tra lại tài khoản” của mình sau một thời gian theo Chúa. Phêrô đã hỏi Chúa: “Thưa Thầy, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?”.

Chúa Giêsu đã trả lời cách chắc chắn: “Bất cứ ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái, ruộng vườn vì Thầy và vì Tin Mừng, thì ngay bây giờ, ở đời này, sẽ được nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái ruộng đất gấp trăm lần, cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu ở đời sau”. Câu trả lời cho thấy, Chúa là nơi uy tín, bảo đảm nhất để cho mọi người có thể đầu tư, sinh lợi. “Lợi nhuận” từ nơi Chúa là được gấp trăm những gì chúng ta đã dám từ bỏ, đã dám bán đi, đầu tư cho người nghèo vì Chúa Kitô và Tin Mừng. Chúa Giêsu quả quyết: lợi nhuận này không chỉ ở đời sau, mà là ngay ở đời này. Tuy nhiên, lợi nhuận về nhà cửa ruộng vườn, cha mẹ, anh chị em, còn phải gắn liền với một vinh phúc đó là sự bắt bớ, ngược đãi của thế gian và sự sống vĩnh cửu ở đời sau. Tại sao lại gọi là vinh phúc? Vì khi chịu bắt bớ, ngược đãi vì Chúa Giêsu và vì Tin Mừng là được trở nên giống Chúa Giêsu, là đi theo và đi cùng con đường của Chúa, con đường thập giá. Những ai bước theo Chúa Giêsu trên con đường khổ giá, thì chắc chắn cùng được chia sẻ vinh quanh phục sinh và vinh hiển trên trời với Chúa như Chúa đã hứa.

Thưa quý OBACE, theo cái nhìn của người đời, việc đầu tư cho nước trời bị coi như khờ dại, nhưng đối với những người tin vào Thiên Chúa thì đó là sự đầu tư khôn ngoan, chính đáng. Bài đọc một cho thấy, chỉ những ai được ơn khôn ngoan của Thiên Chúa thì biết chọn chính Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan làm gia nghiệp.

Dẫu vẫn biết Thiên Chúa là vĩnh cửu trường tồn, thế gian và của cải vật chất thì mau qua chóng hết, tuy nhiên nhiều người đã không dám chọn để đầu tư cho Nước trời và hạnh phúc đời đời của mình và gia đình. Nhiều cha mẹ chọn đầu từ nhà cửa đất đai cho con cái, mà quên đầu tư việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc của gia đình, nhất là quên đầu thư cho đời sống đạo. Nhiều người khác lo đầu tư việc học, bằng cấp cho con, nhưng không đầu tư cho việc giáo dục nhân bản và đời sống đạo đức cho con mình. Nhiều bạn trẻ lo đầu tư cho việc học, tương lai nghề nghiệp mà quên đầu tư nhân cách và đời sống đức tin. Chính vì thế, cuộc sống của nhiều người và của nhiều gia đình bị thiên lệch, mất quân bình. Việc đầu tư để đem lại hạnh phúc và cuộc sống sung túc cho gia đình là điều quan trọng, cũng vậy các bạn trẻ đầu tư cho việc học và sự nghiệp tương lai là điều cần. Nhưng nếu dồn tất cả thời gian, công sức vào những mục tiêu đó mà thôi, thì chưa đủ, trái lại mỗi người cần phải đầu tư cho hạnh phúc nước trời, cho tương lai vĩnh cửu của mình mai sau, đó mới là điều quan trọng và cần thiết nhất.

Xin cho mỗi chúng ta dù giàu hay nghèo về của cải vật chất thì cũng dám buông bỏ, sống tự do siêu thoát, không để cho của cải và những ham muốn làm giàu cản bước chúng ta trong việc trở nên môn đệ Chúa Giêsu và ngăn trở chúng ta trên hành trình về Nước Trời. Amen

 

.

SỰ KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Người ta thường nói “Có tiền mua tiên cũng được”. Và có lẽ mối bận tâm lớn nhất của con người trong cuộc sống là kiếm tiền. Ai cũng thích có nhiều tiền của, tất một điều là thái độ con người đón nhận và sử dụng tiền của sao cho đúng thánh ý Thiên Chúa. Sách Khôn ngoan trong bài đọc 1 hôm nay thuật lại rằng, Salomon đã không xin cho mình được sống lâu, không xin được nhiều của cải, không xin chiến thắng quân thù nhưng đã xin ơn khôn ngoan. Vì Salomon đặt giá trị của sự khôn ngoan lên trên sự giàu sang, vàng bạc cũng như trên sức khoẻ và sắc đẹp. Có khôn ngoan là có tất cả. Vì thế, tác giả sách Khôn ngoan xác tín: “Tất cả mọi sự tốt lành đều đến cùng tôi làm một với nó, và nhờ tay của nó, tôi được đoan chính không kể xiết”.

Thưa anh chị em, chỉ có sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa mới có giá trị đích thực. Sự khôn ngoan này là ơn cần thiết phải xin từ Thiên Chúa. Đấng ấy chính là Đức Giêsu, Người là sự khôn ngoan đích thực đến từ Thiên Chúa Cha, Người chỉ bảo cho chúng ta biết sự khôn ngoan đích thực là tìm kiếm Nước trời. Trước lời tung hô “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?”. Câu hỏi cho thấy người thanh niên này là người khôn ngoan, biết đi tìm kiếm sự chỉ dạy khôn ngoan để đạt đến sự sống đời đời. Trả lời câu hỏi của người thanh niên, Chúa Giêsu đã giới thiệu cho anh các giới răn phải thi hành: “đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”. Giờ đây, Thầy nhân lành trở thành Đấng khôn ngoan của Thiên Chúa đang chỉ bảo anh. Đối với người thanh niên đã tuân giữ mọi giới răn ngay từ nhỏ, Chúa Giêsu chờ đợi nơi anh một thái độ quảng đại tiến thêm một bước nữa để trở thành môn đệ của Người: “ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người thanh niên nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Qua đó, Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan tuyệt đối, Người cho thấy sự khôn ngoan đích thực là tìm kiếm Nước trời, vì: Nước Thiên Chúa không hệ tại ở của cải, giàu sang. Trái lại của cải giàu sang thường làm cản đường cho người ta không đủ can đảm để tiến đến sự sống đời đời: “những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”. Và vì thế, người thanh niên đã hụt mất ơn gọi cao cả dành cho mình để chiếm được gia nghiệp đời đời và đi theo Người.

Có câu chuyện kể rằng, Ngày 6 tháng 6 năm 1976. Một người giàu nhất xưa nay đã qua đời, thọ 83 tuổi; ông I. Paul Getty để lại khoảng 2 đến 7 tỷ đôla. Có lần một phóng viên làm ông phải thú nhận là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình. Suy nghĩ vài giây, ông trả lời: “Vâng, thật đáng buồn”. Một lần khác ông xác nhận: Tiền bạc không thể mua hạnh phúc, hơn nữa ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với bất hạnh nữa.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Tiền bạc không phải là tất cả những gì trên trần gian này như nhiều người lầm tưởng “có tiền mua tiên cũng được”. Vì, tiền bạc không thể mua được hạnh phúc nhưng tiền bạc lại có bà con với bất hạnh nữa. Cụ thể là người thanh niên trong bài Tin mừng đã “sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi” dù anh đã tuân giữ mọi giới răn từ thuở nhỏ, chỉ vì anh giàu có, không giám bỏ của cải giàu sang. Sự giàu có và những trói buộc của nó gây ra sức độc chiếm đến nỗi con người hầu như không còn có sức lực và sự chú tâm đáp ứng đòi hỏi của Nước trời. Quả thật, tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng khuyến cáo chúng ta rằng tiền bạc rất nguy hiểm, có thể làm cho chúng ta mất Nước thiên đàng.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã trở nên nghèo khó để chúng ta được dư dật ân sủng của Người, ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để chúng ta biết dùng của cải Chúa ban mà phục vụ những người nghèo khổ, và tích cực sống lời Chúa dạy để trở nên những chứng nhân cho tình yêu của Người. Amen.

 

.

HAI SỰ KHÔN NGOAN

Lm. Bosco Dương Trung Tín

Cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi”   (Khg 7,11)

Đức Khôn Ngoan đây là gì ? Đức Khôn Ngoan đây là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Con người chúng ta sống cần có sự khôn ngoan của con người và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Để có sự khôn ngoan của con người, chúng ta cần học ở trường học và ở trường đời. Học ở trường học, ta sẽ có được những kiến thức; học ở trường đời ta sẽ có những kinh nghiệm, gọi là những “kinh nghiện sống”. Quả thật, khi còn nhỏ, ta chưa biết gì, nên cần phải đến trường để học. Ta học những kiến thức do các thầy cô truyền đạt. Đó như là hành trang để ta bước vào đời. Dù sao thì việc học trên trường, cũng chỉ tối đa là 20 năm, tính cả những năm đi mẫu giáo và những năm học đại học.

Cũng có những người không có cơ may để có 20 năm học trên trường đó, họ chỉ có 3 năm, 5 năm hay 12 năm thôi. Thế nhưng việc học của con người không dừng lại ở trường học, mà khi vào đời, họ cũng có thể học ở trường đời. Học ở trường đời, đó là những thực tế của cuộc sống. Ta học trực tiếp từ cuộc sống hàng ngày, để ta có những kinh nghiệm sống; hơn nữa, còn là những kinh nghiệm xương máu. Những kinh nghiệm này, ta không chỉ đổ mồ hôi, mà còn đổ cả “máu”; ta phải “nằm gai nếm mật” mới có được.

Cuộc sống không đơn giản như mình nghĩ. Nó “thượng vàng, hạ cám”; nó lằng nhằng, rắc rối; nó có đủ cách, đủ kiểu; nó cực kỳ phức tạp. Để có một cuộc sống êm đẹp và hạnh phúc, rất cần đến sự khôn ngoan. Người mà có sự khôn ngoan ở trường mà không có sự khôn ngoan ở đời, cũng khó mà sống; người có sự khôn ngoan ở đời, mà không có sự khôn ngoan ở trường, cũng sống được chứ không đến nỗi. Những gì trước đây không có cơ hội để học, thì bây giờ, có cơ hội là họ học. Ở đời có biết bao điều phải học, lại học trực tiếp nữa, nên nếu để ý mà học thì sẽ có kiến thức, có sự hiểu biết thôi.

Nếu chỉ có kiến thức ở trường học mà vụng về trong trường đời, thì giống như học mà không hành vậy. Học mà không thực hành thì chỉ có kiến trên sách vở, không làm gì được. Như người có bằng này cấp nọ, nhưng ra đời chẳng làm việc gì cho ra hồn; mang danh là tiến sĩ, nhưng chẳng bằng anh chỉ học đến lớp 12. Cứ tưởng, có bằng cấp là ngon, nhưng đó chỉ là kiến thức; cần phải đem kiến thức đó ra thực hành mới là ngon. Ông bà ta nói: “Đi một ngày học một sàng khôn” mà.

Nhờ sự khôn ngoan này mà ta biết cách ăn; biết cách nói; biết cách cư xử sao cho đẹp; biết làm sao cho đúng và mang lại nhiều kết quả tốt. Thiếu sự khôn ngoan ta sẽ gặp những khó khăn trên đường đời, sẽ thất bại trong công việc. Thất bại, ta sẽ không có tiền, không có của và sẽ buồn bã thôi. Bởi đó mà ta phải có tinh thần học hỏi, đi đâu ta cũng học; làm gì ta cũng học; ở đâu ta cũng học, vv…Cứ cái gì tốt, cái gì hay là ta học; ta học hoài, ta học mãi,…..học cho tới khi nào nhắm mắt xuôi tay mới thôi.

Càng học thì ta càng có nhiều kiến thức; càng có nhiều kinh nghiệm và ta càng khôn ngoan hơn. Học là một trong những cách để “Trẻ mãi không già”. Đúng vậy, khi học thì đầu óc ta làm việc, cả “100 năm vẫn chạy tốt”, không có lú lẫn. Không chịu khó học, thì ta sẽ mau già; còn trẻ đó nhưng cho mình đã học nhiều rồi, chỉ lo rong chơi, thì coi như đã già rồi vậy. Kiến thức dần dần quên đi; khôn ngoan cũng dần dần mai một và khả năng cũng ngày càng thui chột theo.

Vậy, ta phải có tinh thần học, học nữa, học hoài, học mãi………

Ta không chỉ cần sự khôn ngoan của con người, mà ta còn cần đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa nữa. Để có sự khôn ngoan của Thiên Chúa ta phải cầu nguyện và thực hành Lời Chúa dạy.

Ta phải cầu nguyện. Điều này được thấy rõ nơi vua Sa-lô-mon. Khi Sa-lô-mon lên làm Vua, Chúa nói muốn xin gì Chúa sẽ ban cho. Vua Sa-lô-mon đã xin: “Xin ban cho con một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái” (x. 1V 3,9). Chúa rất hài lòng với lời xin này và ban cho Vua: “Một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước Vua chẳng có ai bằng và sau Vua cũng chẳng có ai bì kịp” (x. 1V 3,12).

Có thể nói Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan là của vua Sa-lô-mon. Quả thật, “Vua nguyện xin và Thiên Chúa đã ban cho Vua sự hiểu biết. Vua kêu cầu và Thần Khí Đức Khôn Ngoan đã đến với Vua” (Kng 7,7). Và với kinh nghiệm của mình vua Sa-lô-mon đã nói về Đức Khôn Ngoan như sau:

Đức Khôn Ngoan tôi đã quí trọng, còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan” (x.Kng 7,8).

Có được sự Khôn Ngoan thì không có gì bằng; Khôn Ngoan quí hơn cả vương trượng, ngai vàng; quí hơn cả của cải. Vì có quyền, có thế mà không có sự khôn ngoan làm sao mà vững chắc; làm sao cho người ta “tâm phục khẩu phục” được.

Sự khôn ngoan mà so với của cải thì sự khôn ngoan vẫn hơn. Ta hãy so sánh một người giàu mà dại với một người nghèo mà khôn thì ai sẽ hơn ai ? Người giàu mà dại hay thiếu sự khôn ngoan thì làm sao biết giữ và biết dùng của cải, không chóng thì chầy, sẽ bị người ta lừa hay dùng vào những việc không sinh lời, dần dần sẽ hết tiền; có nước đi ăn mày thôi. Còn người nghèo mà khôn, thì biết cách làm, biết cách giữ tiền của và dùng của cải để sinh lời, thì của cải sẽ có nhiều thêm; không ai gạt, không ai lợi dụng được.

Người còn thế, huống hồ là tiền của mà so với sự khôn ngoan, đương nhiên sự khôn ngoan sẽ hơn hẳn rồi. Tiền của chỉ là đồ vật, vô tri vô giác. Có là tỉ bạc; có giá trị ngàn đô, thì cũng chỉ là đồ vật thôi. Còn khôn ngoan, thì thiên biến vạn hóa, muốn làm cái gì cũng được, cũng thành công; khôn lại thêm khôn.

Bởi đó ta hãy ham chuộng khôn ngoan hơn mê tiền mê của.

Đối với tôi, trân châu bảo ngọc, chẳng sánh được được với Đức Khôn Ngoan. Vì vàng trên thế giới, so với Đức Khôn Ngoan cũng chỉ là cát bụi và bạc so với Đức Khôn Ngoan cũng kể như bùn đất” (x. Kng 7,9).

Như thế nghĩa là khôn ngoan quí hơn cả trân châu bảo ngọc, quí hơn cả vàng, quí hơn cả bạc. Quí hơn đây là quí hơn về giá trị. Có khôn ngoan thì sẽ có trân châu bảo ngọc; có vàng, có bạc. Ta dùng sự khôn ngoan của mình để suy nghĩ và làm việc. Ta sẽ có tiền. Có tiền ta sẽ đi mua trân châu, bảo ngọc; ta đi mua vàng mua bạc. Ngược lại thì không. Tức là dù có trân châu bảo ngọc, dù có vàng , có bạc, cũng không mua được sự Khôn Ngoan đâu.

Bởi đó ta hãy để ý đến Khôn Ngoan hơn là để ý đến vàng, đến bạc.

Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khỏe và sắc đẹp; đã quí Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi” (x. Kng 7.10).

Sắc đẹp thì cũng có ngày tàn phai; trẻ thì đẹp đấy, già thì không ai dám nhìn. Càng trau chuốt, bôi son chát phấn bao nhiêu, ngày sau càng hư da mặt, càng xấu xí bấy nhiêu; nói không ngoa “giống như quỉ dạ xoa” vậy. Ca sĩ Thẩm Thúy Hằng là một ví dụ. Trước đây, cô đẹp tuyệt trần, có  bao nhiêu người say mê; bây giờ thì phải bịp mặt lại, ngay cả chính bà cũng không dám soi gương nhìn mặt mình nữa. Rồi, dù cho có là Hoàng Hậu đi nữa, khi chết thân thể cứng đờ, lạnh toát, bao nhiêu vẻ đẹp đã tan thành mây khói. Điều này ai cũng biết, nhưng vẫn có nhiều người ham làm đẹp vẻ bên ngoài hơn là tập đẹp tính, đẹp nết. Các bà, các cô, bỏ bao nhiêu tiền cũng không tiếc để làm đẹp; thế nhưng lại không lo làm đẹp tâm hồn.

Còn về sức khỏe thì sao đây? Có sức khỏe, mạnh như voi, như cọp mà không có khôn ngoan thì có ích chi. Câu chuyện “Trí khôn của ta đây” đã nói lên điều đó. Con Cọp đã không hiểu tại sao con người bé xíu như thế lại có thể dắt mũi một con bò, một con trâu to lớn như thế. Chính nó lại muốn xem cái “khôn ngoan” của con người, nên đành chịu cho con người trói vào gốc cây. Đúng là ngu hết biết ! Đó cũng là sự khôn ngoan của con người; là trí khôn của con người.

Là con người, phải có trí khôn, phải có khôn ngoan mới được.

Cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi” (Khg 7,11).

Với Đức Khôn Ngoan, với sự Khôn Ngoan của Chúa ban, ta sẽ làm những việc lành việc tốt; việc công chính, việc công bình, thì mọi sự tốt lành sẽ đến với ta. Ta sẽ sống trong bình an và hạnh phúc. Ta khôn thì ta biết lo chu toàn các việc bổn phận của mình; ta không xía vào chuyện của người khác; ta làm sao cho tốt; làm cho cho thành công. Rồi nếu có người cần giúp đỡ thì ta giúp; không nề hà, không lợi dụng, không lừa gạt, không gian dối.

Nếu chỉ có sự khôn lỏi, khôn ranh của con người không thì coi chừng, sẽ gặp nhiều “oan trái”; có thể là có nhiều tiền, nhiều của; được ca tụng, hoan hô, nhưng không có bình an, không có hạnh phúc trong tâm hồn đâu. Ta mà đi nói hành nói xấu người khác; ta đi lợi dụng, lừa gạt người ta, ta đâu có được sự bình an và hạnh phúc đâu.

Hãy dùng sự khôn ngoan của con người trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa, sẽ đem lại bình an và hạnh phúc trong tâm hồn.

Dầu vậy, vào cuối đời, vua Sa-lô-mon đã bị mê hoặc, đã sa ngã không đẹp lòng Chúa. Vì Vua đã không theo lề luật Chúa và đã bỏ Chúa. Thật là uổng phí cho một con người mệnh danh là “khôn ngoan”. Thế mới hay, chính Thiên Chúa mới là nguồn mạch sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan của con người được ví như một cái bình ắc-qui vậy. Bình ắc-qui thì có ngày sẽ hết điện, nó phải được nạp điện, phải được sạc lại mới dùng được. Sự khôn ngoan của con người chúng ta cũng thế, cũng phải luôn nối kết với sự khôn ngoan của Chúa, qua việc cầu nguyện. Nếu không có ngày sẽ hết điện, sẽ chẳng dùng vào việc gì; con người của ta có ngày sẽ ra hư đốn, băng hoại và đại bại. Bao nhiêu công sức, bao nhiêu cố gắng đều đổ xuống sông, xuống biển hết. Tay trắng vẫn hoàn trắng tay.

Bởi đó ta phải để ý, phải lo sạc điện, lo sạc “khôn ngoan” cho bình ắc-qui khôn ngoan của mình, đừng để cho nó hết điện, hết khôn ngoan bao giờ.

Cách sạc điện tốt nhất đó là thực hành Lời Chúa. Lời Chúa chính là sự khôn ngoan của Chúa. Khi ta nghe và thực hành Lời Chúa, ta sẽ có sự khôn ngoan của Chúa và sạc thêm cho bình ắc-qui khôn ngoan của ta. Nếu ta nghe Lời Chúa mà không hiểu, học hỏi Lời Chúa; ta phải nghe giảng; ta phải cầu nguyện, phải suy niệm để hiểu ý nghĩa. Khi hiểu rồi, ta sẽ đem ra thực hành trong đời sống của mình. Càng sống Lời Chúa bao nhiêu, ta sẽ càng khôn ngoan bấy nhiêu. Đây đích thực 100% là sự Khôn Ngoan của Chúa, chứ không phải của người đời.

Do đó, ta phải đọc, nghe, học và thực hành Lời Chúa luôn.

Sự khôn ngoan rất cần thiết cho đời sống của con người chúng ta. Chúng ta không chỉ cần sự khôn người của con người, mà nhất là ta còn cần đến sự khôn ngoan của Chúa nữa. Có sự khôn ngoan của con người, ta sẽ có tiền, có của, có thành công. Có sự khôn ngoan của Chúa, ta sẽ có bình an, hạnh phúc và mọi sự tốt lành. Vậy ta hãy ra sức để có hai sự khôn ngoan này. 

 

.

HÂM HẨM CHẲNG NÓNG CHẲNG LẠNH

JM. Lam Thy

Bài đọc 1 hôm nay (CN.XXVIII/TN-B – Kn 7, 7-11) trich sách Khôn Ngoan, trình thuật lời của Sa-lô-môn nói về Đức Khôn Ngoan. Theo ý kiến người Do Thái, Sa-lô-môn nổi tiếng thông minh nhất thời. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy, mà chính là do ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý trọng sự khôn ngoan hơn hết mọi sự ở đời. Truyền thuyết cho rằng khi mới lên ngôi, Sa-lô-môn đã đến Ga-ba-ôn, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng rất nhiều tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc rất “đông đúc”; nên ông cầu xin Thiên Chúa ban cho ông một lòng trí biết phân biệt phải trái, biết nghe lời Chúa để cai trị dân. Ðiều Sa-lô-môn xin đã đẹp ý Chúa và ông đã nhận được ơn khôn ngoan.

Nói đến khôn ngoan, ai cũng liên tưởng tới quan niệm cho rằng con người sống ở đời thường được chia làm 2 hạng: Khôn ngoan và khờ dại. Kẻ khôn ngoan là kẻ biết chọn cho mình những đìều lợi (cả tinh thần lẫn vật chất), còn những người được cho là khờ dại là những người ngu ngơ, ngờ nghệch trong mọi tình huống và thường chịu đủ thứ thiệt thòi. Tuy nhiên, trong cuộc sống nhiều khi những người ngu dại lại được sống một cuộc sống yên ổn, an bình (“ngu giả an chi”, “Ngu si hưởng thái bình” – thành ngữ), còn những người khôn ngoan thì chẳng bao giờ tâm hồn được yên ổn, cuộc sống vật chất có thể vinh hoa phú quý, nhưng tinh thần luôn bị giằng xé chao đảo vì tính toán, lo toan. Vì thế nên nhiều khi nhìn lại mình, đành chẹp mịêng buông một câu chán chường “Biết ai là dại, biết ai khôn!” (Trần Tế Xương), thậm chí còn muốn quay về với cái dại (an nhàn) hơn là cái khôn (tranh danh đoạt lợi): “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tới chốn lao xao” (Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Ca dao Việt Nam có câu: “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà, Lường thưng, tráo đấu, chẳng qua đong đầy”. Câu này khuyên con người nên ăn ở thật thà, đừng theo những người dùng sự khôn ngoan để lừa lọc người khác, thu lợi cho mình, nhất là trong việc giao dịch, mua bán: Dùng những đồ dùng đong gạo {thưng} hay đong thóc {đấu} thiếu cân lượng để lường gạt (“lường thưng, tráo đấu”); cũng giống như kiểu mài quả cân {cân xách tay} cho nhẹ bớt hoặc sửa kim đồng hồ {cân bàn) ngày nay người ta hay sử dụng. Và như vậy thì làm sao so sánh được với những người thật thà, chất phác (vốn được coi là khờ dại).

Quả thực đã không thiếu những kẻ tự cho mình là khôn ngoan khi dùng mưu này, chước nọ lừa dối người khác để trục lợi cho mình. Họ đã quên mất một điều khi dùng mưu mô lường gạt người khác thì cũng chính là lúc mình tự lừa dối mình (“Còn hạng người xấu xa và bịp bợm sẽ ngày càng xấu hơn, họ vừa lừa dối, vừa bị lừa dối” – Tm 3, 13;  “Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em, chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ không vâng phục.” – Ep 5, 6). Hoá cho nên “thật thà là cha quỷ quái”. Cuối cùng thì sẽ trở nên phân vân không biết nên khôn ngoan hay khờ dại và trở thành một thứ dở dở ương ương, lơ lửng con cá vàng.

Kẻ viết bài này hồi nhỏ thường được thân phụ lấy tục ngữ, ca dao ra răn dạy sau những trận đòn nhừ tử: “Khôn cho người ta dái (nể sợ), dại cho người ta thương, (đừng có) dở dở ương ương cho người ta ghét”. Lớn lên, cứ thắc mắc hoài không hiểu mình khôn hay dại, chẳng lẽ lại cứ lơ lửng con cá vàng “dở dở ương ương”? Về già, được tiếp cận nhiều với Lời Chúa trong Thánh Kinh, lại gặp một câu trong sách Khải Huyền khiến tâm thần bấn loạn: “Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3, 16).

Ôi chao! Ước nguyện được ở trong Chúa mà sống đến độ Người muốn “mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” thì quả là… hết biết! Thầm nghĩ nếu quả thật mình cứ “dở dở ương ương” thì chắc chắn mình sẽ giống như những người “hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh” trong Hội Thánh Lao-đi-ki-a. Bèn đề ra một châm ngôn sống và quyết tâm thực hiện như lời khuyên của Thánh Phao-lô: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối.” (Ep 5, 15-16); “Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật.” (1Cr 3, 18).

Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 10, 17-30) trình thuật về một thanh niên giàu có khôn ngoan. Cái khôn ngoan của anh là đã nhận ra Đức Giê-su là “Thầy nhân lành” và cầu xin Người chỉ cho phương cách tìm được sự sống đời đời. Đức Giê-su trắc nghiệm anh về cuộc sống qua những điều răn, anh thực tâm trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” Vì thế, “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”. Tuy nhiên, khi Đức Ki-tô nói: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”, thì “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.” Xét cho cùng, anh nhà giàu vẫn khư khư ôm lấy cái khôn ngoan của loài người. Anh đã khôn ngoan mới trở nên giàu có ở cuộc sống trần thế. Anh vẫn khôn ngoan muốn tìm đến với Thầy nhân lành để có được sự sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, anh lại muốn ôm lấy cả hai, nên anh trở thành người “hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh”.

Quả đúng là “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại” (Lc 16, 8). Và cũng vì không thể chọn cả hai, nên anh nhà giàu sa sầm ngay nét mặt, bỏ đi một nước. Anh đã phải đối diện với một chọn lựa gay go; mà trong đó, anh chỉ được chọn một trong hai – hoặc sự giàu sang ở đời này, hoặc sự sống vĩnh cửu đời sau – chớ không thể chọn cả hai. Anh đã tìm đến với Đức Ki-tô, chứng tỏ anh cũng muốn có một cuộc sống vĩnh cửu tốt đẹp. Sở dĩ anh bỏ đi một nước vì cái sự sống đời đời anh chỉ mới nghe nói chớ chưa thấy được tận mắt (“thực mục sở thị”), còn sự giàu sang ở đời này anh đã nắm chắc trong tay. Giữa một cái thực tại nhãn tiền với một cái viễn tượng mơ hồ, thì – theo sự khôn ngoan của loài người – ai cũng chọn hiện thực, đó cũng là lẽ thường tình.

Và cũng chính những kẻ từng cho mình là khôn ngoan như vậy, đã cười nhạo các thánh “Tử vì Đạo” là những kẻ khờ dại. Họ cho rằng chỉ cần khôn ngoan bước qua (thậm chí có thể đạp lên) cây thập tự bằng gỗ vô tri vô giác, thì sẽ có một cuộc sống “an an tự tại”. Vậy mà các thánh Tử vì Đạo lại không muốn, mà đi chọn lấy cái chết nhục nhã như thế, thì thật là khờ dại! Phải chăng họ chính là những kẻ mà Thánh Phao-lô nói đến trong thư gửi tín hữu Ti-tô (“Thật vậy, có nhiều kẻ bất phục tùng, nói năng rỗng tuếch, lường gạt, mà đa số là những kẻ được cắt bì.” – Tt 1, 10). Ôi chao! Khôn hay dại, dại hay khôn đây?

DẠI KHÔN

“Thế sự đua nhau nói dại khôn,

Biết ai là dại, biết ai khôn?

Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,

Dại chốn văn chương, ấy dại khôn.

Này kẻ nên khôn đều có dại,

Làm người có dại mới nên khôn.

Cái khôn ai cũng khôn là thế,

Mới biết trần gian kẻ dại khôn.”

(Trần Tế Xương).

Quả thật “Đời là thế, thế thời phải thế! Cuộc trần ai, ai dễ biết ai?” (Đối đáp giữa Đặng Trần Thường và Ngô thì Nhậm). Đứng trước một chọn lựa gay go như trên, ai chẳng muốn chọn sự khôn ngoan, nhưng với Ki-tô hữu thì nên biết rằng “sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng: Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng.” (1Cr 3, 19); và vì thế nên “hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối.” (Ep 5, 15-16).

Một cách cụ thể là đừng phân vân để rồi trở thành một thứ “dở dở ương ương, hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh”, mà phải dứt khoát từ bỏ tất cả những gì theo sự khôn ngoan của thế gian, để chọn lấy sự khôn ngoan như Lời Chúa dạy. Cũng đừng lo sợ khi sẵn sàng từ bỏ tất cả thì sẽ phải mất tất cả những thứ đó. Ngược lại, khi dứt khoát từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, thì lại được lời lãi gấp bội không những ở đời này, mà còn có được sự sống vĩnh cửu ở đời sau (“Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, mà lại không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” – Lc 18, 29-30)

Không còn nghi ngờ gì nữa, mà cũng chẳng nên do dự, bởi “vì kẻ do dự thì giống như sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống” (Gc 1, 6). Do dự thì chắc chắn sẽ trở nên một thứ “hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, dở dở ương ương, ấm ớ hội tề”. Hãy dứt khoát chọn cho mình hoặc sự khôn ngoan theo thói đời để trở thành điên rồ trước mặt Thiên Chúa, hoặc khờ dại, điên rồ theo cách đánh giá của thế nhân, để có được sự khôn ngoan đích thực (“Đừng ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật.” – 1Cr 3, 18). Vâng “Thần khí phán rõ ràng: vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ.” (1Tm 4, 1). Cần phải biết cầu xin Thiên Chúa ban Thần Khí soi sáng và dẫn dắt tìm đến với “Con Đường + Sự Thật + Sự Sống” Giê-su Ki-tô qua Lời Hằng Sống, để rồi “hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1, 22).

Ôi! Lạy Chúa! Con luôn biết rằng con người của con thật yếu đuối mỏng giòn, nhưng vẫn tự coi mình là khôn ngoan khi sống một cuộc sống khép kín, chỉ nghĩ cho riêng mình và thu tích những gì có lợi cho bản thân, mà không hề nghĩ tới anh em khó nghèo, tật bệnh. Trong khi đó, con lại luôn mong muốn khi nhắm mắt lìa đời được hưởng một cuộc sống vĩnh cửu. Sự ích kỷ và hèn nhát đã khiến con trở thành một thứ dở dở ương ương, hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, đã không muốn mất đi sự sống đời đời, mà cũng chẳng từ bỏ những gì thuộc về thế gian. Cúi xin Chúa thương ban Thần Khí cho con, soi sáng và hướng dẫn con biết sẵn sàng và đủ dũng khí từ bỏ tất cả những gì thuộc về trần thế như cánh phù dung sớm nở tối tàn; mà biết tìm về với sự sống đời đời nơi Trái Tim Nhân Lành của Chúa!

Ôi! Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết “cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại” (Ep 5, 15-16) để ngày sau được diễm phúc hưởng tôn nhan Chúa trên cõi phúc truờng sinh. Ôi! “Lạy Thiên Chúa toàn năng, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXVIII.TN-B).

 

.

KHO BÁU TRÊN TRỜI

Fx Đỗ Công Minh

Bài Tin mừng hôm nay, chúng con được theo dõi một cuộc gặp gỡ và đối thọai của Đức Giêsu Kitô với một chàng thanh niên đạo đức. Cuộc đối thọai cho thấy Chúa  luôn đi đến với mọi người, lúc trong đêm tối như ông Nicôđêmô, lúc ở một ngôi làng như với một thiếu phụ bên bờ giếng Gia Cóp, lúc thì với một viên sĩ quan đến xin Người chữa lành bệnh cho con của ông, lúc với người đàn bà bị băng huyết nhiều chục năm có lòng tin tuyệt đối, nên được Chúa chữa lành. Và lần này, với chàng thanh niên “đã tuân giữ những lề luật từ khi còn tấm bé”, một người được Chúa tỏ lòng yêu qúi ngay buổi đầu gặp gỡ. Anh hẳn đã nghe biết về Chúa từ lâu và mong muốn được nghe lời chỉ dạy của Người, hầu được hạnh phúc bất diệt ( được sống đời đời ). Chính vì vậy, anh đã thưa với Chúa bằng lời tung hô:” Lạy Thầy nhân lành “, một cách chúc tụng, theo tâm lý học đó là một cách giao tiếp tế nhị, khôn ngoan; một cách gây thiện cảm với người gặp gỡ lần đầu tiên. Chúa Giêsu nhắc khéo anh: ”Sao anh nói tôi là nhân lành ? “ và Người chỉ cho anh rằng chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng nhân lành. Sau  khi đã nhắc lại cho  anh một số điều răn dạy trong đạo, chàng thanh niên đã tự nhận là người tuân giữ các lề luật. Chúa đã nhắc anh chỉ còn thiếu có một điều, đó là thực hành những điều anh đã học, đã biết trong cuộc sống: “ Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi “. Nhưng anh đã sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi .

Thái độ bỏ đi của anh, Chúa không hề tức giận, không lên án. Nhưng Người TIẾC cho anh, một con người có nền tảng luân lý, đạo đức nhưng lại không bén rễ sâu trong cuộc sống. Anh có nhiều của cải, những của cải ấy là chính đáng do anh tạo lập được. Anh đã từng tuân giữ lề luật trong đạo, tức là không trộm cắp, lừa dối, gian lận; không làm hại ai để thu tích của cải, để làm giàu bất chính. Anh giàu có, điều đó không phải là một cái tội. Chúa tiếc cho anh vì anh chỉ lo tích lũy cho bản thân, gia đình mình mà không quan tâm đến những người  khốn khổ bên cạnh anh. Được Chúa chỉ dẫn con đường  nên trọn lành, anh đã không dám mạnh dạn bước theo vì sợ mất đi những gì mình đang có. Anh sợ rằng lời Chúa nói với anh là không có thực? Một kho tàng ở trên trời là những gì? có đảm bảo cho anh một cuộc sống thảnh thơi như hiện nay trên bước đường đi theo Chúa? Anh đã không tin tưởng vào Lời Chúa  giải đáp cho. Anh không có đủ can đảm để tiếp tục cuộc đối thọai, vì cho rằng điều Chúa dạy mà làm theo thì sẽ không biết “sẽ ra sao ngày sau “. Anh không hiểu rằng nếu tiếp tục nán lại lắng nghe Chúa nói, anh sẽ đón được những lời sau :”Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ ở đời này, lại không nhận  được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ,con hay ruộng đất  gấp trăm, cùng với sự ngược đãi , và sự sống vĩnh cửu đời sau “.

Lạy Chúa,

Đã bao lần trong cuộc đời con xin gặp gỡ Chúa để được nghe lời Người chỉ dạy, rồi con cũng đã bỏ đi. Con không tin thực vào lời Chúa, không dám nán lại trong tình yêu Chúa. Con chưa đủ can đảm dứt bỏ đi những gì con đang có, những thói quen, những dễ dãi của bản thân.  Chính vì vậy con vẫn ở xa lòng Chúa yêu thương, con  luôn cảm thấy lòng mình bất an, lo sợ. Cuộc sống thiếu đi niềm vui, niềm hy vọng, sự phấn khởi.

Xin Chúa  giúp con nhìn lại cuộc đời mình, để  con có thể tìm ra được một kho tàng đích thực trên trời. AMEN.

 

.

HUYỀN NHIỆM ƠN GỌI

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Bài Tin Mừng hôm nay gồm ba phần, được coi là ba phần khác nhau nhưng thánh Marcô xếp chúng lại gần nhau để làm thành một nội dung duy nhất. Phần đầu (Mc 9, 17-22) là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên này có một đời sống thật tốt. Chính vì thế, anh ta được Chúa Giêsu “đem lòng yêu mến”, Người MỜI GỌI anh theo mình. Nhưng trước khi làm môn đệ của Chúa, anh phải là người nghèo, cùng trở nên nghèo với những ai nghèo khó, mới được, vì thế, anh “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo”, rồi theo Chúa. Nhưng đối với anh, một điều kiện xem ra quá khắc nghiệt và cũng chưa từng bao giờ mường tượng như thế, anh không thể làm được. Anh đã thua cuộc, đã rút lui.

Phần thứ hai (Mc 9, 23-27) như được rút ra từ phần thứ nhất. Sau khi nói chuyện với người thanh niên giàu có, bây giờ nhân cơ hội này Chúa dạy hãy sống siêu thoát, đừng để lòng mình dính bén với của cải vật chất. Muốn siêu thoát phải sống tinh thần nghèo khó, phải từ bỏ của cải vật chất, vì “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước trời” (Mc 10, 25). Khi ai đó dám chấp nhận sống siêu thoát như thế, họ mới thực sự là người nghèo, nghèo toàn diện: tinh thần, vật chất. Vì chỉ có người nghèo mới có thể ĐÁP TRẢ ƠN GỌI của Chúa. Và lúc ta trở nên người nghèo để đáp trả ơn gọi, đó cũng chính là lúc ta bắt đầu SỐNG ƠN GỌI.

Phần thứ ba (Mc 10, 28-31), cũng trong mạch văn nói về sự từ bỏ để sống ơn gọi theo Chúa, Chúa Giêsu cho ta biết một KẾT QUẢ cuối cùng của người bước theo Chúa qua câu trả lời cho câu hỏi khá tế nhị: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?” (Mc 10, 28) của thánh Phêrô. Người nói: Không ai bỏ mọi sự đi theo Thầy mà “ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10, 19 – 31).

Theo chiều hướng suy nghĩ về ơn gọi dựa trên Lời Chúa như thế, tôi muốn nói về HUYỀN NHIỆM của ơn gọi, và mời bạn cùng tôi tiếp tục nhìn vào ơn gọi của chính mình, nhất là những ai đang sống lý tưởng tu trì, để một lần nữa khám phá lại lòng Chúa Giêsu yêu ta khi mời gọi ta dấn bước theo Người, trực tiếp sống ơn gọi mà chính Người đã nhận lãnh từ nơi Chúa Cha. Qua đó ta càng ý thức sâu xa hơn niềm hãnh diện, sự cao cả và hạnh phúc về ơn gọi của mình, để mỗi một ngày, ta biết vun bồi cho ơn gọi ấy đầy đặn hơn, xinh tươi hơn, ý nghĩa hơn…

Có một lần, trước khi bắt đầu bài nói chuyện cùng một số bạn trẻ nam dự tu vào Đại chủng viện, tôi đã đặt câu hỏi cho các bạn thế này: “Theo anh em, anh em nghĩ, ơn gọi là gì?” Và chính tôi đã tự đưa ra câu trả lời: “Nếu ai đó nghĩ rằng, ơn gọi là cái đích phải đạt tới cho bằng được, người đó sẽ thất bại. Có khi do chính suy nghĩ ấy, ta tự mình chuốc lấy sự đau buồn. Vì cứ bình thường mà nói, không phải bất cứ cái gì ta muốn đều có thể đạt được, huống hồ ơn gọi thuộc chiều kích thánh thiêng, không phải chỉ có con người muốn mà trước hết là do ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng nếu ta biết rằng ơn gọi là thánh ý Thiên Chúa dìu đưa từng giây từng phút trong cuộc đời của mình, còn ta là kẻ thụ nhận và từng lúc, từng giai đoạn trong cuộc đời mình, ta sẽ phải xin vâng theo thánh ý của Người, ta phải phó thác vận mạng đời mình cho Người, thì lòng ta sẽ bình an, sẽ cảm nhận hạnh phúc, niềm hy vọng sẽ vẫn không tắt dẫu lý tưởng ơn gọi có đạt được hay không”.

Đưa ra câu hỏi và trả lời như thế, có lẽ sẽ khó hiểu cho người ngoài cuộc. Bạn có biết, tôi đang nói đến hoàn cảnh đặc thù của ơn gọi tại chính nơi tôi đang sống? Rất nhiều trường hợp, một thanh niên đã được xét là đã đủ hạnh kiểm, đủ khả năng, đủ tư cách để được vào Đại Chủng viện, phải dừng lại vì một vài lý do tế nhị nào đó. Có nhìn thấy những giọt nước mắt đau buồn, tiếc xót của những bạn trẻ ấy, bạn mới có thể hiểu điều mà tôi đã nói: huyền nhiệm ơn gọi. Huyền nhiệm ấy đã thúc bách, đã nung đốt tâm hồn của biết bao nhiêu người trẻ. Với hai năm mới có một đợt tuyển vào Đại Chủng viện, và mỗi đợt như thế, số người được tuyển cũng rất giới hạn, nhưng họ vẫn sẵn sàng chờ đợi cho đến lúc có tên mình dù phải xếp hàng chờ đợi trong nhiều năm liền. Tất cả những người trẻ muốn đi tu đều đã qua đại học. Có người đang làm bác sĩ, giáo sư, thẩm phán, kiến trúc sư, kỷ sư… nghĩa là họ có quyền mơ và xây dựng cho mình một cuộc sống tiện nghi, giàu có. Nhưng các bạn đã dám từ chối tất cả để chỉ đạt được một điều duy nhất mà thôi: theo Chúa Kitô trong ơn gọi tu trì. Phải hy sinh nhiều bao nhiêu, phải vượt qua khó khăn nhiều bao nhiêu, bị người đời ghét bao nhiêu, thì khi được thực hiện lý tưởng đời mình, niềm vui càng lớn, hạnh phúc càng trào dâng bấy nhiêu. Ngược lại, với những chua cay và khó khăn như thế, cuối cùng vẫn bị từ chối, vì thế, nỗi đau như muốn xé nát tâm hồn các bạn là điều hợp lý đấy thôi. Bởi vậy tôi hiểu, hiểu lắm những giọt nước mắt đáng yêu, đáng quý của những bạn trẻ bị chối từ. Huyền nhiệm của ơn gọi thật lạ lùng quá đỗi. Nó là một hấp lực lớn, không phải chỉ có hôm nay, nhưng là hàng ngàn năm lịch sử, đã làm rung động triệu triệu con tim của biết bao nhiêu người trẻ. Và Chúa Kitô muôn đời vẫn là lý tưởng mà lớp lớp người đã chọn để theo và sống.

Bạn ạ, ơn gọi là một huyền nhiệm mà Thiên Chúa yêu thương trao ban cho con người. Dù đến từ Thiên Chúa, nó vẫn luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Mời gọi để ta bước theo Chúa, đó là việc của Chúa. Nhưng đáp trả ơn gọi hay không, hoặc đáp trả như thế nào là chuyện của ta. Và một khi đã đáp trả, nghĩa là đã chọn lựa bước theo Người, ta phải sống ơn gọi. Vì ơn gọi dù đã quang trọng ở ngay việc ta đáp trả, nhưng vẫn không quan trọng cho bằng nỗ lực sống ơn gọi ấy từng ngày sau lời đáp trả của chính bản thân. Nói cách khác, Chúa mời gọi ta bước theo Người và ta đã đáp bằng lời “xin vâng”, nhưng như thế chưa đủ, điều cần thiết là phải sống lời xin vâng ấy bằng cả cuộc đời của mình.

Nếu Tin Mừng cho ta biết người thanh niêu giàu có nào đó, đã không dám dấn mình cho ơn gọi, thì lịch sử của Giáo Hội, mãi cho đến hôm nay, đó vẫn còn là thực tế. Nhưng tôi tin thực tế ấy chắc không nhiều. Ngược lại ơn gọi trên quê hương tôi thật dồi dào, thật phong phú. Trong hoàn cảnh và điều kiện còn đầy khó khăn cho những ai dám hy sinh bước theo ơn gọi, tôi nhận ra nơi các bạn trẻ như đã nói trên, là những người quá đỗi giàu có. Họ nghèo tiền của, không có địa vị xã hội, nhưng họ mới chính là những người giàu có. Trước hết họ giàu ơn Chúa, giàu nghị lực, giàu lòng quả cảm, giàu đời sống nội tâm, và giàu trên mọi thứ giàu: đó là đạt tới con đường Chúa Kitô đã đi. Một khi đạt tới sự giàu sang như thế, phải chăng họ không dừng lại bằng cách đáp trả lời “Xin vâng” trên môi miệng, nhưng đã làm cho tiếng “Xin vâng” thành lời của sự sống mà họ đã sống từng giây phút của cuộc đời mình!!

Nếu đặt trong khung cảnh của bài Tin Mừng mà tôi vừa phân tích bên trên để chỉ ra bốn tiến trình: CHÚA MỜI GỌI – CON NGƯỜI ĐÁP TRẢ ƠN GỌI – CON NGƯỜI SỐNG ƠN GỌI – KẾT QUẢ cuối cùng của người bước theo Chúa, tôi vui mừng thấy những bạn trẻ muốn dấn mình cho ơn gọi trên quê hương tôi đã thực sự nên thánh ngay trong chính ơn gọi của họ. Tận trong tâm hồn, các bạn trẻ ấy đã lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Và cũng sâu thẳm nơi tận tâm hồn, họ đã đáp trả tiếng gọi ấy. Không một chút ồn ào, không hề lên tiếng thốt ra một lời khoe mẻ, không một hành động khoa trương nào dù nhỏ nhất, họ đã âm thầm hiến dâng cuộc đời của họ, âm thầm hy sinh, âm thầm gánh chịu sự bị chối từ, can đảm sống nghèo, sống dứt bỏ mọi vướng bận cản trở họ tiến về phía Chúa Kitô… Tất cả những điều đó đủ làm bằng chứng lớn lao cho ta thấy họ đã sống ơn gọi từng ngày trong bầu nhiệt huyết trẻ trung của họ. Tin rằng Chúa đã nhận và ban cho họ những kết quả lớn lao còn ở phía trước như Người đã hứa.

Bạn ạ, suy nghĩ như thế về những người anh em của chúng ta, bạn và tôi thấy gì, áp dụng gì cho mình? Ai cũng có một sứ mạng để sống giữa đời. Sứ mạng ấy là chính ơn gọi Chúa trao cho bạn và tôi. Rất cụ thể: Bạn là công nhân, bạn là nông dân, là dân chài lưới, hay là người phá đất vỡ hoang… Hãy sống hết mình, hãy yêu mến đến tận cùng những gì bạn đang có trong tay, và hãy thánh hiến tất cả bằng một đời sống đức tin. Được như thế, đó là dấu chứng cho thấy bạn đang sống ơn gọi Chúa trao và nên thánh trong chính ơn gọi của bạn.

Tôi muốn nói với bạn về niềm vui mà Chúa vừa ban cho chúng ta: Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được cất nhắc lên tước vị Hồng y. Cách đây năm năm, ngày mà Đức Hồng y lãnh chức vụ Tổng Giám mục, ngài đã dâng một lời nguyện rất thắm thía. Nhân niềm vui chan chứa hôm nay, tôi muốn nhắc lại lời cầu nguyện ấy để chúng ta cũng biết tự tra vấn lòng mình như chính Đức Hồng y đã từng làm: “Dù bạn run sợ, lẽ nào bạn không đứng lên”. Nhờ đó, ta cũng sẽ làm một cuộc “Đứng lên” đáp lại ơn gọi của Chúa:

Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên.

Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng. Thế là Môsê đứng lên

Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân mình, Người chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất, yếu nhất trong nhà. Thế là Đavit đứng lên.

Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội, Người chọn một anh chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên.

Thiên Chúa cần một gương mặt để diễn tả tình yêu nhân loại, Người chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Mađalêna.

Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô lên sứ điệp của Người, Người chọn một kẻ chuyên bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.

Thiên Chúa cần một ai đó để quy tụ dân và đi đến với những người khác. Người đã chọn bạn. Dù bạn run sợ, lẽ nào bạn không đứng lên?…

 

.

ĐỨT RUỘT

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Đói thì đầu gối phải bò. Hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ. Có thực mới vực được đạo. Nhiều câu thơ, nhiều ngạn ngữ dân gian như muốn khẳng định rằng cuộc sống con người như mãi long đong, vất vả vì các nhu cầu căn bản để sinh tồn xét như là một sinh vật. Chuyện cơm áo, gạo tiền nó nhũng nhiễu con người mãi không ngơi. Chưa hết, bên cạnh cái trí khôn ý thức về sự cao quý của phận làm người thì cái ý chí tự do lại thúc bách con người tìm kiếm, thủ đắc các như cầu ngày càng cao và đa dạng. Ăn no, mặc ấm vẫn chưa đủ, còn phải ăn ngon và mặc đẹp. Trong cuộc sống, người ta không chỉ trông mặt mà bắt hình dong mà còn thường hành xử theo kiểu đồng tiền đi trước, mực thước theo sau. Cảnh đời tréo ngoe mà không hiếm: “Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm”.

Không giới hạn trong tương quan giữa người với người, ngày nay khi có những chuyện bất bình giữa các quốc gia hay tập thể, người ta cũng lại sử dụng đòn chiêu: trừng phạt kinh tế. Đồng tiền dính liền khúc ruột. Để có được sự tự do với tiền của thì dường như không dễ, ngay cả với những người thường lên tiếng trong các lãnh vực đạo đức, tôn giáo. Xin chớ vội trách người thanh niên có nhiều của cải mà Tin Mừng tường thuật. Nếu như giờ này Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Hãy về bán đi tất cả những gì ngươi có mà cho người nghèo, rồi đến mà theo Ta”, thử hỏi có được bao nhiêu người đáp trả dứt khoát và triệt để như thánh Phanxicô Axidi năm nào.

Người ta dễ dàng chấp nhận với nhau rằng tiền của chỉ là cái góp phần xây dựng hạnh phúc chứ không phải chính là sự hạnh phúc. Người ta cũng dễ dàng đồng thuận với nhau rằng tiền bạc chỉ là tên nô lệ chứ không phải là ông chủ. Người ta không chối cãi sự thật là tiền của mang tính “phù hoa” và nhất là nó không thể theo chúng ta đi vào huyệt lạnh. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng sống thì không dễ chút nào. Không ai muốn tự chặt đứt khúc ruột của mình cả. Chẳng ai muốn từ bỏ một thứ sức mạnh vốn rất hiệu nghiệm trong rất nhiều trường hợp đó là đồng tiền, được ví như “là tiên là Phật, sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, cái lọng che thân…”.

Dù là một kiểu nói ngoa ngữ, phóng đại để muốn nhấn mạnh, nhưng chúng ta không thể không giật mình trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Đàng” (x.Mc 10,23-26). Ngay các tông đồ cũng kinh ngạc và nói với nhau: Thế thì ai có thể được cứu rỗi, nghĩa là được hưởng phúc Thiên đàng? Khi giải đáp thắc mắc cho các tông đồ rằng đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được, Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta nhận ra sự thật này: hạnh phúc Nước Trời tiên vàn là quà tặng Thiên Chúa trao ban chứ không phải do công sức của loài người chúng ta.

Đã hơn một lần Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về mối nguy cơ của tiền bạc khi nó được phong làm thần thánh: “Không được làm tôi hai chủ …”(x.Mt 6,24; Lc 16,13). Nếu có tiền mua tiên cũng được, thì có thể mua được cả nước thiên đàng! Khi chiều theo chước cám dỗ đề cao sức mạnh của đồng tiền thì người giàu có bị cám dỗ xem hạnh phúc nước trời là điều mình có thể mua, có thể trao đổi bằng công sức hay tiền bạc.

Ít có ai phủ nhận nội hàm một ngạn ngữ Trung Quốc rằng tiền bạc có thể mua được đồng hồ quý nhưng không mua được thời gian; tiền bạc có thể mua được giường sang, nệm êm, chăn ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể mua được cao lương mỷ vị nhưng không mua được sự ngon miệng… Thế nhưng trong thực tế chúng ta lại hành xử theo kiểu như tiền bạc là nền tảng, là nguyên nhân đem lại hạnh phúc. Nếu đã xác tín rằng hạnh phúc đích thật là hạnh phúc nước trời, tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa, thì những gì chúng ta thu được mà chủ yếu bằng việc trao đổi, mua bán bằng của cải, tiền bạc chắc chắn không phải là hạnh phúc vĩnh cửu. Với luận lý này, chúng ta mới hiểu lời khẳng định của Đấng Cứu độ: “người giàu có khó vào Nước Trời hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim”. Lời Chúa thật sắc bén hơn cả thanh gươm hai lưỡi! (x.Dt 4,12).

Ngoài ra chúng ta cũng cần chân nhận hiện thực này: khi đã đủ đầy, sung túc của tiền thì con người rất dễ bị biến tướng, bị tha hóa. Vốn là một trong những thiện hảo tự nhiên Chúa dựng nên và ban tặng, nhưng của cải, tiền bạc rất dễ trở thành miếng mồi nhử của thần dữ như trái táo trong vườn địa đàng khiến chúng ta đi trệch hay đi ngược với huấn lệnh Chúa truyền. Không chỉ có chuyện “no cơm ấm cật, dậm dật khắp nơi” mà các mối tương quan cũng dễ bị sứt mẻ do bời của cải tiền bạc. Tình bác cháu như Abraham với Lót, tình anh em ruột thịt như Êsau và Giacóp cũng đã khó bền vì của cải. Thánh Kinh ghi cùng một câu trong cả hai trường hợp: “họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được” (St 13,6; 36,7). Một khi đã không thể “ở chung” với nhau được thì làm sao có thể ở cùng Thiên Chúa, Đấng là Cha của hết mọi người? Và biết bao nhiêu chuyện chẳng hay, làm nứt vỡ tình mẹ cha, nghĩa huynh đệ… vẫn xảy ra trước mắt chúng ta mà nguyên nhân chính là vì tranh chấp của cải. Thánh Tông đồ dân ngoại đã nói với môn đệ Timôtê rằng: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (Tim 6,10).

Trong kiếp lữ thứ này, chúng ta không thể sống như thiên thần, chẳng màng gì đến chuyện vật chất của tiền, vì không chừng sẽ rơi xuống thành loài vật (Pascal). Vấn đề đặt ra đó là phải biết làm chủ vật chất, tiền bạc cũng như phải biết tự do với nó. Một mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo mà Tin Mừng hôm nay ghi lại đó là Phêrô. “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Chúa Giêsu không phản bác nghĩa là Người chân nhận điều ấy. Không phải Phêrô đã vất bỏ mọi sự, của cải vật chất. Nhà của ngài còn đó, thuyền của ngài còn đó…nhưng ngài sẵn sàng trao dâng cho Chúa khi Chúa cần dùng vì lợi ích của tha nhân, sẵn sàng gác nó một bên để lên đường đi rao giảng tin mừng.

Biết rằng đồng tiền dính liền khúc ruột, tuy nhiên nếu khi khúc ruột ấy là khúc ruột thừa đã bị viêm hay là khúc ruột non dính ung bướu thì không thể không cắt bỏ đi. Nhiều thánh giáo phụ như Hiêrônimô, Âugustinô khẳng định rằng những gì chúng ta đang sở hữu trên mức cần thiết đều là của người nghèo. Ước gì thỉnh thoảng chúng ta biết tập sống anh hùng một chút khi sẵn sàng dâng trao vài trăm ngàn, dăm bảy triệu vì một việc từ thiện nào đó hay vì công cuộc truyền giáo nào đó. Quả là không dễ, nhưng không cái khó nào là không thể vượt qua, nhờ ơn Chúa giúp và quyết tâm của chính chúng ta.

 

.

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_B

 

 

.

 

CHỌN LỰA ƯU TIÊN

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong cuộc sống, mỗi người đều có những đam mê. Người thì thích nghệ thuật, người thì mê âm nhạc, người lại thích hội họa, kiến trúc… Ai đam mê cái gì thì thường chú tâm vào điều đó và dành hết tâm huyết cho những đam mê của mình, coi đó là chọn lựa ưu tiên, thậm chí như lẽ sống của mình.

“Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” – một người kia hỏi với Chúa Giêsu. Người này đang đi tìm ý nghĩa cuộc đời. Anh không tìm thấy bình an và niềm vui, mặc dù anh rất giàu có. Dù sở hữu rất nhiều, anh vẫn cảm thấy tâm hồn trống vắng. Anh muốn đi tìm những gì đem lại cho anh hạnh phúc lâu bền, tức là sự sống đời đời.

Chúa Giêsu đã cho anh câu trả lời và Người chỉ dẫn cho anh thấy những gì anh cần tìm kiếm để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu. Thế nhưng, điều Chúa đề nghị lại quá khó khăn đối với anh: đó là từ bỏ. Thay vì từ bỏ giàu sang để theo Chúa, anh đã từ bỏ Chúa để giữ lấy sự giàu sang. Cuộc tìm kiếm chân lý của anh đã thất bại. Anh không đủ can đảm từ bỏ những gì anh gắn bó, mặc dù chúng không đem lại cho anh sự thanh thản và niềm vui đích thực.

Nhân dịp này, Đức Giêsu đưa ra giáo huấn của Người về sở hữu của cải. Của cải phục vụ con người chứ không làm chúa tể của con người. Của cải cần thiết, nhưng không phải lúc nào cũng đem lại cho ta niềm vui. Kinh nghiệm trong cuộc sống quanh ta đã chứng minh điều này. Vì tài sản, đất đai, mà anh em xung đột, huynh đệ tương tàn, thậm chí đến mức coi nhau như kẻ thù. Vì tiền bạc mà nhiều người bán rẻ lương tâm, dùng đủ mọi thủ đoạn mánh mung, miễn sao kiếm nhiều tiền. Chúa Giêsu đã nêu lên mối nguy hiểm của tiền bạc trong cuộc sống con người. Người dùng một hình ảnh bình dân đã trở thành ngạn ngữ đời thường trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”. Các môn đệ cũng ngỡ ngàng trước câu nói này, nhưng Chúa trấn an các ông: đó là nhìn theo quan điểm con người, còn đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được. Lời nói này đã khẳng định rõ, nếu chúng ta biết cậy trông vào Thiên Chúa và trung tín theo Ngài, thì mặc dù tội lỗi đến đâu, chúng ta cũng được Ngài thương tha thứ và cứu thoát.

Mỗi tín hữu được mời gọi tự vấn lương tâm trước mặt Chúa: vậy chọn lựa ưu tiên trong đời của tôi là gì? Chắc chắn chúng ta cần rất nhiều thứ để có cuộc sống ổn định, xứng với phẩm giá con người. Tuy vậy, mỗi người cần thấy rõ đâu là điều ưu tiên trong cuộc sống, để coi đó như kim chỉ nam định hướng cho đời mình. Bài đọc I nói với chúng ta, nếu có điều gì đáng dành mọi tâm huyết để tìm kiếm trong cuộc đời, thì đó là Đức Khôn Ngoan. So sánh với Đức Khôn Ngoan, của cải, danh vọng và trân châu bảo ngọc đều như rơm rác. Xin lưu ý, danh từ “Đức Khôn Ngoan” này được viết hoa. Điều đó muốn diễn tả Đức Khôn Ngoan ở đây vượt xa quan niệm về khôn ngoan theo kiểu thông thường. Đức Khôn Ngoan trước hết chính là Thượng Trí của Thiên Chúa, đã hành động từ thuở khai thiên lập địa, tức là trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Sau này, nhờ mạc khải, Đức tin Kitô giáo nhận ra Đức Khôn Ngoan chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Chúa Giêsu là Đấng “đồng bản thể với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”. Như thế, đối với người tín hữu, sự chọn lựa ưu tiên chính là Đức Giêsu và giáo huấn của Người. Bởi lẽ, nhờ Bí tích Thanh tẩy, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Đó chính là lý tưởng cao cả của chúng ta. Vì lẽ đó mà Đức Giêsu đã đề nghị người đang tìm hiểu ý nghĩa cuộc đời: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”.

Để khích lệ các môn đệ và những ai tin vào Người, Chúa Giêsu đã hứa: những ai quyết chí và trung tín đi theo làm môn đệ của Người, họ sẽ được gấp trăm ở đời này, nhất là được sự sống vĩnh cửu đời sau.

Ai trong chúng ta cũng cần có của cải để nuôi sống mình. Giáo Hội tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, luôn hành động để giúp đỡ người nghèo và góp phần thăng tiến xã hội. Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta hãy biết sử dụng của cải thế nào để vật chất không làm mờ con mắt. Chọn lựa Đức Giêsu, đó là chọn lựa ưu tiên nhất của người tín hữu. Làm môn đệ Chúa Giêsu, đó là “đam mê” của mỗi chúng ta.

 

 

KHÔN NGOAN

Tgm. Ngô Quang Kiệt.

Câu chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu tốt đẹp. Đẹp cho đến nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn. Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.

Câu chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh, không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà sống gian dối, đánh mất lương tâm Công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.

Theo suy nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.

Chúa muốn ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.

Ta đi đạo để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn.

Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.

Vì thế khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được sự sống vĩnh cửu.

Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm những giá trị vĩnh cửu.

Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của con. Amen.

 

GIÀU: TỐT HAY XẤU

Gm. Arthur Tonne.

Ngày 6 tháng 6 năm 1976. Một người giàu nhất xưa nay đã qua đời, thọ 83 tuổi; ông I. Paul Getty để lại từ khoảng 2 đến 7 tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, mấy năm trước đây ông tuyên bố với một người phỏng vấn: “Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một hôn nhân hạnh phúc. Tôi sợ thất bại. Tôi sợ không thể tạo được hạnh phúc hôn nhân”. Có lần một phóng viên làm ông phải thú nhận là ông đã không đạt được hạnh phúc gia đình. Suy nghĩ vài giây, ông trả lời: “Vâng, thật đáng buồn”. Một lần khác ông xác nhận: Tiền bạc không thể mua hạnh phúc, hơn nữa ông còn tin rằng tiền bạc có bà con với bất hạnh nữa.

Chúng ta nhớ đến nhà tỷ phú này khi đọc câu chuyện người thanh niên giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay. Người thanh niên giàu có này sống đời luân lý tốt đẹp, nhưng anh cảm thấy thiếu một cái gì. Chúa Giêsu đã nói cho anh điều anh thiếu: “Bạn về và bán những gì bạn có. Giúp người nghèo và bạn sẽ có một kho tàng ở trên trời. Rồi đến theo tôi”. Chàng thanh niên bỏ đi, vì anh giàu có.

Điều này áp dụng cho bạn và tôi làm sao? Trước khi trả lời, chúng ta lưu ý hai sự kiện: Một là từng người một trong chúng ta, không kể giàu nghèo. Chúng ta phải làm điều Chúa Giêsu đòi hỏi người thanh niên: Chúng ta sẽ phải từ bỏ mọi sự chúng ta có – Cái chết.

Hai là có hàng ngàn người nam, nữ trong suốt dòng lịch sử và trong thời đại chúng ta, tình nguyện bỏ mọi sự để làm linh mục, làm tu sĩ nam nữ. Cả một số giáo dân cũng làm như vậy để phụng sự Chúa tự do hơn.

Chúa Giêsu có truyền tất cả chúng ta phải bỏ mọi sự mình có không? Người có mong tất cả chúng ta là tu sĩ không?

Không, hoàn toàn không. Nhưng người truyền chúng ta biết dùng của cải một cách nào đó để đừng quên Cha trên trời, Đấng ban cho chúng ta những cái đó.

Có phải tiện tặn là là sai? Phải chung góp vốn là sai? Để dành tiền phòng khi già yếu? Hay xây dựng gia đình là sai? Không, hoàn toàn không. Cái sai của sự giàu có là tôn thờ, phục vụ và tin tưởng vào đồng đôla vạn năng thay thế cho Thiên Chúa quyền phép.

Khi các Tông đồ hỏi Chúa: “Vậy ai có thể được cứu rỗi?”. Chúa tuyên bố: “Với người ta thì không thể được, nhưng không phải với Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.

Như thế người giàu cũng có thể được cứu rỗi, nhưng phải nhờ ơn Chúa giúp. Tôi đề nghị chúng ta hãy xin Cha trên trời giúp chúng ta sử dụng của cải đúng cách, giúp chúng ta ý thức rằng của cải vật chất cũng là hồng ân và ơn huệ của Chúa. Tôi xin được phép giới thiệu một lời kinh:

Lạy Cha trên trời, con cảm tạ Cha vì gia đình con đầy đủ và và quá đầy đủ nữa, xin giúp con biết sử dụng của cải theo ý Chúa. Xin giúp con biết chia sẻ cho những người ít hơn hoặc không có. Xin giúp con tiếp tay trong công cuộc của Chúa trên trần gian. Xin giúp con tin tưởng nơi Chúa chứ không phải nơi tiền bạc. Xin giúp con sống rộng rãi với mọi người như Chúa hằng quảng đại với con”.

Bạn đọc kinh này khi dâng bánh và rượu trong Thánh Lễ.

Xin Chúa chúc lành bạn.

 

CUỘC ĐỜI CHO ĐI MỚI ĐẸP

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Một cuộc đời đẹp không phải là có địa vị, có nhiều của cải mà là người dám sẵn lòng cho đi cái mình có. Không so đo, không tính toán. Họ sẵn lòng cho đi tất cả để phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Đó mới là một cuộc đời đáng ca ngợi. Đó mới là một bông hoa đẹp dâng tặng cho cuộc đời.
Đây cũng là nét đẹp của cuộc đời Cha Gioan Lee, linh mục dòng Salêriêng Don Bosco, Hàn Quốc. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhưng cha đã bỏ tất cả công danh sự nghiệp sau lưng, và cha đã đáp lại tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa để trở thành một linh mục truyền giáo trong dòng Salêriêng Don Bosco. Ngay sau khi được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha đã tình nguyện đến truyền giáo tại miền Nam Sudan thuộc Phi Châu. Cha đã tình nguyện đến sống và phục vụ tại một xứ sở nghèo đói nhất thế giới, giữa những người đói khổ và bệnh tật trong làng Tonj thuộc miền Nam Sudan- Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi cha qua đời vị căn bệnh ung thư ruột già.
Cuộc đời của người thanh niên trong Tin Mừng tưởng chừng như cũng rất đẹp, vì anh hằng tuân giữ lề luật của Chúa. Anh không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai, và anh hằng luôn thờ cha kính mẹ. Thế nhưng, trong tâm hồn anh lại mất đi nét đẹp của lòng quảng đại trao ban. Anh giầu sang của cải, nhưng chưa giầu sang tấm lòng. Anh có của nhưng không biết làm đẹp con người bằng bác ái trao ban. Anh chưa dùng sự giầu sang của mình để cống hiến, để phục vụ tha nhân.
Đối với Chúa Giê-su một người môn đệ đích thực không dừng lại ở một số việc tuân giữ luật lệ, mà còn phải có một đời sống yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần. Đây là nét đẹp của người môn đệ, nét đẹp thanh thoát cống hiến trao ban.
Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng nhắc nhở chúng ta đừng để nó trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của tham lam và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
Tiếc thay, con người hôm nay vẫn như chàng thanh niên tưởng rằng: “Lắm tiền, lắm gạo là tiên trên đời”. Thế nên, vì tiền mà họ tham lam, bất chính. Vì tiền mà sống thiếu bác ái và thiếu cả công bình. Vì tiền mà sống bẩn với tha nhân.
Chá đã bảo chúng ta: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước thiên đàng”. Phải chăng Chúa cũng đang nhắc nhở chúng ta hãy sống thanh thoát với những vật chất mau qua này? Hãy biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời, qua những việc lành phúc đức, những hành vi bác ái, chia sẻ với tha nhân.
Xin cho chúng ta biết khôn ngoan chọn Chúa và theo Chúa hơn là vì giầu sang mà lạc xa Chúa. Ước gì chúng ta biết dùng của cải đời này mà làm đẹp cuộc đời mình bằng lòng quảng đại, bái ái, vị tha. Amen

 

TỐT LÀNH VÀ NHÂN LÀNH

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty 

Chàng thanh nhiên (Mt 19:20) hay một thủ lãnh (Lc 18:18) được nói tới trong giai thoại này chắc hẳn là một người tốt và gương mẫu theo tiêu chuẩn Do Thái, điển hình là từ thuở nhỏ anh/ông đã giữ trọn mọi giới răn. Nếu thế, anh thực sự kiếm tìm gì khi tới gặp Đức Giê-su; nói cách khác, điều gì anh muốn diễn đạt qua câu nói: ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp”? Trong thâm tâm có thể anh đã ngờ ngợ rằng: tốt lành mà thôi có lẽ là chưa đủ; vì anh là người đầu tiên đã chủ động thân thưa với Đức Giê-su như người ‘Thầy nhân lành’.

Theo dõi cuộc dối thoại giữa Đức Giê-su với chàng thanh niên nọ, Ki-tô hữu chúng ta nhận ra một điều rất căn bản: ‘tốt / lương thiện’ và ‘nhân lành’ là hai điều hoàn toàn khác nhau; ‘tốt lành’ thuộc lãnh vực con người, lãnh vực Cựu Ước nhờ nắm giữ trọn các điều răn, còn ‘nhân lành’ hoàn toàn thuộc lãnh vực thần linh, “Không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” như Đức Giê-su đã minh định. Biện phân này giúp ta hiểu được cái mới mẻ rất mực độc đáo của Tin Mừng.

Tất cả tùy thuộc vào việc ta hiểu ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ là thế nào: phải chăng là được lên thiêng đàng, khỏi phải sa hỏa ngục vì đã sống tốt, sống lương thiện, đạo đức hay là một điều gì khác?

‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là được lên Thiên Đàng; phần thứ nhất trong lời giải đáp của Đức Giê-su có vẻ như tập trung vào quan niệm phổ thông này: thiên đàng được hiểu như phần thưởng dành cho kẻ tốt / người lương thiện. Do đó chỉ cần không phạm tội là đủ để được vào thiên đàng, còn kẻ xấu sẽ không được vào; thế nhưng phân biệt xấu / tốt là lãnh vực thuần luân lý; xã hội nào thì cũng phân loại người tốt kẻ xấu, tùy vào tiêu chuần xã hội đó đề ra. Trong xã hội Do Thái thời Cựu Ước, kẻ tốt rõ ràng là người tuân giữ căn kẽ các giới răn và lề luật. Hiểu như thế thì vào thời buổi nào và ở bất cứ nơi đâu cũng đều có những người đáng lên thiên đàng cả! Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn này, thì chàng thanh niên trong câu chuyện chắc chắn sẽ được lên thiên đàng thôi! Hơn nữa hệ luận của lối suy nghĩ này sẽ là: Tin Mừng không nhất thiết là cần, và ơn cứu chuộc của Đức Ki-tô là không mấy thiết yếu, và chỉ đóng vai trò hỗ trợ người ta trở nên tốt mà thôi.

‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là: được vào Nước Thiên Chúa; trong phần hai của câu giải đáp, hình như Đức Giê-su lại muốn triển khai khái niệm này. Người khảng định: chỉ một mình Thiên Chúa, chứ không ai khác, là ‘nhân lành’. Điều đó có nghĩa là: tự mình không một ai, dầu có tốt lành tới mấy, có thể vào được Nước Thiên Chúa. Nhân lành không thuộc lãnh vực tự nhiên, mà phải thuộc lãnh vực thần linh! Dĩ nhiên Thiên Chúa là vô cùng tốt lành, vì Ngài là chân – thiện – mỹ; điều này thì nhờ suy luận triết học con người cũng có thể biết được: Deus bonum est… Đức Giê-su đã đến trần gian không để nói về sự tốt lành hay thánh thiện này của Thiên Chúa. Điều Ngưởi muốn mạc khải là Thiên Chúa nhân ái và cứu độ! Theo Người, Nước Thiên Chúa trước hết phải là vương quốc của nhân ái thần linh; nói cách khác, sự thánh thiện đạo đức của vương quốc đó hệ tại ở ‘nhân lành của từ ái xót thương’, chứ không phải ‘tốt lành của luân lý’.

Chàng thanh niên tuy có tốt lành thánh thiện theo tiêu chuẩn Do Thái, nhưng chưa có lòng nhân ái của Tin Mừng. Để có thể trở nên nhân lành, Đức Giê-su đã mời gọi anh: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”. Hai tiêu chuẩn chính của nhân lành Đức Giê-su đề ra là: chấp nhận Tin Mừng Đức Ki-tô và sống chan hòa với tha nhân; và vì thấy mình không thể đạt được hai chuẩn đó nên ‘chàng buồn rầu bỏ đi’. Các môn đệ Đức Giê-su sẽ phải học biết nhân ái Tin Mừng nhờ đi vào con đường Thập Giá theo Thầy và từ bỏ mọi sự. Như vậy ơn gọi Ki-tô hữu của chúng ta sẽ hệ tại ở sống Tin Mừng bác ái theo Người Thầy nhân ái, hơn là chỉ lo sống tốt – lương thiện qua việc giữ trọn các giới răn, cho dầu đó có là các điều luật thánh của Thiên Chúa hay của Hội Thánh đi nữa.

Trong tư cách linh mục, chính tôi phải sống thế nào để tất cả sẽ bảo đảm ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’, đồng thời phải dạy giáo dân sống như thế. Đó quả là vấn đề mục vụ có tầm quan trọng bậc nhất đấy!

Lạy Cha là Đấng chân thiện mỹ, hôm nay Cha dạy cho con biết nhân ái là điều còn cao quí hơn chân thiện mỹ tới cả ngàn lần; chính nhờ Lời mạc khải của Con Một Cha con mới biết được điều quan trọng này. Xin cho con biết sống lòng nhân ái như giá trị lớn hơn hết thảy, có khả năng làm cho con nên giống Đức Ki-tô Con Cha. Cũng xin cho con sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để trở nên nhân ái như Chúa Cha trên trời. A-men.

 

TIỀN BẠC LÀ PHÂN BÓN CỦA MA QUỶ

Văn Hào

Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 của một đất nước có rất đông người công giáo. Bản thân ông cũng là một tín hữu sùng đạo nên đông đảo dân chúng quý mến và ngưỡng mộ ông. Trong con mắt người dân, ông là một vị lãnh đạo liêm chính, sống giản dị và rất quảng đại. Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông không ồn ào rình rang và quá tốn kém. Ông lưu tâm đến người nghèo, đặc biệt các cư dân vùng nông thôn hẻo lánh, và ông tuyên bố: “ Tôi là vị tổng thống của người nghèo”. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi ông lên cầm quyền, niềm tin của dân chúng đặt để nơi ông đã hoàn toàn sụp đổ. Ông Estrada bị báo chí phanh phui vì hàng tháng ông vẫn nhận một khoản tiền lớn từ các sòng bài phi pháp, để nhắm mắt làm ngơ cho họ kiếm chác. Đồng tiền đã làm tối mắt ông và làm sói mòn niềm tin dân chúng nơi ông. Thậm chí, Đức Hồng Y James Sheen Tổng Giám mục giáo phận Manila đã mạnh mẽ lên tiếng đòi ông phải từ chức, vì sự nhơ bẩn ông tạo ra khiến ông không còn xứng đáng là người cầm quyền. Chính đồng tiền đã biến một vị lãnh đạo mẫu mực trở nên một con người đầy tai tiếng, một nhân vật được mọi người nể trọng trở nên đối tượng khiến dân chúng khinh ghét.

Đây chỉ là một trong muôn vàn ví dụ liên quan đến tham nhũng đang xảy ra nhan nhản trong xã hội hiện nay. Đồng tiền dù ở bất cứ thời đại nào, xã hội nào vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất gặm nhấm phẩm chất đạo đức và tư cách của con người.

Hình ảnh chàng thanh niên mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại, lột tả bức chân dung hiện sinh của các Kitô hữu chúng ta ngày hôm nay. Anh ta ao ước muốn nên trọn lành. Anh đã sống tử tế và nghiêm túc, tuân thủ các luật lệ từ nhỏ. Khi đến trình diện Đức Giêsu và bày tỏ ao ước của mình, Chúa Giêsu đã đặt ra cho anh một thách đố: “ Nếu muốn nên trọn lành, anh hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người thanh niên sa sầm nét mặt và lặng lẽ bỏ đi (Mc 10, 22). Tiền bạc và của cải vật chất đã trở nên như một rào chắn khổng lồ cản che, khiến anh không thể bước tới và thực hiện ước muốn tốt lành của mình.

Tiền bạc là phân bón của ma quỷ

Đây là câu nói của thánh Phanxicô Assisi. Ma quỷ đã dùng loại phân bón độc chiêu này gây ra biết bao sự dữ trên trần gian. Những cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra khắp nơi trên thế giới, cũng chỉ vì tranh chấp những nguồn tài nguyên béo bở giữa các quốc gia. Sự đổ vỡ trong các gia đình đa phần cũng chỉ vì đồng tiền bát gạo. Chúng ta không lạ lẫm gì khi thấy cảnh những anh em ruột thịt, hoặc ngay cả cha mẹ và con cái đưa nhau ra tòa kiện cáo cũng chỉ vì tranh giành vài ba thước đất. Một ông chồng không có khả năng làm ra tiền, ngày nào cũng phải ngửa tay xin vợ, chắc chắn sẽ rơi vào mặc cảm và chẳng còn gì là khí phách nam nhi để điều khiển gia đình. Dân gian vẫn nói: “ Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của cụ già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý…” Nói chung, tiền là tất cả, đồng thời nó cũng chính là bóng ma vô hình đang phủ bóng trên tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường chúng ta. Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc. Ngài nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24). Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng quyết: “ Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (Mc 10, 25). Lời tuyên bố của Đức Giêsu mang chở sứ điệp gì đối với chúng ta hôm nay khi đang sống giữa một xã hội luôn đề cao sự giầu có?

Mối phúc đầu tiên

Nghèo khó chính là mối phúc dẫn đầu trong tám mối phúc: “ Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Đây là mối phúc quan trọng nhất và cũng là điều kiện đầu tiên Chúa đặt ra cho những ai muốn trở nên môn đệ Ngài. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu” (Lc 10, 58). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta một cách cụ thể. Ngài không phải là lý thuyết gia, cũng không phải là một nhà mô phạm chỉ nói suông trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã sống tận căn lối sống khó nghèo, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “ Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình làm cho anh em nên giàu có” ( 2C 8, 9).

Khi còn sống ẩn dật tại Nazareth, Đức Giêsu cũng phải lao động, phải mướt mồ hôi để kiếm sống. “Ngài sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi” ( Dt 4, 15 ). Trong những năm rao giảng, Ngài đã thể hiện một lối sống xem ra có vẻ khá bấp bênh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có nơi gối đầu”. Đức Giêsu còn là một ‘chuyên gia’ đi vay mượn. Ngài mượn một chiếc thuyền chèo ra xa để giảng dạy dân chúng. Tiến vào Giêrusalem, Ngài cũng sai học trò đi mượn một con lừa. Tổ chức bữa tiệc vượt qua trước khi đi thụ nạn, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có. Thậm chí sau khi chết, Ngài cũng được mai táng trong phần mộ mượn đỡ của một người khác chứ không phải của mình. Về tài sản vật chất, Đức Giêsu hoàn toàn không sở đắc bất cứ thứ gì.

Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đã vui vẻ nhận sự trợ giúp của những phụ nữ giàu có và đạo đức. Ngài còn cắt đặt Giuđa quản lý túi tiền để chi dùng cho cả nhóm 12. Ngài vẫn đến dùng bữa tại nhà những người nhiều tiền lắm của như Giakêu hay những người biệt phái. Ngài còn chọn hai người con ông Giêbêđê làm môn đệ, những người không phải thuộc thành phần bần cố nông, nhưng ít ra cũng thuộc dạng tiểu tư sản, vì nhà có thuyền, có lưới, có cả những người làm công. Thế thì tại sao Chúa lại kết án những người giàu một cách đanh thép như trong bài Tin mừng hôm nay.

Chắc chắn tiêu chí đầu tiên để trở thành môn đệ Chúa Giêsu là phải từ bỏ tất cả: cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, từ bỏ hết không chừa lại cái gì. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Ngài chỉ trang bị cho các ông món hành trang duy nhất là ‘năng quyền để trừ quỷ và chữa trị các bệnh tật’, ngoài ra không có gì hết: không tiền bạc, không mặc hai áo, không bao bị, giầy dép… Các thánh ký diễn tả với một vài chi tiết thay đổi, tùy theo não trạng văn hóa của từng loại độc giả, nhưng những chi tiết đó không quan trọng. Điểm nhấn duy nhất Chúa nhắm đến chính là sự thanh thoát, cắt đứt mọi dính bén nơi của cải vật chất. Đây là cốt lõi của tinh thần nghèo khó phúc âm mà Chúa nhấn mạnh.

Có nhiều hiền sĩ hay những bậc thánh hiền đời xưa sống một cuộc sống rất thanh bạch. Hoặc có những vị quan thời trước đã rũ bỏ quyền cao chức trọng và cuộc sống vương giả nơi triều đình để rút lui về ở ẩn, sống một cuộc sống giản dị và khiêm tốn. Nhưng những lối sống ấy chưa phải là tinh thần khó nghèo mà Chúa mời gọi. Đối với nhiều người, cái nghèo đến với họ chỉ là một tình trạng kinh tế bất đắc dĩ mà họ phải gánh chịu, và chắc chắn đó không phải là nghèo khó phúc âm mà họ tự nguyện dấn bước vào. Có thể họ đã từ bỏ mọi sự thế gian, nhưng còn thiếu một điều rất quan trọng, đó là điều mà các tông đồ đã thưa với Chúa trong bài Tin mừng hôm nay :“Thưa Thầy chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy, chúng con sẽ được những gì?” Bỏ mọi sự thì tốt, nhưng chưa đủ. Còn phải tiếp bước dấu chân của Chúa để trở nên môn đệ Ngài. Đây cũng là điều Đức Giêsu nói với chàng thanh niên hôm nay: “ Hãy bán đi những gì anh có cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người môn đệ phải sao chép lại phong thái nghèo khó nơi Đức Giêsu. Không phải chỉ là từ bỏ của cải vật chất, nhưng là khước từ tất cả những gì chúng ta đang có, đang chiếm hữu, thậm chí ngay cả mạng sống: “ Ai theo tôi hãy bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày và theo tôi”. Đó là căn gốc của tinh thần nghèo khó mà Chúa nói đến, và đây cũng chính là linh đạo Thập giá mà chúng ta phải suy niệm để sống mỗi ngày.

Nếp sống trưởng giả

Đức Thánh Cha Phanxicô trong hơn hai năm trên cương vị Giáo hoàng đã khá nhiều lần cảnh báo về một lối sống trưởng giả, đặc biệt nơi các linh mục, các Giám mục, và cả các Hồng y. Sau khi đắc cử Giáo hoàng, Ngài đến quầy tiếp tân của khu nhà nghỉ trong Vatican để lấy tiền túi trả tiền phòng giống như mọi người. Khi còn là Hồng y tại Argentina, Ngài vẫn sử dụng chiếc xe hơi cũ kỹ như một người nghèo. Trong bất cứ cuộc tông du nào, Ngài luôn xếp chương trình để đến thăm các khu ổ chuột, đến các nhà tù hoặc những vùng dân cư nghèo khổ nhất, và Ngài gọi đó là vùng ven (periphery). Trong chuyến tông du tại Mỹ, Ngài đã từ chối bữa ăn sang trọng mà các nghị viên khoản đãi để đến dùng bữa với những người vô gia cư, những kiều dân khố rách áo ôm lang thang lếch thếch. Không phải chỉ một lần, Ngài đã nói thẳng thừng về hiện tượng các vị mục tử rất đáng kính, sử dụng những chiếc xe hơi quá sang trọng và xa xỉ, những thứ chỉ dành cho giới thượng lưu. Đây là lối sống trưởng giả mà Ngài nói khá nhiều lần. Nhiều bậc vị vọng đã chột dạ, đổi xe khác rẻ tiền hơn, hoặc có một Giám mục ở Hoa Kỳ đã phải bán dinh thự Giám mục xa xỉ của mình để mua lại một tòa nhà khác khiêm tốn hơn, giản dị hơn. Chắc chắn, Đức Thánh Cha không cổ vũ một lối sống bần cùng hay cơ cực, nhưng Ngài nhìn thấy nguy cơ của một phong thái thích sống hưởng thụ (consumerism), làm lu mờ căn gốc nghèo khó và làm mất đi chứng tá những giá trị Tin mừng nơi các vị mục tử trong Giáo hội.

Kết luận: Ngẫu tượng tiền bạc

Nhà văn Anderson viết một câu chuyện rất ngắn khá ý nghĩa. Một người hành khất đói khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Anh chàng nhà giàu nứt khố đổ vách nhưng lại rất keo kiệt, nhất định không cho cái gì. Nhìn quần áo lôi thôi lếch thếch và khuôn mặt lem luốc của người ăn mày, tên nhà giầu đã không bố thí còn từ trong nhà mỉa mai nói vọng ra: “ Hình như anh vừa mới từ dưới hỏa ngục chui lên thì phải. Nhìn bộ mặt và quần áo của anh, tôi đoán thế”. Người hành khất nuốt nhục trả lời: “ Thưa ông, đúng vậy. Ông nói quả không sai chút nào, tôi mới ở dưới hỏa ngục chui lên đây. Ở dưới đó hết chỗ rồi. Những người giầu có và keo kiệt như ông đã đầu tư tiền bạc mua hết đất rồi. Đất ở dưới đó ngày càng mắc, nhất là đất mặt tiền. Không còn chỗ để ở, tôi phải chui lên đây.”

Sự giàu có mà Chúa kết án trong bài Tin mừng hôm nay chính là sự keo kiệt, cứ mãi bấu víu vào của cải vật chất một cách ích kỷ. Khi con người thượng tôn tiền bạc, lấy tiền bạc làm thước đo mọi giá trị, họ sẽ dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Đây chính là cách sống vô thần trong thực hành. Điều đó chẳng khác gì việc tôn thờ ngẫu tượng (idolatry), giống như dân Do Thái tôn thờ con bò vàng năm xưa. Đây cũng là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin mừng hôm nay. Cũng tương tự, thánh Augustinô dạy chúng ta: “Bạn hãy mở to mắt nhìn xem một người giàu có keo kiệt đang giẫy chết. Tôi cam đoan rằng đó là cái chết thảm khốc và ghê sợ nhất, bởi vì họ sẽ ra đi mà chẳng mang theo được cái gì họ vẫn đeo bám.”

 

LỐI NHỎ ĐƯỜNG SỐNG

Trầm Thiên Thu

Giàu – Nghèo là vấn đề muôn thuở. Người nghèo luôn nhiều hơn người giàu, mọi thời và mọi lúc. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo bên cnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Thực tế cho thấy rằng mấy ai “đẻ bọc điều” đâu. Thế nhưng có những người mới “hơn người” một chút đã tỏ vẻ “chảnh”, kênh kiệu thấy rõ!

Nghèo thì khổ, thiếu thốn đủ thứ, thậm chí thiếu cả những điều kiện sống cơ bản. Với người giàu, người Việt nói: “Ming người giàu có gang, có thép”. Người Iran mỉa mai qua câu tục ngữ: “Khi người giàu ăn cp, người ta bo h nhm ln; khi người nghèo ăn cp, người ta bo h ăn trm”. Còn tục ngữ Nam Phi nói: “Li đ ngh ca k nghèo được xét đến sau cùng”. Được xét là còn may, bởi vì thường thì mọi lời nói, đơn từ, vụ việc,… của người nghèo chẳng ai thèm quan tâm chi cho mất thời giờ. Nghèo không có tội, nhưng khổ y như “bị vạ” vậy!

Người nghèo khổ thật, thế mà còn bị khinh miệt nữa! Đó là một dạng vô cảm. Bà Hellen Adams Keller (1880-1968, tác giả và nhà hoạt động người Mỹ) nhận định: “Thói xu ti t nht chính là s vô cm ca con người”.

Có điều gì khác nhau giữa người nghèo và người giàu? Tục ngữ Phần Lan giải thích: “Người nghèo ăn khi nào có, người giàu ăn khi nào mun”. Rất đơn giản mà rất thâm thúy. Nỗi đau ngấm ngầm và nhức buốt lắm! Tục ngữ Pháp phân tích: “Không ai kiêu ngo hơn người giàu mà mi đây ch là k nghèo kiết xác”. Khó vào Nước Trời là loại người giàu như vậy, chứ sự giàu có không là điều bất hạnh mà Chúa Giêsu đề cập.

Người giàu hay người nghèo đều cần sự khôn ngoan. Tại sao? Vì “khôn ngoan là thần khí hằng yêu mến con người” (Kn 1:6), “trí khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15), và “đức khôn ngoan là kho báu vô tận cho con người” (Kn 7:14). Quả thật, sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Có nhiu người khôn ngoan, thế gii được cu thoát; nh mt v minh quân, c thn dân được an cư lc nghip” (Kn 6:24).

Tác giả sách Khôn Ngoan bộc bạch: “Tôi nguyn xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi s hiu biết. Tôi kêu cu, và thn khí Đc Khôn Ngoan đã đến vi tôi. Đc Khôn Ngoan, tôi đã quý trng còn hơn c vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi ca ci là gì so vi Đc Khôn Ngoan” (Kn 7:7-8). Thật là khôn ngoan khi biết mình yếu đuối, bất tài, vô dụng, và biết cầu xin Thiên Chúa xót thương. Khôn ngoan là khiêm nhường, khiêm nhường là khôn ngoan.

Khôn ngoan vô giá, không gì có thể so sánh. Tác giả sách Khôn Ngoan giải thích, đồng thời cũng là lời chia sẻ chân thành: “Đi vi tôi, trân châu bo ngc chng sánh được vi Đc Khôn Ngoan, vì vàng trên c thế gii, so vi Đc Khôn Ngoan, cũng ch là cát bi, và bc, so vi Đc Khôn Ngoan, cũng k như bùđt. Tôi đã ham chung Đc Khôn Ngoan hơn sc kho và sc đp, đã quý Đc Khôn Ngoan hơánh sáng, vì v rc r ca Đc Khôn Ngoan chng bao gi tàn li. Nhưng cùng vi Đc Khôn Ngoan, mi s tt lành đã đến vi tôi. Nh tay Đc Khôn Ngoan, ca ci quá nhiu không đếm xu” (Kn 7:9-11). Rất rõ ràng, rất chi tiết. Có đức khôn ngoan là có tất cả. Đúng là kho tàng vô giá!

Biết vậy, tác giả Thánh Vịnh tha thiết cầu xin: “Xin dy chúng con đếm tháng ngày mình sng, ngõ hu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Niềm khao khát đó không thoáng qua, không tùy hứng, vui thì muốn, buồn thì thôi, nhưng là niềm khao khát cháy bỏng và không ngừng: “T bui mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, đ ngày ngày được hn h vui ca. Xin ban tng chúng con nim hoan h, bù li nhng tháng năm Ngài đã bt nếm nhc nut su” (Tv 90:14-15).

Tất cả là hồng ân, là lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ chúng ta hoàn toàn bất xứng. Biết vậy là đầu mối khôn ngoan. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đoái thương, không thể làm ngơ, vì Ngài là Đấng giàu lòng thương xót. Mọi nơi và mọi lúc, Ngài mong muốn chúng ta chân thành thân thưa: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hu ca Chúa là Thiên Chúa chúng con. Vic tay chúng con làm, xin Ngài cng c, xin cng c vic tay chúng con làm” (Tv 90:17).

Lối nhỏ là đường dẫn tới sự sống, lối rộng là đường dẫn tới sự chết. Đúng vậy, vì Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy qua ca hp mà vào, vì ca rng và đường thênh thang thì đưđến dit vong, mà nhiu người li đi qua đó. Còn ca hp và đường cht thì đưđến s sng, nhưng ít người tìm được ly” (Mt 7:13-14). Ngài còn bảo chúng ta phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Chắc chắn Ngài không xúi dại chúng ta đâu. Chính sự tự do cũng có “phạm vi nhất định” kia mà, đâu phải tự do thì muốn làm gì thì làm, nếu vậy thế giới này loạn hết.

Trung ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Phụ nữ hỏi về sắc đẹp của họ, nếu nói họ đẹp thì họ vui, nhưng chỉ là ảo; nếu nói họ không đẹp thì họ buồn, thậm chí còn ghét người nhận xét. Nhạc sĩ, thi sĩ và văn sĩ hỏi tác phẩm của họ thế nào, nếu nói tác phẩm của họ hay thì họ cười; nếu nói tác phẩm của họ “chưa đạt” thì họ chán lắm, có khi họ bảo người nhận xét không biết nghệ thuật, không tinh tế. Chuyện đời là thế. Đôi khi người ta chỉ nịnh nhau để xã giao thôi. Mẹ hát, chẳng lẽ con lại nỡ lòng không khen hay? Trên Facebook hoặc các website khác, những cái “like” [thích] có thể cũng chỉ là giả tạo mà thôi, ít có người thật lòng. Vả lại, thấy Facebook có nhiều rác quá, toàn là chuyện ba sàm, vớ vẩn!

Với Thiên Chúa thì khác hẳn. Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta phấn chấn, hạnh phúc, nhưng Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta đau nhói, nhức buốt – thường thì nhức nhiều hơn, vì “Lời Chúa phán là lời chân thật, như bạc nấu trong lò, đã bảy lần tinh luyện” (Tv 12:7). Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Li Thiên Chúa là li sng đng, hu hiu và sc bén hơn c gươm hai lưỡi: xuyên thu ch phân cách tâm vi linh, ct vi tu; li đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng ca lòng người” (Dt 4:12). Tại sao như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì không có loài th to nào mà không hin rõ trước Li Chúa, nhưng tt c đu trn tri và phơi bày trước mt Đng có quyđòi chúng ta tr l” (Dt 4:13).

Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Làm thế nào gi được tui xuân trong trng? Thưa phi tuân theo li Chúa dy” (Tv 119:9). Hằng ngày, theo kiểu Facebook, chúng ta có “like” [yêu] Chúa thật lòng hay cũng chỉ “che mắt thánh” đây? Chúa biết hết, vì Ngài “thấu suốt mọi tâm can” (Cv 15:8; Rm 8:27). Ước gì mỗi chúng ta luôn biết chân thành tâm nguyện: “Ly Chúa, con hết d kiếm tìm Ngài, xin ch đ con làm sai mnh lnh Chúa” (Tv 119:10).

Tìm kiếm Chúa thật khó. Khó không phải vì Chúa “trốn” chúng ta, mà tại chúng ta chưa thực sự muốn gặp Ngài. Muốn thì muốn, nhưng thực hành thì… hậu xét! Trình thuật Mc 10:17-22 “minh họa” điều này.

Một hôm, khi Đức Giêsu vừa lên đường, có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thy nhân lành, tôi phi làm gì đ được s sng đi đi làm gia nghip?”. Ngài nói: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành c, trmt mình Thiên Chúa. Hn anh biết các điu răn: Ch giết người, ch ngoi tình, ch trm cp, ch làm chng gian, ch làm hi ai, hãy th cha kính m. Anh ta hãnh diện nói với Ngài rằng anh đã tuân giữ tất cả những điều đó từ thuở nhỏ.

Tuyệt vời lắm, tốt lành thật! Thật vậy, chính Đức Giêsu đã âu yếm đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Rồi Ngài bảo anh ta: “Anh ch thiếu có mt điu, là hãy đi bán nhng gì anh có mà cho người nghèo, anh s được mt kho tàng trên tri. Ri hãy đến theo tôi”. Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Thôi rồi, bó tay rồi!

Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu đã lắc đầu tiếc cho anh ta lắm. Ngài rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Nhng người có ca thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10:23). Nghe Sư Phụ nói thế, các môn đệ sững sờ vì chẳng lẽ giàu là có tội sao? Căng thật đấy! Chưa hết ngạc nhiên thì họ lại nghe Thầy nói tiếp: “Các con ơi, vàđược Nước Thiên Chúa tht khó biết bao! Con lc đà chui qua l kim còn d hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10:25). Ui da! Căng thật chứ chẳng đùa đâu đấy!

Tất nhiên họ lại càng sửng sốt hơn nữa và rỉ tai nhau: “Thế thì ai có th được cu?”. Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện chứ ai mà trả lời được! Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “đâu cái điền” (điên cái đầu) và “nhức óc” lắm, nhưng Ngài vẫn nghiêm túc nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đi vi loài người thì không th được, nhưng đi vi Thiên Chúa thì không phi thế, vì đi vi Thiên Chúa mi s đu có th được” (Mc 10:27).

Chắc chắn là thế. Có lẽ lúc này thực sự giá trị để chúng ta mượn lời Thánh Phêrô mà thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thy, b Thy thì chúng con biết đến vi ai? Thy mi có nhng li đem li s sng đi đi” (Ga 6:68).

Người giàu khó vào Nước Trời vì ỷ giàu mà khinh người, dùng tiền bạc để ăn chơi sa đọa; còn người giàu mà biết chia sẻ với người nghèo, biết làm từ thiện, họ dễ vào Nước Trời thôi. Người nghèo mà chảnh thì cũng vô phúc, cho thì họ không lấy, thấy cũng không thèm xin, nhưng đồ người ta giấu kín thì rình mò, hở là rinh ngay, nghèo kiểu đó thì chắc chắn chẳng biết lối nào mà vào Nước Trời. Người nghèo như vậy là nghèo vô phúc, nghèo bạc phước, chứ chẳng có phúc chút nào ráo trọi!

Ly Thiên Chúa, xin giúp con biết chp nhn nhng gì Ngài ban cho con theo lòng nhân hu ca Ngài, ch không đòi hi, không se sua, không mưu mô,… Xin giúp con c gng đi trên “li nh” đ được s sng di dào ca Ngài. Con cu xin nhân danh Thánh T Giêsu, Đng cu đ nhân loi. Amen.

 

.

CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN_B

Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến. Là những Ki-tô hữu, chúng biết rất rõ mục đích của cuộc sống là được cứu rỗi, được bình an và hạnh phúc đích thực vĩnh cửu đời sau trên Thiên đàng. Nhưng câu hỏi quan trọng đặt ra cho chúng ta là làm thế nào để đạt được đích điểm đó. Chúng ta thấy có nhiều câu trả lời và ý kiến khác nhau. Có người cho rằng chỉ cần tin vào Chúa Giê-su Kitô là được cứu rỗi, có người nghĩ rằng chỉ cần đi lễ Chúa nhật mỗi tuần và đọc kinh mỗi ngày, có người cho rằng chỉ cần ăn ngay ở lành. Nhưng thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không việc làm là đức tin chết.” Chúa Giêsu cũng tuyên bố: “Không phải ai nói Lạy Chúa! Lạy Chúa! là được vào Nước Trời; nhưng chỉ có những ai lắng nghe và thực hành Lời Chúa.” Và câu châm ngôn chúng ta thường nghe “Ăn ngay ở lành” cũng rất tổng quát và mơ hồ, vì nếu chỉ giới hạn trong đời sống cá nhân hay gia đình của mình, thì cuộc sống như thế không chu toàn lời Chúa dạy chúng ta trong Kinh Lạy Cha, đó là chúng ta phải sống như thế nào để “Cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chú trọng và dạy chúng ta: Phải làm thế nào, phải sống như thế nào để đạt được cuộc sống đời đời? Và nếu chúng ta chú ý lắng nghe những bài Kinh thánh Lời Chúa, thì chúng ta có thể tìm ra được câu trả lời, đó là, phải lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy.

Bài đọc I, trích sách Khôn Ngoan, cho chúng ta thấy sự quan trọng của việc thực hành, sống Đức Khôn Ngoan của Chúa. Đức Khôn Ngoan của Chúa đáng quý trọng hơn mọi sự trên trần gian này, vì hai lý do, thứ nhất, có Đức Khôn Ngoan là có mọi sự; và thứ hai, chỉ có Đức Khôn Ngoan tồn tại muôn đời. Chúng ta biết Đức Khôn Ngoan trong Kinh thánh là Thần Khí của Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa, và là chính Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa giúp chúng ta nhận ra sự gì là cần thiết, quan trọng, là trước tiên và trên hết cho đời sống chúng ta, thúc đẩy chúng ta làm những việc tốt lành, phúc đức và đẹp lòng Chúa. Cho nên đời sống của Ki-tô hữu chúng ta ở đời này phải được soi sáng bằng sự khôn ngoan của Lời Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta phải biết phân biệt sự khôn ngoan thế gian và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Con người chúng ta thường dùng sự khôn ngoan thế gian để sống ích kỷ, tự kiêu và lừa dối người khác, để lợi ích hay dành phần thắng cho mình. Sự khôn ngoan xảo trá thế gian nhiều khi làm hại người khác, có ảnh hưởng xấu đến cộng đoàn, xã hội, và cuối cùng bị phơi bày ra trước mặt Thiên Chúa, lãnh hình phạt ở cuộc sống đời sau. Còn sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, là vâng theo thánh ý lời Chúa dạy, đưa đến những sự hiệp nhất yêu thương, đưa đến công bằng bác ái, làm sáng danh Chúa, và kết quả là hạnh phúc trong cuộc sống đời đời.

Trong bài đọc 2, tác giả Thư Do-thái xác quyết cho chúng ta biết Đức Khôn Ngoan là Lời Chúa, hay Ngôi Lời chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Khôn Ngoan Lời Chúa giúp chúng ta biết phân biệt những điều tốt-xấu, lành-dữ và phải-trái. Lời Chúa đòi con người chúng ta phải suy tư, thúc đẩy chúng ta phải quyết định, hành động, và sẽ làm chứng cho chúng ta, sẽ là chứng nhân trước tòa phán xét thưởng hay phạt của Thiên Chúa ở đời sau.

Bài Tin mừng hôm nay diễn tả về một người thanh niên không những đạo đức mà còn giàu có. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy một khoảng trống trong tâm hồn, và điều đó làm cho anh thao thức. Ngày kia, anh cảm thấy có một sự lôi cuốn mãnh liệt đi tìm và đã gặp Chúa Giêsu. Anh muốn biết phải làm sao, phải sống như thế nào để có cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu cho anh biết phải giữ tất cả các điều răn. Anh thưa với Chúa anh đã chu toàn những luật lệ như không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không lường gạt, không làm chứng gian, và đã chu toàn bổn phận với cha mẹ. Có nghĩa là anh “ăn ở ngay lành” như câu châm ngôn chúng ta thường nghe. Điều đó thật đáng khen.

Sau đó, Chúa nói với anh: “Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta.” Có lẽ người thanh niên này đã bối rối, phân vân, trước Lời Chúa kêu mời ra khỏi cuộc sống cá nhân, chú ý tới cuộc sống tha nhân làm việc bác ái, và hy sinh theo Chúa phục vụ, làm cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Và anh tự hỏi “tôi phải quyết định làm sao bây giờ?” Lời Chúa đòi hỏi anh ta phải có một sự lựa chọn: một là chọn của cải vật chất, chọn sống cho cá nhân chính mình, hay chọn sống cho Chúa. Cuối cùng, anh đã đặt trọng tâm vào cá nhân và những giá trị trần gian hơn lời mời của Chúa và kho tàng cao quí là hạnh phúc vĩnh cữu trên trời. Anh đã từ khước ân sủng khôn ngoan lời của Chúa và quay lưng bỏ đi.

Ông bà anh chị em thân mến. Đứng trước sự khôn ngoan Lời Chúa hôm nay, chúng ta cũng phải có một quyết định. Là những Ki-tô hữu, chúng ta phải đặt Chúa trước hết và trên hết mọi sự trong cuộc sống. Chúng ta biết trong xã hội ngày nay, có rất nhiều sự cám dỗ và lôi cuốn mạnh mẽ làm chúng ta xa Chúa, thờ ơ với đời sống đức tin, đời sống đạo. Cho nên chúng ta cần sự khôn ngoan lời Chúa hướng dẫn và quyết định cho cuộc sống, biết từ bỏ và theo Chúa. Nếu chúng ta quyết định làm theo lời Chúa kêu mời, chúng ta phải hy sinh thời giờ lắng nghe và can đảm sống theo Lời Chúa kêu mời, để Lời Chúa biến đổi và thánh hóa đời sống. Thiên Chúa yêu thương và rất nhân hậu với chúng ta.  Chúa đã, đang và sẽ ban cho chúng ta nhiều ơn lành hồn xác hơn lòng chúng ta mong ước và xứng đáng. Xin Chúa giúp và mở tâm hồn chúng ta, để chúng ta sống yêu thương và hiệp nhất, bác ái và quảng đại, và biết dùng đời sống cũng như những ơn lành Chúa ban, để làm sáng danh Chúa và để cho Nước Chúa trị đến, và để chúng ta có một kho tàng bình an và hạnh phúc vĩnh cửu trên Thiên Đàng.

 

.

TIN VÀ THEO CHÚA GIÊSU

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Báo Tuổi Trẻ Cười có bài thơ.

“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều: mặc kệ… vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề.
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhò gì ông”.

Con người dù sở hữu nhiều “ông tiền” và “mua tiên cũng được”, nhưng chắc gì đã hạnh phúc?

Ngày 06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.

Cơ quan vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên “Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền”.

Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.

Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của mà vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thuở nhỏ.

Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt lành có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?” Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.

Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa “Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương“. Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10, 21 ). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.

Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10, 22). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19, 20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.

Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ?

Chàng trai trẻ tiếc của nên bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa “nhìn chung quanh” và nói: “Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao“. Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.

Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nỗi buồn. Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với vật chất. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.

Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quảng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.

Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.

Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26). Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16, 23-25).

Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ. Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.

Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến… Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.

Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân – Thiện – Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng… đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Thánh Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.

Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng… của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn”. (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang, còn người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Ðức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.

Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người Công chính Tân ước.

Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.

Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nơi Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẻ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.

 

 

 

LỐI THOÁT HIỂM

Lm. DĐH

Để phòng hờ những bất trắc xảy ra, từ phương tiện giao thông đường bộ, đường hàng không, nhà ở chung cư, hoặc các nhà máy khu công nghiệp, người ta luôn đăt để lối thoát hiểm. Tại các công trình xây dựng, hiện nay họ thường để câu “an toàn là trên hết”, tuy là câu khẩu hiệu, nhưng chắc hẳn tác động không nhỏ tới sự cảnh giác của người lao động. Chúng ta suy nghĩ, tìm cách bảo vệ an toàn cho cộng đồng xã hội, cho bản thân, hoặc góp phần làm giảm đi những rủi ro không đáng có, thật là hợp lý,

Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay, có thể xếp vào bậc thông thái đáng nể, anh ta không suy nghĩ tìm cho mình lối thoát hiểm đói nghèo, tìm an toàn bình an cho cuộc sống. Thì ra người thanh niên ấy không tìm giữ lấy mạng sống của mình trong thời gian 90 năm, 100 năm, mà anh ta tìm cách để có sự sống đời đời. Lối thoát nghèo đói, đề phòng nguy hiểm trong lao động, xã hội thời nào người ta cũng nghĩ tới, ngay cả việc tuân giữ luật công bằng, đạo làm con thảo hiếu, người thanh niên năm xưa đã từng giữ từ thuở nhỏ !

Lối thoát hiểm của từng đối tượng xã hội sẽ không giống nhau, người thanh niên không thể đón nhận được sự hướng dẫn của Thầy Giêsu : “sụ nét mặt”, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải. Đức Giêsu không nói các môn đệ là các anh có sống đức công bình, có thảo kính cha mẹ như thế nào, về bán của cải rồi đến theo ta. Đúng là mỗi người trước hết, rất cần phát hiện ra lối thoát hiểm của mình là gì ? Đến với Đức Giêsu để tư vấn, người thanh niên nhận ra anh ta quá giầu và dư điều kiện để có thể đạt được “sự sống đời đời”, nếu anh mạnh dạn chọn lựa theo Chúa và dám sống từ bỏ !

Kinh nghiệm cho thấy, loài chim trời được thượng đế ban cho đôi cánh để chúng tung bay, nhưng nếu chim lười biếng chỉ đợi chờ cha mẹ tha mồi về, hẳn đôi cánh cao quí của con chim lười ấy cũng trở thành vô dụng ! Là người kitô hữu, Thiên Chúa ban điều kiện để sử dụng, cũng được gọi là ơn ban giúp chúng ta sống, và đạt tới hạnh phúc đời đời, nếu chỉ “ki cóp phòng thủ”, ơn ban dư dật mấy cũng vô ích mà thôi.

Biết tìm kiếm hạnh phúc ai cũng có, mơ ước và đặt câu hỏi : tôi phải làm gì để có sự sống đời đời, đại đa số người Kitô hữu đã nghĩ tới. Đức Giêsu nói : “người giầu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao”…., Chúa cũng quả quyết với các môn đệ, đối với loài người chẳng ai có thể tự vào Nước Trời, nhưng đối với Thiên Chúa Ngài có thể làm được mọi sự. Người thanh niên “lăn tăn” với lời đề nghị của Chúa Giêsu, chỉ vì anh ta quá giầu, không thể chia tay với của cải vật chất, không thể thoát được hiểm nguy đang đe dọa.

Ngày hôm nay, mỗi khi gặp gỡ Chúa Giêsu trong cầu nguyện, ta có xin ơn làm con Chúa và làm con Hội thánh không ? Có xin Chúa chỉ cho ta lối thoát khỏi những “ham hố vật chất” không ? Chúng ta có thưa với Ngài : thưa thầy, tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ ? Để tìm ra lối thoát an toàn, chúng ta đừng do dự, đừng “lấn cấn” trước lời mời gọi sống đời đời hạnh phúc, không những ta phải làm chủ lấy mình, mà còn phải từ bỏ tất cả để chọn Chúa một cách trọn vẹn.

Thời nào cũng vậy, chúng ta không thể tìm ra mẫu người vừa lùn vừa cao, vừa gầy vừa mập. Chúng ta có thể lầm tưởng là : không gian tham, không làm điều xấu xa, biết thờ cha kính mẹ, như thế sẽ đẹp lòng Chúa ! Trong đời sống thiêng liêng, Chúa không thể chấp nhận người môn đệ của Ngài giầu của cải vật chất mà lại không giầu lòng quảng đại. Chúa Giêsu không kết án tiền của vật chất, vì cơm bánh là nhu cầu nuôi sống thân xác con người, có thực mới vực được đạo.

Khó khăn và thách đố mà Chúa Giêsu đặt ra cho người thanh niên giầu và cả chúng ta hôm nay nữa : các bạn có dám chịu thiệt thòi để đạt được sự sống vĩnh cửu mà các bạn được mời gọi không ? Các bạn có nghĩ rằng đi theo Tôi quả là mạo hiểm không, khi các bạn cần phải chia sẻ của cải vật chất và tinh thần, có khi cả mạng sống nữa mới đáng làm môn đệ Ta ? Người thanh niên xưa kia đã trả lời Chúa Giêsu tương tự là : thưa Thầy, em rất muốn theo Thầy, nhưng nếu em phải bán hết của cải để lếch thếch theo Thầy, đúng là quá mạo hiểm ! Thôi cám ơn Thầy để em tìm lối khác, tìm người thầy khác, may ra có lối nào mang lại hạnh phúc đời đời chăng ?

Cuộc sống giầu sang phú quí hay bần hàn túng thiếu đều có chung một số qui luật : nếu chúng ta không theo đuổi điều mình mơ ước, tất nhiên ta sẽ không bao giờ có nó. Nếu chúng ta không mạnh dạn bàn hỏi với bậc hiền tài về những khúc mắc của mình, hẳn ta sẽ không bao giờ có được câu trả lời đâu là đúng đường, đâu là sai lối. Nếu chúng ta không có quyết tâm tiến lên phía trước, nghĩa là ta chấp nhận dậm chân tại chỗ, đầu hàng số phận ! Chúng ta biết né tránh những nguy hiểm gây ảnh hưởng đến tính mạng, chúng ta biết kiếm tìm tiền của vật chất cách công bằng, như thế chúng ta hãy sử dụng tiền bạc một cách chính đáng, vì tiền của vật chất cũng chính là hồng ân Chúa ban góp phần làm nên hạnh phúc đời đời. Amen.

 

.

SỐNG VỚI ƯỚC MƠ VÀ HY VỌNG

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Có một thời các triết gia Hiện sinh và các nhà tư tưởng Macxist cho rằng, Kitô giáo là một tôn giáo an phận, khuyến khích con người chấp nhận tình trạng nghèo đói, không kêu ca, không phản kháng và coi đó là ý Chúa. Suy nghĩ như thế chứng tỏ rằng, họ hiểu không đúng về giáo huấn của Chúa Giêsu. Trong mỗi con người đều có những ước mơ và hy vọng. Chính những ước mơ và hy vọng này giúp người té ngã được chỗi dậy, người thất vọng tìm lại được lẽ sống, người kiên trì sẽ được thành công. Ước mơ và hy vọng còn là mục tiêu sống và phấn đấu cho con người. Giáo huấn của Chúa Giêsu không dập tắt những ước mơ và hy vọng của con người, nhưng Chúa điều chỉnh những ước mơ và hy vọng đó cho đúng hướng và giúp con người đạt được ước mơ, hy vọng của mình.

Trong cuộc gặp giới trẻ Cuba từ ngày 22/9/2015, Đức Thánh Cha Fancis đã nhấn mạnh đến ước mơ và hy vọng. Ngài nói : Cha cám ơn những lời chào mừng của các con. Cha biết các con có nhiều khó khăn, lo sợ, hoài nghi, nhưng các con vẫn luôn hy vọng. Các con đã nói với Cha về những giấc mơ và khát vọng trong tâm hồn người trẻ Cuba, cho dù có những khác biệt về giáo dục, văn hóa, niềm tin và ý thức hệ. Cha cảm ơn các con vì khi Cha nhìn các con, điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí cha cũng là chữ “hy vọng”. Cha không thể tưởng tượng được việc một người trẻ lại không có sức sống, không có ước mơ hay lý tưởng, không khát mong một điều gì đó vĩ đại hơn.

Hôm nay, Tin Mừng cũng thuật lại câu chuyện một chàng thanh niên đến với Chúa Giêsu và hỏi Ngài về ước mơ và hy vọng của mình : Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp ? Câu hỏi của chàng trai cho thấy anh đang khát khao tìm kiếm một điều hết sức đúng đắn và thánh thiện, đó là khát khao sự sống đời đời. Thao thức này cho thấy, của cải và những thực hành đạo đức căn bản vẫn không làm cho anh thoả mãn, anh muốn đi tìm một điều gì khác hơn, sâu xa hơn nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu.  Câu chuyện cho thấy anh đã có một nền tảng đời sống khá vững chắc cả về thiêng liêng và vật chất. Khi Chúa Giêsu đưa ra cho anh các đòi hỏi về đời sống đạo đức : Chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ, thì anh đã hết sức mạnh dạn trả lời : Thưa Thầy, tất cả những điều ấy, tôi đã giữ từ thủa nhỏ. Chúa Giêsu đưa ra đề nghị thứ hai : Anh chỉ thiếu một điều, là hãy bán những gì anh có và cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi.

Lời mời gọi bước theo Chúa Giêsu trên con đường nên thánh, tìm được hạnh phúc đời đời, sẽ không thể dừng lại ở một số thói quen đạo đức. Theo Chúa không chỉ là không vi phạm lề luật, nhưng phải có những việc làm, hành động cụ thể. Do đó, Chúa Giêsu đã đề nghị điều mà người thanh niên còn thiếu, đó là : Bán những gì anh có, cho người nghèo, rồi đi theo Chúa. Đề nghị này gồm ba việc đi liền nhau. Bán những cái mình có, tức là những gì chúng ta đang được sở hữu, đang quản lý, có thể là tiền bạc, thời giờ, sức khoẻ, khả năng. Bán đi để không còn giữ riêng cho mình, để không còn bị bận vướng lôi kéo bởi những điều tuỳ phụ. Kế đến là cho người nghèo, tức là biết chia sẻ, là không chỉ nghĩ đến mình, mà còn phải biết nghĩ đến anh em, phải đưa tay ra để giúp đỡ và phục vụ anh em. Cho người nghèo không chỉ tiền bạc của cải, mà còn cho họ thời giờ, sức lực và cả trí tuệ, con người của mình. Sau khi đã thực hiện các việc vừa nêu, rồi mới có thể bước vào giai đoạn sau cùng là : Hãy đến theo tôi. Như thế, muốn bước theo Chúa Giêsu, con người phải để cho mình hết sức nhẹ nhàng gọn gàng, không còn những hành trang là của cải cồng kềnh, không còn những bận vướng tính toán theo thói đời, mà phải hoàn toàn thanh thoát.

Chúa Giêsu đã điều chỉnh ước mơ và chỉ cho chàng thanh niên một con đường để đạt được hạnh phúc đời đời. Tuy nhiên, trước lời mời gọi của Chúa Giêsu, chàng trai này đã không dám bước tới, anh đã “sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải”. Anh ta ước mơ, nhưng lại không dám làm mọi cách để đạt được ước mơ của mình, chỉ vì anh ta bị cản trở bởi của cải. Của cải vật chất không phải là điều xấu, nó cũng có thể là ước mơ của nhiều người. Nhưng nếu chỉ dừng lại nơi ước mơ của cải vật chất, sẽ có thể dẫn con người đi vào con đường sai lạc, khi chúng ta biến của cải vật chất thành mục tiêu cuối cùng của cuộc đời. Nếu chỉ đặt mục tiêu cuộc đời vào của cải vật chất, nó sẽ biến con người thành kẻ tham lam, sống theo bản năng và biến ước mơ của chúng ta không còn là ước mơ hướng thượng nữa, mà chỉ còn là tìm kiếm hưởng thụ. Vì thế, Chúa Giêsu mới so sánh : Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước trời, để ám chỉ những người chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm của cải vật chất như là mục tiêu tối hậu của đời mình.

Mỗi người chúng ta luôn có những ước mơ và hy vọng. Nhưng có thể ước mơ của chúng ta chưa đúng, hy vọng của chúng ta không có điểm tựa vững chắc. Có thể trong chúng ta có những người cũng đã từng tuân giữ giới răn : không giết người, không gian dối, không vi phạm lề luật. Có thể chúng ta vẫn đi lễ mỗi ngày, vẫn đọc kinh rất nhiều, nhưng chúng ta còn thiếu một điều, đó là dám từ bỏ cái mình đang có để biết nghĩ đến và chia sẻ với người khác, và bước theo con đường phục vụ của Chúa Giêsu.

Điều mà chàng thanh niên giàu có này còn thiếu, có thể cũng là điều nhiều người, nhiều gia đình cũng đang thiếu. Nhiều gia đình không thiếu của cải tiện nghi, nhưng lại đang thiếu sự từ bỏ, thiếu sự phục vụ, thiếu niềm vui, thiếu tiếng cười và nhất là thiếu tình yêu thương và hạnh phúc. Vì thế, gia đình không tìm được sự bình an. Có những người để mình bị cản trở bởi của cải vật chất, không dám sống thanh thoát, biến của cải, giàu sang thành ước mơ và hy vọng tối hậu của gia đình, vì thế, họ từ chối lời mời gọi của Chúa.

Con người không thể sống mà không có ước mơ và hy vọng, nhưng phải là ước mơ điều gì và hy vọng như thế nào mới là quan trọng. Đức Thánh Cha Fancis trong cuộc gặp với giới trẻ Cuba Ngài đã nói : Không có sự hơn hay kém trong niềm hy vọng của bất cứ người nào, tại bất cứ nơi nào trên thế giới. Vì hy vọng là điều phát xuất từ trong trái tim con người. Hy vọng sẽ thực hiện được nỗi khát mong, niềm hoài bão của mình; hy vọng có được một cuộc đời tốt đẹp, hy vọng thực hiện được những ước mơ cao đẹp, những điều làm tâm hồn ta ngập tràn niềm vui và nâng ta lên đến chân, thiện, mỹ, công lý và tình yêu. Nhưng cũng đừng để mình bị quyến rũ bởi những ước mơ hạnh phúc mau qua, những lối sống giả dối, lạc thú và ích kỷ, bởi vì cuộc sống tầm thường và tự lấy mình làm trung tâm, là một cuộc sống chỉ có thể đem đến buồn bã mà thôi.

Hy vọng phải là biết nhìn xa hơn lợi ích bản thân và những tìm kiếm nhỏ mọn. Hy vọng phải mở lòng ta cho những lý tưởng lớn lao, giúp làm cho đời ta nên tươi đẹp và đáng sống hơn. Cha muốn hỏi mỗi người trong các con: Hy vọng và khát vọng của các con đặt ở đâu ? Các con có sẵn sàng phục vụ một lý tưởng lớn lao hơn không ?

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các bạn trẻ: Có thể chúng con được các lý tưởng đó lôi cuốn mạnh mẽ. Các con cảm nhận được lời mời gọi của chúng trong trái tim. Nhưng các con thấy mình yếu đuối, con chưa sẵn sàng quyết định đi theo con đường hy vọng. Các con hãy ý tứ đừng để mình bị cám dỗ nhụt chí, nó là thứ làm tê liệt lý trí và ý chí ta, nó biến chúng ta thành vô cảm và bi quan trước tương lai.

Xin Chúa cho mỗi chúng ta luôn mang trong mình những ước mơ và hy vọng thánh thiện : ước mơ được nên thánh, ước mơ có một gia đình hạnh phúc và nhất là ước mơ đạt được hạnh phúc đời đời, nhờ đó cả cuộc đời chúng ta sẽ dành để theo đuổi và thực hiện được những ước mơ và hy vọng tốt lành đó. Amen.

 

 

 

ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA MỌI SỰ ĐỀU CÓ THỂ ĐƯỢC

Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

17 Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? ”

18 Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.

23 Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” 24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”

Phần đầu của bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay có cấu trúc song song đối xứng như sau:

(A) Người thanh niên đến với Đức Giê-su và nêu câu hỏi (c.17)

(B) Lời của Đức Giê-su về Thiên Chúa nhân lành (c. 18)

(C) Các giới răn (c. 19-20)

(B’) Lời mời gọi đi theo Ngài (c. 21)

(A’) Nghe câu trả lời, anh bỏ đi, buồn rầu (c. 22)

Phần trung tâm (C): biết và giữ các giới răn vẫn chưa đủ, nhất là khi biết và giữ mà không có Thần Khí, không có kinh nghiệm sâu đậm về tình yêu Thiên Chúa, nghĩa là không biết vì ai, nhờ ai và cho ai?

Các phần bao quanh (A tương ứng với A’ và B tương ứng với B’): Đức Giê-su là Đường, Sự Thật và Sự Sống giúp chúng ta hoàn tất Lề Luật theo Thần Khí (x. Mt 5, 17-48).

  1. Sự sống đời đời   

a) Người thanh niên đạo hạnh

Chúng ta hãy nhìn ngắm một người, có lẽ còn trẻ (x. Mt 19, 20), đến với Đức Giê-su và tỏ bày lòng thao thức sự sống đời đời. Chúng ta có thể trách cứ, xếp loại, thậm chí lên án anh quá gắn bó với tiền của đến độ từ chối lời mời gọi đi theo Đức Giêsu, nhưng trước hết, chúng ta cần thán phục anh và nhất là, cùng với Đức Giê-su, nhìn anh với lòng thương cảm: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.

Anh là người có nhiều của cải (nếu anh còn trẻ, thì đó có thể là gia tài cha mẹ để lại cho anh), và vì thế, có thể yên tâm hưởng thụ. Nhưng không, anh giầu có, nhưng lại thao thức về sự sống đời đời. Và anh không chỉ thao thức trong lòng, nhưng còn diễn tả ra bên ngoài ngang qua việc đích thân đi tìm gặp Đức Giê-su. Cuộc gặp gỡ này giả thiết anh đã có cả một thời gian tìm kiếm và tìm hiểu trước đó. Ngoài ra, anh sống rất đạo hạnh, phù hợp với thao thức về sự sống đời đời của mình: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó (nghĩa là những điều răn) tôi đã tuân giữ từ thủa nhỏ”.

Đức Giê-su sẽ giúp anh làm rõ và cụ thể hóa khát khao “sự sống đời đời” của anh, đồng thời làm bật ra sự quyến luyến của con tim với những phương tiện chóng qua, làm cản trở anh sống lòng khao khát của mình.

b) Thiên Chúa nhân lành

Thật vậy, Đức Giê-su dùng chính danh xưng mà người thanh niên gọi Ngài: “Thầy nhân lành” để hướng anh tới chính Thiên Chúa nhân lành: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”. Với câu nói này, Đức Giê-su vừa cho thấy sự khiêm tốn của Ngài, không tự nhận mình là nhân lành, nhưng qui về Thiên Chúa nhân lành, là Cha của Người, vừa thông truyền cho anh con đường để đạt tới sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giê-su cho thấy vấn đề thiêng liêng của người thanh niên:

(1) Từ nhỏ, anh đã chu toàn mọi lề luật trong tương quan với người khác: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” Nhưng đâu là sự thật về tương quan của anh với Thiên Chúa?

(2) Sự sống đời đời, không phải là lương bổng Thiên Chúa phải trả cho những người giữ luật hay tự ý giữ nhiều hơn cả những gì luật đòi hỏi, như anh đã nghĩ: “tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Sự sống đời đời là chính sự sống của Thiên Chúa, được trao ban một cách nhưng không, nhờ Đức Ki-tô, với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, cho những ai có lòng khao khát và sống theo khao khát này, trong đó có việc giữ luật.

(3) Chính tương quan ân huệ và tình yêu với Thiên Chúa mới làm cho anh “hoàn tất” lề luật một cách đích thực, khởi đi từ con tim yêu mến và biết ơn Thiên Chúa, đồng thời giúp cho anh có tương quan đúng với những điều mà luật không nói tới hay không thể đụng tới, đó là những quyến luyến của con tim với những gì không phải là Thiên Chúa, hay với những gì không hướng tới Thiên Chúa.

  1. Lời mời gọi của Đức Giê-su

Đức Giê-su thấu suốt cõi lòng anh, thương mến anh, nên mời gọi một cách triệt để, nhằm làm bật ra vấn đề có nơi con tim của anh và chữa lành: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Người thanh niên từ chối lời mời gọi của Đức Giê-su, điều này chứng tỏ rằng, dù anh giữ hết các giới răn và khao khát sự sống đời đời, sự gắn bó của lòng anh với của cải vẫn mạnh hơn nỗ lực thực hiện lòng khao khát này.

Lời mời gọi của Đức Giê-su đích thân dành cho riêng anh, chứ không phải là lời mời gọi phổ quát dành cho hết mọi người, để giúp anh làm rõ tương quan của anh với Thiên Chúa và với của cải. Nhưng những vấn đề mà lời này làm bật ra đụng chạm đến hết mọi người chúng ta: chúng ta có thực sự nhận Thiên Chúa làm cứu cánh cuộc đời không, hay là điều gì khác?

Qua lời mời gọi đi theo Ngài với lòng yêu mến, Đức Giê-su không chỉ thông truyền cho anh con đường để đi vào (thay vì sở hữu) sự sống đời đời, nhưng còn mặc khải cho anh rằng, chính Ngài là đường đi. Nói theo ngôn ngữ Linh Thao của thánh I-nhã, “ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình” (LT 23), đó là hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô.

Đi theo Đức Ki-tô, chúng ta sẽ nhận ra tình yêu và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đích thân dành cho từng người chúng ta như thế nào nơi ngôi vị và mầu nhiệm Thập Giá của Người; bởi vì Ngài chính là hiện thân của sự sống đời đời, là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành, điều mà người thanh niên khao khát.

Với kinh nghiệm tình yêu đến cùng của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô và chỉ với kinh nghiệm này, chúng ta mới có thể yêu mến Thiên Chúa hết sức và trên hết mọi sự, và có thể thân thưa với Người, trong tâm tình cảm mến và tín thác: “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con tất cả, con xin dâng lại cho Chúa tất cả” (LT 234).

* * *

Như người thanh niên trong bài Tin Mừng, chúng ta cũng có mối lo về “của cải”, tượng trưng cho tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, không thuộc về Thiên Chúa, không hướng chúng ta về Thiên Chúa, không giúp chúng ta yêu mến Chúa hơn. Nhưng khi sống như thế, chúng ta có loại trừ Người ra khỏi cuộc sống của chúng ta được không?

– Khi mà mọi sự sẽ qua đi, và chỉ có Ngài là cùng đích và là điểm tới, là vĩnh hằng.

– Khi mà Ngài bao bọc chúng ta cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài đặt trên chúng ta, bằng ân huệ sự sống mỗi ngày (x. Tv 139).

– Khi mà chúng ta sống không nguyên bởi cái thú thỏa mãn mọi nhu cầu, cho dù cần thiết đến mức nào, nhưng nhất là còn sống bằng tương quan nhưng không, yêu thương, tha thứ, đón nhận, bao dung, cảm thông, biết ơn… được tác tạo và duy trì bởi và chỉ bởi Lời và Ngôi vị của Chúa mà thôi.

– Khi mà, những thử thách của cuộc đời, là điều không thể tránh được, sẽ buộc chúng ta phải đặt ra những câu hỏi tận căn: Tôi đang tìm gì hay đang tìm ai? Tôi sống cho bản thân, cho cái gì hay cho ai đó? Tôi sẽ phải chết, vậy đâu là lối đi và ý nghĩa đời tôi? Tôi sống theo ơn gọi hay theo thị hiếu, trào lưu?

– Khi mà sẽ đến lúc, lúc này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, phải buông xuôi tất cả, như thánh Phao-lô nói: “thời gian chẳng còn bao lâu nữa… bộ mặt thế giới này đang qua đi” (1Cr 7, 29.31)

Vậy, đâu là những mối lo của chúng ta trong thời điểm này ? Chúng ta có sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các mối lo không ? Chúng ta có những mối lo về những điều nhân bản hơn, cao quí hơn và “thiêng liêng” hơn không? “Thiêng liêng” có nghĩa là trọn vẹn con người của tôi sống hay ước ao sống tương quan với Chúa trong mọi sự và ở mọi nơi mọi lúc ? Và nhất là, ngang qua những mối lo không thể tránh được của chúng ta, chúng ta tìm gì ? Đức Ki-tô hỏi từng người trong chúng ta vào thời điểm quan trọng này của thời gian : « Con tìm gì ? »

  1. “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”

Sau khi người thanh niên giàu có khước từ lời mời gọi đem bán tài sản mình có, phân phát cho người nghèo và đi theo Đức Giê-su, Người nói: Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ:

“Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!… Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim1  còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”

Câu nói này của Đức Giê-su dường như chỉ liên quan đến “những người giàu có”, chứ không liên quan đến các môn đệ, và cũng không liên quan đến nhiều người trong chúng ta, vốn không phải là “những người giàu có”. Thế nhưng tại sao các môn đệ lại vô cùng sửng sốt và kêu lên: “Thế thì ai có thể được cứu?”

Bởi vì, lời của Đức Giê-su không xét đoán của cải, vì của cải tự nó không phải là điều xấu hay sự dữ, nhưng liên quan đến tương quan gắn bó của con tim đối với của cải, mà “những người giàu có” rất dễ mắc phải. Nhưng vì vấn đề là tương quan với của cải, chứ không phải của cải, nên lời của Đức Giê-su liên quan tất cả mọi người: người có của, người có ít của, và kể cả người không có của. Người thanh niên, tuy đã giữ tất cả Lề Luật từ nhỏ và giữ một cách hoàn hảo, nhưng lòng anh lại gắn bó mật thiết với điều anh có, vốn là đối tượng mà Lề Luật không thể đụng chạm tới được. Bằng lời mời gọi thật triệt để dành cho anh cách đích danh, Đức Giê-su cảm thương anh (x. Mc 10, 21) và muốn giải thoát anh khỏi sự quyến luyến lệch lạc làm cho anh không bình an, mặc dầu đã tuân giữ các giới răn, và hướng lòng anh tới “kho tảng trên trời”.

Các môn đệ, dường như hiểu ra được vấn đề là sự gắn bó của con tim đối với của cải, vốn liên quan đến mọi người, nên đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu?” Và Đức Giê-su đã xác chuẩn cách hiểu này và hướng lòng các môn đệ tới sức lôi cuốn mạnh mẽ của chính Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị của Đức Ki-tô (x. Pl 3, 7-6), khiến chúng ta có khả năng tự do với những điều chúng ta có, và thậm chí với chính sự sống của chúng ta. Thật vậy, Người nói:

Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.

Điều này có nghĩa là, Thiên Chúa có khả năng làm cho “con lạc đà chui qua lỗ kim” được! Đó là điều Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ, đã và đang thực hiện cho các môn đệ của Đức Giê-su thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay.

____________

1 “Lỗ kim” có lẽ là một cái lỗ nhỏ ở cổng thành mà người ta có thể chui qua.

 

.

SỐNG SIÊU THOÁT ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ THỰC SỰ CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 10,17-30

(17) Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quì xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. (18) Đức Giê-su đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. (19) Hẳn anh biết điều răn: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”.(20) Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. (21) Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. (23) Đức Giê-su rảo mắt nhìn xung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (24) Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! (25) Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. (26) Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa, và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (27) Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. (28) Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (29) Đức Giê-su đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, (30) mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau”.

  1. Ý CHÍNH:

Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và đã có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và lòng tín thác vào Chúa quan phòng để làm theo lời khuyên của Đức Giê-su là: Chia sẻ của cải cho người nghèo để biến nó thành kho báu ân sủng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, trả lời cho Phê-rô về phần thưởng của môn đệ, Đức Giê-su hứa sẽ ban gấp trăm những điều họ đã tự nguyện từ bỏ. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và sau này sẽ được sự sống muôn đời!”.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 17-18: + Đức Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến: Mác-cô chỉ nói trống là “có một người”, đang khi Tin Mừng Lu-ca nói rõ hơn là: “Có một thủ lãnh” (x. Lc 18,18), và Tin Mừng Mát-thêu nói là “một thanh niên” (x. Mt 19,20). quì xuống trước mặt NgườiĐây là thái độ biểu lộ lòng tôn kính đối với Đức Giê-su, mà người Do Thái quen làm đối với một Rab-bi họ kính trọng. Thưa Thầy nhân lànhKhi gọi Đức Giê-su là “nhân lành”, anh thanh niên tỏ ý ngưỡng mộ tác phong của Người, thể hiện qua lời nói, thái độ và hành động của Người đối với các bệnh nhân và trẻ thơ… + tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?: sự sống đời đời (x. Đn 12,2) có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Cũng có thể coi đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47). Anh ta xin Đức Giê-su tư vấn giúp anh biết phải làm gì để được vào Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và thiết lập. + Sao anh nói tôi là nhân lành?: Về bản tính lòai người, Đức Giê-su khiêm tốn từ chối không nhận hai từ “nhân lành” mà chàng thanh niên khen tặng. Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên ChúaNgười cho chàng thanh niên biết rằng: Sự nhân lành tuyệt đối chỉ có nơi một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa vừa là mẫu mực, vừa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Thực ra, với tư cách là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cũng xứng đáng được gọi là “Đấng Nhân Lành” ngang bằng Thiên Chúa.

– C 19-20: + Hẳn anh biết các điều răn: “chớ giết người…”: Các điều này phần lớn được rút từ phần hai của Thập Giới (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), về những quan hệ giữa người với người. Nêu ra những giới răn này, Đức Giê-su muốn chàng thanh niên kiểm điểm đời sống về những điều cấm chứ chưa đề cập đến những bổn phận cần làm. + “Tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”: Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy anh có lòng thành thật, không phô trương tự mãn như người Pha-ri-sêu trong Đền Thờ (x. Lc 18,11-12). Qua câu n2y, anh thanh niên chỉ muốn hỏi rằng: Từ trước đến nay, tôi chưa làm thiệt hại cho ai điều gì. Vậy tôi cần làm gì thêm nữa để nên hoàn thiện? (x. Mt 19,20-21).

– C 21-22: + Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mếnNgười biểu lộ tình cảm đối với anh thanh niên đầy thiện chí này, Anh chỉ thiếu có một điềuHãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi: .Để nên trọn lành, ngoài việc giữ các giới răn như anh đã làm, Đức Giê-su khuyên anh làm ba việc này: Một là về bán gia sản để không còn bị lòng tham của cải ràng buộc; Hai là đem số tiền ấy chia sẻ cho người nghèo để biến nó trở thành kho báu thiêng liêng trên trời; Ba là quyết tâm đi theo làm môn đệ Đức Giê-su. Anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cảiChàng thanh niên thất vọng chán nản bỏ đi, vì anh không thể từ bỏ lòng tham của cải thế gian như đòi hỏi của Đức Giê-su. Anh muốn nên trọn lành nhưng không muốn từ bỏ của cải vật chất. Nói cách khác: Anh ta yêu tiền bạc hơn quyết tâm muốn nên hoàn thiện.

– C 23-25: + Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao!”: Câu nói tỏ ý thương tiếc một tâm hồn tuy thiện chí, nhưng lại bị lòng ham mê tiền bạc trói buộc, đến nỗi không thể vươn cao lên đỉnh trọn lành! Các môn đệ sững sờ:Các ông sững sờ kinh ngạc, vì lời dạy của Đức Giê-su khác hẳn suy nghĩ của các ông và người Do thái thời đó: Giàu có là một hồng ân do Thiên Chúa thưởng ban cho người công chính, như tác giả Thánh Vịnh 37 đã viết: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay. Dòng giống mai sau hưởng phúc lành. Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung…” (Tv 37,25-28). + “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”: Trước đây các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh cổng lớn ở tường thành Giê-ru-sa-lem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và một vài thủ bản Kinh Thánh đọc là “sợi dây thừng” (kamilos) thay vì “con lạc đà” (kamêlos), chúng ta phải công nhận đây là một kiểu nói ngoa ngữ (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42): Đức Giê-su dùng hình ảnh con lạc đà to lớn không thể chui lọt qua lỗ kim khâu nhỏ để dạy rằng: Người giàu có hay những kẻ tham lam dựa vào thế lực của đồng tiền sẽ không thể vào được Nước Thiên Chúa!

– C 26-27: + Thế thì ai có thể được cứu?: Nghe lời giải thích của Đức Giê-su, các môn đệ càng kinh ngạc và thất vọng hơn khi nghĩ đến bản thân các ông cũng tham lam tiền bạc, nên cũng khó vào Nước Thiên Chúa, nên đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu!?”. + “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa: “mọi sự đều có thể được”: Đức Giê-su cho thấy hiệu lực của ơn chúa: Những gì lòai người không thể vượt qua, thì lại chẳng là gì trước quyền năng của Thiên Chúa. Vì đối với Thiên Chúa “mọi sự đều có thể được” (x Lc 1,37).

– c 28-30: + Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!: Phê-rô kể ra những gian lao vất vả trên bước đường theo Thầy, để yêu cầu Thầy bù đắp phần thiệt thòi ấy. Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin MừngĐức Giê-su hứa chắc rằng: những ai đã quảng đại từ bỏ của cải, tình cảm ruột thịt vì lòng mến Người và dấn thân đi loan báo Tin Mừng, thì sẽ được lại gấp trăm những gì đã dâng hiến. Họ sẽ có thêm một gia đình mới là Cộng Đoàn Giáo Hội, sẽ được quản lý các công trình lớn lao của Hội Thánh… và cuối cùng còn được hạnh phúc vui hưởng sự sống đời đời. + cùng với sự ngược đãi: Tin Mừng Mác-cô cũng tiên báo những đau khổ sỉ nhục mà các môn đệ phải chịu do các đầu mục Do Thái gây ra để cùng với Thầy đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mc 8,31).

  1. CÂU HỎI: 1) Thái độ quì gối xuống trước mặt Đức Giê-su của chàng thanh niên trong Tin Mừng nói lên điều gì? 2) Tại sao anh ta gọi Đức Giê-su là “Thầy nhân lành”? 3) Đức Giê-su kể ra một số điều cấm làm nhằm mục đích gì? 4) Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy tình trạng tâm hồn anh thế nào? 5) Đức Giê-su biểu lộ cảm tình đối với anh ta ra sao? 6) Ba điều Đức Giê-su dạy chàng thanh niên làm để nên trọn lành là những việc gì? 7) Tại sao anh không làm theo lời Đức Giê-su dạy mà buồn rầu bỏ đi? 8) Câu Đức Giê-su nói: “Những người có của thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” cho thấy Người lấy làm tiếc cho chàng thanh niên này về điều gì? 9) Tại sao các môn đệ lại kinh ngạc sững sờ khi nghe Đức Giê-su cho biết người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa? 10) Đức Giê-su còn dùng hình ảnh nào cho thấy người giàu thật khó có thể vào được Nước Thiên Chúa? 11) Các môn đệ đã thốt lên câu nào ho thấy sự hoang mang của các ông? 12) Lời trấn an các môn đệ cho thấy sức mạnh của ơn Thiên Chúa thế nào? Câu này tương tự câu nào trong biến cố Truyền Tin? 13) Đức Giê-su hứa sẽ làm gì để bù đắp sự mất mát của các môn đệ khi phụng sự Người? 14) Qua câu “kèm theo sự ngược đãi” Đức Giê-su muốn ám chỉ điều gì?

 II.  SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi(Mc 10,21).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) COI THƯỜNG CỦA CẢI LÀ BƯỚC ĐẦU ĐỂ TRỞ NÊN HOÀN THIỆN:

Một người nhà giàu đã nhận thánh PHILIPPHÊ NÊRI làm linh hướng và đến xưng tội với ngài hằng tháng. Ông này là người giàu có và có thiện chí muốn nên thánh thiện giống như Chúa Giêsu. Nhưng sau một thời gian học tập mà cứ dậm chân tại chỗ, ông đâm ra thất vọng không còn đến bàn hỏi thánh nhân nữa. Mấy tháng liền không thấy ông đến, thánh Philipphê liền tìm đến nhà để thăm. Ngài thấy ngôi nhà của ông bài trí rất sang trọng và tại góc phòng có kê một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, bên trong đựng các vật quý giá của chủ nhân. Rồi khi thấy trên tường phòng khách có treo một cây thánh giá có tầm cao quá tầm tay với, ngài liền nói với ông: “Tôi thấy ông cao lớn. Vậy ông thử đứng với tay xem có chạm tới cây thánh giá kia không ?”. Nhưng dù đã cố gắng hết sức, ông nhà giàu vẫn không sao với tay tới được cây thánh giá. Bấy giờ thánh nhân liền cùng ông kéo chiếc tủ gỗ ở góc phòng kia đến làm bệ kê và lần này ông đã có thể dễ dàng chạm được tới cây thánh giá. Khi trở lại chỗ ngồi, thánh nhân mới nói với ông nhà giàu rằng: “Để có thể nên trọn lành giống như Chúa Giêsu, điều quan trọng nhất là ông phải coi thường của cải và sẵn sàng dùng tiền Chúa ban để quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khổ bất hạnh, rồi ông mới có thể đi theo con đường hẹp và leo dốc trở thành môn đệ của Chúa Giêsu như Người đã nói với chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10,21).

2) CẦN NHIỆT TÌNH VÀ QUYẾT TÂM CAO MỚI LÀM ĐƯỢC NHỮNG VIỆC LỚN LAO:

Có một người kia làm nghề bán sách rong. Anh ta đi từ nhà này sang nhà khác, mang theo một túi to chứa nhiều loại sách quí. Một hôm anh ta bước vào nhà một bác nông dân. Ông này đang ngồi đu đưa trên chiếc ghế xích đu ở sân trước nhà, với dáng điệu của người ung dung nhàn hạ. Người bán sách tiến đến gần ngỏ lời: “Thưa ông, tôi xin giới thiệu với ông một cuốn sách dạy về một phương pháp canh tác mới, sẽ làm phát sinh hoa trái gấp 10 lần phương pháp canh tác hiện nay”. Nhưng bác nông dân cứ tiếp tục đu đưa chiếc xích đu mà không quan tâm đến lời của người bán sách dạo. Sau một lúc im lặng, cuối cùng bác nông dân mới liếc mắt nhìn người bán sách và nói rằng: “Này anh bạn trẻ, nói thật với anh: Chẳng cần đến sách của anh, tôi cũng biết cách làm cho cây cối ra hoa trái gấp mười lần hiện nay đấy. Nhưng hiện giờ tôi chỉ muốn được hưởng những giờ phút yên tĩnh nhàn hạ”.

  1. THẢO LUẬN:

1) Mỗi buổi tối trước khi nghỉ đêm, bạn hãy dành vài ba phút để tự vấn lương tâm như sau: Hôm nay tôi đã làm được việc nào hữu ích cho cha mẹ, chồng vợ hay một ai đó cần được trợ giúp hay không?

2) Để thực hành câu “mỗi ngày làm vui lòng ít là một người”, ngòai sự dốc quyết, chúng ta cần phải làm gì?

  1. SUY NIỆM:

1) Thái độ của các tín hữu đối với tiền của:

– Trong cuộc sống hằng ngày, tiền bạc luôn có giá trị và sức mạnh như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” và ”Đồng tiền là Tiên là Phật”… vì nó có khả năng mang lại cho con người một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Do đó, ngòai các tu sĩ được ơn kêu gọi dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong đời dâng hiến, nên cần sống siêu thoát thể hiện qua việc từ bỏ của cải vật chất như Đức Giêsu đề nghị chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Còn đối với những người bình thường chúng ta đều không cần bán đi tài sản để phân phát đi tất cả. Vì như bao người khác, mọi người chúng ta đều cần tiền để thỏa mãn những nhu cầu về thể xác như: đi lại, ăn ở, may mặc, học hành, giải trí… và để khỏi trở thành gánh nặng cho xã hội (x 2 Tx 3,8), để không bị vong thân bán rẻ phẩm hạnh của mình nếu rơi vào hoàn cảnh “khố rách áo ôm”, “chạy ăn từng bữa”… là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hôi như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều”, “Bần cùng sinh đạo tặc!” …

2) vừa làm tôi tiền của” (x. Lc 16,13) và đừng coi tiền bạc là ông chủ, nhưng hãy coi nó như đầy tớ. Vì: “Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng lại là một người đầy tớ tốt”. Một khi coi đồng tiền chỉ là phương tiện, nó sẽ giúp chúng ta làm được những việc lớn lao, giúp chúng ta chu toàn nhiệm vụ “Làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” (thánh Inhaxiô Loyôla).

2) Lòng tham của cải vật chất là một trở ngại lớn rất khó để vào Nước Trời:

Ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co giữa một bên là ước muốn nên thánh thiện và bên kia là sức quyến rũ lôi kéo của tiền bạc và hưởng thụ tiện nghi vật chất. Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay đã tuân giữ các giứoi răn, nhưng lại không vượt qua được lòng ham mê của cải và sự hưởng thụ không muốn chia tiền của cho người nghèo khó, vì anh coi giàu có là phúc lành do Thiên Chúa ban, đang khi Đức Giê-su lại coi sự siêu thoát khỏi lòng tham lam của cải vật chất là trở ngại để theo làm môn đệ của Người: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8.20). Người đòi các môn đệ phải có nếp sống đơn giản nghèo khó khi thi hành sứ vụ tông đồ như chỉ thị của Đức Giêsu: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo (Lc 9,3). Sự từ bỏ của cải và người thân của các môn đệ sẽ được Thiên Chúa bù đắp gấp bội như lời hứa của Đức Giêsu: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau” (Mc 10,30).

Như vậy, tiền của tuy tốt và mang lại nhiều ích lợi cho con người nếu biết sử dụng. Nó chỉ xấu và có hại cho con người khi bị sử dụng để làm điều xấu. Thực vậy, có nhiều người đã vì đồng tiền thúc đẩy nên đã đánh mất lý tưởng cuộc đời, chà đạp lên phẩm giá của mình và người khác. Vì đồng tiền mà nhiều người đã chối bỏ đức tin, phớt lờ tiếng lương tâm cáo trách để thực hành những điều bất chính, tội lỗi… Đây là nguy cơ mà bất cứ ai cũng đều có thể nắc phải. Đối với những người có lòng ham mê tiền của người đó đã trở thành con lạc đà to lớn không thể chui qua lỗ kim nhỏ bé để vào được Nước Trời như lời Chúa phán.

3) Người môn đệ Đức Giêsu phải có thái độ nào đối với tiền bạc của cải:

– Trong cuộc sống đời thường, tiền bạc cũng như mọi thứ khác đều có thể phát sinh lợi ích nếu người ta biết sử dung chúng như sau:

Một đồng tiền mang ra kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi.

Một ánh lửa được chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan.

Một vết dầu được thả vào chất lỏng là một vết dầu loang xa.

Đôi môi có sẵn sàng mở ra thì mới có được nụ cười.

Bàn tay có mở ra chia sẻ thì tâm hồn mới cảm thấy niềm vui hạnh phúc.

– Về phạm vi thiêng liêng, Tin Mừng hôm nay cũng ghi lại Lời Chúa dạy: hãy biết sử dụng tiền của để mang lại ích lợi thực sự cho mình bây giờ và mai sau. Chúa Giêsu không bảo chàng thanh niên giàu có hãy vứt bỏ gia sản tiền của đang chiếm hữu, nhưng Người muốn anh đổi nó thành tiền và biến tiền của vật chất thành đồng tiền thiêng liêng bằng cách quảng đại chia cho những người nghèo khổ bất hạnh. Thái độ dứt khoát đó chính là điều kiện để anh có thể theo làm môn đệ của Người: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).

4) Chúng tôi phải làm gì ?

– Đức Giê-su luôn mời gọi các môn đệ hãy sống khiêm hạ nghèo khó thể hiện qua thái độ coi thường tiền bạc vật chất để có lối sống siêu thoát. Vì “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì” (Mt 16,26). Những ai quyết tâm sống yêu thương thể hiện qua việc sẵn sàng nhường cơm sẻ áo với những người nghèo khổ bất hạnh… cũng được kể như đã làm cho chính Đức Giêsu như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

– Vì đối với Chúa Giê-su: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đàng khác, khi chúng ta chấp nhận từ bỏ của cải vật chất ở đời này, thì cũng sẽ có được mối lợi là Đức Giêsu, như thánh Phao-lô đã dạy: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3,8). Khi chúng ta biết quảng đại chia sẻ của cải cho người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ quảng đại ban lại cho chúng ta muôn vàn ân sủng nhiều hơn gấp bội, như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

– Bước theo Đức Giêsu hôm nay đòi chúng ta phải từ bỏ mình không phải một lần trong đời, nhưng là mọi ngày trong suốt cuộc sống ở trần gian như lời Chúa dạy: “ Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng ngày mà theo tôi”. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi hãy từ bỏ những gì mình đang có, nhất là từ bỏ những thói hư như tham lam của cải tiền bạc bất chính, thói ham thích hưởng thụ các khoái lạc xác thịt… để có thể thuộc về Chúa Giêsu cách trọn vẹn.

Cụ thể, mỗi người chúng ta hãy loại trừ lối sống đạo vụ hình thức bề ngoài theo thói quen mà thiếu sự xác tín, thiếu lòng mến Chúa yêu người, nhất là thiếu tính dấn thân trong cuộc sồng và làm chứng cho Chúa, để loan báo Người cho tha nhân đang sống chung quanh ta.

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy phát sinh từ lòng tham không đáy của con: Là người giàu có, con sẽ coi của cải là tài sản riêng mình. Còn nếu nghèo khó, con lại ước mơ giàu sang vượt quá khả năng của con. Xin Chúa giúp con ý thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống con người, nhưng lại không mấy bền vững. Chúa muốn con trước tiên phải “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn việc ăn gì, mặc gì, làm gì thì có Chúa sẽ lo giúp con sau”. Xin dạy con luôn biết quảng đại dấn thân phục vụ Chúa trong mọi người để đáp lại lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng hôm nay, vì biết rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình).

X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA.

Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

 

 

 

KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC

Huệ Minh

Ta vừa được nghe lại câu chuyện khá thú vị về cuộc gặp gỡ hay nói đúng hơn là cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và chàng thanh niên.

Thánh Máccô ghi lại rằng đây là chàng thanh niên nhưng có lẽ chàng thanh niên này lại là chàng rất đặc biệt. Đặc biệt bởi lẽ ở tuổi xuân thôi nhưng anh lại nghĩ đến đời sau. Chính vì thế, anh ta không ngần ngại hỏi Chúa Giêsu : “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?”

Nghe câu hỏi thật lý thú, Chúa Giêsu không trả lời ngay câu hỏi của anh nhưng Chúa Giêsu trả lời khác đi một tí : “Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ”.

Nghe như vậy, chàng trai cũng hết sức thẳng thắn, chàng bộc bạch : “Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.

Phải nói rằng, có lẽ Chúa Giêsu cũng khá sốc bới lẽ dường như chưa bao giờ trong đời mà Chúa lại gặp một chàng trai trẻ mà lại ngoan ngoãn đạo đức đến như vậy. Nhìn thấy anh và nhất là câu trả lời của anh để rồi ta nhìn thấy ánh mắt của Chúa Giêsu thật dễ thương. Thánh Máccô kể tiếp : Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.

Câu chuyện đang hay bỗng dưng kết thúc và theo như ngôn ngữ bình thường là kết thúc không có hậu bởi lẽ chàng thanh niên đã bỏ đi vì buồn. Không buồn sao được khi anh ta có quá nhiều của cải.

Thoạt đầu ta thấy anh ta khôn để hỏi về sự sống đời đời nhưng rồi sau đó xem chừng ra anh ta dại.

Ở đời, cần lắm sự khôn ngoan để minh định về cuộc đời, để định hướng cho mình một lối sống.

Trang sách Khôn ngoan mà chúng ta nghe ở bài đọc thứ nhất đó chính là lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời.

Nói về điểm này, ta thấy ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc “đông đúc”; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi.

Có thể nói rằng may mắn cho ông vì điều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.

Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu chuyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta se cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.

Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?

Đây là câu hỏi không dễ trả lời chút nào cả. Theo dõi sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này.

Và cuối, ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.

Qua đây, ta lại có cơ hội để nhìn lại mình để xem ta khôn ngoan ở mức độ nào và khôn ngoan như thế nào ? Ta khôn ngoan theo kiểu thế gian hay khôn ngoan theo kiểu người đời.

Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.


Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên ?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv 89, 10-12)

Cuộc đời con người là như vậy. Dù giàu dù nghèo và gia tài kếch xù như chàng thanh niên đi chăng nữa cũng sẽ phải ra đi, sẽ phải khuất chứ không thể nào lột da sống đời để hưởng thụ. Chính vì thế, ta lại cần đi tìm sự khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa. Khôn ngoan theo kiểu của Thiên Chúa đó là ta được mời gọi bán mọi sự để theo Chúa.

Vẫn là con người, vẫn mang trong mình những bám víu của trần gian. Ta lại xin Chúa thêm ơn cho ta để ta từ bỏ những gì làm cho ta không thanh thoát, những gì làm ta không đến gần Chúa được.

 

.

ĐƯỢC GẤP TRĂM

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

Suy Niệm

Khi đọc bài Tin Mừng trên đây
ta nếm được nỗi buồn của Ðức Giêsu và của anh nhà giàu.
Ðức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến,
Anh kia buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân.
Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền.
Thầy Giêsu đòi anh đúng điều anh muốn giữ lại,
vì của cải vốn là chỗ dựa của đời anh.
Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi,
trừ việc bỏ chỗ dựa này.
Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì.
Tiếc thay anh không có can đảm ra khỏi sự nô lệ này
dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Bi kịch của anh cũng là của chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co
giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất.
Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt.
Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ tôi
và trở thành thịt xương mà tôi không thể dứt bỏ.
Không chắc người giàu này sẽ bị luận phạt,
nhưng chắc chắn anh ta khó hạnh phúc.
Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.

Người có của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Vào thời Ðức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành.
Vậy mà Ngài lại coi đây là một cản trở nguy hiểm.
Của cải dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa
và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi anh em.
Tệ nạn tham nhũng, hối lộ ở Châu Á
là một thí dụ về nguy hiểm của tiền bạc.
Ðức Giêsu và các môn đệ đã sống nghèo,
sống như những người lữ hành, không chỗ cậy dựa,
để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với anh em.
Theo Ðức Giêsu là chấp nhận tay trắng, bấp bênh.
Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.
Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại,
nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến.
Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt,
nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn,
bỏ những người thân yêu, bỏ đến cả mạng sống.
Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này,
và nhất là đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Khi Phêrô ra khỏi hồ Galilê, với nghề đánh cá,
ông được biết những biển khơi mênh mông hơn nhiều.
Khi Phêrô bỏ lại cha mẹ, vợ con,
ông đứng đầu một cộng đoàn đông đảo là Hội Thánh.
Chắc Têrêxa Hài Ðồng không ngờ mình trở nên Thánh Sư.
Chắc Têrêxa Calcutta không ngờ đám táng của mình
sẽ có cả triệu người tham dự.

Theo Ðức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất.
Cái được quan trọng nhất là được Ðức Giêsu (x. Pl 3,8).

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.

Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.

Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.

Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.

 

Sưu tầm