Thánh Đa Minh : Con người đứng đầu (03/15)

15ngay-op.gif

dm15.jpgTôi không thuộc vào số những anh em tiên khởi, nhưng tôi được sống cùng họ; tôi đã gặp và biết thánh Đa Minh cách thân tình, không chỉ lúc tôi còn ở ngoài Dòng, nhưng cả sau khi tôi vào Dòng. Tôi mặc áo Dòng 4 năm sau khi Dòng được thành lập. Thiết nghĩ thật ích lợi khi viết lại những biến cố trong Dòng : những gì chính tôi đã chứng kiến và đã nghe, hay biết được nhờ tương giao với các anh em tiên khởi, về thời khai nguyên của Dòng, về đời sống và những phép lạ của cha thánh Đa Minh diễm phúc của chúng ta. Như thế các con cháu của chúng ta – sẽ sinh ra và lớn lên, sẽ biết được thuở ban đầu của Dòng và không ngừng lại ở khát vọng khôn nguôi, một khi thời gian trôi qua mau và không tìm được có ai có khả năng thuật lại cách bảo đảm về nguồn gốc của Dòng (LIB. số 3).

Các anh chị em trong Dòng rất biết ơn chân phước Giordano Saxomia vì đã khôn ngoan ghi lại thời khai nguyên của Dòng Đa Minh. Bởi vì đây là việc thiết lập một thực thể hoàn toàn mới trong Giáo Hội.

Thật vậy, thánh Đa Minh khơi mào một hình thái mới trong bối cảnh đời tu lúc bấy giờ. Người thiết lập nếp sống tông đồ, tức là một lối sống theo mẫu gương các tông đồ. Thánh nhân không chỉ đón nhận từ Thiên Chúa ơn gọi tu trì cho cá nhân, Người còn lãnh nhận ơn gọi làm tổ phụ, một ơn gọi dành riêng cho một số ít người. Khởi đầu, thánh Đa Minh đón nhận ơn gọi là “kinh sĩ” thông thường, nhờ đó người thuộc về một giáo phận, người là thành phần trong các linh mục do giám mục địa phương cai quản. Và Người được mời gọi đứng đầu một thực thể hoàn toàn mới mà Người có bổn phận khám phá những định chế. Nói đúng ra, ý tưởng được hình thành trong thời gian. Nhiều người đã cố gắng thử hình thức tu trì mới này. Cần có một người định hình và tổ chức cách vững bền.

Đa Minh đã nhận được đặc ân này. Người sẽ cung cấp cho Giáo Hội một đội ngũ các anh em được tổ chức cho đời sống tông đồ. Lúc ấy, Giáo Hội sắp xếp đời sống tu trì thành các Dòng, và sau này thành các Hội. Hồi ấy có Dòng Đền Thờ, Dòng Tiếp Khách, Dòng Cứu Chuộc (với ơn gọi là giải thoát những người bị nhóm Sarrasins cầm tù). Và còn nhiều Dòng khác.

Thánh Phanxicô thiết lập một Dòng những người nghèo với ơn gọi là rao giảng Đức Ki-tô khó nghèo. Thánh Đa Minh lập Dòng những người giảng thuyết để noi gương Đức Ki-tô, Người giảng thuyết Tin Mừng.

Để minh hoạ đề tài này, có một giai thoại được lưu truyền trong Dòng Đa Minh. Giai thoại này được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ kia và mỗi thời đều tìm thấy trong đó một hình ảnh mình muốn sống. Giai thoại đó như sau :

Khi vị Tông Đồ (tức là Đức Giáo Hoàng) phải phê chuẩn Dòng, Người yêu cầu vị thư ký gửi cho anh em giảng thuyết. Khi viết thư phê chuẩn, vị thư ký viết ngay : các anh em giảng thuyết. Đọc thư, vị Tông Đồ nói với thư ký : sao anh không viết từ các anh em thích giảng thuyết (frères prêchants) như Ta đã nói với anh mà lại viết các anh em giảng thuyết (frères prêcheurs). Không chút bối rối, vị thư ký trả lời : thích giảng thuyết (prêchant) là một tính từ. Mặc dầu người ta có thể sử dụng như một thể từ, danh từ chung ; nhưng giảng thuyết (prêcheur) là một thể từ (substantif), vừa là một từ nói vừa chỉ người, cho thấy tên gọi của nhiệm vụ. Các độc giả thân mến, vị thư ký đã đưa ra lý lẽ chính đáng. Thích giảng thuyết không bao giờ cho thấy nội dung, và chỉ là hoạt động thoáng qua, còn giảng thuyết (prêcheur) có nghĩa là cách thức chiếm hữu, mặc dù không phải lúc nào cũng hoạt động. Như vậy, từ ngữ giảng thuyết thật phù hợp. Vị Tông Đồ hiểu được những lý luận rõ ràng ràng, Dòng được nhìn nhận với tước hiệu giảng thuyết và được các hồng y long trọng đón nhận (EVA tr. 87).

Bản văn hiện được lưu trữ trong công hàm Carcassone, phần châu phê có dấu vết sửa chữa tên gọi. Và sự sửa chữa này thật có ý nghĩa. Quả thật, thánh Đa Minh không xin phép để các anh em và chính Người, giảng thuyết tạm thời ở Toulouse hay một vùng nào đó, Người có một tầm nhìn rất táo bạo, không là gì khác hơn thiết lập một lối sống dựa trên lối sống các tông đồ đã sống xưa tại Giê-ru-sa-lem, sau lễ Hiện Xuống.

Nếp sống tông đồ này gồm có hai yếu tố không thể tách rời : đời sống chung và việc loan báo Tin Mừng. Hôm nay chúng ta cùng suy niệm về đời sống chung mà thánh Đa Minh cho là rất quan trọng.

Đời sống chung không chỉ là một sự xếp đặt các cá nhân gần nhau để thành một nhóm. Đó là nếp sống với toàn bộ con người, xác lẫn hồn. Về thể lý, nếp sống này tất yếu phải để mọi tài sản làm của chung. Thật vậy, khi các thành viên trong cộng đoàn không sở hữu gì làm của riêng, họ thật sự tuỳ thuộc lẫn nhau. Điều này tạo nên một tâm thức chỉ có thể là huynh đệ, nếu không là chết, như câu chuyện trong sách Công vụ Tông Đồ về Kha-na-ni-a và Xa-phi-ra : họ đã chết vì không để của cải làm của chung (Cv 5,1tt).

Đời sống chung cũng bao hàm việc cầu nguyện chung. Lời cầu nguyện của các tông đồ là lời cầu nguyện của Giáo Hội : Phụng vụ thánh là liên lỉ cử hành cuộc phục sinh của Chúa. Chúng ta sẽ trở lại đề tài này sau.

Để đời sống chung được hài hoà và đem lại bình an, mọi người phải thật sự sống chung trong một nhà và đồng tâm nhất trí. Sự đồng tâm nhất trí được diễn tả là họ chỉ có một lòng một ý (Cv 4,32). Thánh Đa Minh đã lưu tâm đặc biệt về sự đồng tâm nhất trí này. Người biết rằng các anh em chỉ có thể sống chung một khi quan tâm đến sự đồng tâm. Với thánh Benedicto, câu châm ngồn là habitare secum – sống với chính mình, thì với thánh Đa Minh, châm ngôn sẽ là convivere conventualiter – sống chung trong tu viện.

Sự khó nghèo là yếu tố của đời sống chung. Khi chọn lựa nếp sống này, thánh Đa Minh yêu cầu các anh em phải từ bỏ các bổng lộc mà hàng giáo sĩ thời ấy thường hưởng. Ban đầu, thánh Đa Minh đón nhận một số tài sản, đó là lúc mà Dòng anh em giảng thuyết chưa được thành lập. Người ta đã thảo luận về quy định của Người, mặc dù Đa Minh đã đem hết sức lực để thi hành sứ vụ giảng thuyết (LIB. số 37). Nhưng Đa Minh đã nhanh chóng ý thức rằng cần một danh hiệu hơn là bổng lộc. Sự tự do trong giảng thuyết, sự sẵn sàng của các anh em, sự noi gương bắt chước Đức Giê-su…, rất nhiều lý do thúc đẩy Người kiên vững trong lãnh vực này.

Đa Minh không chỉ quý chuộng cách riêng nếp sống thanh bần và khuyến khích anh em thực hành (VIE tr. 58), Người còn quyết liệt từ chối mọi tài sản có thể đem lại bổng lộc. Anh Rodolpho, người có trách nhiệm lo lắng các nhu cầu vật chất trong tu viện, đã kể lại :

Khi Đa Minh đến Bologna, lãnh chúa Hodoric Galliciani muốn tặng cho các anh em một số tài sản trị giá khoảng 500 đồng tiền bologna, và đã ký văn bản. Nhưng Đa Minh đã huỷ bỏ hợp đồng, vì không muốn anh em trở thành những người giàu có, và yêu cầu anh em sống nhờ của bố thí. Người muốn những ngôi nhà chật hẹp, quần áo đơn sơ… Người cấm anh em pha mình vào những của cải, nhà cửa, vào những quyết định liên quan đến vấn đề này, trừ ra những người có trách nhiệm. Về các anh em khác, Người muốn họ chăm chú vào việc học hỏi, cầu nguyện hay giảng thuyết (VIE tr. 59).

Chứng từ này – không phải là duy nhất, rất hùng hồn, có sức thuyết phục. Ở đây người ta thấy rõ ý hướng của thánh Đa Minh. Người muốn các anh em hoàn toàn chú tâm vào việc giảng thuyết và những điều liên hệ tới đó, tức là học hành và cầu nguyện. Các anh em giảng thuyết trở thành những người hành khất, tên gọi nhờ đó người khác biết đến anh em. Việc hành khất này có nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo thời đại, nhưng luôn có nghĩa là không có bổng lộc và sống nhờ sự Quan Phòng của Thiên Chúa. Tất cả mọi sự nhận được đều đặt làm của chung.

Thánh Đa Minh, người đứng đầu, không lần chần trong lãnh vực này, Người biết rằng sức sống của đời sống tông đồ tuỳ thuộc vào đó. Khi lâm chung, Người vẫn khuyến khích anh em hãy tự nguyện sống khó nghèo.

Ai muốn học ở ngôi trường của thánh Đa Minh, hãy suy gẫm đòi hỏi này.